Tống Y (宋医) full 5

Bắt đầu từ đầu
                                    

nhìn Đỗ Văn Hạo.

Dù sao chỗ đau của nàng cũng ở phía trên bắp đùi gần đầu gối, đây là một bộ vị rất nhạy cảm, tuyệt đối không thể cho nam nhân xem, trừ trượng phu của mình. Nhưng nói là vậy thì cũng hơi quá, trước đây cũng đã từng có nam nhân khác xem chỗ này của nàng rồi, chẳng qua đó là các đại phu lưng còng chân run, ngoài ra còn có nhiều nữ đại phu khác nữa. Còn nam tử trẻ tuổi thì Đỗ Văn Hạo chính là người đầu tiên.

Cũng chẳng biết Đỗ Văn Hạo có hiểu điều này không nhưng trên mặt hắn vẫn lạnh như tiền, không có biểu hiện gì khác lạ cả, bình tĩnh hỏi thăm: “Đau ở nơi nào?”

Tuệ Nhi lúc này mới xoay người lại chỉ chỉ vào chỗ đau nhưng vẫn không nói lời nào.

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng xoa xoa bóp bóp chỗ nàng vừa chỉ, Tuệ Nhi ôi chao kêu lên một tiếng, khuôn mặt đỏ hồng lên. Tiêng kêu này không chỉ là đau đớn mà còn là sự sợ hãi thất thố, là tiếng kêu giải thoát cho bao kìm nén từ nãy tới giờ, dù sao đây cũng là lần đầu tiên trong đời nàng bị một nam nhân trẻ tuổi đụng vào. Thậm chí thân thể mềm mại của nàng cũng nhẹ nhàng run rẩy.

Nhưng tất cả diễn biến nội tâm của Tuệ Nhi đối với Đỗ Văn Hạo như chẳng có ý nghĩa gì, đơn giản chỉ là một tiếng kêu đau đớn. Hắn thấy đầu gối nàng sau vài động tác xoa bóp không hồng cũng không nóng lên, chỉ có chút thũng trướng liền một tay nâng mắt cá chân của nàng lên, một tay đè lên bắp đùi, chậm rãi giúp nàng vận động các khớp chân theo các hướng. Đỗ Văn Hạo phát hiện chân nàng không thể gập lại nhiều, sau mỗi lần co duỗi thì kêu lên rất đau đớn.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đau nhức thế này đã bao lâu rồi?”

Tư Mã Quang nói chen vào: “Đã nhiều năm rồi, ta nhớ khi nàng mười lăm tuổi thì ta cho đính hôn, chỉ sau một năm đã phát hiện bệnh rồi, thông gia nói với ta không thể lấy một người bệnh về làm vợ làm dâu được, nên trả về.”

“Cha!” Tuệ Nhi kêu lên, khuôn mặt đã trở nên trắng bệch. Nước mắt trào ra không ngớt. Hiển nhiên nàng đã bị cha động đến nỗi đau thầm kín và cay đắng nhất!

“Được, được, không nói không nói, cha không nói nữa.”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo nổi lên một sự chua xót khó tả. Một cô gái như hoa như ngọc, chỉ vì một cái chân tật mà bị người ta thối hôn, sự đả kích này đối với nàng chắc chắn không phải tầm thường, khó trách nàng ta trở nên trầm mặc ít nói như vậy. Nếu như cái chân đau này không chữa khỏi, chỉ sợ cả đời này nàng sẽ trở thành một bà quả phụ suốt ngày buồn bực chán nản, câm lặng không nói một lời. Mà hiện giờ phụ thân Tư Mã Quang của nàng lại cũng bị mắc tuyệt chứng, một khi phụ thân mất đi, thật không biết nàng sẽ đối phó với sự nghiệt ngã của thế gi­an, của dư luận như thế nào đây? Nhất định phải tìm cách chữa thật tốt cho nàng!

Đỗ Văn Hạo lại hỏi nàng các cảm giác khác xuất hiện khi bị đau, lịch sử bệnh tật, cuối cùng mới xem lưỡi, chẩn mạch, rồi cúi đầu trầm tư.

Tư Mã Quang trong mắt cũng không hiện lên sự kỳ vọng gì, hắn đương nhiên không hề có ý nghĩ Đỗ Văn Hạo có thể chữa trị hết cho nữ nhi của mình. Ngược lại, trong đầu hắn lại có một ý rất kỳ lạ, hắn đã nhìn thấy Tuệ Nhi nhìn trộm Đỗ Văn Hạo, ánh mắt của nàng ta ngoài sự ngượng ngùng còn có một chút hưng phấn.

Đỗ Văn Hạo chậm rãi kéo quần trong (nói quần trong cho nó lành, các bác lại cứ tưởng tượng lung tung) của nàng xuống, vẻ mặt vẫn đầy trầm tư. Lát sau hắn từ từ đứng lên, cất giọng nói: “Chứng bệnh khiến cho Tuệ Nhi cô nương đây bị đau xưng ở đầu gối là một loại có tính chất giống với tý chứng. Nguyên nhân là do vệ khí suy yếu, khí huyết ngưng trệ, kinh mạch có dấu hiệu không thông, nói chung là tổng hòa nhiều yếu tố đó lại càng khiến cho bệnh nặng hơn. Điều quan trọng là tý chứng này đã xuất hiện lâu, trở thành mãn tính rồi.”

Tư Mã Quang nghe hắn nói như vậy thì khuôn mặt không hề giãn nở ra thêm chút nào, thở dài thườn thượt trong ruột, thầm nghĩ một tên đại phu trẻ tuổi có được danh tiếng nhiều khi may mắn đóng vai trò rất lớn. Nhưng bên ngoài thì vẫn lãnh đạm gật đầu: “Trước kia cũng có không ít đại phu nói như vậy, lời của ngươi tuyệt không sai lệch so với họ.”

Đỗ Văn Hạo vẫn lộ vẻ đăm chiêu: “Bọn họ dùng thuốc thế nào? Có đơn thuốc ở đây không?”

“Không có. Chúng ta không biết gì về y, giữ đơn thuốc làm cái gì đâu. Có bệnh thì cứ tìm đại phu, để các đại phu xem rồi tự khai đơn cấp thuốc là được rồi.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì ngay lập tức lắc lắc đầu: “Đây là một thói quen rất không tốt. Ngài phải biết rằng, phàm những người có bệnh, được đại phu thăm khám và kê đơn thì sau đó nhất định phải lưu lại đơn thuốc để những đại phu tới chẩn lần sau có thể cân nhắc. Cái này không chỉ đối với việc chứng bệnh tái phát, mà ngay cả đối với những chứng bệnh khác phát sinh sau này. Phải biết rằng đa phần các loại bệnh tật đều có liên quan với nhau, nhiều khi cái sau bắt nguồn từ cái trước. Trên thực tế đã có nhiều trường hợp do dùng thuốc không đúng mà phát sinh bệnh mới từ một chứng bệnh cũ. Hơn thế nữa, việc chữa trị không dứt khoát một chứng bệnh hoàn toàn có thể là nguyên nhân gây ra hàng loạt chứng bệnh khác sau này. Đồng thời, việc chữa bệnh đa phần là phải chữa nhiều lần, sử dụng thuốc cũng khác nhau. Ví dụ đơn giản nhất là ban đầu dùng thuốc mạnh sau đó phải liên tục theo dõi, bệnh tình thuyên giảm thì thay đổi phương thuốc, dùng điều hòa, bồi bổ,…Chính vì vậy, việc lưu lại các đơn thuốc trước đó là rất quan trọng, tránh cho y giả lần sau không đi lại con đường của người trước. Bởi đa phần mỗi chứng bệnh có nhiều cách chẩn trị, dùng phương khác nhau, nhiều đường quanh co lắt léo, đôi khi y giả phải phỏng đoán, thậm chí thử sử dụng cách này rồi sang cách khác, đặc biệt đối với các nghi nan tạp chứng.”

Tư Mã Quang nghe Đỗ Văn Hạo giải thích một hơi dài lê thê như vậy thì có chút hiểu ra, nhưng cũng chỉ biết cười khổ mà nói: “Nói thật, ngài nói vậy thì ta cũng hiểu, nhưng là lão hủ này thân thể vẫn còn tốt lắm, từ nhỏ tới giờ lão hủ chưa biết mùi vị của chén thuốc nó như thế nào. Cho dù bây giờ tuổi cao, sức khỏe có phần giảm sút, nhưng bệnh tật hiện nay cũng chỉ là ngẫu nhiên dính phong hàn mà thôi. Bọn nhỏ trong nhà này cũng như vậy, thân thể đứa nào cũng mạnh khỏe, không cần đến thuốc thang. Duy chỉ có Tuệ Nhi của ta bị tật ở chân. Chính vì vậy mà nhà ta chưa bao giờ có thói quen lưu phương thuốc cả!”

Đỗ Văn Hạo cũng không quá thất vọng về việc không có đơn thuốc cũ, hắn bình thản nói tiếp: “Không sao. Ta cũng chỉ nói vậy thôi, có thì tốt, không có cũng không phải là quá xấu. Dù sao ta cũng có chẩn đoán của mình, nên sẽ tự mình kê đơn thuốc mới. Muốn trị tý chứng mãn tính này cần phải dùng Đan tham Dưỡng huyết để hoạt huyết. Phương thuốc hoạt huyết này dùng ý khí tương hợp để thông đạt khí huyết, thúc giục khí huyết vận hành để tán tật, hoạch đáp, trạch tả, kiện tỳ, lợi thấp. Mộc qua thư cân, nhị uy linh giúp hỗ trợ tiêu trừ phong hàn, thông lạc, thân cân thảo bổ trợ hoạt động của các chi, gân cốt, ngưu tất cũng có tác dụng làm mạnh mẽ gân cốt, mộc thông lợi ẩm, tiết nhiệt, tế tân hỗ phong chỉ thống.”

Chẳng hiểu sao Đỗ Văn Hạo lại có hứng nói một tràng gi­ang đại hải cách thức chữa trị cũng những loại dược thảo cần dùng như vậy, trong khi hắn biết rõ người nghe có đến chín phần mười không hiểu và không cần nghe mấy cái đó. Quả thật Tư Mã Quang và nữ nhi của lão ngây ngốc nhìn Đỗ Văn Hạo, vẻ mặt trước và sau khi nghe hắn nói không có gì khác biệt. Lão rốt cuộc lắc đầu sau khi Đỗ Văn Hạo kết thúc bài giảng của mình: “Thôi được rồi, ngươi nói chúng ta không hiểu gì đâu, hay là cứ trực tiếp khai phương hạ dược đi, nói thế chứ nói nữa chúng ta cũng không sáng hơn được đâu.”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu, đi tới bên cạnh bàn, đề bút viết một đơn thuốc, đưa cho Tư Mã Quang: “Ta khai một đơn thuốc, gọi là Tuyên Tý thang gia giảm. Khi nấu thuốc, đun ba chén còn hai là được, chia làm ba lần sáng trưa chiều mà uống thuốc, nhớ phải uống nóng. Bã thuốc sau khi uống không được đổ đi, pha chế thêm khoảng sáu bát nước, đun thêm trong lửa nhỏ khoảng thời gi­an một ấm trà, chờ cho nước sôi liu riu, ước chừng còn khoảng năm chén nước thì dùng khăn lông sạch thấm nước đó lau rửa chỗ đau.

Trước tiên ta khai đơn dùng mười thang. Nếu có cải thiện, ta sẽ tới xem lại, điều chỉnh cách dùng cho những lần tiếp theo. Nếu không cải thiện, ta thực không có biện pháp nào khác, đành phải nhờ các đại phu cao tay hơn!”

Tư Mã Quang lắc đầu: “Không cần phải nhờ đại phu khác đâu, lão hủ ta tin ngươi là được. Bao nhiêu đại phu đã thử chữa trị nhưng có ai thành công đâu? Lần này nếu ngươi không chữa được thì coi như tiểu nữ không may mắn rồi, còn nếu ngươi chữa được, lão hủ nợ ngươi một món ân tình cả đời!”

“Không dám! Dù thế nào ty chức cũng gắng hết sức. Lát nữa ty chức sẽ cho người mang thuốc tới. Cáo từ!”

Rời khỏi phủ đệ của Tư Mã Quang thì trời cũng gần đến hoàng hôn, mưa nhỏ cũng đã ngừng, hai người điểu khiển xe nhàn nhã giẫm lên những tảng đá nhỏ trên đường mà hướng về nhà.

“Hôm nay sao có gì mà tỷ lại cao hứng như vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Thanh Đại từ lúc lên xe tới giờ không ngừng cười tủm tỉm liền tò mò cất tiếng hỏi.

“Ta cười mị lực của đệ a!” Lâm Thanh Đại đưa mắt kiều mị nhìn Đỗ Văn Hạo trợn lên, có ý trách móc cười nói: “Đệ đệ không phát hiện nữ nhi của Tư Mã Quang có ánh mắt khác lạ khi nhìn mình sao? Ha ha, đây là một loại ánh mắt sùng bái, nhưng lại có phần vui sướng, và tất nhiên xen chút hạnh phúc nữa.”

Đỗ Văn Hạo chỉ chỉ vào Lâm Thanh Đại nói: “Vẫn biết là tỷ không biết nói lời hay mà, ài, có câu gọi là miệng cái gì đó không nôn ra được răng ngà mà! Ôi chao, bớ người ta, cứu, cứu, có người mưu sát trượng phu. Ôi chao, cứu, không được đánh, đánh chết ta thì tỷ không có nam nhân rồi!”

Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo cứ rống lên to như vậy khiến nhiều người trên đường ghé mắt lại tò mò nhìn xem thì vừa tức vừa buồn cười, hung hăng nhéo một cái thật đau lên vai hắn, oán trách nói: “Ta bất quá chỉ đánh nhẹ đệ một cái, đệ xem phản ứng của đệ đi, sợ có ai đó trong cả thiên hạ này không nghe thấy sao? Đệ cứ chờ đấy, xem ta thu thập đệ thế nào đây.”

Lâm Thanh Đại nói rồi lại dùng tay đập đập nhẹ vào người Đỗ Văn Hạo. Là một người biết võ công và rất giỏi võ công, nhưng nàng cũng là một người phụ nữ cổ đại biết lễ giáo, nên đương nhiên khi đánh Đỗ Văn Hạo, chỉ là thâm tình yêu mến, chỉ là những cái vuốt ve hơi mạnh một chút của hai người trêu đùa nhau.

Tay đánh, còn miệng Lâm Thanh Đại không ngừng kêu “Ta sẽ thu thập đệ thật tốt, để lần sau không dám to mồm nữa này!” Đỗ Văn Hạo thì được thể kêu oai oái, bộ dáng muốn cho cái xe trở thành tâm điểm chú ý của tất cả mọi người đi trên đường.

Thanh Đại thì có vẻ ngày một bất lực trước cái mồm to và cái da mặt dày của Đỗ Văn Hạo: “Thật hết cách với đệ, chỉ là đánh nhẹ nhàng vậy mà cũng kêu oai oái lên là sao?”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy thì nhếch miệng cười, quay về phía Lâm Thanh Đại làm cái mặt quỷ: “Ôi chao! Cái gì? Tỷ nói đánh như vậy mà là nhẹ nhàng sao. Tỷ đừng quên mình là một võ lâm cao thủ, mỗi cái vung tay nhấc chân là có thể lấy đi tính mạng người khác rồi. Với một chưởng rồi của tỷ, ta đây ít nhất cũng bị nội thương không nhẹ rồi.”

Lâm Thanh Đại ngồi ở trong xe, thấy Đỗ Văn Hạo vẫn mở miệng cãi cố, liền duỗi chân ra đạp nhẹ vào mông hắn một cái. Đương nhiên cái đạp này chẳng có gì là nặng nề cả, Đỗ Văn Hạo quay lại cười híp mắt: “Sao lại có cảm giác co dãn thế nhỉ?”

Lâm Thanh Đại nghe hắn nói mà mờ mịt chưa hiểu đầu cua tai nheo gì: “Cái gì co dãn?”

Thấy Lâm Thanh Đại vậy, Đỗ Văn Hạo lại làm vẻ mặt ngờ nghệch: “Khi một cước của tỷ chạm vào mông của ta, ta cảm giác được nó thật mềm mại, co dãn. Những ngón chân của tỷ thật nhẹ nhàng, mềm mại không hề cứng nhắc, phối hợp cùng động tác vô cùng đáng yêu của tỷ, tất cả khiến ta thấy rất thoải mái. Ta nghĩ mông của mình nhiều thịt hơn những ngón chân của tỷ, đương nhiên tỷ cũng sẽ cảm nhận được nhiều sự co dãn hơn ta. Thực sự ta có thể cảm nhận được điều đó trong động tác của tỷ.”

“Biến đi, hừ, cái…của ngươi một chút thịt cũng không có, thoải mái gì mà thoải mái? Ngươi chỉ được cái nói năng lung tung. Mà thật ra ngươi nói cái mấy cái gì ta nghe cũng không hiểu lắm.”

Lúc này bên cạnh có một chiếc xe trâu trên xếp đầy ngói xanh vượt qua xe của Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại, trên xe có một tiểu hài tử nắm nắm tay mẫu thân ngồi bên cạnh liên tục cười đùa. Điều khiển xe trâu là một ông lão cùng mấy người trang hán, điệu bộ rất vui vẻ vừa đi vừa nói chuyện. Đương nhiên chuyện của những tráng hán này chỉ xoay quanh chủ đề về các cô nương. Bọn Đỗ Văn Hạo có thể nghe rõ tiếng họ đang bàn tán về hai cô nương mới gặp trên đường, một người mặt trắng hồng, một người thắt đáy lưng ong, hai người một thì xinh đẹp một thì dáng vẻ mị hoặc khiến những tráng hán ở đây gần như chia làm hai phía. Họ bàn luận rất sôi nổi, nhiều lúc trên mặt mấy nam tử trẻ tuổi còn hiện lên sự hưng phấn, có người còn nhảy hẳn xuống xe thao thao bất tuyệt như là đang bảo vệ nữ nhân của mình vậy.

Đỗ Văn Hạo một bên vui vẻ nhìn đoàn người đi qua, tay thì vòng qua ôm lấy eo lưng Lâm Thanh Đại: “Cái này gọi là cảm giác thần bí, hiểu không?” Lúc này sắc trời đã muộn, người đi trên đường đã ít đi rất nhiều. Lâm Thanh Đại thấy hành động của Đỗ Văn Hạo như vậy thì cũng không có ý tứ rõ ràng, nhẹ nhàng đưa tay xuống muốn gỡ tay hắn ra.

Đỗ Văn Hạo đương nhiên không dễ dàng buông tha như vậy. Hắn ghé sát đến bên lỗ tai Lâm Thanh Đại, thổi nhẹ nhàng. Lâm Thanh Đại đột nhiên cảm giác một luồng nhiệt khí ấm áp tràn vào trong tai, nàng nhận ra hành động của Đỗ Văn Hạo, trong lòng có chút xao động, trái tim giống như mặt trống đang bị gõ vang lên những tiếng bình bình. Mặc dù đây không phải là lần đầu tiên bọn họ gần gũi với nhau như vậy nhưng lần nào trống ngực nàng cũng gia tăng tốc độ rất nhanh.

“Ta không hiểu, không biết cái gì gọi là cảm giác thần bí gì gì đó, đệ tập trung lái xe đi, những người kia đang nhìn chúng ta đó!” Lâm Thanh Đại cũng không mạnh mẽ cự tuyệt, chỉ quay đầu đi hướng khác, ngượng ngùng nói.

Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Thanh Đại mắc cỡ, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ lựng lên, nghĩ cũng không nên làm quá, dù sao bên đường vẫn đang có người, liền ngồi thẳng dậy, ho khan hai tiếng nói: “Để ta đọc cho tỷ nghe một bài thơ ta rất thích nhé!”

Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo đã nghiêm chỉnh đứng đắn trở lại thì trên mặt cũng không còn màu đỏ hồng nữa. Nàng cũng ngồi thẳng lên, chỉnh lại thân thể một chút, nhưng vẫn không quên bảo trì một khoảng cách nhất định với Đỗ Văn Hạo, hỏi lại hắn: “Thơ gì? Do ai viết? Mà người viết là nam hay nữ?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thoáng ngạc nhiên, cười nói: “Trời ạ, sao mà nhiều vấn đề vậy? Đến một vị giám khảo ở trường thi cũng không hỏi nhiều như tỷ đâu.”

Lâm Thanh Đại móc chiếc khăn thơm mát trong tay áo ra, nhẹ nhàng đưa lên miệng xoa xoa nhẹ khóe miệng, sau đó ghé mắt thoáng nhìn hắn, rồi ngay lập tức trở lại bộ dạng lạnh lùng, thản nhiên nói: “Được rồi, cũng không phải là quan trọng lắm, nếu là đệ thích, chắc sẽ không phải là một bài thơ kém cỏi, bất quá, quan trọng nhất vẫn là không phải đệ viết là được rồi!”

“Ta đâu có khả năng làm thơ cơ chứ? Tỷ tỷ thừa biết điều đó mà. Bảo ta ngoáy bút kê vài đơn thuốc thì còn được, chứ nói ta múa bút làm thơ thì ta chịu.” Đỗ Văn Hạo cũng biết mình biết người, thành thật nói.

Lâm Thanh Đại nghe vậy muốn cười lớn, nhưng cầm lòng được, cũng không thèm nhìn sang Đỗ Văn Hạo, vẫy vẫy cái khăn trong tay qua trước mặt hắn, nói: “Vậy đệ đọc cho ta nghe đi.”

“Vậy tỷ thực sự muốn nghe? Tốt lắm, khụ khụ.” Đỗ Văn Hạo ho ho vài tiếng để chuẩn bị đọc. Kỳ thật bài thơ hắn sắp đọc ra cũng chẳng phải là nổi tiếng gì, đơn giản là một bài hắn rất thích từ khi học đại học. Bài này do một tác giả cũng không phải là người cổ đại gì cả, mà là một phụ nữ bình thường, có tên là Tịch Mộ Dung sáng tác.

“Nhân nhược năng chuyển thế

Thế gi­an nhược chân hữu luân hồi

Na yêu, ngã ái

Ngã môn tiền sanh tằng kinh thị thập yêu?

Nhĩ nhược tằng thị gi­ang nam tập liên đích nữ tử

Ngã tất thị nhĩ hạo oản hạ thác quá đích na nhất đóa

Nhĩ nhược tằng thị na cá đào học đích ngoan đồng,

Ngã tất thị tòng nhĩ đại trung điệu lạc đích na khỏa tiệm tân đích đạn châu,

Tại lộ bàng thảo tùng lý,

Mục tống nhĩ hào bất tri tình địa viễn khứ.”

(Tạm dịch: “Người nếu có thể chuyển thế,

Thế gi­an nếu thật có luân hồi,

Như vậy, ta yêu.

Chúng ta kiếp trước từng là cái gì?

Nếu nàng từng là Gi­ang Nam nữ tử,.

Ta nhất định là đóa hoa bị nàng bẻ gãy

Nàng nếu từng là đứa trẻ trốn học đi chơi,

Ta nhất định là viên ngọc rơi ra từ trong túi nàng

Tại bụi cỏ ven đường,

Đưa mắt dõi theo nàng dứt áo đi xa.” - Ài, chẳng hay tí nào cả, bác nào có cao kiến thì dịch giùm bài thơ này nhé)

Đỗ Văn Hạo đọc đến chỗ này thì dừng lại. Hắn cũng không quay đầu lại xem vẻ mặt của Lâm Thanh Đại như thế nào, chỉ chăm chú nhìn con đường trước mặt rồi quay sang nhìn cái ngõ nhỏ dẫn vào nhà.

“Đã đọc xong rồi sao?” Rất lâu sau đó, khi chiếc xe đã rẽ vào ngõ nhỏ, những giác quan dường như mới quay trở lại với Lâm Thanh Đại giúp nàng thốt nên lời. Nàng nhướng đôi mi đen cong vút cất tiếng hỏi, thanh âm lộ rõ vẻ cô đơn.

“Vẫn chưa hếtđệ nghĩ tỷ không muốn nghe cho nên thôi không đọc tiếp nữa”, Đỗ Văn Hạo trả lời. Đến lúc này hắn mới quay sang nhìn Lâm Thanh Đại. Giữa ráng trời chiều, khuôn mặt thon dài xinh đẹp của nàng lấp loáng trông thật xinh đẹp. Hàng mi thuôn dài, sống mũi thẳng, cao, đôi môi mọng quyến rũ, cằm hơi vểnh ra phía trước, làn da ở cổ trắng ngần. Ở Lâm Thanh Đại, mọi đường nét đều toát lên một vẻ quyến rũ khó tả.

Lâm Thanh Đại quay đầu lại đúng lúc Đỗ Văn Hạo đang chằm chằm nhìn vào nàng. Bốn mắt nhìn nhau khiến nàng ban đầu thấy sửng sốt, sau thì bối rối khôn tả. Nhưng Lâm Thanh Đại trấn tĩnh lại rất nhanh. Nàng nở nụ cười yếu ớt, cụp mắt, nhẹ giọng nói: “Đó mà là một bài thơ sao?”

“Đúng vậy”.

“Nói bậy! Làm gì có bài thơ nào như vậy chứ! Ta tuy không biết làm thơ viết văn nhưng cũng biết chút ít về thơ Bình Khánh. Nghe những từ đệ vừa đọc chẳng giống ca từ trong một bài thơ chút nào”.

“Thế tỷ bảo nó là cái gì nếu không phải là thơ?”

Lâm Thanh Đại nhẹ nhàng: “Ta cũng không biết nữa. Nhưng những từ ngữ đó làm cho người nghe không khỏi cảm thấy chua xót, chỉ muốn đắm chìm luôn vào đó thôi. Đệ đọc tiếp đi, ta muốn nghe nữa”.

Đỗ Văn Hạo thầm thì vào tai nàng: “Khi nào về đến nhà đệ sẽ nhớ lại rồi viết ra cho tỷ để tỷ có thể nghiên cứu dần dần”.

Đỗ Văn Hạo vừa nói xong thì xe đã dừng lại ở cửa Ngũ Vị Đường. Tuyết Phi Nhi đang đứng dựa cửa ngó quanh ngó quẩn, thấy Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại về thì vội quay đầu hô to: “Cầm Nhi tỷ tỷ, Văn Hạo ca ca với Thanh Đại tỷ tỷ đã về đến đây rồi.”

Tiểu nhị của Ngũ Vị Đường vội vàng chạy ra giữ lấy xe ngựa, chờ cho Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại đi xuống xe xong thì đem cả xe lẫn ngựa ra hậu viện cất.

Lâm Thanh Đại cố ý bước thật mau đi lên trước Đỗ Văn Hạo. Do đó hai người bọn họ một trước một sau tiến vào bên trong.

Tuyết Phi Nhi bước nhanh về phía Đỗ Văn Hạo, thân thiết kéo cánh tay hắn rồi thoải mái tựa đầu vào khuỷu tay hắn. Đỗ Văn Hạo đưa tay ra xoa xoa đầu nàng, nói: “Nàng đứng ở cửa làm chi vậy?”

“Thiếp chờ chàng”.

“Nàng muốn ta hả? Thế hôn một cái nha?”

“Không phải bây giờ!” Tuyết Phi Nhi xoay mặt né tránh nụ hôn của Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Nãi nãi của Cầm Nhi tỷ tỷ bị bệnh. Nhị tỷ của Cầm Nhi tỷ tỷ sang đây báo, muốn chàng qua đó xem bệnh một chút. Thiếp đứng đây chờ chàng lâu lắm rồi đó, bụng đói bắt đầu réo ục ục rồi đây này. Thế mà chàng không tỏ ra chút thương xót nào sao? “, nàng phụng phịu.

Đỗ Văn Hạo thừa dịp chưa ai chú ý đến hai người bọn họ liền cúi đầu thật nhanh hôn phớt lên khuôn mặt tròn tròn xinh đẹp của Tuyết Phi Nhi rồi nói: “Thế này được chưa? Nàng cần gì phải chờ ta đâu, nhanh đi ăn chút gì đi cho khỏi đói. Ta đến chỗ Cầm Nhi xem có chuyện gì. Nãi nãi bệnh chắc nàng ta cũng sốt ruột”.

“Chàng thật là…ài, thôi được rồi. Nhưng sao chàng không đi vào cung mà lại cùng Thanh Đại tỷ tỷ đi đâu đến giờ mới về vậy?”

“Ta gặp tỷ ấy trên đường về. Thôi để nói chuyện sau. Giờ nàng mau mau đi ăn cơm đi. Kêu Thanh Đại tỷ tỷ đi ăn luôn nữa, tỷ ấy cũng chưa ăn gì đâu”.

Vừa nói, Đỗ Văn Hạo vừa nhanh chóng bước về phía phòng Bàng Vũ Cầm.

Vừa bước vào Đỗ Văn Hạo đã thấy Bàng Vũ Cầm hai mắt đỏ hoe, chắc là đã khóc nhiều. Ngồi cạnh nàng là Nhị tỷ Bàng Vũ Đình.

Thấy Đỗ Văn Hạo bước vào, hai tỷ muội vội vàng đứng dậy.

Đỗ Văn Hạo kêu lên một tiếng “Nhị tỷ” để chào Bàng Vũ Đình, sau đó đi tới bên cạnh Bàng Vũ Cầm, ôm lấy bả vai nàng nói: “Ta từ trong cung ra thì gặp Thanh Đại tỷ tỷ. Vậy nên ta đưa tỷ ấy đi cùng đến nhà Tư Mã đại nhân một chuyến để xem bệnh cho ông ta luôn. Ta về hơi muộn một chút, nàng với Nhị tỷ đã ăn cơm chưa vậy?”

Bàng Vũ Cầm nghe Đỗ Văn Hạo nói xong là bắt đầu xụt xịt. Nàng đưa khăn thơm lên chấm nước mắt, nghẹn ngào nói: “Nhị tỷ qua nói nãi nãi lại bị bệnh rồi. Đầu đau, toàn thân nhức mỏi, người nóng, nhưng cơ thể lại thấy rét. Nãi nãi lớn tuổi như vậy rồi không biết có nguy hiểm không nữa. Mà người lại chỉ tin tưởng chàng, muốn chàng đến xem bệnh thôi. Thiếp chờ mãi chờ mãi mà không thấy chàng về nên sốt ruột quá.

“Không sao, không sao, nàng đừng khóc nữa mà. Ta biết là ta sai rồi. Thôi giờ ta đã về đây rồi, chúng ta nhanh chóng qua chỗ nãi nãi xem người làm sao?”

“Nhưng chàng vẫn còn chưa ăn cơm mà?” Bàng Vũ Cầm hỏi, giọng đượm vẻ lo lắng cho tướng công của mình,

Đỗ Văn Hạo đưa tay lau giọt nước mắt ở khóe mắt nàng rồi lên tiếng an ủi: “Ta không sao mà. Nhịn đói một bữa cũng có chết được ngay đâu. Chúng ta đi xem bệnh cho nãi nãi trước đã”.

Bàng Vũ Đình ngồi một bên nghe hai người bọn họ nói chuyện tình cảm nên không muốn xen vào. Giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói sẽ lên đường ngay nàng mới đặt chén trà đang uống dở lên bàn rồi đứng dậy nói: “Nếu không thì cứ đến nhà tỷ đi. Trong lúc Văn Hạo đệ xem bệnh cho nãi nãi, tỷ sẽ kêu người chuẩn bị cơm tối luôn”.

Nghe Bàng Vũ Đình nói vậy, Đỗ Văn Hạo chắp tay quay sang nói: “Vậy phải làm phiền Nhị tỷ rồi”.

Ra đến cửa, Đỗ Văn Hạo để ý thấy Bàng Vũ Cầm dường như có chuyện gì đó muốn nói với mình, nhưng cứ ngập ngừng định nói lại thôi. Tinh thần nàng cũng lộ rõ vẻ lo âu hốt hoảng.

Lên xe rồi, Bàng Vũ Cầm càng lộ rõ vẻ lo âu gì đó. Nhiều lúc Bàng Vũ Đình hay thậm chí cả Đỗ Văn Hạo nói nàng cũng có vẻ không nghe thấy và rõ ràng đang không để tâm vào câu chuyện. Thấy vậy, Đỗ Văn Hạo cất tiếng: Cầm nhi, nàng đang có tâm sự gì sao?”

Bàng Vũ Cầm bỗng trở nên hốt hoảng. Nàng quay sang nhìn Đỗ Văn Hạo, vội vàng lắc đầu nói: “Không, không có gì cả. Thiếp làm gì có tâm sự nào đâu”.

Đỗ Văn Hạo nghĩ chắc nàng đang băn khoăn chuyện mình cùng Lâm Thanh Đại cùng nhau đi về như vậy, nhưng do trong xe còn có cả Bàng Vũ Đình nên hắn không tiện để giải thích thêm. Hắn chẳng còn biết làm gì khác, chỉ biết chấn an nàng: “Nàng đừng lo, chắc nãi nãi sẽ không sao đâu”.

Ai ngờ Bàng Vũ Cầm vừa nghe xong những lời này thì lại nghẹn ngào thút thít khóc.

“Cầm nhi, thôi đừng có khóc mà. Nãi nãi sẽ không sao đâu”, Bàng Vũ Đình cũng lên tiếng an ủi.

Đỗ Văn Hạo cảm giác mọi chuyện không đơn giản như hắn nghĩ nữa, bèn thấp giọng hỏi: “Cầm nhi, rốt cuộc thì nàng làm sao vậy? Nhìn thần sắc nàng không được tốt cho lắm”.

Bàng Vũ Cầm nghẹn ngào, rốt cục cũng quyết định nói ra suy nghĩ của mình: “Cũng tại thiếp không tốt. Nếu không phải vì thiếp thì nãi nãi đã không đổ bệnh như vậy.”

Nghe những lời này, Đỗ Văn Hạo càng thấy ngạc nhiên hơn, nói: “Chuyện là thế nào vậy? Rốt cuộc nàng đã làm gì?”

“Lúc trước nãi nãi bị bệnh cho người đi tìm chàng thì chàng lại vừa tiến cung. Nãi nãi lại không tìn tưởng vào tay nghề hai người Diệu Thủ với Hàm Đầu nên thiếp đã chủ động đi xem bệnh cho nãi nãi rồi tự mình kê thuốc cho người uống. Cũng tại thiếp không tốt”, Bàng Vũ Cầm vừa khóc vừa nói.

Đỗ Văn Hạo vội nói: “Nàng đi xem bệnh cho nãi nãi hôm nào vậy? Sao ta không biết gì về chuyện này?”

Bàng Vũ Cầm lúc này mới ngẩng đầu lên, nấc nghẹn muốn nói mà không thành lời. Lòng tràn đầy sự thương xót, Đỗ Văn Hạo đưa tay ra ôm nàng vào lòng, không còn nghi ngại việc Bàng Vũ Đình đang ngồi đối diện liệu có chướng mắt khi nhìn thấy hay không nữa. Hắn nghĩ dù sao thì Bàng Vũ Đình cũng là Nhị tỷ của Cầm nhi, chắc sẽ hiểu và thông cảm được.

Đỗ Văn Hạo an ủi một lúc Bàng Vũ Cầm mới nguôi ngoai được một chút, vừa khóc vừa nói: “Khoảng mấy ngày trước đây, mấy hôm mà tướng công bận đi xem bệnh cho Lâm nương nương và Trữ công công ý, thiếp đợi mãi không thấy tướng công về nên sốt ruột một mình đi về nhà. Thấy nãi nãi đang phát bệnh, đầu đau thân nhức mỏi, ngoài nóng trong lạnh nên thiếp đoán chừng nãi nãi bị thương hàn. Thiếp nghĩ nếu làm gì đó khiến nãi nãi đổ mồ hôi thì sẽ giúp nhiệt cơ thể lan đi. Ai ngờ uống thuốc xong nãi nãi không những không bớt bệnh mà từ mấy ngày hôm nay bắt đầu khó ăn, khó uống, mắt cũng lờ đờ chậm chạp. Hôm nay Nhị tỷ qua nói ngay cả hơi thở nãi nãi cũng rất yếu ớt. Tẹo nữa tướng công xem thử xem, nếu là do thiếp làm bệnh tình của nãi nãi nặng lên thì đúng là thiếp không còn mặt mũi nào mà sống trên cõi đời này nữa”.

“Nàng đừng nói lung tung như thế chứ. Nói ta nghe bệnh tình nãi nãi lúc trước thế nào? ‘ Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Người thì thấy lạnh nhưng cũng có những lúc nóng rần lên. Đau đầu nhức mỏi khắp toàn cơ thể. Nhưng lại không bị đổ mồ hôi. Sắc mặt tái nhợt, nói chuyện gì cũng không có tinh thần”.

Đỗ Văn Hạo nghe Bàng Vũ Cầm mô tả xong đã phần nào hình dung ra cơ sự.

Đi thêm một đoạn nữa, xe ngựa đã đến trước cửa Bàng Vũ Cầm nương gia.

Bàng mẫu nằm trên giường, mơ mơ màng màng dường như không còn nhận thức. Mọi người trong nhà đông đủ ngồi quây quần quanh giường Bàng mẫu. Đỗ Văn Hạo sau khi chào hỏi mọi người một vòng bắt đầu bắt tay vào chẩn bệnh.

Hắn bắt mạch, xem lưỡi, kiểm tra thôi hồi để chắc chắn về phán đoán của mình rồi lấy bút, vội vàng kê đơn và đưa cho Bàng Vũ Cầm tìm phương bắt dược bốc thuốc cho Bàng mẫu.

Bàng Vũ Cầm tiếp nhận đơn thuốc. Liếc qua đơn, nàng bất ngờ kêu “hả” một tiếng. Chỉ thấy trong đơn thuốc mà Đỗ Văn Hạo kê có một loại thuốc duy nhất là nhân sâm năm tiễn.

Bàng Vũ Cầm sợ hãi nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Phu quân, cái này…Nãi nãi bệnh nặng như vậy, nếu chỉ dùng một loại thuốc như vậy thì có tác dụng gì không?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Có được hay không thì phải thử mới biết được chứ!”

Phụ thân của Bàng Vũ Cầm là Bàng Cảnh Huy vuốt chòm râu dài nói: “Văn Hạo kê đơn thuốc luôn rất khác người nhưng lại vô cùng hiệu quả. Lần trước kê đơn cho di nương con cũng vậy. Thôi nhanh đi chuẩn bị nhân sâm cho nãi nãi đi”.

Trong nhà Bàng Cảnh Huy đương nhiên lúc nào cũng có sẵn nhân sâm nên không cần phải đi đâu khác mua. Trong chốc lát, loại nhân sâm tốt nhất đã được mang tới. Tự tay Bàng Vũ Cầm giúp nãi nãi của nàng ăn.

Sau đó, mọi người trong nhà lại quây quần ngồi xung quanh giường Bàng mẫu. Như một ngọn đèn đang lay lắt, lão nhân hai mắt nhắm nghiền, môi nhợt nhạt vô sắc, sắc mặt tái nhợt. Bàng Vũ Cầm ngồi dựa sát vào Đỗ Văn Hạo, định hỏi hắn điều gì đó nhưng lại do dự liền thôi.

Chỉ chốt lát sau đó, Bàng mẫu nhẹ giọng rên rỉ một tiếng rồi chậm rãi mở mắt ra.

“Nãi nãi tỉnh rồi”, Bàng Vũ Cầm vừa mừng vừa sợ, ôm lấy đầu của Bàng mẫu mà khóc lóc thảm thiết không thôi.

Bàng mẫu chậm rãi quay đầu nhìn từng người bọn họ, trên mặt lộ rõ vẻ vui mừng: “Cầm nhi à, còn có cả Văn Hạo sao, các con tới được là tốt rồi. Nãi nãi không sao đâu mà”.

Bàng Vũ Cầm nhìn mẫu thân mà lau những giọt nước mắt đang lã chã rơi. Rồi nàng đưa tay đắp lại chăn cho Bàng mẫu, ôn nhu nói: “Nãi nãi đương nhiên là không sao rồi. Đã có Văn Hạo ở đây, con ma bệnh sợ quá bỏ chạy mất rồi”.

Nghe Bàng Vũ Cầm nói, mọi người trong phòng không nén nổi mà cười ha hả.

Chương 297: Mang thai.

Gởi bởi người có lòng!

Bàng mẫu vẫn rất mệt mỏi, cố gắng nói nhỏ với Bàng Vũ Cầm: “Ta ăn từng ít một thôi. Mang cho ta ít nước nữa”.

Bàng Vũ Cầm vội vàng sai người mang nước ấm đến, rồi tự mình định giúp giữ cho Bàng mẫu uống. Đỗ Văn Hạo nói: “Để nãi nãi ăn thêm ít nhân sâm trước rồi uống nước cho trôi”.

Bàng Vũ Cầm nghe vậy thì vội sai hạ nhân mang thêm một ít nhân sâm nữa đến. Bàng mẫu ăn sâm, rồi uống nước ấm, một lúc sau đã thấy khỏe hơn, tinh thần minh mẫn hơn. Bà kêu người đỡ mình dậy, nửa nằm nửa ngồi dựa vào giường cùng Bàng Vũ Cầm bọn họ trò chuyện những câu chuyện thường ngày.

Người nhà Bàng gia thấy cảnh này thì vừa mừng vừa sợ, ai cũng trầm trồ khen Đỗ Văn Hạo y thuật như thần.

Đêm đó, vợ chồng Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm ở lại Bàng gia.

Nằm trên giường, Bàng Vũ Cầm tình cảm dựa sát vào phu quân nhẹ nhàng hỏi: “Tướng công, nãi nãi rốt cuộc là bị bệnh gì vậy? Là thiếp đã kê đơn không đúng phải không?”

“Không phải, nàng kê đơn thuốc không sai mà”.

Bàng Vũ Cầm buồn bã nói: “Phu quân, chàng không cần phải an ủi thiếp đâu. Thiếp biết là chàng chỉ nói vậy để an ủi thiếp thôi mà”. Sống cùng Đỗ Văn Hạo bấy lâu nay, Bàng Vũ Cầm đương nhiên hiểu phu quân của nàng, nàng cũng cảm nhận được rõ ràng cách làm của mình có gì đó không ổn. Thế nhưng lúc này lòng nàng vẫn rối như tơ vò, thêm vào cảm giác hối hận khiến nàng không thể minh mẫn được.

“Không phải ta đang an ủi nàng đâu. Ta nói sự thật mà, nàng suy đoán đúng, và phương thuốc nàng kê cũng không sai”.

Bàng Vũ Cầm ngẩng đầu, hai mắt đã rơm rớm nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi: “Vậy tại sao thuốc đó lại không trị được bệnh cho nãi nãi mà còn làm cho bệnh tình của nãi nãi trở nên nặng hơn”.

“Bởi vì nàng chưa có nhiều kinh nghiệm kê thuốc, đặc biệt là kê thuốc cho người già. Người già cơ thể không được khỏe, không thể kê thuốc như cho những người bình thường được. Dù nãi nãi có biểu hiện của bệnh thương hàn, nàng không thể chỉ dùng những thứ thuốc thông thường để chữa bệnh đó. Phải dùng thêm tái tạo tán Đẳng Dược để bổ trợ cho Giải Biểu thì mới có tác dụng. Nàng liên tục cho nãi nãi dùng mỗi Giải Biểu thì không chỉ không có tác dụng mà thậm chí còn gây ra tác dụng ngược: Mồ hôi toát ra nhiều khiến cơ thể mệt mỏi, thần khí suy giảm, ăn uống không được. Rồi miệng không thể nói, mắt lờ đờ không còn tinh nhanh. Khi tình huống này xảy ra, chỉ cần cho ăn thêm nhân sâm Thang Từ Phục khô sẽ giúp nguyên khí khôi phục, cơ thể có lại sức lực.”

Bàng Vũ Cầm trong chuyện vợ chồng lễ giáo là một người hiền thục, có chút phục tùng chồng, nhưng bản chất nàng là một người thông minh, nhanh hiểu. Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo giải thích, nàng hiểu ra ngay sự việc, rằng nàng kê thuốc thì không sai nhưng khi kê lại không để ý đến đặc điểm cơ thể của người bệnh nên thuốc Giải Biểu đã xảy ra tác dụng ngược, gây tổn thương đến dương khí của Bàng mẫu.

Bàng Vũ Cầm đi theo Đỗ Văn Hạo học y thuật đã gần một năm nay. Ngày thường nàng vô cùng chăm chỉ, cứ có thời gi­an rảnh là lại đọc sách về y thuật. Hơn nữa, nàng cũng được Đỗ Văn Hạo chỉ điểm thêm nên kỹ năng ngày một tốt hơn. Cảm thấy cũng khá tự tin vào tay nghề của mình, Bàng Vũ Cầm mới tự tin kê đơn chữa trị căn bệnh thương hàn đơn giản cho nãi nãi. Nhưng nàng không ngờ rằng việc kê đơn thuốc còn phụ thuộc vào thể trạng của bệnh nhân nên chút nữa đã gây ra đại họa. Kinh nghiệm lần này giúp nàng nhận ra rằng “kỳ hoàng nhất đạo, bác đại tinh thâm”. Y thuật không chỉ cần kiến thức mà còn cả kinh nghiệm nữa. Mình mới chỉ bắt đầu đặt chân lên một con đường dài bao la bất tận mà thôi.

Vẫn cứ nói là Trung y dễ học mà khó giỏi. Dễ bởi vì nó bắt nguồn từ những thứ rất đời thường, các phương thuốc đôi khi rất gần giống với những món ăn, thức uống hàng ngày, kiến thức cơ bản, các vị thuốc đơn giản cũng không khác là mấy so với các loại rau quả, dược thảo bình dân mà rất nhiều nhà đều trồng trong vườn. Tuy nhiên, Trung y lại rất khó để thành tài, bản thân nó đòi hỏi người học phải có sự trau dồi hàng ngày, có sự trải nghiệm không ngừng qua những kinh nghiệm thực tế. Nó không phải như Tây y, thuốc theo bệnh, cứ bị bệnh gì thì tìm đúng loại thuốc đó, ai cũng có thể mua, có thể bán được. Trung y mặc dù có đơn thuốc, có những bệnh chứng rõ ràng, nhưng là nó phụ thuộc vào mỗi gi­ai đoạn bệnh, mỗi thể trạng của bệnh nhân. Với mỗi một loại bệnh, không những khác nhau ở các gi­ai đoạn, mà còn khác nhau ở mỗi người bệnh.

Theo cách chẩn bệnh của Trung y, mỗi khi xem bệnh đều phải trải qua bốn gi­ai đoạn, vọng (nhìn) - văn (nghe) - vấn (hỏi) - thiết (sờ - chẩn mạch). Điều này thể hiện là với mỗi người bệnh đều phải có sự tham khảo kỹ lưỡng, chẩn đoán chính xác các chứng bệnh, từ đó mới kê đơn, cho thuốc. Hơn nữa, sau mỗi lần điều trị, lại phải khám lại để thay đổi thuốc.

Lại nói ở thời đại của Đỗ Văn Hạo, mặc dù Trung y vẫn khá được coi trọng, nhưng thực tế số người theo học ngày một ít. Một phần cũng do yếu tố thị trường, mọi người đều có xu hướng muốn đơn giản, nhanh gọn, cái này thì Tây y hơn hẳn Trung y. Tây y bệnh gì nếu đơn giản thì cứ ra hiệu thuốc, mua đúng loại bệnh là được, vừa dễ mà vừa nhanh khỏi. Mặt khác, nguyên liệu cho Trung y ở thời hiện đại thì ngày một thiếu, chất lượng cũng không đảm bảo. Nhưng, điều khiến mọi người không đủ kiên nhẫn theo Trung y chính là sự rắc rối của phương pháp trị bệnh, sắc thuốc rồi uống thuốc. Việc chẩn mạch bằng tay dù là thầy thuốc giỏi đến mấy nhưng khi so với cái tai nghe của Tây y thì cũng không dám khẳng định rằng mình nghe đúng hơn.

Ngày thứ hai, sau khi uống thuốc đầy đủ, Bàng mẫu cơ bản đã khỏi hẳn, đã có thể xuống giường đi đi lại lại. Việc ăn uống nọ kia cũng đã dần trở lại như bình thường. Chờ đến tối, sau khi ăn uống xong xuôi, thấy cơ thể Bàng mẫu không có gì đáng lo ngại nữa vợ chồng Đỗ Văn Hạo mới cáo từ, lên đường về Ngũ Vị Đường.

Một ngày nữa lại trôi qua.

Sáng sớm hôm nay, Lâm Thanh Đại dậy rất sớm. Vừa rời giường nàng đã chuẩn bị đi đến rừng trúc ở hậu viện định đi vài đường quyền. Mở cửa phòng, nàng ngạc nhiên vô cùng khi thấy một tờ giấy được vứt ở ngoài cửa. Trên tờ giấy viết những dòng chữ nhỏ nhưng ngay ngắn như sau: “Hôm trước đệ đã đọc một phần bài thơ cho tỷ nghe rồi, phần còn lại của bài thơ đó như sau:

“Nhĩ nhược tằng thị diện bích đích cao tăng

Ngã tất thị điện tiền đích na nhất chú hương

Phần thiêu trứ

Bồi bạn quá nhĩ nhất đoạn tĩnh mục đích thì quang

Nhân thử, kim sanh tương phùng

Tổng an đắc hữu ta tiền duyến vị tẫn

Khước hựu ngận hoảng hốt

Vô pháp tử tế địa khứ phân biện

Vô pháp nhất nhất địa hướng nhĩ thuyết xuất.”

(Tạm dịch: Nàng nếu từng nghĩ sẽ làm một vị cao tăng

Ta nhất định sẽ đến đại điện thắp một nén nhang thành ý

Nhang cháy dần…

Ta sẽ được làm bạn với nàng trong một khoảng thời gi­an

Bởi vậy, nếu kiếp này có gặp lại

Cũng là vì duyên phận chúng ta còn gắn kết với nhau

Tuy có đắn đo

Biết mình khó mà đón nhận

Cũng không thể dễ dàng thổ lộ với nhau)

Lâm Thanh Đại đọc xong người chợt thấy nóng bừng lên. Nàng xoay người bước trở lại vào trong phòng rồi đóng cửa lại. Qua cửa sổ, Lâm Thanh Đại thấy Đỗ Văn Hạo từ trong thư phòng đi ra vội vàng cúi đầu ngồi xụp xuống ghế, người nóng bừng như thể vừa làm chuyện gì không tốt nên không dám nhìn thẳng vào người đối diện. Đến khi nhìn thấy vạt áo trường bào của Đỗ Văn Hạo đi xa dần khuất khỏi tầm mắt mình, rồi tiếng kẽo kẹt cánh cửa đóng mở vang lên, Lâm Thanh Đại mới vỗ vỗ ngực mình thở dài một cái. Nàng một lần nữa đọc những chữ cái dường như đang nhảy múa trên tờ giấy rồi thở dài.

“Ôi Văn Hạo, một đời hồng nhan Lâm Thanh Đại ta đã gắn bó với đệ. Ba cái dòng ngắn ngủi này làm sao mà đệ che được mắt ta. Tâm trạng ý tứ đệ thế nào chẳng lẽ ta lại không biết sao. Những lời đệ nói khiến tim ta loạn nhịp mất rồi”, Lâm Thanh Đại cười buồn. Nàng phóng tay buông rơi trường kiếm rồi buông mình ngã xuống giường, nhẹ nhàng đặt trang giấy với những câu thơ tình cảm lên ngực, sau đó nhắm nghiền hai mắt lại tận hưởng những phút giây hạnh phúc.

Là một người có thể nói là rất không may mắn, góa chồng khi chưa thực sự được làm vợ. Thế nhưng, lễ giáo cổ đại đã biến Lâm Thanh Đại thành một người cứng rắn, nàng tự đóng cửa lòng mình, chấp nhận số phận của mình để thờ chồng, chính xác hơn là thờ một thứ quan niệm cổ hủ của thời đại này. Thế nhưng, từ khi gặp Đỗ Văn Hạo, tư tưởng hiện đại của hắn đã ngày một ngấm vào những người sống cùng hắn, Lâm Thanh Đại cũng không phải là ngoại lệ. Cùng với y thuật cao thâm của hắn, đặc biệt là phẩm chất chân chính của một lương y đã thực sự khiến nàng phải động tâm. Không biết từ lúc nào, cánh cửa lòng của nàng đã trở nên yếu ớt trước sức ép mạnh mẽ từ bên trong, chỉ cần một tác động nhỏ, nàng có thể bùng nổ với những tâm trạng đã bị dồn nén bao lâu nay. Và thời điểm đó đã đến, chính là khi hai người ở với nhau dưới giếng khô. Kể từ đó, Lâm Thanh Đại đã thực sự trở lại với cuộc sống của một cô gái đang tuổi thanh xuân đẹp nhất của cuộc đời.

Khoảng lặng của Lâm Thanh Đại bị cắt ngang bởi tiếng gõ cửa. Lâm Thanh Đại thấp giọng che đi sự bực bội vì bị làm phiền không đúng lúc nói: “Ai đấy? “. Vừa nói, nàng vừa bước về phía cánh của để mở ra.

Chỉ thấy Đỗ Văn Hạo khuôn mặt tươi cười đang đứng trước cửa nhìn chăm chăm vào nàng, trên tay cầm hai cái nhu mễ cao (bánh bao hấp?) nóng hổi gói trong lá sen.

Lâm Thanh Đại bỗng chốc mặt đỏ dừ, ngập ngừng nói: “Đệ…Không phải đệ đã đi rồi sao?”

“Đệ cũng đi được một đoạn rồi, nhưng đi ra đến cửa thấy có người bán nhu mễ cao. Biết tỷ thích ăn món này nên đệ đã mua cho tỷ hai chiếc đây. Nào, đưa tay đây nào”. Nói xong, Đỗ Văn Hạo đặt hai chiếc nhu mễ cao vào tay Lâm Thanh Đại rồi quay người trực rời đi.

“Văn Hạo…”, Lâm Thanh Đại định nói câu gì đó, nhưng rồi lại ngập ngừng dừng lại.

“Có việc gì vậy?”

“Ừm, cũng không có gì. Thôi đệ mau mau vào cung bái kiến Hoàng Thượng đi. Nghỉ liền hai ngày rồi, không biết Hoàng Thượng có việc gì cần sai bảo không. Rồi còn các nương nương trong hậu cung, người bệnh nặng người bệnh nhẹ đang chờ đệ đến chẩn bệnh. Thôi đi mau đi”.

Đỗ Văn Hạo xoay người nhìn thẳng vào Lâm Thanh Đại cười: “Thì đệ đang định đi đây mà”, rồi hắn khoát tay vội vã rời đi.

Đợi đến khi bóng dáng của Đỗ Văn Hạo khuất hẳn, Lâm Thanh Đại mới để cho cảm xúc của mình bung tỏa. Nàng cúi đầu, hít hà cái hương thơm không thể cưỡng lại của cái nhu mễ cao gói trong lá sen. Rồi nàng thấy cay cay nơi sống mũi, một giọt lệ đã rơi ra đậu lên chiếc lá sen, theo gân lá chảy tận vào bên trong chiếc nhu mễ cao.

“Ngã nhược tằng thị na gi­ang nam thải liên đích nữ tử

Ngã hựu như hà xá đắc thác quá đích nhĩ giá nhất châm.”

Lâm Thanh Đại cao hứng lẩm bẩm hai câu thơ yêu thích, rồi quyết định lui về phòng đóng cửa lại.

Đỗ Văn Hạo lên kiệu đi vào hậu cung. Vừa vào đến nơi, hắn đã nghe nói Chu đức phi đang muốn tìm mình có việc gấp.

Hắn với Đức phi đã kết bái tỷ đệ. Đỗ Văn Hạo biết tỷ tỷ kết nghĩa của hắn nếu không có việc gì gấp chắc chắn sẽ không làm phiền hắn. Giờ nàng ta sốt ruột tìm hắn như vậy nhất định là đã có chuyện gì đó xảy ra rồi. Đỗ Văn Hạo vội vã bước lên tấm thảm đỏ dẫn vào Chu đức phi tẩm cung.

Chỉ thấy Chu đức phi đang mặc một bộ quần áo lụa mỏng màu xanh biếc, trang sức trên đầu kêu rinh rinh có thể nghe thấy từ xa. Nàng đang đứng trước cửa, chắc là biết hắn đến nên ra trước để chờ.

“Nương nương tìm ta có chuyện gì vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Chu đức phi ánh mắt khẩn trương, chính mình cũng tự nhủ cần phải đi nhanh hơn nữa.

Chu đức phi ra dấu cho những cung nữ và thái giám đứng gần đó lui cả ra, rồi kéo Đỗ Văn Hạo đến chỗ cái ghế đá dài kê dọc theo hành lang. Khi cả hai đã yên vị trên chiếc ghế đó, Chu đức phi thấp giọng nói: “Văn Hạo, Lưu quý phi bị bệnh rồi”.

“Lưu quý phi ý hả? Ha ha, nàng ta mà bị bệnh thì tự khắc sẽ có người sốt ruột, không nhọc tỷ tỷ làm ơn. Nhìn tỷ tỷ kìa, sao mà phải cấp bách sốt ruột thế. Nàng ta mà bệnh thì thái y sẽ đến kiểm tra chữa trị mà”, Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa nói.

“Nếu chỉ có thế thì ta cần gì phải tìm đệ gấp gáp thế này. Ta vội vàng muốn nói cho đệ biết là bởi vì chuyện còn liên quan đến cả Dụ tài nhân nữa. Dụ tài nhân bị cho là cố ý ngã lên người Lưu quý phi, khiến quý phi bị động thai. Giờ không biết có giữ được hài tử đó không nữa. Hoàng Thượng đang tức giận lắm đó”.

“Hài tử nào cơ?” Đỗ Văn Hạo cả kinh. Mấy ngày hôm trước chính hắn đã đi kiểm tra sức khở cho Lưu quý phi, rõ ràng thấy nàng ta không mang thai, thế thì lấy đâu ra hài tử trong bụng cơ chứ? Không hiểu chuyện này rốt cục là như thế nào đây?

“Lưu quý phi không phải là đang mang bầu sao? Buổi sáng hôm nay, không biết trời xui đất khiến thế nào mà Dụ tài nhân lại vào ngự hoa viên chơi. Ta nghe cái người luôn ở bên hầu hạ Hoàng Thượng Trữ công công nói nàng ta gặp Lưu quý phi. Rồi không biết nói nhau những gì mà một lúc sau thấy Lưu quý phi ngã lăn ra đất, kêu gào thảm thiết”.

“Tại sao lại như thế được? Thế thái y chẩn bệnh nói sao?” Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy vô cùng ngạc nhiên.

“Đó…điều tệ nhất là Thái y viện nữ khoa thái y thừa Hạ Cửu Bà sau khi khám xong thì nói Lưu quý phi trong bụng đang mang thai một hài tử trong khi chính đệ là người khẳng định Lưu quý phi không hề mang thai.

Giờ thì Đỗ Văn Hạo đã hiểu ra mọi chuyện. Rõ ràng hắn đã khám cho Lưu quý phi cẩn thận, nên mới để Dụ Cáp Nhi khẳng định chắc chắn nàng ta không mang thai. Vậy chẳng lẽ Lưu quý phi thông đồng với Hạ Cửu Bà muốn hãm hại Dụ Cáp Nhi sao? Dù sao Lưu quý phi ở trong cung cũng được một thời gi­an khá lâu rồi, tất nhiên sẽ có quan hệ tốt với Thái y viện nên không thể loại trừ khả năng này. Bảo sao Chu đức phi lại vội vã tìm hắn đến thế. huyện này nếu không giải quyết cẩn thận khéo sẽ thành to chuyện đây.

Nghĩ xong, Đỗ Văn Hạo nói với Chu đức phi: “Đa tạ tỷ tỷ. Ta biết rồi.”

“Văn Hạo, rốt cuộc là có chuyện gì đang xảy ra hả? Ta thì ta tin tưởng vào đệ, nhưng những gì Hạ Cửu Bà nói thì…Ta không biết nghĩ sao cho phải nữa”.

“Tỷ tỷ không cần lo lắng quá. Đệ đi ngay đây, đừng để người khác nhìn thấy đệ vào đây mà rồi liên lụy đến tỷ tỷ”, Đỗ Văn Hạo vừa nói vừa đứng dậy chuẩn bị rời đi.

Chu đức phi kéo tay Đỗ Văn Hạo nói: “Ta sợ cái gì đâu. Cứ nói đệ đến đây xem bệnh cho ta là được chứ gì. Nhưng tốt nhất đệ cũng nên đi đi. Mấy người tay chân của nương nương chắc chắn đã thấy đệ đi vào đây rồi. Thể nào Hoàng thượng cũng cho người truyền gọi đệ ngay thôi”.

Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy cảm động, đang định thi lễ cảm tạ Đức phi thì bỗng thấy một cung nữ vội vã chạy tới, chỉ ra ngoài cửa nói: “Nương nương, Hoàng thượng phái người đến tìm Đỗ đại nhân, lệnh cho Đỗ đại nhân phải lập tức đến đồng cung Lưu quý phi”.

Chu đức phi vỗ vỗ vào vai Đỗ Văn Hạo nói: “Thôi đi đi, đừng sợ gì cả. Trong cung còn có tỷ tỷ ta đây. Nếu có người muốn gây khó dễ cho đệ, bất quá ta sẽ đến tìm Thái Hoàng Thái Hậu với Hoàng Thái Hậu để cầu xin cho đệ”.

Đỗ Văn Hạo hướng về phía Chu đức phi nở nụ cười cảm kích rồi cất bước đi về phía cửa.

Hắn vội vàng chạy tới chỗ Lưu quý phi đồng cung. Còn chưa vào đến nơi, tai hắn đã nghe thấy tiếng kêu như heo bị chọc tiết của Lưu quý phi: “Ôi chao Hoàng thượng ơi, thần thiếp đau đến chết mất thôi. Nếu đúng là thần thiếp đã mất đi hài tử trong bụng thì thần thiếp cũng không muốn sống nữa. Tiểu…”

Đỗ Văn Hạo đi qua cánh cửa, chỉ thấy Lưu quý phi tóc tai xõa xượi áo sống xô lệch nằm trên giường. Tống Thần Tông ngồi ở phía trước giường, mặt đượm vẻ u sầu. Dụ Cáp Nhi đứng gần phía cửa. Cạnh nàng ta không ai khác mà chính là Hạ Cửu Bà của Thái y viện.

“Vi thần tham kiến Hoàng thượng”, Đỗ Văn Hạo tiến lên thi lễ.

Tống Thần Tông ngẩng đầu lên nhìn Đỗ Văn Hạo nhưng vẫn chưa nói gì. Nhưng Lưu quý phi vừa nhìn thấy hắn đã kêu lên một tiếng vừa dài vừa thảm thiết nghe rất bi thương. Tống Thần Tông thấy vậy thì nhíu mày, đứng dậy bước về phía Đỗ Văn Hạo, trầm giọng nói: “Đỗ ái khanh, có đúng là mấy ngày hôm trước chính khanh đã thăm bệnh cho Lưu quý phi nương nương không?”

“Khởi bẩm Hoàng thượng, đúng là năm ngày trước vi thần có qua thăm bệnh cho Lưu quý phi nương nương”, Đỗ Văn Hạo vừa nói vừa nhìn qua chỗ Lưu quý phi, chỉ thấy nàng ta quay đầu qua lại, tiếp tục kêu lên những tiếng bi thảm.

“Lúc đó, hình như khanh đã kết luận là Lưu quý phi không hề mang thai?” Tống Thần Tông nói, hung hăng nhìn chằm chằm vào Dụ Cáp Nhi.

Đỗ Văn Hạo nghiêm mặt nói mà không hề có chút do dự: “Đúng vậy. Lúc đó vi thần có nói với Lưu quý phi rồi. Bình thường thì nguyệt sự của người không đều và không hề có dấu hiệu đang mang thai long tử. Vi thần cũng có kê cho Quý phi một đơn thuốc giúp điều kinh”.

“Ta đã nói rồi, Quý phi thật sự không mang thai”, Dụ Cáp Nhi đứng gần đó thấp giọng nói.

“Ngươi câm miệng ngay cho ta”, Tống Thần Tông quát lớn. “Đỗ ái khanh, trẫm trước giờ vẫn tin tưởng vào y thuật của khanh, nhưng có khả năng nào là khanh lúc đó đã bắt mạch rồi chẩn bệnh nhầm cho Quý phi nương nương không?”

Đỗ Văn Hạo lãnh đạm cười một tiếng nói: “Tâu Hoàng thượng, nếu như ngay cả một hỉ mạch mà vi thần cũng không nhận ra thì vi thần quả không xứng để xưng làm ngự y”

Tống Thần Tông gật đầu, sắc mặt vẫn lộ rõ vẻ nửa tin nửa ngờ. Dù sao thì chuyện này cũng có dính dáng, liên lụy đến hài tử của chính mình. Tống Thần Tông liên tiếp đã có sáu bảy nam tử bị chết yểu nên ngài rất coi trọng sự an nguy khi có nương nương nào đó mang bầu.

Đỗ Văn Hạo dần hiểu ra mọi chuyện. Liếc mắt nhìn Lưu quý phi đang nằm trên giường, hắn cười nhẹ rồi cất tiếng: “Hoàng thượng, muốn biết Lưu quý phi có mang thai Long tử không vi thần có một biện pháp rất dễ dàng thực hiện.”

Tống Thần Tông lập tức nói: “Nói mau. Đơn thuốc gì cơ?”

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn Hạ Cửu Bà. Khi đến bên cạnh bà ta, hắn vừa cúi khom người vừa cất tiếng nói: “Bà nói Lưu quý phi đang mang bầu đúng không?”

“Đúng vậy”, Hạ Cửu Bà khẳng định một cách chắn chắn, rồi thản nhiên liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo lại đi về phía giường Lưu quý phi hỏi: “Mấy ngày trước khi ta kê đơn thuốc cho nương nương, nương nương có sử dụng qua chưa?”

“Rồi. Hạ đại nhân nói đơn thuốc mà ngươi kê đó một mặt có tác dụng làm hư thai!”

Tống Thần Tông nghe vậy chợt cau mày lại. Hành động này diễn ra rất nhanh, nhưng không thể qua mắt được Đỗ Văn Hạo. Trong lòng không khỏi bị chấn động, Tống Thần Tông trầm giọng nói: “Nói như vậy chứng tỏ rằng chính là vì đơn thuốc của Đỗ Văn Hạo mà Lưu quý phi nương nương bị sảy thai sao?”

“Chắc Đỗ đại nhân không cố tình mà chỉ bất cẩn chút thôi. Người nào trong cuộc sống cũng có lúc phạm phải sai lầm mà”, Hạ Cửu Bà nhìn Đỗ Văn Hạo cung kính trả lời.

Đỗ Văn Hạo xoay người đối mặt với Tống Thần Tông nói: “Vi thần tự tay kê đơn thuốc nên không thể không rõ về nó. Nếu thật sự là Lưu quý phi đang mang thai, như vậy đơn thuốc của vi thần quả thật là có hiềm nghi”.

Tống Thần Tông nghe xong thì nhíu đôi mày rậm lại có vẻ không hiểu gì: “Đỗ ái khanh nói thế là sao trẫm không hiểu?”

Lưu quý phi vẫn đang kêu rên thảm thiết trên giường nhưng vẫn luôn để ý không bỏ qua lời nào trong câu chuyện của bọn họ. Vừa nghe Hoàng thượng nói vậy, nàng ta lập tức ngồi dậy nói: “Hoàng thượng, thần thiếp sớm biết Dụ Cáp Nhi với Đỗ đại nhân có quan hệ không bình thường, ai ngờ họ câu kết dở trò. Bởi vì một lần, thần thiếp không cẩn thận nên lỡ lời nói nàng ta một câu rằng nàng ta đang diễn trò. Chắc là vì thế nên Dụ Cáp Nhi vẫn ghi hận thần thiếp. Hơn nữa, thần thiếp cũng có nghe thấy người khác nói Dụ Cáp Nhi muốn tìm người gây hại cho hài nhi trong bụng thần thiếp. Ôi Hoàng thượng ơi, hài tử mà không còn thì thần thiếp không còn muốn sống nữa. Ngài phê chuẩn cho thần thiếp được chết đi. Đằng nào cũng sẽ có người thay thế rồi, thần thiếp có chết cũng không oán trách mà.

