Chương 25

91 6 0
                                    


Trác Dữ Trần hoàn toàn không biết được rằng Trịnh Viêm đã tìm ra hành tung của anh.

Anh nhìn người đàn ông ngồi đối diện mình đang thất thần, bỗng cảm thấy có chút buồn cười.

Ngày xưa lúc anh đối xử với Thẩm Nghiệp chỉ hận không thể móc tim móc phổi ra trao cho hắn, hay lúc anh toàn tâm toàn ý trao chân tình của mình cho Lợi Kiếm, vậy mà không một người nào thèm nhìn anh lấy một cái. Vậy mà bây giờ anh đã mất hết niềm tin vào tình cảm, không còn muốn yêu thương lấy lòng ai nữa thì đột nhiên lại chui ra một đống người muốn lấy lòng anh? Anh cũng không biết bản thân được yêu thích như vậy đó.

Quả là trăng sáng chiếu rãnh mương* mà.

("我本将心向明月,奈何明月照沟渠"

wǒ běn jiāng xīn xiàng míng yuè, nài hé míng yuè zhào gōu qú

"Lòng son hướng trăng sáng, trăng lại chiếu kênh mương"

(dịch nguyên gốc: "Ta đem tấm lòng hướng về trăng sáng, dù cho trăng sáng chiếu mương nước")

Dị bản: "我本将心向明月,谁知明月照沟渠"

wǒ běn jiāng xīn xiàng míng yuè, shéi zhī míng yuè zhào gōu qú

(dịch nguyên gốc: "Ta đem tấm lòng hướng về trăng sáng, ai ngờ trăng sáng chiếu mương nước")

Xuất phát từ vở kịch "Tỳ bà ký" (琵琶记) đời Nguyên của tác giả Cao Minh (高明), về sau được sử dụng trong khá nhiều tiểu thuyết, tiêu biểu như "Tân Nguyệt cách cách" (新月格格) của Quỳnh Dao (tác giả "Hoàn châu cách cách"). Ý nghĩa của câu này có thể được hiểu tương tự như "落花有意,流水无情" luò huā yǒu yì,liú shuǐ wú qíng ("lạc hoa hữu ý, lưu thủy vô tình" – hoa rơi cố ý, nước chảy vô tình), chỉ tình cảm đơn phương, một bên có lòng, bên kia vô ý.

Câu này cũng có thể được hiểu như sau:

Phiên bản hai người (hiện đại, rõ ràng, không sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, điển cố điển tích): Tôi đối xử với cô/anh hết lòng như thế, thế mà cô/anh lại hoàn toàn không rung động!

Phiên bản tình tay ba (cổ trang, nữ chính dịu dàng, nhẫn nhịn, đau khổ, tiêu biểu tam tòng tứ đức): Lòng thiếp trước nay đều hướng về trăng sáng, thế nhưng trăng sáng chỉ chiếu rọi mương kia.

Phiên bản tình tay ba (phẫn hận): Tôi yêu cô/anh như thế, cô/anh lại chỉ thích cái rãnh thối kia!

Dựa vào câu này chúng ta hoàn toàn có thể phát triển thành một cốt truyện ngôn tình điển hình, bao gồm ba nhân vật: 我wǒ "tôi", 明月míng yuè "trăng sáng" và 沟渠gōu qú "mương nước, rãnh nước, hào nước". Từ 本běn "vốn dĩ, từ trước" cho thấy 我wǒ"tôi"thích 明月míng yuè "trăng sáng" từ lâu (将jiāng "đem, mang", 心xīn "tâm, trái tim, tấm lòng", 向xiàng "hướng về") (thanh mai trúc mã? yêu thầm?), thế nhưng 明月míng yuè "trăng sáng" lại không đáp trả, hơn nữa chỉ chú ý đến một người không xứng đáng (ít nhất theo quan điểm của 我wǒ"tôi", không xứng, trăng sáng đẹp đẽ cao quý dường nào, làm sao mương rãnh có thể xứng với trăng sáng?). Trong cả hai bản, 奈何nài hé "không thể làm gì, biết làm thế nào; dù cho, thế nhưng" và 谁知shéi zhī "ai biết, ai ngờ" đều nói lên sự bất lực của 我wǒ"tôi".

DỮ QUANG ĐỒNG TRẦN -  Lý Truyền NgônWhere stories live. Discover now