Tống Thần Tông nghe xong những lời này của Lưu quý phi thì đôi lông mày đang nhíu chặt đã giãn ra được chút ít. Ngài quay sang nhìn Đỗ Văn Hạo cất tiếng hỏi: “Đỗ ái khanh, trẫm muốn nghe khanh giải thích mọi chuyện xem nào?”

Đỗ Văn Hạo thần sắc không hề thay đổi, khom người nói: “Là như thế này, thưa Hoàng thượng…”

“Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu nương nương giá lâm! Chu đức phi nương nương giá lâm!” bỗng từ ngoài cửa có thanh âm bén nhọn cất lên.

Mọi người cả kinh, vội vàng tách ra đứng sang hai bên khom người thi lễ. Tống Thần Tông vội vàng ra ngoài nghênh đón, quả nhiên thấy Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu cùng Hoàng Hậu nương nương. Ngoài ra lại còn có thêm Chu Đức phi nương nương đang bước nhanh đến. Nhóm hộ tống của Hoàng thái hậu dẫn đầu là Tiêu công công thì đi sau đó.

“Nãi nãi, sao người lại đến đây vậy?” Tống Thần Tông vội vàng tiến lên thi lễ. Trong phòng Lưu quý phi lúc này đã im bặt những tiếng kêu thê lương.

Thái hoàng thái hậu đi vào trong phòng, liếc mắt thấy Lưu quý phi đang nằm trên giường thì cất giọng hỏi: “Mọi chuyện thực ra là thế nào vậy?”

Lưu quý phi nghe Thái hoàng Thái hậu hỏi như vậy, định mở miệng nói điều gì đó nhưng lại bị Dụ Cáp Nhi đưa tay lên giữ chặt miệng lại khiến nàng không thể nói nên lời.

Thái hoàng Thái hậu đi tới chỗ Đỗ Văn Hạo, hỏi: “Ngươi nói xem có chuyện gì?”

“Bẩm Thái hoàng thái hậu, Lưu quý phi thật sự không mang thai. Hơn nữa, vi thần còn có biện pháp chứng minh cho kết luận này của mình”.

Thái hoàng Thái hậu nhìn hắn chăm chú trong chốc lát rồi gật đầu nói: “Ai gia tin tưởng ngươi không chẩn bệnh sai. Ngươi không cần phải lo lắng. Ngươi đứng sang một bên đi, Ai gia tự có lý luận của mình”.

“Vi thần tuân chỉ”, Đỗ Văn Hạo khom người nói.

Thái hoàng Thái hậu bước tiếp về phía Hạ Cửu Bà đang quỳ gần Hoàng thái hậu nói: “Hạ đại nhân, ngươi là thái y của Thái y viện. Mấy hài tử của Hoàng Thái hậu cũng đều do ngươi tiếp sinh đúng không?”

“Dạ đúng như vậy thưa Thái hoàng Thái hậu.” Hạ Cửu Bà kính cẩn trả lời.

“Ừ, nếu cũng đều là người của Thái y viện, loại chuyện này chúng ta hôm nay sẽ không thể không tra rõ ngọn ngành. Văn Hạo, ngươi mới nói có một đơn thuốc mang ra thử một lần, có thể biết ngay trong bụng Lưu quý phi có phải là đang mang hài tử hay không. Biện pháp đó là gì, hãy nói ra để mọi người cùng nghe một chút đi.”

“Vi thần tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo đáp lời Thái hoàng Thái hậu rồi thản nhiên nói tiếp, “nếu Lưu quý phi nương nương và Hạ đại nhân cùng nói là quý phi mang thai và hài tử trong bụng hiện không thể cứu được, vậy biện pháp của vi thần rất đơn giản, dùng đọa thai dược!” (Thuốc nạo thai đó bà con)

“Cái gì? Ngươi nói cái gì?” Hạ Cửu Bà nghe thấy vậy thì không nhịn được, kêu to lên, “thai nhi của quý phi nương nương chính là long thai đó…”

Thái hoàng Thái hậu phất tay nói: “Không cần lo lắng, Ai gia cảm giác là có thể, nếu không thể giữ được vậy đằng nào cũng thế thôi, đây chính là biện pháp tốt nhất để chứng minh Đỗ Văn Hạo trong sạch.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy vô cùng cảm kích Thái hoàng Thái hậu, chắp tay tạ ơn rồi chỉ lên đầu mình nói: “Tạ ơn Thái hoàng Thái hậu, vi thân nguyện ý lấy đầu mình đảm bảo. Nếu sau khi dùng đọa thai dược, Quý phi nương nương sản ra hài tử, vi thần lập tức tự sát để tạ tội!”

“Tự sát? Ngươi cũng khôn đấy nhỉ!” Lưu quý phi đầy giọng oán hận nói, “Mình ngươi chết là đủ sao? Không mang cửu tộc nhà ngươi tru diệt thì làm sao có thể hả hết mối hận trong lòng ta?”

“Vi thần chấp nhận mọi sự trừng phạt!” Đỗ Văn Hạo lạnh lùng trả lời, “bất quá, đây là vi thần dùng tính mạng của người thân thích, họ hàng của mình ra đánh cược thì phải đảm bảo tuyệt đối công bằng. Vi thần kính đề nghị Thái hoàng Thái hậu chỉ định một người làm trọng tài, đồng thời cũng xin Thái hoàng Thái hậu cắt cử người tiến hành giới nghiêm toàn diện nơi tẩm cung của quý phi nương nương, nghiêm cấm không cho ai ra vào cho đến khi kết quả cuối cùng được công bố để tránh có người giở trò. Mặt khác, cũng mời mấy bà đỡ ở ngoài cung vào để làm chứng cho khách quan, những người này sẽ đồng thời kiểm tra hạ vật của nương nương, xác định xem đó có phải là thai nhi hay không!”

Lưu quý phi nghe vậy thì trợn ngược lên, hung tợn nói: “Thúi lắm! Ý ngươi đây là…”

Thái hoàng Thái hậu lập tức khoát tay chặn lại, thản nhiên nói: “Chủ ý này cũng có lý! Sự tình đến mức này rồi thì cứ làm như vậy đi, dù sao Đỗ đại nhân cũng đã mang cửu tộc của mình ra đảm bảo rồi. Vậy chuyện này cứ gi­ao cho Hoàng hậu nương nương phụ trách làm đi, Hoàng Thượng nghĩ thế nào?”

Đỗ Văn Hạo chữa trị khỏi căn bệnh hành hạ Hoàng hậu cả chục năm trời, khiến nàng lại được sự ân sủng của Hoàng Thượng. Hoàng hậu đối với hắn muốn cảm kích rơi nước mắt, đương nhiên tình cảm thân thiết với hắn sẽ không ở mức bình thường. Thái hoàng Thái hậu tiến cử Hoàng hậu đương nhiên có tính đến việc này và đây cũng là việc khiến Đỗ Văn Hạo thêm phần cảm kích Thái hoàng Thái hậu.

Tống Thần Tông đương nhiên đối với Thái hoàng Thái hậu nói sao nghe vậy, càng huống chi Hoàng Thượng cũng muốn kết quả chính thức, nên không phải đối gì: “Được, nếu lão tổ tông cũng đã nói như vậy thì cứ theo đó mà tiến hành đi.”

Thái hoàng Thái hậu gật đầu rồi nói: “Trước khi tiến hành việc này, cũng cần phải nói rõ thêm, Đỗ Văn Hạo, theo ngươi thì chuyện này khi nào có thể tra rõ xong?”

“Hôm nay dùng đọa thai dược thì trong vòng ba ngày nhất định có kết quả.” Đỗ Văn Hạo nói rồi lại quay sang Hạ Cửu Bà nói: “Hạ đại nhân, ngươi có ý kiến gì không?”

Hạ Cửu Bà cũng không dám nói lung tung, cái trán mồ hôi lạnh lấm tấm, run run giọng nói: “Cái này…đại…Đỗ đại nhân nói không sai.”

Tống Thần Tông cũng không để ý nhiều, hướng hai người Đỗ Văn Hạo và Hạ Cửu Bà nói: “Trong mấy ngày này Đỗ ái khanh và Hạ ái khanh không thể rời khỏi kinh thành, sẽ có người thủ hộ hai ngươi, tạm thời hai ngươi chịu ủy khuất một chút vậy.”

“Dạ bẩm Hoàng Thượng, vi thần thì không sao, nhưng chỉ sợ là bệnh của Tư Mã đại nhân không thể chậm trễ được.” Đỗ Văn Hạo vẫn cẩn thận nói.

“Không sao, chờ một chút không có vấn đề gì, lâu như vậy còn đợi được, giờ chỉ có ba ngày thôi, không phải lo lắng.”

Thái hoàng Thái hậu cũng tiếp lời: “Được rồi, cứ quyết như vậy đi, Đỗ đại nhân, ngươi mau mau cấp thuốc cho quý phi nương nương đi.”

“Vâng!” Đỗ Văn Hạo khom người đáp ứng.

Lưu quý phi lúc này mới thực sự hoảng sợ, lắp ba lắp bắp nói: “Thái hoàng Thái hậu…”

“Không cần phải nhiều lời! Ai gia đã quyết định làm như vậy rồi, không còn gì để bàn nữa.” Thái hoàng Thái hậu đứng dậy, quay đầu lại nhìn Lưu quý phi một chút, thấy ánh mắt nàng ta lộ rõ vẻ bối rối thì không khỏi cười lạnh một cái. Sau đó bà quay sang Hoàng hậu nương nương nói: “Nơi này giờ gi­ao cho ngươi cùng tiểu Tiêu tử, phải nhớ rõ, cho dù là một con chuột nhắt cũng không được phép tới gần quý phi nương nương.”

“Vâng!” Hoàng hậu nương nương và thái giám tổng quản Tiêu công công đồng loạt khom người đáp ứng.

Thái hoàng Thái hậu đi tới bên người Đỗ Văn Hạo, nhẹ nhàng vỗ vỗ bờ vai của hắn rồi dẫn theo Dụ Cáp Nhi dời đi.

Hạ Cửu Bà vừa thấy bóng đoàn người của Thái hoàng Thái hậu rời đi khỏi tầm mắt th vội vàng hướng Tống Thần Tông nói: “Hoàng Thượng, việc này không công bằng chút nào, thân thể Lưu quý phi bây giờ vô cùng bạc nhược, làm sao có thể chịu đựng được sự dằn vặt của thuốc đọa thai, hay là trước hết cứ tìm cách chữa khỏi bệnh cho nương nương đã?”

“Không nói nhiều nữa, làm theo ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu!” Tống Thần Tông thậm chí còn không buồn liếc mắt nhìn Hạ Cửu Bà một cái, phất tay áo bào rời đi ra cửa.

Lưu quý phi tuyệt nhiên không hề nghĩ mọi chuyện lại phát triển thành cái dạng này, vừa hận vừa sợ, bi thảm cất tiếng khóc xé gió gọi Hoàng Thượng: “Hoàng Thượng, Hoàng Thượng, người đừng đi, xin người đừng đi, người đi thần thiếp sẽ không sống được nữa đâu. Thái hoàng Thái hậu rõ ràng là thiên vị Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi, chính bụng của thần thiếp, thần thiếp phải biết rõ hơn người khác chứ?”

Tống Thần Tông nghe vậy thì dừng cước bộ, ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, nhưng không hề quay mặt lại, nói một câu: “Thái hoàng Thái hậu mang theo Dụ Cáp Nhi chính là vì không muốn cho nàng ta và Đỗ Văn Hạo có cơ hội tiếp xúc với nhau, ngươi không nên suy nghĩ nhiều. Nếu Thái hoàng Thái hậu đã để cho Hoàng hậu trông nom chuyện này, trẫm cảm giác không có gì gọi là không công bằng cả. Ngươi cứ yên tâm mà tĩnh dưỡng đi, nếu thật sự có người nghĩ muốn hãm hại hài tử của trẫm, trẫm quả quyết không buông tha, nhưng nếu không phải…” giọng Tống Thần Tông trở nên chậm rãi, chắc nịch, “trẫm cũng không để cho Đỗ ái khanh phải chịu ủy khuất!”

Dứt lời, Tống Thần Tông phất tay áo dứt khoát rời đi.

Hoàng hậu đợi cho Hoàng Thượng đi hẳn mới quay sang bọn cung nữ thái giám của Lưu quý phi, trợn mắt quát: “Còn không cuốn xéo ra khỏi đây? Chẳng lẽ các ngươi muốn bổn cung đem cả lũ ra đánh sao?”

Nghe lời này, cả đám nam nữ lập tức ôm đầu cúi người chạy ra như ong vỡ tổ.

Hoàng hậu khẽ phất tay lên một cái, lập tức đội cận vệ của Thái hoàng Thái hậu tự động tản ra, cứ ba bước một tốp, năm bước một trạm gác, đem tẩm cung của Lưu quý phi nương nương vòng trong vòng ngoài vây kín lại.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã viết xong đơn thuốc cho đọa thai dược, đưa cho Hạ Cửu Bà xem qua, xác nhận không có nhầm lẫn gì mới gi­ao cho viện thị ngự dược viên đi lấy thuốc, rồi sắc cẩn thận để mang tới cho Lưu quý phi.

Nhìn chén thuốc đọa thai trước mặt, Lưu quý phi đầy vẻ đáng thương đưa mắt nhìn Hoàng hậu, trong đầu suy nghĩ mọi cách làm sao để từ chối không uống chén thuốc này. Thế nhưng Hoàng hậu lạnh lùng nói: “Cho ngươi hai lựa chọn. Thứ nhất là tự mình đổ thuốc vào miệng mà uống, thứ hai là để người khác giúp ngươi uống.”

Để người khác giúp đương nhiên là trói giữ chân tay, mạnh mẽ bức há miệng rồi đổ thuốc vào, cái này chẳng sung sướng gì, kết quả cuối cùng vẫn là phải uống. Lưu quý phi hiển nhiên hiểu không còn cách nào khác nên bưng chén thuốc lên với vẻ mặt đau khổ cố gắng nuốt bằng hết.

Lúc này Đỗ Văn Hạo với mỉm cười, chắp tay sau lưng rời đi.

Trong phòng, Hạ Cửu Bà đứng dậy, đang muốn hướng tới bên giường Lưu quý phi thì nghe tiếng Hoàng hậu lạnh lùng: “Ngươi muốn làm gì? Ngươi mà bước gần thêm một bước nữa bổn cung sẽ kêu người dùng côn đánh tới chết!”

Hạ Cửu Bà nghe vậy thì vô cùng hoảng sợ, trong cung không ai là không biết tính tình của Hoàng hậu nương nương. Mặc dù hiện giờ căn bệnh của Hoàng hậu đã khỏi, nhưng không ai dám chắc cái tính nóng nảy bạ đâu đánh đó ngày trước đã khỏi hay chưa. Chính vì vậy, cẩn tắc vô áy náy, cứ giữ lấy cái mạng nhỏ của mình đã. Hạ Cửu Bà nghĩ vậy thì vội vàng lùi lại mấy bước, chỉ dám đưa mắt liếc nhìn Lưu quý phi, tỏ rõ sự bất lực.

Hoàng hậu nương nương chỉ vào Hạ Cửu Bà nói: “Người đâu, mang nàng ta ra ngoài, trông coi thật kỹ cho ta, nếu để xảy ra sơ suất gì thì bổn cung sẽ hỏi tội các ngươi.”

Hoàng hậu sau khi đuổi hết tất cả mọi người của Lưu quý phi ra ngoài, lại sai kiểm tra kỹ lưỡng còn ai hay không, có phát hiện dị thường gì hay không, bố trí cảnh giới đâu đó rồi mới quay sang Tiêu công công nói: “Nơi này giờ gi­ao cho ngươi trông coi, Thái hoàng Thái hậu nói ngươi cũng đã nghe thấy rồi, xảy ra chuyện gì thì cả hai chúng ta đều không thoát đâu, khi ngủ cũng cố gắng mở mắt ra mà nhìn nàng ta! Có chuyện gì thì lập tức báo cho bổn cung.”

Tiêu công công kính cẩn tuân lời.

Hoàng hậu sau đó cũng rời đi khỏi phòng.

Chương 298: Nham biến (căn bệnh ung thư).

Gởi bởi người có lòng!

Tiêu công công hướng Lưu Quý phi nói: “Nương nương xin hãy tạm nghỉ ngơi tại đây một lát, lão nô chờ ở ngoài phòng hậu dụng, có chuyện gì xin nương nương cứ gọi.”

Lưu Quý phi hừ một tiếng rồi mát mẻ nói: “Ai dám làm phiền Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng hậu cơ chứ? Ta đâu dám để nô tài cao quý các ngươi chiếu cố đây?”

“Nương nương, thôi thì để mọi chuyện ổn thỏa, trước khi mọi chuyện rõ thực hư trắng đen, người cứ để đám nô tài chúng ta ở đây hầu hạ nương nương, mong nương nương chiếu cố.”

Lưu Quý phi nghe vậy thì khẽ giãy dụa ngồi dậy từ trên giường, tóc tai bù xù trông như một Mẫu Dạ Xoa, hai mắt trợn tròn hướng về phía Tiêu công công quát to lên: “Cái gì? Ngươi nói cái gì? Các ngươi sẽ hầu hạ ta sao? Ngay cả những thiếp thân cung nữ của ta cũng sẽ bị đuổi đi hết sao? Rõ ràng là ta bị ủy khuất, thế mà ta lại bị đối xử như là tội nhân vậy!”

Tiêu công công vẫn rất bình tĩnh. Ông ta không tỏ vẻ kiêu ngạo nhưng cũng không hề siểm nịnh Lưu Quý phi chút nào. Cúi khom người xuống, ông ta cất giọng: “Thiếp thân cung nữ của nương nương tạm thời không thể hầu hạ nương nương mấy ngày này, tạm thời thì cung nữ Ôn Bà của Hoàng hậu sẽ giúp nương nương. Nàng ta hầu hạ cũng tốt lắm, nương nương đừng lo”. Vừa nói, ông ta vừa vỗ tay mấy cái. Tức khắc từ ngoài cửa đi vào một người. Đó là một nữ tử cao lớn, vừa vào đã cất tiếng nói thô thô chào một tiếng “Nương nương”.

Lưu Quý phi thấy vậy thì ngẩn người ra. Đang định lên tiếng kêu gào thì thấy Ninh công công tay cầm phất trần, vẻ mặt vui vẻ bước vào, nàng ta bèn im bặt. Ôn Bà thấy Ninh công công bước vào thì cũng vội vàng bước sang một bên rồi khoanh tay đứng im đó.

Tiêu công công cùng Ninh công công đưa ánh mắt nhìn nhau một chút, rồi Tiêu công công nói: “Tốt lắm, ta sẽ đi xem còn có cái gì cần chuẩn bị nữa không. Ninh công công, ngài đến đây thật là tốt quá”. Nói xong, ông ta quay sang Ninh công công cười chào rồi bước đi ra cửa.

“Ninh công công, ông tới vừa đúng lúc lắm. Mau mau giúp ta đuổi mụ cung nữ hung thần ác sát này đi với. Ta không cần cung nữ nào khác đâu, chỉ muốn cung nữ của ta thôi. Ngươi đi nói với Hoàng thượng cho ta, tình cảnh của ta hiện giờ vốn rất đáng thương mà. Hài tử cũng không còn, vậy mà bọn họ còn đối xử với ta như vậy”. Lưu quý phi bù lu bù loa khóc tướng lên nói với Ninh công công, mong tìm được một sự trợ giúp nào đó.

“Nương nương hiện nay Hoàng thượng trong người cũng không được khỏe. Những chuyện thế này nô tài quả thật không dám làm phiền đến Hoàng thượng, mong nương nương thông cảm cho nô tài”, Ninh công công vẫn bình tĩnh, nhẹ nhàng đáp lời.

Lưu Quý phi vừa nghe xong tinh thần đã thấy rúng động, vội vàng hỏi: “Hoàng thượng có phải đang đau lòng cho ta không?”

“Đúng vậy, Hoàng thượng đương nhiên là rất đau lòng, nhưng lúc này người còn phải nhìn ý tứ của Thái hoàng Thái Hậu. Hoàng thượng dù sao cũng không thể bất hòa với Lão tổ tông của người được, nương nương nghĩ xem có đúng không ạ?” Ninh công công vừa nói vừa cười, đi tới bên giường Lưu Quý phi ngồi xuống.

Lưu Quý phi nghe xong những lời này nhất thời như bị chấn động tinh thần, co quắp ngồi liệt ở trên giường, mắt rưng rưng chuẩn bị khóc òa lên lần nữa. Ninh công công thấy thế, sợ rằng Lưu Quý phi sắp sửa khóc rống lên liền vội vàng đứng dậy, lùi ra xa một chút, khuôn mặt tươi cười rồi cất tiếng nói: “Hôm nay nô tài đến là muốn nói cho nương nương hay biết Ôn Bà là người do Hoàng Hậu chọn lựa và gửi đến đây hầu hạ nương nương. Hoàng Hậu sợ nương nương trong người đang không khỏe, đứng dậy, đi lại khó khăn nên phải chọn người to khỏe một chút. Ôn Bà sức khỏe hơn người, có thể nâng cả tảng đá nặng hai trăm cân ý chứ nên chắc sẽ hầu hạ được nương nương rất tốt. Nương nương không phải lo lắng nhiều đâu, cứ yên tâm nghỉ ngơi tĩnh dưỡng thôi”. Nói xong, ông ta phẩy tay, đảo phất trần rồi xoay người bước đi, mặt vẫn còn tủm tỉm cười.

Đi ra đến ngoài cửa, Ninh công công lập tức trầm mặt, kêu hai thái giám canh cửa cùng Ôn Bà đến rồi thấp giọng dặn dò: “Các ngươi làm việc cho nghiêm túc. Nếu có chuyện gì không hay xảy ra thì các người khó mà giữ được mạng sống của mình đó”.

“Nô tài hiểu rồi ạ”, tên thái giám nói.

“Nô tỳ hiểu ạ”, Ôn Bà cũng vội đáp lời.

Ninh công công đi xuống cầu thang. Trước khi rời đi, ông ta quay đầu, nhìn lại cửa phòng Lưu Quý phi cười lạnh một tiếng rồi thấp giọng tự nhủ: “Ngươi nghĩ ngươi là ai cơ chứ. Đỗ Văn Hạo thì là ân nhân của ta, tài nhân cũng đã cùng ta kết bái huynh muội! Ngươi mở to mắt xem đã chọc vào ai. To gan thật”, vừa nói, ông ta vừa nghênh ngang bước đi.

Đỗ Văn Hạo về nhà, phía sau hắn hôm nay có thêm mười mấy thị vệ. Ngày thường, Đỗ Văn Hạo luôn biết lấy lòng tất cả mọi người. Hắn thậm chí còn bỏ công xem bệnh miễn phí cho các thị vệ lẫn người nhà họ nên bọn họ đối với hắn ta luôn rất cảm kích. Hôm nay, tuy những thị vệ này đang làm cái việc canh giữ hắn, nhưng suốt dọc đường đi, bọn họ cùng Đỗ Văn Hạo nói chuyện rất vui vẻ. Cười cười nói nói một lúc đã về đến nhà.

Thủ lĩnh thị vệ vui vẻ vuốt cái bụng mình nói: “Đỗ đại nhân, tuy chúng ta đang làm việc thật nhưng bụng thì đói lắm rồi. Chúng ta chẳng ý tứ gì đâu, Đỗ đại nhân đừng có tiếc chúng ta chút thịt rượu đấy nhá”.

Đỗ Văn Hạo cười to nói: “Ngày thường bao người trong nhà chẳng có ai chịu tiếp rượu ta cả, hôm nay các ngươi tới thật tốt quá, ta có cơ hội thỏa mãn cơn thèm rượu của mình rồi. Vậy chẳng phải hay lắm sao?”

Mọi người nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì đều phá lên cười, nói: “Thế thì chúng ta phải cho Đỗ đại nhân sảng khoái một bữa mới được. Mười mấy huynh đệ hôm nay coi như nghỉ ngơi đi, chúng ta cùng Đỗ đại nhân thư giãn một bữa cho thật thoải mái nào”.

“Không có vấn đề gì. Chúng ta đi thôi”, Đỗ Văn Hạo nói rồi mời mọi người vào nhà.

Người ở Ngũ Vị Đường bỗng chốc thấy quan binh ở đâu đến nhiều như vậy thì bất ngờ, chưa biết phản ứng thế nào. Lâm Thanh Đại đang muốn tiến lên hỏi bỗng thấy Đỗ Văn Hạo cũng có mặt trong đám quan binh đó, tay còn bá vai, bá cổ mọi người, vừa đi vừa cười cười nói nói rất chi là vui vẻ.

“Văn Hạo, là khách của ngươi mời đến à?” Lâm Thanh Đại tiến lên hỏi Đỗ Văn Hạo.

“Tỷ mau mau vào kêu Cầm nhi thu xếp cho ta mười gi­an phòng hảo hạng để các vị huynh đệ đây nghỉ ngơi. Sau đó xuống nói nhà bếp chuẩn bị những món ăn ngon nhất, đem cùng những vò rượu hảo hạng nhất lên đây cho ta”.

Lâm Thanh Đại thấy nhiều người như vậy nên không tiện hỏi thêm. Tuy rất tò mò nhưng cũng đành bỏ đấy, vội chạy vào hậu viện chuẩn bị những việc mà Đỗ Văn Hạo vừa gi­ao phó.

Ba ngày sau đó, trong cung cử người kêu Đỗ Văn Hạo vào ngay, nói Lưu Quý phi có chuyện.

Đỗ Văn Hạo ngay lập tức lên đường vào cung. Thái hoàng Thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng thượng, Hoàng Hậu, Dụ Cáp Nhi cùng Hạ Cửu Bà, tất cả những người liên quan đều đã có mặt đầy đủ.

Thái hoàng Thái hậu hòa ái hướng về phía Đỗ Văn Hạo vẫy tay nói: “Đỗ Văn Hạo, Ai gia đang chờ ngươi đó. Mau đến đây ngồi cạnh Ai gia đi”. Đỗ Văn Hạo vội vàng đi về phía Thái hoàng Thái hậu đang chỉ, bên kia người là chỗ của Hoàng thượng và Dụ Cáp Nhi.

Đỗ Văn Hạo tiến lên thi lễ chào Thái hoàng Thái hậu cùng mọi người, sau đó mới đi đến chỗ ngồi mà Thái hoàng Thái hậu dành cho mình.

“Tốt lắm, vậy là mọi người đều đã đến đông đủ cả rồi, Hoàng Hậu, ngươi có thể bắt đầu việc của mình rồi”, Thái hoàng Thái hậu quay về phía Hoàng Hậu nói.

“Dạ bẩm Lão tổ tông xin người chờ chút. Con sẽ kêu người mang những gì mà Lưu Quý phi thải ra ngay đây”, Hoàng Hậu sau khi nói xong câu này thì vội vàng móc từ trong túi ra một cái khăn thơm bịt kín mũi của mình lại.

Ngay sau đó, một người cung nữ nhưng bộ dạng có vẻ đã già từ trong nội thất cung Lưu Quý phi đi ra, theo sau bà ta là hai cung nữ khác. Một người trong họ cầm một cái thùng gỗ. Từ trong thùng bốc ra một mùi hôi thối vô cùng kinh tởm khiến tất cả mọi người trong phòng đều không thể chịu nổi. Tống Thần Tông vội lấy tay bịt mũi, tay kia phất phất như muốn xua cái mùi khó chịu đó đi, chán ghét nói: “Các ngươi mang cái này vào đây làm gì, không mau vứt ngay đi, thối chết người đi được”.

Thái hoàng Thái hậu cau mày, bịt kín mũi nói: “Chớ vội. Hoàng thượng cũng cố nhịn một chút, hôm nay dù gì cũng phải làm rõ trắng đen mọi chuyện mới được”.

Hoàng Hậu lúc này đang cố đứng gần cửa cho đỡ mùi, lên tiếng nói: “Hoàng thượng, trong cái thùng đó là tất cả những gì thải ra từ trong bụng Lưu Quý phi trong ba ngày qua”.

“Nhanh nhanh nói rõ ra xem nào. Đừng có dài dòng như thế, Ngươi muốn đầu độc tất cả mọi người ở đây sao”.

Hoàng Hậu cười trộm: “Vâng, mấy ngày hôm nay Ổn Bà là người hầu hạ Lưu Quý phi rất cẩn thận, tất cả những gì Lưu Quý phi thải ra đều được cất giữ trong cái thùng này. Hay là để bà ta nói cho công bằng”.

“Được rồi ai nói cũng được. Mau lên không ta sắp không chịu được nữa rồi”.

Ổn Bà nghe vậy vội vàng tiến lên phía trước, dập đầu nói: “Khởi bẩm Hoàng thượng, lão thân cùng năm cung nữ khác được Hoàng Hậu sắp xếp cho đến đây hầu hạ Lưu Quý phi, trong ba ngày đêm vừa rồi đã cố gắng hết sức hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trong mấy ngày đó không hề thấy nương nương bị đau bụng hay làm sao. Tất cả những thứ nương nương thải ra cũng không thấy có gì bất thường, không có dấu hiệu gì của thai nhi cả”.

“Các ngươi đã kiểm tra thật cẩn thận chưa đấy?” Thái hoàng Thái hậu nghiêm giọng, lên tiếng hỏi.

Nhận thấy thái độ đã có chút nghiêm trọng hơn mức bình thường của Thái hoàng Thái hậu, Ổn Bà vội vàng xoay người về phía Thái hoàng Thái hậu run run nói: “Lão thân thật không dám có chút sơ suất nào. Hàng ngày lão thân đều một mực chăm chú để ý đến Lưu Quý phi, một khắc cũng không dám rời. Lưu quý phi mà có kêu ca gì lão thân chắc chắn sẽ biết ngay lập tức. Nhưng thật sự là không có ạ”.

“Nếu như vậy, chúng ta đi ra chỗ nào khác nói chuyện thôi. Gi­an phòng này ô uế mùi không thể chịu được. Cho mang cái thứ uế vật kia đi ngay đi”, nói xong, Thái hoàng Thái hậu đứng ngay dậy, quay sang Đỗ Văn Hạo mỉm cười ra điều khích lệ rồi đưa tay khoát hắn đi theo, sau đó quay sang nhìn Tống Thần Tông một chút, rồi bước nhanh đi ra ngoài.

Tất cả mọi người cũng vội vàng đứng dậy đi theo Thái hoàng Thái hậu. Bước ra đến ngoài, Thái hoàng Thái hậu hít hà không khí tươi mát bên ngoài rồi lập tức sai cung nữ đóng cửa cung Lưu Quý phi lại cho thối khí khỏi bốc ra ngoài.

Thái hoàng Thái hậu dẫn mọi ngừơi tới ngồi ở Lương Đình Hạ. Tống Thần Tông thấy Hạ Cửu Bà đứng buông thong, nhưng không thấy rõ lắm vẻ mặt, nhân tiện nói: “Hạ Cửu Bà tiến lên đây ta hỏi chuyện”.

“Vâng, Hoàng thượng”, Hạ Cửu Bà nghe Hoàng thượng nói vội vàng tiến lên phía trước.

“Mới đó những gì Ổn Bà nói ngươi có nghe rõ không”.

Hạ Cửu Bà vội vàng quỳ phục trên mặt đất nói: “Hoàng thượng thứ tội, tất cả đều là lỗi của vi thần. Là do vi thần chẩn bệnh không đúng, vi thần tội đáng chết vạn lần”.

Dụ Cáp Nhi vừa cười lạnh vừa nói: “Hừ, Hạ Cửu Bà, lúc trước không phải ngươi một mực cam đoan trong bụng Lưu Quý phi có hài tử sao? Đỗ đại nhân còn hỏi lại ngươi thật cẩn thận, ngươi vẫn một mực khẳng định như vậy. Chính ngươi nói vì ta không may xô ngã nàng ta và vì Đỗ đại nhân cho nàng ta dùng Đọa thai dược nên nàng ta mới bị xảy mất hài tử trong bụng, có đúng như vậy không? Thế sao lúc đó ngươi không nói vi thần đáng chết mấy câu đầy vẻ thương hại này đi”.

“Vi thần…vi thần không biết ạ, chắc vi thần tuổi già vụng về nên chẩn bệnh không chính xác, mong nương nương rộng lượng mà…”

“Nếu tuổi già vụng về thì sẽ không muốn đi hại người như vậy. Ngươi hưởng bổng lộc của Hoàng thượng, vậy mà lại làm cái chuyện vô lương tâm này. Nếu không phải nhờ Đỗ đại nhân nghĩ ra cách kiểm tra như thế này thì chẳng phải mục đích xấu xa của ngươi đã thành hiện thực rồi sao?”

“Dụ Cáp Nhi”, Thái hoàng Thái hậu làm bộ nghiêm khắc mà trừng mắt nhìn Dụ Cáp Nhi một cái. “Mau lui ra, Hoàng thượng còn chưa lên tiếng ngươi đã ba hoa gì cơ chứ?”

“Dạ vâng”, Dụ Cáp Nhi nghe vậy bèn không nói năng thêm gì nữa, từ từ thối lui đứng sang một bên.

Tống Thần Tông trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Nói như vậy thì tất cả là do Hạ Cửu Bà chẩn bệnh nhầm, còn Đỗ ái khanh đã bắt đúng bệnh, có đúng không?”

“Dạ, đúng như thế ạ”, Hạ Cửu Bà lúc này mới dám ngẩng đầu lên một chút trả lời câu hỏi của Tống Thần Tông.

Đỗ Văn Hạo ngồi một bên một mực yên lặng không nói câu nào. Kỳ thực, hắn sớm biết mọi chuyện sẽ xảy ra như thế này. Bình thường lúc trước Dụ Cáp Nhi dù có nói trời nói biển gì hắn cũng không mấy khi để tâm, mà quả thật lúc đó hắn cũng chẳng còn lòng dạ nào để nghe cả, nhưng bây giờ, càng ngày hắn càng nhận ra Dụ Cáp Nhi không phải là loại người thích dành ân sủng tranh đoạt quyền. Nàng mới vào cung trong một thời gi­an ngắn, có vẻ cũng được lòng mọi người nhưng tại sao lại gây thù chuốc oán gì với Lưu Quý phi để nàng ta phải nhằm đích xác Dụ Cáp Nhi mà hãm hại như vậy. Nhưng nghĩ lại, hành động của Lưu Quý phi nếu thành công thì quả thật là một mũi tên mà trúng hai đích, vừa đánh được Dụ Cáp Nhi mà còn hạ được cả hắn nữa. Có thể do Lưu Quý phi biết hắn cùng Dụ Cáp Nhi cùng có mặt trong chuyến đi đến Đông Minh nên cho rằng hắn cùng Dụ Cáp Nhi là một phe. Giờ mà hạ được cả hai một lúc thì không phải là quá tốt sao? Ôi lòng dạ của độc phụ này quả thật là hiểm ác.

“Văn Hạo, tại sao khanh cứ ngồi im không nói năng câu nào vậy?” Thái hoàng Thái hậu thấy Đỗ Văn Hạo ngồi im một bên thì lên tiếng hỏi.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chuyện được giải quyết rõ ràng như vậy thì tốt quá rồi. Nếu như lỗi không phải của thần với Dụ nương nương thì thần cũng có gì để nói đâu”.

Đỗ Văn Hạo không nói bởi vì hắn biết làm thái y mắc sai lầm đôi lúc vẫn có thể chấp nhận được. Vậy nên lần này Hạ Cửu Bà đã đứng ra giúp Lưu Quý phi thoát khỏi chuyện này rồi. Hắn cũng không muốn làm mọi chuyện ầm ĩ hơn vì hắn thật ra cũng không có chứng cớ gì chống lại Lưu Quý phi cả. Vậy nên tốt nhất là im lặng, chẳng dại gì chuốc thêm họa vào thân.

Tống Thần Tông đứng dậy nói: “Vậy là chuyện đã rõ ràng rồi, Đỗ ái khanh cũng đã giải được nỗi oan khuất. Hạ Cửu Bà chẩn bệnh sai, nói năng lung tung đúng là đáng ghê tởm. Phạt đánh Hạ Cửu Bà năm mươi trượng, cắt bổng nửa năm. Lưu Quý phi chưa rõ mọi chuyện đã đổ lỗi cho Đỗ ái khanh, đúng là không nên, phạt lệ ngân ba tháng, chuyển chỗ đó thưởng cho Đỗ ái khanh.”

Hạ Cửu Bà vội vàng dập đầu tạ ơn. Quân thần trong cung là thế đó, dù Hoàng thượng có ban thưởng hay phạt thì cũng vẫn là ân điển của Hoàng thượng. Có bị phạt nặng chừng nào đi chăng nữa thì cũng vẫn phải tạ ơn.

Sáng sớm ngày thứ hai, tại phủ đệ tiền Tư Mã Quang.

Mội cỗ xe lớn đang dừng trước cửa. Mấy nữ nhân dùng xe đẩy đẩy Tư Mã Quang từ trong phủ ra. Đây là những nữ nhân làm y tá trong Ngũ Vị Đường của Đỗ Văn Hạo. Gần đây, Ngũ Vị Đường đã được sửa sang, có thể gọi đó là một phòng giải phẫu chính thức nên Đỗ Văn Hạo cho tuyển thêm mấy người làm y tá. Họ đều được tuyển chọn và đào tạo về chuyên môn rất kỹ càng.

Tư Mã Quang nằm ngửa ở trên xe đẩy, ánh mắt có chút gì đó lo lắng, băn khoăn.

Hôm nay Đỗ Văn Hạo cho người tới phủ đệ của Tư Mã Quang, thông báo hắn đã chuẩn bị xong cho việc giải phẫu nên sẽ đưa Tư Mã Quang sang để chữa trị. Dù sao đây cũng là một phương pháp trị liệu vô cùng lạ lẫm mà Tư Mã Quang chưa từng biết qua nên ông ta cũng không muốn công bố rộng rãi chuyện của mình. Ông ta chỉ đi sang có một mình, không có người thân hay bạn bè nào đi cùng. Những người này cũng không hề biết hôm nay Tư Mã Quang sẽ được phẫu thuật, thậm chí ngay cả Hoàng thượng cũng không hề hay biết.

Trong chuyện này Đỗ Văn Hạo cũng có cùng quan điểm với Tư Mã Quang. Hắn đột ngột sai người tới báo gấp cho ông ta rồi quyết định phẫu thuật ngay lập tức, cũng là muốn tránh cho mọi người tập trung đến xem náo nhiệt, ảnh hưởng đến sự tập trung của mình.

Đỗ Văn Hạo cũng đang đi theo xe đẩy. Hắn mỉm cười với Tư Mã Quang, nói: “Tư mã đại nhân, ngài cảm thấy sao rồi? Có lo lắng sốt ruột không?”

Tư Mã nghe xong mặt giãn ra một chút. Ông ta cười hắc hắc: “Lão hủ đã chuẩn bị chỗ chôn cho mình rồi thì có gì mà phải lo lắng nữa đây”.

“Vậy là tốt rồi, ông cứ yên tâm đi. Ta sẽ cố gắng hết sức, nhất định sẽ có thể chữa khỏi bệnh cho ông”, Đỗ Văn Hạo mỉm cười trấn an

Tư Mã Quang mắt nheo nheo mỉm cười nhìn Đỗ Văn Hạo trêu chọc nói: “Chữa không hết cũng không sao. Tiểu lão đệ chỉ cần vứt cái trái tim ở trong bụng ta đi thì cho dù có chết trên bàn mổ, biến thành quỷ liễu cũng không thể tìm đến ngươi mà đòi mạng được. Ha ha”

Đúng lúc này, bỗng từ ngoài cửa xuất hiện một người vội vã chạy vào. Đó là một nam tử trung niên, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vừa thấy Tư Mã Quang nằm trên xe đẩy đã chạy vọt tới đứng bên cạnh lão rồi lắp bắp hỏi: “Lão gia! Lão gia ngài định đi đâu vậy?”

Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu lên để có thể nhìn kỹ nam tử đó hơn. Vừa thấy mặt hắn ta, Đỗ Văn Hạo đã giật mình sửng sốt. Lộ rõ trên mặt nam tử đó là một đạo đao ba trông rất đáng sợ, giúp Đỗ Văn Hạo nhận ran gay đây là người mình từng gặp qua. Mà đó không phải ai khác, chính là người đã theo dõi hắn lần trước, từ khi hắn bước lên xe ngựa cho đến khi hắn quyết định vào trà lâu rồi dùng kế kim thiền thoát xác để “cắt đuôi”. Lúc ấy đứng sau cánh cửa Đỗ Văn Hạo đã có cơ hội quan sát kỹ càng con người đó nên giờ đây hắn dễ dàng nhận ra ngay. Ngay những gì hắn ta vừa nói với Tư Mã Quang thì có thể thấy hắn chính là phó tòng của Tư Mã Quang.

Quả nhiên, Tư Mã Quang cười mà đáp lại lời hắn: “Ngươi đã trở về sao? Ta không có việc gì. Đỗ ngự y sẽ chữa bệnh cho ta, giờ ta đang chuẩn bị qua phủ hắn”.

“Đỗ đại nhân, vị này là quản gia ở phủ của ta, cũng là một người họ hàng thân thích. Anh ta cũng mang họ Tư Mã, tên chỉ có một chữ Đạo. Mấy hôm trước đây nhà anh ta có việc gấp nên phải lên đường về quê vài ngày”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Hóa ra ngài là Tư mã quản gia, quả là biệt lai vô dạng”.

Tư Mã Đạo vừa mừng vừa sợ, vội chắp tay đáp lễ: “Đỗ ngự y sẽ giúp lão gia nhà ta chữa bệnh sao? Vậy thật tốt quá”.

“Đúng vậy. Chẳng lẽ lần trước ngươi theo dõi ta chính là muốn tìm ta đến xem bệnh cho lão gia nhà ngươi sao?” Đỗ Văn Hạo hỏi ngay.

“Ha ha đúng là như thế.” Tư Mã Đạo dáng vẻ ngượng ngùng đáp.

“Nếu thế vì sao không nói thẳng cho ta biết mà cứ hết lần này tới lần khác đi theo dõi ta từ xa?’

“Cái này…” Tư Mã Đạo có chút ngập ngừng chưa biết trả lời sao, mắt liếc sang nhìn cái xe đẩy cùng với Tư Mã Quang.

Tư Mã Quang cười nói: “Dù sao Đỗ đại nhân cũng thân thiết với những người ủng hộ cho biến pháp, dù ta không chắc ngài đối với biến pháp có thái độ ra sao. Lão hủ thì ngài biết rồi đấy, lúc nào cũng kiên quyết một mực phản đối biến pháp nên Tư Mã Đạo hắn cũng muốn thăm dò ngài một chút xem thái độ của ngài thật sự là thế nào rồi mới tìm cơ hội để nói chuyện nói ngài. Con người hắn lúc nào cũng cẩn thận thế đấy nhưng không hiểu thăm dò “khéo léo” đến mức nào mà lại làm cho ngài hiểu lầm ha ha”.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới hiểu ra mọi chuyện, chắp tay nói: “Không sao”.

Hắn trước giờ không để ý, nhưng giờ khi nghe Tư Mã Quang nói vậy, Đỗ Văn Hạo mới nghĩ lại về thái độ của hắn đối với biến pháp. Lâu nay hắn dường như chưa bao giờ thể hiện bất cứ thái độ nào đối với biến pháp cho người khác hay biết. Trước khi đi xuyên thời gi­an, lúc hắn còn học ở trung học thì sách vở đều viết về biến pháp với những lời lẽ rất tích cực, cho rằng ý tưởng của biến pháp về thực chất là rất tốt, rất tiến bộ.

Những người như Tư Mã Quang có thể nói là bảo thủ, lại chỉ chuyên nhìn một mặt của vấn đề nên cứ nhìn thấy vài nhược điểm của biến pháp là đã ra sức phản đối rồi. Nhưng Đỗ Văn Hạo đã có thời gi­an đi vi hành cùng Hoàng thượng, hắn chứng kiến được nhiều điều hơn, nghe được nhiều phía hơn nên nhận thức của hắn cũng tiên tiến hơn.

Mọi người lúc này đã đi ra khỏi phủ Tư Mã Quang. Xe đẩy của viện giải phẫu của Đỗ Văn Hạo cũng khá hiện đại, thiết kế có thể mở ra xếp lại, có bánh xe để đẩy đi chứ không cần nâng lên nâng xuống. Một lúc sau Tư Mã Quang đã được đẩy lên một cỗ xe ngựa to, Đỗ Văn Hạo cùng Tư Mã Đạo cũng ngay lập tức lên xe ngựa.

Đỗ Văn Hạo thật ra không muốn cho những người thân thích của Tư Mã Quang đi theo, sợ họ sẽ quấy rầy khiến hắn khó chuyên tâm vào việc phẫu thuật. Sau khi bàn bạc với Tư Mã Quang, quyết định chỉ có con trưởng của Tư Mã Quang là Tư Mã Dong cùng con gái là Tuệ Nhi đi theo. Bọn họ nhanh chóng lên xe và đoàn gồm 5 người lên đường đi tới Ngũ Vị Đường.

Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi ra nghênh đón Tư Mã Quang rồi đưa ông ta vào phòng giải phẫu, chuẩn bị cho buổi phẫu thuật.

Đỗ Văn Hạo lấy ra một bức “giải phẫu tri tình thư” (thư đồng ý cho phẫu thật). Mặc dù Tư Mã Quang đã đồng ý cho phẫu thuật nhưng hắn biết rõ khi giải phẫu có thể xảy ra rất nhiều những vấn đề ngoài tầm kiểm soát. Nếu không may có điều gì xảy ra với Tư Mã Quang thì ông ta làm sao mà đứng ra giải thích giúp hắn được nữa. Vậy nên hắn quyết định phải để người nhà của Tư Mã Quang ký vào bức thư này đề phòng trước.

Nghĩ vậy, Đỗ Văn Hạo đem giâỉ phẫu tri tình thư đưa cho con trưởng của Tư Mã Quang là Tư Mã Dong và nói: “Tư mã công tử, đây là thư đồng ý phẫu thuật, ngươi hãy xem qua đi. Trong đó có nói rõ mục đích của cuộc phẫu thuật, phương pháp cũng như những sự việc ngoài ý muốn có thể sẽ xảy ra trong quá trình phẫu thuật. Nếu như sau khi xem xong ngươi vẫn đồng ý cho ta làm phẫu thuật thì sau này, nếu những chuyện không may đó xảy ra ngươi cam đoan sẽ không truy cứu trách nhiệm. Khi đó, chỉ cần ngươi ký tên vào đây thì ta sẽ chuẩn bị phẫu thuật cho lệnh tôn. Còn nếu như ngươi không đồng ý thì ta không thể phẫu thuật được.”

Tư Mã Dong cầm bức thư xem qua một lượt, thân thể bắt đầu run rẩy, lo lắng. Hắn chỉ vào dòng chữ phía đầu bức thư nói: “Đỗ ngự y, chỗ này, chỗ này viết thế là có ý gì?”

“Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn vào chỗ Tư Mã Dong đang chỉ rồi nói: “Khi một người mắc phải thũng lựu (khối u) thì có thể có hai loại mà phải phẫu thuật ra mới biết được. Thứ nhất là lành tính thì chỉ cần phẫu thuật cắt đi là có thể khỏi được, nhưng nếu rơi vào loại thứ 2 là ác tính thì phẫu thuật cũng khó có thể khỏi được, nhất là khi đã bị di căn thì việc trị liệu sẽ vô cùng phức tạp, khó khăn. Nói cách khác, trong cơ thể lệnh tôn lúc này đã có nham tế bào rồi, đây là một dạng tà độc, không chừng đã di căn. Phẫu thuật có thể trị hết, cũng có thể sẽ đỡ được phần nào nhưng cũng có thể chẳng có tác dụng gì cả”.

Tư Mã Dong thưa dạ nói: “Nếu như vậy thì làm phẫu thuật để làm gì?”

“Tư mã công tử, giải phẫu không phải là vạn năng cũng giống như thuốc uống, không phải cứ một loại thuốc là trị được bách bệnh. Ta không thể đảm bảo với ngươi bất cứ chuyện gì được, chỉ có thể cố gắng làm hết sức mình mà thôi”.

Tuệ Nhi quay sang huynh trưởng của mình nói: “Ca, bệnh của cha tất cả các đại phu khác đều đã bó tay hết rồi, chỉ còn có Đỗ ngự y là còn cố phẫu thuật cho cha. Chúng ta làm gì có lựa chọn nào khác. Nếu như không phẫu thuật, cha cũng chỉ còn nước chờ chết, còn nếu phẫu thuật thì chúng ta vẫn còn có chút hy vọng”.

Tư Mã Dong rơi lệ nói: “Chuyện này ta biết nhưng ngươi xem này, trên này có viết nếu phẫu thuật cũng có thể sẽ chết. Như vậy nếu không phẫu thuật thì còn có thể sống thêm vào bữa, nhưng nếu phẫu thuật có thể sẽ chết ngay, vậy nên ta mới băn khoăn.”

Tuệ Nhi nói: “Nhưng là, chẳng lẽ chúng ta cứ đứng trơ mắt nhìn phụ thân chết dần chết mòn sao?”

“Ta không có ý như vậy. Ta…ta chỉ không biết nên làm sao bây giờ?” Tư Mã Dong thống khổ mà ngồi chồm hỗm trên mặt đất, hai tay ôm đầu khóc hu hu.

Tuệ Nhi cũng ngồi xổm xuống đất bên cạnh anh mình, nói: “Ca, ta tin tưởng vào tay nghề của Đỗ ngự y, hai hôm trước hắn kê cho ta đơn thuốc chữa tật ở chân, mới dùng được vài ngày ta rõ ràng đã có cảm giác khá hơn rất nhiều, không những chân bớt đau mà giờ còn co duỗi được nữa. Ngươi cũng biết cái chân tật của tiểu muội rồi, tiểu muội đã phải chịu thiệt thòi với nó bao nhiêu năm nay, biết bao nhiêu đại phu thử chữa trị mà có ai giúp nó khá khẩm hơn tẹo nào đâu. Thế mà Đỗ ngự y trong có vài ngày đã giúp cho cái chân tật của ta tốt hẳn lên, ngươi xem đi”.

Tuệ Nhi đứng thẳng người lên, đi đi lại lại vài vòng trong phòng. Mặc dù vẫn có chút khó khăn nhưng so với lúc trước quả thật đã khá hơn rất nhiều, hoạt động cũng linh hoạt hơn. Tuệ Nhi quay qua Tư Mã Dong nói: “Ca, ngươi xem cái chân ta tốt lên được như vậy là minh chứng rõ nhất cho y thuật cao mình của Đỗ ngự y. Cho nên ta thật lòng tin tưởng hắn nhất định có thể làm được điều gì đó cho bệnh tình của phụ thân.”

Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên nghe Tuệ Nhi thổ lộ hết về cái chân tật của nàng cũng như tình trạng từ sau khi uống thuốc nen tâm lý không khỏi lấy làm vui mừng. Tuy nhiên, không thể so nó với việc giải phẫu. Vậy nên hắn không thể thúc giục mà chỉ có thể đứng im nhìn bọn họ tự phân tích rồi đưa ra quyết định.

Tư Mã Dong mấy ngày hôm nay không có chú ý đến cái chân của tiểu muội hắn, phần là còn đang lo lắng cho bệnh tình của phụ thân. Giờ hắn mới chột dạ nhìn vào bước đi của tiểu muội thấy rõ ràng chân nàng ta đã tốt hơn rất nhiều. Hắn bỗng thấy vui mừng vô cùng, những lo lắng buồn bực cất chứa trong tim dần tan biến, vội đứng lên nói: “Tốt lắm. Ta sẽ không băn khoăn nữa. Xin mời Đỗ ngự y giải phẫu chữa thương cho phụ thân”.

Hắn cầm lấy cây bút, nhưng khi nhìn những dòng chữ về sự nguy hiểm và những sự việc ngoài ý muốn có thể xảy ra khi giải phẫu, hắn lại trùng xuống, nước mắt lại tuôi rơi. Tay hắn run rẩy, muốn hạ bút ký mà không thể làm được.

Tuệ nhi thấy vậy cũng nghẹn ngào, nói: “Ca, sinh tử do mệnh phú quý tại thiên”.

Những lời này làm cho Tư Mã Dong cả người chấn động. Hắn chậm rãi gật đầu rồi không do dự đặt bút ký và viết tên mình. Rồi hắn nhẹ nhàng trả lại cả tờ giấy lẫn cây bút, xoay người chắp tay nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ ngự y, tất cả trông chờ vào ngài”.

Đỗ Văn Hạo cũng chắp tay hoàn lễ: “Đỗ mỗ nhất định tận tâm tận lực, sẽ cố gắng hết sức chữa bệnh cho Tư mã đại nhân”.

Thong phòng giải phẫu, Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi đã làm tốt công việc chuẩn bị cho buổi phẫu thuật. Tư Mã Quang sau khi uống ma túy dược đã bắt đầu hôn mê, tất cả những gì trong dạ dày đã được tống ra, nước tiểu cũng đã được hút sạch. Sau khi dùng ma túy dược thì còn phải dùng thêm thuốc kháng khuẩn để chống nhiễm trùng.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu bắt tay vào việc phẫu thuật. Hắn cố gắng giữ cho mình thật bình tĩnh nhưng sao vẫn không khỏi cảm thấy run run. Tuy hắn đã được học về giải phẫu, lý thuyết đã nắm rõ lắm rồi nhưng lần này lại là giải phẫu cho một trong những học giả vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc, người đã biên soạn nên bộ biên niên thể thông sử đầu tiên của Trung Quốc. Ông ta khi còn bé đã cơ trí hơn người, dùng trí đập bể chum cứu bằng hữu, chuyện nổi tiếng đó ở Trung Quốc không ai là không biết đến. Bây giờ, chính hắn lại đang chuẩn bị động dao phẫu thuật trị bệnh cho một danh nhân như vậy, nếu nói không lo lắng gì thì chỉ là nói xạo.

Hắn còn lo lắng vì một lý do nữa. Người bệnh này có chiến công hiển hách, nhưng giờ đây cũng đã là một lão nhân hơn sau mươi tuổi rồi. Lại còn mắc phải nham chứng, chứng bệnh tối nguy hiểm nữa chứ. Thông thường, con người ta ngoài năm mươi tuổi là phẫu thuật đã khó khăn rồi, đây lại còn là lần đầu tiên hắn phẫu thuật dạ dày nữa chứ nên lấy đâu ra kinh nghiệm gì. Nhưng lúc này Đỗ Văn Hạo không còn lựa chọn nào khác, chỉ biết hy vọng lão thiên gia không đẩy mình vào con đường khó khăn.

Ngừng thở, Đỗ Văn Hạo cầm trong tay con dao giải phẫu vững vàng đặt lên khoảng bụng khô gầy của Tư Mã Quang, từ chỗ bụng trên vạch một đường ở chỗ giữa tuyến hạ hành xuống.

Khi khoang bụng được mở ra, hắn liền trợn tròn mắt. Lão thiên gia quả là trêu ngươi, đã ban cho hắn một người bệnh vô cùng nguy cấp.

Tất cả các bộ phận quanh dạ dày của Tư Mã Quang đã có dấu vết của nham biến (mầm bệnh ung thư)!

Đỗ Văn Hạo bỗng như trầm xuống. Nham tế bào đã bắt đầu di căn.

Làm sao bây giờ? Tiếp tục giải phẫu hay đóng lại chờ chết?

Chương 299: Hoàng Thượng lâm bệnh.

Gởi bởi người có lòng!

Đầu óc Đỗ Văn Hạo suy nghĩ rất nhanh, hắn cân nhắc xem đối với từng lựa chọn thì có ưu điểm, nhược điểm gì. Rồi hắn quyết định rằng việc lựa chọn tốt nhất không nên đến từ phía hắn, cho dù hắn là người rõ hơn ai hết những hậu quả hệ lụy của từng lựa chọn. Tốt nhất hắn sẽ phân tích kỹ càng cho người nhà Tư Mã Quang rồi để họ tự mình quyết định.

Làmy, vấn đề rủi ro luôn luôn song hành. Ngươi có thể là một thầy thuốc giỏi, cứu được nhiều bệnh nhân, nhưng chắc chắn có những người ngươi không chữa được. Thực tế đã có rất nhiều trường hợp, thầy thuốc chữa khỏi bệnh thì được bệnh nhân cảm ơn, khen ngợi không ngớt lời, nhưng khi không chữa được, hoặc sai lầm khiến bệnh nhân bị nặng thêm hay bỏ mạng, thì dù chỉ là một lần duy nhất trong đời, cũng đủ khiến ngươi thân bại danh liệt. Vậy nên trong quy định của thời hiện đại, các thầy thuốc khi chữa bệnh đều phải nói rõ cho bệnh nhân hậu quả nếu có thể của việc chữa trị, với những trường hợp không chắc chắn thì bệnh nhân hoặc người nhà luôn được yêu cầu phải ký cam kết chấp nhận rủi ro.

Đỗ Văn Hạo đi tới bên cửa sổ, phía bên ngoài cửa sổ là khoảng sân hậu viện nơi Tư Mã Dong với Tuệ Nhi đang đứng. Gọi hai người bọn họ lại, hắn nói: “Bệnh của lệnh tôn quả thật còn nặng hơn những gì ta đã dự tính trước. Trong cơ thể người, tà độc đã bắt đầu di chuyển ra rất nhiều các bộ phận khác. Bây giờ có hai lựa chọn: Một là ta sẽ dừng việc phẫu thuật lại, khi đó lệnh tôn sẽ sống nhưng nhiều nhất chỉ có thể là hai ba tháng. Cách thứ hai là tiếp tục giải phẫu, khi đó sẽ có hai khả năng: Thứ nhất là trong khi giải phẫu hoặc trong vòng vài ngày sau khi giải phẫu, cơ thể không còn đề kháng đủ để chống lại những mầm bệnh ung thư, cái chết sẽ khó tránh khỏi, nhưng khả năng thứ hai là giải phẫu mà thành công tốt đẹp thì lệnh tôn sẽ còn có thể sống ít nhất là năm năm nữa”.

Một đằng là chết trong lúc đang phẫu thuật, chết sau khi phẫu thuật vài ngày hoặc ba tháng, với một đằng là sống được thêm năm năm, thoạt đầu ai nghe cũng muốn chọn ngay phương án sau. Tuy nhiên, xác suất cho khả năng đó lại rất thấp so với việc chết khi phẫu thuật.

Huynh muội Tư Mã Dong nhìn nhau buồn bã, ánh mắt đầy vẻ lưỡng lự. Tư Mã Dong nhất thời không biết quyết định sao, cất giọng hỏi muội muội: “Làm sao bây giờ?”

Tuệ Nhi cất tiếng bi ai: “Nếu như bây giờ đình chỉ việc giải phẫu, phụ thân nhiều nhất chỉ có thể sống được ba tháng, còn nếu tiếp tục giải phẫu, khả năng phụ thân sống thêm được tận năm năm. Cá nhân ta muốn chọn cách thứ hai. Chúng ta đã cố gắng như vậy, cho dù phẫu thuật có bị thất bại thì ở nơi cửu tuyền, phụ thân cũng sẽ có thể mỉm cười. Chúng ta liều lần này vậy, mọi người nghĩ sao? “.

Tư Mã Dong rơi lệ gật đầu: “Ta cũng cùng quan điểm như vậy. Đỗ ngự y, xin mời ngài tiếp tục giải phẫu cho cha ta”.

Đỗ Văn Hạo hiểu cảm giác của những người ở đây, họ thực ra đang đánh cuộc mạng sống của chính cha mình, nhưng lại đánh cuộc bằng khả năng của người khác - tức là Đỗ Văn Hạo chứ không phải là một cái gì thuộc sở hữu của mình. Do đó, bản thân họ cảm thấy có sự bất lực, và chỉ biết đặt niềm tin vào sự may rủi của số mệnh mà thôi.

Biết rằng lúc này có nói gì cũng không ý nghĩa, Đỗ Văn Hạo chỉ gật đầu rồi quay trở lại bàn giải phẫu.

Theo những quan sát về tình trạng của nham biến, hắn nhanh chóng quyết định các thủ thuật giải phẫu. Đầu tiên sẽ phải tách riêng phần dạ dày, các mạch máu phía bên trái sẽ phải phân riêng ra, khâu kết lại với nhau. Bởi vì các tế bào ung thư đã xuyên thấu tương mô, sẽ dùng băng gạc khâu trùm lại để tránh không cho tế bào ung thư ở khoang bụng di chuyển sang các bộ phận khác.

Tại phía trong khoang ổ bụng, cũng cần phải có giải pháp tẩy rửa kỹ càng, ngăn cách đại tràng, ruột với khu vực nham biến. Đỗ Văn Hạo trước khi tiến hành cắt bỏ khối u, cần phải xếp các bộ phận như ruột, tràng sang một bên, tạm thời dừng hoạt động của dạ dày và các bộ phận tiêu hóa để đảm bảo vệ sinh cũng như thuận tiện cho việc cắt bỏ khối u.

Các động mạch là khó khăn nhất, kỹ thuật thô sơ ở thời cổ đại này không cho phép Đỗ Văn Hạo sai sót, dù chỉ là một ly. Sau khi đã quan sát, nghiên cứu kỹ lưỡng, Đỗ Văn Hạo dùng dao mổ cẩn thận lách vào đầu của khối u, lúc này dính liền với thành dạ dày, được bao quanh bởi một lớp màng mỏng. Chỗ này cũng khá gần động mạch chính đi tới gan.

Tiếp đó, Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng cắt đứt toàn bộ những mạch máu nhỏ li ti nối liền khối u này với các phần dạ dày xung quanh, dùng cả dao và kéo mổ, cẩn thận tách rời khối u ra. Sau khi thấy phần khối u đã lộ hẳn ra ngoài, hắn mới dám bắt đầu xử lý đến phần chân khối u, nơi bám vào thành dạ dày.

Đây thực sự là đoạn khó giải quyết nhất. Ngoài phần thịt dính liền, khối u cũng được kết nối bởi không ít các mạch máu, bao gồm cả động mạch và tĩnh mạch. Do đó, chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể gây tổn thương lớn cho dạ dày.

Đỗ Văn Hạo nói Bàng Vũ Cầm dùng kìm mổ cẩn thận giữ chặt lấy khối thịt nhô ra, còn hắn thì hết sức thận trọng cắt từng chút từng chút một. Khối u này có màu trắng đục, khác với bề mặt dạ dày nên cũng không khó để phân biệt, khả năng cắt vào thành dạ dày là không cao. Tuy nhiên, vẫn là điều kiện dụng cụ thời đại này thực sự quá thiếu thốn, Đỗ Văn Hạo chỉ biết cẩn cẩn chú ý từng li từng tí một. Và rồi thì hắn cũng lôi được khối u đó ra.

Phần màng dạ dày bị thương tổn do khối u để lại được tẩy trùng cẩn thận.

Tiếp đó các bộ phận tiêu hóa và dạ dày được đưa trở về vị trí. Những cái kìm lúc trước dùng để chặn sự lưu thông trong ruột được bỏ ra, đảm bảo hệ tiêu hóa và dạ dày hoạt động trở lại bình thường.

Mặc dù không dám chần chừ mất thời gi­an, nhưng trước khi khâu ổ bụng lại, Đỗ Văn Hạo vẫn rất cẩn thận kiểm tra mọi thứ trong bụng của Tư Mã Quang, đảm bảo đều về đúng vị trí.

Bởi vì Tư Mã Quang đã già nên cơ thể không thể chịu được thời gi­an giải phẫu dài, Đỗ Văn Hạo đã rất chú ý việc này, luôn tiến hành các công việc theo kiểu đồng thời. Lúc trước, khi phải xử lý chuyện Lưu Quý phi trong cung mang thai giả, cũng nhân chuyện này, hắn đã có nghiên cứu kỹ đối với chuyện giải phẫu dạ dày. Hắn đã cẩn thận đem các bước thực hiện viết ra cụ thể, lại so sánh những gì mình học được với tưởng tượng của chính bản thân. Từ đó liên tục diễn luyện nhiều lần, các bước cũng xem xét để lược bớt, đảm bảo người bệnh có thể sống sót trong điều kiện kỹ thuật thấp kém ở thời cổ đại này.

Bản thân hắn đã đề ra mấy phương án giải phẫu khác nhau. Điều cơ bản là phải triệt để trừ bỏ khối u, tránh có những biến chứng về sau. Khi đảm bảo được điều đó, vấn đề đặt ra chính là tiến độ. Phải làm thế nào rút ngắn thời gi­an giải phẫu càng nhiều càng tốt. Chính vì vậy hắn đã có những sắp xếp trong đầu, với mỗi trường hợp thì sẽ làm như thế nào để việc rút bớt các công đoạn không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người bệnh.

Có thể nói công sức bỏ ra chuẩn bị mấy ngày nay không có uổng phí. Sau khi mở ổ bụng ra, những gì chứng kiến đều không nằm ngoài các tình huống hắn đã dự tính trước. Chính vì vậy, động tác của hắn vô cùng thuần thục, nhanh chóng, không một chút do dự. Người ngoài nhìn vào thì phảng phất cảm giác như hắn đã làm công việc này cả ngàn lần rồi.

Thế nhưng vẻ mặt của Tuyết Phi Nhi và Bàng Vũ Cầm thì vô cùng căng thẳng.

Lúc này, các gi­ai đoạn chính đều đã cơ bản hoàn thành, việc của hắn giờ chỉ là chuẩn bị các công việc trước khi khâu ổ bụng.

Trước hết, hắn cần tới các dụng cụ hỗ trợ tiêu hóa, đặt ống thực quản. Đồng thời Đỗ Văn Hạo cũng cẩn thận đặt thêm các ống nhỏ vào khoang đại tràng, đề phòng trường hợp bị tràn dịch.

Cuối cùng, hắn thận trọng thực hiện súc rửa khoang bụng thật sạch sẽ rồi mới khâu đóng ổ bụng lại.

Giải phẫu hoàn thành, lúc này Đỗ Văn Hạo mới cảm thấy toàn thân mệt mỏi rã rời, giống như từng mảnh, từng mảnh thân thể một bực như nhau run lên cầm cập, chỉ muốn nằm lăn xuống đất. Nhưng hiểu rõ vai trò của mình lúc này, hắn mạnh mẽ chống chọi lại, nhìn sang phía Tuyết Phi Nhi đang làm nhiệm vụ giám sát bệnh nhân sau phẫu thuật, hỏi: “Thế nào?”

“Mạch bác, hô hấp ôn hòa, dường như bình thường! Không có vấn đề gì!”

“Tốt lắm! Quán thuốc vào cho bệnh nhân tỉnh dậy, sau đó đưa vào phòng bệnh đặc biệt, cắt cử người thay phiên trông coi, ngày đêm quan sát, tuyệt đối không được lơ là, chủ quan. Đợi sau khi người bệnh tỉnh dậy, lưu ý đặt nằm với gối kê cao, dốc xuống để các dịch vị trong khoang bụng chảy ra. Mặc khác, cũng trợ giúp cho hô hấp nhiều hơn, giảm các tác động tới vết khâu, vừa giúp vết thương mau lành, cũng tránh cho bệnh nhân đau đớn.”

“Ừ, thiếp rõ rồi.” Tuyết Phi Nhi gật đầu nói.

“Còn nữa, mọi người cũng nên giúp đỡ, khuyên bảo bệnh nhân hít sâu, càng nhiều càng tốt. Mỗi khi hô hấp đều nên hít thật sâu. Cũng không được nằm im suốt ngày, cần phải cử động, khi nào có thể thì mau xuống giường, vận động thân thể một chút. Quan sát cẩn thận lượng nước tiểu và các dịch vị khoang bụng chảy ra.”

“Vâng”

Bàng Vũ Cầm mặc dù cũng mệt mỏi, nhưng nàng mệt vì căng thẳng nhiều hơn là mệt mỏi về thân xác, giờ nhìn thấy Đỗ Văn Hạo mồ hôi nhễ nhại thì vô cùng thương xót, lấy khăn yêu thương lau mồ hôi, cười nhẹ: “Phu quân, những cái đó chàng đều đã dạy cho chúng thiếp rồi mà! Chàng yên tâm đi, mọi người cũng đã có nhiều kinh nghiệm chăm sóc bệnh nhân sau phẫu thuật rồi.”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ta đương nhiên biết vậy, chỉ là Tư Mã đại nhân đây có chút bất đồng, không chỉ về thân phận mà cả về chứng bệnh nữa, do đó mới muốn có chút quan tâm đặc biệt hơn.”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy gật đầu nhẹ nhàng: “Thiếp hiểu! Để thiếp tự thân phụ trách hộ lý đi.”

Khi đưa Tư Mã Quang ra khỏi phòng giải phẫu, con trai Tư Mã Dong và nữ nhi của Tư Mã Quang cùng mấy người khác nhẹ nhàng chạy vội tới cửa đón. Mấy người nhìn phụ thân mình bất tỉnh thì đưa ánh mắt lo lắng có ý dò hỏi Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đến thời điểm này có thể nói là giải phẫu đã thành công tốt đẹp, tuy nhiên, mấu chốt vẫn là phải xem mấy ngày nữa tình hình Tư Mã đại nhân thế nào. Mấy ngày tới phải để ý thật kỹ lưỡng.”

Mấy người nghe vậy thì cũng cảm thấy mơ hồ, chưa biết cụ thể thế nào. Tư Mã Dong rốt cục sốt ruột hỏi thêm: “Đỗ đại nhân, vậy rốt cuộc gia phụ liệu có sống được thêm năm năm nữa không vậy?”

“Rất xin lỗi, ta thực sự chưa thể nói được vào lúc này. Chúng ta không có cách nào khác ngoài việc đợi thêm mấy ngày nữa. Tuy nhiên, chúng ta nhất định sẽ tận tâm tận lực chăm sóc cho lão gia.” Đỗ Văn Hạo cũng chỉ biết cười khổ mà giải thích.

Mấy người đi tới phòng nghỉ của Tư Mã Quang thì phu nhân Ngô thị cũng đã ở đó, ngoài ra còn có rất nhiều họ hàng, thân bằng hảo hữu nhận được tin báo cũng đang lo lắng ngồi chờ tin. Nhìn thấy Tư Mã Quang được đẩy đến, ít nhất là vẫn còn thở, còn sống, tâm lý vốn đang nặng nề như hòn đá tảng cũng được nhẹ nhõm đi phần nào. Họ líu ríu bước đến hỏi han không ngừng.

Đỗ Văn Hạo không muốn giải thích nhiều liền yêu cầu bọn họ toàn bộ rời khỏi phòng bệnh, mỗi lần chỉ hai người một có thể lưu lại thăm nom, rồi lại thay phiên nhau kẻ vào người ra. Thân bằng bạn hữu của Tư Mã Quang bắt đầu thảo luận xem làm cách nào để cắt cử người trông nom chăm sóc ông. Lão bà của Tư Mã Quang Ngô Thị thì mong muốn chính mình sẽ phụ trách việc này nên Đỗ Văn Hạo nói Bàng Vũ Cầm chuẩn bị thêm một cái giường trong phòng bệnh để Ngô Thị có thể thuận tiện lưu lại đó nghỉ ngơi chăm sóc chồng. Phiên đầu tiên đã được kết luận sẽ do Ngô Thị với nữ nhi Tuệ Nhi lo liệu, sau đó thì sẽ đổi cho những người khác để có thể nghỉ ngơi. Thảo luận xong, những người khác liền lui hết ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm lúc này bắt đầu cảm thấy mệt mỏi! Sau khi trở lại phòng mình, Đỗ Văn Hạo mới lấy bút kê một đơn thuốc đưa cho Bàng Vũ Cầm: “Nàng theo phương bắt dược, ban đầu thì cho thuốc qua đường ống xông, từ từ từng chút một. Đợi đến khi thông khí thì mới rút ống xông, uống thuốc như bình thường nhưng chú ý là uống ít một, chia làm nhiều lần.”

Bàng Vũ Cầm cầm đơn thuốc nhìn một chút: “Đây là đơn thuốc giúp kháng khuẩn giảm sốt, nhưng những vị thuốc này còn tác động đến máu, rõ ràng giúp hoạt huyết hóa đờm tiểu thanh nhiệt giải độc, vì sao lại phải dùng trong trường hợp này vậy?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Tư Mã đại nhân bị bệnh ở dạ dày, nói chính xác thì là “khiếu vị nham” (ung thư dạ dày), đối với loại bệnh này nguy hiểm nhất là những nham tế bào di căn sang các bộ phận khác. Điều này ta một lần đã nói với nàng rồi, nàng còn nhớ không?”

Đỗ Văn Hạo đã mang rất nhiều những kiến thức y học hiện đại ra dạy cho Bàng Vũ Cầm, kể cả những kiến thức về tế bào. Tất nhiên, Bàng Vũ Cầm là một người thông minh nên chưa quên ngay những kiến thức đó được, nàng gật đầu: “Đúng là chàng đã nói, thân thể con người ta thực ra là do rất nhiều các tế bào nhỏ tạo thành”.

“Đúng vậy, cách giải thích đó là đơn giản nhất. Việc nham biến di căn là nguyên nhân chính khiến người mắc bệnh ung thư ngày càng nặng hơn, gây nên tử vong. Thường thì việc phẫu thuật chỉ có tác dụng trong khoảng ba năm, sau đó nham biến dạ dày sẽ có nguy cơ di căn tiếp, cho nên ngay sau khi giải phẫu phải áp dụng lập tức phương pháp trị liệu. Thêm nữa, việc phẫu thuật thường khiến cho các tế bào khác trong cơ thể yếu đi, dễ mắc bệnh hơn, khi đó, các tế bào ung thư thừa dịp mà vào, gây bệnh cho các tế bào khác, đó chính là di căn. Do đó, trong năm tiếp theo sau khi phẫu thuật, phải thật chú trọng vào các hiện tượng như đàm, lao, tụ độc. Đó là lý do tại sao ta phải kê thêm những thứ thuốc giúp hòa đàm, giải độc, hoạt huyết hóa tật. Nếu có thể tăng cường sức đề kháng chống bệnh cho cơ thể thì sẽ giảm được nguy cơ di căn của nham tế bào. Đó, tất cả là vậy đó!”

“Thiếp hiểu rồi. Vậy thì lý do chính của đơn thuốc mà phu quân kê này chính là để bồi bổ, hóa đàm, giải độc, hoạt huyết hóa cứu, nhằm mục đích ngăn ngừa sự di căn của nham tế bào.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Không sai, toàn bộ dạ dày của Tư Mã đại nhân đã bị cắt đi rồi, ta phải dùng một phần ruột giúp ông ta làm thành dạ dày nhân tạo, đương nhiên sẽ không thể so với dạ dày nguyên lai được, việc ăn uống cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Hơn nữa việc phẫu thuật cũng đã gây tổn hại đến sức khỏe, sức đề kháng của cơ thể chắc chắn đã giảm đi rất nhiều. Do vậy, trong vòng một năm sau khi phẫu thuật phải thật chú trọng việc bồi bổ cơ thể, nâng cao sức khỏe. Những thứ thuốc này có mục đích vậy đó, mà tiếc rằng có vài loại thuốc vô cùng hữu hiệu khác nhưng ngoài kia không thấy có bán”

Bàng Vũ Cầm ngạc nhiên nói: “Là thuốc gì ạ?”

“Đông trùng hạ thảo”. Đây là một loại dược liệu rất tốt, giúp bồi bổ cơ thể nhanh, đặc biệt hữu hiệu cho những người mà tuổi đã cao, thể chất yếu. Đông trùng hạ thảo có khả năng cải thiện hệ thống miễn dịch cho cơ thể người, tăng cường năng lực đối kháng với những nham biến. Nếu như có thể mua được loại dược liệu này thì sẽ là tốt nhất.

Bàng Vũ Cầm suy nghĩ một chút rồi nói: “Sao từ trước tới giờ thiếp chưa bao giờ từng nghe đến loại dược liệu này nhỉ. Quả thật rất lạ tai?”

Thật ra, đông trùng hạ thảo cổ xưa đã có nhiều người biết đến. Sử sách Tấn triều có ghi lại là đông trùng hạ thảo được sử dụng làm dược liệu. Sau đó ở Minh triều, loại dược liệu này cũng được ghi lại là thứ thuốc truyền thống đông y hữu dụng. Sang đến Thanh triều, quyển “Thanh Triêu Đích” (một quyển sách trung dược) cũng có ghi lại. Nhưng những người ở Tống triều thì không mấy ai biết đến loại thuốc này.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Thuốc này ở Trung Nguyên không có, chủ yếu chỉ có ở những vùng núi cao lạnh lẽo tuyết phủ quanh năm. Cho nên Trung nguyên y giả có rất ít người biết đến nó”.

“Vậy sao phu quân biết về nó?”

“Ta ý hả? Nàng không nhớ trước kia ta từng làm linh y bôn tẩu gi­ang hồ sao? Một lần trùng hợp ta có gặp qua một người, nói đúng hơn là một tăng lữ, hắn ta có loại dược liệu này. Hắn có nói loại dược liệu này sẽ giúp tăng cường sức khỏe nên ta có mua thử một ít. Kiểm nghiệm thử thì thấy đúng là cái thứ đông trùng hạ thảo này tốt thật”.

Bàng Vũ Cầm gật đầu nói: “Thuốc này tốt như vậy thật sao? Tiếc là Thổ Phiền cách Trung nguyên chúng ta đến hàng ngàn dặm, làm sao mà có thể đến đó mua được cơ chứ”.

“Đúng vậy”, Đỗ Văn Hạo gật đầu xác nhận. “thật ra, chúng ta cũng không nhất thiết phải đến tận Thổ Phiền để tìm mua đông trùng hạ thảo. Ngay ở phía tây của Thục Địa cũng có thể tìm thấy loại lược liệu này, có điều chất lượng không thể tốt như ở Thổ Phiền được”.

Hai người đang nói chuyện, đột nhiên tiểu nhị ở tiền đường vội vã chạy tới thông báo: “Tiên sinh, Ninh công công tới, nói có chuyện rất gấp, truyền cho ngài phải cùng ông ta vào cung ngay lập tức”.

Đỗ Văn Hạo nghe xong lấy làm kinh hãi. Ninh công công là thái giám lúc nào cũng thường trực ở bên cạnh Hoàng Thượng. Giờ hắn đột nhiên đích thân đến đây thế này chẳng lẽ trong cung có chuyện gì cấp bách lắm sao? Hắn vội vàng chạy ra ngoài tiền đường, chắp tay nói: “Ninh công công, có chuyện gì vậy?’

Ninh công công sắc mặt âm trầm, thấp giọng nói: “Ta sẽ nói cho ngài nghe trên đường đi. Còn giờ thì chúng ta lên đường nhanh cho kịp”.

Thậm chí không để cho Đỗ Văn Hạo kịp chuẩn bị xe hay gọi người khiêng kiệu, Ninh công công kêu hắn ngồi luôn lên xe ngựa của ông ta cùng tiến cung. Đỗ Văn Hạo chỉ kịp gọi Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi cùng Diêm Thiệu Thủ, Hàm Đầu, dặn dò bọn họ vài câu về việc chăm sóc cho bệnh tình của Tư Mã Quang rồi lập tức lên xe theo Ninh công công lên đường.

Đi được một đoạn, Ninh công công lúc này mới cất tiếng nói: “Hoàng Thượng ngã bệnh”.

“Hả? Chuyện khi nào?” Đỗ Văn Hạo giật mình hỏi.

“Mới đây thôi”

“Có triệu chứng gì không?”

“Bất tỉnh không biết gì nữa cả. Cụ thể bệnh trạng thế nào thì chúng ta cũng không rõ ràng lắm. Chắc ngài phải đến xem thì mới biết được”.

“Nhưng nguyên nhân là vì sao?”

“Còn chuyện gì ngoài biến pháp cơ chứ!” Ninh công công trầm giọng nói. “Hoàng Thượng từ sau khi đi vi hành trở về thì không còn tin vào vị quan lại nào nữa. Người tự mình phái ra mật thám, cử đến các nơi ngầm hỏi dân chúng thái độ và suy nghĩ của họ về biến pháp. Mấy ngày hôm nay, những tin tức mật báo không ngừng đổ về. Hoàng Thượng xem ra tâm trạng không được tốt, người suy nghĩ rất nhiều. Lúc giữa trưa, Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng Thái hậu cầm một đống tấu chương đến tìm Hoàng Thượng, cũng lại là những tấu chương phản đối biến pháp, hơn nữa đều do Tri phủ tri châu từ khắp nơi gửi về và đều nói dân chúng địa phương đang tạo biến phản đối biến pháp rất dữ. Hoàng Thượng xem hết, nói đã biết rồi nhưng Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu vẫn chưa thôi. Họ thậm chí còn khóc lóc nhằm khuyên giải Hoàng Thượng phế bỏ tân pháp. Nhưng không biết làm sao mà Hoàng Thượng đột nhiên cảm thấy trời đất quay chuyển, đầu óc choáng váng rồi lập tức té xỉu”.

Đỗ Văn Hạo trầm giọng hỏi: “Hoàng Thượng trong khoảng thời gi­an này có uống thuốc thang điều độ và đầy đủ không?”

Ninh công công thở dài nói: “Hoàng Thượng lúc nào cũng nói mình không có bệnh gì cho nên thuốc thang người lúc uống lúc không, ta có nói mãi mà cũng không được.”

Đỗ Văn Hạo lấy làm kinh hãi: “Tại sao lại thế, không phải ta đã nói lúc trước rồi sao, bệnh tình của Hoàng Thượng dường như càng ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn nên phải kiên trì chịu khó uống thuốc, chữa trị trong thời gi­an dài”

“Lần trước Hoàng Thượng cũng đã hứa sẽ làm như vậy rồi”.

“Nhưng giờ thì Hoàng Thượng không muốn uống. Ai có thể khuyên bảo ép buộc được ngài cơ chứ? Hoàng Thượng nói ngoại trừ việc ăn uống không thấy ngon miệng thì ngài chẳng thấy mình có bệnh gì cả. Cho nên ngài nói chúng ta không cần phải cuống lên làm gì”.

Đỗ Văn Hạo vội la lên: “Hoàng Thượng đang mắc phải bệnh viêm cầu thận mãn tính. Loại bệnh này thường chỉ ẩn bên trong nhưng đó không hề là một bệnh nhẹ đâu. Nhiều người chỉ đến khi bị bệnh phát tác, xuất hiện những di chứng vô cùng nghiêm trọng mới biết bệnh của mình nặng nhẹ như thế nào. Thêm nữa, bệnh này bình thường cũng không phát tác ngay, mà cũng rất dễ bị nhầm lẫn với những chứng bệnh khác, chẳng hạn như suy kiệt cơ thể, tiêu hóa kém hay các bệnh tương tự thế. Lần trước khi ta khám cho Hoàng Thượng đã phát hiện ra những triệu chứng ban đầu của chứng bệnh viêm cầu thận này ở người, cũng đã giải thích cho người nghe tình trạng và hậu quả của căn bệnh này rồi mà. Nếu người không kiên trì điều trị thì bệnh chắc chắn sẽ nặng hơn đó”.

Ninh công công cười cười mà nói: “Không nghiêm trọng đến mức đó chứ? Chúng ta ngày ngày vẫn hầu hạ bên cạnh Hoàng Thượng thấy người vẫn khỏe mạnh lắm mà. Còn vụ lần trước Hoàng Thượng té xỉu ngài cũng biết rồi, đó là do người cố tính làm vậy để tránh khỏi những khó xử khi các vị đại thần quỳ cả ngày đêm can gián chuyện biến pháp mà người thì vẫn chưa có biện pháp gì. Lần này ta nghĩ cũng vậy thôi, lý do phân nửa chắc cũng tại vì Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng Thái hậu đang cật lực than khóc phải đối nên người lại giả vờ lần nữa ý mà”.

Đỗ Văn Hạo vẻ mặt đau khổ nói: “Nhưng Hoàng Thượng cũng thật sự đang mắc bệnh đó. Ngài có nhớ câu chuyện của Thái Hoàng Công xưa kia không? Lúc bệnh còn nhẹ thì cứ chủ quan, không chịu chạy chữa ngay, để đến lúc bệnh phác tác nặng lên thì cứu chữa không kịp nữa rồi”.

Ninh công công sắc mặt trầm xuống, hỏi: “Đỗ đại nhân nghĩ thế nào mà lại đem tên hôn quân Thái Hoàn Công ra so sánh với Hoàng Thượng anh minh của chúng ta?”

“Ta không phải có ý so sánh như thế. Ta là đại phu, chỉ nghĩ về khía cạnh bệnh tật mà thôi. Suy cầu thận là một loại bệnh rất nghiêm trọng. Mắc phải bệnh này một khi đã đến gi­ai đoạn phát tác thì rất khó chữa trị. Gặp tình huống đó chắc ta cũng phải bó tay thôi”

Ninh công công liếc mắt nhìn sang Đỗ Văn Hạo, nói: “Đại nhân không phải đang nghiêm trọng hóa vấn đề lên đó chứ?”

Đỗ Văn Hạo trả lời: “Thôi, quên đi. Chờ một lát ta trực tiếp thăm bệnh cho Hoàng Thượng xem sao đã. Nếu đúng là vẫn do bệnh đó khiến Hoàng Thượng ngất đi thì quả thật không thể chủ quan thêm được”.

Xe ngựa rất nhanh đã đi tới hoàng cung, dừng lại trước tẩm cung của Hoàng Thượng. Tống Thần Tông lúc này đang nằm trên long sàng, hai mắt nhắm nghiền. Thái hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu cùng Hoàng Hậu đứng một bên, lo lắng nhìn chăm chăm vào Hoàng Thượng.

Trước giường của Hoàng Thượng có kê một cái ghế dài, trên đó ngồi một người…Đó không phải ai khác mà chính là Chánh thị của Thái y viện Thừa Ngụy Triển. Lần này ông ta lại bị triệu tới, đang ngồi bắt mạch cho Hoàng Thượng mà vẻ mặt đầy đau khổ. Hiển nhiên là ông ta vẫn không thể phát hiện ra nguyên nhân tại sao mà Hoàng Thượng lại hôn mê như vậy. Chỉ bất quá, do đã có kinh nghiệm từ lần trước nên lần này ông ta không dám nói lung tung, chỉ cố gắng trì hoãn kéo dài thời gi­an chờ Đỗ Văn Hạo tới.

Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, Ngụy Triển thở phào nhẹ nhõm, vội vàng bước lên phía trước chắp tay cung kính: “Đỗ đại nhân, ngài đã tới rồi. Hoàng Thượng lại vừa té xỉu lần nữa. Ty chức y đạo nông cạn, hay là xin mời Đỗ đại nhân chẩn trị cho Hoàng Thượng xem sao”.

Đỗ Văn Hạo là ngự y của Hoàng Thượng nên không thể chối từ việc đó. Hắn ngồi xuống chiếc ghế dài, đưa tay ra bách mạch cho Hoàng Thượng. Quả nhiên, hắn cũng không phát hiện ra mạch đập có gì bất thường, hiển nhiên là Hoàng Thượng đang giả vờ bị ngất.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo dự định sẽ lợi dụng cơ hội để nói về căn bệnh suy cầu thận mãn tính của Hoàng Thượng, từ triệu chứng, nguyên căn đến những hậu quả của nó. Hắn cũng dự định sẽ kêu Hoàng Thượng cùng Thái hoàng Thái hậu các nàng phải coi trọng chuyện đó, trị liệu sớm, đều, nghiêm túc theo những gì mà hắn kê ra, bằng không thì sau này sẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Nhưng trước hết phải làm cho Hoàng Thượng tỉnh lại đã.

Đỗ Văn Hạo từ trong túi cấp cứu lấy ra chiếc kim châm rồi bắt đầu châm vào mấy huyệt của Tống Thần Tông. Hoàng Thượng cũng biết ý nên cùng hắn phối hợp, chỉ chốc lát đã lo lắng tỉnh dậy. Nhưng rồi người lại tiếp tục nhắm mắt không nói gì, ánh mắt trông có vẻ rất đờ đẫn.

Nhưng chỉ cần Hoàng Thượng tỉnh lại là Thái hoàng Thái hậu mọi người đều đã có thể cảm thấy nhẹ nhõm. Thái hoàng Thái hậu thấp giọng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Hoàng Thượng bị làm sao vậy?”

Đỗ Văn Hạo quay sang Thái hoàng Thái hậu cung kính nói: “Lão tổ tông, Hoàng Thượng té xỉu chính là vì đã mắc phải chứng Thận lao sở.

“hận lao sở?” Thái hoàng Thái hậu ngạc nhiên hỏi.

“Dạ đúng vậy”, Đỗ Văn Hạo thần sắc trịnh trọng, đứng dậy nói: “Hoàng Thượng ngày đêm quan tâm, lo lắng triều chính, đặc biệt là với biến pháp. Thường xuyên ăn uống thất thường, tinh thần không tốt, lao luyện quá độ khiến cho cơ thể rơi vào suy nhược. Bên ngoài thì phong nhiệt, gặp cơ thể yếu thì nhanh chóng ngấm vào. Lâu dài lan đến các tạng phủ, gây nên chứng viêm cầu thận, chánh hư từ thật, cơ thể nóng lạnh thất thường”.

Thái hoàng Thái hậu cau mày nói: “Ngươi nói thế Ai gia thấy khó hiểu lắm. Thôi cứ nói thẳng xem bệnh tình của Hoàng Thượng có nặng lắm không?”

“Bắt đầu vào thời kỳ nghiêm trọng rồi đấy ạ”, Đỗ Văn Hạo cố gắng tỏ vẻ nghiêm túc để Thái hoàng Thái hậu có thể thấy được sự nghiêm trọng của vấn đề, nói: “Chứng viêm thận này có thể nói là một thứ bệnh mãn tính, đôi khi gây nên nhiều tác động nghiêm trọng, khiến tỳ thận suy bại, trọc âm không tiết, tính khí thất thường, ảnh hưởng đến tim mạch, bài tiết…”

Thái hoàng Thái hậu cùng Hoàng Thái hậu, Hoàng hậu không khỏi lo lắng nhìn nhau rồi quay qua hỏi Đỗ Văn Hạo: “Nghiêm trọng vậy sao? Hoàng Thượng bình thường vẫn khỏe mạnh, không có gì đáng lo ngại mà. Hôm nay bất quá tức giận chút mà ngất đi, sao đến nỗi vậy?’

Đỗ Văn Hạo nói: “Vi thần tuyệt đối không dám phóng đại sự thật đâu ạ. Lần trước khi chẩn bệnh cho Hoàng thượng, vi thần đã nhìn ra Hoàng thượng có mầm mống của bệnh này nên cũng đã khai phương kê dược cho Hoàng thượng dùng, nhưng người không chịu kiên trì uống thuốc gì cả. Vi thần cũng đã nói khi mắc phải bệnh này, Hoàng thượng nhất định không được để cơ thể mệt nhọc cũng không được tức giận. Tĩnh dưỡng là vô cùng cần thiết. Vi thần vừa phục chẩn thấy bệnh tình của Hoàng thượng so với lần trước có vẻ đang nặng lên, nếu không nghiêm khắc trị liệu thì sẽ gặp nguy hiểm đó”.

Thái hoàng Thái hậu nói: “Không phải Ai gia đã gi­ao cho ngươi nhiệm vụ chăm sóc cho sức khỏe của Hoàng thượng sao?”

“Nhưng là Hoàng thượng không chịu nghe theo lời của vi thần mà kiên trì uống thuốc, cũng không chịu tĩnh tâm điều dưỡng gì hết”.

Thái hoàng Thái hậu nói: “Hoàng thượng làm sao mà không muốn tĩnh tâm điều dưỡng cơ chứ. Nhưng cai quản đất nước, bình an thiên hạ là một trọng trách lớn, đòi hỏi hắn phải lao tâm khổ tứ, tậm tâm tận lực, muốn tĩnh tâm nghỉ ngơi cũng không phải là một điều muốn là được”.

Hoàng thái hậu đứng bên cạnh cũng hòa nhã nói chen vào: “Đỗ đại nhân, mong ngài có thể giúp cho Hoàng thượng cách thức nào đó tốt nhất để có thể hiệu quả trị bệnh”.

Thái hoàng Thái hậu cũng nói: “Đúng thế. Mấy ngày tới thôi ngươi chịu khó lưu lại trong hậu cung, đỡ phải đi đi về về, chiếu cố chăm lo cho sức khỏe của Hoàng thượng một chút. Tiểu Ninh Tử, ngươi hỗ trợ an trí cho Đỗ đại nhân một chỗ ở, cứ tìm một phòng trống ngay trong tẩm cung của Hoàng thượng là được, nhỡ có việc gì thì còn có thể giải quyết được ngay”.

Đỗ Văn Hạo cùng Ninh công công hai người khom người vâng lệnh.

Đỗ Văn Hạo đề bút viết đơn thuốc, gi­ao cho Thái y viện ngự dược đích thân theo phương bắt dược. Tuy Hoàng thượng đã hồi tỉnh trở lại nhưng Thái hoàng Thái hậu, Hoàng thái hậu cũng như Hoàng Hậu không ai dám nhắc câu nào đến chuyện phế trừ biến pháp nữa, đành cáo từ rời đi.

Sau khi chờ các nàng lần lượt rời đi hết, Tống Thần Tông mới trở mình ngồi dậy, quay sang Đỗ Văn Hạo mà cười nói: “Khanh lại lần nữa giúp trẫm thoát khỏi chuyện khó xử rồi. Khanh làm rất tốt!”

Đỗ Văn Hạo thi lễ rồi nói: “Hoàng thượng, bệnh suy thận của ngài thật sự đã nghiêm trọng hơn rồi đó. Phải nghiêm trọng trị liệu thôi”.

Tống Thần Tông cười nói: “Lúc nãy trẫm đã nghe khanh nói hết rồi. Khanh nói như vậy cũng đúng, sao cũng được miễn là Thái hoàng Thái hậu với Hoàng thái hậu không khóc lóc đòi trẫm phế trừ biến pháp nữa”.

“Hoàng thượng, vi thần thật sự không nói quá lời đâu! Nếu như Hoàng thượng không kịp thời và nghiêm túc chữa trị căn bệnh này thì khéo còn nguy hiểm đến tính mạng đó”.

Tống Thần Tông nhíu nhíu mày: “Chuyện này lần trước khanh cũng đã nói qua với trẫm rồi. Nhưng trẫm vẫn thấy cơ thể mình chẳng có chỗ nào không ổn cả, trừ việc tâm lý nhiều khi không thoải mái lắm. Thỉnh thoảng cũng bị mất ngủ, nhưng cái đó thì có nghiêm trọng gì đâu đúng không? Thôi khanh cứ kê một đơn thuốc cho trẫm uống điều trị bệnh là được chứ gì?

“Nhưng thưa Hoàng thượng, bệnh này không phải cứ điều trị là có kết quả tốt một cách dễ dàng. Phải đối chứng hạ dược, và nghiêm khắc uống thuốc theo kế hoạch điều trị. Nếu người cứ lúc uống lúc không thì việc điều trị sẽ không có hiệu quả gì đâu”.

“Thôi được, Thái hoàng Thái hậu cũng vừa mới nói rồi, cho khanh ở lại bên cạnh trẫm vài ngày tập trung chữa bệnh. Khanh cứ nhắc nhở đốc thúc trẫm, trẫm cũng sẽ không làm khó khanh đâu, sẽ theo yêu cầu của khanh mà uống thuốc đầy đủ. Thế là được rồi chứ hả?”

Tống Thần Tông lại một lần nữa thành công trong việc giả ngất để trốn tránh Thái hoàng Thái hậu và các nàng đến khóc than can gián. Hơn nữa, Đỗ Văn Hạo có thể nói là biết cách cường điệu sự việc nên áng chừng trong vài bữa nữa Thái hoàng Thái hậu các nàng chắc sẽ không dở chiêu khóc than để ép mình phế trừ biến pháp nữa. Nghĩ vậy nên tâm tình Tống Thần Tông vô cùng cao hứng, cười ha ha rồi đứng lên đi tới bên thư án tiền ngồi xuống.

Vốn dĩ tâm tình đang rất tốt nhưng khi nhìn thấy đống tấu chương trên bàn, Hoàng thượng không tránh được việc cảm thấy buồn bực. Nụ cười lại tan biến, Hoàng thượng bỗng chốc trở nên ngẩn ngơ, người thừ ra một lúc. Rồi người thở dài và chậm rãi cầm tấu chương lên bắt đầu phê duyệt.

Đỗ Văn Hạo không thấy Hoàng thượng nói cho phép hắn rời đi. Mà thuốc còn chưa được mang tới nên hắn lẳng lặng đứng ở góc tường phía sau. Dù gì thì Thái hoàng Thái hậu cũng đã lệnh cho hắn phải luôn túc trực chăm sóc cho sức khỏe của Hoàng thượng rồi còn gì.

Một lát sau, Tống Thần Tông đột nhiên giơ tay, đạp một phát thật mạnh xuống trác án. Nghe bịch một cái, Đỗ Văn Hạo hoảng sợ liếc mắt nhìn, chỉ thấy Tống Thần Tông sắc mặt xanh mét, tay cầm một bản tấu chương ném xuống đất. Rồi Hoàng thượng đứng dậy, tay bắt chéo sau lưng không ngừng đi đi lại lại trong phòng.

Đỗ Văn Hạo vội vàng quay đi chỗ khác, khoanh tay mà đứng im. Tốt nhất hắn không nên quan tâm đến những chuyện không thuộc phận sự của mình.

Cứ đi tới đi lui hết vòng này đến vòng khác một hồi, bỗng Tống Thần Tông đột nhiên đứng lại, tay chỉ Đỗ Văn Hạo lớn tiếng nói: “Khanh thử nói cho trẫm biết xem nào, biến pháp rốt cuộc thì là tốt hay không tốt?”

Chương 300: Biến pháp chi biện.

Gởi bởi người có lòng!

Vậy thì tóm lại Đỗ Văn Hạo nghĩ thế nào về biến pháp? Tính đến thời hắn thì biến pháp đã tồn tại được hàng nghìn năm. Chỉ cần để ý đến lịch sử một chút là biết biến pháp cuối cùng cũng bị thất bại. Đó không phải là một lựa chọn đúng đắn mang tính lịch sử. Ngoài nguyên nhân dễ nhận thấy nhất là bản thân biến pháp chưa phải là một chính sách hoàn thiện, việc thực thi nó cũng phát sinh nhiều điểm bất lợi ngoài dự tính. Chẳng hạn như việc các quan lại lợi dụng những chính sách của biến pháp để làm lợi cho bản thân. Rồi Vương An Thạch, cha đẻ của biến pháp lại là một người có thể nói là cao ngạo tự phụ. Những điều này nhiều khi không phải chỉ vài dòng trong sách lịch sử là có thể nói rõ cho thế hệ sau hiểu được.

Còn tính đến bây giờ thì biến pháp cũng đã tồn tại được hơn hai mươi năm. Rất nhiều vấn đề liên quan đến nó đã được các quan lại làm tấu chương bẩm báo cho Hoàng thượng. Những ngày vi hành trước đó lại càng giúp Hoàng thượng thấy rõ hơn thực tế của việc thực thi biến pháp ở trong dân chúng như thế nào. Nên có thể nói, giờ đây trong bụng Tống Thần Tông đã rõ hơn ai hết những ưu điểm cũng như khuyết điểm của biến pháp. Ngay lúc này đây, câu hỏi mà Tống Thần Tông đưa ra quả thật không phải là muốn tìm kiếm một đáp án cho nó, mà chỉ là thuận mồm mà thốt ra thôi.

Đỗ Văn Hạo trong nháy mắt tự nhủ phải suy nghĩ thật kỹ trước khi trả lời câu hỏi này. “Không được hồ đồ” là những gì hiện ra trong đầu hắn. Không cần suy nghĩ nhiều cũng biết được lúc này hắn phải chịu hai tầng áp lực. Thứ nhất là không được để lộ ra rằng mình là người của tương lai, không được đề cập đến những vấn đề lịch sử vốn khá rõ ràng trong đầu hắn. Thứ hai, quan trọng hơn cả chính là việc hắn đang nói chuyện với Hoàng Thượng, mà Hoàng Thượng là ai cơ chứ? Có thể nói năng hồ đồ sao? Biến pháp mặc dù không thuận lợi, nhưng cũng đang là thứ mà ông ta hy vọng, nói linh tinh không hợp ý thì không biết cái đầu có còn trên cổ hay không.

Suy nghĩ cẩn thận một hồi, Đỗ Văn Hạo khom người nói: “Hoàng thượng, biến pháp là vấn đề quốc gia đại sự. Vi thần chỉ là một tiểu ngự y, đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ đến thang này thuốc kia. Đối với những chuyện chính sự như vậy, thật sự vi thần không dám to gan bình luận.”

“Trẫm hôm nay chính là muốn nghe quan điểm của một người không biết gì về chính sự như khanh. Khanh không phải lo lắng nhiều, cứ thoải mái nói những gì khanh nghĩ. Dù thế nào trẫm cũng sẽ thứ tội cho khanh”.

Đỗ Văn Hạo có chút sửng sốt. Nhưng kinh nghiệm đã bảo cho hắn không nên xúc động mà nói năng lung tung. Mặc dù hồi trung học hắn đã được học về biến pháp của Vương An Thạch và nghiên cứu, đánh giá về nó, nhưng đó là những kết luận trong quá trình hơn một ngàn năm, của rất nhiều các vị học giả nghiên cứu đi nghiên cứu lại vấn đề. Do đó, chắc chắn những nhận xét này đều sẽ rất khách quan và chính xác, nhưng Đỗ Văn Hạo cũng biết những lời này nói ra chắc chắn Tống Thần Tông sẽ không muốn nghe. Chẳng phải “thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng” hay sao. Lời thật sẽ luôn là khó nghe, cho dù Hoàng thượng có xá tội cho tất cả những gì mà hắn nói ra thì Đỗ Văn Hạo cũng quyết định mình chẳng tội gì mà cao hứng đi sờ cái vuốt sắc của con cọp cho chuốc họa vào thân.

Nghĩ tới đây, Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Hoàng thượng, vi thần thật sự không có nhiều hiểu biết về biến pháp nên không biết phải nói gì bây giờ?’

Tống Thần Tông chăm chú nhìn hắn trong chốc lát, “hừ” một tiếng rồi chỉ tay vào tấu chương nằm trên mặt đất nói: “Vậy khanh thử xem qua cái tấu chương kia xem nào”.

“Vâng ạ”, Đỗ Văn Hạo tiến lên, khom lưng cúi xuống nhặt lấy tấu chương rồi chăm chú đọc. Đây là tấu chương mật về vấn đề quân bị đến từ thành đô phủ lộ nơi biên giới tiếp giáp với quốc gia Đại Lý. Tấu chương có nói người dân ở đó vì phản đối Thanh miêu pháp đã tạo biến. Quan phủ điều quân trấn áp khiến bạo dân phải lùi dần vào núi rồi tập hợp lại thành một nhóm loạn quân. Những cuộc chiến giữa nhóm loạn quân này với quan quân triều đình khiến dân chúng chết vô số, chưa kể đến gia súc vật nuôi…Thừa dịp này, các bộ tộc phiến loạn cũng tập hợp quân, liên tục gây phiền nhiễu khiến đời sống dân chúng vùng đó cũng như công cuộc dẹp loạn gặp vô cùng khó khăn.

Đỗ Văn Hạo xem xong thì khom người đặt lại bản tấu chương lên long án. Sau đó đứng khoanh tay im lặng không nói một lời.

Thấy Đỗ Văn Hạo cứ lặng im không nói gì, Tống Thần Tông cất tiếng: “Khanh thấy thế nào?”

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một chút rồi kính cẩn nói: “Dân chúng bình thường chỉ cần có chút cơm để ăn, nếu không bị đói sẽ không bao giờ đến mức gây biến tạo phản. Việc này chắc hẳn còn nguyên gì đó chứ không chỉ riêng vì Thanh Miêu pháp. Tuy nhiên việc đó chắc phải quy điều tra thì mới biết chính xác mà nói được. Vi thần không sống ở địa phương đó nên không dám nói bừa.

“Khen cho câu nói không điều tra thì không biết chính xác mà nói được của khanh! Nói cho cùng, khanh đã đi theo trẫm vi hành một thời gi­an, đối với Thanh Miêu pháp nhiều ít thì cũng đã biết qua. Chúng ta ở tận đây, để điều tra được rõ ràng không phải là điều dễ dàng. Trẫm muốn nghe những suy đoán của khanh về vấn đề này vậy. Trẫm đã nói hôm nay khanh cứ thoải mái nói những gì khanh nghĩ, trẫm hứa sẽ không trách phạt gì”.

“Đa tạ long ân của Hoàng thượng”. Đỗ Văn Hạo nghĩ nhanh, Hoàng thượng đã hai lần cho phép hắn thoải mái nói ra những suy nghĩ của mình chứng tỏ người cũng coi trọng hắn. Nếu hắn hết lần này đến lần khác từ chối không nói gì thì không phải sẽ làm Hoàng thượng mất hứng lắm sao. Nghĩ vậy, hắn nghĩ thêm một chút rồi nói: “Vi thần cho rằng Thanh Miêu pháp về cơ bản là một chính sách tốt và tiến bộ, có thể tránh cho dân chúng phải chịu khổ trước những hành động cho vay nặng lãi, lại giúp triều đình có thể gia tăng nguồn thu, như vậy chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện, song thắng hành động sao.

Tống Thần Tông mặt lộ vẻ mỉm cười, gật đầu nói: “Khanh coi như cũng có chút kiến thức về An Thạch biến pháp. Quả thật là biến pháp đã giúp cho quốc khố đầy lên thật. Nhưng khanh nói xem, nếu đây cũng là một chính sách tốt cho dân chúng thì sao họ lại không ủng hộ mà hết lần này đến lần khác, hết nơi này đến nơi khác phản đối dữ vậy?”

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, biến pháp nếu như làm cho quốc khố gần đầy thì tất nhiên tiền đó từ đâu ra mà không phải là từ hầu bao của dân chúng. Trong khi dân chúng trước giờ phần lớn là vẫn đói nghèo, nhiều người thậm chí đến bát cơm cũng không có thì làm sao họ ủng hộ được cơ chứ. Tuy nhiên thật khó có thể tìm lời hợp lý để giải thích cho Hoàng thượng hiểu được nên Đỗ Văn Hạo quyết định phải chuyển đề tài: “Lần trước, khi vi thần theo Hoàng thượng đi vi hành, vi thần từng cùng Vương An Thạch Vương đại nhân trò chuyện về biến pháp, nghe nói Thanh miêu pháp từng được Vương đại nhân xem xét, kiểm chứng và thông qua. Vương đại nhân cũng đã từng có lần áp dụng thí điểm về Thanh miêu pháp trong một vùng và được họ vô cùng hoan nghênh”.

“Không sai. Nhưng tại sao khi áp dụng trên cả nước thì lại kích khởi dân chúng phản đối như vậy?”

“Vi thần nghĩ rằng, khi áp dụng thí điểm tại một vùng, phạm vi áp dụng có thể nói là khá nhỏ nên những điểm tốt của Thanh miêu pháp được tận dụng rất tốt. Nếu có phát sinh vấn đề gì rắc rối thì ngay lập tức có thể giải quyết, khắc phục. Như vậy, biến pháp đã được thực thi đúng với ý tưởng ban đầu của nó, và tất nhiên là toàn ý tốt cho cả quốc gia lẫn người dân. Nhưng khi áp dụng mở rộng cho toàn đất nước thì không dễ dàng như khi áp dụng thí điểm cho một vùng. Nhiều nơi gặp khó khăn không thể giải quyết ngay, mỗi cùng lại giải quyết một kiểu khiến bắt đầu xuất hiện bất đồng giữa các vùng. Rồi những tham quan ô lại bắt đầu xuất hiện, mượn biến pháp để làm lợi cho bản thân, bóc lột của dân chúng. Điều này đã khiến Thanh miêu pháp bị biến dạng, không còn giữ được những ưu điểm như nguyên bản ban đầu.”

Đỗ Văn Hạo dự đoán những lời này sẽ không khiến Tống Thần Tông cảm thấy bất ngờ vì thể nào cũng có người tâu với Hoàng thượng rồi. Thật ra, quan lại trong triều hầu như ai cũng biết phương châm ban đầu của biến pháp là “Vi chi dĩ, hoãn nhi mưu chi” (sử dụng trước, trả dần sau) nhưng rồi Vương An Thạch vì quá nôn nóng với mục tiêu làm được cái gì đó nhân dịp năm mươi năm thanh lập đất nước Trung Quốc nên đã vội vàng mà bỏ qua quy luật làm việc tự nhiên, do đó Thanh Miêu pháp đã gặp phải tác dụng ngược.

Những lời này của Đỗ Văn Hạo nếu nói ra những ngày biến pháp mới bắt đầu được áp dụng chắc chắn sẽ khiến Tống Thần Tông vô cùng tức giận. Nhưng lúc này tình huống đã có sự thay đổi lớn. Nhất là khi Hoàng thượng đã có cơ hội được chứng kiến tận mắt những gì mà tác dụng ngược của biến pháp gây ra, chắc người sẽ cân nhắc cẩn thận hơn. Quả thật, Tống Thần Tông giật mình, mặt lộ vẻ hoài nghi chăm chăm nhìn Đỗ Văn Hạo rồi hỏi lại: “Khanh nói rõ hơn một chút xem nào? Biến pháp đã bị biến đổi gây tác dụng ngược như thế nào?”

Những lời Đỗ Văn Hạo vừa nói chính là những đánh giá của các học giả đối với biến pháp mà hắn được học thời ở trung học. Giờ Hoàng thượng muốn hắn nói rõ hơn, quả thật chẳng còn cách nào khác nên hắn đành kiên trì nhớ lại những kiến thức đó, rồi cân nhắc từng câu chữ để nói với Tống Thần Tông: “Lần vi hành trong dân chúng vừa rồi, thần nghĩ Hoàng thượng đã nhìn thấy phần nào vấn đề đó. Thanh miêu pháp ban đầu là cho phép dân chúng tự nguyện có vay hay không, nhưng khi áp dụng đã bị các quan lại biến thành ép buộc. Những người không muốn vay thì phải vay, những người muốn vay thì lại không được vay. Lãi suất cũng bị đội lên rất nhiều lần. Như vậy biến pháp không còn là một chính sách hỗ trợ cho dân chúng mà lại trở thành gánh nặng cho dân chúng mất rồi”.

Tống Thần Tông gật đầu đồng ý, trầm giọng nói: “Trẫm đã cho điều tra không ít quan lại như vậy, và đã trừng phạt rất nặng, theo ý kiến của ngươi tại sao làn sóng phản đối vẫn không ngừng?”

“Con người ta ai ai cũng hám lợi cả. Vì tiền bạc của cải thì chỉ cần biết việc gì có mang lại lợi nhuận là con người ta sẽ không ngại mà phạm luật. Dùng quyền lực quan lại đi kiếm tiền đối với quan lại từ xưa đến nay mà nói vẫn là cách kiếm tiền có thể coi là dễ dàng nhất, cho nên những quan lại có thể kháng cự lại mối lợi này có thể khẳng định là không có nhiều.

Tất nhiên những con người không có trái tim này luôn rất giàu có.”

“Cũng đúng. Thế khanh cảm giác được vấn đề lớn nhất của Thanh miêu pháp lúc này là gì?”

Thấy Hoàng thượng chăm chăm hỏi mình - một thái y trẻ tuổi - việc quốc gia đại sự như thế này, Đỗ Văn Hạo không khỏi cảm thấy rúng động trong lòng. Hắn muốn cân nhắc kỹ càng, nhưng rồi không hiểu sao hắn vẫn thốt lên: “Quan thương sẽ khó có thể sáng suốt để phân định rạch ròi được hai chuyện đó”.

Tống Thần Tông trong lòng cảm thấy chấn động, chậm rãi hỏi: “Khanh nói vậy có ý gì?”

“Chính phủ nên là cơ quan kiểm soát các vấn đề kinh tế xã hội, chứ không nên tham gia trực tiếp”.

Đỗ Văn Hạo thật ra không có chuyên môn về kinh tế học nên kỳ thật, hắn không hiểu nhiều về các nguyên lý kinh tế. Nhưng ở trung học hắn đã được học về Kinh tế chính trị, lại sinh sống ở xã hội hiện đại nên những tin tức nóng, những nguyên lý nổi tiếng ngày ngày xuất hiện trên báo chí phần nào tác động đến hắn, khiến hắn không muốn nhớ cũng đã ghi dấu ấn trong đầu.

Đối với Đỗ Văn Hạo thì như vậy, nhưng với Tống Thần Tông, trước giờ ngài chưa bao giờ nghe qua những lời nói như vậy. Hoàng thượng ngạc nhiên mà hỏi lại: “Cái gì là chính phủ? Cái gì là cơ quan kiểm soát?”

“Chính phủ chính là quan phủ triều đình, là nha môn. Đơn giản mà nói, đối với các hoạt động kinh tế của quốc gia, triều đình nha môn nên là người giữ gìn trật tự, xây dựng và đưa ra những thể chế, quy tắc rồi kiểm tra việc áp dụng xem có đúng như đã đề ra hay không? Nếu như không có vấn đề gì, triều đình có thể an hưởng thái bình. Nếu như có chuyện thì phải đứng ra triệt để giải quyết, trừng phạt thẳng tay những kẻ vi phạm để người khác nhìn làm gương, không dám vi phạm tiếp. Nhưng dù gì thì triều đình cũng không được đứng ra trực tiếp buôn bán kinh thương. Nếu triều đình làm vậy, quan lại sẽ lợi dụng chức quyền mà vơ vét cho đầy túi tham, việc này lịch sử ngàn năm đã có nhiều minh chứng lắm rồi. Đương nhiên, cũng có trường hợp mà triều đình có thể kinh doanh buôn bán, khi đó phải tách quốc khố ra, thành lập bộ phận kinh doanh quốc doanh tự chủ hạch tính độc lập và cùng phải thiết lập nên công ty giám sát, kiểm tra cơ chế kinh doanh đó.

Đỗ Văn Hạo tuôn một tràng, lại sử dụng một số từ ngữ chỉ có trong xã hội hiện đại khiến Tống Thần Tông nghe xong mà thấy ong ong, không hiểu ra sao. Có vài chuyện như nha môn kinh thương hay quan viên lợi dụng chức quyền gì đó thì Hoàng thượng còn hiểu và cũng biết đó là bệnh chung của bất cứ triều đình nào mà chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Nhưng với đề xuất của Đỗ Văn Hạo thì ngài vẫn còn ù ù cạc cạc chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, bèn cau mày hỏi lại: “Cái gì là công ty, cái gì là quốc doanh?”

“Công ty chính là một tổ chức cơ cấu chuyên môn về việc buôn bán, quốc doanh ngụ ý triều đình quan phủ làm ăn kinh doanh. Quan viên triều đình muốn kinh doanh phải tách ra độc lập thì mới không thể lấy quyền lực triều đình ra hậu thuẫn, tránh được tình trạng lạm dụng chức quyền mà ngư lợi”.

Thì ra là vậyĐạo lý này nếu phân tích vậy thì Tống Thần Tông đương nhiên có thể hiểu rõ, nhưng là có một vấn đề mà Hoàng thượng nghĩ chưa ra, bèn hỏi luôn: “Nhưng nếu không kiếm tiền thì làm sao lấp được đầy quốc khố?”

“Hoàng thượng, biến pháp ngay từ đầu có nêu rõ chỉ khi dân chúng an cư lạc nghiệp thì mới có thể quốc thái dân an”.

“Thì đương nhiên là vậy! Khanh có ý tưởng gì cụ thể hơn không?”

Tất nhiên là Đỗ Văn Hạo sẽ có ý tưởng, vì những điều này trong sách của hắn khi học ở trung học cũng đã có nói qua rồi. Tuy không nhớ hết tất cả những gì trong sách nói nhưng quả thực, nếu cần phải nói Đỗ Văn Hạo vẫn có thể nói được. Nhưng vấn đề là có nên dùng những kinh nghiệm đúc kết qua bao nhiêu năm của thế hệ tương lai để thay đổi quá khứ hay không? Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một hồi rồi tự nhủ, nếu những điều hắn tiết lộ mà có thể giúp tu chỉnh biến pháp, đem lại những lợi ích thiết thực thì chắc nói ra một ít cũng không sao.

Đỗ Văn Hạo ho nhẹ một tiếng, nói: “Bẩm Hoàng Thượng, vi thần nghĩ rằng cái chưa được của Thanh miêu pháp chủ yếu nằm ở việc các quan lại thi hành nó không đúng với ý tưởng ban đầu, thậm chí còn biến hóa nó theo hướng có lợi cho bản thân. Chỉ cần các quan lại có quyền lực tham dự vào, họ sẽ vì lợi ích cá nhân mà làm sai biến pháp. Rồi cuối cùng đáng nhẽ là “huệ dân chính sách” (chính sách tốt cho dân) thì Thanh miêu pháp lại biến thành “hại dân chính sách! Cho nên, nếu muốn Thanh miêu pháp giữ nguyên như tư tưởng ban đầu, chỉ phát huy ưu điểm của nó thì phải tiến hành cải cách, phải tách quan lại khỏi việc kinh doanh. Nói cách khác, phải biến “quan làm kinh doanh” thành “dân làm kinh doanh”, đưa nó hoạt động theo những quy luật kinh tế của thị trường, từ đó mới có thể thực hiện song doanh được.”

Đỗ Văn Hạo liên tiếp dùng những thuật ngữ và kiến thức của kinh tế chính trị học hiện đại trong lời nói của mình khiến Hoàng Thượng lại càng trợn tròn mắt, câu hiểu câu không: “Khanh nói rõ hơn chút xem nào? Như thế nào để có thể cải cách biến pháp?”

“Quan phủ cùng quan buôn giờ phải tách biệt hẳn nhau ra. Đối với quan buôn thì phải tiến hành phân chế cải tạo!” Đỗ Văn Hạo cố gắng mãi mà vẫn không sao tìm được những từ ngữ thích hợp để có thể giải thích cho Hoàng Thượng nghe. Cái khái niệm quan buôn, ngay ở thời hiện đại còn khó tách bạch ra, nói gì tới thời cổ đại này. Hắn suy nghĩ một chút và thấy có khi cứ dùng các thuật ngữ hiện đại lại còn dễ hiểu hơn, bèn nói: “Quan buôn ở đây có thể hiểu là những quan lại có dính dáng đến chuyện tiền nong của quốc khố, có khả năng kiếm thêm tiền từ các nguồn của quốc khố. Những quan buôn nà phải tách bạch ra so với các quan lại thực hiện nhiệm vụ cụ thể đơn thuần, không dính dáng tới vấn đề quốc khố.”

Lòng vòng một hồi, Đỗ Văn Hạo nhìn mặt của Hoàng Thượng thì cảm thấy mình cũng bị lây cái sự mù mờ từ ông ta. “Hoàng Thượng, đơn giản mà nói chính là đơn vị được gi­ao việc cho dân vay vốn theo Thanh miêu pháp phải độc lập hoàn toàn với đơn vị phụ trách quốc khố, mà trước giờ thường là quan phủ thực hiện cả hai. Đồng thời phải cải cách phú thương, đưa vào khuôn khổ hoạt động. Quan buôn với phú thương có thể kết hợp hình thành nên một thứ, cứ gọi là xí nghiệp đi. Xí nghiệp sẽ tiến hành hoạt động cho vay trên cơ sở Thanh Miêu pháp, khi làm vậy họ sẽ thu được lợi nhuận cùng nhau hưởng. Lợi nhuận sẽ được chia trên cơ sở góp vốn của hai bên.”

Đỗ Văn Hạo lúc này đã mang khái niệm về mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần để giải thích về Thanh miêu pháp cho Tống Thần Tông nghe. Hắn nhìn vẻ mặt kinh ngạc của Tống Thần Tông, tiếp tục nói: “Cái gọi là xí nghiệp này phải thực hiện hạch toán độc lập. Tức là thế này, quan phủ cử ra một người, có thể là quan lại trong bộ máy của phủ đó, tham gia vào việc quản lý phần góp vốn của quốc khố. Người này phải tách bạch hoàn toàn với các nhiệm vụ, quyền lực khác trong hệ thống quan quyền, đảm bảo không tự tư tự lợi. Xí nghiệp có cả phần góp vốn của thương buôn, tư nhân. Phần góp vốn của quan phủ không được vượt qua một nửa. Có thể chia tất cả vốn của một xí nghiệp ra làm nhiều phần nhỏ, mỗi phần đại diện cho một đơn vị lợi ích, gọi là cổ phần. Mỗi cá nhân góp vốn được nhận số cổ phần tương đương với giá trị vốn mình góp. Cổ phần này còn đại diện cho tiếng nói của người góp với cả xí nghiệp. Mỗi khi có vấn đề lớn, sẽ tiến hành bỏ phiếu, rồi quyết định dựa trên quy tắc thiểu số phục tùng đa số. Như vậy, người góp nhiều vốn sẽ có nhiều tiếng nói, nhiều quyền lợi hơn.”

“Chờ một chút!” Tống Thần Tông thấy Đỗ Văn Hạo lại chuẩn bị nói tiếp liền giơ tay chặn ngay họng hắn lại: “Ngươi nói chậm một chút đi, trẫm nghe không rõ.” Đồng thời đi lại long án ngồi xuống, đưa tay vẫy vẫy ý bảo Đỗ Văn Hạo cũng ngồi xuống.

Đỗ Văn Hạo nhìn thấy ánh mắt đầy hứng thú và chờ mong của Tống Thần Tông thì gánh nặng trong lòng đã được giải khai. Hắn liền khom người tạ lỗi, rồi lễ phép ngồi xuống, nhưng cũng chỉ dám ghé ghé cái mông vào cái ghế. Trong đầu thì bắt đầu suy nghĩ thêm nên giải thích tiếp như thế nào. Suy nghĩ một hồi, hắn đem mọi kiến thức mà hắn còn nhớ về công ty cổ phần, rồi công ty trách nhiệm hữu hạn ra giải thích cho Tống Thần Tông nghe. Hắn cũng nói qua về việc tái cơ cấu, rồi chuyển đổi mô hình, cả về việc họp cổ đông lẫn mô hình quản lý trong công ty như hội đồng quản trị, ban giám đốc rồi các cấp trưởng phòng, ban giám sát. Biện pháp biểu quyết thường được dùng khi ra quyết định. Còn cả việc làm sao để thành lập nên những doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân rồi hợp doanh, cách nào thì hợp lý nhất để có thể áp dụng và quản lý những chính sách trong Thanh Miêu pháp.

Đỗ Văn Hạo mặc dù tốt nghiệp đại học về y khoa nhưng chuyên ngành pháp y. Trong số những môn học hắn được học ở trường ngoài những kiến thức chuyên môn về y dược, hắn còn được học những môn đại cương về luật dân sự hay luật công ty. Thêm nữa hắn cũng đã từng tìm hiểu qua về vấn đề này khi đi thi tuyển xin việc nên cũng có được những kiến thức cơ bản nhất.

Tống Thần Tông chăm chú lắng nghe những gì Đỗ Văn Hạo nói. Tuy chưa thật sự hiểu được ngay những gì hắn đang giảng giải nhưng chỗ nào không hiểu, Tống Thần Tông lại hỏi lại ngay, mải mê tìm hiểu đến mức thuốc đưa lên cũng không có động tay mà nâng lên uống. Hai người liên tục hỏi han, giảng giải, thoáng chốc đã nhiều canh giờ trôi qua và cuối cùng, Tống Thần Tông cũng hiểu được hết những khái niệm mới mà Đỗ Văn Hạo đã đưa ra đó.

Cuối cùng Đỗ Văn Hạo chốt lại: “Nếu áp dụng cơ chế phân luồng, thực hiện biện pháp hạch toán độc lập giữa những quan phủ và quan buôn thì sẽ tránh được việc quan lại triều đình lợi dụng chức quyền khi thực thi Thanh miêu pháp. Đồng thời cũng tránh được việc chia bè chia phái trong đội ngũ quan lại hay việc cấu kết làm liều ở những quan chức địa phương. Việc phân chia, xác định lợi tức cũng có thể linh loạt căn cứ trên thực trạng việc cất trữ lương thực và nhu cầu thị trường ở địa phương đó, tránh việc tạo cầu giả để đẩy lợi tức cao lên. Một việc hết sức quan trọng đó là phải tạo ra các cơ chế cho phép các địa phương có sự tự do nhất định trong phát triển. Bản thân những người dân, phú hộ, thương nhân của mỗi địa phương hay trên cả nước đều phải được quyền tự do cạnh tranh với nhau. Luật lệ đưa ra phải công bằng, bảo vệ quyền lợi của những người góp vốn, đặc biệt là với những xí nghiệp có cả phần vốn của quan phủ. Có như vậy mới thúc đẩy mọi người đồng tâm hiệp lực cùng phát triển xí nghiệp, tạo động lực cho mọi người dân phấn đấu làm giàu.”

Đối với Tống Thần Tông mà nói, đây là một cái quan điểm hoàn toàn mới, mới so với tất cả những gì đã từng xảy ra từ các thế hệ trước, mới cả với những gì mà ông ta có thể tưởng tượng được. Ngồi mấy canh giờ mới có cảm giác lờ mờ hiểu được những gì hắn nói, nhưng sau đó Tống Thần Tông vẫn phải trầm ngâm một lúc khá lâu rồi mới nói: “Biện pháp của khanh thực sự là rất mới lạ. Bất quá, Trẫm nghe nói khi dùng thuốc, chẩn bệnh khanh cũng vẫn hay có những phương pháp rất mới lạ, khác người, nên cũng không coi đây là điều gì đáng ngạc nhiên. Chỉ là, những quan điểm này quả thật là quá mới, ngay bản thân trẫm cũng chưa thể lĩnh hội ngay, nói gì tới những người khác.” (Mịa, lão này tự tin quá ta)

“Chính vì vậy, để thực hiện thì cần phải tuần tự như tiến. Trước tiên tiến hành thí điểm ở quy mô nhỏ, sau khi thành công thì mới mở rộng ra. Lúc đó mọi người đã nhìn thấy một mô hình thành công thì sẽ dễ bị thuyết phục hơn. Chỉ là chúng ta cần phải kiên nhẫn một chút mà thôi.” Đỗ Văn Hạo dường như đã tính trước tất cả những lo lắng của Tống Thần Tông.

Tống Thần Tông mỉm cười: “Ha ha, hôm nay khanh được phen giáo huấn trẫm nhỉ…”

Đỗ Văn Hạo kinh hãi vội vàng khom người nói: “Vi thần không dám! Vi thần chỉ là…”

“Không cần phải lo lắng thế. Khanh nói không sai, trẫm cũng đã chừng mực nào đó phát hiện ra biến pháp chỉ có những tác dụng nhất thời và trong ngắn hạn, có thể nói chỉ là giải pháp nhất thời. Các biện pháp trong đó cũng chưa được thực hiện một cách cương quyết, đúng với tôn chỉ: “Vi chi dĩ, hoãn nhi mưu chi” (sử dụng trước, hoàn trả sau) mà trẫm thực sự đã đề ra. Ân khan bộ pháp thì cũng khá là tiên tiến, giúp trẫm sáng ra rất nhiều. Rất tốt. Giờ thì trẫm muốn biết thêm suy nghĩ của khanh biến pháp cũ, khanh cứ thoải mái nói xem nào”.

Đỗ Văn Hạo đang rất cao hứng nên suy nghĩ một chút rồi khom người nói: “Trước tiên phải nói về Mộ dịch pháp”

“Được. Trẫm nghe đây”

“Mộ dịch pháp quy định về việc thuê người. Hiện nay cần có biện pháp để các gia đình phú hộ, các địa chủ từ lớn tới nhỏ, từ kinh thành cho tới các địa phương khác, giải phóng các lao động làm thuê, những người làm nha hoàn, gia đinh, vân vân trong những nhà này. Cái này rất có thể cần các nguồn kinh phí từ triều đình, hỗ trợ cho các địa chủ, phú hộ. Cũng phải xuất tiền để hỗ trợ các gia đình nông dân gặp khó khăn về tài chính. Vấn đề này mặc dù nghe có vẻ không tốt, nhưng thực ra lại rất có lợi bởi người nông dân được giải phóng, sức lao động được tăng cao, năng lực làm việc cũng sẽ tăng cao. Sức dân được bồi dưỡng thì quốc gia có lợi. Có thể nói là nhất cử lưỡng tiện.”

Tống Thần Tông nghe vậy thì mỉm cười nói: “Vậy vì sao một chính sách nhiều lợi ích như vậy lại bị nhiều người phản đối, thậm chí có không ít người phản đối rất kịch liệt?”

“Khởi bẩm Hoàng Thượng! Mấu chốt chính là từ trước tới nay mọi người vẫn có tâm lý sợ bị thiệt. Việc giải phóng những nha hoàn, gia đinh không có việc trong các gia đình giàu có có thểảnh hưởng tới các gia đình này nhiều, nhưng nó cũng khiến họ bị thiệt thòi. Bản thân triều đình nếu có chính sách, có xuất ngân quỹ ra nhưng chưa chắc lúc đến tay họ thì được đúng như theo luật định.

Trên thực tế, có rất nhiều gia đình nghèo khó, bao gồm cả những hộ không có nam, những hộ chỉ có một nam, vân vân, đều muốn nhận được trợ giúp. Chính sách này nếu không làm cẩn thận sẽ không đạt hiệu quả. Việc quyết định hộ nào được giúp đỡ, hộ nào không, phân chia thế nào, vân vân, đều phải do các quan phụ mẫu địa phương quyết định. Thế nhưng chính sách lại không đề cập tới quyền lợi của các quan lại phụ trách việc này. Hơn nữa, ngân sách của các địa phương cần dùng vào rất nhiều việc, không biết cân đối thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, nếu lợi ích không được đảm bảo, mà nghĩa vụ lại nhiều, các quan lại sẽ không muốn thực hiện.”

Khuôn mặt Tống Thần Tông trầm ngâm một lát rồi khẽ sáng lên, chậm rãi nói: “Tốt lắm, khanh hãy nói tiếp ý kiến của mình về các biến pháp khác trẫm nghe.”

“Dạ vâng! Tiếp theo thần xin nói về Dịch pháp. Các quan phủ phụ trách dịch ty đều được phép làm nhiệm vụ bình ổn giá cả, thu mua vật tư hàng hóa tích trữ. Lúc khan hiếm thì xuất ra để tránh tình trạng giá cả lên cao, lúc thừa thì xuất tiền mua vào kho để giá cả không đi xuống. Đồng thời việc bình ổn giá này của các quan phủ cũng nhằm hạn chế sự lũng đoạn thị trường của các thương buôn lớn. Nhìn chung, đây cũng là một biến pháp có nhiều lợi ích, nhưng là, nó giống với Thanh miêu pháp, không tách rời được quan lại và quan buôn. Quyền lợi tập trung quá nhiều ở một số người.

Nếu để cho các quan phủ nhúng tay vào vấn đề kinh tế thì sẽ có nhiều điều lo ngại. Lúc trước ở Đông minh huyện vi thần đã xem xét rất rõ ràng, vốn việc mua bán phải theo giá thị trường để đảm bảo quyền lợi của dân chúng, nhưng thực tế các quan lại đã tiến hành mua bán không công bằng, sử dụng quyền lực của mình để ép dân, mượn cơ hội để trục lợi. Cái này nhìn chung là bệnh của đa số quan lại, khó mà trách một ai đó được. Hơn nữa, vi thần vẫn cảm giác biến pháp này có chút không ổn.”

Tống Thần Tông không tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng giọng có chút tò mò: “Không ổn ở chỗ nào?”

“Dạ bẩm! Quốc gia thiết lập dịch ty, kỳ thật chính là nhằm mục đích đối phó với một số ít thương nhân có vốn lớn, chiếm thị phần chủ yếu, thực hiện các thủ đoạn lũng đoạn thị trường nhằm trục lợi cho mình. Sở dĩ quan phủ có thể làm việc này bởi trên thực tế đối mặt với quan phủ chính là đối mặt với triều đình, nên không ai có gan và dại dột mà dây vào cả. Thế nhưng khi quan phủ kinh doanh, can thiệp vào thị trường với vai tr không khác gì mấy so với một thương nhân lớn khác thì mọi chuyện lại trở nên không ổn. Vốn quan lại dịch ty phải đảm bảo cạnh tranh công bằng thì giờ lại trở thành một thương nhân quá lớn, quyết định hoàn toàn thị trường mà không ai dám phản đối và có thể can thiệp. Thưa Hoàng Thượng, độc quyền chính là địch nhân lớn nhất của phát triển kinh tế, có cạnh tranh thì mới có phát triển. Do đó, Dịch pháp nhìn từ khía cạnh này có thể nói là không thành công.”

Đỗ Văn Hạo nói một hồi trở nên vô cùng cao hứng, thao thao bất tuyệt, đến khi nói xong đoạn này mới chột dạ ngẩng đầu nhìn Tống Thần Tông. Hắn chỉ thấy sắc mặt ông ta đã trở nên xanh mét, tâm lý không khỏi lạnh run, chỉ sợ hứng khởi nhất thời của mình đã khiến cho Hoàng Thượng tức giận trong lòng, vội vàng thưa dạ: “Vi thần dại mồm nói bậy, kính bẩm Hoàng Thượng lượng thứ!”

Tống Thần Tông dừng lại một chút, rồi chậm rãi nói: “Không sao, trẫm đã nói, đêm nay khanh nói gì trẫm cũng xá tội cho khanh, không phải quá lo lắng như vậy. Hơn nữa, ngươi cũng không phải là nói bậy thiếu suy nghĩ. Trẫm nhận thấy từ trước tời giờ mỗi lời ngươi nói ngoài sự suy nghĩ sâu sắc còn khiến trẫm có cảm giác từng trải, lại có một tấm lòng độ lượng, yêu thương dân nghèo. Đỗ Văn Hạo à Đỗ Văn Hạo, khanh tuổi còn trẻ như vậy, y thuật đã đến bực đương kim ngự y trước đây, hơn nữa thuật trị quốc lại có nhiều điểm hơn người. Ha ha, không nghĩ ra bên người trẫm lại còn có một nhân tài đến bực này.”

Đỗ Văn Hạo thực sự không biết Tống Thần Tông nói những lời này xuất phát từ nội tâm hay chỉ là nói ngược những suy nghĩ trong lòng, kinh sợ nói: “Vi thần không dám nhận, vi thần thực chỉ có chút tài lẻ về y thuật, còn cái gì gọi là thuật trị quốc thì vi thần thật không dám nhận!”

“Ha ha, không cần phải khiêm tốn, khanh hãy nói thêm về các biến pháp khác cho trẫm nghe đi.” Tống Thần Tông khoát tay cười.

Nói mãi từ đầu tới giờ, nói ngược nói xuôi mãi cuối cùng xém chút nữa thành xôi hỏng bỏng không, cái đầu cũng không giữ nổi. Bây giờ đã tới nước này thì chỉ còn biết liều mình đánh cuộc một phen mà thôi. Vừa rồi cũng có thể coi như là thoát một phen hú vía, ngược lại còn được Hoàng Thượng khích lệ. Nhiệt huyết Đỗ Văn Hạo tự dưng trào lên, hắn cảm nhận được mình có thể đóng góp một chút cho biến pháp, cho quốc gia, cho dân tộc. Không chừng sau này còn có cái gọi là “Đỗ Văn Hạo biến pháp” gì đó có thể giúp Đại Tống trở thành một siêu cường trên thế giới. Cái này so với việc giúp đỡ một số hữu hạn bệnh nhân thông qua y thuật của mình thì lớn lao hơn không biết bao nhiêu lần. Nghĩ vậy, hắn khom lưng nói tiếp: “Thủy lợi pháp nông điền cùng với Thuế pháp đều là những biến pháp rất có lợi cho dân cho quốc gia. H biến pháp này nếu kiên quyết thi hành thì sẽ mang lại nhiều thành quả. Chỉ là, theo ngu ý của vi thần, thực hiện biến pháp này thì dân chúng cũng không thật sự có nhiều lợi ích.”

Theo như những gì Đỗ Văn Hạo nghe nói thì biến pháp này không thực sự được như mong đợi. Đương nhiên là với lợi thế của cả ngàn năm sau này, có người tổng kết cho hắn hưởng lợi mà thôi. Tống Thần Tông thực thi biến pháp Thủy lợi nông điền cùng với phương điền đích xác không được tốt. Đỗ Văn Hạo không phải là quan phủ, không phải là người thực thi các biến pháp, cũng không phải là người trực tiếp chịu tác động của các biến pháp này, nhưng hắn lại là người biết rõ những gì sẽ xảy ra sau này, và tất nhiên hắn có thể gợi ý cho Tống Thần Tông những điều mà người khác không thể gợi ý được.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Thưa Hoàng Thượng, Bảo giáp pháp có tác dụng không lớn bởi vì việc thực thi quá nghiêm khắc. Điều này mặc dù có tác dụng răn đe mọi người làm theo nhưng ngược lại khiến cho dân chúng có cảm giác mất an toàn, cũng ảnh hưởng tới cảm giác hạnh phúc, yên bình nên thực sự có thể nói là phản cảm với dân chúng.”

“Ừ, sao nữa?” Tống Thần Tông không hề tỏ thái độ gì.

Đỗ Văn Hạo nuốt một miếng nước bọt vào bụng, trái tim khẽ nhảy lên một tiếng, rốt cuộc chấp nhận liều một phen, chắp tay nói: “Hoàng Thượng, vi thần cho rằng để giải quyết triệt để vấn đề, ngoài việc khuyến khích dân chúng làm việc, kinh doanh, không bằng cho phép dân chúng và thương buôn của chúng ta buôn bán với ngoại quốc, lấy thêm nguồn thu từ ngoại quốc về cho ngân khố quốc gia.”

Ánh mắt Tống Thần Tông có chút động, nhưng cũng không phải là hờn giận, nhíu mày nói: “Ồ, vậy nên làm như thế nào?”

Đỗ Văn Hạo đáp luôn: “Khởi bẩm, nên thành lập những công ty quốc doanh chuyên làm nhiệm vụ buôn bán với nước ngoài. Triển khai thông thương với các nước như Đại Lý, Thổ mạc, Đại Liêu, thậm chí cả các nước Tây phục. Mua các sản vật của họ, đồng thời bán các đặc sản chúng ta có nhiều. Trước mắt, tốt nhất là thực hiện buôn bán với Cao Ly, Nhật Bản, tham gia cùng các tuyến thương mại của họ.”

“Cái này cũng không phải là một chủ ý quá mới mẻ.” Tống Thần Tông thản nhiên cười nói, “các triều đại trước đây cũng đã từng làm như vậy, ví dụ như con đường tơ lụa Tây Vực, không phải cũng là đồng dạng như khanh nói hay sao?”

Đỗ Văn Hạo điềm tĩnh lễ phép trả lời: “Dạ đúng, nhưng bất quá những cái này đều có quy mô quá nhỏ, hơn nữa hàng hóa buôn bán ra bên ngoài còn ít, chưa thực sự là những cái mà có thể bán được với giá cao.”

“Nghe lời này, có vẻ như khanh biết chúng ta có sản vật gì đó có thể bán ra bên ngoài với giá cao?” Tống Thần Tông lộ nét hứng thú.

Kể từ khi xuyên việt tới đây, trong đầu Đỗ Văn Hạo vẫn luôn luôn nghĩ tới việc làm một vài vật phẩm của xã hội hiện đại để kiếm tiền ở thời cổ đại này. Chỉ là hắn vẫn vô cùng bận rộn với việc hành y, chẩn bệnh, cấp thuốc cứu người, thời gi­an gần đây lại tất bật với các công việc trong triều nên căn bản không có thời gi­an cho ý tưởng đó. Bây giờ nhân dịp được nói chuyện với Hoàng Thượng, có cơ hội không chừng giúp được Đại Tống tăng cường quốc lực, nên vội khom người nói: “Dạ bẩm Hoàng Thượng, vi thần có một chút bí phương và phát minh có vài phần độc đáo, có thể dựa theo đó chế tạo ra các sản phẩm được xã hội hoan nghênh. Những sản phẩm này không những có thể tạo việc làm cho rất nhiều người trong xã hội, tạo thêm thu nhập cho dân chúng mà còn qua đó khiến cho ngân sách quốc gi­an được tăng cao nhờ việc thu thuế.”

Vẫn đang khom người nói nên Đỗ Văn Hạo không phát hiện lúc này Tống Thần Tông đã không còn nét cười nữa, ánh mắt trở nên lạnh lùng, khóe miệng còn chứa một tia châm chọc, thản nhiên nói: “Ồ, bí phương gì? Phát minh gì vậy? Có phải là dược phẩm không?”

Chương 301: Cản áp tử thượng giá!

Gởi bởi người có lòng!

Đỗ Văn Hạo e dè đáp: “Vâng, nhưng cũng không phải hoàn toàn như vậy, những bệnh lặt vặt thông thường thì có thể mở xưởng chế biến thành thuốc để bán đại trà, ngoài ra vi thần vẫn còn một số phát minh về các sản phẩm dùng trong đời sống hàng ngày, cái này có thể mở xưởng đầu tư, nhưng vi thần có một yêu cầu.”

“Yêu cầu gì?” Tống Thần Tông lạnh lùng nói.

“Ban bố chế độ luật bảo vệ thương hiệu sản phẩm, bảo hộ bản quyền phát minh.”

Tống Thần Tông kinh ngạc cau lông mày lại tỏ ra vô cùng khó chịu: “Thế nghĩa là gì?”

“Đó chính là khi vi thần phát minh ra một sản phẩm, sau đó sẽ dán nhãn mác hiệu sản phẩm lên nó, cái này chứng tỏ rằng sản phẩm đã thuộc về vi thần, và chỉ có vi thần mới có quyền phát hành buôn bán nó, người khác nếu muốn bán sản phẩm này thì buộc phải trả tiền cho vi thần thì mới được phép bán, cái này gọi là mua bản quyền sử dụng.”

“Nếu người ta không tuân thủ như vậy, thì sẽ coi như là phạm luật, và như vậy sẽ phải chịu trách nhiệm của pháp luật, và sẽ bị pháp luật trừng phạt theo quy định.”

Sắc mặt của Tống Thần Tông lúc này đã sa sầm xuống hết mức có thể, chỉ lạnh lùng hỏi lại: “Còn gì nữa không?”

Đỗ Văn Hạo cũng đã phát giác ra được thần sắc không vui của Tống Thần Tông, bất giác suy nghĩ xem mình đã nói sai ở chỗ nào, đồ của mình phát minh ra mà người khác muốn sử dụng thì dĩ nhiên phải đưa tiền cho mình rồi, lẽ nào nói như vậy cũng không đúng sao? Nghĩ vậy hắn bèn cố gắng kiên trì nói tiếp: “Vi thần cho rằng, quốc khố lúc này trống rỗng, nguyên nhân chủ yếu là do ba yếu tố, đó là: Quan, binh và phí. Quan chức hiện nay quá nhiều, quân đông mà không tinh, các công tác hành chính chi tiêu hoang phí, ba vấn đề này không giải quyết được thì những lợi ích mà biến pháp mang lại cũng chẳng khác gì một cốc nước nhỏ chẳng thể cứu nổi cả một tòa nhà đang cháy cả!”

Đối với ba yếu tố nan giải này, Tống Thần Tông dĩ nhiên cũng không phải là lần đầu tiên nghe, từ hồi Tống Nhân Tông tích cực tiến hành chính sách “Khánh Lịch Tân Chính” (là tên một chế độ cải cách của Tống Nhân Tông, nhưng hiệu quả thu lại không tốt) là một chính sách nhằm vào ba yếu tố trên, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bởi vì để giải quyết được ba vấn đề này, thì lại liên quan đến những quốc sách cơ bản của triều Tống và cũng liên quan đến rất nhiều người nữa, hơn nữa những lợi ích của nó đem lại cơ bản cũng chẳng có những công hiệu đặc biệt nào cả.

Nhưng Tống Thần Tông nghe thấy Đỗ Văn Hạo chỉ ra những cái bất cập làm cho mình đau đầu bấy lâu nay, nên cũng có chút tán thưởng, sắc mặt lúc này cũng đã giãn ra đôi chút, sau đó còn gật gật đầu ra hiệu cho hắn nói tiếp.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng thấy vững tâm, bèn tiếp tục nói: “Thần cho rằng, muốn đất nước giàu mạnh thì nhất thiết phải phát triển mạnh hai mặt công nghiệp và thương nghiệp, đặc biệt là về mặt phát triển thương nghiệp, phải hỗ trợ, khuyến khích thương nghiệp, từ bỏ những chính sách bất lợi, kìm hãm thương nghiệp phát triển, một đất nước văn minh cao độ là một đất nước có nền thương nghiệp phát triển, dân chúng linh hoạt trong việc làm giàu.”

“Đủ rồi!” Tống Thần Tông lúc này đúng là đã nổi giận thực sự, đập vào bàn chát lên một tiếng khô khốc: “Ngươi muốn thần dân thiên hạ trở thành những kẻ hám lợi, bất lương hay sao? Ngươi muốn dân chúng lúc nào cũng cơ hội, có cái gì thì cũng đem ra buôn bán ư? Ừm! Ngươi còn ý nghĩ gì nữa?”

Đỗ Văn Hạo lúc này đã sợ đến xanh mét cả mặt mày, khi Hoàng Thượng vỗ bàn đập ghế cũng đã làm hắn hoảng sợ lùi về sau hai bước rồi, những câu nói của Tống Thần Tông chẳng khác nào tiếng sét giữa trời xanh giáng hẳn vào đôi tai của hắn, làm cho hắn đang chìm đắm trong việc phân tích làm cho dân giàu nước mạnh cũng phải giật mình bừng tỉnh, Đỗ Văn Hạo lúc này cuống cuồng vén áo lên quỳ xuống nói: “Vi thần biết tội!”

Trung Quốc từ hồi Thương Ưởng (còn có tên Vệ Ưởng, là người thực hành biến pháp cho nước Tần thời chiến quốc, làm cho nước Tần dân giàu nước mạnh về sau thống nhất Trung Quốc) biến pháp bắt đầu cho đến những năm cuối đời nhà Thanh đều thực hành những chính sách trọng về nông nghiệp mà kìm hãm thương nghiệp, những chính sách này không chỉ xuất phát từ tư tưởng Nho Giáo “Trọng lợi khinh nghĩa”, mà còn là tình hình trong nước của Trung Quốc ảnh hưởng lên nó nữa. Hơn nữa Trung Quốc thời cổ đại thì cũng vẫn thuộc vào một đất nước có diện tích trồng trọt, cày cấy vô cùng rộng lớn, vậy nên nông nghiệp dĩ nhiên sẽ rất phát triển. Hơn nữa theo quan điểm của người xưa thì phát triển nông nghiệp không chỉ đảm bảo vấn đề cấp thiết nhất là có cơm ăn, không bị chết đói, mà còn giải quyết được vấn đề quản lý nhân sự, vì người nông dân cả đời họ chỉ có một lý tưởng duy nhất đó là có một mẫu ruộng để cày cấy, sau đó lấy vợ sinh con, như vậy đã là quá đủ đối với họ rồi.

Còn đối với bọn con buôn hám lợi thì không những đi ngược lại hoàn toàn với tư tưởng nho giáo còn nặng nề trong tư tưởng của người Trung Quốc, mà còn làm cho nông dân vì lợi ích của đồng tiền mà bỏ rơi ruộng đất, từ bỏ công việc cày cấy mà đi buôn bán, như vậy hệ thống nông nghiệp sẽ trở nên vô cùng bấp bênh, vì chỉ cần cả nước xuất hiện một số lượng lớn người đi buôn bán thì hệ thống quản lý chính trị của nhà nước sẽ gặp phải nhiều vấn đề vô cùng nan giải, do vậy coi trọng nông nghiệp tự làm tự ăn mà kìm hãm thương nghiệp là một chính sách hàng đầu của các triều đại trong lịch sử Trung Quốc. Cũng vì người hưởng lợi nhiều nhất trong chính sách này thì vẫn là Hoàng Đế trong chế độ phong kiến. Vậy nên Đỗ Văn Hạo mang kiến thức của người hiện đại đem đi khuyên giải cho người đứng đầu trong chế độ phong kiến từ bỏ chính sách nông nghiệp chuyển sang phát triển kinh tế là chuyện hết sức hoang đường, hoang đường chẳng khác gì người ta bắt ép gà trống đẻ trứng, bảo lợn leo cây cả.

Tuy ở thời nhà Tống thì thương nghiệp cũng đã có những sự phát triển nhất định, tư bản chủ nghĩa cũng đã manh nha xuất đầu lộ diện, nhưng từ khâu sinh trưởng sản xuất đến những điều kiện xã hội và những quan hệ cho thuê đồn điền thì việc phục dịch thuế má và công thương nghiệp đều bị chế độ phong kiến cưỡng chế, kìm hãm, những nét tư tưởng văn hóa đặc trưng (chủ yếu là tư tưởng Nho Giáo) cùng với chế độ chuyên chế vô cùng cứng nhắc, thậm chí chế độ của thời nhà Tống còn cứng nhắc hơn cả thời nhà Đường nữa, điều này làm cho đại bộ phận dân chúng trở nên nghèo đói, do vậy bọn họ cũng chẳng có khả năng kinh tế mà mua bán sản phẩm, như vậy cũng chẳng thể nào hình thành được một thị trường buôn bán sản phẩm trong cả nước.

Chính vì nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp tự làm tự ăn nên cũng làm cho thị trường thời này thiếu hụt sự mua bán trao đổi và tiêu thụ hàng hóa, thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa chính vẫn chỉ là tơ tằm, bạc gia công, những đồ sành sứ mỹ nghệ cao cấp…vv…Những thứ này thì lại thuộc vào những loại sản phẩm xa xỉ cao cấp chỉ dành cho giới thượng lưu sử dụng, do vậy dẫn đến phạm vi tiêu thụ mua bán sản phẩm sẽ bị thu nhỏ. Chính vì tình hình xã hội, hoàn cảnh kinh tế như vậy nên không thể mở ra những công xưởng sản xuất sản phẩm theo quy mô lớn như kiểu cạnh tranh của tư bản chủ nghĩa. Đỗ Văn Hạo không tìm hiểu cặn kẽ tình hình văn hóa cũng như chính trị của đời nhà Tống, nên bê nguyên những nguyên tắc của thời hiện đại lắp vào hệ thống này, do vậy sẽ vô cùng khập khễnh và không thực tế, chính vì thế mà Tống Thần Tông chẳng mấy hứng thú với ý tưởng này của hắn.

Cũng may mà Tống Thần Tông giữ lời của mình, nên dù ông ta vô cùng tức giận nhưng cũng tha thứ cho Đỗ Văn Hạo và những lời nói phi lý của hắn. Tống Thần Tông lúc này cũng chỉ biết căm giận trừng mắt nhìn về phía Đỗ Văn Hạo mà phất tay lên nói: “Thôi ngươi ra ngoài đi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thấy mình như vừa được chết đi sống lại vậy, hắn lùi lại vài bước, rồi quay người đi ra ngoài.

“Đứng lại! Quay lại đây!” Giọng của Tống Thần Tông lạnh lùng cất lên.

Đỗ Văn Hạo bỗng thấy thân hình của hắn bây giờ cứng đờ như đá, chầm chậm quay người lại, từng bước từng bước một đi về chỗ đứng của hắn vừa nãy để chờ lệnh.

Tống Thần Tông nhìn hắn một lúc, rồi hỏi: “Bệnh của Tư Mã Quang thế nào rồi?”

Đỗ Văn Hạo nghe Tống Thần Tông hỏi hắn về tình hình bệnh tật của Tư Mã Quang thì thở hắt ra một cái nhẹ nhõm, hắn thấp giọng đáp: “Hồi bẩm Hoàng Thượng! Trưa ngày hôm nay, vi thần đã làm một ca phẫu thuật mổ bụng cho Tư Mã Quang đại nhân rồi ạ, mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, bệnh tình của Tư Mã Quang đại nhân vô cùng nghiêm trọng, đại nhân cũng vừa mới làm phẫu thuật xong, nếu muốn biết công hiệu ra sao thì phải chờ một thời gi­an quan sát nữa mới biết được ạ!”

“Vậy sao?” Gương mặt của Tống Thần Tông lúc này mới nở ra được một nụ cười: “Y thuật của ngươi rất cao, có thể nói là thiên hạ đệ nhất rồi, nên có lẽ bệnh tình của Tư Mã Quang cũng sẽ ổn thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe Hoàng Thượng khen ngợi mình như vậy cũng hiểu ra rằng Tống Thần Tông lúc nãy cũng hơi quá đà với hắn, đòi hỏi ở hắn quá cao nên bây giờ mới nói những câu như vậy, hắn biết rằng Hoàng Thượng thực chất đang dùng chiêu vừa đánh vừa xoa, trước thì làm cho hắn sợ đến gần chết, vậy mà bây giờ lại khen ngợi hắn, trong thâm tâm hắn cũng thầm cảm thấy được an ủi đi rất nhiều, liền vội vã cúi người nói: “Thưa không phải như vậy đâu ạ! Bẩm Hoàng Thượng, bệnh của Tư Mã Quang đại nhân đúng là vô cùng nghiêm trọng, bệnh của ông ấy có tên là ung thư dạ dày, là một loại bệnh do tế bào ung thư xâm nhập vào dạ dày mà ra, loại ung thư này đã bắt đầu di căn sang các bộ phận khác, chỉ cần nó di căn ra toàn thân thì đến cả thần tiên cũng không chữa khỏi được cho Tư Mã Quang đại nhân nữa!”

“Vậy bây giờ nên làm thế nào?”

“Bời vì tế bào ung thư đã bắt đầu di tán vì vậy hiện giờ điều đáng lo nhất là ca phẫu thuật vừa rồi có lẽ vẫn chưa hoàn toàn cắt bỏ hết những tế bào ung thư đó trong cơ thể của Tư Mã đại nhân, bởi vì nó có thể ẩn chứa trong huyết dịch, hoặc tuyến hạch của bệnh nhân sau đó sẽ di căn sang những bộ phận khác, như vậy sẽ không còn cách nào để trừ bỏ được tế bào ung thư này được nữa. Nhưng mà vi thần đã kê một đơn thuốc cho Tư Mã đại nhân chủ yếu là dùng để bổ trợ nguyên khí, bình ổn khí huyết.”

“Ừm! Như vậy là tốt rồi, ngươi nhất định phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho Tư Mã Quang, người này là người có tài hiếm có!”

“Vi thần tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một lúc rồi lại nói thêm vào: “Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần biết ở Thổ Phồn có một loại thuốc có tên Đông Trùng Hạ Thảo có thể bổ trợ nguyên khí, bình ổn khí huyết, nếu có được loại thuốc này thì rất có lợi cho việc điều trị căn bệnh ung thư của Tư Mã đại nhân, loại thuốc này chỉ có ở Thổ Phồn còn ở nơi này thì không tìm thấy nó, đúng rồi, loại thuốc này cũng rất có ích cho việc chữa trị bệnh thận của Hoàng Thượng nữa!”

Đông Trùng Hạ Thảo là loại thuốc vô cùng có ích nhưng ở thời nhà Tống thì loại thuốc này vẫn chưa được phát hiện ra, cũng không quý hiếm như thời hiện đại, và dĩ nhiên cũng không dễ để bảo quản nó, chính vì lý do đó mà nước Thổ Phồn khi cống nạp cho nước Tống không hề có loại thuốc này, loại thuốc này thời đó có thể nói là không có ai biết đến ó cả, chính vì vậy cho nên Tống Thần Tông nghe Đỗ Văn Hạo nói xong cũng hiếu kỳ hỏi: “Đông Trùng Hạ Thảo?”

“Thưa vâng! Đó là một loại thuốc vô cùng đặc biệt và kỳ lạ, vào mùa đông thì nó là một con giun nhỏ, nhưng đến mùa hè thì nó lại biến thành một lại thảo dược nhỏ, loại dược thảo này chỉ sinh trưởng ở nơi ít người sinh sống cho đến những đồng cỏ trên những dãy núi tuyết cao, chính vì điều kiện hoàn cảnh sinh trưởng vô cùng khắc nghiệt nên số lượng cũng vô cùng ít, và cũng rất khó tìm!”

Loại Đông Trùng Hạ Thảo này bề ngoài thì trông rất giống với những loại cỏ thông thường, cơ hồ như không khác nhau một chút nào, cho dù có dí sát mắt vào nó nếu như không phải là người có kinh nghiệm thì cũng chẳng nhận ra được.

“Ha ha, cái này hay đấy, loại thuốc này có tác dụng gì vậy?”

“Tác dụng của nó vô cùng lớn, bệnh thận mà Hoàng Thượng mắc phải bây giờ là chứng suy thận, cách chữa trị cơ bản nhất của căn bệnh này là bổ thận, hoạt huyết và đào thải chất độc ra ngoài. Trong đó bổ thận thì chủ yếu là bổ khí, Đông Trùng Hạ Thảo có vị ngọt mát, hiệu lực rất lớn nhưng tính thuốc lại rất ôn hòa âm dương, nhiệt hàn đều có thể dùng nó. Khi mà bổ dương thì có thể dùng nó kết hợp với Ngũ Hoàng Dân, Bạch Thuật; còn khi bổ huyết thì kết hợp với Đương Quy, Hoàng Tinh; Hoàng Uy, Bạch Thuật kết hợp với nó thì có thể bổ khí, nếu Hoàng Thượng có vị thuốc này thì việc chữa bệnh suy thận của Người trở nên đơn giản vô cùng!”

Tống Thần Tông nghe thấy giọng nói của Đỗ Văn Hạo nghiêm túc, trịnh trọng như vậy thì ngoan ngoãn lắng nghe, sau đó thấp giọng hỏi: “Bệnh của Trẫm có thật là rất nghiêm trọng không?”

“Thưa vâng! Bệnh tình của Hoàng Thượng hiện giờ vẫn chưa thể hiện rõ ra, nhưng chờ đến khi nó phát tác rồi thì rất khó chữa khỏi, loại bệnh này muốn chữa thì nên ra tay từ sớm là tốt nhất!”

Tống Thần Tông chắp hai tay ra đằng sau đi đi lại lại, sau đó đứng lại nói: “Công hiệu của loại thuốc này ra sao?”

“Vi thần lấy một ví dụ rất dễ hiểu như thế này, nếu không có vị thuốc này bệnh của Tư Mã Quang đại nhân thì chỉ có bốn phần thành công, và chỉ có thể sống được thêm năm năm nữa, nhưng nếu có vị thuốc này thì khả năng thành công tăng lên ít nhất là bẩy phần!”

“Vậy bệnh của Trẫm thì sao?”

“Bệnh của Hoàng Thượng cũng khác với bệnh của Tư Mã Quang đại nhân, cho dù không có vị thuốc này, chỉ cần Hoàng Thượng làm theo những lời dặn dò của thần, điều dưỡng thân thể, thì có thể chữa khỏi, còn khi có vị thuốc này vào thì tiến độ chữa bệnh của Hoàng Thượng sẽ tăng lên rất nhiều, chính vì vậy khi có loại thuốc này thì sẽ làm cho thời gi­an khỏi bệnh của Hoàng Thượng sớm hơn dự kiến rất nhiều, còn đối với Tư Mã Quang đại nhân thì vị thuốc này làm tăng khả năng thành công chữa lành căn bệnh của ông ấy.”

Thực ra độ khó của việc chữa trị căn bệnh suy thận mãn tính này cũng không hề kém cạnh với việc chữa bệnh ung thư dạ dày của Tư Mã Quang, hơn nữa tác dụng của Đông Trùng Hạ Thảo dành cho bệnh suy thận mãn tính có tác dụng lớn hơn bệnh ung thư dạ dày rất nhiều, do vậy Đông Trùng Hạ Thảo có tác dụng trị liệu cho bệnh quan trọng hơn cho Hoàng Thượng, có thể nói rằng có vị thuốc này sẽ làm gia tăng khả năng thành công chữa bệnh cho Hoàng Thượng, nhưng hắn không dám nói ra. Hắn thực chất cũng không nắm chắc khả năng thành công chữa khỏi bệnh cho Hoàng Thượng, để Hoàng Thượng đỡ phải lo lắng, do vậy Đỗ Văn Hạo mới nói kiểu mập mờ như vậy.

“Thì ra là vậy à…” Tống Thần Tông lại đi đi lại lại mấy vòng nữa rồi nói: “Vị thuốc này có mua được không?”

“Theo tương truyền, thì từ đời Đường, Đường và Thổ Phồn đã có đi lại với nhau, hồi đó Thổ Phồn đã dâng cho Hoàng Đế đời Đường, khi đó Dương Ngọc Hoàn Dương Quý Phi đã sử dụng loại thuốc này, nhưng sau đó thì không thấy có ai nhắc đến nó nữa. Hiện giờ Thổ Phồn đang tứ bề tan rã, thành vô số bộ lạc nhỏ rồi, do vậy loại thuốc này không còn xuất hiện ở Trung nguyên nữa, nhưng mà theo như vi thần dự tính theo đường biên giới tiếp giáp với Thổ Phồn có thể sẽ tìm thấy nơi bán loại thuốc này.”

“Vậy thì tốt, ngươi vẽ hình dạng của nó đi, Trẫm sẽ sai người đi tìm nó về!”

“Tuân lệnh!”

Tống Thần Tông lại đi đi lại lại thêm mấy vòng nữa, rồi lại đứng lại nhìn Đỗ Văn Hạo, sau đó chầm chậm lên tiếng: “Trẫm lần trước có xem Lưu Dân Đồ, lại còn đem các ngươi đi vi hành nữa, sau đó những thứ mà ta thấy, ta nghe làm cho ta phải suy nghĩ nếu biến pháp đem đến cho bách tính sự khổ đau vậy thì chi bằng không có biến pháp, khi đó ta đã có ý tạm ngừng tiến hành tân pháp. Hôm nay lại nhận được rất nhiều mật báo của mật thám gửi về, hầu hết mật báo đều nói rằng có rất nhiều người bất mãn với tân pháp, cộng thêm với chuyện Thái Hoàng Thái Hậu ngày nào cũng khóc lóc ỉ ôi với ta, làm cho ta càng muốn tạm ngừng cải cách biến pháp lại một thời gi­an. Trẫm đã quyết định ban bố mệnh lệnh miễn toàn bộ phí đi lại trong Khai Phong Phủ, hạ lệnh Tư Tế và Tư Nng cùng lo liệu đến kho lương thực của cả nước, điều giảm binh lực ở Hi Hà, thấu hiểu và giúp đỡ dân chúng ở Chư Châu cung cấp thóc giống, miễn hết các nô dịch cùng với thuế đồn điền của dân chúng nơi đó.”

Đỗ Văn Hạo nghe xong kinh ngạc đến há hốc cả miệng ra không hiểu tại sao Tống Thần Tông nghe hắn bàn chuyện quốc sự xong lại có những quyết đinh như vậy, tạm ngừng toàn bộ quá trình tiến hành cải cách tân pháp. Kỳ thực Tống Thần Tông vốn đã có ý dừng tiến hành tân pháp từ trước rồi, nhưng chỉ là trong lòng vẫn đau đáu không nỡ lòng hạ quyết tâm tạm dừng nó lại, nhưng sau khi nghe Đỗ Văn Hạo phân tích tình hình xong, đã nhìn nhận ra mặt hạn chế cũng như khuyết điểm của tân pháp, những lời nói của Đỗ Văn Hạo chẳng khác nào đóng vai trò giọt nước làm tràn ly mà thôi, chính vì giọt nước này mà Tống Thần Tông mới hạ quyết tâm tạm dừng tiến hành cải cách tân pháp lại.

Tống Thần Tông nói ra những lời này xong bỗng nhiên cũng cảm thấy trong người nhẹ nhõm đi rất nhiều, trên mặt liền lộ ra một nụ cười thoải mái, dễ chịu: “Được rồi, Trẫm ra cho ngươi một nhiêm vụ là bây giờ ngươi về nhà đem những lời ngươi vừa nói khi nãy viết lại tường tận từng chi tiết đến cho ta xem!”

“Vâng thưa Hoàng Thượng! Có phải về chuyện Đông Trùng Hạ Thảo không ạ?”

“Vớ vẩn! Dĩ nhiên là không phải rồi! Ta muốn ngươi ghi lại những lời nói lúc nãy chúng ta cùng bàn về phép trị nước, ta cũng nghĩ rồi, chặn nguồn nước lại thì chi bằng khai thông một dòng nước mới, tư tưởng cũng vậy, nên có những ý tưởng mới mẻ cải cách, như vậy có lẽ sẽ tìm ra được một đường lối mới hợp lý hơn, cái mà ngươi nói cái gì mà thành lập công ty nhà nước tiến hành mậu dịch buôn bán trên toàn quốc, rồi lại mở xưởng sản xuất sản phẩm gì nữa đó, nghe có vẻ kỳ quái nhưng Trẫm lại thấy nó vô cùng mới mẻ, chính vì vậy Trẫm mới bảo ngươi về nhà suy nghĩ cho kỹ rồi viết lại cho Trẫm xem, để Trẫm nghiên cứu kỹ càng xem xem có cái nào hay mà áp dụng được không?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy bất ngờ vô cùng, nhất thời không hiểu ý tứ lời nói của Tống Thần Tông có nghĩa là gì.

Tống Thần Tông lại nói tiếp: “Ngươi không cần viết tư tưởng cải cách của cả một đất nước to lớn như vậy, chỉ cần viết làm sao để quản lý một cái huyện hoặc một cái xã nào đó, cũng không cần ngươi phải đao to búa lớn gì cả chỉ cần ngươi tìm ra những phương thức cụ thể là được rồi, dĩ nhiên là ngươi cũng nên cho thêm ý kiến về nâng cấp và cải tạo tân pháp nữa. Phép trị nước và phép chữa bệnh cho người ta nghĩ cũng hao hao giống nhau, ngươi cần chữa bệnh cho một người nào đó, thì đầu tiên ngươi phải nắm bắt được nguyên nhân rồi đưa ra phương thức chữa trị, trị nước cũng vậy ngươi muốn quản lý một đất nước cho tốt thì cũng phải tìm ra được đường lối đúng đắn, Trẫm rất muốn xem ngươi có những đường lối đúng đắn, chính xác nào dành cho đất nước này!”

Đỗ Văn Hạo không biết tại sao Tống Thần Tông khi nãy còn mắng hắn một trận tơi bời như vậy, thế mà bây giờ lại muốn hắn ghi chép lại những ý tưởng mà Tống Thần Tông cho là vớ vẩn đó lại, rồi còn đem về nghiên cứu nữa chứ. Chính vì vậy, trong lòng hắn bất giác cảm thấy hồ nghi, nhưng lại không dám hỏi nhiều, mà chỉ dám đoán già đoán non ở trong bụng mình mà thôi, nghĩ vậy bèn cúi người đồng ý.

Tống Thần Tông lại nói tiếp: “Mấy người bên Thái Hoàng Thái Hậu đến giờ này vẫn chưa biết chân tướng sự việc, nhưng có ngươi ở bên cạnh bọn họ lo liệu Trẫm cũng yên lòng, bởi sức khỏe của Trẫm bây giờ cũng đã khá hơn nhiều rồi, nhưng những lời nói của Thái Hoàng Thái Hậu thì không thể không nghe được, Tư Mã Quang cũng vừa trải qua một cuộc phẫu thuật, nên cũng rất cần ngươi ở bên cạnh, như thế này vậy, ngươi ban ngày cứ ở đây mà chữa bệnh, còn đến tối thì có thể về, như vậy có lẽ là tốt hơn cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền tuân lệnh đồng ý, sau đó quay người đi ra ngoài. Lúc vừa ra đến ngoài thì hắn cảm thấy cột xương sống của mình lạnh toát. Khi nãy hắn mạnh mồm đưa ra những kế sách trị nước lại không ngờ giúp cho Tống Thần Tông có được quyết tâm tạm dừng cải cách biến pháp, nhưng mà chỉ hiềm một nỗi, những ý tưởng của hắn quá đề cao kiếm tiền buôn bán lấy lời làm cho Hoàng Thượng tức giận, cũng may mà Hoàng Thượng đã có lời tha tội cho hắn từ trước nên hắn mới thoát tội, nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không tránh khỏi một phen khiếp sợ kinh hồn bạt vía.

Đỗ Văn Hạo được Ninh công công sắp xếp cho một căn phòng ở ngay bên cạnh tẩm cung của Hoàng Thượng, nơi này cái gì cũng có, lại còn có thêm mấy viên thái giám và cung nữ phục vụ mình nữa.

Đỗ Văn Hạo về đến phòng, lúc này thấy toàn thân mỏi mệt rã rời, sức lực cứ như bay đi đâu hết vậy, hắn quăng người nằm trên giường, tim của hắn giờ đây vẫn đập thình thịch sợ hãi, đúng là ở bên cạnh vua chẳng khác nào ở bên cạnh cọp, chẳng biết lúc nào mất mạng nữa.

Nằm được một lúc, Đỗ Văn Hạo mới trở mình ngồi dậy trước bàn giấy, hắn đưa bút lên vẽ hình Đông Trùng Hạ Thảo lên đó, rồi lại bắt đầu đưa bút viết về những tư tưởng đường lối của mình cùng với những ý kiến cải cách nâng cấp tân pháp.

Những ý tưởng này vốn đã cuồn cuộn chảy trong đầu của hắn từ rất lâu rồi, nhưng khi đưa bút lên viết thì mới thấy ý tưởng của hắn có rất nhiều chỗ rất không làm hắn ưng ý, hắn cứ hỳ hục viết rồi lại xóa, xóa rồi lại viết, cứ như vậy cho đến khi trời tối mịt rồi mới viết được một đoạn khởi đầu.

Khi trời gần tối thì có một cung nữ cầm đèn bước vào, Đỗ Văn Hạo bèn ngẩng đầu lên hỏi: “Hoàng Thượng đâu?”

“Hoàng Thượng vẫn đang ở trong thư phòng phê duyệt tấu chương ạ!”

Khi cung nữ vừa nói đến đây thì bên ngoài bỗng nhiên có tiếng sét kêu lên đùng đùng, làm cho cung nữ cũng phải giật mình sợ hãi, chân tay run run làm cho cái đèn lồng trên tay rơi luôn xuống đất.

Tiếp sau đó là một tia chớp kéo dài trên bầu trời, làm cho căn phòng của Đỗ Văn Hạo ánh lên một ánh sáng màu bạc ghê rợn, cung nữ thấy vậy hồn phiêu phách lạc, nét mặt trắng bệch trông như một con ma nữ trong những bộ phim ma vậy, làm cho Đỗ Văn Hạo trông thấy cũng phải giật mình cái thót.

Một trận gió tiếp đó kéo đến làm cho cửa sổ của căn phòng va đập vào nhau kêu lên cạch cạch, Đỗ Văn Hạo liền bước đến bên cửa, đang định đóng nó lại thì lại nghe thấy một tràng âm thanh nổ trên đỉnh đầu của hắn, làm chấn động cả mấy cái cửa sổ kêu lên ken két.

Lẽ nào sắp mưa rồi sao?

Đỗ Văn Hạo thấy vậy mừng rỡ, đã mấy tháng nay không có một giọt mưa nào rồi, đất đã khô nứt hết cả ra, lúc này mà có một trận mưa kéo đến thì đúng là ứng nghiệm câu nói nắng hạn gặp phải mưa dầm rồi. Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy vui sướng vô cùng, liền vén áo bước thẳng luôn ra bên ngoài ngửa mặt ngước nhìn bầu trời sám sịt trên đầu mình.

Đột nhiên, có tiếng rơi độp một cái, một hạt mưa to bằng hạt đậu rơi luôn vào giữa mặt của hắn, đúng là trời mưa rồi sao? Không cần chờ Đỗ Văn Hạo dơ tay ra dò xét, những hạt mưa nặng hạt bắt đầu rơi lên trên mặt hắn kêu lên tanh tách, tiếp sau đó mưa rơi xuống càng lúc càng mau, rất nhanh tiếng lộp độp đã vang lên rộn rang khắp nơi trong vườn.

“Mưa rồi! Đúng rồi *** Mưa rồi!”

Đỗ Văn Hạo dang thẳng hai tay ngửa mặt lên trời cười lớn, viên quan chức nhỏ canh thành vẽ bức Lưu Dân Đồ đã thề rằng, chỉ cần tạm dừng biến pháp thì trong vòng mười ngày, nếu không có mưa thì hắn ta sẽ nguyện bị chặt đầu để chịu tội. Quả nhiên Hoàng Thượng vừa tạm dừng biến pháp thì đến tối đã có bạo vũ đến rồi, lẽ nào trong cõi u minh trời đất này lại đúng là có ý trời thật sao?

Tên tiểu thái giám thấy Đỗ Văn Hạo đứng trần bên ngoài trời mưa như vậy thì vội vã cầm cái ô chạy lại che cho hắn: “Đỗ đại nhân, đại nhân mau quay về phòng đi không bị nhiễm lạnh mất!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới đi ra chỗ hành lang bên ngoài trời, nhưng nhất định không chịu chui vào trong phòng nữa, hắn vẫn đứng ở hành lang, vịn vào lan can dõi mắt nhìn khắp khu vườn đang được che phủ bởi những hạt mưa nặng trĩu, thỉnh thoảng còn ánh lên bởi những tia chớp nhập nhằng, Đỗ Văn Hạo sau khi vui sướng quá độ giờ đây lại ngây dại thất thần.

Đúng là nhìn người khác gánh nước thì chẳng bao giờ cảm thấy nặng nhọc, nhưng khi chính mình đưa đòn gánh lên vai thì mới thấy đôi vai mình như muốn gẫy làm đôi vậy, khi bình phẩm một chính sách của người khác ra sao thì vô cùng dễ dàng, nhưng khi chính mình đứng ra thiết lập một chính sách khác thì mới thấy khó khăn muôn trùng. Đã mấy canh giờ trôi qua rồi, hắn khó khăn lắm mới viết được vỏn vẹn một đoạn mở đầu ngắn ngủi, nhưng hắn vẫn thấy đoạn mở đầu đó vẫn chưa làm hắn hài lòng cho lắm! Ài! Thật đúng là không biết nên hoàn thành nhiệm vụ Hoàng Thượng gi­ao phó kiểu gì cho hợp lý đây.

Cũng may mà Hoàng Thượng không quy định cho hắn thời gi­an là bao lâu, thôi thì cứ từ từ mà tính, nhưng cũng không nên nói lung tung gì đến chuyện làm ăn buôn bán thế nào thế nào nữa, cứ tìm hiểu trước xem người xưa họ quản lý đất nước ra sao đã. Kinh tế đời nhà Tống là đi theo đường lối phát triển tiểu nông vừa và nhỏ, vậy nên muốn phát triển cũng phải nên dựa vào cái kinh tế tiểu nông này mà học hỏi, sau đó dựa trên đó mà tạo ra đường lối mới, cuối cùng là hoàn tất đem nộp cho Hoàng Thượng, ít ra cũng không đến nỗi làm Hoàng Thượng xem xong rồi chê cười lần nữa.

Sau khi có được ý tưởng mới mẻ này, Đỗ Văn Hạo liền bắt đầu đi tìm những quyển sách của người xưa bàn về chuyện quản lý đất nước như thế nào về xem. Hắn cứ suy đi tính lại suốt như vậy được một lúc thì mắt của hắn sáng lên, đúng rồi! Sao mình lại không đi tìm Tư Mã Quang thảo luận nhỉ, ông lão này không phải là đang biên soạn bộ sách có tên Tư Trì Thông Giám (đây là một tác phẩm vô cùng nổi tiếng của Trung Quốc, nó bao gồm lịch sử, chính trị, tư tưởng của người Trung Quốc bắt đầu từ thời nhà Chu đời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến thời Ngũ Triều) đó sao? Đây là một bộ sách tổng quát các cách thức quản lý trị nước của các triều đại trước kia. Chỉ cần nghe ông ấy giảng một hồi thôi, là cũng biết nên viết như thế nào rồi, cần gì phải mở sách dò tìm tài liệu nữa chứ!

Nghĩ đến đây thì Đỗ Văn Hạo cảm thấy chuyện phải nộp bài cho Hoàng Thượng cũng đã có cách đối phó rồi, nên thở hắt ra một cái nhẹ nhõm. Chờ đến tối cổng Hoàng Cung đóng lại rồi thì Đỗ Văn Hạo mới lên kiệu rời khỏi Hoàng Cung đi về Ngũ Vị Đường.

Lúc này Tư Mã Quang cũng đã tỉnh lại, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đang chăm sóc ông ấy, sau đó hai người cho thuốc sát trùng, chống viêm từ từ thông qua ống truyền vào trong dạ dày, nơi này còn có phu nhân của Tư Mã Quang và hai người con của ông ta nữa.

Đỗ Văn Hạo kiểm tra ống dẫn lưu, sau đó lại hỏi lượng nước tiểu, cuối cùng là bắt mạch cho Tư Mã Quang, Đỗ Văn Hạo thấy tình hình của ông ta bây giờ rất ổn, không có biểu hiện nguy cấp nào cả, do vậy hắn cũng hơi yên tâm một chút, suy cho cùng thì Tư Mã Quang cũng đã tuổi cao sức yếu, qua đợt phẫu thuật này, thân thể của ông ta trở nên vô cùng suy yếu, khi Đỗ Văn Hạo khám bệnh cho ông, Tư Mã Quang cũng chỉ mở mắt ra cười với hắn một cái rồi lại nhắm mắt lại, ngủ thiếp đi.

Đỗ Văn Hạo thấy trong lỗ mũi của ông vẫn đang cắm ống dẫn, nói chuyện không tiện nên hắn cũng biết vấn đề trị nước của hắn giờ này chưa thể phó thác được cho Tư Mã Quang được, chắc phải chờ thêm hai ba ngày nữa mới giải quyết xong.

Mưa rơi đúng đủ một đêm, đến ngày hôm sau thì ngớt. Đỗ Văn Hạo vào cung đem dâng lên bức tranh mà hắn vẽ hình dáng của Đông Trùng Hạ Thảo lên cho Tống Thần Tông. Tống Thần Tông hôm nay lên triều thì văn võ bá quan đều bàn luận rằng chính vì do tạm dừng tân pháp mà trời mới đổ mưa.

Tống Thần Tông lúc này cũng chẳng hỏi han đến chuyện hắn viết ý tưởng đường lối quản lý, cai trị đất nước ra sao nữa, dường như Tống Thần Tông biết rằng Đỗ Văn Hạo nhất thời cũng chẳng viết ra được cái gì ra hồn cả.

Đến buổi chiều tối khi Đỗ Văn Hạo trên đường về Ngũ Vị Đường thì thấy mưa lại bắt đầu rả rích rơi.

Bệnh tình của Tư Mã Quang lúc này cũng đã ổn định khá nhiều, không có hiện tượng nguy hiểm nào xuất hiện làm cho người khác phải lo lắng nữa, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy được an ủi đi rất nhiều, mặc dù điều kiện chữa trị thời nhà Tống này vô cùng lạc hậu, thiếu thốn, nhưng chế độ tiệt trùng của hắn lại vẫn tiến hành một cách nghiêm khắc và thành công. Ống thông vào dạ dày của Tư Mã Quang đã được rút xuống, ông ta vẫn đang nằm mê man trên giường có vẻ vẫn rất mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy nên cũng không tiện hỏi chuyện Tư Mã Quang nữa.

Ngày hôm sau trời lại mưa cả ngày, chờ cho Đỗ Văn Hạo về đến nhà thì trước thềm nhà hắn đã xuất hiện rất nhiều vũng nước lõng bõng.

Đối với ca phẫu thuật của Tư Mã Quang mà nói, thì khi trời nóng sẽ làm cho vết mổ trở nên vô cùng khó chịu, bởi vì trời nóng thì sẽ dễ ra mồ hôi, mà ở thời cổ đại này mà làm phẫu thuật thì ra mồ hôi rất dễ dẫn đến vết mổ bị nhiễm trùng, do vậy trời cứ mưa mãi thế này cũng là một điều tốt lành, tuy là có chút ẩm ướt nhưng cơ hội xảy ra nhiễm trùng sẽ giảm đi trông thấy, đúng là ông trời có mắt.

Đỗ Văn Hạo vào đến bên trong phòng bệnh của Tư Mã Quang, thì đã thấy ông ta đã xuống giường đi lại được rồi, mặc dù vẫn có người dìu đỡ nhưng bệnh tình của ông ta lúc này cũng khá khả quan. Phu nhân của Tư Mã Quang cũng đang ngồi khâu vá lại quần áo cho ông, mặc dù ông chức vụ rất cao, nhưng lại vô cùng liêm khiết, làm quan bao năm như vậy mà cũng chẳng có bao nhiêu tiền của, đến cả quần áo của ông cũng phải khâu vá lại mà dùng chứ không mua đồ mới. Đỗ Văn Hạo lúc này mới để ý phu nhân của Tư Mã Quang, tuy bà nhỏ hơn ông ta những mười tuổi, nhưng mấy ngày gần đây vất vả chăm ông mà đầu tóc cũng đã bạc phơ hết cả, sắc mặt cũng tiều tụy đi khá nhiều.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền đi đến chắp tay nói: “Phu nhân! Xin phu nhân cứ nghỉ ngơi cho khỏe, những việc nữ công như thế này vô cùng nhức mắt, phu nhân cứ sai một đứa nha hoàn đó nào làm là được rồi, phu nhân ngày nào cũng phải chăm sóc Tư Mã đại nhân như vậy rất mệt đấy, phu nhân cần phải cẩn thận không thì ngã bệnh mất!”

Ngô Thị nghe xong Đỗ Văn Hạo nói liền đặt đồ nữ công trên tay mình xuống, gật đầu cười nói với Đỗ Văn Hạo: “Không sao đâu! Làm phiền Đỗ đại nhân nhiều quá, nếu không nhờ y thuật thần thông của đại nhân, e rằng lão gia của ta đã không còn hy vọng gì nữa rồi!”

Khi hai người vẫn đang nói chuyện thì từ bên ngoài có một tiếng nói của một cô gái nói vọng vào: “Mẫu thân! Con đã bảo là việc đó cứ để con làm rồi mà con mới vào bếp có một lúc mà mẫu thân đã dành lấy việc của con rồi!” Tiếp sau đó là một cái đầu tết tóc bím cùng với gương mặt tươi cười ló vào nhìn Đỗ Văn Hạo và Ngô Thị, đó chính là Tuệ Nhi.

Chương 302 Y đạo y quốc!

Gởi bởi người có lòng!

Đỗ Văn Hạo vô cùng kinh ngạc, mấy ngày trước hắn gặp Tuệ Nhi, trông nàng vô cùng thương tâm, sắc mặt u uất, vậy mà bây giờ sắc mặt của nàng lại trông rất sáng sủa, hoạt bát, trông thấy chân của Tuệ Nhi vẫn còn khập khiễng, Đỗ Văn Hạo bèn lên tiếng: “Chân của nàng đã đỡ đi nhiều rồi đấy, đi lại tuy vẫn còn chậm chạp nhưng cũng đã là tốt lắm rồi. Mấy ngày hôm nay trời lại mưa dầm đừng để chân bị nhiễm lạnh!”

“Đa tạ Đỗ đại nhân đã quan tâm!” Tuệ Nhi nói xong liền đưa mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, nghe hắn cất tiếng quan tâm đến mình như vậy bất giác gương mặt xinh đẹp của nàng ửng đỏ, rồi từ từ ngoảnh mặt sang phía khác.

Thần sắc của Tư Mã Quang bây giờ cũng đã đỡ hơn rất nhiều, ông ta mới chỉ đi vài bước ở trong căn nhà này đã thở không ra hơi, phải nhờ con trai của mình dìu về bên chiếc ghế ở cạnh giường mình rồi chầm chậm ngồi xuống, đây là một yêu cầu của Tuyết Phi Nhi đề xuất ra, nàng muốn Tư Mã Quang cố gắng xuống giường hoạt động càng sớm càng tốt.

Đỗ Văn Hạo liền đưa tay lên bắt mạch cho Tư Mã Quang, một lúc sau hắn mỉm cười nói: “Sức khỏe của Tư Mã đại nhân đang hồi phục rất nhanh, cũng không có bệnh chứng nào làm cho chúng ta phải lo lắng thêm cả, cái này cũng là do thân thể của Tư Mã đại nhân từ xưa đến giờ có một thể chất rất tốt, ít khi bị bệnh, nguyên khí tràn trề!”

Tư Mã Quang nghe xong cũng có phần đắc ý, bèn vuốt vuốt râu nói: “Ha ha! Cũng may mà nhờ có bàn tay kỳ diệu của Đỗ lão đệ, nên lão phu mới có thể cây già nảy lộc!”

Hai người cùng quay vào nhau mà cười, Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Bệnh của Tư Mã đại nhân không phải là qua một lần phẫu thuật mà có thể chữa khỏi hoàn toàn được, về sau vẫn phải tuân thủ những quy trình chữa bệnh nghiêm khắc của ti chức đề ra, sau đó còn phải uống thêm một vị thuốc chỉ có ở Thổ Phồn có tên Đông Trùng Hạ Thảo thì bệnh của đại nhân mới có những tiến triển tốt. Vị thuốc này ở Đại Tống chúng ta không có bán, nhưng ti chức đã bẩm báo với Hoàng Thượng, Hoàng Thượng đã bảo ti chức vẽ ra hình thù của nó rồi cho người đi ra biên giới tiếp giáp với Thổ Phồn tìm mua, nếu có thể, thì Hoàng Thượng cũng sẽ phái người đi hẳn vào Thổ Phồn mà mua cũng được.”

Tư Mã Quang nghe xong, bất giác hai hàng lệ từ khóe mắt già nua của ông ta túa ra chứa chan, sau đó Tư Mã Quang quỳ luôn xuống, mặt hướng về Hoàng Cung dập đầu nói: “Hoàng Thượng! Ơn nghĩa của Hoàng Thượng lão thần dù cho thịt nát xương tan cũng không dám quên, lão thần không biết lấy gì để báo đáp công ơn của Hoàng Thượng!”

Con trai của Tư Mã Quang, Tư Mã Dung cùng con gái Huệ Nhi trông thấy ông ta quỳ xuống lạy như vậy, hai người cũng lập tức quỳ xuống dập đầu côm cốp, sau đó mới đứng lên đỡ Tư Mã Quang ngồi dậy.

Tư Mã Quang đưa tay lau nước mắt của mình đi, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đa tạ Đỗ lão đệ đã tận tâm tận lực chữa bệnh cho lão phu, công ơn của lão đệ lão phu luôn luôn khắcghi tâm!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Tư Mã đại nhân đừng khách khí như vậy, hơn nữa ti chức lúc này cũng có chuyện muốn nhờ đại nhân đây, mong đại nhân chỉ bảo cho ti chức.”

Tư Mã Quang vui vẻ đáp: “Lão đệ không khinh thường lão ca này, thì về sau đừng khách khí như vậy nữa, cứ gọi đại nhân đại nhiếc cái gì nghe nó xa lạ ra, lão đệ cứ xưng hô với ta là lão ca, chúng ta là hai người bạn không cần phân biệt tuổi tác của nhau, như vậy có được không?”

“Cái này ti chức không dám!” Đỗ Văn Hạo vội vã trả lời.

“Sao lại không dám cơ chứ, lão đệ đã ra tay cứu mạng lão phu như vậy, lại còn tìm cách mua thuốc tốt cho lão phu dùng nữa, lão phu cảm kích vô cùng, hơn nữa lão phu đã nghe tiếng Đỗ lão đệ có trái tim nhân từ, đôn hậu đối đãi với mọi người từ lâu. Đỗ lão đệ không hề phân biệt giàu sang phú quý, hay nghèo hàn cơ nhỡ đều ra tay giúp đỡ không nề hà gì cả, trái tim nhân ái như vậy quả là trên đời hiếm gặp, lão phu vô cùng khâm phục Đỗ lão đệ, nếu Đỗ lão đệ không chê bai gì lão phu mong lão đệ hãy gọi lão phu là lão ca, còn nếu chê bai lão phu thì cứ gọi là Tư Mã đại nhân cũng được!” Tư Mã Quang nói xong còn làm bộ tức giận râu tóc rung lên bần bật.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đứng dậy chắp tay nói: “Tư Mã lão ca đã coi trọng lão đệ như vậy, lão đệ chỉ còn cách cung kính không bằng tuân mệnh!”

“Ha ha ha! Như vậy mới đúng chứ! Lão đệ có chuyện gì cứ nói đừng ngại, lão ca sẽ dốc hết sự hiểu biết của mình ra giúp lão đệ!”

“Thế thì tốt quá, chuyện là thế này, Hoàng Thượng đã hạ chỉ tạm dừng tiến hành cải cách biến pháp rồi!”

“Cái gì? Lão đệ nói sao?” Tư Mã Quang vừa mừng vừa kinh ngạc, đứng bật luôn dậy làm rách luôn vết khâu của ca phẫu thuật trên bụng miệng kêu lên ối chao một tiếng, Tuệ Nhi đứng cạnh đó vội vã chạy đến dìu đỡ Tư Mã Quang từ từ ngồi xuống, Tư Mã Quang vẫn không thèm quan tâm đến vết rách đó, vội vã hỏi tiếp: “Lời của lão đệ là thật đấy chứ?”

“Ha ha, tiểu đệ không dám đem chuyện này ra nói đùa đâu!”

“Ha ha! Ha ha ha!” Tư Mã Quang ôm lấy bụng mình ngửa mặt lên trời cười lớn, hai hàng lệ lăn dài trên gương mặt già cỗi nhăn nheo của mình: “Hoàng Thượng anh minh! Hoàng Thượng anh minh! Ha ha ha ha!”

Tuệ Nhi cũng vui mừng thay cho cha của mình, nàng đưa mắt quay nhìn Đỗ Văn Hạo rồi thấp giọng nói với cha của mình: “Phụ thân! Phụ thân đừng mừng rỡ như vậy vội, Đỗ đại nhân vẫn đang chờ người chỉ dạy một số vấn đề nữa kìa!”

“Ừ! Đúng rồi” Tư Mã Quang cố nhịn cười lại, một tay ôm bụng, một tay vuốt vuốt bộ râu hoa râm của mình nói: “Mong Đỗ lão đệ đừng trách lão ca, lão ca vui quá nên mới thô lỗ như vậy!”

“Ha ha Lão ca vì dân vì nước, nghĩa trọng tình thâm, lão ca không hề thô lỗ chút nào, tiểu đệ vô cùng khâm phục lão ca!”

“Thôi thôi! Đỗ lão đệ đừng khen lão ca này nữa, nói đi, lão đệ muốn hỏi gì?”

“Đệ muốn hỏi về phép trị nước!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Cái gì? Lão đệ là một Ngự Y, lão đệ hỏi cái này để làm gì? Lẽ nào lão đệ nhàm chán việc chữa bệnh rồi hay sao mà định đổi nghề sang làm chính trị vậy hả?”

“Ha ha ha! Tiểu đệ không dám có ý nghĩ xa xỉ như vậy, chỉ là nghe Tư Mã lão ca đang biên soạn một bộ tuyệt tác có tên Tư Trì Thông Giám bắt đầu từ các vị vua đời nhà Châu cho đến đời Ngũ Đại (thời Ngũ Đại là thời đại khi nhà Đường sụp đổ thì Trung Quốc trải qua thời kỳ phân tranh lần lượt bao gồm các nước Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Châu, đời Ngũ Đại sau đó được Triệu Khoang Dận tiêu diệt và lập ra nhà Đại Tống), trong đó có bình luận về các sự kiện lịch sử, do vậy tiểu đệ muốn đến thỉnh giáo đôi chút.”

Tư Mã Quang nghe xong sửng sốt vô cùng, sau đó lại cười ha ha trả lời: “Không sai, lão ca ta đang biên soạn một bộ sách như vậy, nhưng mà tên sách vẫn chưa nghĩ ra, vậy mà lão đệ đã khen ngợi bộ sách của lão ca có tên Tư Trì Thông Giám thật là coi trọng lão ca quá, tên sách hay như vậy lão ca không dám nhận!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhớ ra bộ sách Tư Trì Thông Giám này Tư Mã Quang hoàn thành nó xong, Tống Thần Tông khen ngợi không tiếc lời mới đặt ra cái tên này. Bây giờ bộ sách này vẫn còn chưa viết xong, thế nên cái tên Tư Trì Thông Giám mà Đỗ Văn Hạo vừa đề cập đến bây giờ chưa hề tồn tại và xuất hiện, nghĩ vậy nên Đỗ Văn Hạo liền chắp tay mỉm cười nói: “Nghe nói lão ca viết bộ sách này là để đánh giá, bình phẩm các phép trị nước, chính trị, lịch sử, nó bao gồm ngàn năm lịch sử từ trước đến giờ, cùng với những ý kiến đánh giá của mình về phép trị nước qua các thời kỳ nữa, do vậy tiểu đệ muốn tìm hiểu đôi chút, mong lão ca chỉ dạy!”

Tư Mã Quang vô cùng sung sướng, ông ta đưa tay lên vuốt vuốt bộ râu của mình, rồi bắt đầu nói về bộ sách này của mình, trong bộ sách này ông đưa ra những lời bình phẩm của bản thân về cách trị nước, chế độ cai trị qua các thời kỳ lịch sử, vết thương của ông vẫn chưa lành, nên ông nói chuyện cũng khá khó khăn, do vậy Tư Mã Quang nói rất ngắn gọn xúc tích, nếu như mà cứ giới thiệu rườm rà thì có lẽ mất cả hai canh giờ nữa cũng không nói hết.

Đỗ Văn Hạo rất chăm chú lắng nghe, nhưng sau khi nghe xong, thì vẫn hoang mang không biết nên viết thêm gì nữa, nếu hắn cứ bê nguyên những lời này của Tư Mã Quang vào sách của hắn thì Tống Thần Tông chắc chắn sẽ phát hiện ra, bởi vì chỉ e rằng những quan điểm được Tư Mã Quang viết vào sách đã sớm được bẩm báo, trình tấu lên Tống Thần Tông rồi, nếu mà hắn cứ chép nguyên văn như vậy thì Tống Thần Tông sẽ phát hiện ra ngay.

Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu hỏi những vấn đề có liên quan đến kinh tế, có những biện pháp cụ thể nào để quản trị hành chính, Tư Mã Quang cũng giúp hắn phân tích rõ ràng, từng ly từng tý đều nói ra hết, Đỗ Văn Hạo nghe xong cảm thấy có ích vô cùng, hai người cứ ngồi bàn chuyện với nhau như vậy cho mãi đến tận nửa đêm canh ba.

Bên ngoài mưa vẫn rơi tí tách không ngừng, Bàng Vũ Cầm thỉnh thoảng lại vén rèm lên đi vào nói: “Tướng Công, đêm đã khuya rồi, tướng công để cho Tư Mã đại nhân sớm được nghỉ ngơi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn đứng dậy chắp tay nói: “Đa ta Tư Mã lão ca! Lời dạy của lão ca làm cho lão đệ mở rộng tầm mắt!”

“Ha ha ha! Không ngờ lão đệ lại quan tâm đến vấn đề trị nước như vậy, đúng là hậu sinh khả úy!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn cáo từ cùng Bàng Vũ Cầm về phòng.

Anh Tử lúc này liền đi tới cởi áo và đem nước đến cho Đỗ Văn Hạo rửa chân, khi nàng giúp Đỗ Văn Hạo rửa chân thì thấy sắc mặt của hắn đờ đẫn, ngơ ngác không biết là đang suy ngẫm cái gì, bèn cười nói: “Thiếu gia làm sao vậy? Nói chuyện với Tư Mã đại nhân mới có một đêm đã bị ngây dại, đờ đẫn hết cả người như vậy sao?”

Đỗ Văn Hạo cũng chỉ ừm lên một tiếng xong rồi lại tiếp tục đơ mặt ra.

Bàng Vũ Cầm trông thấy bèn suỵt lên một tiếng, thấp giọng nói: “Đừng cắt ngang suy nghĩ của thiếu gia, để thiếu gia suy nghĩ!”

Anh Tử nghe xong thì lè lưỡi ra rồi lại tiếp tục rửa chân cho Đỗ Văn Hạo.

Sau khi rửa sạch chân cho hắn, Anh Tử liền kéo bàn chân hắn lên, tiếp tục bấm huyệt bàn chân cho hắn, lúc này Đỗ Văn Hạo mới bừng tỉnh, cười nói:

“Kỹ thuật xoa bóp giỏi hơn hồi trước rồi đấy!” Anh Tử cười nói: “Hi hi! Cái này làm nhiều thành quen, tất cả đều do thiếu gia chỉ dạy tận tình cả!”

“Vậy ngươi có biết tại sao người ta lại bấm huyệt dưới lòng bàn chân không?”

“Thiếu gia đã nói rồi, bàn chân của con người bao gồm hết tất cả lục đại kinh mạch, gắn liền với Gan, Tỳ, Vị, Thận xuyên suốt toàn thân huyết mạch và kinh mạch, là nơi có khả năng điều giải lục phủ ngũ tạng, do vậy khi kích thích các huyệt vị dưới lòng bàn chân sẽ giúp cho máu huyết thông suốt, Hi hi! Nói như vậy đã đúng chưa ạ?”

“Ừm! Không sai!” Đỗ Văn Hạo cúi đầu ngắm nhìn dưới cái cổ trắng ngần của Anh Tử ẩn hiện cái khe ngực, bất giác thất thần, nhưng Đỗ Văn Hạo lại vội vã đưa ánh mắt của hắn sang chỗ khác rồi lại nói tiếp: “Ài! Chỉ tiếc là ta chỉ hiểu việc chữa bệnh cho người mà không biết cách quản lý đất nước!”

“Quản lý đất nước? Thiếu gia là một đại phu tốt là được rồi, còn phép cai trị, quản lý đất nước thì cứ để cho Tư Mã đại nhân và những đại thần khác lo!”

“Bây giờ ta không thể chỉ biết chữa bệnh mà còn phải học cách quản lý đất nước nữa, đây là yêu cầu của Hoàng Thượng đối với ta!”

“Hả?” Bàng Vũ Cầm và Anh Tử đều há hốc mồm kinh ngạc: “Hoàng Thượng muốn thiếu gia quản lý đất nước sao?”

“Cũng không hẳn là như vậy, mấy hôm trước ta và Hoàng Thượng có nói chuyện với nhau về mấy ý tưởng làm thế nào để cai trị và quản lý đất nước, Hoàng Thượng cũng khá hứng thú với ta, muốn ta viết một chính sách quản lý đất nước đưa cho Hoàng Thượng xem, ta chỉ là một thầy thuốc, làm gì có ý tưởng gì hay để đề xuất ra ý kiến trị nước cơ chứ!”

Bàng Vũ Cầm lúc này cũng lên tiếng nói: “Chẳng trách lúc tướng công mới về đến nhà, là lập tức tìm đến Tư Mã đại nhân để bàn đến chuyện trị nước, thì ra là như vậy!”

“Đúng vậy! Tiếc là ta và ông ấy bàn cả một đêm rồi mà vẫn không thể cất bút lên viết ra được cái gì cả!”

“Sao vậy?”

“Những điều ông ấy nói thì đều rất có lý, nhưng tất cả những thứ đó đều là ý tưởng và đường lối của ông ta, nếu ta cứ bê nguyên những lời của ông ta cho vào của ta thì Hoàng Thượng chắc chắn sẽ phát hiện ra, bởi vì Hoàng Thượng hiểu rất rõ nguyên lý quản trị đất nước của ông ấy, có khi còn rất quan tâm đến bộ tuyệt tác trị quốc sách mà ông ấy đang dầy công viết ra nữa, do vậy nếu ta cứ bê nguyên ý tưởng của ông ta vào thì Hoàng Thượng lại trách ta không có ý tưởng riêng của mình, không sáng tạo!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong cũng gật gật đầu nói: “Nhất thiết phải viết ra được một ý tưởng có sáng tạo, một ý tưởng mà Hoàng Thượng từ trước đến giờ chưa bao giờ gặp, như vậy Hoàng Thượng mới chú ý đến nó, hơn nữa ý tưởng này là ý tưởng mà tướng công phải vô cùng quen thuộc.”

“Ý tưởng gì mà quen thuộc với ta? Thế thì có mỗi chuyện chữa bệnh mà thôi!”

Anh Tử vui vẻ nói chen vào: “Đúng rồi! Sao thiếu gia không dùng đạo lý chữa bệnh cho người mà áp dụng vào chuyện cai trị, quản lý đất nước ấy, trị nước cũng như trị bệnh mà!”

Hai mắt của Đỗ Văn Hạo sáng ngời lên nói: “Ừ, đúng rồi! Dùng ý tưởng chữa bệnh áp dụng vào trị nước! Đây đúng là một ý tưởng vô cùng sáng tạo, nhưng e rằng chúng ta nghĩ ra được, thì Hoàng Thượng chắc cũng đã biết rồi, hay là đem những ý tưởng của ta ra so sánh với ý tưởng của Tư Mã đại nhân, rồi từ đó đưa ra kết luận riêng cho mình, như vậy có lẽ sẽ tốt hơn!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong vui vẻ đáp: “Đúng vậy! Nhưng mà, nhất định phải có lý lẽ riêng của mình, không thể bê nguyên cái nguyên lý trị bệnh vào trị nước được, nói gì thì nói thì hai thứ này cũng rất khác nhau!”

“Cái đó là đương nhiên rồi!” Đỗ Văn Hạo có được chủ ý này thì vui mừng khôn xiết, bất giác đưa tay lên bẹo má của Anh Tử nói: “Đúng là Anh Tử của ta thông minh thật đấy!”

Anh Tử thẹn đỏ cả mặt, cúi đầu, trong lòng không giấu nổi niềm hạnh phúc.

Đỗ Văn Hạo đi đôi tất vào, sau đó kéo giầy lên buộc lại, chạy thẳng luôn đến thư phòng cất bút bắt đầu viết lại những ý tưởng của mình vừa mới nghĩ ra. Khi hắn đã có ý tưởng rồi, thì dĩ nhiên cũng biết nên viết như thế nào, chính vì vậy khi vừa đặt bút xuống, nét mực đã như rồng bay phượng múa kín đầy cả trang giấy.

Bàng Vũ Cầm và Anh Tử lúc này trông thấy Đỗ Văn Hạo như vậy cũng không dám làm phiền hắn nữa, Anh Tử đem nước rửa chân của hắn đi đổ, còn Bàng Vũ Cầm thì pha cho hắn một tách trà, Anh Tử lại bê lên một ngọn nến nữa, sau đó hai người cứ đứng bên cạnh Đỗ Văn Hạo, người nào trong tay cũng có đồ nữ công của mình, ai làm việc của người đó im lặng ngồi chờ Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cứ viết xong lại ngừng, ngừng xong lại viết, có lúc hắn lại đứng dậy đi đi lại lại mấy vòng, rồi lại ngồi xuống viết tiếp, cứ như vậy hắn viết đến canh năm thì mới xiêu xiêu vẹo vẹo đứng dậy, hắn đã viết được mấy chục trang lấy y đạo mà luận đàm trị nước của mình. Xong xuôi đâu đó hắn mới mãn nguyện cởi quần áo của mình ra mà ôm Bàng Vũ Cầm đi ngủ.

Hắn chỉ ngủ một canh giờ thì trời cũng đã sáng, trong lòng Đỗ Văn Hạo vẫn còn có việc, nên hắn liền dậy từ khá sớm.

Ngày hôm nay mưa vẫn dầm dề rơi rả rích.

Tuyết Phi Nhi hôm nay đích thân xuống bếp chuẩn bị bữa sáng, nàng trông thấy mắt của Đỗ Văn Hạo đỏ ngầu, trông rất mệt mỏi thì thấy thương hắn vô cùng, liền mở miệng nói: “Hoàng Thượng cũng thật đúng là, biết tướng công đêm về còn lo chuyện chữa bệnh cho Tư Mã đại nhân, ban ngày thì lại mời tướng công vào cung, làm gì có ai bắt người ta làm việc cật lực để chết như vậy chứ!” Bàng Vũ Cầm đứng cạnh đó cũng chỉ biết chu môi lên cũng thể hiện rõ bộ mặt không hài lòng.

Đỗ Văn Hạo ngáp dài một hơi rồi cười nói: “Nhận bổng lộc của triều đình, thì dĩ nhiên phải tận tâm tận lực rồi, còn việc ở trong cung thì ta cũng không thấy mệt mỏi gì cả. Phi Nhi, phu nhân của Tư Mã đại nhân rất hay khách khí, vậy nên có chuyện gì nàng cứ đi qua đó giúp hộ ta nhé, cho dù bên cạnh có hai con chăm sóc nhưng chân của Tuệ Nhi vẫn chưa khỏi hẳn còn Tư Mã Dung thì lại là đàn ông không có tính tỉ mỉ, cẩn thận gì cả.”

“Được, được rồi, thiếp đã biết rồi!” Tuyết Phi Nhi thấy Đỗ Văn Hạo đã ăn xong, bèn nói: “Thôi tướng công mau đi đi, đi sớm về sớm.” Tuyết Phi Nhi không chờ Đỗ Văn Hạo nói xong liền đem cái ô nhét vào trong tay của hắn, rồi đưa hắn ra cổng lên kiệu.

Đỗ Văn Hạo lên kiệu xong vẫn cố thò đầu ra dặn dò: “Vậy ta đi đây, nàng phải nhớ…”

“Tướng công nhiều chuyện quá! Nhớ rồi, nhớ rồi! Ha ha ha” Tuyết Phi Nhi cười lớn, nàng đưa tay lên vẫy vẫy ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo mau mau lên đường, sau đó thấy kiệu của hắn đã đi khuất thì mới quay người đi thẳng đến phòng của Tư Mã Quang.

Đỗ Văn Hạo sau khi vào cung, đến điện Cần Chính, Hoàng Thượng lúc này đang lên triều, hắn nghe Ninh công công nói Hoàng Thượng vừa nhận được tin tình báo quân đội, dường như là chuyện quân cơ bên Thổ Phồn, Hoàng Thượng đang triệu tập quần thần thương thảo.

Đỗ Văn Hạo đành ôm trong người kế sách mà hắn lĩnh hội áp dụng từ y đạo ra để trị nước, ngồi chờ nơi hậu điện

Cho đến tận trưa, Hoàng Thượng cho người đem luôn cả bữa ngự thiện buổi trưa vào trong điện Cần Chính, xem ra mọi người trong đó đang thảo luận rất gắt gao, đến cả ăn uống cũng không thể ngừng được.

Đến chiều mưa vẫn chưa ngừng rơi, lúc to lúc nhỏ, Đỗ Văn Hạo cứ ngồi trơ mặt nơi hậu điện mãi cũng thấy nhàm chán, thấy vậy bèn mở cửa bước ra ngoài, đầu đội mưa rơi lất phất trên đầu chạy vào trong cái đình thoáng ở trong hoa viên, rồi ngồi lên cái ghế đá ở trong đó. Đỗ Văn Hạo gọi một tên tiểu thái giám mang cho mình một bình trà đặc đến. Hôm qua hắn ngủ ít quá nên người vô cùng mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo định ngồi chỗ này uống tách trà đặc cho tỉnh ngủ, ai ngờ trà chưa kịp đến thì hắn đã ngủ gật trên cái bàn đá ở đó tự lúc nào mà không hay.

“Đỗ đại nhân, Đỗ đại nhân…”

Đang trong lúc say giấc nồng thì bên tai của Đỗ Văn Hạo có một tiếng gọi, hắn mở mắt ra thì thấy khuôn mặt một người đang áp sát ngay trước mắt, hắn không khỏi giật mình suýt ngã ngửa người ra đằng sau.

“Đỗ đại nhân, xin lỗi đã làm đại nhân giật mình!”

Đỗ Văn Hạo nhìn kỹ lại người này, thì nhận ra đó chính là Diệp công công ở tẩm cung của Chu Đức Phi nương nương đang mỉm cười với hắn.

“Ha ha, lúc nãy bổn quan vừa nằm mơ thấy ác mộng nên mới giật mình như vậy, thật là ngại quá, không ngờ bổn quan lại nằm ngủ ngay giữa ban ngày, ha ha! Đúng rồi! Diệp công công đến tìm bổn quan có việc gì vậy?” Đỗ Văn Hạo đưa tay lên dụi dụi mắt sau đó vươn vai hỏi.

“Lão nô biết Đỗ đại nhân rất mệt, vừa nãy gặp Ninh công công thì ông ấy có nói cho lão nô biết rồi, lão nô vốn không định làm phiền Đỗ đại nhân, nhưng phu nhân của Đỗ đại nhân vào trong cung, bảo là tìm đại nhân có chuyện vậy nên bảo lão nô đến đây để thông báo cho đại nhân đó!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới phát hiện ra hắn không biết từ lúc nào trên người có thêm một chiếc áo nữa, chắc là do lúc nãy nằm ngủ viên tiểu thái giám khoác lên cho hắn khỏi lạnh.

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc hỏi: “Sao cơ? Cầm Nhi vào trong cung rồi sao?”

“Vâng! Phu nhân đang ở ngoài cổng, lão nô lúc đó đang trên đường về cung, khi đi qua cửa cung thì gặp phu nhân ở đó, phu nhân nói Tư Mã đại nhân…”

Đỗ Văn Hạo vừa nghe đến đây thì cảm thấy lo lắng muôn phần, lẽ nào bệnh tình của Tư Mã Quang có tín hiệu xấu hay sao? Nếu không phải như vậy thì Cầm Nhi không bao giờ vội vàng vào trong cung để tìm mình cả, Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn nói: “Hả? Có phải bệnh tình của Tư Mã đại nhân xấu đi rồi không? Vậy thì công công nên nói sớm cho bổn quan biết chứ, bổn quan phải đi luôn đây, bổn quan phải ra nói trước cho Ninh công công biết một câu, sau đó bổn quan sẽ ra khỏi cung ngay!”

Diệp công công nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, bèn kéo tay hắn lại mỉm cười nói: “Đỗ đại nhân nghe lão nô nói xong cái đã!”

“Vừa đi vừa nói không được sao?” Giọng của Đỗ Văn Hạo vô cùng sốt ruột và lo lắng, đang định chạy đi thì Diệp công công lại kéo hắn lại, Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì lại càng cuống hết cả lên.

“Thôi được rồi, vậy thì Đỗ đại nhân cứ đi tìm Ninh công công trước vậy, nhưng đừng có nói là bệnh tình của Tư Mã đại nhân có biến cố nhé, bởi vì người bị bệnh là phu nhân của Tư Mã đại nhân!”

“Hả? Không phải Tư Mã đại nhân sao? Công công làm bổn quan lo sốt vó lên rồi đây này!” Đỗ Văn Hạo thở phào nhẹ nhõm, sau đó dừng chân lại không chạy đi đâu nữa cả.

Diệp công công lúc này mới tiến tới nói tiếp: “Đại nhân vẫn chưa kịp nghe hết lời của lão nô nói đã vội vội vàng vàng đòi đi rồi, nghe phu nhân của đại nhân nói rằng Tư Mã đại nhân đang hồi phục rất tốt, giờ có thể tự xuống giường đi lại được rồi, mặc dù vẫn cần có người dìu đỡ, nhưng phu nhân của Tư Mã đại nhân do mệt mỏi quá độ mà cũng ngã bệnh rồi. Nghe phu nhân nói là cao đồ của Đỗ đại nhân đã chữa trị cho bà ấy nhưng lại không có kết quả gì cả!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Tư Mã Phu nhân bị bệnh chắc không phải là bệnh tầm thường, nếu không Cầm Nhi cũng không vội vã chạy đến đây làm gì, bổn quan phải quay về xem một chuyến mới được. Dù gì thì Hoàng Thượng cũng đang phải bàn chuyện quân cơ, có lẽ đến tối mới xong, bổn quan đi tìm Ninh công công nói trước vài câu cái đã.”

Đỗ Văn Hạo tìm đến bên Ninh công công hỏi chuyện của Hoàng Thượng đã tiến triển ra sao rồi, hắn nghe nói bên trong đó đang bàn tán xôn xao, vô cùng quyết liệt, không biết đến bao giờ mới xong. Đỗ Văn Hạo bèn đem chuyện phu nhân của Tư Mã Quang bị bệnh nói cho Ninh công công biết, Ninh công công nghe xong bèn nói: “Chỗ Hoàng Thượng hiện giờ cũng chẳng có vấn đề gì, Đỗ đại nhân cứ quay về trước chữa bệnh cho phu nhân của Tư Mã đại nhân trước đi đã, sau đó quay lại đây cũng được, lão nô sẽ chờ đại nhân ở đây!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền gật đầu cảm ơn, sau đó vội vội vàng vàng lên kiệu ra khỏi cung, quả nhiên Bàng Vũ Cầm đã đứng đợi hắn ở cổng cung tự lúc nào, sau vài câu hỏi đơn giản, hai người bèn cùng nhau quay về Ngũ Vị Đường.

Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng bệnh của Tư Mã Quang, hồi trước hắn cho Ngô Thị chăm sóc Tư Mã Quang, nên cũng chuẩn bị cho nơi này thêm một chiếc giường. Ai ngờ, vì chăm sóc cho Tư Mã Quang mà phu nhân của ông ấy đã ngã bệnh nằm luôn trên cái giường đó.

Lúc này Đỗ Văn Hạo chỉ trông thấy Tư Mã Quang đang ngồi trên chiếc ghế gần giường, Tuệ Nhi thì buồn bã quỳ ngay phía trước giường, còn Ngô Thị thì đang nằm trên đó, hai mắt nhắm nghiền hơi thở yếu ớt.

“Đỗ đại nhân, đại nhân đã về rồi! Mẫu thân!” Tuệ Nhi trông thấy Đỗ Văn Hạo đi vào trong phòng bèn vội vã đứng dậy, khập khiễng đi đến bên hắn, sau đó lại quay lại nhìn mẫu thân của mình đang nằm trên giường, nàng chỉ nói lên được mấy câu mà mắt đã đỏ hoe, nấc nghẹn lên.

Đỗ Văn Hạo đi đến bên giường rồi ngồi xuống, hắn thấy Tuệ Nhi thương tâm như vậy, bèn lên tiếng an ủi: “Đừng lo lắng quá! Để ta xem xem thế nào đã!”

“Vâng!” Huệ Nhi nghe xong liền đứng sang một bên chờ đợi.

“Cầm Nhi, lúc trước có phải Diệu Thủ khám bệnh cho phu nhân không?”

“Vâng, thiếp đã cho người đi gọi Diệu Thủ đến đây ngay bây giờ đây!”

Bàng Vũ Cầm vừa nói xong câu này, thì đã nghe thấy có tiếng nói từ bên ngoài vọng vào: “Sư tổ! Người đã về rồi!”

Đỗ Văn Hạo quay đầu ra cửa thì đã thấy đồ tôn của hắn Diêm Diệm Thủ đang bước vào trong này.

Đỗ Văn Hạo đưa tay lên khoát khoát ra ý bảo Diệu Thủ không nói gì vội, sau đó hắn quay sang nhẹ nhàng hỏi Ngô Thị: “Lão phu nhân, phu nhân nói cho tại hạ biết chỗ nào không được khỏe?”

Giọng của Ngô Thị yếu ớt, đứt quãng trả lời: “Ta thấy hơi mệt, toàn thân nóng bừng!”

Đỗ Văn Hạo lại dò xét cẩn thẩn sắc mặt của bà ta, thì thấy mặt của Ngô Thị đỏ ối, đưa tay lên trán thì thấy nóng như nước sôi, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Lão phu nhân, phu nhân đưa lưỡi ra cho tại hạ xem xem!”

Ngô Thị nghe xong bèn há miệng cho Đỗ Văn Hạo xem lưỡi, hắn đưa mắt ngó vào thì thấy màng lưỡi trắng có một lớp màu lợt trắng nhờn nhờn dính trên đó.

Đỗ Văn Hạo xem xong bèn nói: “Lão phu nhân muốn uống nước không? Để tại hạ bảo Tuệ Nhi đi pha ít nước cho lão phu nhân uống nhé, được không?”

Tuệ Nhi nghe xong định tự mình đi lấy nước thì bỗng nghe thấy Ngô Thị lên tiếng nói: “Đúng là ta có khát nước, nhưng ta không muốn uống đâu. Đừng đi lấy nữa, để ta ngủ một chút rồi sẽ khỏe lại ngay thôi!” Ngô Thị nói xong liền nhắm luôn mắt lại.

“Mẫu thân! Mẫu thân đừng ngủ nữa, mẫu thân đã ngủ như vậy hai ngày rồi, Đỗ đại nhân đang hỏi mẫu thân đó, mẫu thân đừng ngủ nữa!” Tuệ Nhi đứng bên cạnh đó lên tiếng, nước mắt nàng cũng lăn theo lời nói của nàng, tuôn rơi lã chã.

Đỗ Văn Hạo nghe Tuệ Nhi nói vậy cũng kinh ngạc vô cùng: “Hai ngày? Lão phu nhân đã ngủ được hai ngày rồi sao?”

“Cũng không hẳn là như vậy, ngày hôm trước thì không đến nỗi, nhưng đêm hôm qua thì nặng hơn hẳn, mẫu thân cứ ngủ vùi như vậy cho đến tận bây giờ, chính vì vậy tiểu nữ mới bảo Bàng phu nhân đi mời đại nhân về!”

“Diệu Thủ! Ngươi xem bệnh cho lão phu nhân từ lúc nào vậy?”

Diêm Diệu Thủ đáp: “Là ngày hôm trước, trưa hôm đó sư tổ vào trong cung vậy nên đồ tôn đã xem bệnh thay cho sư tổ, từ đó đến nay đồ tôn đã xem bệnh tổng cộng là hai lần hôm trước và hôm qua, mỗi hôm một lần.”

“Khi đó bệnh tình của lão phu nhân ra sao?”

Tuệ Nhi đáp: “Khi mới bắt đầu, thì chỉ thấy mẫu thân hơi có hiện tượng sốt cao, sau đó Diêm đại phu kê thuốc cho mẫu thân uống thì đêm hôm đó mẫu thân toàn thân đều ướt nhẹp, do ra mồ hôi ra quá nhiều ngấm vào hết quần áo, chính vì vậy mà cả đêm mẫu thân không ngủ được cho đến tận sáng hôm nay. Tiểu nữ vốn định bảo Đỗ đại nhân đến xem thế nào thì nghe hôm nay Đỗ đại nhân có việc vào trong cung không có thời gi­an rảnh rỗi, do vậy tiểu nữ định chờ đến đêm nay đại nhân quay về xem thế nào, nhưng không ngờ mới đến trưa ngày hôm nay thì bệnh tình của mẫu thân lại quá nặng, thở ra nhiều hơn là hít vào, gọi mãi mà không tỉnh lại, do lo lắng quá mới nghĩ đến việc vào trong cung tìm đại nhân quay về xem xem.”

Đỗ Văn Hạo quay sang Diêm Diệu Thủ hỏi: “Diệu Thủ, ngươi đem phương thuốc của ngươi kê cho lão phu nhân ra đây cho ta xem nào!”

Diêm Diệu Thủ liền móc trong người ra phương thuốc, hai tay dâng đến cho Đỗ Văn Hạo xem.

Đỗ Văn Hạo xem một lúc rồi thở dài đứng dậy đi ra cái bàn giấy ở góc phòng, Tuệ Nhi trông thấy vậy cũng đi theo sau hắn rồi chuẩn bị hết bút nghiên, đứng cạnh mài mực, rất nhanh Đỗ Văn Hạo đã viết xong đơn thuốc rồi đưa cho Diêm Diệu Thủ.

Diêm Diệu Thủ đưa lên xem một cái thì kinh ngạc vô cùng, đang định mở miệng hỏi thì thấy Đỗ Văn Hạo đã khoát khoát tay ra hiệu, Diêm Diệu Thủ chỉ biết im lặng đi ra ngoài tiền đường để bốc thuốc.

Rất nhanh thuốc đã được đun xong, Tuệ Nhi liền cầm lấy bón cho mẫu thân của mình uống.

Đến tầm chiều chiều chập choạng tối, cơn sốt trong người của Tư Mã phu nhân cũng đã thuyên giảm, người cũng bắt đầu tỉnh táo trở lại.

Tư Mã Quang trông thấy thì mừng rỡ vuốt vuốt bộ râu của mình, cảm ơn Đỗ Văn Hạo rối rít, còn Tư Mã Dung và Tuệ Nhi cũng nước mắt ngắn nước mắt dài tạ ơn hắn.

Đỗ Văn Hạo trông thấy Diêm Diệu Thủ vẫn đang vô cùng thắc mắc, bèn cười nói: “Ngươi nói xem, ngươi biện chứng chữa bệnh cho lão phu nhân thế nào?”

“Thưa sư tổ! Đồ tôn thấy lão phu nhân tai mặt đỏ ối, sốt cao không ngừng, thì biện chứng nó là Ôn Nhiệt Chứng, phương thuốc đầu tiên thì khai bài thuốc Trà Ngôi Dược. Nhưng sốt vẫn không giảm, đồ tôn lại biện chứng tiếp có lẽ lão phu nhân là Âm Hư Nội Nhiệt, lại khai bài thuốc có Sanh Địa, Thạch Giải cùng với rất nhiều bài thuốc hàn lạnh khác, nhưng lão phu nhân lại càng sốt nặng thêm, cả đêm vì thế mà không ngủ được, mồ hôi ra nhiều, thở gấp, đồ tôn ngu muội không biết bệnh tình của lão phu nhân rốt cuộc là ra sao nữa!”

“Ừm! Vậy ngươi có để ý thấy tuy lão phu nhân sốt cao như vậy, nhưng lại không thấy khó chịu bên trong không?”

Diêm Diệm Thủ nhất thời trợn tròn mắt cũng không hiểu tại sao.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Khi nãy ta hỏi lão phu nhân có khát nước không, tuy là lão phu nhân có nói là khát, nhưng lại nhất quyết không chịu uống nước, điều này chứng tỏ rằng bệnh chứng của lão phu nhân không phải là Ôn Nhiệt, ngươi lẽ nào mấy ngày hôm nay không để ý sao? Mấy ngày hôm nay khí trời âm u mù mịt, mưa dầm cũng lâu, chỗ nào cũng có mùi ẩm mốc, người ở trong phòng rất dễ cảm nhận sự ẩm thấp khó chịu, vậy nên phải thanh nhiệt để hóa giải sự ẩm thấp đó. Nhưng ngươi lại dùng các bài thuốc có vị hàn lạnh, như vậy càng làm cho sự ẩm thấp bên trong bị chế ngự không thông thoát ra ngoài cơ thể được. Sau đó ngươi lại chẩn đoán là Âm Hư Nội Nhiệt, như vậy càng làm tăng thêm ẩm nhiệt trong cơ thể, vì thế nên lão phu nhân mới ra nhiều mồ hôi, thở gấp như vậy, chỉ cần kê đơn thuốc có các vị Quế, Gừng thì dương khí sẽ được thông suốt, người lúc đó cũng sẽ khỏe lên nhất nhiều!”

Diêm Diệu Thủ lúc này mới ngộ ra được, cúi người nói: “Phương pháp của sư tổ quả nhiên kỳ diệu!”

“Không phải là phương pháp của ta kỳ diệu, mà là khi biện chứng thì không thể giới hạn trong các loại bệnh ở bản thân của người bệnh được, có lúc phải tham khảo những yếu tố xung quanh người bệnh nữa, như vậy mới biện chứng chính xác được!”

Diêm Diệu Thủ nghe xong hổ thẹn đáp: “Đồ tôn hiểu rồi!”

Chương 303: Oan gia ngõ hẹp gặp nhau!

Gởi bởi người có lòng!

Đỗ Văn Hạo dạo gần đây rất bận, trong cung ngoài cung hắn đều phải lo hết, chạy đi chạy lại, khó khăn lắm mới lo xong việc chữa bệnh cho Tư Mã Quang thì lại lo lắng sức khỏe của Hoàng Thượng, thế nên hắn phải lên xe vào lúc nửa đêm để vào cung khám bệnh.

Sau chuyện Lưu Quý Phi giả vờ có thai, Đỗ Văn Hạo lĩnh ngộ được một đạo lý trong chuyện này, đó là chuyện của mấy chị em trong cung thì hắn càng ít tiếp xúc vào càng tốt, ai cũng nói tâm tư của người phụ nữ như kim trong bể, làm cho người khác chẳng biết đâu mà lần. Ngày trước Đỗ Văn Hạo cho rằng Dụ Cáp Nhi là một người con gái không bị nhiễm thói hư tật xấu trong cung, nhưng sau đó hắn phát hiện ra rằng, người con gái nào đã được Ninh công công ngắm phải, và được ba người cầm đầu Hậu Cung yêu quý thì không hề đơn giản chút nào. Có lẽ nàng ta trước mặt người khác giả vờ ngoan hiền, không tranh giành với ai bao giờ, nhưng thực chất trong lòng nàng ta lại còn muốn tranh giành hơn người khác rất nhiều.

Dụ Cáp Nhi có lẽ biết Đỗ Văn Hạo cố ý lảng tránh khỏi phải gặp mình, hai tháng đã trôi qua rồi cũng không đến làm phiền, cho dù có đồ gì muốn đem đến cho Lâm Thanh Đại, cũng đều nhờ thái giám ở trong cung trực tiếp đem đến cho Ngũ Vị Đường.

Đỗ Văn Hạo nghe Ninh công công nói mấy ngày trước Dụ Cáp Nhi xuất cung cùng Thái Hoàng Thái Hậu đi thắp hương, trên đường về chẳng may bị nhiễm mưa lạnh cũng đều gọi Thái Y khác đến xem bệnh, Hoàng Thượng trông nàng ta ngày càng gầy gò ốm yếu thì lại càng thấy thương tâm, đau lòng vô cùng, mấy lần định gọi Đỗ Văn Hạo đến chữa trị, nhưng đều bị nàng khéo léo khước từ.

Đỗ Văn Hạo nghĩ tốt nhất là cả đời này nàng ta cũng đừng tìm đến hắn nữa, nhưng không ngờ hắn mới nghĩ vậy thôi mà hai ngày gần đây đều không may bắt gặp nàng trên đường.

Chuyện này muốn nói thì cũng nên bắt đầu từ chuyện của một người họ Triệu, chức Tiệp Trữ mới được Hoàng Thượng sủng ái.

Ngày mùng năm tháng sáu, cũng vừa vặn là ngày sinh nhật của Triệu Tiệp Trữ vừa tròn mười bảy tuổi, có lẽ mới là người được Hoàng Thượng ân sủng, nên cũng có vẻ dương dương tự đắc. Nàng ta trước đó một tháng đã rêu rao rằng sẽ tổ chức một bữa tiệc sinh nhật cho ra trò, theo luật lệ trong cung thì bắt đầu từ Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu trở xuống đến các phi tử khác ở trong cung, không được phép tổ chức sinh nhật. Nhưng Hoàng Thượng vì nghĩ nàng ta mới xa nhà nên cũng nhún vai đồng ý mà thôi. Bởi vì nàng ngày nào cũng vậy, cứ mặt mày ủ rũ không cười không nói gì cả, nên Hoàng Thượng mới mềm lòng đồng ý cho nàng tổ chức sinh nhật, những Phi Tần khác thì còn lâu mới có được đặc cách như vậy. Vị Triệu Tiệp Trữ này dĩ nhiên là không thể bỏ qua cơ hội mà có khi cả đời cũng khó mà có được này, nàng ta cho mời hết những vị quan trong triều có chức tam phẩm trở lên, Đỗ Văn Hạo cũng nằm trong số được nàng ta mời đến.

Ngày hôm đó, trời cũng khá đẹp, trong khuôn viên của Triệu Tiệp Trữ đều rộn ràng ánh náng, hoa tươi đua nở, chim ca ríu rít vô cùng vui vẻ, đèn đỏ được treo từ bên ngoài vào sâu tít trong hậu viện, con sư tử đá bên ngoài cổng cũng được buộc vào cổ một bông hoa màu đỏ to tướng, trong phòng giờ đây như được biến thành một màu đỏ lan rộng khắp mọi nơi.

Khi Đỗ Văn Hạo mới đến đây hắn cứ tưởng giờ đây hẳn rất đông người, dù sao thì Triệu Tiệp Trữ cũng là người được Hoàng Thượng rất sủng ái, các quan lại trong triều không nể mặt nàng thì cũng phải nể mặt Hoàng Thượng nữa chứ, ai ngờ lúc này người cũng không phải đông lắm, chỉ lèo tèo vài mống người lác đác ngồi tản mác ở đình, và trong mấy phòng chờ nói chuyện với nhau.

“Đỗ đại nhân đến!” Người canh cửa tẩm cung của Triệu Tiệp Trữ trông thấy Đỗ Văn Hạo đến thì hô lên thông báo.

Đỗ Văn Hạo đến chỗ bàn giấy gần đó ghi danh tính mình vào đó, rồi đặt lễ vật xuống tiến vào trong cung, đột nhiên hắn nghe thấy phía sau có người gọi hắn, Đỗ Văn Hạo bèn dừng chân đứng lại ngoảnh đầu nhìn ra phía sau.

Hắn chỉ trông thấy một người mặc một bộ váy tơ tằm uyên ương nguyệt nha quần, thanh tao nho nhã, chân đi đôi giầy tú hoa mầu hồng, tóc tết theo kiểu Phi Nguyệt, trên đó còn cắm một chiếc trâm Khổng Tước lấp lánh, nữ tử đó nhoẻn miệng cười tươi đi đến bên hắn nói: “Đỗ đại nhân đến sớm thật đấy!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhận ra, nữ tử xinh đẹp đó chính là Dụ Cáp Nhi, phía sau nàng là tên tiểu thái giám Tiểu Tề hai tay bưng lễ vật đứng đằng sau, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng mỉm cười đáp lại: “Nương nương đến cũng sớm mà!”

Hai người cùng sánh vai bước vào trong cổng, bên trong có một tên thái giám chạy đến tươi cười đưa tay lên thi lễ với hai người: “Mời Dụ nương nương và Đỗ đại nhân lên phòng dùng trà, nương nương của nô tài cũng sắp tới rồi!”

“Không cần làm phiền công công như vậy đâu, ta với Đỗ đại nhân đi đi lại lại trong này cũng được rồi, nghe nói hoa viên của Triệu nương nương rất đẹp, ta muốn vào trong đó xem không biết có được không?” Dụ Cáp Nhi nói xong thì đưa mắt ra bốn phía dò xét, không hề để ý vị công công trước mắt thêm một lúc nào nữa.

“Dĩ nhiên là được ạ! Để nô tài đưa hai vị đi xem”, tên tiểu thái giám trả lời.

Dụ Cáp Nhi nghe thấy vậy bèn khoát khoát tay nói: “Không cần đâu! Hôm nay ngươi cũng bận rồi, chúng ta tự mình đi được, chỉ cần ngươi không lo lắng về chuyện chúng ta chẳng may dẫm phải những kỳ hoa dị thảo trong hoa viên của Triệu nương nương là tốt rồi, ta nói vậy có đúng không Đỗ đại nhân?”

Đỗ Văn Hạo cũng không tiện từ chối lời mời thịnh tình của Dụ Cáp Nhi trước mặt người khác, nên cũng đành phải gật đầu đồng ý.

Viên tiểu thái giám thấy vậy vội vã gọi đến một đứa cung nữ nói: “Vậy mời hai vị cứ tự nhiên, lát nữa mời nương nương và Đỗ đại nhân đến phòng Nhược Đồng ở phía đông dùng bữa, mong nương nương và Đỗ đại nhân đừng bỏ lỡ, Hoàng Thượng cũng sẽ đến đó ạ!”

Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười nhạt, trong ánh mắt của nàng hiện rõ lên vẻ hờ hững hơn bao giờ hết.

“Nghe nói mấy ngày trước sức khỏe nương nương không được tốt lắm, không biết hôm nay thế nào rồi, đã khỏe lại chưa?” Đợi cho viên thái giám kia đi rồi thì Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi dưới sự dẫn dắt của đứa cung nữ nọ, một bên chào hỏi những quan lại đi ngược chiều đến, một bên bước vào trong hoa viên của Triệu Tiệp Trữ.

“Tiểu muội vẫn chưa thể quen được cái khí hậu miền bắc này, lúc nóng lúc lạnh, chẳng thể nào thoải mái dễ chịu bằng được thời tiết của Gi­ang Nam, hơn nữa thời tiết miền bắc còn vô cùng ẩm ướt, chính vì thế mà tiểu muội toàn mắc phải mấy cái bệnh lặt vặt, may mà vấn đề không lớn lắm, uống vài thang thuốc là khỏe lại rồi, không có gì đáng ngại lắm.” Dụ Cáp Nhi vừa nói, vừa đưa tay lên hái lấy một bông hoa màu vàng bên đường đưa lên mũi ngửi.

“Xin lỗi nương nương! Loại hoa này nương nương của nô tỳ không cho phép…” Đứa cung nữ đi cùng hai người đứng cạnh đó e dè lên tiếng.

Dụ Cáp Nhi nghe xong quay lại nhìn đứa cung nữ đó một cái, đứa cung nữ nọ trông thấy ánh mắt sắc như dao của nàng thì hồn phách lên mây, sợ quá không dám nói thêm câu nào nữa, đứa cung nữ giờ đây do sợ hãi mà đã cố tình bước chân chậm lại cách Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi một đoạn khá xa.

“Vậy thì tốt, nương nương cũng nên chú ý đến sức khỏe của mình hơn.” Đỗ Văn Hạo giờ đây tận mắt trông thấy Dụ Cáp Nhi cầm bông hoa khi nãy trong tay đang từng cánh hoa một ngắt vứt xuống dưới đường, sau đó lại đặt nó vào trong lòng bàn tay, nắm chặt lại đến cho nát nhừ rồi tung vứt nó lên cao, vung vãi khắp vườn.

Đỗ Văn Hạo nhìn vậy thì có chút băn khoăn nhưng vẫn không nói gì. Khi hai người đi đến một ngã ba trong vườn, đứa cung nữ nọ mới vội chạy đến cúi người, lấy hết can đảm nói: “Bẩm nương nương, bên trái là hậu hoa viên rồi!”

Dụ Cáp Nhi khó chịu đưa tay lên khoát khoát hai cái, đứa cung nữ nọ biết ý bèn lùi lại ra phía sau.

Đỗ Văn Hạo đã muốn tìm cớ tách ra từ lâu, thấy đứa cung nữ lùi xuống như vậy đang định mở miệng thì nghe thấy Dụ Cáp Nhi thở dài lên một tiếng ngẩng đầu lên nhìn hắn, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra trong mắt của nàng phút chốc đã nước mắt nhạt nhòa, sắc mặt trở nên đáng thương vô cùng.

“Tiểu muội biết Đỗ đại ca giờ đây rất sợ muội, lần trước việc của Lưu Quý Phi tiểu muội đã làm liên lụy đến Đỗ đại ca, cũng may là vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng mà…”

Đỗ Văn Hạo không chờ cho Dụ Cáp Nhi nói xong bèn cướp lời nói: “Nương nương không cần phải tự trách mình như vậy, lỗi cũng tại vi thần, tại sao vi thần dám trách nương nương được cơ chứ?”

Hai mắt của Dụ Cáp Nhi ánh lên, hai dòng nước mắt bắt đầu lại lăn dài trên má chảy xuống dưới cằm, trông vô cùng đáng thương.

Phàm là nam nhi, bất cứ ai trông thấy nữ nhi với đôi mắt long lanh và dòng nước mắt lấp lánh vậy chắc cũng không tránh được niềm thương cảm. Đỗ Văn Hạo nhất thời không biết nên nói thế nào, hắn suy nghĩ một chút rồi bất giác mỉm cười, khiến Dụ Cáp Nhi ngạc nhiên nói: “Đỗ đại ca cười gì vậy?”

Đỗ Văn Hạo ra ý bảo nàng và hắn tiếp tục đi tiếp, vì có người nào đó từ con đường khác đang tiến lại gần đây, Dụ Cáp Nhi đành phải kín đáo quay người nghiêng ra rồi rút khăn tay lau nước mắt đi, rồi đi theo Đỗ Văn Hạo.

“Đỗ đại ca, đại ca vẫn chưa nói tại sao đại ca lại cười như vậy, có phải do tiểu muội vừa khóc nên chảy hết son phấn hóa trang trên mặt không?”

Đỗ Văn Hạo lắc lắc đầu cười nói: “Không phải, vi thần trông thấy nương nương tội nghiệp như vậy đột nhiên nhớ đến một câu thơ!”

Dụ Cáp Nhi cũng là một người yêu thích thơ phú, nên khi nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy bèn vội vàng hỏi: “Thật sao? Là bài thơ nào vậy? Do ai viết?”

Đỗ Văn Hạo thấy Dụ Cáp Nhi hứng thú như vậy bèn lúc lắc cái đầu đọc bài thơ đó lên: “Năm ngoái giọt lệ tương tư chảy, đến hết năm nay mới tới cằm. Câu thơ này vi thần nghĩ nương nương đã nghe qua rồi, đúng không?”

Nhưng không ngờ Dụ Cáp Nhi gương mặt ửng đỏ đưa tay lên che miệng của mình, đưa mắt lên liếc Đỗ Văn Hạo một cái, rồi cúi đầu xuống thấp giọng nói: “Đây là thơ của ai vậy? Tại sao tiểu muội chưa từng nghe ai nói đến bao giờ cả, có phải là của Đỗ đại ca tự làm ra để chế nhạo muội đó không?”

Đỗ Văn Hạo kêu á lên một tiếng rồi đáp: “Đây là do Tô Tiểu Muội em gái của Tô Đông Pha Tô Thức làm đó, vi thần cứ tưởng rằng nương nương nghe qua rồi chứ!”

Dụ Cáp Nhi nghe Đỗ Văn Hạo giải thích như vậy, cũng biết có bài thơ như thế, nên cũng cười gượng nói: “Tiểu muội đúng là rất thiếu hiểu biết, vậy Đỗ đại ca hãy thử đọc cho tiểu muội nghe xem, muội cũng muốn biết nguyên văn của cả bài thơ đó có ý là gì nữa!”

Đỗ Văn Hạo dò xét Dụ Cáp Nhi một cách thận trọng, Dụ Cáp Nhi thấy hắn nhìn mình như vậy bất giác tức giận nói: “Xem Đỗ đại ca kìa, tiểu muội không ăn thịt đại ca đâu mà lo, muội cũng biết điều đại ca nói là sự thật, bài thơ đó cũng là có thật, Đỗ đại ca cứ đọc nguyên văn cả bài thơ đó ra đi, muội không tức giận đâu.”

Đỗ Văn Hạo nghe xong mới bắt đầu nói: “Tô Đông Pha và em gái của mình rất hay trêu ghẹo nhau. Đông Pha trên miệng có một bộ râu nên em gái ông ta thấy vậy mới chọc rằng: ‘Muốn gõ vào răng mà không thấy, chỉ nghe thấy tiếng từ râu ra. ‘ Còn Tiểu Muội của Đông Pha thì lại trán dô nên Đông Pha mới chế giễu rằng: ‘Chưa ra khỏi đình dăm ba bước, trán thì đã chạm ngay cổng rồi. ‘ Tiểu Muội lại cười nhạo chiếc cằm dài của Tô Đông Pha rằng: ‘Năm ngoái giọt lệ tương tư chảy, đến hết năm nay mới tới cằm. ‘ Tô Đông Pha lại thấy đôi mắt của Tiểu Muội hơi sâu vào trong nên đáp lại rằng: ‘Mấy lần rửa mặt khó lắm thay, chỉ vì hai mắt hõm ao này…”

“Ha ha ha! Tiểu muội hôm nay đúng là được mở rộng tầm mắt rồi, muội nhất định phải kể cho Hoàng Thượng nghe mới được, nhưng cằm của muội lại không dài như vậy, tại sao Đỗ đại ca lại cười muội như thế chứ?”

“Thực ra vi thần không phải cười nương nương đâu, vi thần sao dám cười nhạo nương nương cơ chứ? Vi thần chỉ không muốn nương nương không vui như vậy thôi, chính vì vậy nên vi thần mới nghĩ ra chuyện cười này để làm cho nương nương vui vẻ hơn mà thôi!”

“Tiểu muội lại thấy rằng Đỗ đại ca chê mặt của muội dài thì đúng hơn đó, Đỗ đại ca đừng có chối như vậy nữa…”

Đỗ Văn Hạo biết Dụ Cáp Nhi cũng đang đùa lại mình nên cũng vui vẻ đáp lại: “Nếu như mặt của nương nương mà dài như vậy thì e rằng nước mắt tương tư của viên thái giám canh cổng của nương nương chắc phải mười năm nữa mới chảy xuống cằm được mất!”

Dụ Cáp Nhi nghe xong thì cười lăn cười bò, hai người lại tiếp tục đi đến bên một dãy hành lang dài, chỗ này toàn một màu hoa tường vi màu trắng hồng, hương thơm tỏa ra thơm mát.

“Tiểu muội cứ tưởng rằng Đỗ đại ca không còn biết trêu đùa muội vui vẻ như vừa rồi nữa đấy.” Tuy câu nói này của Dụ Cáp Nhi có vẻ ngẫu hứng, nhưng trong lời nói lại tràn đầy vẻ cảm kích.

“Vi thần không dám!”

Dụ Cáp Nhi đi đến đây, đột nhiên dừng chân lại, chỗ nàng đứng vừa vặn có một cành hoa rơi đúng vào bờ vai của nàng, rồi nàng đưa một cái nhìn sâu lắng về phía Đỗ Văn Hạo nói: “Đừng có trước mặt muội mở miệng ra là vi thần vi thiếc mãi như vậy, muội coi huynh là huynh trưởng của muội, mong Đỗ đại ca đừng như vậy nữa. Hôm trước Đỗ đại ca mượn cớ về trước, không muốn nghe tiểu muội nói về mấy chuyện ngày xưa nữa, muội biết đại ca không muốn ở gần muội thêm một phút nào nữa. Sau đó, muội cũng về suy nghĩ rằng tại sao Đỗ đại ca lại có thể xưng hô tỉ đệ với Chu Đức Phi nương nương được, nhưng với muội thì không thể xưng hô huynh muội được cơ chứ?”

Đỗ Văn Hạo không biết nói gì nữa cả, bời vì hắn cũng chẳng biết nên nói thế nào cho phải cả.

Dụ Cáp Nhi vẫn tiếp tục nói: “Tiểu muội vốn cũng định không làm phiền Đỗ đại ca nữa, cứ để sự việc tiển triển theo cách tự nhiên vốn có sẵn của nó, nhưng hôm nay trông thấy Đỗ đại ca ở ngoài cổng, không biết tại sao, tiểu muội muốn cho Đỗ đại ca biết rằng muội đối xử với ai cũng không giống như đối xử với Lưu Quý Phi.”

“Nương nương hơi quá lời rồi, vi thần không có ý gì khác cả, chỉ là gần đây nương nương cũng biết rồi đấy, vi thần bận hết việc trong cung rồi lại đến ngoài cung, không thể nào lo lắng hết cho xuể được, mong nương nương thông cảm cho vi thần.” Đỗ Văn Hạo đúng là không muốn ở bên cạnh Dụ Cáp Nhi thêm một phút nào nữa, hắn bây giờ chỉ mong có một người nào đó chạy ra gọi hắn đi ăn cơm cho nó nhẹ nợ, hắn cũng chẳng muốn quan tâm đến chuyện Dụ Cáp Nhi nói, cũng chẳng muốn có thêm một người em gái như vậy nữa. Có những lúc một người con trai thích hoặc không thích một ai đó thì cũng chẳng có lý do nào hết cả. Thích thì là thích, không thích thì chỉ là không thích, đơn giản vậy thôi.

“Đỗ đại ca có biết không? Khi một người đánh mất người mà mình yêu quý nhất sẽ muốn làm điều gì nhất không?” Dụ Cáp Nhi có lẽ cũng không thích nhìn khuôn mặt quan trường của Đỗ Văn Hạo nữa, nên mới quay đầu đi nói câu như vậy.

Đỗ Văn Hạo lặng thinh không nói, ngươi không phải rất yêu Hoàng Thượng đó sao? Lẽ nào ngươi đã thay đổi, lẽ nào ngươi lại yêu ta sao?

Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một lúc rồi ngập ngừng nói: “Vi thần chưa có cảm giác đó, vi thần thật sự không biết là sẽ làm như thế nào cả!”

“Nếu như lúc sáng sớm đại ca mới bước ra khỏi nhà, thì Thanh Đại tỷ của đại ca nói rằng tỷ tỷ sẽ chờ đại ca đến tối đi xem hội hoa đăng, nhưng đến lúc đó thì tỷ đã chết rồi, thì đại ca cảm thấy thế nào?”

Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, hắn nói luôn mà không cần suy nghĩ: “Thanh Đại tỷ công phu giỏi như vậy, chắc không có chuyện gì đâu! Nếu có chuyện thì cũng chỉ có vi thần gặp chuyện bất trắc mà thôi!”

Dụ Cáp Nhi nghe xong nhoẻn miệng cười, môi nàng nhếch lên hở một hàng răng trắng bóng, trông nàng ngây thơ trong sáng vô cùng, Đỗ Văn Hạo lại cảm nhận được Dụ Cáp Nhi đã lại quay về là chính nàng khi xưa, khi hắn mới quen biết nàng.

“Muội biết đại ca rất thương Thanh Đại tỷ, đại ca chỉ mong chuyện xấu nhất xảy ra với mình, chứ cũng không đành lòng để chuyện xấu xảy ra trên người của Thanh Đại tỷ cả.”

“Đó là điều dĩ nhiên rồi.” Đỗ Văn Hạo trả lời chắc nịch.

Ánh mắt của Dụ Cáp Nhi dần dần ảm đạm hẳn xuống, nàng chẳng buồn đi nữa, mà ngồi luôn hẳn xuống chiếc ghế gỗ trong dãy hành lang này, trong mắt nàng hiện lên sự buồn bã vô bờ.

“Tiểu muội nhớ rằng, muội đã kể cho đại ca nghe muội có một người anh trai cũng trạc tuổi Đỗ đại ca, muội và anh trai mình sống với nhau từ bé, huynh ấy rất tốt với muội.”

Thanh Mai Trúc Mã ư? Vậy tại sao không cưới luôn trước khi bị vào cung chứ? Có lẽ không phải là anh ruột của ngươi. Đỗ Văn Hạo nghĩ bậy bạ lung tung như vậy, vì hắn đọc được trong ánh mắt của Dụ Cáp Nhi một tình yêu đã chôn sâu tận đáy lòng. Xem ra hắn đã có một phen ăn dưa bở rồi! Nhưng Đỗ Văn Hạo từ trước đến giờ chưa một lần hẳn hoi nghe Dụ Cáp Nhi kể chuyện riêng của nàng cho hắn bao giờ cả, vậy nên khi nghe nàng nói vậy cũng ậm ừ đồng ý.

“Huynh ấy là con trai của cô cô của muội.”

Đỗ Văn Hạo sửng sốt, mắt hắn mở to ra, không phải chứ, cô cô của Dụ Cáp Nhi không phải là thiếp của Vương Gia hay sao? Vậy thì anh trai của nàng cũng là Hoàng Thân Quốc Thích rồi còn gì nữa?

“Hai người chắc yêu nhau lắm phải không?” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng lên tiếng hỏi.

Dụ Cáp Nhi ngước mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo đang ngồi đối diện ngay trước mặt mình, nàng cười với hắn một cái rồi nói tiếp: “Đỗ đại ca muốn nghe chuyện của tiểu muội rồi sao?”

Đỗ Văn Hạo ngồi đó nghe thấy Dụ Cáp Nhi nói như vậy bất giác cười gượng lên một cái, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ, ngươi đã có ý kể chuyện cho ta nghe rồi, thì ta tránh cũng chẳng thoát được, sớm muộn gì cũng phải nghe, thôi thì nghe trước cho nó sớm chợ, nghe xong còn đi ăn cơm, nếu không ăn cơm xong rồi mới nghe chắc là cũng quên béng hết rồi cũng nên, ngươi cứ bày tỏ hết cõi lòng ra cho thoải mái, ta cũng giải phóng luôn đôi tai của ta, đôi bên cùng có lợi.

“Mời nương nương nói tiếp! Vi thần vẫn đang nghe đây.” Đỗ Văn Hạo tìm một chỗ dựa thoải mái, sau đó dựa lưng vào một cái hàng rào bằng trúc, dùng để làm chỗ đỡ cho cây tường vi leo lên, hắn lại còn sợ đang nghe thì gật mất nên hắn ngồi hơi chếch lưng với Dụ Cáp Nhi, như vậy khi hắn không may đang gật gù thì cũng không dễ bị Dụ Cáp Nhi nhìn thấy.

“Sau khi cô cô mất, cha của muội rất lo lắng người đàn bà hại chết cô cô của muội bắt nạt huynh ấy, nên ông đã tìm đến Vương Gia thương lượng, rồi đưa huynh ấy về Gi­ang Nam. Cũng may là sau đó, sự việc hãm hại cô cô của muội bị bại lộ, người đàn bà đó bị đuổi ra khỏi nhà, nghe nói sau này bà ta về làm vợ của một người họ Lưu.”

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, cứ như là đang nghe chăm chú lắm vậy, đến lúc này thì hắn vẫn còn khá tỉnh táo, bỗng có một cơn gió man mát thổi đến, đập vào mặt của hắn, làm hắn đã có đôi chút gật gù buồn ngủ.

“Từ đó trở đi, muội và huynh ấy ngày nào cũng ở bên cạnh nhau, đối xử với nhau rất tốt, rồi cho đến một ngày…Đỗ đại ca, đại ca vẫn nghe muội nói đấy chứ?”

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại mỉm cười, một nụ cười quyến rũ có thể làm chết bao nhiêu người, Dụ Cáp Nhi lúc này mới lại nói tiếp: “Cho đến một ngày huynh ấy biến mất, không thấy đâu nữa!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới bắt đầu chăm chú nghe câu chuyện của Dụ Cáp Nhi, đột nhiên nghe đến câu “huynh ấy biến mất, không thấy đâu nữa!” thì hả lên một tiếng, người ngồi thẳng lên, quay đầu lại nhìn Dụ Cáp Nhi, chỉ thấy khóe mắt của nàng giờ đây đã có một hàng lệ tuôn dài.

“Đúng vậy, huynh ấy không biết đi đâu nữa rồi!”

“Sao lại có thể biến mất được chứ? Một người lớn phải khác một đứa trẻ chứ, huynh ấy khi đó cũng được coi là người lớn rồi chứ nhỉ?”

“Đúng vậy, đó là hồi mùng hai tháng hai năm ngoái, huynh ấy đưa muội cùng nhị ca, tam ca, tứ ca đi ra ngoại ô thả diều, sau đó mấy người bọn muội chơi đùa rất vui vẻ, chơi được một lúc thì huynh ấy đột nhiên biến mất, bọn muội đều không ai hay biết chuyện gì đang xảy ra cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong, cũng thấy câu chuyện của nàng đã đến hồi cao trào, vội quay mặt lại nói: “Sau đó thì thế nào?”

Dụ Cáp Nhi nhất thời nhắm mắt lại, dưới hàng mi mắt đen tuyền của nàng nhỏ xuống hai hàng nước mắt.

“Bọn muội đã đi tìm rồi, thậm chí còn đi báo quan nữa, một tháng sau thì bọn muội tìm ra huynh ấy!”

Đỗ Văn Hạo thở phào nhẹ nhõm nói: “Như vậy thì tốt rồi, có phải là huynh ấy bị bọn cướp bắt đi, rồi đến tống tiền nhà muội không?” Trong đầu Đỗ Văn Hạo đã bắt đầu nghĩ đến những tình huống giống như trong những bộ phim mà hắn đã từng xem ở thời hiện đại.

Dụ Cáp Nhi cười mếu máo, nấc lên đáp: “Nếu như chỉ vì tiền, thì cha của muội chắc chắn sẽ chuộc lại huynh ấy bằng mọi giá, cho dù có khuynh gia bại sản đi chăng nữa, chỉ cần bọn chúng tha cho huynh ấy, thì cha của muội cái gì cũng có thể làm được.”

Đỗ Văn Hạo lại cảm thấy chuyện lại đến hồi gay cấn nên hỏi tiếp: “Rồi sao?”

Dụ Cáp Nhi gật gật đầu, rồi đưa chiếc khăn tay lên lau lau nước mắt, tiếp tục nói: “Khi bọn muội tìm được huynh ấy thì đồng thời cũng tìm được một bức thư nói rằng huynh ấy là con trai của Vương Gia, chính vì vậy nếu không vì huynh ấy thì Vương Gia đã không từ bỏ một người đàn bà tên Ngô Tình rồi, bọn cướp vì báo thù cho người đàn bà tên Ngô Tình này mà đã bắt cóc huynh ấy.”

Đỗ Văn Hạo trông thấy thần sắc của Dụ Cáp Nhi đang từ đau thương bỗng chốc trở nên căm hận, hàm răng trên của nàng cắn chặt vào hẳn môi dưới, cảm giác như máu của môi dưới như sắp trực trào ra đến nơi rồi vậy.

“Bọn chúng cuối cùng cũng đưa thi thể của huynh ấy trả về phải không?” Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã tỉnh cả ngủ, hắn không ngờ rằng Dụ Cáp Nhi lại có một quá khứ đau buồn như vậy.

“Hứ! Bọn chúng làm gì có chuyện tốt bụng như vậy, bọn muội phát hiện ra xác của huynh ấy nằm bên cạnh mộ của cô cô, khi đó xác của huynh ấy đã thối rữa hết cả rồi, bọn muội đứng cạnh xác của huynh ấy thì mới phát hiện ra bức thư đó!”

“Vậy thì không đúng rồi, nếu mà đã là ám sát, thì dĩ nhiên bọn chúng sẽ không hy vọng có người biết bọn chúng là hung thủ được, tại sao bọn chúng lại dám cả gan để lại bức thư tự tố cáo mình như thế được?” Đỗ Văn Hạo nghi hoặc hỏi.

“Khi đó quan phủ cũng nghĩ như vậy, sau đó cha của muội cũng đi dò hỏi xem người đàn bà hồi trước bị Vương Gia từ bỏ đích xác tên là Ngô Tình, hơn nữa bà ta còn vào làm vợ của một người ở Gi­ang Tây, người này mà không phải ai khác chính là Tuần Phủ Gi­ang Tây đại nhân.”

“Ý của nương nương là bọn chúng to gan để lại bức thư như vậy vì bọn chúng đã có người đỡ lưng đằng sau, không sợ có người đến trả thù ư?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên.

“Việc này sau đó được cha muội dùng tiền mua người điều tra việc này, thì biết được chính người đàn bà Ngô Tình đó đã thuê người trên gi­ang hồ làm việc đó!”

Đỗ Văn Hạo càng nghe thì càng thấy tình tiết chuyện này càng ngày càng giống mấy bộ phim chuyên đi trả thù của Hồng Kông: “Quan phủ không cho người đi tìm bọn chúng ư?”

Dụ Cáp Nhi cười lạnh lên một tiếng đáp: “Quan phủ cũng cho người đi điều tra và quả nhiên phát hiện ra Ngô Tình là người đứng đằng sau vụ việc, sau đó vị Tuần Phủ đại nhân cho người đến khuyên giải cha của muội nói rằng huynh ấy dù sao cũng không phải con đẻ của ông, rằng Vương Gia bây giờ cũng chẳng để ý đến huynh ấy nữa, và hơn nữa mẫu thân của huynh ấy cũng đã qua đời, và chúng ta cũng chẳng thể đấu lại nổi vị Tuần Phủ đó, nghe nói Tuần Phủ đại nhân có một người anh làm quan rất to trong triều đình.”

“Vậy sau khi nương nương vào cung thì đã biết ai là người làm quan to đó chưa vậy?”

Dụ Cáp Nhi thở dài một cái, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo cười nói: “Nếu như muội mà nói ra, thì về sau Đỗ đại ca đã là đại ca thật sự của muội rồi, vì chúng ta khi đó đã là người cùng hội cùng thuyền rồi, đại ca có đồng ý gia nhập không?”

Đỗ Văn Hạo không trực tiếp trả lời nàng, mà lại hỏi ngược lại: “Vi thần chỉ muốn hỏi nương nương một điều rằng, nương nương hiện giờ và Dụ Cáp Nhi ở Đông Minh Huyện là cùng một người phải không? Nương nương vào cung không phải là để phục vụ Hoàng Thượng, mà là để trả thù có phải không?”

Dụ Cáp Nhi gật gật đầu đồng ý, rồi nói: “Muội vẫn là muội, muội không bao giờ là người đóng kịch trước mặt Đỗ đại ca cả, muội tin đại ca và Thanh Đại tỷ, và cả Ninh công công nữa.”

“Hả! Còn cả Ninh công công nữa!” Đỗ Văn Hạo há hốc miệng kinh ngạc.

“Không! Ông ấy không biết chuyện này đâu, Ninh công công là người hầu thân tín của Hoàng Thượng, muội không dám mạo hiểm như vậy đâu, muội biết điều này chứ!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới thở hắt ra một cái nói: “Nương nương không thấy rằng mình đang đơn cô thế cô hay sao?”

“À! Kỳ thực khi muội, Dụ Cáp Nhi này trông thấy huynh ấy chết thảm ngay trước mặt mình như vậy thì trái tim của muội cũng đã chết theo từ khi đó rồi, nếu như không phải vì báo thù cho huynh ấy, thì ngày hôm đó muội cũng đập đầu chết ngay bên mộ của cô cô rồi, làm gì mà phải ngày nào cũng cúi người, chào hỏi tươi cười với kẻ thù của mình cơ chứ?”

“Đúng rồi! Nương nương nói rằng kẻ thù của nương nương là một quan to trong triều, quan to đến mức nào vậy?”

Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười giảo hoạt đáp: “Chắc chắn đại ca không thể nào tưởng tượng được đâu. Đó là Binh Bộ Thượng Thư Lưu Húc!”

“Hả! Không phải chứ?” Đỗ Văn Hạo vẫn chưa hết kinh ngạc, câu chuyện của Dụ Cáp Nhi quá đỗi động trời, một cô gái vì trả thù đã dấn thân vào trong cung, cố gắng lấy lòng những người cần lấy rồi bắt đầu kết bè kết phái để thực hiện mục đích của mình, cái này sao mà giống trong phim truyền hình hiện đại vậy!

Dụ Cáp Nhi chợt im một chút, rồi cười nói: “Thật không ngờ Đỗ đại ca lại có thể làm cho muội buột miệng nói cho đại ca biết người đó là ai. Bí mật này trước giờ muội vẫn tự nhủ sẽ phải giữ thật kỹ. Thôi chết rồi, vậy là đại ca đã trở thành người cùng hội cùng thuyền với Dụ Cáp Nhi rồi!”

Đỗ Văn Hạo nét mặt nghiêm túc đi đến bên Dụ Cáp Nhi thấp giọng nói: “Nương nương cũng biết rằng thế lực của nhà họ Lưu mạnh như thế nào rồi đấy, đến cả Hoàng Thượng còn phải nể họ vài ba phần, nương nương sao có thể?”

Dụ Cáp Nhi hứ lên một tiếng cười lạnh đáp: “Gã họ Lưu đó thực chất cũng không biết muội là ai, cũng có nghĩa là ông ta ở ngoài ánh sáng mà muội thì lại ở trong bóng tối, muội cũng chẳng trực tiếp làm gì ông ta cả, chỉ giải quyết việc cháu gái của ông ta trước cái đã.”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới chợt hiểu ra hết mọi chuyện, hắn trợn mắt lên nhìn vào Dụ Cáp Nhi, còn nàng thì cười với vẻ đắc ý, hai tay khoanh ở trước ngực, đứng dậy đi đến bên Đỗ Văn Hạo, giọng nói vô cùng thân thiết: “Đỗ đại ca!”

“Đừng có xưng hô lung tung như vậy! Ngươi định hại ta Ta là người đã có gia thất rồi, đừng có gọi ta như vậy, ta có thể đảm bảo với ngươi rằng ta sẽ không nói chuyện này ra đâu, ngươi đừng kéo ta vào chuyện rắc rối này, ta không mắc lừa ngươi đâu.” Đỗ Văn Hạo nói xong liền quay người đi luôn.

“Đỗ đại ca! Đại ca nên biết rằng, vật mà người ta không bao giờ tin được chính là miệng lưỡi của mình, bởi vì tai và mắt vĩnh viễn chỉ là người nghe và người trông thấy mà thôi, còn miệng lưỡi mới là cái đem những việc mà mình nghe và nhìn thấy được đi nói cho người khác biết, muội không bao giờ tin vào sự đảm bảo của người khác, trừ phi người đó là người cùng một hội với muội!”

Chương 304: Đại tỷ phu bị bệnh!

Gởi bởi người có lòng!

Đỗ Văn Hạo ghét nhất Dụ Cáp Nhi ở điểm hay giở nhiều trò âm mưu, chơi xấu người khác, tuổi còn nhỏ như vậy mà lại có một bộ não suy nghĩ già dặn không kém những người tuổi cha tuổi ông mình là mấy. Tuyết Phi Nhi lớn hơn nàng ta mấy tuổi, nhưng cũng không thể nào ranh ma bằng Dụ Cáp Nhi được, cho dù mục đích của nàng là vì người sư huynh thanh mai trúc mã của mình đi chăng nữa, thì cũng không nên như vậy!

Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Dụ Cáp Nhi nói thì mặt hắn đanh lại đáp: “Vậy nương nương muốn vi thần làm thế nào đây? Vi thần cũng chẳng có hứng thú gì với màn đấu đá nhau trong cung cả, vi thần chẳng qua là nghe nương nương kể một câu chuyện mà thôi, nếu như chỉ vì câu chuyện cỏn con này mà nương nương muốn lôi kéo vi thần vào chuyện thị phi thì e rằng cũng hơi quá đáng rồi đấy!”

Dụ Cáp Nhi có lẽ cũng không thể ngờ được là một người thường nhật nho nhã, lịch sự như Đỗ Văn Hạo lại có thể trở nên lạnh lùng, nghiêm túc đến như vậy, lúc này nét mặt đanh thép của Đỗ Văn Hạo cũng làm cho nàng cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ. Dụ Cáp Nhi mất một lúc mới ấp a ấp úng trả lời: “Thực ra thì muội cũng không có ý cưỡng ép Đỗ đại ca, nhưng chẳng qua muội chỉ muốn đại ca hiểu cho muội rằng, muội không phải là một người âm mưu nham hiểm gì cả, huynh có thế không muốn trở thành người cùng hội cùng thuyền với muội, vậy cứ coi như Dụ Cáp Nhi đã nhìn nhầm người rồi, đại ca cũng đã lên tiếng bảo đây chỉ là một câu chuyện cỏn con mà thôi, nếu đã là một câu chuyện cỏn con thì dĩ nhiên là có lúc là sự thật có lúc là bịa đặt. Đỗ đại ca cứ coi như mình chẳng có việc gì để làm đến đây nghe Dụ Cáp Nhi lảm nhảm cũng được!” Dụ Cáp Nhi nói xong liền đứng dậy cúi đầu lướt người qua mặt Đỗ Văn Hạo đi mất.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng chẳng thèm đuổi theo, cũng chẳng buồn nói thêm câu nào nữa, chỉ im lặng nhìn theo dáng người dong dỏng cao của Dụ Cáp Nhi dần dần biến mất sau những khóm hoa. Đỗ Văn Hạo còn cố tình đi đi lại lại trong hoa viên thêm một lúc nữa, rồi mới đi ra ngoài, cũng vừa vặn là giờ ăn tối nên hắn cũng vào phòng ăn luôn. Khi vào trong này thì Đỗ Văn Hạo để ý không thấy có Dụ Cáp Nhi xuất hiện ở đây, nghe mấy viên quan nói rằng, nàng kêu trong người không được khỏe đã bỏ ra về trước rồi.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo không biết sao tinh thần của hắn bỗng chốc trở nên lo lắng, bất định, Triệu Tiệp Trữ cũng là lần đầu tiên hắn gặp mặt, nghe nói nàng là một người con gái vô cùng xinh đẹp, nhưng hôm nay gặp rồi, thì Đỗ Văn Hạo cũng chỉ cảm thấy bình thường chẳng có gì nổi bật cả, hắn lúc này chợt nghĩ nếu bên cạnh Hoàng Thượng lúc nào cũng có những người con gái thanh cao, thoát tục như Lâm Tiệp Trữ thì e rằng trong hậu cung chẳng bao giờ xảy ra chuyện đấu đá nhau đến mức không còn nhân tính như vậy. Nhưng nghĩ lại cũng phải thông cảm cho các mỹ nhân nơi thâm cung, ở đây nếu mà không có chút thủ đoạn thì làm sao lấy lòng được một người đã ngắm nhàm mỹ nhân như Hoàng Thượng được cơ chứ?

Triệu Tiệp Trữ hôm nay mặc một bộ váy dài mầu đỏ, đeo một chiếc dây lưng thêu hoa vàng, một chiếc vòng ngọc trai lấp lánh trên cổ, khoác bên ngoài một bộ gấm bào ánh bạc, trên đầu cài một chiếc trâm phượng ngọc lúng liếng, mặt nàng đánh một lớp phấn nhẹ, nhưng trông cũng khá hấp dẫn, duy nhất có một điều là trông nàng cũng chẳng có vẻ đẹp gì đặc sắc cả, nàng có lẽ cũng chỉ được coi là có chút nhan sắc mà thôi.

Triệu Tiệp Trữ thực ra cũng chỉ đi ra ngoài gặp mặt mọi người một chút, rồi nâng vài chén rượu gọi là tượng trưng, rồi lại đi vào trong, những người ngồi ở đây thấy vậy bắt đầu thầm thì to nhỏ với nhau, Đỗ Văn Hạo đối với những chuyện tầm phào tán gẫu đó cũng chẳng có gì hứng thú, chỉ chăm chăm vào các món ăn cùng rượu thơm trên bàn, nên hắn cứ cắm đầu cắm cổ vào thưởng thức ngon lành, sau khi no say thoải mái đang định cáo từ ra về thì đột nhiên nghe tiếng gọi:

“Đỗ đại nhân định về rồi ư?”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã ngà ngà say, vừa bước đến cổng thì bỗng nghe thấy có người gọi mình, thì quay đầu lại nhìn, nhưng do vì trời tối quá nên hắn cũng chẳng nhận ra người gọi hắn là ai nữa.

“Hoàng Thượng đang tìm đại nhân để truyền khẩu dụ đây, may quá nô tài đuổi kịp đại nhân rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe giọng nói, xưng hô cùng với chuyện Hoàng Thượng muốn tìm mình, thì cũng đoán ra được đó là ai rồi, hắn tìm một chỗ có ánh sáng tốt hơn một chút để nhìn rõ hơn người vừa mới lên tiếng, quả nhiên không ngoài sự dự đoán của hắn, Ninh công công đang khoanh tay đứng cúi người vẻ mặt méo mó chờ đợi. Đỗ Văn Hạo trông thấy bộ dạng của ông ta cũng không nhịn được, bất giác mỉm cười một cái.

“Trông bộ dạng của Công công kìa! Có phải dạ dày khó chịu không?” Đỗ Văn Hạo bước đến vỗ vỗ vào vai của Ninh công công nói.

Ninh công công cười khổ đáp: “Ài! Nô tài làm sao mà so bì với đại nhân được? Hoàng Thượng lúc nãy ngồi ăn thấy đại nhân dường như không vui, nên rất lo lắng, nói là đại nhân chắc là do lo lắng cho việc làm sao tìm ra được một chính sách hoàn hảo để trị quốc nên mới mệt mỏi như vậy, vì thế mà Hoàng Thượng đã đồng ý ân chuẩn cho đại nhân về nhà tĩnh dưỡng vài ngày, đại nhân mệt mỏi thì được Hoàng Thượng quan tâm như vậy, còn nô tài mệt mỏi thì nào có ai biết đâu?”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, Hoàng Thượng cũng quả là để ý vô cùng kỹ lưỡng, lúc nãy rõ ràng là mình có vẻ không vui, nhưng Hoàng Thượng lại tưởng mình suy nghĩ quốc sách mà mệt mỏi, chán chường như vậy, thực ra thì mình đã làm cũng hòm hòm rồi, chỉ là chưa dâng lên cho Hoàng Thượng ngự lãm mà thôi. Thế nhưng, Hoàng Thượng đã ân chuẩn cho mình nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mấy ngày rồi, tội gì mà không đồng ý, mấy ngày này không vào trong cung cũng tốt, đỡ phải chẳng may bắt gặp Dụ Cáp Nhi mà cảm thấy gượng gạo, như vậy cũng tốt. Ở nhà thì cũng có thể xem xét lại đường lối quốc sách ra sao cho nó cẩn thận hơn một chút, mình không trông mong gì Hoàng Thượng xem trọng mình quá, nhưng cũng không nên để Hoàng Thượng cảm thấy mất mặt vì tin tưởng mình.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn ôm lấy vai của Ninh công công mà nói: “Ninh công công! Ai mà không biết Ninh công công ngài vất vả thế nào cơ chứ! Hay là để bổn quan nói với Hoàng Thượng một câu, để công công cũng được tĩnh dưỡng mấy ngày? Mà về sau công công cũng đừng xưng hô nô tài này nô tài nọ nữa nghe nó chướng tai lắm, thật đấy, chướng tai vô cùng, lại còn giả tạo nữa!”

Ninh công công nghe xong thì cười ha hả đáp: “Thôi bỏ đi! Lão nô cũng chỉ có mỗi ở trước mặt của Đỗ đại nhân là có thể nói đùa được thôi, còn trước mặt người khác thì đừng hòng bắt lão nô thốt ra hai chữ mệt mỏi, đi thôi, lão nô đưa đại nhân ra ngoài, hiếm khi Hoàng Thượng cho đại nhân nghỉ ngơi vài ngày như vậy, Đỗ đại nhân nên nhân cơ hội này mà nghỉ ngơi cho nó thoải mái!”

Nói xong hai người liền đi thẳng ra ngoài cổng.

“Công công không nên dễ dàng mà tin người khác như vậy, cẩn thận bổn quan đem chuyện này đi rêu rao khắp nơi đó!” Đỗ Văn Hạo vừa cười vừa trêu ghẹo Ninh công công.

Ninh công công nghe xong cũng trừng mắt nhìn hắn, rồi đưa tay lên chỉ chỉ vào mặt của Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Lão nô biết đại nhân sẽ không nói ra đâu, tiểu Dụ Cáp Nhi nói đúng, đại nhân là một người rất đáng tin cậy! Nếu không thì lão nô cũng chẳng ăn nói như vậy trước mặt của đại nhân rồi!”

Ninh công công vừa nhắc đến Dụ Cáp Nhi thì Đỗ Văn Hạo bỗng cảm thấy khó chịu trong lòng, hắn miễn cưỡng nở ra một nụ cười, rồi lảng sang chủ đề khác nói: “Mệt rồi thì cũng nên nghỉ, cũng không nên cố quá, công công mà bị bệnh, thì ai chăm sóc Hoàng Thượng đây?”

“Ha ha! Đỗ đại nhân nói câu này lão nô thích nghe, nhưng đây là sứ mệnh, là trọng trách của lão nô! Lão nô không thể chối từ nó được!”

Đỗ Văn Hạo và Ninh công công vừa đi vừa nói thì đã ra đến ngoài cổng, sau khi đưa hắn lên kiệu, Ninh công công liền mỉm cười đưa tay lên vẫy tạm biệt, rồi quay người đi vào trong.

Lúc này ánh đèn lồng treo trước cổng của Ngũ Vị Đường đang đong đưa trước gió, cổng đã được đóng kín, bên trong đại đường vẫn còn ánh đèn hắt ra le lói, Đỗ Văn Hạo đứng ở ngoài cổng bất giác thấy trong người trào dâng một nỗi niềm khó tả. Từ trước đến giờ hắn không cảm thấy về nhà lại có cảm giác gần gũi và thân thiết như vậy, đây là nhà của mình, gia đình của mình, nghĩ đến đây Đỗ Văn Hạo phảng phất trông thấy sự hiền dịu, đảm đang của Bàng Vũ Cầm, sự hoạt bát, nhanh nhẹn của Tuyết Phi Nhi, và còn có Lâm Thanh Đại, người mà chỉ có hắn nàng mới mỉm cười duyên dáng dịu dàng, cuối cùng là Liên Nhi, nàng đang chăm sóc Trần Mỹ Nhân nơi Lãnh Cung. Đỗ Văn Hạo bỗng nở một nụ cười đầy ngụ ý ở trên miệng, chầm chậm bước đến gõ cổng.

“Ai thế?”

Đỗ Văn Hạo nghe ra được đó là tiếng nói của Hàm Đầu, bèn lên tiếng trả lời: “Ta đây!”

Rất nhanh, cánh cổng đã được mở ra, Hàm Đầu lúc này đang cởi trần, trên vai còn vắt một chiếc khăn mặt, hai mắt cười híp tịt lại ân cần lên tiếng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Sư tổ! Đồ tôn nghe giọng là biết ngay người đã về, sao hôm nay sư tổ về sớm thế?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Nghe lời ngươi nói thì hình như là ta không được phép về đây vậy!”

Hàm Đầu nghe xong liền vội tránh người sang một bên, hai tay đưa ra mời Đỗ Văn Hạo vào trong, cúi người đáp: “Không không! Ha ha! Đồ tôn cứ tưởng sư tổ đang bận việc ở trong cung cơ! Bữa tối hôm nay, phu nhân còn nói rằng không biết sư tổ ở trong cung có tốt không, sư tổ mau vào đi, để con đi bẩm báo với phu nhân!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền bước vào cửa, Hàm Đầu cũng nhanh chân tiến đến cài cửa lại, sau đó đi ra phía tiền đường.

“Hàm Đầu! Ngươi bận gì thì cứ đi làm đi, ta tự đi được rồi!”

Hàm Đầu quay đầu lại đáp: “Vâng! Hôm nay cũng có đại tỷ phu (anh rể cả - nhưng để đại tỷ phu nghe cho nó pờ rồ) của phu nhân đến đây, nên phu nhân giờ này có lẽ đang ngồi trong phòng nói chuyện với tỷ phu của mình đó ạ!”

“Sao? Đại tỷ phu đến rồi ư? Sao không cho người vào trong cung thông báo cho ta biết một tiếng?” Đỗ Văn Hạo vừa đi vừa nói.

Hàm Đầu đi theo phía sau hắn vừa cười vừa đáp: “Người bệnh lúc nào cũng cảm thấy bệnh tình của mình chẳng có gì nghiêm trọng cả, nên nói là hôm nay sư tổ bận việc trong cung, không nên cho người vào làm phiền, rồi cứ bảo sư huynh đến khám cho, vì thế mà đồ tôn mới không cho người vào trong cung thông báo cho sư tổ đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo lúc này đã vào trong tiền đường, quả nhiên hắn trông thấy cánh cổng tương phòng ở mặt phía đông vẫn đang hé mở, có tiếng người ngồi nói chuyện với nhau ở trong đó.

Từ khe cửa nhìn vào thì có thể trông thấy Diêm Diệu Thủ đang đứng bên cạnh giường, Bàng Vũ Cầm thì ngồi ở trước giường an ủi tỷ phu của mình: “Tỷ phu! Tỷ phu đừng suy nghĩ nhiều nữa, uống thuốc của Diêm Diệu Thủ kê cho này nếu mà vẫn không có gì khởi sắc thì bọn muội sẽ cho người vào trong cung mời tướng công của muội về chữa cho tỷ phu.”

“Không cần phải cho người đi gọi đâu! Ta đã về đây rồi!” Đỗ Văn Hạo đứng ở ngay cửa lên tiếng chen vào.

Bàng Vũ Cầm nghe thấy tiếng của hắn thì ngay lập tức quay người lại nhìn, quả nhiên Đỗ Văn Hạo đang đứng ở ngay cửa, nàng vừa mừng vừa kinh ngạc, đứng luôn dậy chạy đến đón tướng công của mình: “Tướng công! Chàng sao lại về thế? Có phải là có người chạy vào trong cung nói cho chàng biết không? Thiếp đã nói là tạm thời không nên vào trong cung làm phiền tướng công rồi!” Bàng Vũ Cầm trông thấy Đỗ Văn Hạo lúc này có vẻ gầy hơn lúc trước, nên nàng cảm thấy xót phu quân mình vô cùng, nhưng chỉ là ở đây đang có người ngoài, nên cũng không tiện biểu lộ ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo kéo lấy bàn tay của Bàng Vũ Cầm lại, rồi vỗ vỗ nhẹ lên đó: “Không có ai vào thông báo cho ta biết cả đâu! Cái này là do Hoàng Thượng thấy ta mấy ngày hôm nay cũng vất vả, nên đã hạ chỉ cho phép ta ở nhà nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mấy ngày, đại tỷ phu bị làm sao vậy?”

Đỗ Văn Hạo đi đến bên giường, thì thấy một người thanh niên, tuổi tác trên dưới ba mươi tuổi, trong bóng đèn hiu hắt, ánh mặt của người thanh niên này hiện lên ảm đạm, mệt mỏi, hai mắt của người này cũng đang mở to ra nhìn hắn, rồi cất lên một giọng yếu ớt nói:

“Đỗ lão gia! Thảo dân không thể đứng dậy bái kiến được, mong lão gia thứ lỗi!”

“Đại tỷ phu nói gì vậy! Sao lại gọi đệ là lão gia? Tất cả đều là người trong một nhà cả, đừng xưng hô xa lạ như thế, tỷ phu cứ gọi tên đệ cũng được rồi!”

“Không! Không! Đại nhân là quan ngũ phẩm trong triều, chức còn to hơn cả huyện đại lão gia nữa, đây là quy định không được phép loạn!”

“Quy định gì cơ chứ, đây là ở trong nhà, thôi đừng khách khí nữa, để đệ xem bệnh cho tỷ phu xem nào! Tỷ phu có chỗ nào khó chịu?”

“Mấy ngày hôm trước bọn ta nhận được gia thư, nói là Bàng mẫu bị bệnh rất nặng, mà tỷ tỷ của ngươi sức khỏe lại không được tốt, thế là ta một mình một ngựa đi về thăm, nhưng thật đen đủi trên đường đi ta lại đổ bệnh, mới đầu thì thấy nó cũng chẳng có gì đáng ngại cả, cứ nghĩ là chỉ bị nhiễm một chút lạnh, toàn thân nhức mỏi mất sức. Hơn nữa phần vì muốn nhanh chóng tới nơi thăm mẫu thân nên chỉ tìm đại một cái y quán trên đường đi mua vài thang thuốc uống. Ai ngờ sau khi uống thuốc xong thì cảm thấy trong người vô cùng khó chịu, không những sốt cao mà còn bị đau bụng đi ngoài nữa, trên đường đi ta suýt chút nữa thì đã bỏ mạng rồi!” Nói xong đại tỷ phu của Đỗ Văn Hạo thở ra hổn hển.

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nàng viết thư cho đại tỷ phu đúng không?”

“Không! Bức thư đó là do mẹ của thiếp viết, trong thư mong muốn thấy đại tỷ quay về, nhưng đại tỷ lại có thai, đại tỷ phu thương đại tỷ đường xá lặn lội vất vả, nên mới ngày đêm chạy vội về đây thế này, ai biết trên đường đi lại bị bệnh khổ như vậy!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong gật gật đầu, đây là lần đầu tiên hắn gặp mặt đại tỷ phu, bởi vì khi hắn lấy Bàng Vũ Cầm thì đại tỷ của nàng đã lấy chồng xa rồi, do vậy vẫn chưa có cơ hội gặp mặt, hắn chỉ nghe nói đại tỷ lấy một thương gia có tên Lý Kiện. Đỗ Văn Hạo nhớ lại hồi hắn học đại học, trong khu ký túc xá của hắn có một người a lớn tuổi cũng có tên này, do vậy khi mẹ vợ của hắn nhắc đến cái tên này thì hắn cũng đã có ấn tượng và nhớ luôn trong lòng rồi.

Nghe chuyện của Lý Kiện, Đỗ Văn Hạo cũng thấy có chút thương cảm, lên tiếng an ủi: “Đại tỷ phu đừng nóng vội, huynh có thấy mệt mỏi lắm không?”

Lý Kiện chỉ ừm lên một tiếng.

“Bài thuốc mà vị thấy thuốc kê cho huynh, huynh còn giữ nó không?”

Diêm Diệu Thủ nghe xong bèn bước đến bên Đỗ Văn Hạo đưa đơn thuốc ra nói: “Sư tổ! Người xem xem, chỉ có mấy tờ như vậy!”

Đỗ Văn Hạo tiếp lấy xem xét xong rồi trả lại cho Diêm Diệu Thủ. Thực ra, ngay khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo trở về, Diêm Diệu Thủ đã cảm thấy mình có chút may mắn, hắn nhìn đơn thuốc thì biết rằng trình độ của mình và người thầy thuốc kia cũng ngang tầm như nhau. Thế nhưng giờ đây Diêm Diệu Thủ thấy Đỗ Văn Hạo trả lại mình đơn thuốc như vậy thì rõ ràng đơn thuốc có vấn đề, do vậy hắn vội chạy ra ngoài cổng bảo Hàm Đầu thôi không đun thuốc nữa.

“Đại tỷ phu! Huynh có thể nói cho đệ biết toàn bộ quá trình phát bệnh cùng với việc trước khi phát bệnh huynh ăn những thứ gì, làm những cái gì được không?”

Lý Kiện nghe xong liền gật đầu đồng ý, rồi đột nhiên đưa mắt lên nhìn Bàng Vũ Cầm, Đỗ Văn Hạo hiểu ý liền quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Nàng đi nấu cho ta bát cháo được không? Ta khi nãy uống rượu cảm thấy hơi khát nước, lúc nãy ở trong cung mà ta thèm bát cháo nàng nấu quá!”

Bàng Vũ Cầm nghe vậy nhoẻn miệng cười tươi như hoa, gật gật đầu rồi bước luôn ra ngoài.

Lý Kiện thấy Bàng Vũ Cầm đi rồi mới bắt đầu mở miệng nói: “Chỗ này chúng ta chỉ còn hai người đàn ông với nhau, thì ta cũng không dám dấu ngươi điều gì nữa, nương tử của ta hiện giờ đang có thai, ta và nàng đều có tình cảm vô cùng mặn nồng, nên vẫn chưa nạp thêm người thiếp nào cả! Nhưng ngươi cũng biết đấy, đàn ông con trai mà…”

“Đại tỷ phu cứ nói tiếp đi, cái này đệ hiểu!” (Mịa, còn hơn cả hiểu đấy chứ) Lý Kiện nghe xong liền tiếp tục nói: “Ta và một cô gái tên Tiểu Ngọc ở Lưu Xuân Quản trên huyện thành có quan hệ khá tốt với nhau, điều này phu nhân của ta cũng biết, nhưng cũng chẳng nói gì cả. Ngày hôm đó, ta qua đêm với Tiểu Ngọc thì đột nhiên có người nhà đến tìm nói là Bàng Mẫu bị bệnh, phu nhân của ta nghe xong thì lo lắng quá mà ngất đi, ta làm sao còn tâm trí đâu mà ở lại với Tiểu Ngọc nữa, thế là vội vã chạy về!” Nói đến đây đột nhiên Lý Kiện cảm thấy mất sức, ngừng lại không nói nữa, Đỗ Văn Hạo bèn đến bên chiếc bàn rót một cốc nước nóng đưa cho Lý Kiện.

Được một lúc, thì Lý Kiện lại thều thào nói tiếp: “Ai ngờ, đêm hôm đó mưa to quá, ta không thể nào chờ cho đến trời sáng được, tuy là Tiểu Ngọc có khuyên ta rằng từ huyện thành về nhà ta phải mất hai canh giờ liền, nhưng ta lại quá lo lắng cho phu nhân của mình, thế là cứ đội mưa cưỡi ngựa chạy về, nhưng vì mưa ướt đường trơn, nên khi đi qua một chiếc cầu thì con ngựa xảy chân ta liền ngã luôn xuống nước, cũng may là nước cũng không sâu, nên ta và ngựa cũng lên bờ bình an, nhưng toàn thân ướt nhẹp. Ta không mấy quan tâm, vẫn cưỡi ngựa chạy được hơn mười dặm thì cảm thấy khó chịu quá, không chịu nổi nữa bèn tìm một thầy thuốc khám xem sao. Thầy thuốc nói là ta bị Hư Chứng bảo ta uống thuốc của ông ta sẽ khỏi, ta liền uống luôn rồi lại tiếp tục lên đường, nhưng ai ngờ bệnh tình của ta ngày càng nặng, người cứ run lên vì lạnh, tay chân nhức mỏi, trong đêm tối ta lại đi tìm tiếp thầy thuốc khác.”

“Thầy thuốc nói sao?”

“Thầy thuốc nói rằng ta do mệt mỏi quá độ, nên uống Tứ Vật Thang cho thêm cái gì mà Chí Mẫu, Địa Cốt Bì cùng với Đan Khê Đại Bổ Âm Hoàn gì gì đó cho ta uống, nhưng cũng chẳng có công hiệu gì cả.”

“Đại tỷ phu có trí nhớ quả là siêu phàm, đến cả mình uống tên thuốc là gì cũng ghi nhớ rõ đến như vậy!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười khen ngợi.

Lý Kiện chỉ thở dài ra một cái rồi lại nói tiếp: “Liên tục uống thuốc, thay thuốc, lại liên tục bị các thầy thuốc hỏi trong một thời gi­an dài như vậy cho dù là một đứa bé cũng biết là mình đang uống cái gì!”

“Ừm! Huynh cứ tiếp tục nói tiếp đi!”

“Sau khi uống thuốc xong, ta lại thấy chẳng có tác dụng gì cả, mà ngược lại cảm thấy bệnh tình càng trầm trọng hơn, ngay cả đến việc xuống giường đi lại cũng cảm thấy khó khăn, do vậy lại đành tìm đến mấy vị thầy thuốc nữa ở trên thị trấn đến chữa trị, trong đó có một vi nói rằng bệnh của ta không cần uống thuốc, chỉ cần uống một bát sữa mẹ là khỏi, ta cũng chẳng biết nó có hiệu nghiệm hay không, nhưng cũng cho người đi tìm những người phụ nữ vừa mới sinh nở để xin sữa uống. Nhưng không ngờ sau khi uống xong thì ngày hôm sau ta chẳng ăn được thứ gì nữa cả, ta cứ nghĩ rằng mình sẽ chết trên đường mất, nhưng may mà ta nhớ ra em rể của mình là Ngự Y do vậy mới thuê người đánh xe đến đây tìm Đỗ đệ cứu mạng!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng thấy cảm khái vô cùng, xem ra đại tỷ phu trên đường đi đúng là nếm trải bao nhiêu là đau khổ rồi.

Đỗ Văn Hạo đưa tay lên bắt mạch, rồi lại xem lưỡi, xong rồi nói: “Mạch của đại tỷ phu chậm ấn mạnh vào thì thấy nó rất cứng, tay bên phải hiện tượng này lại càng rõ hơn, cái này là do thân thể bị nhiễm lạnh nên mới bị nghẽn như vậy, huynh không cần phải lo lắng, chỉ cần uống vài thang thuốc là khỏi thôi, việc của huynh bây giờ nhắm mắt tĩnh dưỡng lại cho khỏe người!” Lý Kiện thấy Đỗ Văn Hạo nói như vậy liền cũng không tiện hỏi thêm nữa, chậm rãi nhắm mắt tĩnh dưỡng.

Đỗ Văn Hạo rất nhanh đã kê xong một đơn thuốc rồi gi­ao cho Diêm Diệu Thủ dặn dò nói: “Mau đi cắt thuốc nhanh! Cứ uống trước một bát, tới giờ sửu thì lại uống thêm bát nữa, nếu như phát hiện thấy trên người của người bệnh có nốt đỏ thì đừng để bệnh nhân gãi nó, sau khi trời sáng thì chắc sẽ khỏi thôi.”

Khi trời chập tối, thì có một vị công công truyền khẩu dụ của Hoàng Thượng bảo Đỗ Văn Hạo vào trong cung.

Đỗ Văn Hạo chỉ biết cười khổ lắc đầu ngao ngán, nhưng cũng lập tức lên kiệu vào cung, sau khi đến Điện Cần Chính thì Ninh công công thông báo rằng Hoàng Thượng đang nghị chính, nhưng đàm luận đã nửa ngày trời rồi mà mãi vẫn chưa xong, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng đành phải ngồi chờ phía bên ngoài điện.

Cho đến tận đêm khuya thì nghị chính mới kết thúc.

Tống Thần Tông lúc này sắc mặt sáng lạng, cười tươi roi rói, trông không hề có dấu hiệu mệt nỏi nào cả, khi trông thấy Đỗ Văn Hạo liền mỉm cười gật đầu.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vội vã chạy đến thi lễ: “Vi thần bái kiến Hoàng Thượng!”

Tống Thần Tông liền đứng lại hỏi: “Trẫm gi­ao việc cho ngươi, ngươi làm đến đâu rồi?”

Đỗ Văn Hạo không ngờ Tống Thần Tông gọi hắn đến là vì hỏi chuyện này, do vậy hắn liền móc luôn từ trong người ra tập Y Đạo Luận Trị Quốc mà hắn đã chuẩn bị từ lâu ra nói: “Vi thần đã chuẩn bị xong rồi! Vi thần đã suy đi xét lại khá lâu, nhưng vẫn không biết có hợp ý của Hoàng Thượng hay không? Mong Hoàng Thượng đừng chê cười vi thần!”

“Thật sao?” Tống Thần Tông vẫn không hề tiếp lấy tập tài liệu của hắn mà nói: “Ngươi cùng Trẫm đến Ngự Thư Phòng, Trẫm muốn nghe xem cái kế sách mà ngươi nói rốt cục nói về cái gì!” Nói xong liền bước luôn về phía Ngự Thư Phòng của mình.

Tống Thần Tông nghị chính cả một ngày trời, giờ lại nghe một người ít có kiến thức về mảng quản trị đất nước này đúng là cũng làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy lo lắng đứng ngồi không yên.

Tống Thần Tông lúc này đã ngồi trên bàn nghị án, Ninh công công cũng đã dâng lên một tách trà cho Tống Thần Tông. Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa đem tập tài liệu của mình dâng lên, Tống Thần Tông giờ này mới tiếp lấy văn thư của hắn đặt lên trên bàn, sau đó một bên thưởng thức trà đạo, một bên xem xét bài viết của Đỗ Văn Hạo.

Tống Thần Tông xem xét vô cùng kỹ lưỡng, cứ như xét nét từng từ từng chữ một vậy, thỉnh thoảng còn im lặng trầm ngâm, rồi có lúc lại đưa bút lên viết viết làm cho Đỗ Văn Hạo càng thêm thấp thỏm. Hắn đem những đạo lý trong Y Đạo ra để áp dụng vào chính sách quản trị đất nước không biết có được hợp lý hay không? Hắn chỉ sợ Hoàng Thượng xem xong rồi lại mù quáng làm theo thì hắn có tội chết mất.

Cuối cùng, Tống Thần Tông xem xong liền đặt bút xuống, ngẩng đầu lên rồi nhìn về phía Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Ha ha! Đỗ Văn Hạo, chính sách mà ngươi đề ra vô cùng khác biệt đó!”

Khác biệt? Hoàng Thượng dùng từ này hình dung bài viết của mình thìcó thể thấy nó có phần hợp lý, tạm chấp nhận được, chỉ sợ mỗi là Hoàng Thượng kêu là không tốt mà thôi. Đỗ Văn Hạo nghe xong mà thở hắt ra nhẹ nhõm, hơn nữa hai từ khác biệt này cũng có vẻ là một lời khen ngợi, do vậy hắn càng cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết, vội cúi người đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần chỉ rành về mặt Y Đạo, do vậy lúc suy tính kế sách không biết tự lúc nào đã đứng trên phương diện đó mà suy xét tình hình, chắc chắn là còn nhiều chỗ không hợp lý, nhưng đổi lấy một nụ cười của Hoàng Thượng cũng đã là một thành công rất lớn rồi đó ạ!”

“Ha ha ha! Ngươi ngồi xuống đi!” Vẻ mặt Tống Thần Tông tỏ ra khá thoải mái.

“Tuân chỉ!” Đỗ Văn Hạo cúi người tạ ơn, rồi ngồi xuống chiếc ghế đặt ở cạnh đó, rồi nghiêng người chờ đợi Tống Thần Tông.

Tống Thần Tông tiếp tục nói: “Kế sách của ngươi có nhiều chỗ Trẫm xem cũng không hiểu, có quá nhiều từ vựng làm Trẫm không biết đâu mà lần, mấy chỗ này ngươi giải thích cho Trẫm nghe được không?”

Đỗ Văn Hạo đúng là trong bài viết này cho thêm rất nhiều tự vững của thời hiện đại vào, hắn không thể nào nghĩ ra được những từ này trong cổ văn nó có nghĩa là gì, biểu đạt ra sao, nên cứ bê nguyên chúng vào trong bài viết của mình, cái này chả trách Tống Thần Tông xem xong mà cứ như vịt nghe sấm vậy. Vì vậy, khi nghe Tống Thần Tông yêu cầu, Đỗ Văn Hạo liền vội vã đứng dậy giải thích.

Tống Thần Tông liền đem những đoạn khó hiểu nói cho Đỗ Văn Hạo nghe: “Đoạn mở đầu bài viết của ngươi nói <Trang Tử> có viết: ‘Nhân chi sinh, khí chi tụ dã, tụ dã trạch vi sinh, tán trạch vi tử’ (tạm dịch: Sức sống của con người là nằm trong nguyên khí được tụ hội lại, nếu khí của con người không tụ hội lại được, thì người đó không có thể sống sót được nữa). Ngươi đem pháp luật ra so sánh với tinh khí của người, nói rằng nếu không có pháp luật, thì chẳng khác gì người không có tinh khí, đây chính là câu này: ‘Nhân vô tinh khí trạch tử, Quốc vô pháp độ trạch vong (tạm dịch: Người không có tinh khí thì sẽ chết, nước mà không có pháp luật sẽ không tồn tại) ‘. Câu này ngươi dẫn chứng rất tốt, từ khi Trẫm lên ngôi đến nay, pháp lệnh ban bố cũng không ít, vậy theo ý của ngươi pháp luật của ta còn thiếu những điều gì nữa!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tinh khí của con người truyền đi khắp thân thể, pháp luật của một quốc gia cũng nên đề cập đến mọi vấn đề to nhỏ, từ <Hiến Pháp> quy định chế độ của một đến nước, đến <Tổ Chức Pháp> quy định thiết kế kết cấu, chức năng của bộ máy quốc gia, rồi <Hình Pháp> để trị các tội nghiêm trọng, đến <Dân Pháp> để điều chỉnh quan hệ dân sự, <Thương Pháp> dùng để cân bằng thương nghiệp trong xã hội, và các biện pháp trị tội, giải quyết tranh chấp, tố tụng trong thương trường, rồi luật hành chính quản lý trong bộ máy hành chính của một quốc gia…vv…”

Tống Thần Tông nghe xong thì há hốc mồm kinh ngạc hỏi: “Nhiều thế cơ à?”

“Đây chỉ là một cách nói khái quát mà thôi, còn các chi tiết về phân phối từng bộ môn trong bộ máy quản lý thì còn rất nhiều.”

“Ồ? Phân phối thế nào?”

(thu thuế như thế nào), (Mở rộng và quản lý công thương, nói nôm na theo kiểu tiếng việt là quản trị và kinh doanh), cùng với luật pháp về xuất nhập khẩu nữa. Ở thành thị thì nên xây dựng bộ luật quản lý thị chính, quản lý vệ sinh công công, quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, và còn quản lý về tài nguyên thiên nhiên quốc gia, quản lý tài nguyên quốc gia thì lại có , …v…v…Tiếp đến là nói về dân pháp và luật kinh doanh, cái này cũng vô vàn vô cùng, ví dụ như để điều chỉnh về quan hệ mua bán song phương, dùng­bảo vệ tài sản sở hữu dùng để điều chỉnh về ý thức của dân chúng với tài sản sở hữu của mình, ngoài ra còn có , , …v…v…Trong luật kinh doanh còn có dùng để xử lý giải quyết những vụ cạnh tranh phi pháp, ”]]>

Tống Thần Tông nghe đến đây thì thấy chóng hết cả mặt vội lên tiếng: “Thôi! Thôi được rồi, bao nhiêu là luật lệ như vậy đề ra để làm gì?”

“Mỗi một bộ luật đều có tác dụng riêng của nó, giống như con người vậy, người có móng tay, râu tóc, lông mi, nước mắt…Chỗ nào cũng có tác dụng của nó!”

“Những bộ luật này ngươi có thể làm ra sao?”

“Thần đại khái cũng biết, nhưng mà đây cũng chỉ là do thần tự lần mò mà ra, không có điều tra hiệu quả cụ thể, nếu như muốn ban bố những bộ luật này, thì phải có thêm thời gi­an nghiên cứu, rồi mới dựa theo thực tế mà ban bố những bộ luật gì, tuần tự ra sao, thứ nào quan trọng thứ nào không! Từ dễ đến khó ra sao thì mới thực sự phát huy tác dụng được!”

Tống Thần Tông nghe xong thì trợn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo, dường như bây giờ mới tin lời hắn nói là sự thật: “Nếu ngươi không phải là thần y thì có lẽ Trẫm đã bắt ngươi tham gia vào biên tập tân pháp rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cười nói: “Vi thần xin tuân theo ý chỉ của Hoàng Thượng!”

“Ừm! Trẫm hỏi tiếp ngươi câu này! Ngươi đem việc đồng áng ra so sánh với dạ dày, dạ dày phụ trách tiếp nhận và tiêu thụ thức ăn, là nguồn sống để sinh tồn, cách ví von này của ngươi vô cùng chính xác, ngươi trên đó viết rằng <Tố Vân Nghịch Điều Luân> có nói: ‘Vị bất hòa tắc ngọa bất an’ (tạm dịch: Dạ dày không yên ổn thì sẽ dẫn đến ăn ngủ không yên)”

Đỗ Văn Hạo lại kính cẩn giải thích: “Dạ bẩm Hoàng Thượng, đối với con người mà nói, khi dạ dày mất cân bằng thì không chỉ ảnh hưởng đến lục phủ, mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ khí trong cơ thể con người, từ đó mà dẫn đến các loại tai ương bệnh tật, điều này cũng giống như việc trị quốc có đề ra rằng nông nghiệp là căn cơ, là cơ sở của một quốc gia, nếu như nông nghiệp có vấn đề thì quốc gia đó cũng sẽ có vấn đề xảy ra, luận điểm này rất hay, cũng rất dễ hình dung.”

Đỗ Văn Hạo cúi người đáp: “Đa tạ Hoàng Thượng đã khen thưởng!”

Chương 305: Đồn điền thí nghiệm tại biên cương!

Gởi bởi người có lòng!

Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Sản xuất nông nhiệp, không thể nào tách rời được với công việc mở rộng diện tích cày cấy, nên việc mở rộng ruộng đất là vô cùng cấp thiết. Từ khi Đại Tống ta khai quốc trở lại đây thì quốc thái dân an, nhân dân vô cùng tích cực tham gia khai hoang trồng trọt, diện tích cầy cấy do vậy mà cũng được mở rộng ra rất nhiều, cứ như vậy thì những vùng đất hoang vắng đã được khai phá triệt để và sẽ không còn đất hoang mà khai thác thêm nữa, hơn nữa chúng ta cũng không có đủ nhân lực để khai hoang, do vậy để phát triển nông nghiệp, thì bắt buộc phải nâng cao sản lượng sản xuất của từng mẫu đất lên. Chính vì vậy, công việc lúc này sẽ đòi hỏi rất nhiều vào sự kỹ lưỡng tỉ mỉ của từng hộ, ví dụ như chúng ta có thể sản xuất theo kiểu tập trung lại cùng sử dụng những loại sản phẩm tốt nhất, cải thiện phương thức thủy lợi, phát triển ngành nông nghiệp theo một thể thức lập thể!”

“Nông nghiệp lập thể? Thế có nghĩa là gì?”

“Ví dụ như là: Lợi dụng cát sỏi dưới lòng sông để làm vật dụng xây dựng, hồ nước thì thả cá, còn đất thừa thì trồng mía, cây ăn quả, rau củ hoặc những loại hoa quả gì gìđều được cả, nói chung là trồng trọt hỗn hợp, lợi dụng mọi thứ một cách tối đá, phát triển nông lâm nghiệp, chăn thả cá kết hợp với trồng trọt…vv…”

Cho dù người xưa đã biết đến việc trồng trọt hỗn hợp, nhưng họ lại không được quảng bá, nghiên cứu rộng rãi như thời hiện đại. Hơn nữa ý thức, kinh nghiệm trồng trọt của nông dân thời xưa đều thuộc vào loại thô sơ, không có được một tư duy hệ thống như thời ngày nay, càng không thể xem nó như một kỹ thuật hiện đại để quảng bá cho dân chúng được, người nông dân bình thường còn chưa dễ gì hiểu được, huống hồ là Tống Thần Tông. Hoàng Đế đương triều suốt ngày ở trong cung làm sao mà hiểu hết được công việc đồng áng ra sao, do vậy nét mặt trở nên nghi hoặc cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên.

Cha mẹ của Đỗ Văn Hạo đều có xuất thân từ nông thôn nên khi hắn còn nhỏ rất hay được cha mẹ hắn dắt về quê chơi, do vậy hắn cũng được chứng kiến nhiều thứ ở nơi đây, từ chuyện trồng trọt đến chăn nuôi ra sao, hắn đều biết hết. Thêm nữa hắn lên lớp học môn địa lý cũng được truyềná một số kiến thức về nông nghiệp, vả lại ở thời hiện đại hắn cũng được chứng kiến bao nhiêu thành quả của nghành nông nghiệp tạo dựng nên do vậy khi hắn đem những thành tựu từ tương lai quay về một nghìn năm trước như vậy dĩ nhiên sẽ là một sáng kiến mang tính đột phá của thời nông nghiệp thời nhà Tống rồi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Để vi thần lấy một ví dụ rất đơn giản về mô hình nông nghiệp lập thể, khi trồng lúa thì có thể nuôi cá và bèo trong đồng ruộng, như vậy cá vừa có cái ăn, mà lợn, vịt cũng có cái chúng cần, không những thế nó làm sạch, phân hủy những nguyên liệu khí mê tan trong đầm nước, một công mà được vô khối việc!”

“Khí mê tan?” Tống Thần Tông đối với từ này cảm thấy lạ lẫm vô cùng.

Đầm khử khí mê tan thì ở quê của Đỗ Văn Hạo nhiều vô kể, do vậy hắn rất hiểu về nó, nghe Tống Thần Tông hỏi vậy nên vội vàng giải thích: “Làm sạch, phân hủy khí mê tan chính là giải quyết làm sạch phân bón ở trong đầm, như vậy vừa vệ sinh sạch sẽ lại còn có thể dùng nước đó để tưới bón cho đồng ruộng, đây là một cách bón phân hữu cơ tốt nhất thuận tiện nhất. Ngoài ra khí mê tan mà thông qua một thiết bị xử lý đặc biệt sẽ biến thành một khí đốt vô cùng an toàn tiện lợi, vừa có thể nấu cơm nấu nước, mà chất thải của nó lại còn là mồi ăn cho cá nữa!”

“Hay! Hay lắm!” Tống Thần Tông nghe rất nhập tâm, vô cùng hứng thú lên tiếng nói: “Trẫm không ngờ ngươi lại hiểu biết về nông nghiệp một cách rành rọt như vậy, những biện pháp này của ngươi nghe rất hay!”

“Đa tạ Hoàng Thượng đã quá khen, nếu muốn phát triển nông nghiệp, thì còn một phương pháp nữa là gia tăng dân số, vi thần có một biện pháp làm gia tăng dân số một cách vô cùng nhanh chóng!”

Tống Thần Tông nghe thấy mắt sáng lên hỏi: “Ố? Ngươi nói Trẫm nghe xem sao!”

Gia tăng tốc độ tăng trưởng dân số để trở thành một nguồn nhân lực dồi dào là một vấn đề giải quyết vô cùng cấp bách đối với các triều đại của mỗi vị Hoàng Đế. Trong thời buổi nông nghiệp phát triển hạn chế như thời nhà Tống này thì dân số chính là nguồn nhânh lực chính, nguồn binh lực chính, nguồn sức mạnh chính của cả một quốc gia. Dân số mà đông, thì sẽ có nguồn lao động phụ trách khâu sản xuất lương thực, sẽ có nguồn binh lực dồi dào để bảo vệ biên cương tổ quốc, như vậy quốc gia sẽ trở nên vô cùng phồn vinh thịnh vượng, do vậy khi nghe Đỗ Văn Hạo nói đến cách gia tăng dân sô thì Tống Thần Tông bất giác cảm thấy hứng thú vô cùng.

Đỗ Văn Hạo đáp: “Muốn tăng cường dân số thì phải có chế độ khuyến khích tăng trưởng dân số, điều chỉnh những yếu tố, chế độ khách quan hạn chế việc gia tăng dân số.”

“Làm thế nào để khuyến khích? Và làm thế nào để điều chỉnh những chế độ hạn chế đó?”

“Bách tính thường không muốn gia tăng dân số là vì bọn họ không đủ sức mà nuôi con cái, người giàu có tiền ăn của để thì ta không bàn tời, chúng ta nên quan tâm đến những người nghèo khó, bọn họ mà có thêm một người mới nữa, thì tức là bọn họ sẽ có thêm một miệng ăn, nếu như người nào không đủ ruộng đất để nuôi, hay họ là những người làm thuê cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì sinh nở là một vấn đề rất đáng suy nghĩ với bọn họ, chính vì vậy mà lựa chọn phương pháp nào hợp lý nhất để bọn họ không có ý nghĩ về gánh nặng nuôi dưỡng và sinh nở nữa thì mới có thể khuyến khích sinh nở được!”

“Phương pháp gì?”

“Phương pháp triệt để nhất dĩ nhiên là phải tiến hành một cuộc cải cách ruộng đất.”

“Cải cách ruộng đất ư? Cải cách ra sao?”

“Thu hồi hết lại ruộng đất về triều đình quản lý, cấm không cho bất kỳ ai tiến hành buôn bán ruộng đất, sau đó ban bố lệnh bao đất, thầu đất, hạn định là ba mươi năm, sau đó lại phân phối điều chỉnh lại ruộng đất, nhưng mà việc này dường như lại không thể thực hiện được!”

“Vì sao không thể thực hiện được cơ chứ?” Tống Thần Tống hỏi.

“Dạ bẩm! Bởi vì như vậy thì các địa chủ sẽ không đồng ý với chính sách như vậy, ngoại trừ việc dùng biện pháp mạnh mà thu hồi lại, thì e rằng quốc khố trong chính phủ cũng không đủ tiền mà mua nổi hết số đất đang có!”

Tống Thần Tông nghe vậy liền hỏi: “Vậy những chế độ nào đã kìm hãm sự tăng trưởng dân số vậy?”

“Chế độ kìm hãm tăng trưởng dân số trước mắt chính là chế độ thu thuế, Đại Tống thi hành hai bộ luật thu thuế, thuế đất và thuế thân đánh lên mỗi đầu người. Thuế thân là một trở ngại vô cùng to lớn cho việc tăng trưởng dân số! Bởi vì trong nhà có thêm người mới thì chẳng khác gì việc phải nộp thêm tiền cả, do vậy mà những người nông dân thường chỉ cần nguồn nhân lực tạm được để lo việc đồng áng xong là không muốn sinh nở thêm nữa!”

Tống Thần Tông nghe xong thì ngây người ra nói: “Ý của ngươi là muốn trừ bỏ thuế thân sao?”

“Cũng không hẳn như vậy! Nói một cách chính xác là đem thuế thân bỏ vào thuế ruộng đất, cái này gọi là thuế Thôi Đinh Nhập Mẫu! (Đinh ở đây chính là đầu người, còn mẫu ở đây là ruộng đất). Thuế này có nghĩa là khi ruộng đất nhiều thì thuế thân cũng nhiều theo, khi ruộng đất ít thì thuế thân sẽ giảm đi, như vậy thì sẽ không vì chuyện thuế thân mà hạn chế sinh nở rồi!”

Tống Thần Tông nghe xong đứng thẳng người dậy, chắp tay ra phía sau chầm chậm đi đi lại lại trong phòng rồi nói: “Phương pháp này của ngươi cũng không tồi, nhưng không biết là có tiến hành được không thôi!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tiến hành thuế Thôi Đinh Nhập Mẫu thì người nào ruộng đất càng nhiều thì thuế sẽ càng cao, địa chủ dĩ nhiên sẽ không hài long, muốn tiến hành bộ luật này thì trở ngại chắc chắn là sẽ có!”

“Ừm! Cái này Trẫm phải suy ngẫm thật kỹ mới được, ngươi nói tiếp đi, ta thấy ngươi so sánh ngành công nghiệp không khác gì với phổi của người, khí trong người đến từ trong phổi, người mà không có phổi thì sẽ không hít thở được, mà không hít thở được thì tức là tính mạng không còn nữa, một nước mà không có nền công nghiệp thì cũng sẽ bị diệt vong. Luận điểm này của ngươi cũng có một đạo lý nhất định, ngươi nói nên phát triển thêu dệt trên một quy mô lớn, nhưng ta không biết ngươi có những kế hoạch cụ thể ra sao?”

“Cái này thì liên quan tới vấn đề lần trước vi thần đã nói rồi, vi thần có những phương thuốc vô cùng hữu dụng, có thể làm thành một mặt hàng mà tiêu thụ, và vi thần cũng còn những phát minh nhỏ khác dùng để nâng cao khả năng sinh sản. Những mặt hàng và thiết bị này nhất định sẽ được thần dân bách tính tin tưởng mua dùng, chỉ là mặt hàng sản phẩm này bán hàng chạy quá thì sẽ bị những kẻ hám lợi bắt trước làm theo, như vậy sẽ làm tổn hại đến lợi ích vốn có của vi thần, do vậy khi chưa có một chế độ bảo vệ vi thần không dám công bố mặt hàng sản phẩm cùng với thiết bị này.”

“Ừm, vậy ngươi nói xem nên làm cái gì trước? Nên ban bố bộ luật nào?” Tống Thần Tông nghe ý này của Đỗ Văn Hạo ngày hôm nay đã không còn sự cáu giận như trước nữa.

“Luật về tài sản trí tuệ chính là để bảo vệ sản phẩm của người nào phát minh ra nó, và chỉ có một mình người đó mới được có quyền sản xuất tiêu thụ nó. Nếu như người khác muốn sản xuất nó thì phải trả một khoản tiền, còn về chuyện bao nhiêu tiền thì hai bên có thể thương thảo hội ý, nếu chưa được đồng ý mà đã tiến hành sản xuất tiêu thụ thì sẽ bị quy vào tội làm hàng nhái, hàng giả, như vậy sẽ phải bồi thường cho người đã phát minh, thậm chí người vi phạm còn phải chịu phạt, có khi còn phải ngồi tù nữa!”

“Cái này!” Tống Thần Tông nghe xong nét mặt hiện lên một chút chần chừ do dự: “Lần trước đúng là ngươi có nói qua cho Trẫm nghe về chuyện này rồi, Trẫm cảm thấy nó không được ổn cho lắm, ban bố điều luật thì đơn giản vô cùng, nhưng nếu dân chúng không chịu trả tiền cho người phát minh, mà cứ làm nhái, làm giả theo thì làm sao, Trẫm không thể cho người đi bắt hết bọn họ vào được chứ?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì im lặng chẳng biết nên nói thế nào nữa, hắn biết người xưa làm gì có cái ý thức độc quyền, hay phải mua bản quyền đâu cơ chứ. Do vậy hắn đột nhiên đưa vào một cái vấn đề bản quyền trí tuệ tân tiến như vậy về thời cổ đại, bách tính nhân dân dĩ nhiên là không thể nào chấp nhận nổi rồi. Xem ra, hắn đã đi vào đúng con đường sai lầm của Vương An Thạch đã từng đi, hắn đã quá vội vã hấp tấp mau chóng thành công y hệt như Vương An Thạch vậy, như vậy thì cái phát minh của hắn giờ chỉ còn mỗi một cách bảo vệ duy nhất chính là bảo mật, giấu thật kỹ không cho ai biết mà thôi.

Tống Thần Tông trông thấy vẻ mặt của Đỗ Văn Hạo cứ ngây ra như vậy thì bất giác mỉm cười nói: “Thế này vậy! Ngươi cứ làm đi, phát minh thử đi, nếu như đó là một phát minh tốt thì Trẫm sẽ bảo vệ cái phát minh đó cho ngươi, không cho phép bất kỳ ai được phép làm nhái nó cả!”

“Đa tạ Hoàng Thượng!” Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Vậy những kỹ thuật của công nghiệp thì vi thần để lúc sau nói vậy!”

“Cũng được!” Tống Thần Tông cầm lấy bài viết của Đỗ Văn Hạo lên rồi nói: “Trong bài tấu trình này ngươi có nói, huyết mạch trong cơ thể người vận động không ngưng nghỉ, tuần hoàn một khối, lại nói rằng trong <Tố Vấn> có viết: ‘Gan có máu mà làm cho hoạt động, chân có máu thì đi lại được, tay có máu thì có thể cầm nắm được’. Ngươi đem thương nghiệp ra so sánh với huyết mạch, nói rằng thương nghiệp, kinh doanh là động cơ để thúc đẩy sự vận động của cơ thể con người. Về điểm này thì Trẫm không cùng quan điểm với ngươi, từ xưa tới nay tất cả mọi người đều trọng nghĩa mà khinh lợi, trọng nông nghiệp mà áp chế thương nghiệp, là một tôn chỉ mà các triều đại từ đời này qua đời khác đều tuân thủ theo một cách không khoan nhượng. Vì từ cổ chí kim nhân dân đều an cư lạc nghiệp cũng thấy đất nước nào bị diệt vong đâu?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Nhưng mà, từ xưa đến nay những người đảm bảo cơm no áo mặc thì trong mười nhà cũng chỉ có một nhà đáp ứng được điều kiện này mà thôi. Đây chính là hậu quả của việc không xem trọng phát triển thương nghiệp, kinh tế. Nếu như chú trọng vào phát triển kinh doanh kinh tế thì dân chúng bách tính sẽ có cơm ăn áo mặc, sẽ trở nên giàu có hơn bây giờ rất nhiều.”

“Thật sao?” Tống Thần Tông nhếch mép lên cười mỉa mai, nhưng mà lần này Tống Thần Tông không hề cảm thấy giận dữ như lần trước, cũng chẳng buồn đôi co thêm với Đỗ Văn Hạo làm gì nữa, chỉ nhẹ nhàng chuyển sang một đề tài khác để nói chuyện: “Vấn đề này bây giờ tạm thời không bàn đến nữa. Ta tiếp tục bàn luận tiếp những vấn đề khác trong bản tấu này của ngươi. Trong bài ngươi đem việc quân ra so sánh với chân, tay quyền cước, coi quân địch là ngoại cảm lục dâm (ngoại cảm lục dâm bao gồm: Phong, hàn, thự, thấp, tháo, hỏa sáu loại ngoại cảm tà khí xâm nhập cơ thể gây nên ốm yếu), rồi lại coi nội loạn là thất tình nội thương (thất tình bao gồm: Hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh là trạng thái tinh thần của cơ thể biến hóa mà thành; Vui (hỷ) quá thì hại tim, tức (nộ) quá thì hại gan, lo lắng (ưu) quá thì hại phổi, suy nghĩ (tư) quá thì hại tỳ (lá lách), sợ (khủng) quá thì hại thận) rồi lại dẫn câu nói trong <Tố Vấn> ra rằng: ‘Người hiểu biết không chữa khi bị bệnh mà thường là phòng ngừa mình bị bệnh, trị quốc không nên chờ đến khi nội loạn rồi mới trị, mà nên trị quốc sao cho nội loạn xảy ra. Người bị bệnh thì mới uống thuốc, nước bị loạn rồi mới trị như vậy chẳng khác nào khát nước rồi đâm đầu xuống giếng tìn nước uống, giặc đến chân rồi mới đi chuẩn bị dao, tất cả đều đã quá muộn! ‘ Ngươi lại dẫn từ trong <Lã Thị Xuân Thu> ra nói: ‘Nước thông suối chảy thì mới không có ao tù nước đọng, hình khí trong cơ thể người cũng có quy luật như vậy, khi hình không động thì tinh sẽ không thông, tinh mà không thông thì sẽ dẫn đến tụ khí. ‘ Ngươi nói thành lập quân đội là phòng vệ với những việc bất ngờ xảy ra, điểm này nói rất hay. Còn về cụ thể thì ngươi có đưa ra đường lối thiết lập bộ đội chuyên nghiệp hóa, quán triệt tinh hoa hóa quân đội! Vậy phải tinh hoa như thế nào cho phải?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Mong Hoàng Thượng cho thần mạn phép được nói, quân đội Đại Tống của ta có gần trăm vạn quân, nhiều hơn Liêu, Hạ, Thổ Phồn…rất nhiều lần, vậy tại sao mỗi lần đi chinh phạt thì lại thua nhiều hơn thắng?”

Vẻ mặt của Tống Thần Tông lúc này trở nên khó coi vô cùng, nhưng rất nhanh lại khôi phục lại như cũ, nhẹ nhàng lên tiếng: “Vậy ngươi nghĩ sao?”

“Vấn đề của chúng ta ở chỗ binh lính không tinh nhuệ, tướng tá thì bất tài vô dụng, quân đội thiếu những bài luyện tập chuyên nghiệp, binh sĩ thì chủ yếu là lao dịch mà thành, khi vào trận chiến cùng lắm cũng chỉ nắm vai trò hùa theo mà thôi, không hề có chút gì là có tính chiến đấu cả.”

“Đặc biệt là chuyện quan văn là thống soái quân đội, tướng soái lại bị thay đổi quá nhiều, binh sĩ không biết tướng cầm quân là ai, tướng cầm quân cũng chẳng biết binh sĩ mình ở đâu nữa, vi thần cũng biết rằng chế độ này là dùng để hạn chế tướng soái nơi biên cương có binh trong tay sẽ làm càn, thậm chí còn có thể xưng bá một phương nữa. Nhưng mà, chế độ này lại ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến sức mạnh chiến đấu của quân đội.” Tống Thần Tông nghe xong thì vô cùng kinh ngạc đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo một lúc lâu, rồi mới chầm chậm nói: “Chẳng có mấy người dám nói những câu như vậy ở trước mặt của Trẫm như vậy đâu, ha ha ngươi hôm nay cũng cả gan lắm!”

“Vi thần thấy Đại Tống chúng ta lớn như vậy mà lại bị bắt nạt không làm gì được, cảm thấy bất bình vô cùng, chính vì vậy mới bạo dạn nói ra những câu tự đáy lòng mình như vậy, mong Hoàng Thượng thứ tội!”

“Ha ha! Nói như vậy thì ngươi đúng là có một dạ trung thành lắm! Ngươi nói cũng không sai, tình hình Đại Tống của chúng ta hiện giờ đúng là như vậy, Trẫm từ trước đến nay đều vô cùng lo lắng việc này, xa thì chưa nói, ngay đến việc tây chinh Tây Hạ mà trận chiến tại thành Vĩnh Thành, hai mươi vạn quân cùng tướng lĩnh Đại Tống đều bại trận. Nguyên nhân thất bại của cuộc tây chinh này suy cho cùng thì cũng chỉ có nguyên nhân đó mà thôi! Nhưng mà, đây là di nguyện của Thái Tổ Hoàng Đế đặt ra, Trẫm không tiện thay đổi!”

“Nếu như không thay đổi, thì chúng ta chắc chắn sẽ lại có những trận thua khác nữa!” Đỗ Văn Hạo lên tiếng nói.

Tống Thần Tông nghe xong thân hình hơi rung động, rồi lại chầm chậm gật gật đầu, sau đó hai tay chắp ra đằng sau lưng, từ từ đi đi lại lại trong căn phòng.

Đi được mấy vòng, thì Tống Thần Tông liền đứng lại, rồi quay người lại nói: “Ngươi có biết tại sao tối hôm nay ta lại gọi ngươi vào đây gặp ta không?”

“Vi thần không biết!”

“Nhã Châu ở Thành Đô là nơi tiếp giáp với Thổ Phồn, ở Nhã Châu thì lại bùng phát bệnh dịch làm cho người và gia súc chết hàng loạt, những người thầy thuốc nơi đó đang không biết làm sao cả, đều đã bó tay chịu thua. Đúng lúc này thì bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn nhân cơ hội đến gây hấn ở biên giới, giờ đã đánh chiếm thành Nhã Châu, Tri Phủ Nhã Châu và Chỉ huy thống lĩnh quân đội, cùng với các quan lại ở đó đều đã tử trận. Trẫm hôm nay cũng đã hạ chỉ, phong Hán Tu làm Chinh Tây Đại Tướng Quân lãnh một vạn cấm vệ quân cùng với ba vạn quân ở Thành Đô xuất Quân chinh phạt bộ lạc Sơn Tây của Thổ Phồn. Hôm nay, Trẫm gọi ngươi đến đây là muốn ngươi xuất quân cùng đến Tây Vực để an ủi dân chúng.”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng kinh ngạc, thì ra Hoàng Thượng hôm nay gọi hắn đến đây là bảo hắn xuất chinh. Mấy hôm trước hắn cũng hay tin Thổ Phồn đến quấy nhiễu ở biên giới, vậy mà không ngờ hôm nay Hoàng Thượng đã quyết định xuất binh đánh Thổ Phồn rồi.

Thời nhà Tống, Thổ Phồn vẫn ở trong trạng thái phân tranh, nội chiến liên miên, cả nước bị tách ra làm rất nhiều bộ lạc to nhỏ, trong bốn trăm năm liền không có lấy một năm nào là thống nhất cả. Lần này đến quấy nhiễu biên giới của Đại Tống là một trong các bộ lạc của Thổ Phồn, có tên là Sơn Tây. So với Đại Tống mà nói thì dân số của Thổ Phồn vốn đã không nhiều, giờ đây phân ra làm nhiều bộ lạc như vậy thì đã ít lại càng ít, Tống Thần Tông xuất quân bốn vạn như vậy chẳng khác nào dùng dao mổ trâu đi cắt tiết gà cả.

Đỗ Văn Hạo chưa từng tham gia bất kỳ một trận chiến nào ở thời cổ đại cả, sau khi nghe xong thì tim của hắn cứ nhảy lên thon thót. Lần viễn chinh này xuất phát từ Đông Kinh Khai Phong Phủ đến đất thục ở Thành Đô, đường xá vô cùng xa xôi vất vả, nhưng mà trong lời nói của Hoàng Thượng thì dường như có một sự sắp xếp nào khác thì phải, Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn dỏng tai lên nghe ngóng chờ đợi.

Tống Thần Tông tiếp tục nói tiếp: “Sau khi nghe xong những đường lối chính sách mà ngươi mới vạch ra thì Trẫm đã thay đổi quyết định của mình, Trẫm không biết những lời mà ngươi nói có tiến hành thực thi được hay không. Nhưng mà, nghe cũng có thấy nó khá có lý, do vậy Trẫm đã quyết định cho ngươi một cơ hội để ngươi có thể bộc phát tài năng của ngươi ra, Trẫm muốn xem xem cái luận điệu Y Đạo Trị Quốc này của ngươi rốt cuộc có thực hiện được hay không!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sửng sốt vô cùng, hắn viết bài tấu trình này chẳng qua là do Tống Thần Tông ra nhiệm vụ cho hắn, không muốn Tống Thần Tông tỏ ra khinh thường hắn mà thôi, hắn có bao giờ nghĩ đến việc thực tế chính sách của hắn bao giờ đâu cơ chứ, ai ngờ hôm nay Tống Thần Tông xem xong lại quyết định luôn như vậy, lại còn nói là cho hắn một cơ hội để thi thố tài năng nữa chứ, nghe đến đây Đỗ Văn Hạo đột nhiên cảm thấy mình lẽ nào đã được thăng chức lên làm một vị tể tướng đi theo con đường biến pháp của Vương An Thạch?

Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây thì bất giác tim đập chân run, miệng hắn trở nên khô khốc, không biết nên nói sao cho phải, lắp ba lắp bắp nói: “Bẩm Hoàng Thượng!…Vi thần…Vi thần…!”

“Đỗ ái khanh quỳ xuống nghe chỉ!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy thì chỉ muốn nhảy dựng lên, nhưng vẫn vội vã vén áo lên quỳ xuống.

Tống Thần Tông chầm chậm nói: “Trẫm phong ngươi làm Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Quảng Bình Huệ Thương, kiêm chức Câu Quản Nông Điền, Thủy Lợi, Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, Dệt May. Ngươi có thể thi hành chính sách mới của ngươi ở Nhã Châu, Trẫm sẽ hạ chỉ nghiêm cấm bất kỳ ai cũng không được can thiệp vào việc ngươi làm ở đó. Ngươi có thể yên tâm ở Nhã Châu mà tiến hành cải cách theo ý của ngươi. Hạn của ngươi là ba năm, nếu như ngươi có những cống hiến to lớn thì Trẫm sẽ trọng dụng ngươi!”

Ở đời nhà Tống thì cấp bậc cơ cấu cao cấp hành chính khu vực chủ yếu bao gồm bốn bộ phận: Soái, Tào, Hiến, Thương. Bốn bộ phận này được đích thân Hoàng Thượng ủy thác, Soái chính là An Phủ Sứ là người quản lý về mặt quân đội; Tào là Chuyển Vận Sứ, là người chuyên phụ trách bảo đảm cung cấp kinh phí đến các địa phương khác, đồng thời còn kiểm sát quan lại; Hiến là Hình Ngục Công Sự, chuyên quản về lao ngục; Thương là Đề Cử Thường Bình Ti, ngoài việc cung cấp cứu tế ra, hàng ngày còn phải lo việc nông nghiệp, thủy lợi, bảo giáp, dệt may…Dưới các huyện phủ có các bộ phận khác là Câu Quản Quan.

Do vậy, Tống Thần Tông bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo làm chức Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Thương này cũng giống với chức Cục Trưởng Bộ Dân Chính, Cục Trưởng Bộ Nông Nghiệp, Cục Trưởng Bộ Thương Nghiệp kiêm Bộ Trưởng Vũ Trang…Bình thường thì các Câu Quản quan chức vô cùng thấp, chỉ là thất phẩm quan, Đỗ Văn Hạo giờ đây đã là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu, quan đến ngũ phẩm, theo lẽ thường thì hắn đi đảm nhiệm chức vụ quan Câu Quản nhỏ bé này thì chẳng khác nào bị cách chức cả. Nhưng, thực tế thì đây là Tống Thần Tông muốn tặng cho hắn một vùng đất để hắn thử nghiệm chính sách của mình, cho hắn ở Nhã Châu làm việc mà không bị kiềm chế, hắn có thể dựa vào tư tưởng, cách nghĩ, đường lối riêng của mình để thi hành chính sách mới mẻ của hắn. Do vậy, quyền lực của Đỗ Văn Hạo lúc này cũng tương đối là to, đồng nghĩa với việc Nhã Châu bây giờ đã là một thành phố trực thuộc trung ươrng, đặc khu kinh tế vậy. Còn Đỗ Văn Hạo chính là thị trưởng thành phố, được toàn quyền phụ trách xây dựng vùng kinh tế mới này.

Tống Thần Tông thực ra cũng có tính toán của riêng mình, một mặt là do Đỗ Văn Hạo đưa ra quá nhiều đường lối tư tưởng mới mẻ về mặt công, nông, thương, binh mà mình từ trước đến giờ chưa từng được nghe qua, do vậy vô cùng hứng thú với kế sách của hắn. Tống Thần Tông suy đi tính lại cũng thấy trong đường lối tư tưởng mà Đỗ Văn Hạo vạch ra đều có những điều được đề ra vô cùng hợp tình hợp lý, cũng muốn thử xem hắn thực hiện chính sách mới mẻ đó có hiệu quả ra sao, do vậy mới hạ quyết tâm bổ nhiệm hắn như vậy. Mặt khác, Tống Thần Tông lại lo lắng đường lối mới mẻ của Đỗ Văn Hạo không được thành công, làm cho tình hình biến pháp hiện nay vốn đã như một mớ bòng bong lại càng trở nên rối loạn hơn. Chính vì thế mà Tống Thần Tông mới cho hắn đi ra biên giới để thử nghiệm. Nhã Châu nơi đó cách xa kinh thành, cách xa trung ương, cho dù có xảy ra vấn đề gì đi chăng nữa cũng chẳng ảnh hưởng gì lớn lắm đến tình hình của đại cục.

Đỗ Văn Hạo mới đầu cứ tưởng mình được phong chức làm tể tướng, sau khi nghe xong mới biết mình bị phân phối ra cái nơi chó ăn đá gà ăn sỏi, mù cang chải làm một viên Câu Quản bé tí tẹo như vậy cũng cảm thấy thất vọng vô cùng. Nhưng, bây giờ hắn dời khỏi được kinh thành, xa rời vua chúa, người ta thường nói ở bên cạnh vua chẳng khác nào ở bên cạnh một con cọp, do vậy âu cũng là một điều tốt với hắn. Hơn nữa Hoàng Thượng còn ban cho hắn nguyên hẳn một vùng đất rộng lớn cho hắn thả sức tung hoành, thực hiện những chính sách mới mẻ của hắn, như vậy làm hắn cảm thấy làm một Ngự Y trong triều hầu hạ Hoàng Thượng có ý nghĩa hơn rất nhiều. Ngoài ra, nếu hắn chẳng may làm ra trò thì có khi lại được Tống Thần Tông trọng dụng cũng nên, nghĩ vậy nên Đỗ Văn Hạo mừng rỡ vội vã dập đầu tạ ơn.

Tống Thần Tông lại nói: “Ngươi có thể đem theo gia quyến cùng với đại quân của Hàn Tu mà tây tiến, khi đến được Thành Đô rồi thì ngươi cứ chờ đợi ở đó, chờ cho đại quân quyét sạch xong bọn Thổ Phồn, thu lại Nhã Châu rồi thì ngươi có thể đến Nhã Châu mà tiến hành chính sách mới mẻ của ngươi. Ngươi nên ghi nhớ là đừng để Trẫm phải thất vọng đấy!”

“Vi thần nguyện đem hết sức mình ra để làm việc, quyết không thể để phụ lòng mong đợi của Hoàng Thượng!”

“Được như vậy thì quá tốt rồi! Thôi được rồi, bây giờ ngươi có thể ra về được rồi đấy, ba ngày sau ngươi sẽ tây tiến cùng đại quân.”

“Vi thần tuân chỉ!”

Khi Đỗ Văn Hạo về đến nhà của mình thì cũng đã đêm hôm khuya khoắt cả rồi.

Khi Đỗ Văn Hạo đi qua phòng của Lâm Thanh Đại thì thấy bên trong vẫn còn hắt ra ánh đèn mờ, thấy vậy bèn dừng chân lại tiến đến gõ cửa.

Có tiếng nói dịu dàng truyền ra từ trong phòng nói: “Ta ngủ rồi, ai vậy? Có chuyện gì không?”

Đỗ Văn Hạo nghe thế bèn mỉm cười nói: “Sao hôm nay lại ngủ sớm như vậy?”

Trong phòng lúc này vang lên tiếng của một vật gì đó vừa rơi xuống dưới đất, sau đó Lâm Thanh Đại nói tiếp thêm một câu”Văn Hạo, đề sao về giờ này vậy? Chờ tỷ một chút nhé, tỷ sẽ ra mở cửa ngay đây!”

Đỗ Văn Hạo vẫn đứng ở bên ngoài cửa chờ đợi, thì bỗng thấy Bàng Vũ Cầm bưng lên một chiếc khay từ trong nhà bếp đi lại, Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ Lâm Thanh Đại chắc đúng là đã đi nghỉ rồi, giờ đây hình như cũng mới ngồi dậy chuẩn bị mặc lại quần áo để ra đón mình, nhưng lúc này trời cũng khuya rồi, nếu như đem chuyện hắn vừa được bổ nhiệm đến Tứ Xuyên Nhã Châu làm chức Câu Quản nói ra, thì e rằng cả nhà sẽ không khủ được mất, dù sao thì vẫn còn ba ngày để chuẩn bị, ngày mai nói cũng không muộn, nghĩ vậy bèn nói: “Thanh Đại! Nàng thôi không phải chuẩn bị nữa đâu, cứ đi ngủ đi, mai ta sẽ quay lại tìm nàng!”

Trong phòng lúc này cũng im lặng không có tiếng trả lời lại nữa, cho đến khi Bàng Vũ Cầm sắp bước gần đến nơi, thì ánh đèn trong phòng của Lâm Thanh Đại mới vụt tắt.

“Tướng Công! Sao chàng lại đứng đây vậy?” Bàng Vũ Cầm vừa nói vừa đưa mắt lên trông vào phía căn phòng của Lâm Thanh Đại, nét mặt vô cùng tò mò hỏi.

“Lúc nãy ta thấy phòng của Thanh Đại tỷ vẫn còn sáng đèn, nên muốn vào trong đó tìm nàng ta nói vài câu, ai ngờ khi ta vừa đi đến thì đèn nó lại vừa tắt rồi, ta cũng đang định ra về đây!” Đỗ Văn Hạo bịa chuyện nói.

Bàng Vũ Cầm nghe vậy bèn mỉm cười một tay cầm chiếc khay, một tay thì quắp vào cánh tay của Đỗ Văn Hạo nói: “Đi thôi! Mình về đi ăn trước cái đã, ngày mai đến tìm Thanh Đại tỷ cũng chưa muộn mà, chàng chắc là chỉ ở đây một đêm thôi đúng không? Mai chàng lại phải vào cung?”

“Không! Lần này thì ta không cần phải vào cung thêm lần nào nữa rồi, ha ha ha! Về sau ta sẽ được ở nhà vui vẻ với mấy người rồi!” Đỗ Văn Hạo còn cố tình nói to lên hai từ “mấy người”, sau đó lại quay đầu nhìn về phía căn phòng của Lâm Thanh Đại, hắn mơ hồ nghe thấy một tiếng thở nhẹ phát ra từ nơi đó.

Bàng Vũ Cầm dường như cũng không hiểu ẩn ý trong câu nói của Đỗ Văn hạo, vẫn nhẹ nhàng dựa người vào hắn, hai người cùng bước về phòng ngủ.

Đỗ Văn Hạo đi qua phòng của Tuyết Phi Nhi, thì thấy trong đó tối mù mịt không có lấy một ánh đèn nào cả thì lên tiếng hỏi: “Sao không thấy tiểu nha đầu Tuyết Phi Nhi đâu nhỉ, lẽ nào cũng ngủ rồi sao?”

“Sau bữa tối hôm nay thì Phi Nhi đòi về nhà thăm cha của muội ấy rồi, chàng nói xem tiểu nha đầu này ngày nào cũng gặp cha mình rồi thế mà vẫn bảo nhớ, thiếp nghĩ chắc là chàng ít về nhà, Phi Nhi ở đây cũng thấy chán, còn Thanh Đại tỷ thì mấy hôm gần đây lại bận việc ở tiệm thuốc, cũng đi sớm về muộn. Thiếp cũng không có thời gi­an để ngồi nói chuyện Phi Nhi, thế nên chắc muội ấy cảm thấy chán quá mới đòi về tìm cha mình chơi cho đỡ buồn, do vậy thiếp cũng đồng ý để nàng ấy đi rồi, hay là bây giờ thiếp cho người đến gọi Phi Nhi về nhé?”

“Thôi! Không cần đâu! Ngày mai hẵng hay, đêm nay ta muốn ngủ với một mình nàng là được rồi.”

Nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy Bàng Vũ Cầm liền mở một nụ cười tươi, nét mặt tràn đầy hạnh phúc. Khi Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo đi về đến cửa phòng của nàng thì Anh Tử nghe thấy tiếng chân của hai người vội chạy ra ngoài cửa phòng, tiến đến đỡ lấy cái khay trên tay của Bàng Vũ Vầm. Sau lưng của Nàng vẫn là chú hổ con Tiểu Khả, lúc này nó đã có kích thước bằng một con chó to rồi.

“Thiếu gia người vừa về đấy ạ?” Anh Tử trông thấy Đỗ Văn Hạo đi đến bèn nở một nụ cười chào đón, rồi bưng chiếc khay thức ăn đi vào trong phòng.

“Ừm! Anh Tử, phu nhân hiện giờ sức khỏe vẫn chưa được tốt lắm, ngươi đừng có suốt ngày cứ chăm chăm trông nom Tiểu Khả mà quên mất phu nhân của ngươi đấy nhé! Nếu ngươi mà lơ là việc chăm sóc phu nhân là ta không tha cho ngươi đâu đấy!” Khi Đỗ Văn Hạo đang nói thì Tiểu Khả đã tiến đến bên hắn, le cái lưỡi to lớn của nó ra liếm liếm lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo làm cho hắn có cảm giác buồn buồn đến sởn gai ốc.

Anh Tử sau khi thắp sáng đèn lên liền đưa Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo dẫn đi vào trong phòng, sau đó đặt một chiếc đèn lên bàn, sắp cho Đỗ Văn Hạo một đôi đũa, xong đâu đấy mới ngượng ngùng quay sang hắn nhoẻn miệng cười gật gật đầu nói: “Anh Tử biết rồi ạ!”

Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh cũng lên tiếng bênh vực Anh Tử nói: “Anh Tử đối xử với thiếp rất tốt, nhưng chỉ khi đến tối thì Tiểu Khả nhất định không theo một ai cả, chỉ thích theo chân của Anh Tử thôi, Anh Tử đến đây thắp hương đuổi muỗi cho thiếp mà nó cũng đi theo đến đây!”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng múc lên một thìa cháo đưa lên miệng mình thổi thổi, sau đó đút vào miệng hút soạp lên một tiếng, gương mặt của hắn hiện rõ lên sự mãn nguyện tấm tắc khen: “Phu nhân của ta nấu cháo vẫn là ngon nhất trên đời này, đến cả đầu bếp trong cung Ngự Thiện của Hoàng Thượng cũng chẳng bằng, ngon, ngon thật!”

Bàng Vũ Cầm cầm lấy đôi đũa rồi đưa đến khay thức ăn gắp lên cho Đỗ Văn Hạo một miếng gì gì đó màu đỏ cho vào bát của Đỗ Văn Hạo, mỉm cười nói: “Cá này là mấy ngày trước thiếp mới làm đó, hôm qua bọn thiếp cũng nếm thử rồi, chờ chàng mãi mà không thấy về, cho nên mấy người trong nhà cũng đã ăn qua hết cả rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn bỏ miếng đó vào trong miệng nếm thử, thì bất giác hắn cảm thấy hương thơm ngào ngạt, khẩu vị mềm mại, mới bỏ vào miệng mà đã tan hết ra rồi, ngoài ra nó còn có một mùi vị vô cùng thanh đạm.

“Ngon quá! Nhưng mà ta không biết đó là thứ gì nữa, ta biết phu nhân của ta tay nghề nấu ăn tuyệt đỉnh rồi, mau nói cho biết đây là món ăn gì vậy để ta được mở rộng tầm mắt!”

Anh Tử nghe thấy hai người bọn họ nói chuyện với nhau tình tứ như vậy thì thấy ở lại cũng không tiện, bèn thi lễ xong rồi đem Tiểu Khả dẫn ra bên ngoài.

Chương 306: Cuộc hẹn mơ ước.

Gởi bởi người có lòng!

Bàng Vũ Cầm sau khi thấy Anh Tử ra ngoài, bèn đứng dậy đi ra khép cửa lại rồi quay lại ngồi vào chỗ của mình, vẻ mặt của nàng lúc này hiện lên vô cùng thần bí, đưa mắt liếc nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng Công! Sao chàng không nói cho thiếp biết chàng ăn vào thấy nó có mùi vị gì sao?”

Đỗ Văn Hạo lại gắp một miếng nữa lên đưa vào trong miệng rồi nhắm mắt từ từ thưởng thức, nghiền ngẫm món ăn lạ miệng này, một lúc sau hắn mới lên tiếng: “Nói thật ta không nhận ra được, có lẽ là đậu phụ hay sao ấy, nhưng mà vị thơm này không biết là vị thơm của loại hoa nào nữa, mặt khác khi ăn vào thì dường như nó lại không phải là mùi thơm của hoa. Thật khó hiểu!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong thì vô cùng khâm phục gật gật đầu nói: “Công nhận tướng công của thiếp lợi hại thật đấy! Tối qua Tuyết Phi Nhi và Hàm Đầu đánh cược với nhau, Tuyết Phi Nhi nói rằng nếu như Hàm Đầu đoán ra được món ăn này làm từ cái gì thì sẽ đưa cho Hàm Đầu năm mươi quan tiền, nhưng ai ngờ Hàm Đầu ăn cả cái một đĩa to rồi mà vẫn không đoán được nó làm từ thứ gì, nhưng hôm nay tướng công mới chỉ ăn có hai miếng thôi mà đã đoán biết được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn đắc ý nói: “Nàng quên rồi sao? Tướng công của nàng là một người tham ăn mà!”

Bàng Vũ Cầm nghe thấy vậy bèn bẽn lẽn che miệng cười, Đỗ Văn Hạo rất nhanh đã húp hết sạch cả bát cháo, Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn nhanh tay múc thêm cho hắn một bát nữa.

“Nàng vẫn chưa nói cho ta biết món ăn ó được làm từ cái gì đâu đó?” Đỗ Văn Hạo nói.

“Món ăn này được thiếp và Thanh Đại tỷ đặt một cái tên rất hay, Hoa Hương Đậu Phụ!”

“Tên hay lắm! Nói xem làm nó bằng cách nào vậy?”

“Thiếp đã sử dụng năm loại hoa đang đua nở ở trong vườn nhà mình, rồi ngắt cánh hoa của chúng xuống rửa cho sạch sẽ, sau đó nghiền nát nó ra, rồi bỏ bã đi, chỉ lấy nước ép từ cánh hoa để lại, sau đó cũng nghiền nát đậu phụ ra rồi trộn đều nó lên, cho thêm một ít muối vào, lúc này thì không nên cho thêm thứ khác vào, sau khi nó định hình rồi thì cho vào hấp là xong!”

“Đơn giản như vậy thôi sao?” Đỗ Văn Hạo nghe xong mà chẳng thể tin nổi vào tai mình nữa.

Bàng Vũ Cầm thấy vậy cũng nghiêng đầu nói: “Thật mà! Thiếp nói dối chàng để làm gì cơ chứ, chàng không tin ngày mai cứ đi hỏi Thanh Đại tỷ ấy!” Bàng Vũ Cầm nói xong thì cong môi lên hờn dỗi, Đỗ Văn Hạo chỉ chờ có vậy, hắn liền xông tới hôn luôn lên đôi môi của Bàng Vũ Cầm.

Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn nhẹ nhàng đẩy Đỗ Văn Hạo ra, nét mặt ngượng ngùng e thẹn đưa tay lên ôm lấy môi của mình, hai mắt tình tứ, âu yếm liếc nhìn Đỗ Văn Hạo, nhỏ nhẹ e thẹn nói: “Nỡm! Người ta đợi chàng lâu như vậy rồi, thế mà chàng chỉ hôn một cái là xong chuyện luôn hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy, biết ngay là Bàng Vũ Cầm đang có ý định khêu gợi mình, xem ra xa nhau một thời gi­an cũng có lợi ra phết, nhưng Đỗ Văn Hạo chưa bao giờ thấy được Bàng Vũ Cầm lại có những hành động mời gọi hắn như vậy bao giờ cả. Ở trước mặt của mọi người thì Bàng Vũ Cầm là một quý phụ, ở trong bếp thì nàng là một nhà nội trợ tài ba, còn ở trong phòng the bây giờ thì nàng là một người phụ nữ có khát vọng thực sự. Nghĩ đến đây, Đỗ Văn Hạo bất giác cảm thấy trong người mình nhộn nhạo khó tả, dù sao thì giờ cũng đã no bụng rồi, hầu hạ nàng ta một chút trả ơn cũng đáng làm lắm. Nghĩ vậy, Đỗ Văn Hạo bèn đứng dậy ôm luôn Bàng Vũ Cầm vào trong lòng, bế thốc nàng lên quăng luôn lên giường, sau đó hắn nhanh tay hất rèm che xuống, rồi như một con sói đói chồm lấy Bàng Vũ Cầm.

“Á! Tướng công! Chàng xấu thế! Chàng nhẹ nhàng một chút chứ…Á! Ôi! Chàng chạm vào chỗ này của thiếp buồn quá, ái! Ha ha ha đáng ghét!…”

Sau đó căn phòng vang lên những tiếng thở dốc của Đỗ Văn Hạo và những tiếng rên nhẹ của Bàng Vũ Cầm, đúng lúc này đột nhiên có một trận gió thổi đến, cửa sổ căn phòng bật mở, ánh đèn trong phòng lúc này đã bị cơn gió thổi tắt.

Một canh giờ sau, căn phòng lại sáng đèn trở lại.

“Cầm Nhi! Nàng lại trở dậy làm gì vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Bàng Vũ Cầm mặc mỗi chiếc áo lót màu hạt dẻ trườn qua trên người hắn dậy thắp đèn bèn lên tiếng hỏi.

Bàng Vũ Cầm quay đầu lại, đi đến bên giường nói: “Tướng Công! Chàng cứ ngủ trước đi, chàng mấy hôm nay cũng khá mệt rồi, thiếp bây giờ sang bên phòng của đại tỷ phu xem bệnh tình của huynh ấy ra sao rồi, huynh ấy bị bệnh ở nhà của chúng ta, thì chúng ta cũng phải chăm sóc cho cẩn thận, nếu không đại tỷ của thiếp không tha cho thiếp đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn kéo Bàng Vũ Cầm lại nói: “Ta đã dặn Hàm Đầu và Diệu Thủ rồi, nàng không cần phải đi nữa đâu, hơn nữa đấy cũng là tỷ phu của nàng, nàng chăm lo người ta suốt thế cũng bất tiện, nếu nàng muốn đi thì không bằng để ta đi thì sẽ tiện hơn.”

Bàng Vũ Cầm thấy Đỗ Văn Hạo nói xong liền ngồi luôn dậy, thì cũng nghĩ lời nói của Đỗ Văn Hạo cũng có lý, bèn đáp: “Thôi! Được rồi! Chúng ta ngủ thôi! Thiếp cũng không đi nữa!” Nói xong bèn thổi đèn lên giường.

“Tướng Công! Thiếp nghe Diệu Thủ nói chàng hôm nay kê thuốc cho đại tỷ phu không giống với hồi trước, gần đây thiếp cũng không dám khám bệnh cho người khác nữa rồi, thiếp sợ khám sai cho người ta lắm. Chàng nói thiếp nghe xem bệnh của đại tỷ phu rốt cuộc là bệnh gì vậy?” Trong bóng tối Bàng Vũ Cầm nép lên trên ngực của Đỗ Văn Hạo dò hỏi.

Đỗ Văn Hạo sau khi quần chiến với Bàng Vũ Cầm một trận kịch liệt xong cũng cảm thấy khá mệt, nhưng từ khi Bàng Vũ Cầm theo hắn học y thì nàng luôn rất chăm chỉ học hỏi, cho dù có mấy lần vấp ngã, nhưng cũng có rất nhiều tiến bộ, có một cô học trò chăm chỉ như vậy, Đỗ Văn Hạo sao dám sao nhãng việc dậy dỗ của mình được, lúc này hắn chỉ biết che miệng kín đáo ngáp lên mấy cái rồi đáp: “Hồi trước mấy vị thầy thuốc đều cho rằng bệnh của đại tỷ phu là chứng Hư Hàn, do vậy dùng thuốc Trí Mẫu, Hoàng Phách…Nhưng thực tế thì nên phải trừ thấp, giải trừ tích tụ, nhưng do mấy vị thầy thuốc hồi trước đều dùng các loại thuốc trị khí huyết nên bệnh tình mới càng ngày càng nặng thêm như vậy!”

“Nói như vậy thì bệnh của đại tỷ phu là do tích tụ chứ không phải tán hàn nhiệt?”

“Cầm Nhi! Nàng càng lúc càng thông minh rồi đấy, ta mới nói có một chút như vậy mà đã hiểu ra vấn đề rồi, đại tỷ phu bị ngoại cảm là do thấp khí ngưng trệ dẫn đến toàn thân nhức mỏi, nếu như ta dùng các bài thuốc để bình ổn dạ dày phá đờm, hành khí cùng với các bài thuốc trị dạ dày khác nữa thì coi như đại tỷ phu đã được chữa đúng bệnh uống đúng thuốc rồi!”

“Ố? Thế mà sao thiếp lại không nhìn ra được vậy nhỉ? Diêm Diệu Thủ chắc cũng không nhìn ra được, bởi vì lúc nãy khi thiếp bưng khay cháo lên cho chàng thì cũng bắt gặp Diệu Thủ trên đường, Diệu Thủ nói may mà chàng quay về kịp thời, đúng lúc, khi đó thiếp nghĩ chắc Diệu Thủ cũng không khám được bệnh cho đại tỷ phu rồi!”

“Thôi được rồi! Đừng nghĩ ngợi thêm nữa mệt óc, đụng vào cái y thuật này không phải một chốc một lát là thành công ngay được đâu, phải đọc nhiều sách, chữa thêm nhiều bệnh, rồi từ đó rút thêm ra các kinh nghiệm, đó mới là những điều then chốt nhất. Thôi ngủ đi, ta cũng mệt lắm rồi!”

“Được rồi!” Bàng Vũ Cầm nhẹ nhàng trả lời, rồi ngoan ngoãn nằm gọn trong cánh tay của Đỗ Văn Hạo, nàng cũng mệt lắm rồi, rất nhanh Bàng Vũ Cầm đã chìm vào giấc ngủ.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa môi lên hôn nhẹ vào vầng trán cao cao của nàng, sau đó hắn mới nhắm mắt lại, hắn lập tức nghĩ tới cuộc sống mới ở một môi trường hoàn toàn xa lạ, mới mẻ, bất giác cảm thấy hồi hộp trong lòng, cứ như vậy hắn không khỏi thấy mình bỗng nhiên tỉnh như sáo, không còn buồn ngủ nữa. Đỗ Văn Hạo cứ thế quay người mãi trên giường mà cũng không tài nào chợp mắt thêm được chút nào, mãi cho đến khi gà gáy sáng thì hắn mới cảm thấy gật gù hai mắt lờ đờ thiếp đi.

Đến sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đã mở mắt tỉnh dậy, bên cạnh hắn Bàng Vũ Cầm vẫn say trong giấc nồng, Đỗ Văn Hạo bèn xuống giường chuẩn bị đi đến phòng của đại tỷ phu Lý Kiện để xem xét bệnh tình của huynh ấy ra sao.

Khi Đỗ Văn Hạo vừa bước ra khỏi cửa thì hắn bỗng trông thấy một bóng người mặc một bộ áo màu trắng vụt qua nơi góc tường, hắn trông bóng hình đó vô cùng quen thuộc, bèn đoán ra ngay đó là bóng dáng của Lâm Thanh Đại đi ra phía sau vườn múa kiếm luyện quyền, nghĩ vậy bèn nối gót theo sau: “Thanh Đại!” khi chỉ có hai người với nhau Đỗ Văn Hạo đã bỏ đi chữ tỷ ở đằng sau rồi, do vậy hắn mới lên tiếng gọi Lâm Thanh Đại như vậy.

Đỗ Văn Hạo lúc này đã thấy Lâm Thanh Đại khoác trên mình một chiếc áo màu trắng, trước ngực có thêu một bông hoa mẫu đơn màu xanh, bên dưới nàng mặc một chiếc váy Lục Yên Thủy Bạch Hoa, tay cầm một thanh trường kiếm, trên tóc có cài một nhánh hoa Ngọc Lan, ánh mắt sáng ngời, nhưng nàng chỉ đưa mắt lên nhìn hắn một cái rồi lạnh lùng nói: “Thì ra là Đỗ đại nhân đó hả, có chuyện gì không?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì không tin nổi vào tai mình nữa, hắn thầm nghĩ lẽ nào hôm qua hắn không chịu đợi nàng ra ngoài mời hắn vào phòng mà giận hắn, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn tìm cách làm trò lấy lòng của nàng, nên giả bộ thở dài một cái, đưa tay lên tóc mình rồi nói: “Đúng là ta có chuyện muốn tìm tỷ để nói, không biết tỷ tỷ có thời gi­an hay không?”

Vốn lúc đầu Đỗ Văn Hạo chỉ gọi nàng là Thanh Đại không thôi, vậy mà bây giờ hắn lại đổi giọng gọi nàng là tỷ tỷ, khoảng cách giữa hai người giờ đây bỗng chốc được kéo ra hẳn ra, cứ như ai cũng không trông thấy ai cả, trong mắt của họ bây giờ đối phương đều trở nên vô hình.

“Vậy thì mau nói đi! Nói xong rồi thì ta còn vào rừng trúc để luyện kiếm!” Lâm Thanh Đại thấy thái độ của Đỗ Văn Hạo như vậy thì tỏ rõ sự thật vọng, nàng không phải là người giống như Bàng Vũ Cầm, lúc nào cũng tự cúi đầu nhận lỗi, cũng không giống như Tuyết Phi Nhi có gì nói đấy, vô tư trong sáng, nàng chẳng bao giờ chủ động biểu đạt thái độ của mình bao giờ cả, tuy nàng vô cùng hy vọng Đỗ Văn Hạo nhìn nàng với ánh mắt trìu mến như xưa, nhưng nàng quyết không bao giờ mở miệng yêu cầu hắn phải làm như vậy bao giờ cả, thậm chí đến hành động ngụ ý ra hiệu cũng không hề có nữa.

Đỗ Văn Hạo cũng biết tính nết của Lâm Thanh Đại ra sao, hắn biết nàng không bao giờ cúi đầu van xin hắn bao giờ cả, muốn nàng tự mình đi làm hòa thì khó lên bằng trời, cho dù Lâm Thanh Đại có tình cảm với hắn đến mấy, cũng chỉ âm thầm dùng hành động mà biểu hiện cho hắn thầm hiểu, chứ nếu bảo nàng đứng trước mặt hắn mà nói ra những lời yêu thương ngọt ngào thì có lẽ lúc đó mặt trời đã mọc từ đằng tây rồi.

Đỗ Văn Hạo biết vậy nên hắng giọng lại một cái, rồi tiến lên trước một bước, Lâm Thanh Đại thấy vậy thì sa sầm nét mặt lùi lại một bước, Đỗ Văn Hạo lại càng cười thầm trong bụng, chỉ là sáng ra mới đến tìm nàng thôi mà, làm gì mà nổi giận đối xử với mình tệ như vậy, nghĩ vậy bèn ra nghiêm túc nói: “Là thế này! Hoàng Thượng muốn ta đến Tứ Xuyên Nhã Châu làm Câu Quản Quan Thường Bình Thương trong vòng ba năm, tất cả mọi người trong nhà đều phải theo ta hết. Do vậy, Ngũ Vị Đường e rằng giờ đây chỉ có một mình nàng lo liệu rồi, không biết rằng nàng có…”

Đỗ Văn Hạo nói đến đây thì cố tình ậm ờ thêm vài cái, rồi đưa mắt lên liếc trộm Lâm Thanh Đại, chỉ thấy lúc trước khuôn mặt của nàng cúi gằm xuống im lặng không nói, nhưng sau khi nghe hắn nói vậy thì bất giác đôi mắt phượng của nàng mở to ra, nét mặt trở nên vô cùng kinh ngạc.

“Chàng nói sao cơ?” Lâm Thanh Đại cuối cùng cũng đưa đôi mắt của mình lên nhìn vào Đỗ Văn Hạo, nhưng đôi mắt đó giờ đây từ chỗ lạnh lùng băng giá, đã trở nên rưng rưng muốn khóc.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy thì không kìm lòng mình được nữa, đang định bước đến an ủi nàng thì Lâm Thanh Đại phất lên một chưởng đẩy lui Đỗ Văn Hạo ra xa mấy bước, Đỗ Văn Hạo không có chuẩn bị gì nên bị nàng đẩy bất ngờ như vậy ngã ngửa về phía sau, đập luôn cả mông xuống đất kêu bịch lên một tiếng. Đỗ Văn Hạo bị ngã một cú đau điếng nghiến răng đưa tay xoa mông xuýt xoa.

“Chàng! Chàng định là nói rằng chàng chỉ đem theo Cầm Nhi và Tuyết Phi Nhi đi, bỏ mặc ta ở đây cô đơn một mình cùng với cái Ngũ Vị Đường sao? Chàng nói xem có phải chàng thật lòng muốn như vậy không?” Lâm Thanh Đại chỉ vào Đỗ Văn Hạo nói, giọng nói của nàng lúc này cũng bắt đầu trở nên run rẩy.

Đỗ Văn Hạo lúc này đang lồm cồm bò dậy, một tay vịn vào thân cây hòe cạnh đó, miệng cười khổ chỉ vào Lâm Thanh Đại mà trả lời: “Nàng lợi hại như vậy thì ai dám lấy nàng làm vợ cơ chứ! Ta cũng đã nói hết câu đâu…!” Đỗ Văn Hạo lúc này cũng chỉ là buột miệng mà nói ra thôi, ai ngờ Lâm Thanh Đại nghe thấy hai tiếng “lợi hại” thốt ra, rồi cộng với câu không ai dám lấy buột ra từ miệng Đỗ Văn Hạo càng làm cho nàng cảm thấy sự nghi ngờ của mình là hoàn toàn đúng, gã nam nhân đứng trước mặt nàng lúc này giờ đây đã không còn thuộc về nàng nữa rồi, những lời thề non hẹn biển năm xưa, những lời ngọt mật dưới ánh trăng đã bị câu nói vô tình của hắn bóp nghẹt một cách dễ dàng không thương tiếc.

Lâm Thanh Đại vô cùng thất vọng nhìn Đỗ Văn Hạo, nàng cố gắng kìm nén những giọt nước mắt trực trào ra bên ngoài, lạnh lùng cười đáp: “Thôi được rồi! Chàng không cần phải nói nữa, chàng nói nữa cũng chẳng có tác dụng gì nữa rồi, chàng khi nào muốn đi thì nói cho ta biết một câu, ta sẽ trả nốt số tiền còn lại cho chàng!” Lâm Thanh Đại nói xong bèn quay ngoắt người bỏ đi.

Đỗ Văn Hạo thấy Lâm Thanh Đại hiểu nhầm mình như vậy thì cả kinh, lúc trước hắn cũng chỉ buông lời trêu chọc nàng thôi, vậy mà nàng lại tưởng thật, do vậy khi hắn thấy Lâm Thanh Đại quay người bỏ đi như vậy bèn vội vã chạy luôn đến ôm choàng lấy nàng vào trong lòng mình.

Lâm Thanh Đại không hề có cử chỉ kháng cự nào cả, một mùi vị sao mà quen thuộc đến thế, nước mắt nàng không kìm được nữa, trào ra chảy dài trên má.

“Trông nàng kìa! Cái gì mà trả tiền lại cho ta cơ chứ, cả đời này nàng là người của Đỗ Văn Hạo ta rồi, nàng trả cho ta được không?” Đỗ Văn Hạo ghé miệng mình lên bên tai của Lâm Thanh Đại thì thầm nói.

“Đến lúc này rồi mà chàng vẫn còn giễu cợt thiếp như vậy sao? Thiếp thừa nhận rằng thiếp không nên yêu một người dễ dàng như vậy, nhưng mà thiếp đã yêu rồi, vậy mà bây giờ chàng ăn ốc bỏ vỏ, chàng sung sướng rồi lại muốn hắt hủi thiếp, muốn ruồng bỏ thiếp!”

Đỗ Văn Hạo cảm thấy tim mình quặn lại, hắn liền đưa tay quay người của Lâm Thanh Đại lại đối diện với mặt mình, chợt trông thấy lúc này gương mặt của nàng ướt đẫm nước mắt. Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa tay lên mặt nàng nhẹ nhàng lau đi, sau đó ôm chặt nàng vào trong lòng mình nói: “Ngốc ạ! Ta cho dù có đến chân trời góc biển cũng không bao giờ bỏ quên nàng được!”

“Nhưng mà…Nhưng mà chàng lúc nãy nói là sẽ đem mọi người trong nhà đi, chỉ để lại Ngũ Vị Đường cho một mình thiếp chăm lo, chàng rõ ràng lúc nãy nói như vậy mà…!” Lâm Thanh Đại nói với giọng vô cùng tủi thân, nàng ép người mình lên vai của Đỗ Văn Hạo nấc nghẹn nói.

“Ta vốn là muốn định đến thương lượng với nàng, hỏi nàng có đồng ý đi theo ta vào Tứ Xuyên Nhã Châu không? Còn Ngũ Vị Đường thì ta gi­ao cho Hàm Đầu chăm lo là được rồi, nhưng nàng lại cứ xa cách với ta, vậy nên ta mới trêu đùa nàng như vậy đó, ai ngờ nàng lại tưởng thật! Thanh Đại! Cô bé ngốc nghếch yêu của ta! Ta sao nỡ lòng nào mà bỏ rơi nàng một mình cao chạy xa bay được cơ chứ?”

Lâm Thanh Đại nghe hắn nói vậy mới phì cười, đưa tay lên đấm thùm thụp vào ngực của hắn oán trách nói: “Đáng ghét!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa môi lên đặt vào gương mặt của Lâm Thanh Đại hôn một cái nói: “Vậy bây giờ nàng phải nói cho ta biết là nàng muốn lấy ta rồi đi Tứ Xuyên Nhã Châu hay là từ chối ta mà ở lại Ngũ Vị Đường hả?”

Lâm Thanh Đại thẹn thùng mỉm cười, nàng quay người đi không để ý đến Đỗ Văn Hạo nữa, hai tay nàng cầm chặt lấy thanh trường kiếm, cúi đầu không nói câu gì cả.

Đỗ Văn Hạo gi­an xảo chớp chớp đôi mắt của mình rồi cố ý thở dài lên một tiếng nói: “Nàng không nói tức là biểu hiện nàng từ chối ta rồi, vậy là bây giờ ai đi đường nấy ‘Hải thượng sinh minh nguyệt, thiên hạ cộng thử thời, thiên trường địa cửu hữu thời tận, thử hận miên miên vô tuyệt kỳ’ (Đỗ Văn Hạo lấy hai câu thơ đầu trong bài thơ của Trương Cửu Linh đời nhà Đường để nói lên tâm trạng của mình, nhân tiện cũng là trêu đùa Lâm Thanh Đại, câu thơ này tạm dịch: Mặt biển lúc này lơ lửng một vầng trăng sáng lấp lánh, giờ đây ta và nàng cùng ngồi dưới đó mà tận hưởng giây phút thần tiên này, nhưng trời đất cũng có lúc phải có lúc tận diệt, giây phút đẹp đẽ này không thể mãi mãi tồn tại cùng với thời gi­an được nữa!)”

Lâm Thanh Đại lúc này cũng biết Đỗ Văn Hạo đang nói trêu nàng, nhưng trái tim nàng vẫn thót lên, nàng liền quăng luôn thanh kiếm trong tay mình xuống đất, ôm luôn lấy cổ của Đỗ Văn Hạo nói: “Không được nói lung tung như vậy! Chàng đừng…bỏ rơi thiếp!”

Câu nói cuối cùng của Lâm Thanh Đại rất nhỏ, như tiếng vo ve của con muỗi bên tai Đỗ Văn Hạo vậy, nếu như không phải hai người bây giờ đang áp sát mặt vào nhau thì Đỗ Văn Hạo cũng chẳng nghe thấy gì cả, hắn thấy vậy không khỏi nhịn được cười nói: “Vậy nàng đồng ý thành thân với ta rồi!”

“Ừm! Thiếp không phải đã đồng ý chàng từ lâu rồi hay sao? Chỉ là, hạn để tang của thiếp vẫn còn!”

“Thôi cứ thành thân trước cái đã, đỡ phải để cho người ta thấy nàng lẵng nhẵng đi theo ta mà nói ra nói vào, chờ cho nàng hết hạn để tang rồi mới động phòng chính thức như vậy có được không?”

Lâm Thanh Đại nghe thấy Đỗ Văn Hạo nghĩ cho mình một cách chu đáo như vậy thì đưa con mắt cảm kích lên nhìn một cái, rồi kiễng chân lên hôn luôn vào môi của hắn.

Đỗ Văn Hạo lúc sau mới đem chuyện hắn muốn thành thân với Lâm Thanh Đại nói cho Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi nghe, kết quả là hai người bọn họ đã có dự tính sẵn từ trước rồi, do vậy liền lập tức chuẩn bị lễ cưới, cùng quà cưới luôn. Không một ai biết Lâm Thanh Đại vẫn phải để tang, chính vì vậy mà chẳng có ai lời qua tiếng lại cả, ngoài trừ những người trong nhà đều biết chuyện của Lâm Thanh Đại ra thì chẳng còn ai để ý nữa cả, chính vì thế mà lễ thành thân của Đỗ Văn Hạo vô cùng náo nhiệt. Cho dù đây chỉ là một lễ nạp thiếp thôi, nhưng lễ thành thân của hắn lần này của hắn chẳng kém cạnh chút nào so với lần hắn lấy chính thất (Chính thất ở đây là chỉ Bàng Vũ Cầm) cả. Hoàng Thượng, Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Chu Đức Phi nương nương, Lâm Tiệp Trữ nương nương cùng với Trường Công Chúa và nhiều người khác nữa đều đem quà đến tặng cho hắn. Tống Thần Tông còn đích thân viết một bài thơ mừng cho Đỗ Văn Hạo, việc này lại làm trấn động cả Kinh Thành, Hoàng Thượng đã nể mặt Đỗ Văn Hạo như vậy rồi, ai còn dám không đến chúc mừng hắn nữa? Văn Võ bá quan trong triều bất kể lớn nhỏ ngoại trừ người nào bị bệnh không đến được, còn đâu thì đều có mặt đông đủ cả.

Bữa tiệc rượu này làm cho Đỗ Văn Hạo say đến quên cả trời đất, sau đó cái xác của hắn được mọi người khiêng hẳn vào trong căn phòng tân hôn của hắn với Lâm Thanh Đại, may mà Lâm Thanh Đại vẫn còn hạn tang không thể động phòng được, chứ với cái bộ dạng này của hắn thì e rằng chuyện động phòng là không thể làm được nữa rồi, nếu mà như vậy thì Lâm Thanh Đại quả là quá tủi thân.

Ngày hôm sau, Lâm Thanh Đại đã vấn làn tóc dài mượt của mình lên cao, nàng giờ đây đã là phu nhân thứ tư của Đỗ Văn Hạo.

Mọi người sắp phải xuất phát rồi, cả nhà đều bận rộn chuẩn bị hành lý, Đỗ Văn Hạo cũng không biết nên giúp người nhà sắp xếp ra sao nên đi ra tiền đường khám bệnh.

Mọi người đều biết Đỗ Văn Hạo sắp phải rời khỏi kinh thành ít nhất là ba năm, có mấy người vốn định kéo dài thời gi­an chữa bệnh của mình lúc này biết tin đều lần lượt kéo đất quỳ xuống van xin hắn cố gắng tận dụng thời gi­an ít ỏi hắn còn ở đây mà ra tay cứu chữa.

Tiền Bất Thu sau khi biết sư phụ Đỗ Văn Hạo của mình sắp phải đến Tứ Xuyên làm Câu Quản, thì lập tức chạy đến trước mặt Hoàng Thượng cầu xin cho mình được phép đi theo hắn vào Tứ Xuyên cùng, Tống Thần Tông tuy không muốn Tiền Bất Thu đi theo cùng hắn chút nào nhưng cũng không biết làm cách nào khác, cũng đành ân chuẩn cho ông ta đi theo Đỗ Văn Hạo.

Tiền Bất Thu để người nhà chuẩn bị hết đồ đạc cần mang theo, còn mình thì đến hẳn Ngũ Vị Đường để giúp Đỗ Văn Hạo.

Phía trước tiền đường có Hàm Đầu cùng với Diêm Diệu Thủ chẩn đoán trước, chỉ có các ca bệnh nan y khó chữa thì mới đến tay Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu ngồi ở phía sau hậu đường.

Nơi hậu đường lúc này người xếp hàng dài đông đúc, cũng may mà có thêm Tiền Bất Thu giúp đỡ chứ nếu không thì…

Một người phụ nữ trung niên vừa ngồi xuống trước mặt Đỗ Văn Hạo đã rên lên không thôi, tay đưa lên trán nói: “Đỗ Ngự Y à! Chúng tôi nghe nói ngài sắp phải rời kinh thành, nên chúng tôi mới kéo đến đây chữa bệnh đông như vậy, may mà tôi mấy ngày gần đây có đến thăm người nhà ở kinh thành nên mới biết được tin này, do vậy mới vội đến đây, ở tiền đường đồ tôn của tiên sinh nói rằng không chắc chữa được bệnh đau đầu cho tôi, bảo tôi ra ngoài này tìm tiên sinh, mong tiên sinh chữa giùm bệnh đau đầu cho tôi, nếu không tôi bị đau chết mất!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chị cứ nói chứng bệnh của chị cho ta nghe xem?”

“Đã hai năm nay rồi! Lúc đau lúc không, nhưng một khi nó phát tác thì đau lắm! Đau đến độ cứ như đầu của tôi sắp vỡ ra làm hai vậy, mắt tôi cũng bị căng cứng ra hết cả, đến tối không tài nào mà tôi có thể ngủ được gì cả!”

“Ồ vậy sao! Chị để ta thử kiểm tra mạch của chị một chút nhé!”

Sau khi chẩn mạch xong, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra mạch căng trơn, sau đó lại xem lại lưỡi thấy mặt lưỡi hồng, màng lưỡi có lớp màng màu vàng, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Chị không phải lo lắng đâu! Chỉ cần kê vài thang thuốc là khỏi thôi” Nói xong hắn liền đưa bút lên viết đơn thuốc.

Người phụ nữ trung niên thấy vậy bèn hỏi: “Đỗ Ngự Y! Bệnh của tôi rốt cuộc là bệnh gì vậy? Nó đã hành hạ tôi đau đớn suốt hai năm nay rồi, tôi đã xem qua mấy vị thầy thuốc rồi, nhưng đều không có tác dụng gì cả, tiên sinh có thể nói cho tôi hiểu rõ được không? Bây giờ tiên sinh không còn ở đây nữa rồi, về sau tôi lại bị đau thì tôi biết tìm ai mà chữa bây giờ!”

“Ha ha, được để ta nói cho chị biết, bệnh của chị chính là chứng đau đầu Can Dương, gan trong cơ thể người thông qua mắt, khi chị bị đau đầu thì mắt của chị bị căng ra, đó chính là triệu chứng của Can Dương, chỉ cần uống thuốc thanh trừ Can Dương là khỏi thôi!”

Người phụ nữ trung niên nghe xong thì cũng chẳng hiểu mô tê trời đất gì cả, vội cười cười hỏi: “Vậy làm sao mà bị đau đầu vậy? Tiên sinh nói cho tôi biết được không?”

“Được thôi!” Đỗ Văn Hạo kiên nhẫn giải thích: “Đầu là nơi tụ hội của các Dương, khí huyết của lục phủ ngũ tạng hội tụ cũng là ở đây, bất kể ngoại cảm tạo nên hay là do tạng phủ bị nội thương đều có thể làm cho đau đầu, ngoại cảm đau đầu thì thường là do bị gió, lạnh, thấp, nhiệt…Tạo ra, hơn nữa những thứ này lại rất hay hỗn tạp vào với nhau. Ngoài ra nội thương dẫn đến đau đầu thì thường là do Can Dương, Suy Thận, Khí Suy, Đờm Đục, Tụ Huyết…Tạo ra mà nên, trong đó Can Dương là chứng hay gặp nhất, do vậy cần phải hỗ phong giải khí độc, bình ổn gan là có thể trị được.”

Người phụ nữ kia nghe xong, vẻ mặt vẫn vô cùng khó hiểu, đây âu cũng là lẽ thường tình, Trung Y uyên sâu khó lường, có nhiều lý luận gắn liền với cả học thuyết của Âm Dương Ngũ Hành, rất khó để cho người bình thường có thể am hiểu được lý luận của Trung Y. Bình thường các sinh viên của trường Trung Y khi sắp tốt nghiệp mà bị hỏi các chứng bệnh biến ra sao thì cũng ù ù cạc cạc như người bình thường hết.

Đỗ Văn Hạo thấy người phụ nữ đó chẳng hiểu mô tê cái gì bèn mỉm cười nói: “Chị không hiểu cũng chẳng sao đâu, tôi kê cho chị một phương thuốc có thể trị tận gốc căn bệnh này, chị không cần lo khi tôi không còn ở đây mà khi bị đau đầu không tìm ra được ai chữa nữa cả! Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đưa bút lên kê thuốc, sau đó đưa cho người phụ nữ đó nói: “Chị bây giờ ra tiền đường mà cắt thuốc!”

Người phụ nữ kia tiếp lấy sau khi tạ ơn thì liền đứng dậy đi ra tiền đường rồi tìm đến quầy tính tiền chỗ Ngô Thông cắt thuốc.

Sau khi thuốc cắt xong xuôi đâu đấy, Ngô Thông đang định bao thuốc lại thì người phụ nữ đó lại nói: “Chờ! Chờ chút!” Sau đó chị ta liền rút trong người ra một tờ giấy đưa cho Ngô Thông nói: “Vị tiểu ca này, anh xem cho tôi xem, những thứ thuốc mà anh vừa cắt cho tôi với những thứ viết ở trên này có giống nhau không?”

Ngô Thông thấy vậy bèn tiếp lấy rồi cẩn thận dò xét từng tí một, sau đó nói: “Không sai, tất cả đều giống nhau!”

“Vậy không được rồi!” Người phụ nữ đó cầm lại đơn thuốc của mình vội vã chạy ra hậu đường tìm đến Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ Ngự Y! Ngài kê đơn thuốc cho tôi e rằng không chữa khỏi bệnh cho tôi được!”

“Sao vậy?” Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi.

Người phụ nữ đó liền moi trong người ra đơn thuốc rồi đưa cho Đỗ Văn Hạo nói: “Tiên sinh xem đi, đây là đơn thuốc mấy hôm trước tôi xem ở Huệ Nhân Đường người ta khám bệnh cho tôi rồi kê thuốc đó! Lúc nãy khi tôi đi cắt thuốc thì tôi thấy phương thuốc này trông quen quen, sau đó tôi đưa cho người cắt thuốc xem xem có giống nhau không, thì anh ta nói phương thuốc đều giống nhau cả, nhưng mà Đỗ Ngự Y tôi uống thuốc này gần nửa năm rồi đều không thấy khỏi!”

“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo tiếp lấy phương thuốc đó rồi cẩn thận xem lại, quả nhiên đúng như vậy ngay cả liều lượng cũng không hơn kém là bao, hắn thấy vậy bèn cau mày lên suy nghĩ, sau khi xem xét đi xem xét lại hắn cũng không biết vấn đề nó nằm ở chỗ nào cả.

Trong lúc không biết nên giải quyết ra sao thì Đỗ Văn Hạo trông thấy Tiền Bất Thu cũng vừa khám xong cho một người bệnh liền tiến tới hỏi ông ta: “Bất Thu! Ngươi lại đây xem dùm cho ta bệnh đau đầu của vị đại tẩu này!”

Tiền Bất Thu nghe vậy bèn gật đầu đồng ý, sau đó ông ta vuốt vuốt chòm râu của mình hỏi chứng bệnh, rồi sau khi bắt mạch xem lưỡi xong bèn xem đơn thuốc của người phụ nữ đó, ông ta im lặng một lúc lâu sau rồi mới lên tiếng: “Thanh trừ Can Dương là biện pháp trị đau đầu thông thường nhất, do vậy nếu nó không có tác dụng thì chứng tỏ rằng Quy Kinh không đúng, không phải Quyết Âm làm cho đau đầu, hoặc có lẽ do các đường kinh lạc khác làm cho bị đau đầu cũng không biết chừng, nếu đau đầu quá mức thì có lẽ là do Quy Kinh!”

Đỗ Văn Hạo đứng cạnh đó cũng gật đầu nói: “Nói đúng lắm! Phải hỏi tình hình kỹ thêm chút nữa mới được!” Thấy vậy hắn bèn quay sang người phụ nữ trung niên đó hỏi: “Chị thử kiểm tra kỹ xem chị bị đau chỗ nào nhất?” Người phụ nữ kia bèn đưa tay đưa lên đầu cảm giác, sau khi sờ đến góc lông mày thì kêu lên ối chao mộ tiếng rồi nói: “Đúng rồi! Chỗ này làm cho tôi cảm thấy đau đớn nhất!”

Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu cùng đưa mắt nhìn nhau rồi đồng thanh nói: “Túc Dương Minh Vị Kinh?”

Đường kinh lạc Túc Dương Minh Vị Kinh có đường chính là bắt đầu từ cánh mũi huyệt Nghênh Hương, sau đó theo dọc theo sống mũi hướng lên trên, hai bên cạnh gi­ao nhau tại cuối đường sống mũi rồi cùng đi vào mắt, người phụ nữ này khi đưa tay lên trán chạm vào góc lông mày thì cảm thấy đau đớn tột cùng, do vậy có thể nói rằng chị ta bị đau đầu là do Dương Minh Vị Kinh.

Đỗ Văn Hạo sau khi xem xét kỹ lưỡng xong bèn tiến đến gần người phụ nữ đó nói: “Chị ngáp một hơi thật sâu vào xem sao!”

Người phụ nữ thấy vậy bèn nghe lời Đỗ Văn Hạo ngáp một hơi thật sâu, khi chị ta vừa mở miệng ra thì có một mùi hôi nồng bốc ra, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn ngồi thẳng người ra hỏi: “Chị đại tiểu tiện ra sao?”

“Tiểu tiện thì không sao, nhưng đại tiện thì nhiều lúc đi mãi mà không ra, khi cố sức cho nó ra thì toàn là những thứ khô cứng!”

“Chị mở miệng ra, rồi thè hết lưỡi ra ngoài cho ta xem xem!”

Người phụ nữ đó làm theo hết lời của Đỗ Văn Hạo sau khi xem xét tỉ mỉ thì phát hiện ra cuống lưỡi của chị ta có màng màu vàng, lúc này hắn mới chợt hiểu ra vấn đề liền quay sang cười với Tiền Bất Thu: “Đau ở Dương Minh, Dương Minh thì lại thông qua vị, đại tiện khô cứng, Dương Minh tụ hỏa do vậy mới tạo ra chứng đau đầu! Thì ra mới đầu ta dự đoán đau đầu là do Quy Kinh mà ra quả là một sai lầm lớn!”

Tiền Bất Thu nghe xong cũng vuốt vuốt bộ râu của mình nói: “Đúng vậy! Không trừ Dương Minh mà cứ triệt Quyết Âm thảm nào trị mãi mà không khỏi được bệnh!”

Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu đồng ý, xong rồi hắn lại đưa bút lên viết đơn thuốc rồi đưa cho Tiền Bất Thu xem: “Ngươi xem phương thuốc này thế nào?”

Tiền Bất Thu cầm lên xem rồi gật đầu đáp: “Ừm! Cát Căn, Thạch Cao đều thuộc vào đặc tính của Dương Minh, lần này chắc chắn sẽ chữa khỏi bệnh được!”

Đỗ Văn Hạo cũng cảm khái nói: “Người ta thường hay nói không hiểu kinh lạc của phủ tạng thì mở miệng ra nói, đưa bút ra viết đều sai hết, hiểu nguyên lý khí hóa của kinh lạc, biết cách điều thuốc, thì có hiệu nghiệm hơn rất nhiều lần, câu nói này không sai chút nào cả. Bất Thu! Kinh nghiệm của ngươi đầy mình, nhất là đối với biện chứng kinh lạc vô cùng tài giỏi, về sau ta phải học hỏi thêm ngươi rất nhiều!”

Tiền Bất Thu nghe vậy vội chạy đến cúi người đáp: “Sư phụ nói quá rồi!”

Sau khi nhận được đơn thuốc mới, người phụ nữ trung niên đó liền dùng mấy thang, ngay sau đó đại tiện thông suốt, chứng đau đầu cũng giảm hẳn, cũng không cần phải đến phúc chẩn thêm lần nào nữa cả.

Chương 307: “Rồng đến nhà tôm”.

Gởi bởi người có lòng!

Đỗ Văn Hạo sau khi đem chuyện mình phải đến Thành Đô Phủ, Nhã Châu Lộ làm chức quan Câu Quản nói cho mấy người Bàng Vũ Cầm biết xong, thì tất cả bọn họ đều rất vui mừng. Cho dù cả nhà phải rời khỏi nơi kinh thành phồn hoa đô thị này và chuyển đến một nơi khỉ ho cò gáy tít tận biên ải xa xôi nhưng không ai cảm thấy không bằng lòng hay gì cả. Sự bình an của Đỗ Văn Hạo đối với cả nhà mới là điều quan trọng nhất, làm bạn với vua chẳng khác nào làm bạn với hổ, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ mình không biết lúc nào sẽ bị rơi đầu. Những ngày tháng như vậy mọi người trong nhà Đỗ Văn Hạo đã hết chịu nổi rồi. Chính vì vậy mà sau khi biết tin, tất cả đều vui vẻ thu dọn hành lý, rồi còn mua thêm rất nhiều đồ dùng hàng ngày khác nữa, mọi người chuẩn bị mua sắm cứ như là bọn họ sắp bị di tản đến một hoang đảo âm u vắng lặng vậy, ai nhìn thấy thứ gì cũng đều muốn mua, đều muốn mang theo, do vậy mà bây giờ trong nhà đã chật ních bao nhiêu đồ là đồ.

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng quan tâm đến bọn họ muốn sắm sửa cái gì, ai thích gì thì cứ đi mà mua, cùng lắm là lại làm thêm mấy cỗ xe ngựa vận chuyển là xong chứ có khó khăn gì đâu cơ chứ.

Việc hiện giờ mà Đỗ Văn Hạo cần phải làm vẫn còn mấy chuyện, tất cả đều có liên quan đến chuyện hắn chuyển đến Nhã Châu thi hành sách lược của mình. Việc trước mắt bây giờ của hắn là phải đi tìm Cao Kim Vĩ - một người am hiểu về lĩnh vực quân sự, bởi vì chức trách của hắn sắp làm tới đây bao gồm cả Bảo Giáp và Nghĩa Dũng, hai thứ này nói nôm na là một tổ chức dân sự và quân sự, gọi tắt là dân binh. Trong tận sâu đáy lòng của mình, Đỗ Văn Hạo có một nguyện vọng, một hoài bão là đào tạo cho Đại Tống một đạo quân tinh nhuệ, do vậy hắn phải bắt đầu từ hòn gạch xây dựng đầu tiên đó chính là dân binh. Chính vì thế hắn mới đến Binh Bộ để tìm Cao tướng quân để học hỏi.

Lần trước hắn thông qua Cao Kim Vĩ Cao tướng quân bán được một số lượng lớn thuốc phòng trừ bệnh dịch, thuốc giải độc cùng với mặt nạ phòng độc. Vụ đó hắn kiếm được rất nhiều tiền, Cao tướng quân cũng vì có mấy loại thuốc đó mà khi tây chinh đã đánh tan quân Tây Hạ, thế như trẻ tre, dốc quân thẳng đến uy hiếp trực tiếp đến tận kinh thành của Tây Hạ.

Tuy rằng sau đó bị bại trận ở Vĩnh Thành, nhưng trận đó không có liên quan gì đến các loại thiết bị mà Đỗ Văn Hạo cung cấp cả, do vậy Đỗ Văn Hạo cũng không phải vì thế mà bị liên quan đến trận chiến đó cả. Cho dù kết quả cuối cùng cũng là thua trận, nhưng do có những chiến công từ các trận chiến khác mà Cao tướng quân còn được thăng chức nữa.

Trong thời gi­an ở kinh thành cung cấp những thiết bị cần thiết cho quân đội, Đỗ Văn Hạo cũng không ít lần đem lễ vật đến dâng tặng cho Cao tướng quân, lần này đến thăm hỏi, hắn dĩ nhiên cũng đem theo một món quà đắt giá đến ra mắt, do vậy mà Cao tướng quân cũng vô cùng vui vẻ, ông ta còn ra tận cổng miệng cười hớn hở nghênh tiếp Đỗ Văn Hạo vào trong phòng khách.

Sau khi ai nấy đã an tọa đâu đấy hết cả, Đỗ Văn Hạo mới đem chuyện mình sắp phải đi Nhã Châu làm Câu Quản ra nói cho Cao tướng quân biết. Tuy là trong triều bây giờ ai cũng biết tin này rồi, vì suy cho cùng thì Đỗ Văn Hạo hiện nay đang là người được lòng Hoàng Thượng nhất, chuyện hắn bị điều sang một nơi khác dĩ nhiên thu hút rất nhiều sự chú ý của mọi người, cũng chẳng có ai cho rằng Đỗ Văn Hạo bị điều ra biên ải như vậy là một sự trừng phạt, hay cách chức cả, mà tất cả mọi người đều nhất chí cho rằng Hoàng Thượng để vị Ngự Y của mình thân chinh ra biên ải làm một chức quan nhỏ bé như vậy tuyệt đối không phải là chuyện đơn giản như bề ngoài vốn có của nó, ai cũng biết rằng đó chắc lại là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng được Đỗ Văn Hạo gánh vác, có thể đây cũng là do Hoàng Thượng muốn đào tạo Đỗ Văn Hạo trưởng thành hơn trong con đường làm quan trước mắt. Chỉ cần một ngày nào đó mãn nhiệm kỳ Đỗ Văn Hạo quay lại Kinh Thành thì lúc đó hắn sẽ thăng tiến như diều gặp gió, một bước lên mây, quan cao chức trọng khi đó chỉ là một việc quá đỗi đương nhiên.

Chính vì vậy mà Cao tướng quân cũng hiểu điều này, thế nên lúc này cũng dùng những lời có cánh để nịnh nọt Đỗ Văn Hạo, luôn miệng ca tụng hắn là một cận thần thân tín nhất của Hoàng Thượng, sau này chắc chắn sẽ thành đạt.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng dùng những lời lẽ khiêm tốn của mình mà đáp lại: “Hoàng Thượng bổ nhiệm ti chức làm Câu Quản Nhã Châu Thường Bình Thương kiêm Câu Quản Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, ti chức đối với việc quân vô cùng ngu muội, thật không biết nên bắt đầu từ đâu, chính vì vậy mới chạy đến đây để thỉnh giáo tướng quân!”

Cao tướng quân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì bất giác cảm thấy trong người vui vẻ hẳn lên: “Chúng ta đều là anh em trong một nhà cả, đừng có khách khí như vậy, Đỗ lão đệ đã yêu cầu ta như vậy thì lão ca ta làm sao có thể chối từ được cơ chứ! Ta sẽ giới thiệu cho đệ một người để người đó trợ giúp cho lão đệ, như vậy lão đệ sẽ không có vấn đề gì khó khăn nữa cả.”

“Ố? Người đó là ai vậy?” Cao tướng quân nghe vậy bèn đứng thẳng người lên nói: “Đỗ lão đệ cứ ngồi đây chờ ta một lát để ta gọi người đó ra đây, sau đó sẽ giới thiệu cho lão đệ biết sau!” Nói xong Cao tướng quân vội cho người ra hậu đường mời người đó ra ngoài nói chuyện.

Khi người đó bước ra thì Đỗ Văn Hạo thấy người này trạc tầm bốn mươi tuổi, thân hình cao lớn vạm vỡ, tuy thân hình cao to như vậy nhưng sắc mặt của người này lại vô cùng tiều tụy, tinh thần uể oải đang bước lên phía trước tiền đường cúi người thi lễ.

Cao tướng quân thấy vậy bèn nói: “Đỗ đại nhân! Vị này là người mà năm ngoái tây chinh Tây Hạ, lập được rất nhiều công trạng đại tướng quân Lý Phố! Lý Phố! Vị này là người thân tín nhất bên cạnh Hoàng Thượng, Ngự Y Đỗ Văn Hạo Đỗ đại nhân!”

Lý Phô nghe Cao tướng quân nói vậy bèn vội vã tiến lên cúi người thi lễ nói: “Lý Phố bái kiến Đỗ đại nhân!”

Cao tướng quân giới thiệu thêm: “Lý Phố là một tướng tài năm đó khi tây chinh Tây Hạ được mệnh danh là một hổ tướng, chức lên đến Phi Hổ Đại Tướng Quân, là tiên phong của cả một đạo quân dũng chiến, người này chính là người đầu tiên dốc quân uy hiếp đến tận kinh thành của Tây Hạ đó!”

Lý Phố nghe vậy thì nét mặt trở nên ngại ngùng, thấp giọng đáp: “Tướng quân bại trận! Không dám nhiều lời!”

Đỗ Văn Hạo nghe Cao tướng quân giới thiệu như vậy thì kinh ngạc vô cùng, hắn trông bộ dạng của Lý Phố bây giờ nghèo nàn lếch thếch, đâu rồi cái phong độ đại tướng một thời gào thét ra lửa, oai hùng kiêu dũng nữa chứ.

Cao tướng quân thấy dáng vẻ nghi ngờ của Đỗ Văn Hạo như không tin lời mình nói, thì thở dài ra một tiếng tiếc rẻ rồi nói: “Trước trận chiến ở Vĩnh Thành, Lý Phố rất nhiều lần đưa ra những ý kiến đúng đắn của mình đề lên cho Chủ Soái Từ Hỷ biết, nhưng mà Từ Hỷ suy cho cùng cũng chỉ là một tướng văn, không am hiểu gì về quân sự cả, cộng thêm với việc tự mãn tự kiêu, cho mình là đúng, hết lần này đến lần khác từ chối những lời kiến nghị của Lý Phố, tự theo ý mình, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, bỏ qua rất nhiều thời cơ trong chiến trận nên Đại Tống mới bị thảm bại như vậy. Sau đó Từ Hỷ không những bị chết trận mà còn làm cho Lý Phố và những người khác chịu liên lụy nữa. Sau khi Đại Tống xa lầy ở trận Vĩnh Thành thì Lý Phố cùng với Khúc Trân phải liều mình mới thoát khỏi vòng vây của quân địch. Nhưng khi bỏ về đến đây thì lại mắc vào tội thua trận, lão tướng Khúc Trân thì bị giáng chức xuống làm chức Hoàng Thành Sứ bé nhỏ, Lý Phố thì còn thê thảm hơn, không những bị đuổi ra khỏi quân đội, mà còn bị giáng chức xuống làm cai ngục của Phủ Khai Phong.”

Phi Hổ Đại Tướng Quân là một chức tương đương với đại úy của thời bây giờ, thế mà hiện nay bị giáng xuống chức cai ngục, chả trách mà trông bộ dạng Lý Phố thất vọng, u uất đến nhường vậy.

Cao tướng quân nói: “Đỗ đại nhân! Lý Phố tướng quân từ khi khổ đọc binh thư, đoạt được chức Võ Thám Hoa cho đến giờ vậy mà chỉ được làm một chức quan cai ngục quèn như vậy đúng là trong lòng rất chi thất vọng, không cam tâm, huynh ấy cũng là người cùng quê với bổn quan, hôm nay cũng vừa vặn đến đây thăm ta, cũng đúng lúc thì Đỗ đại nhân đến đặt vấn đề với ta, do vậy ta mới tiến cử Lý Phố đến để phò tá cho đại nhân, ha ha ha!” Nói xong Cao tướng quân bèn quay sang Lý Phố nói: “Lý tướng quân! Đỗ đại nhân thì chắc tướng quân cũng biết rồi đúng không! Đỗ đại nhân là người thân tín nhất của Hoàng Thượng bây giờ đó, lần này đại nhân phụng chỉ đến Thành Đô Phủ Nhã Châu Lộ Thường Bình Thương làm Câu Quản kiêm Bảo Giáp, Nghĩa Dũng, muốn tìm một người am hiểu về quân sự để giúp đỡ, bổn quan thấy tướng quân là người vô cùng thích hợp với chức vụ này nên đã mạo muội tiến cử tướng quân cho Đỗ đại nhân rồi, không biết ý của Lý tướng quân ra sao?”

Lý Phố nghe xong thì mừng rỡ vô cùng, từ khi gia nhập quân đội hai mươi năm nay, chức lên đến Phi Hổ Đại Tướng Quân, đối với những việc trong quan trường thì vô cùng am hiểu, Đỗ Văn Hạo hơn một năm gần đây danh tiếng lẫy lừng, được lòng cả Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu, Lý Phố cũng hiểu rằng nếu bản thân mình mà đi theo Đỗ Văn Hạo thì sau này chắc chắn sẽ lấy lại được danh tiếng như xưa, do vậy sau khi nghe Cao tướng quân nói xong thì ngay lập tức vén áo lên quỳ luôn xuống nói: “Mạt tướng Lý Phố nguyện sống chết phò tá giúp đỡ Đỗ đại nhân hoàn thành việc lớn!”

Đỗ Văn Hạo sau khi biết Lý Phố là một dũng tướng năm xưa từng đem quân chinh chiến đánh thẳng tới cổng kinh thành Tây Hạ, thì vô cùng khâm phục, nghe Lý Phố nguyện theo phò tá mình như vậy thì cảm thấy vui mừng vô cùng. Hoàng Thượng cũng đã nói rồi, chỉ cần hắn đến Nhã Châu thì hắn có thể tiến hành cải cách hoàn toàn theo ý tưởng của hắn, Hoàng Thượng cũng chẳng hề hạn chế hắn cải cách trong cả quân đội nữa, do vậy hắn cũng có thể cải cách quân đội theo ý hắn muốn, nhưng trong tay hắn lại không hề có một đạo quân nào cả, mà Hoàng Thượng cũng chẳng hề điều động cho hắn gì cả, chính vì thế mà có một viên tướng như Lý Phố am hiểu quân sự, thì việc cải cách quân đội đối với hắn sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn tiến lên một bước, đưa tay ra đỡ lấy Lý Phố rồi nói: “Lý tướng quân xin mời đứng dậy! Đỗ mỗ có được một vị tướng tài ba như Lý tướng quân giúp đỡ thì còn gì tốt hơn thế nữa!”

Cao tướng quân thấy vậy thì mở miệng cười ha hả, rồi phân phó người nhà bày tiệc rượu ra, ba người cùng ngồi uống rượu một cách vui vẻ sảng khoái với nhau một chập.

Sau khi tiệc rượu tàn hết, Lý Phố bèn cáo từ đi về nha môn thông báo từ chức quản ngục cho quan phủ biết, rồi sau đó lại về nhà nói với phu nhân của mình chuẩn bị hành lý cùng Đỗ Văn Hạo đi Nhã Châu.

Tại ngoại ô của kinh thành, một cỗ xe ngựa sang trọng đang đỗ bên hàng cây bạch dương thẳng tắp, trên xe lúc này hình như không có lấy một bóng người, ngựa thì nhàn nhã cột bên cạnh đó gặm cỏ một cách chậm rãi.

Lúc này, trên xe mới đung đưa bước xuống một nữ tử, tóc nàng dài vấn hẳn lên uốn lượn như những làn sóng mây trời, trên đó còn đeo một chiếc Thủy Nhai Sinh Yên Quan, khạm trổ một bông hải đường lấp lánh, hai bên buông thõng hai hàng dây tử ngọc dài đến ngang vai, ngay giữa trán thì có một miếng ngọc Loan Ngọc Nguyệt cong cong như mặt trăng lưỡi liềm, tai đeo đôi khuyên Thương Sơn Bích Ngọc, toàn thân khoác một bộ áo màu đỏ vàng xen lẫn nhau, bên hông đeo một miếng ngọc bội Cửu Khổng Linh Lung, đai lưng có gắn hai hàng ngọc trai Lưu Tô, hai tay được khoác bởi một chiếc khăn Vân Thanh Dụ Vũ dài thướt tha, trông rất hợp với bộ áo váy mà nàng đang mặc, một vẻ kiêu sa kiều diễm, lung linh ánh ngọc toát ra, trông nàng giờ đây giống như một nàng tiên giáng trần vậy.

“Tiểu Tề! Không phải là ngươi nói rằng Đỗ đại ca và Thanh Đại tỷ ở chỗ này chờ ta ư? Tại sao đến giờ này rồi mà vẫn chưa thấy hai người bọn họ đến đây gì cả vậy? Ngươi mau mau đi tìm cho ta mau lên!” Người vừa lên tiếng chính là Dụ Cáp Nhi.

Dụ Cáp Nhi đứng chờ ngay dưới hàng Bạch Dương, còn Tiểu Tề thì đang dặn dò hai viên tiểu thái giám đứng ở gần đó mau đến che nắng cho Dụ Cáp Nhi, còn mình thì đưa mắt ra đảo khắp nơi, khi ánh mắt của Tiểu Tề trông thấy từ nơi xa có hai bóng người đang tiến lại gần đây thì ngay lập tức hắn liền phóng người như bay chạy thẳng đến chỗ hai cái bóng người đó.

Quả nhiên đó chính là Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại đang tiến lại đây, hai người cùng lúc đi đến một chiếc đình được dựng ở gần đó, liền nhấc chân bước vào.

“Đỗ đại nhân, nương nương của tiểu nhân đã đến rồi!” Tiểu Tề thở không ra hơi đứng dưới cái đình nói.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mỉm cười đáp: “Ngươi mau đi mời nương nương đến đây! Ta và Thanh Đại có vài món ăn ngon chờ nương nương đến để cùng thưởng thức đây”

Tiểu Tề thấy vậy bèn tuân lệnh quay người đi mời Dụ Cáp Nhi đến đây, một lúc sau thì một bóng hồng đã bước theo Tiểu Tề tiến về phía cái đình này, bóng hồng đó dáng người thướt tha lả lướt trong gió trông bắt mắt vô cùng.

Rất nhanh Dụ Cáp Nhi đã đi đến nơi, rồi cùng Tiểu Tề bước vào trong đình.

Dụ Cáp Nhi đến hôm nay vẫn ngại không dám nhìn trực diện vào Đỗ Văn Hạo, ánh mắt của nàng giờ đây dường như lúc nào cũng muốn trốn tránh hắn, nàng miễn cưỡng tiến đến bên cạnh Lâm Thanh Đại, khi Lâm Thanh Đại định cúi người thi lễ thì Dụ Cáp Nhi đã lên tiếng căn ngăn, rồi tự thân mình bước đến đỡ lấy Thanh Đại, sau đó gọi Thanh Đại là tỷ tỷ vô cùng thân mật, xong đâu đấy rồi Dụ Cáp Nhi mới quay đầu sang Đỗ Văn Hạo mà nhạt nhẽo nói lên một câu Đỗ đại nhân. Lâm Thanh Đại thấy vậy cũng đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo, trông thấy hắn lúc này cũng đang vô cùng gượng gạo, rất mất tự nhiên. Thanh Đại thấy vậy bèn mỉm cười kéo Dụ Cáp Nhi lại đến bên Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, còn mình thì ngồi bên cạnh Dụ Cáp Nhi, sau đó đích thân rót rượu cho nàng ta rồi nâng cốc lên nói: “Nào! Nương nương! Bọn ta cũng sắp phải đi xa rồi, vì duyên số cho chúng ta gặp được nhau mà hãy cạn chén rượu này, Văn Hạo chàng cũng nâng cốc lên đi! Chúng ta cùng uống một chén rượu chia tay với nương nương nào!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng đưa tay ra nâng rượu lên, Dụ Cáp Nhi nghe Lâm Thanh Đại nói sắp đi xa thì kinh hãi đưa mắt ra nhìn vào hai người hỏi: “Tỷ tỷ! Tỷ nói sao cơ? Ai sắp đi rồi, tỷ tỷ sắp đi sao? Tỷ định đi đâu vậy?”

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn ra ý cho Đỗ Văn Hạo lên tiếng trả lời, còn mình thì nâng cốc rượu trong tay lên uống một hơi cạn sạch.

“Đúng! Đúng là như vậy! Vi thần lúc trước cứ tưởng Hoàng Thượng đã nói cho nương nương biết rồi chứ! Hoàng Thượng đã phong cho vi thần chức Câu Quản ở huyện Tứ Xuyên Nhã Châu Lộ, ba ngày sau vi thần cùng với gia quyến sẽ di dời vào trong Tứ Xuyên Thành Đô rồi! Ý của Thanh Đại là trước khi vào trong đó muốn gặp nương nương một lần cuối để nói chuyện, vi thần nghĩ vào cung gặp nương nương sẽ cảm thấy bất tiện nên mới mạo muội cho người vào nhắn cho nương nương hẹn gặp ở ngoài này!”

“Sao lại có thể như vậy được cơ chứ? Sao hôm qua Đỗ đại ca không nói cho muội biết cơ chứ? Có phải là do chuyện ân oán thù địch của muội làm cho Đỗ đại ca phải từ bỏ kinh thành mà trốn chạy vào nơi xa xôi hẻo lánh đó hay sao? Nơi đó đường xá gập ghềnh vất vả, lại là nơi rừng sâu hoang dại đại ca có biết không vậy? Để muội đi nói với Hoàng Thượng, muội không muốn báo thù nữa, muội không nghĩ ngợi lung tung nữa, chỉ cần Đỗ đại ca và mọi người không vào trong đó, muội làm gì cũng cam lòng!” Giọng nói của Dụ Cáp Nhi lúc này hiện lên vô cùng xúc động, chén rượu trong tay của nàng lúc này đã đổ hết cả xuống bàn.

“Đây không phải là lỗi của nương nương đâu, thật đó, chuyện vi thần vào Tứ Xuyên nhậm chức tuyệt đối không có liên quan gì đến nương nương cả!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đem thuật lại câu chuyện hắn cùng với Hoàng Thượng đang chuẩn bị thực hiện kế hoạch cải cách mới, mà người thực hiện lần này là hắn cho Dụ Cáp Nhi nghe.

Dụ Cáp Nhi vô cùng thất vọng, nàng lắc đầu quầy quậy, rồi đưa chén rượu lên uống cạn, sau đó đập mạnh chén rượu đó xuống mặt bàn quay sang Lâm Thanh Đại nói: “Thanh Đại tỷ! Tỷ hãy rót thêm rượu cho muội uống, hôm nay muội không say không về!”

Lâm Thanh Đại biết tâm trạng của Dụ Cáp Nhi đang bị kích động đến cực điểm, bèn lên tiếng khuyên can: “Về sau chúng ta vẫn còn cơ hội gặp mặt mà, hơn nữa nương nương cũng có thể đến Tứ Xuyên thăm bọn ta, và ngược lại bọn ta cũng có thể đến kinh thành thăm nương nương!”

“Thanh Đại tỷ đừng an ủi muội nữa, chuyến đi này không biết đến bao giờ mới gặp lại được nhau nữa rồi! Nếu Dụ Cạp Nhi vẫn còn sống đến lúc đó thì đúng là chúng ta sẽ còn có cơ hội gặp nhau, chỉ e rằng…!” Dụ Cáp Nhi nói đến đây liền nâng luôn cốc rượu trong tay mình lên uống cạn sạch, nàng không chờ cho Thanh Đại kịp rót thêm đã đưa tay cầm lấy bình rượu tự mình rót lại cho mình đầy tràn ly rượu.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cau mày nói: “Nương nương bắt buộc phải sống, không những vậy phải sống thật khỏe mạnh, vui vẻ, cho dù không phải là sống cho người khác, nhưng nương nương cũng nên sống cho gia đình mình vui lòng!”

Dụ Cáp Nhi nghe vậy thì sững người lại, nàng liền mở miệng cười hỏi: “Ý của Đỗ đại nhân nói là?”

“Nếu nương nương không ngại thì vi thận nguyện được làm đại ca của nương nương!”

Dụ Cáp Nhi nghe xong bèn ngay lập tức đổ luôn cốc rượu trong tay xuống dưới đất, nàng đứng luôn người dậy nói: “Thật chứ?”

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu rồi nở một nụ cười nói: “Đúng vậy! Nhưng giờ đây ta không còn ở bên cạnh muội mà chăm sóc cho muội được nữa rồi!”

Dụ Cáp Nhi nở một nụ cười hạnh phúc đáp: “Chỉ cần huynh chịu làm đại ca của muội, cho dù có ở chân trời góc biển đi chăng nữa, muội cũng cam long làm muội muội của huynh!” Nói xong Dụ Cáp Nhi vô cùng xúc động nắm rịt lấy bàn tay của Đỗ Văn Hạo không buông.

“Nhưng muội phải hứa với huynh một điều!” Đỗ Văn Hạo nói.

Dụ Cáp Nhi do dự đôi chút rồi cũng gật đầu đồng ý đáp: “Đỗ đại ca cứ việc nói!”

Đỗ Văn Hạo ra ý cho Dụ Cáp Nhi ngồi xuống bên cạnh mình, sau đó hắn trịnh trọng lên tiếng dạy bảo Dụ Cáp Nhi nói: “Không phải là ta sắp đi xa không còn ở gần bên muội mới mạnh mồm nhận muội làm em gái của ta, mà là ta vô cùng lo lắng cho muội, muội không phải là một người có tính hẹp hòi, có những lúc con người có thể vì một chuyện nào đó mà phải hy sinh rất nhiều thứ để đoạt được thứ mà mình mong muốn, muội lại là một người vô cùng thông minh, đạo lý đó chắc muội cũng hiểu, đó chính là có những lúc muội bỏ ra rất nhiều tâm huyết của mình, nhưng chưa chắc muội cũng thu lại kết quả như mình mong đợi được cả, thế giới này có rất nhiều thứ không công bằng như vậy, ta muốn muội phải sống, phải sống thật hạnh phúc, muội đừng vì một chuyện gì đó mà để bụng, mà suy nghĩ tổn hại tinh thần mình đến mức như vậy nữa!”

Dụ Cáp Nhi nghe xong thì cắn vào môi của mình đáp: “Muội biết ý của huynh là gì rồi, muội cũng không muốn như vậy. Bởi vì muội biết muội không thể chọi lại với bọn họ, nhưng muội lại không cam tâm một chút nào cả!”

“Vậy thế nào mới làm cho muội cảm thấy cam lòng? Diệt cỏ tận gốc, hay là để con cháu của muội với con cháu của người ta tiếp túc tiếp nối nỗi lòng hận thù của hai nhà, sau đó lại truyền từ đời này sang đời khác, rồi cứ thế mà đấu đá nhau chết đi sống lại muội mới cam lòng hay sao?” Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói.

Dụ Cáp Nhi cũng có chút sợ hãi mỗi khi trông thấy khuôn mặt của nghiêm khắc của Đỗ Văn Hạo, ánh mắt của hắn làm cho nàng không có đủ dũng cảm với tự tin để nhìn thẳng vào ánh mắt nghiêm nghị đó, do vậy Dụ Cáp Nhi lúc này chỉ còn biết cúi đầu xuống đáp: “Vậy thì ca ca của muội cứ phải chết oan uổng như vậy hay sao?”

“Vậy muội cũng muốn mình chết rồi xuống dưới suối vàng gặp lại ca ca của muội, như vậy thì ca ca của muội mới cười vui vẻ mà đến đón muội hay sao?” Đỗ Văn Hạo dường như tức giận đến độ đập bàn quát tháo.

“Vậy…Vậy thì huynh nói muội nên làm thế nào đây! Lẽ nào muội cứ phải nhẫn nhịn mãi hay sao?”

“Ta muốn muội phải từ bỏ ý định của muội đi!”

“Không thể như thế được!” Dụ Cáp Nhi hét to lên.

Lâm Thanh Đại trông thấy hai người như muốn cãi nhau to với nhau đến nơi liền vội vã chạy đến bên Dụ Cáp Nhi ôm nàng vào lòng vỗ về, rồi sau đó quay sang Đỗ Văn Hạo lườm hắn một cái, rồi lại nhẹ nhàng an ủi Dụ Cáp Nhi: “Văn Hạo cũng là muốn tốt cho muội nên mới nói như vậy, cho dù muội có được Hoàng Thượng cưng chiều đến mức nào, mạnh mẽ đến đâu, nhưng ta nghĩ đó cũng chưa chắc đã là một điều tốt, chuyện hậu cung ra sao thì ta cũng không hiểu lắm, nhưng một người con gái muốn có được sự sủng ái của Hoàng Thượng là một việc vô cùng khó khăn, hơn nữa thù hận cũng không nên kéo dài mãi đến như vậy?”

“Thanh Đại tỷ và Đỗ đại ca hãy để cho muội có một thời gi­an suy nghĩ cái đã, thật đấy! Mọi việc đến quá bất ngờ, hai người bây giờ cùng bị điều đến Tứ Xuyên cả rồi, giờ chỉ còn mỗi một mình muội ở cái kinh thành lạnh lẽo cô đơn này, muội về sau chẳng còn có ai để mà tâm sự nữa rồi, muội không ép hai người cùng phải theo muội trả thù, muội chỉ cần có một người anh trai giúp muội giải tỏa ưu phiền, cùng muội tâm sự mà thôi. Trời xanh đối với muội quả là không công bằng gì hết, đại ca của muội thì bị người ta hại chết, còn Đỗ đại ca lại bắt muội phải sống hạnh phúc, muội sống hạnh phúc làm sao được cơ chứ!” Nói đến đây thì hai mắt của Dụ Cáp Nhi ửng đỏ, đôi vai của nàng run lên nấc nghẹn.

“Muội sống hạnh phúc vui vẻ cũng chính là điều mà đại ca của muội ở dưới suối vàng mong muốn, huynh ấy chắc chắn không mong muốn muội suốt ngày phải sống trong hận thù đâu! Ta đã nói rồi, trên thế gi­an này không bao giờ có sự công bằng nào cả, muội muốn công bằng chẳng qua đó chỉ là sự công bằng cho riêng một mình muội mà thôi, vậy khi muội có được công bằng cho riêng mình rồi thì người khác liệu có thấy công bằng hay không?”

Dụ Cáp Nhi nghe xong chỉ biết im lặng không nói câu nào cả, nàng chỉ ngồi lặng thinh một chỗ uống rượu ừng ực, Lâm Thanh Đại thấy mình và Tiểu Tề cứ ngồi đây cũng cảm thấy bất tiện bèn mượn cớ dẫn Tiểu Tề ra ven hồ đi dạo, chỉ để một mình Đỗ Văn Hạo và Dụ Cáp Nhi hai người ngồi lại với nhau, như vậy cả hai sẽ nói chuyện với nhau thoải mái hơn.

Một lúc lâu sau, Dụ Cáp Nhi đã uống đến độ hai má đỏ ửng lên, hai mắt lờ đờ chớp chớp, trông có vẻ đã ngà ngà say.

“Thôi được rồi! Chúng ta đến lúc phải về rồi, ta còn phải vào trong cung nói lời tạm biệt với Thái Hoàng Thái Hậu nữa, đi thôi!” Đỗ Văn Hạo nói xong thì đứng luôn người dậy.

Dụ Cáp Nhi thân hình lảo đảo cũng đứng dậy theo Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo trông thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo như vậy bèn vội chạy đến bên cạnh đỡ lấy, còn Dụ Cáp Nhi thấy hắn đỡ nàng như vậy cũng như say như tỉnh liếc Đỗ Văn Hạo một cái, miệng mấp máy điều gì đó, nhưng lại không nói được lên lời, hai người cứ như vậy rồi rời khỏi chiếc đình.

Khi ra khỏi đình thì Đỗ Văn Hạo bèn lên tiếng gọi Lâm Thanh Đại và Tiểu Tề lại, sau đó để hai người bọn họ đến bên dìu đỡ Dụ Cáp Nhi lên xe, khi đưa Dụ Cáp Nhi đưa lên xe ngựa xong thì Lâm Thanh Đại một mình đi xe quay về Ngũ Vị Đường, còn Đỗ Văn Hạo vì thuận đường vào cung nên ngồi chung xe với Dụ Cáp Nhi.

Trong xe, Đỗ Văn Hạo ngồi ngay đối diện với Dụ Cáp Nhi, hắn trông thấy nàng ủ rũ nằm ở một góc của xe, hai mắt hờ khép, gương mặt buồn buồn, trên cả đoạn đường đi cả hai người không ai nói với ai một câu nào cả cho đến khi xe ngựa đi đến cổng của Hoàng Cung.

“Được rồi! Tiểu Tề! Ngươi mau đến dìu nương nương của ngươi về, rồi pha một chút trà giã rượu cho nàng ta uống! Ta phải quay về luôn đây kẻo người nhà ta lo lắng!” Thực ra lúc này Đỗ Văn Hạo thấy mình đã uống rượu say không muốn vào gặp Thái Hoàng Thái Hậu, vì hắn say như vậy mà đến bái kiến người ta thì vô cùng thất lễ, do vậy Đỗ Văn Hạo mới lấy cớ là người nhà lo lắng mà đi về giã rượu, mai vào bái kiến Thái Hoàng Thái Hậu cũng không muộn, nhưng Dụ Cáp Nhi nằm bên cạnh nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì choàng mắt tỉnh dậy nói: “Đỗ đại ca, có phải là trước khi huynh đi thì muội không được gặp huynh thêm một lần nữa có phải không?”

Đỗ Văn Hạo thở dài một cái, rồi ngồi xuống bên cạnh Dụ Cáp Nhi nói: “Bây giờ có rất nhiều việc đang chờ ta đi giải quyết, có lẽ chúng ta sẽ không có cơ hội gặp lại nhau nữa, muội cũng nên biết cách tự chăm sóc bản thân mình cho tốt, đừng làm điều gì dại dột!”

Dụ Cáp Nhi lúc này cũng đã mềm lòng lắm rồi, nàng nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy bèn gật đầu đáp: “Vâng! Đỗ đại ca cứ yên tâm, muội đã suy nghĩ rồi, muội đã mất đi một vị đại ca rồi, giờ đây muội không thể để Đỗ đại ca của muội phải đau lòng thất vọng về muội thêm một phút giây nào nữa, muội sẽ nghe lời khuyên của huynh, người ta không làm gì mình thì mình cũng không làm gì người ta cả, huynh yên tâm, muội sẽ không tự mình đi kiếm chuyện với bọn chúng nữa, muội sẽ nhẫn nhịn bọn chúng!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Dụ Cáp Nhi nói vậy thì đưa mắt lên ngắm nhìn nàng thật lâu, không nói câu nào cả.

Xe ngựa của Dụ Cáp Nhi lại không vào trong Hoàng Cung nữa, mà thể theo ý của Đỗ Văn Hạo, Tiểu Tề liền quất xe đi về nhà của hắn, khi xe đến trước cổng nhà thì Lâm Thanh Đại đã đứng ở cổng đỡ hắn xuống, Đỗ Văn Hạo sau khi liêu xiêu bước xuống liền dõi mắt trông theo chiếc xe đã đi xa của Dụ Cáp Nhi.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã ngà ngà say, sau khi đi vào trong đến sau cổng thì đột nhiên Ngô Thông vội vã chạy đến nói: “Tiên sinh! Hàn đại nhân đến chơi đó, ngài đợi tiên sinh đã nửa ngày rồi!”

“Hàn đại nhân?” Đỗ Văn Hạo dáng người vẫn xiêu vẹo bước tới, hai con mắt lờ đờ của hắn đưa mắt ra nhìn Lâm Thanh Đại ra vẻ không biết đó là ai cả.

“Ai da! Hàn đại nhân chính là đại tướng quân lần này tây chinh xuất quân đi đánh Thổ Phồn Hàn Tu đại nhân đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì chẳng khác nào tiếng sét đánh ngang tai của hắn, rượu trong người hắn cũng đã tỉnh hơn nửa phần, Hàn Tu là đường đường một tây chinh đại tướng quân, ngày trước cũng là người tham gia các việc quốc gia đại sự vô cùng quan trọng với Hoàng Thượng, cũng có vẻ ngang với chức “phó tể tướng” đương triều (Chức “phó tể tưởng” này ở thời đó đều xưng là Tể Chấp)! Chức này tương đương với chức phó tổng bí thư của nhà nước hiện nay (Một chức quan vô cùng to rồi đấy!) Quan phẩm lên đến chính nhị phẩm! Theo lẽ thường thì Đỗ Văn Hạo mới là người phải đến nhà ông ta mà bái kiến chứ, làm gì có chuyện để Hàn Tu một chức quan cao như vậy phải đến bái kiến hắn, hơn nữa lúc này Đỗ Văn Hạo lại có phần say rượu, nếu mà tiếp đãi Hàn Tu lúc này thì vô cùng thất lễ với người ta, nhưng chẳng lẽ lại cứ để người ta chờ mình tỉnh hẳn rượu rồi mới tiếp, như vậy lại càng không được.

Chẳng còn cách nào khác, Đỗ Văn Hạo được Lâm Thanh Đại dìu cho đỡ chân nọ đá chân kia bước vào trong phòng, khi đến phòng khách thì trông thấy trong đó lúc này đã có một người lớn tuổi, râu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn đang ngồi ở đó, ông ta dường như đang cúi đầu xuống không biết là đang suy nghĩ điều gì nữa!

Ngô Thông thấy vậy bèn nhanh nhảu chạy đến giới thiệu: “Hàn lão gia! Đây chính là thiếu gia của bọn tiểu nhân đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo từ trước đến giờ chưa từng gặp Hàn Tu một lần nào cả, nên sau khi nghe Ngô Thông giới thiệu xong đang định cúi người thi lễ thì Hàn Tu tuy tuổi đã già nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhẹn cướp lấy tiên cơ chắp tay thi lễ với hắn trước: “Lão phu Hàn Tu bái kiến Đỗ Ngự Y!”

Đỗ Văn Hạo trông thấy ông ta có thái độ như vậy thì thất kinh, vội vã chắp tay cung kính đáp: “Hàn đại nhân! Đại nhân làm như vậy thì ti chức tổn thọ mất! Ti chức không dám! Ti chức không biết đại nhân đại giá đến đây, nên vẫn có hẹn uống rượu bên ngoài, giờ mới về đến nhà, thật là thất lễ với đại nhân quá, mong đại nhân thứ lỗi cho ti chức!”

Hàn Tu nghe vậy thì cười lên ha hả nói: “Vân Phàm huynh khách khí quá, lão phu sau khi biết mình được làm việc với Vân Phàm huynh thì lấy làm vinh hạnh vô cùng, do vậy mới mạo muội đích thân đến đây bái kiến!”

Người Trung Quốc ngày xưa khi đến tuổi trưởng thành thì đều phải lấy một cái tên tự, Đỗ Văn Hạo là người hiện đại xuyên thời gi­an bay về quá khứ nên hắn không có tên tự như người thời cổ, nhưng sau khi quen biết Lâm Tiệp Trữ thì được nàng đặt cho một tên tự là Vân Phàm, có nghĩa là: Dương cánh buồm lớn trên đại dương bao la rộng lớn! Sau đó hắn cũng đã đem tên tự của mình bẩm báo lên cho Bộ Lại biết, chính vì vậy mà cả triều đình trên dưới đều biết đến tên tự của hắn, người Trung Quốc khi xưa gọi tên tự với nhau là thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau, cũng là phép lịch sự trong khi gi­ao tiếp, mà đã cùng làm quan trong triều đình, cùng là đồng liêu với nhau nên không có phân biệt tuổi tác, chính vì thế mà không được gọi là anh, em, chú, bác thậm chí đến cả hiền điệt hay lão đệ đều không được phép tùy tiện xưng hô, tất cả mọi người đều phải gọi tên tự của người đối thoại để thể hiện sự tôn trọng, cái này cũng giống với thời cách mạng, mọi người hay gọi nhau là “đồng chí”.

(Thực ra thì cách xưng hô “đại nhân” với nhau, thì đến thời nhà Thanh mới thực sự trở nên thịnh hành, đời nhà Tống dường như không có cách xưng hô này với nhau, cùng lắm thì chỉ gọi chức quan của đối phương mà thôi, cũng giống như nhà thư pháp vĩ đại nhất của Trung Quốc là Vương Hi Chi làm quan thời Đông Tấn lên đến chức Hữu Tướng Quân, chính vì thế mà mọi người hay gọi ông là Vương Tướng Quân, cách xưng hô này còn lưu giữ được đến thời hiện đại ngày nay. Đỗ Phủ từng làm quan đến chức Tả Thập Di, sau đó được mọi người gọi là Đỗ Thập Di, về sau ông lại nhậm chức Kim Hiệu Công Bộ Viên Ngoại Lang, mọi người lại gọi ông là Đỗ Công Lang. Tô Thức đời Tống thì từng làm chức Minh Điện Hàn Lâm Học Sĩ, nên mọi người gọi Tô Thức là Tô Học Sĩ. Nhưng vì để độc giả cảm thấy dễ hiểu hơn, ăn nhập câu truyện hơn nên dịch giả mới để đại từ nhân xưng là “đại nhân” cho tiện, mong các vị độc giả thông cảm, vì tiếng Việt chúng ta phiên dịch đại từ nhân xưng đòi hỏi vô cùng kín kẽ, không như tiếng trung chỉ cần “tôi”, “anh” là dùng hết được cho các ngôi nhân xưng trong truyện, nếu dịch giả cũng làm như vậy sẽ không phù hợp với tiếng Việt cũng như văn hóa Việt của mình.)

Hàn Tu tự là Tử Hoa, điều này thì Đỗ Văn Hạo cũng biết, từ khi Lâm Tiệp Trữ nói cho hắn biết việc quan trọng của tên tự trong xã hội đời Tống thì hắn rất chú ý đến nó, đặc biệt là người nào hay xưng tên tự với mình thì càng nên để ý, nếu mà đối phương biết tên tự của mình mà mình lại không biết tên tự của người ta, thì đúng là một chuyện vô cùng xấu hổ và mất mặt. Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo đã lên hẳn Bộ Lại của triều đình mà điều tra tên tự của các quan lại trong triều, nhất là nên ghi nhớ tên tự, ngoại hiệu của những nhân vật quan trọng trong triều, như vậy chỉ có lợi cho hắn mà thôi. Hàn Tu giờ đây cũng đã hơn sáu mươi tuổi rồi, tóc đã bạc trắng, ăn nói trịnh trọng, vậy nên Đỗ Văn Hạo lúc này cảm thấy xưng hô tên tự của ông ta là Tử Hoa mà cứ cảm thấy nghẹn giọng lại không thốt ra lời, vì thế nên hắn gọi luôn quan chức của ông ta ra cho nó nhẹ nhõm.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn chắp tay nói: “Hàn Tể Chấp quá khách khí rồi, Tể Chấp hôm nay đến đây chẳng khác nào rồng đến nhà tôm, ti chức lấy làm vinh hạnh vô cùng! Không biết hôm nay Tể Chấp đến đây có điều chi dậy bảo vậy?”

Hàn Tu nghe vậy bèn cúi người đáp: “Vân Phàm huynh khách khí quá rồi, nếu như Vân Phàm huynh không chê bai thì xin gọi lão phu là Tử Hoa được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng rỡ, vội chắp tay nói: “Vâng! Tử Hoa huynh!”

Hàn Tu thấy vậy liền mỉm cười đứng dậy, sau đó cúi người một cái thật lâu: “Lão phu đợt này đến đây là là để đội ơn ân đức cất nhắc của Vân Phàm huynh!” Đỗ Văn Hạo nghe xong thì cả kinh, nhưng trông bộ dạng của Hàn Tu vẫn cứ đứng đó mà thi lễ, không thấy ông ta đứng dậy gì cả, bèn vội vã chạy đến đưa tay ra đỡ lấy nói: “Tể Chấp, à không! Tử Hoa huynh quá lời rồi! Văn Hạo làm sao có phúc có đức để làm ân nghĩa cho cho Tử Hoa huynh cơ chứ?”

Hàn Tu lúc này mới chịu đứng dậy, hai mắt của ông ta lúc này đã nhạt nhòa nói: “Vân Phàm huynh, cái chức Tể Chấp của ta cũng đã bị bãi chức được mười năm nay rồi, lão phu từ Chi Phủ cứ thế xuống dần xuống dần đến chức Chi Châu huyện, rồi đến Đại Danh Phủ, đến năm đầu của năm Nguyên Phong (Nguyên Phong là niên hiệu của Tống Thần Tông) thì là Chi Sự ở Định Châu, thật là đáng hổ thẹn vô cùng, nếu không có Vân Phàm huynh trước mặt Hoàng Thượng nói khéo cho lão phu, rồi cất nhắc lão phu lên, thì lão phu giờ đây chắc vẫn lọ mọ ở cái nơi không ai biết tới đấy cả, giờ đây lão phu lại có cơ hội lấy lại danh tiếng khi xưa rồi! Thật đa tạ Vân Phàm huynh vô cùng!”

Đỗ Văn Hạo giờ mới hiểu tại sao Hàn Tu lại thi lễ với mình như vậy, ông ta làm quan mười năm nay cũng gặp không ít vận đen đủi, từ một người làm chức phó tổng bí thư cả nước vậy mà sau đó bị giáng chức thị trưởng thành phố (đoạn này tác giả lấy luôn chức vụ của thời hiện đại ra nói cho độc giả dễ bề liên tưởng, chính vì thế nên dịch giả cũng dịch theo mạch của tác giả.) Đây cũng là một bước thụt lùi lớn trên con đường làm ăn chính trị của Hàn Tu. Nhưng mà hắn không biết mình đã làm gì đâu mà ông ta bảo tạ ơn mình đã cất nhắc ông ta nhỉ? Suy nghĩ một lúc hắn vẫn không hiểu, bèn đứng dậy mỉm cười nói: “Tử Hoa huynh có lẽ nhầm rồi, Văn Hạo đâu có tư cách mà đòi cất nhắc Tử Hoa huynh! Thật không dám nhận những lời tạ ơn của lão huynh!”

Chương 308: Tình này không thể nhạt phai.

Gởi bởi người có lòng!

Hàn Tu nghe vậy thì liền đưa vạt áo lên lau lau hai hàng nước mắt của mình, hiển nhiên tâm trạng của ông ta lúc này đang vô cùng xúc động, giọng nói có phần nấc nghẹn của ông lại cất lên: “Vân Phàm huynh đừng khách khí với lão phu như vậy nữa! Hoàng Thượng đã đem hết mọi chuyện ra nói cho ta biết rồi, nếu như không có Vân Phàm huynh nói giúp cho ta, hết mực tiến cử ta làm Nguyên Soái ở trước mặt của Hoàng Thượng thì ta làm sao được làm lên chức đại tướng quân tây chinh lần này, không những vậy Vân Phàm huynh còn bảo lãnh cho lão phu kiêm chức Đề Cử ở Thành Đô Phủ Lộ cai quản Thường Bình Ti, thật không biết lấy lời gì để nói lên sự xúc động của lão phu lúc này, nếu không có sự giúp đỡ của Vân Phàm huynh thì không biết lúc này lão phu vẫn còn chết dí ở cái nơi Định Châu kia kìa!”

Thì ra sau khi Tống Thần Tông ủy nhiệm Hàn Tu làm Tây Chinh Đại Tướng Quân, lại bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo nhiệm chức Câu Quản Nhã Châu, trong mắt của Tống Thần Tông thì công việc cải cách của Đỗ Văn Hạo ở Nhã Châu quan trọng hơn rất nhiều việc Hàn Tu đi trừng phạt bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn, suy cho cùng thì đối phó với bộ lạc Thổ Phồn nhỏ bé chẳng là cái gì đối với Tống Thần Tông cả, điều mà Tống Thần Tông mong muốn đó chính là thành quả cải cách của Đỗ Văn Hạo đem lại hiệu quả ra sao, Tống Thần Tông đối với những nguy hại tích tụ trong lòng Đại Tống lúc này đã không thể ngồi yên được nữa rồi, còn những biến pháp của Vương An Thạch thì Đỗ Văn Hạo lại không chấp nhận, nhưng không cải cách không được, hiện nay Tống Thần Tông đem hết tất cả hy vọng của mình đặt lên đôi vai của Đỗ Văn Hạo, xem hắn cải cách vùng biên cương đó thu lại kết quả tốt hay không? Chính vì vậy mà Tống Thần Tông mới cho gọi Hàn Tu đến rồi cố ý tiết lộ nguyên do đề bạt ông ta lên chức Tây Chinh Đại Tướng Quân, cũng thêm mắm dặm muối vào bảo là do Đỗ Văn Hạo tiến cử bảo lãnh cho ông ta nhậm chức Đề Cử Thành Đô Phủ Thường Bình Ti.

Đề Cử Thành Đô Phủ Thường Bình Ti là người lãnh đạo cao nhất của Thành Đô Phủ, chuyên phụ trách toàn bộ các lộ phủ Thường Bình Thương, Đỗ Văn Hạo làm chức Câu Quản Nhã Châu thực chất cũng là thuộc hạ của ông ta, nhưng sau khi được Tống Thần Tông nhắc nhở, thì ngài thượng cấp Hàn Tu lại ngay lập tức chạy đến nhà của thuộc hạ của mình để bái kiến tạ ơn, ông ta cứ nghĩ rằng quan chức mà ông hiện giờ có được đều là nhờ công lao của Đỗ Văn Hạo đã tiến cử bảo lãnh cho ông ta trước mặt Hoàng Thượng mà thành.

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên không thể biết được chuyện Tống Thân Tông nói như vậy với Hàn Tu, nhưng trong lúc trò chuyện, thì chỉ sau một hai câu thôi hắn cũng đoán ra được đại khái sự việc rồi, nên cũng hiểu được dụng ý của Tống Thần Tông dành cho mình. Một điều hiển nhiên cho thấy, Tống Thần Tông làm như vậy là tạo điều kiện môi trường thuận lợi nhất có thể cho hắn mặc sức biến pháp ở Nhã Châu. Tống Thần Tông biết Hàn Tu vốn là người cũ của Vương An Thạch, là một nguồn lực vô cùng đáng kể trong kế hoạch biến pháp của ông ta, nhưng sau khi Vương An Thạch bãi quan về quê thì Hàn Tu cũng bị cách chức đầy đi nơi khác làm quan. Chính vì vậy mà bây giờ Tống Thần Tông mới sắp xếp cho Hàn Tu phải mang ơn Đỗ Văn Hạo, như vậy thì ông ta mới toàn tâm toàn ý mà ủng hộ Đỗ Văn Hạo thực hiện cải cách biến pháp của hắn một cách thoải mái nhất, bởi vì khi Hàn Tu đã vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo rồi, thì dĩ nhiên sẽ không có ý muốn ra mặt cản trở hắn. Điểm này thì có lẽ Tống Thần Tông cũng đã nói rõ hoặc ám chỉ cho Hàn Tu hiểu rồi.

Quả nhiên, sau khi Hàn Tu lau xong nước mắt bèn đứng dậy nói: “Vân Phàm huynh, Thánh Thượng đã nói rồi, huynh sẽ thực hiện biến pháp cải cách tại Nhã Châu, và lão phu phải toàn tâm toàn ý ủng hộ và giúp đỡ huynh, lão phu biết lão phu sẽ phải là một hậu thuẫn vô cùng vững chắc cho huynh, bảo đảm cho các biến pháp có được sự ủng hộ và an toàn tuyệt đối, quyết không để ai được can thiệp vào cả!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì vô cùng mừng rỡ, hắn cũng đứng dậy ôm quyền đáp lại: “Nếu được như vậy thì thật đa tạ Tử Hoa huynh nhiều lắm!” Trong lòng của Đỗ Văn Hạo lúc này thì luôn miệng khen Tống Thần Tông quả là anh minh, tất cả những việc cần giải quyết đều nghĩ thay cho hắn hết cả rồi, nghĩ vậy hắn càng quyết tâm phải cải cách cho ra trò, không được để Hoàng Thượng phải thất vọng. Nghĩ rồi Đỗ Văn Hạo lại lên tiếng hỏi Hàn Tu: “Tử Hoa huynh đã chuẩn bị xong xuôi hết cả chưa? Chúng ta bao giờ xuất phát vậy?”

Hàn Tu đáp: “Hoàng Thượng nói rằng hai ngày sau chúng ta sẽ xuất phát, tình hình quân sự bây giờ vô cùng khẩn cấp, chúng ta phải đi ngày đi đêm để đến Thành Đô Phủ càng sớm càng tốt, Vân Phàm huynh còn đem theo gia quyến như vậy, thiết nghĩ cũng không cần phải theo luôn cả đại quân đi cùng một lúc đâu! Như vậy mọi người trong nhà của huynh sẽ vô cùng mệt mỏi! Dù sao thì đại quân đến trước cũng phải thu phục lại Nhã Châu trước cái đã, sau khi quét dọn sạch sẽ tàn binh ở đây, lão phu còn phải chỉnh đốn khôi phục lại trật tự của nơi này, đưa dân chạy nạn quay lại nhà của bọn họ đoàn viên, để hoàn tất việc này thì cần thời gi­an ít nhất là một tháng, do vậy đại nhân cứ từ từ đi theo sau cũng không sao, chỉ cần đến khi trật tự được lập lại tại Nhã Châu, đại nhân cũng kịp đến là được rồi, dù sao thì đến sớm cũng phải đợi mà!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy mỉm cười đáp: “Như vậy thì tốt quá rồi, nhưng mà Hoàng Thượng cũng đã hạ chỉ bảo ti chức đi theo quân đội rồi!”

“Chính vì vậy mà ngày mai khi chúng ta rời khỏi kinh thành lên đường đi Thành Đô sẽ phân ra làm hai hướng, ta sẽ đi trước còn Vân Phàm huynh đi sau. Hoàng Thượng đâu có bảo rằng chúng ta không được phép tách nhau ra mà đi đâu! Nếu đi như vậy thì gia quyến của Vân Phàm huynh cũng sẽ không vì đường xá xa xôi mà cảm thấy mệt mỏi gì nữa!”

“Ồ! Tử Hoa huynh suy nghĩ thật là chu đáo, đa tạ!”

Hàn Tu nghe vậy bèn vuốt vuốt bộ râu hoa râm của mình ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói tiếp: “Giờ đây cả nhà của Vân Phàm huynh đều tây tiến hết cả, cũng chẳng có thân binh tùy thân mà bảo vệ, đường đi đến Thành Đô cũng gập ghềnh trắc trở, cướp bóc thế nào thì không ai biết trước được điều gì cả, chuyện an toàn là điều vô cùng quan trọng, thế này vậy! Lão phu sẽ để lại năm ngàn quân cấm vệ lại đằng sau cho Vân Phàm huynh thống lĩnh, còn lão phu sẽ dẫn đại quân còn lại đi trước càn quét lũ giặc ở phía trước dọn đường sẵn cho Vân Phàm huynh!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn hỏi: “Như vậy có được không?”

“Không thành vấn đề! Nhân số của cả bộ lạc Tây Sơn của nước Thổ Phồn bao gồm tất cả già, trẻ, trai, gái cũng không đến năm vạn người, trai tráng trong bộ lạc tính ra nhiều nhất cũng chỉ tầm một hai vạn là cùng, hơn nữa bọn chúng cũng chỉ là một bọn ô hợp không phải là tinh binh gì cả. Ta thống lĩnh ba vạn năm ngàn quân còn lại đều có trang bị vũ khí tinh nhuệ, vì thế mà việc đối phó với bọn Tây Sơn này quá dư sức, bọn chúng so với đại quân này của ta chẳng khác nào lấy trứng chọi với đá cả, xin Vân Phàm huynh cứ an tâm! Chuyện bình định Nhã Châu chẳng qua là vấn đề thời gi­an, hơn nữa việc quân luôn luôn phải để lại một đạo quân dự bị ở phía sau, nếu không phải gặp lúc bất trắc cần dùng đến thì đạo quân đó cũng không cần phải tham chiến, chính vì vậy đạo quân mà Vân Phàm huynh thống lĩnh vừa có nhiệm vụ làm quân dự bị, vừa bảo vệ gia quyến cho huynh, sắp xếp như thế cũng là thỏa đáng!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng thầm trong lòng, nhưng ngoài miệng hắn vẫn nói thêm vài câu khiêm tốn, sau đó Hàn Tu lại ra sức khuyên can, cuối cùng Đỗ Văn Hạo làm ra vẻ miễn cưỡng chấp nhận, thế là bây giờ hắn đã có trong tay năm ngàn quân.

Sau khi tiễn Hàn Tu ra về, Đỗ Văn Hạo cảm thấy vui vẻ hơn bao giờ hết, hắn lại gọi Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, Lâm Thanh Đại đến, cả nhà mở một hội tiệc rượu vui mừng uống đến say mềm.

Sáng sớm tinh mơ ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đã thức dậy rồi, đây là ngày cuối cùng của hắn ở kinh thành, những người cần phải bái biệt thì hắn phải nhanh chóng hoàn tất trong hôm nay, người đầu tiên mà hắn phải nói lời tạm biệt dĩ nhiên chính là Thái Hoàng Thái Hậu rồi!

Sau khi chuẩn bị xong, Đỗ Văn Hạo liền lên kiệu đi vào trong cung hướng thẳng đến tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu mà tiến, hắn cứ mải mê vừa đi vừa suy nghĩ nên khi đến cổng tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu rồi cũng không để ý thấy Tiêu công công cũng đang đi tới.

Tiêu công công tay cầm phất trần, tà áo phất phơ bay trong gió, trông thấy Đỗ Văn Hạo cứ cắm đầu cắm cổ mà đi như đang suy nghĩ việc gì đó bèn tiến đến gần hắn, rồi nheo mắt cười chờ đợi hắn bước tới, đột nhiên kêu lên một tiếng: “Đỗ đại nhân đang suy nghĩ cái gì vậy?”

Tiếng hét đột ngột của Tiêu công công rất to, làm cho Đỗ Văn Hạo cũng phải giật mình bừng tỉnh, sau đó hắn ngẩng đầu lên thấy người vừa hỏi mình là Tiêu công công bèn mỉm cười bước tới nói: “Tiêu công công, công công đứng ở trước cổng cung làm gì vậy? Công công làm cho ta giật mình như vậy thật không hay chút nào cả, Ha ha ha!”

Tiêu công công cũng mỉm cười đáp lại: “Tại lão nô thấy đại nhân dường như đang có tâm sự gì đó nên mới lên tiếng hỏi đại nhân vậy thôi, đại nhân có việc gì khó xử cứ nói cho lão nô biết, có lẽ lão nô sẽ giúp được gì cho đại nhân chăng?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nhoẻn miệng cười rồi đưa tay ra vỗ vỗ lên vai của Tiêu công công nói: “Tiêu công công thật là hiểu ta quá! Có lẽ Tiêu công công giúp được ta thật đó, nhưng e rằng vấn đề của ta lại làm công công mất thời gi­an thôi, hơn nữa việc này cũng không dám làm phiền công công, ta có thể tự mình giải quyết được. Hôm nay vào đây cũng là vì ta sắp phải rời xa kinh thành rồi muốn gặp Thái Hoàng Thái Hậu để nói lời từ biệt!”

Tiêu công công nghe vậy cũng gật đầu đồng ý, rồi ông ta lại đưa tay cúi người xuống nói tiếp: “Đỗ đại nhân giờ đây gặp nhiều chuyện vui nên trông thần thái cũng sáng ngời, sảng khoái hẳn lên! Đúng rồi! Lão nô vẫn chưa kịp đến để chúc mừng Đỗ đại nhân! Đỗ đại nhân cùng Hoàng Thượng đi vi hành khảo sát tình hình dân chúng, lại có một chuyến thăm quan phong cảnh hữu tình cùng với mỹ nhân của mình, chả trách khi về đã có tin vui rồi!” Tiêu công công nở một nụ cười đầy hàm ý.

“Ha ha ha! Đây có lẽ là hồng phúc của ta!” Đỗ Văn Hạo cười đáp.

“Mỹ nhân thì không chỉ dùng để nhìn mà thôi, nếu đã thích rồi thì hãy lấy người ta về làm thê thiếp, Đỗ đại nhân nên biết rằng mỹ nhân chỉ khi nào trở thành của mình rồi thì mới an toàn được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đưa tay đẩn đẩn Tiêu công công một cái rồi cười lớn: “Tiêu công công! Thật không ngờ Tiêu công công đến cả đạo lý này cũng…Ha ha ha!”

Tiêu công công cũng cười lớn lên đáp: “Lão nô thì đúng là chỉ có thể ngắm được mà thôi! Ha ha ha!”

Hai người cùng mỉm cười vui vẻ bước vào trong tẩm cung, Đỗ Văn Hạo lúc này bỗng nhiên ngửi thấy một mùi vô cùng khó ngửi thì biết ngay rằng Thái Hoàng Thái Hậu đang chuẩn bị bón phân cho vườn hoa của mình.

Tiêu công công thấy vậy bèn tiến lên phía trước thấp giọng nói: “Thái Hoàng Thái Hậu lại sắp sửa mở thêm một vườn trồng rau bên cạnh vườn hoa mới nữa, hiện giờ Thái Hoàng Thái Hậu đang rất vui vẻ, nên đã trồng một số loại rau theo mùa, hôm qua mới bón phân cho bọn chúng, chính vì vậy mà bây giờ Đỗ đại nhân mới ngửi thấy một mùi khó chịu như vậy đấy!”

“Ồ, thảo nào! Thái Hoàng Thái Hậu không ngờ vẫn còn chăm chỉ cần cù đến như vậy, ăn rau của chính mình trồng hẳn sẽ ngon hơn bình thường rất nhiều!”

“Đúng vậy đó! Thái Hoàng Thái Hậu cũng nói như vậy, đi thôi! Lúc này mà chúng ta trực tiếp đến vườn rau thì chắc Thái Hoàng Thái Hậu cũng vẫn đang ngồi trong đó cũng nên!” Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn gật đầu, bước chân nối gót đi theo sau Tiêu công công đến một mảnh đất khá rộng nằm ngay bên cạnh hoa viên của Thái Hoàng Thái Hậu, nơi này đang đang phủ lên mình một màu xanh ngọc biêng biếc, những khóm rau đang mọc lên rất bắt mắt, nhưng mùi thì lại có phần hơi bị nặng, có lẽ do mới bón phân nên mùi mới nồng lên như vậy.

Đỗ Văn Hạo dõi mắt nhìn quanh thì trông thấy Thái Hoàng Thái Hậu bận một bộ đồ ngắn, ống quần vắn lên đến tận đầu gối, đầu đội một chiếc nón lá viền xanh, tay cầm một chiếc cuốc nhỏ, chiếc cuốc này so với những chiếc cuốc thông thường của nông dân thì nó nhỏ gọn, tinh xảo hơn rất nhiều. Thái Hoàng Thái Hậu vẫn mải mê cặm cụi vừa cuốc vừa nói điều gì đó với bọn thái giám và cung nữ đang đứng ở bên cạnh đó, tất cả bọn chúng đều đứng thẳng người không ai dám bịt mũi lại cả, lại còn không ngừng gật đầu nghe lời dặn dò, dạy bảo của Thái Hoàng Thái Hậu nữa chứ.

“Bẩm Thái Hoàng Thái Hậu! Đỗ đại nhân đến rồi ạ!” Tiêu công công vội vã tiến lên phía trước lên tiếng nói.

Đỗ Văn Hạo cũng vội vã nối gót theo Tiêu công công bước đến cúi người thi lễ.

Thái Hoàng Thái Hậu nghe thấy tiếng của Tiêu công công bèn ngẩng đầu lên nhìn, quả nhiên trông thấy Đỗ Văn Hạo đang cúi người thi lễ với mình, bèn đưa tay lên vẫy vẫy ra hiệu cho hắn đi lại chỗ của mình. Đỗ Văn Hạo trông thấy bèn vén áo bước qua con mương rồi tiến đến bên Thái Hoàng Thái Hậu.

Thái Hoàng Thái Hậu cười híp mắt lại nhìn Đỗ Văn Hạo một cái rồi nói: “Đến đây để nhìn lão tổ tông (Thái Hoàng Thái Hậu giờ đây thi thoảng cũng hay tự xưng với Đỗ Văn Hạo và mấy người khác là lão tổ tông, vì như vậy sẽ tạo cảm giác thân thiện hơn) lần cuối?”

Đỗ Văn Hạo cũng vội vã tiến đến đáp: “Sao lão tổ tông lại nói như vậy? Trông sức khỏe của người vẫn còn tốt lắm, nhất định sẽ sống đến muôn tuổi!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì bật cười sảng khoái nói: “Ta sống lâu như vậy thì ăn hết của cả con cháu à! Ngươi vẫn còn nhớ đến chuyện từ biệt ta trước khi lên đường như vậy, Ai Gia cảm thấy vô cùng vui mừng, ngươi đã chuẩn bị xong hết cả chưa? Ngươi cần gì cứ nói, đừng có đến lúc đi rồi mới lại cảm thấy hối hận! Ha ha ha!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng mỉm cười tán đồng, lúc này hắn trông thấy trên trán của Thái Hoàng Thái Hậu lấm tấm mồ hôi bèn ra ý bảo cho đứa thái giám đứng gần đó cầm lấy cái khăn đến đưa cho hắn, rồi tự mình cung kính dâng lên cho Thái Hoàng Thái Hậu.

Nhưng không ngờ Thái Hoàng Thái Hậu cũng chẳng buồn tiếp lấy khăn trên tay của hắn, mà mỉm cười đưa trán ra trước mặt của Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi lau hộ Ai Gia được không? Tay của ta đang bẩn lắm!”

Đỗ Văn Hạo sửng sốt chẳng biết nên xử lý ra sao cả, Tiêu công công đứng bên cạnh thấy vậy bèn vội vã lấy ngón tay của mình ra chọc chọc vào lưng của Đỗ Văn Hạo, lúc này hắn mới sực tỉnh là mình lên làm gì. Đỗ Văn Hạo sau khi hiểu ý bèn cẩn thận đưa khăn lên lau những giọt mồ hôi trên trán của Thái Hoàng Thái Hậu.

Đỗ Văn Hạo sau khi lau xong bèn đưa khăn lại cho viên thái giám đứng bên cạnh, rồi dìu đỡ Thái Hoàng Thái Hậu: “Lão tổ tông! Lão tổ tông phải nhớ hai mùa xuân, thu phải uống thuốc mà vi thần đã chuẩn bị sẵn cho lão tổ tông đấy! Lão tổ tông cũng đừng bỏ dở giữa chừng không uống, như vậy không có lợi cho sức khỏe của người chút nào cả!”

“Ngươi cái gì cũng tốt! Chỉ mỗi tội là lắm điều quá!” Thái Hoàng Thái Hậu làm bộ ra vẻ nghiêm nghị quở trách Đỗ Văn Hạo.

Tiêu công công đứng bên cạnh bèn mỉm cười chen vào: “Lão tổ tông! Lão tổ tông cứ chê Đỗ đại nhân lắm chuyện, giờ thì Đỗ đại nhân sắp phải đi xa rồi, đến lúc đó muốn nghe đại nhân lắm chuyện cũng khó rồi!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy bèn phì cười, rồi ra ý bảo mọi người tìm một chỗ thoáng mát ngồi nói chuyện tiếp.

Mấy người sau khi đi đến một cái đình thoáng mát tránh nắng bèn ngồi xuống, mấy đứa cung nữ bèn vội vã đi lấy nước pha trà, Thái Hoàng Thái Hậu nói: “Nói thật ra là trong cái Thái Y Viện này có hàng trăm Thái Y nhưng ta lại chỉ tin mỗi mình ngươi thôi, ngươi bây giờ đi rồi thì Ai Gia tìm ai mà xem bệnh cho Ai Gia bây giờ?”

Đỗ Văn Hạo sau khi rót cho Thái Hoàng Thái Hậu một tách trà xong bèn nói: “Sức khỏe của lão tổ tông vẫn còn mạnh khỏe lắm, thường ngày lão tổ tông cũng nên chú ý đừng để bị nhiễm lạnh, cũng chú ý không ăn uống lung tung là được, nếu giữ được như vậy thì lão tổ tông chẳng cần khám bệnh nữa đâu! Nếu có lúc nào đó cảm thấy nhớ vi thần thì viết cho vi thần một bức thư, vi thần nhận được sẽ không quản ngày đêm để kịp về đây thăm lão tổ tông!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong thì thở dài một cái, rồi nắm chặt lấy tay của Đỗ Văn Hạo, nhìn hắn với con mắt trìu mến tràn đầy tình thương nói: “Đợt đi này đường xá xa xôi, ngươi lại còn đem theo gia quyến nữa, ngươi cũng mệt lắm. Ở đó ngươi cũng không có kinh nghiệm làm quan, phàm chuyện gì ngươi cũng nên cẩn thận xử lý, Hoàng Thượng xem trọng ngươi, để ngươi đi đến một nơi quan trọng như Nhã Châu nhậm chức, Ai Gia cũng không thể nào vì yêu mến ngươi mà không buông tha cho ngươi đi được, ngươi đến đó trăm sự đều phải hết sức cẩn thận!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cảm kích tột độ, bà lão trước mặt hắn giờ đây tóc đã bắt đầu bạc dần, hắn có cảm giác bà lão này không còn là một người bình thường nữa, trong mắt hắn bây giờ vị trí của Thái Hoàng Thái Hậu không còn là một người cao cao tại thượng mà là một người thân thiết nhân từ, Hoàng Thượng trước mặt bà lão còn phải nể sợ, cung kính ba phần, nhưng trước mặt hắn Thái Hoàng Thái Hậu lại cho hắn một cảm giác bà là một bà lão nhân từ, hiền hậu, một người đáng kính, đáng nể. Thái Hoàng Thái Hậu không nỡ rời xa hắn là sự thật, bởi hắn cũng không nỡ rời xa Thái Hoàng Thái Hậu: “Lão tổ tông cứ an tâm! Vi thần mỗi năm sẽ về thăm người một lần, nhân tiện đem những giống hoa lạ ở Tứ Xuyên về cho lão tổ tông gieo trồng!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong liền vỗ lên lưng của Đỗ Văn Hạo bồm bộp nói: “Được! Ngươi đi đi, ngươi vẫn còn phải đi từ biệt Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu nữa! Ai Gia không níu kéo ngươi thêm nữa! Ngươi đi đi!”

Thái Hoàng Thái Hậu nói xong bèn quay đầu đi chỗ khác, không muốn nhìn Đỗ Văn Hạo thêm nữa.

Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy sống mũi của mình cay cay, giọng nói của hắn cũng đột nhiên run run, hắn lúc này cũng không muốn đứng dậy ra về, hắn không ngờ giờ phút chia tay lại cảm động như vậy. Một lúc sau, Đỗ Văn Hạo lấy hết can đảm đứng hẳn người dậy, rồi cúi người thi lễ một cái thật sâu rồi cung kính nói: “Văn Hạo xin cáo từ lão tổ tông! Lão tổ tông nên giữ gìn sức khỏe cho thật tốt!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn quay người bước ra khỏi đình.

“Đỗ Ngự Y, xin dừng bước!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy Tiêu công công gọi mình bèn dừng chân đứng lại, rồi lén đưa tay lên lau đi những giọt nước mắt vẫn còn đọng nơi khóe mắt của mình.

Tiêu công công lúc này cũng đã nhanh chân chạy đến bên hắn đưa cho hắn một cái bọc nói: “Đây là lão tổ tông bảo lão nô đưa cho Đỗ đại nhân! Lão tổ tông lúc nãy xúc động quá, không dám níu kéo Đỗ đại nhân ở lại thêm chút nữa, mong Đỗ đại nhân đừng để bụng!”

“Công công nói gì lạ vậy? Ta làm sao để bụng được! Trong lòng ta lúc này cũng cảm thấy buồn lắm!”

Tiêu công công nghe vậy bèn thở dài một cái sau đó dúi vào tay Đỗ Văn Hạo quà của Thái Hoàng Thái Hậu rồi quay người bỏ đi.

Đỗ Văn Hạo sau khi ra khỏi tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu mới mở cái bọc ra xem, thì thấy bên trong đó có hai chiếc vòng tay làm bằng vàng, một chiếc bên trên trạm trổ một con rồng, còn chiếc kia thì khắc hình một con phượng, kỹ nghệ điêu khắc vô cùng tinh xảo, chỉ đưa mắt nhìn cũng biết ngay đây là một vật vô cùng quý hiếm, do một nghệ nhân danh tiếng làm ra.

Bên dưới hai chiếc vòng tay còn có một mảnh giấy nhỏ, trên đó có ghi vài dòng chữ nhỏ: “Chiếc vòng này vốn là vật hồi môn khi Ai Gia mới xuất giá lấy chồng, Ai Gia yêu quý nó vô cùng, hôm nay đem nó tặng cho ngươi, Đỗ Văn Hạo!”

Đỗ Văn Hạo trông thấy thì hai mắt của hắn bỗng chốc mờ đi, hai hàng nước mắt cứ thế chảy dài xuống, hắn liền quay người lại hướng về tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu mà lạy một cái thật lâu.

Hoàng Thái Hậu lúc này dường như cũng đoán được Đỗ Văn Hạo đã sắp đến tẩm cung của mình rồi, cũng gần như đã chuẩn bị xong mọi thứ, những hòm to nhỏ được xếp đầy ở giữa phòng khách, Trường Công Chúa ngồi bên cạnh Hoàng Thái Hậu, hôm nay nàng không mặc bộ đồ ngắn gọn như mọi khi nữa, nàng giờ đây bận một chiếc váy dài màu lam, cổ và ống tay được nhuộm một màu xanh ngọc biếc như làn nước mùa thu, nếu để ý kỹ sẽ trông thấy trên đó còn thêu những vệt mây nhàn nhạt, bên ngoài Trường Công Chúa khoác trên mình một chiếc khăn mỏng màu trắng như tuyết, tóc nàng bồng bềnh sóng lượn, cho dù có rất nhiều trân chu trang sức, nhưng nàng chỉ cắm một bông hoa trắng cài lên trên mái của mình, phía trên búi tóc cài một chiếc trâm óng ánh. Thần sắc của Trường Công Chúa thất thần, đầu cúi xuống bàn tay nàng quấn chặt chiếc khăn lại, lặng thinh không nói lời nào cả.

“Văn Hạo! Ai Gia cũng không có gì để tặng cho ngươi được cả, đây có lẽ chỉ là những thứ dùng để đi đường cần dùng đến mà thôi, ngươi đến Tứ Xuyên tất cả mọi việc đều phải tự mình lo liệu hết, chính vì vậy mà bổn cung đã cho người lo liệu thay cho ngươi sẵn hết đây rồi, tuy là nó không đáng giá, nhưng cũng là một chút tấm lòng của Ai Gia!”

Đỗ Văn Hạo vốn trước khi đến đây tâm trạng cũng đã buồn thối ruột ra rồi, mọi người đều đối đãi với hắn quá ư là tốt, làm cho hắn không biết làm thế nào để đáp trả cả. Lúc này Đỗ Văn Hạo ngoài sXXkích ra cũng chỉ biết cảm kích mà thôi, tất cả mọi người đối với hắn không bao giờ ra dáng là một kẻ bề trên đối với kẻ dưới cả, ai cũng vô cùng chân thật, dùng những lời lẽ mộc mạc, những hành động chân thành nhất đối đãi với hắn, nhưng cũng chính vì như vậy mà lòng của hắn càng lúc càng trở nên nặng trĩu, thịnh tình của mọi người đối với hắn quả là quá lớn: “Hoàng Thái Hậu lo liệu cho vi thần chu đáo như vậy, vi thần cảm kích vô cùng, vi thần không biết ăn nói, không biết dùng lời lẽ nào để biểu đạt tâm trạng cảm kích của vi thần lúc này nữa!”

Hoàng Thái Hậu nghe vậy cũng mỉm cười nói: “Không cần ngươi phải nói cảm ơn gì cả, Ai Gia biết ngươi sắp lên đường đến Tứ Xuyên, do vậy cũng cảm thấy rất buồn, hôm qua ở tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu cũng khóc lóc ghê lắm!”

Đỗ Văn Hạo không biết xử lý ra sao, bởi hắn cũng buồn lắm, chỉ biết gật gật đầu, Trường Công Chúa ngồi bên cạnh cũng sụt sùi, hai mắt buồn buồn, nàng tiến đến bên Đỗ Văn Hạo lấy trong người ra một gói cẩm hương đưa cho hắn nói: “Ngươi biết không? Ta không phải là người biết nữ công, nhưng sau khi hay tin ngươi sắp đi Tứ Xuyên Thành Đô bèn đến chỗ mẫu thân bảo mẫu thân dạy cho ta thêu thùa, cái gói cẩm hương này là do chính tay ta làm ra, trong đó có đựng những thứ cỏ cây, hương liệu mà ta hàng ngày đi hái, sau bao ngày tích tụ mà thêu thành đó! Ngươi đừng cười tay nghề của ta nhé! Ngươi nhận lấy làm kỷ niệm!” Trường Công Chúa nói xong cũng không đợi cho Đỗ Văn Hạo đưa tay tiếp lấy thì dí luôn vào trong người của hắn, rồi quay người nhanh chân bước ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo ngây người ra, Trường Công Chúa tặng gì không tặng, lại tặng mình một vật như thế này, vật này thì thường là do những người yêu thương nhau mới tặng nhau thôi, bình thường ai tặng cơ chứ!

Nhưng Đỗ Văn Hạo không dám nghĩ bậy bạ lung tung thêm phút giây nào nữa, nói thật là hắn chẳng biết nên giải quyết việc này ra sao nữa, Hoàng Thái Hậu trông thấy tâm trạng thất thần của hắn bèn nói: “Nó cũng không biết tặng ngươi vật gì cho phải cả, đây đúng là vật đầu tiên nó tự tay làm! Ngươi cứ nhận lấy làm kỷ niệm, đừng phụ tấm lòng tốt của nó!”

“Đa tạ Hoàng Thái Hậu và Trường Công Chúa đã ban tặng lễ vật! Vi thần nhất định sẽ lưu giữ nó vô cùng cẩn thận!” Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn cẩn thận đút chiếc bọc cẩm hương vào trong tay áo của mình.

“Hoàng Thái Hậu! Bây giờ người tuyệt đối phải kiêng lạnh, bởi vì thân thể của người không được phép tiếp xúc với nước lạnh nữa, bất kể thời tiết là mùa hè hay mùa đông đi chăng nữa, nhất quyết không được tắm nước lạnh nữa!” Đỗ Văn Hạo lại cố gắng dặn dò những lời cuối cùng của hắn cho Hoàng Thái Hậu hay.

Hoàng Thái Hậu nghe xong thì mỉm cười gật đầu đồng ý: “Ai Gia biết rồi, ngươi cứ yên tâm, lúc nãy có người của Hoàng Hậu có đến dặn dò một câu rằng, nhất định phải mời bằng được ngươi đến đó ăn cơm, nơi đó giờ đây cũng đã bày biện đầy đủ tiệc rượu hết rồi, Ai Gia thấy thời gi­an cũng không sớm nữa, ngươi mau mau đi ngay đi kẻo muộn!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn vội vã đứng dậy cúi người thi lễ cáo từ, Hoàng Thái Hậu cũng đứng dậy đi đến trước mặt của Đỗ Văn Hạo dặn dò hắn như một người mẹ hiền dặn dò con trai mình sắp lên đường đi xa: “Mùa này nghe nói mưa gió rất nhiều, ngươi đem theo gia quyến lên đường cẩn thận đừng để mệt mỏi quá mà lại bệnh ra. Chỉ là lên đường nhậm chức thôi! Ngươi cũng không nên vội vã mà làm gì, an toàn là trên hết, khi đến nơi rồi thì nhớ viết thư cho ta và Thái Hoàng Thái Hậu biết là ngươi đã đến nơi rồi, đừng để mọi người ngóng chờ tin tức của ngươi nhé!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong nhất thời nấc nghẹn không nói thêm được câu nào nữa, hắn xúc động đến cực điểm, chỉ biết gật gật đầu như sắp khóc đến nơi vậy.

Sau khi đi khỏi tẩm cung của Hoàng Thái Hậu, Đỗ Văn Hạo thấy trên dậu tường của hoàng cung liễu xanh, hoa đỏ phủ đầy hai bên, nhưng trong lòng hắn lúc này lại cảm thấy vô cùng thê lương, một nỗi buồn khó tả như thể ăn sâu vào tận sâu thẳm đáy lòng hắn, hắn cúi đầu xuống lẩm nhẩm hát bài hát nhạc trẻ mà hắn thường hay hát để xua tan nỗi đau khổ đang gặm nhấm trái tim hắn lúc này!

“Anh Bạn! Hôm nay cũng là ngày anh sắp phải đi xa rồi, cạn chén rượu này, quên đi nỗi buồn của cuộc lữ hành cô độc nơi chân trời, say đến sập trời, lở đất mới thôi!” (Lời bài hát trẻ mà Đỗ Văn Hạo rất hay hát ở thời hiện tại.)

Đúng vậy, tại Long Hữu Cung lúc này, Đỗ Văn Hạo đang nâng cốc để giải sầu, ngoại trừ Hoàng Hậu ra, Chu Đức Phi nương nương cùng Dụ Cáp Nhi cũng đến đây chia tay với hắn, trong bữa ăn, tâm tình của tất cả mọi người đều rất không tốt, sau khi đóng cửa cung lại, anh một cốc tôi một chén, chén tạc chén thù được một lúc lâu thì mấy hũ rượu lâu năm cũng đã cạn gần hết.

“Đỗ, Đỗ đại ca! Ha ha! Hôm nay chúng ta phải uống cho thật thoải mái mới được, lúc này đây nên có người làm thơ mới phải, có rượu có thơ nó mới toàn vẹn!” Dụ Cáp Nhi nói líu cả lưỡi lại, giọng nói của nàng như vừa cười vừa khóc vậy, điệu bộ trông vô cùng buồn bã, thương tâm.

“Dụ Cáp Nhi nói rất đúng! Chu Đức Phi làm một bài đi, ta có chút say rồi, chẳng biết làm thơ như thế nào nữa rồi!” Hoàng Hậu ngà ngà người nói, trong đám cung nữ, phi tần nơi hậu cung thì nàng là người có tửu lượng cao nhất.

Chu Đức Phi nghe vậy bèn gật đầu đồng ý, rồi chiếc châm cài đầu của nàng cũng lắc lư lấp lánh theo đầu của nàng: “Được! Ta sẽ làm một bài, Văn Hạo cũng nên làm một bài! Coi như là tặng bọn ta trước lúc đi xa!”

Hoàng Hậu và Dụ Cáp Nhi đều phụ họa thêm vào, ai cũng khen ý kiến của Chu Đức Phi là rất hay.

Chu Đức Phi suy nghĩ một lúc rồi lên tiếng ngâm: “Tương cự tại tâm bất tại duyên, ly sầu biệt hận trang hoan nhan. Hồng tô tế thủ châm mãn tửu, lục liễu nhu điều bả xuân bàn. Tôn tiền nhãn lệ già bất trụ, tửu hậu mông lung hiểu phong tàn. Điêu an vô tâm sơn thủy sắc, tiệm giác lục nguyệt dạ thâm hàn. (Tạm dịch: Xa cách do tâm không do phận, ly sầu biệt hận vờ làm vui. Tay hồng nhỏ nhẹ rượu tràn ly, liễu xanh bóng xuân trời vương vấn. Rượu đầy khó che đôi dòng lệ, gió tàn lóng lánh ánh nguyệt mờ. Yên ngựa vô tâm non với nước, tháng sáu mà lạnh cõi lòng thương!)”

Duyên phận như cơn gió, đến cũng là duyên, đi cũng là duyên, không đến không đi cũng là duyên.

Bài thơ này Chu Đức Phi làm hay quá, mọi người đều chìm đắm trong từng từ từng chữ của bài thơ, chỉ là bài thơ này quá đỗi buồn, ít ra là đối với tâm trạng của mọi người lúc này.

“Đỗ đại ca! Đại ca cũng làm một bài đi!” Dụ Cáp Nhi nói chen vào.

“Ta làm gì biết làm thơ với thẩn cơ chứ! Rượu vào rồi thì càng không biết làm nữa!” Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng từ chối.

Hoàng Hậu nghe vậy cũng thở dài nói: “Đỗ đại nhân nói đúng! Nếu như không biết làm thì thôi, nhưng ngươi cũng nên đọc một bài để mọi người làm kỷ niệm, để lần sau ngươi quay về đây còn có cái để nói chứ!”

Chu Đức Phi ngồi bên cạnh cũng nói chen vào: “Ừm! Đọc một bài đi, bài gì cũng được chỉ cần không làm cho mọi người cụt hứng là được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn cúi đầu xuống trầm ngâm một lúc, hắn đột nhiên nhớ ra bài《Thái Tang Tử》của Na Lan Dung Nhược (Một nhà thơ nổi tiếng người nhà Thanh Trung Quốc), bèn ngâm lên: “Thâm thu tuyệt tái thùy tương ức, mục diệp tiêu tiêu. Hương lộ điều điều, lục khúc bình sơn hòa mộng diêu. Gi­ai thì bội tích phong quang biệt, bất vi đăng cao. Chỉ giác tiêu hồn, nam nhạn quy thì ca tịch liêu” (Tạm dịch: Đêm thu biên giới thầm thương nhớ, gió cây xào xạc thổi từng cơn. Đường về quê hương còn xa lắm, quanh co vòng núi mộng phiêu diêu. Xa rồi mới biết tình nồng ấm, không phải cô thân nơi xứ người. Tiêu hồn lạc phách mộng quanh quanh, lạc lõng nhạn bay hướng trời nam.)

Khi Đỗ Văn Hạo ngâm xong bài thơ này thì mọi người bắt đầu khóc lên rấm rứt.

Đỗ Văn Hạo sau khi rời khỏi tẩm cung của Hoàng Hậu thì cũng có phần say, miệng hắn lúc này vẫn còn thơm mùi rượu, hắn suy nghĩ rất nhiều, cảm ngộ cũng rất nhiều. Nhưng hắn chưa từng thổ lộ ra ngoài, cái cảm giác nói không ra câu, thốt không nên lời này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy vô cùng ức chế, hắn bèn phẫn uất ngửa mặt lên trời mà thét to lên một tiếng, sau đó lại thở dài lên một tiếng não nề, thất vọng.

Lúc này đột nhiên hắn nhớ đến người thiếp Liên Nhi bé bỏng của hắn, giờ này nàng vẫn ở trong lãnh cung chăm sóc Trần Mỹ Nhân, Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên muốn gặp mặt nàng vô cùng.

Cho dù Liên Nhi vốn là do Trần Mỹ Nhân ban thưởng cho hắn, ép hắn thành thân với nàng, hắn cũng không có tình cảm sâu nặng gì nhiều lắm với Liên Nhi cả, nhưng nói cho cùng nàng cũng là người con gái đã từng đầu ấp vai kề với hắn, trước lúc đi xa gặp nàng lần cuối âu cũng là lẽ đương nhiên.

Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn liêu xiêu bước đến Lãnh Cung.

Lãnh Cung lúc này có lẽ còn không bằng được căn nhà dân dã của một người dân thông thường nữa, bên trong lạnh lẽo, phòng ốc cũ nát tồi tàn, trên nóc nhà giăng đầy mạng nhện đan xen chằng chịt, cánh cổng của Lãnh Cung hờ khép, trước cổng có một chiếc chổi dựng ở đó, mặt sân rơi đầy lá khô, xem ra cũng khá lâu rồi không có người đến quét dọn.

Người gác cổng Lãnh Cung thì dĩ nhiên đã biết Đỗ Văn Hạo, nên khi trông thấy hắn đi đến thì vội vã chạy lên phía trước thi lễ với hắn, rồi nhanh chóng mở cổng Lãnh Cung mời hắn bước vào, thậm chí đến cả câu hỏi tại sao hắn đến đây cũng không thốt ra lấy nửa lời.

Khi Đỗ Văn Hạo bước vào trong viện thì phát hiện ra bên trong không có lấy một bóng người, gió đông chốc chốc lại thổi lên cuốn bay những đám lá khô rơi trên chiếc bàn đá nằm ở ngoài sân, trong vườn lúc này chỉ còn duy nhất một cái cây vô danh đang nở rộ hoa, cũng may là hoa của nó mang một màu đỏ rực làm sáng cả một góc vườn đung đưa trước gió trông tươi sáng vô cùng. Đột nhiên một tiếng “rắc!” khô khốc vang lên, Đỗ Văn Hạo đưa mắt lên nhìn, thì trông thấy một cành cây của cây Hạch Đào bị gió thổi gãy rơi xuống ngay dưới chân của hắn, trên đó vẫn còn vương hai quả Hạch Đào còn non mọc trên đó.

“Trần Bà!” Đỗ Văn Hạo đứng ở trong vườn cao giọng gọi, khi tiếng gọi của hắn vừa dứt thì cửa phòng chợt hé mở.

Từ trong đó, một bà lão có bộ tóc bạc trắng bước ra, hai mắt nheo lại đứng ở ngay cổng ngóng nhìn, sau khi trông thấy Đỗ Văn Hạo thì lập tức nở ra một nụ cười hạnh phúc, chạy xuống bậc cầu thang, rồi cúi người nói: “Lão nô nói rằng ngoại trừ Đỗ đại nhân thì còn ai còn nhớ đến mấy người lão nô ở đây nữa, Đỗ đại nhân mau mau vào đây!”

Đỗ Văn Hạo trông thấy Trần Bà khắc khổ như vậy bất giác động lòng trắc ẩn, một thời gi­an không gặp bà ta mà trông bà ta đã già hẳn đi, tóc đã bạc đi nhiều trông thấy.

Hai người bước vào trong phòng, thấy căn phòng cũng được dọn dẹp khá là sạch sẽ, nhưng đồ vật bên trong có phần tồi tàn đôi chút, trông rất giống với cách bố trí của những người dân thông thường, một chiếc giường, một chiếc bàn, hai chiếc ghế, còn lại chẳng còn vật nào khác nữa cả.

Đỗ Văn Hạo đưa mắt ra bốn phía ngóng nhìn, nhưng cũng không phát hiện ra có một người nào khác nữa cả, thấy vậy tim của hắn bỗng nhiên nặng trĩu xuống: “Nương nương của ngươi đâu?”

Trần Bà thấy gương mặt của Đỗ Văn Hạo như vậy bèn vội vã đáp: “Đại nhân nhìn lên trên kia kìa!”

Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu lên nhìn thì trông thấy một nữ tử đầu tóc lòa xòa đang ngồi trên xà nhà, tim hắn bỗng nhiên thắt lại, nhớ khi xưa nàng đẹp đẽ tuyệt trần, giờ đây ác quỷ hung thần chẳng sai. Trần Mỹ Nhân trông bây giờ thật tội nghiệp.

Chương 309: Không muốn sống cuộc đời thừa như vậy!

Đỗ Văn Hạo thất kinh chỉ về phía Trần Mỹ Nhân trên xà nhà nói: “Nương nương…!”

“Thật là ngại quá! Bọn ta cứ tưởng có ai đến, nên vội vã leo lên trên này, Đỗ đại nhân chờ ta một chút nhé, ta sẽ xuống ngay đây!” Nói xong Trần Mỹ Nhân bèn ôm lấy cái cọc từ từ tuột xuống phía dưới, Trần Bà thấy vậy bèn vội vã chạy đến đỡ lấy nàng.

“Đỗ đại nhân! Hôm nay sao rảnh rỗi đến thăm ta vậy, hay là đại nhân nhớ Liên Nhi rồi hả?” Giọng nói của Trần Mỹ Nhân có vẻ yếu ớt, mệt mỏi, một tay không ngừng day day hai huyệt thái dương của mình.

Đỗ Văn Hạo trông thấy một bên mắt của Trần Mỹ Nhân đã không còn nữa, mặt mày xanh mét, đôi môi trắng bệch, thì vội hỏi: “Nương nương lại cảm thấy trong người không được khỏe hay sao?”

Trần Mỹ Nhân đi đến trước mặt Đỗ Văn Hạo, ngồi xuống nở một nụ cười đau khổ, sau đó nàng đưa tay ra hiệu bảo Đỗ Văn Hạo ngồi xuống chiếc ghế đặt bên cạnh mình, Trần Bà thấy vậy bèn vội vã chạy đi pha ấm trà đem lại.

“Liên Nhi cho đến lúc nãy vẫn chưa biết là ta đang giả điên, ngày đêm phục vụ ta không rời nửa bước, ta thật hối hận khi ngày trước đối xử với nó một cách tệ hại như vậy, nếu sớm biết được thế này ta chẳng bao giờ đối xử với nó tệ như thế cả, khụ khụ khụ! Còn về phần ta, cái thân tàn ma dại này coi như cũng bỏ đi rồi, cứ sống một cuộc đời thừa như vậy, đến lúc nào đó ta từ giã cõi đời này coi như cũng là một sự giải thoát cho ta rồi.”

“Xin nương nương đừng bi quan như vậy! Mọi việc rồi cũng sẽ qua thôi!” Đỗ Văn Hạo lên tiếng an ủi.

“Qua thế nào được! Ta sắp chết đến nơi rồi, đây này!” Trần Mỹ Nhân đau khổ lấy đầu của mình đập nhẹ vào thành giường, mồ hôi trên trán vã ra lấm tấm, Trần Mỹ Nhân thở gấp một hồi, sắc mặt vô cùng khổ sở đáng thương.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đứng dậy đi ra góc tường lấy chiếc ghế trúc đặt xuống trước mặt Trần Mỹ Nhân rồi ngồi xuống nói: “Nương nương bệnh rồi! Để ta xem xem bệnh tình của nương nương ra sao cái đã!”

Trần Mỹ Nhân nghe vậy bèn đưa tay ra cho Đỗ Văn Hạo bắt mạch, tay của Trần Mỹ Nhân lúc này lạnh toát, mạch trầm đứt đoạn, Đỗ Văn Hạo thấy vậy nét mặt thất kinh, sau đó hắn lại xem lưỡi của nàng ta, rồi lại hỏi chế độ ăn uống, ngủ nghỉ ra sao, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo lại để Trần Mỹ Nhân nằm xuống.

Vừa lúc này thì Trần Bà đã bưng nước đi đến, Đỗ Văn Hạo trông thấy bèn lên tiếng hỏi: “Sức khỏe của nương nương kém như vậy ngươi đã cho người đi tìm người đến xem chưa? Hay là vẫn chẳng có vị Thái Y nào chịu đến khám bệnh cho nương nương? Nếu không có ai chịu đến tại sao ngươi lại không thông báo cho ta biết hả?”

Trần Bà đặt tách trà lên trên bàn xong, liền đi đến bên cạnh Đỗ Văn Hạo, khổ sở đáp: “Lão nô đã đi tìm rồi, cũng tìm được một vị Thái Y già đến khám, ông ta nói rằng đầu của nương nương bị đập vào tường, miệng la hét khó chịu nên cho rằng nương nương mắc chứng Thực Nhiệt, do vậy phải uống thuốc dịu mát giải nhiệt. Nhưng sau khi uống xong mấy đơn thuốc của ông ta, thì không thấy nương nương có tiến triển tốt lên, mà ngược lại bệnh tình của nương nương ngày càng trầm trọng, lúc này nương nương liền quyết định không cho phép lão nô đi tìm bất kỳ một vị Thái Y nào khác nữa. Nương nương nói rằng thôi thì cứ để kệ nó, ra sao thì ra nương nương không muốn quan tâm đến nó nữa. Lão nô khi đó khuyên bảo nương nương thế nào cũng không được, lão nô cũng định đến tìm đại nhân, nhưng lại nghe nói đại nhân phải phục vụ cho Hoàng Thượng nên…Ài! Đều là do lão nô đáng chết, lão nô bất tài không chăm sóc cho nương nương hẳn hoi tử tế!” Nói đến đây Trần Bà bỗng bật khóc, nước mặt rơi xuống lã chã, buồn tủi vô cùng.

Trần Mỹ Nhân nằm trên giường lúc này thân hình cuộn tròn, hai mắt nhắm lại, thều thào nói: “Trần Bà! Đây không phải là lỗi tại ngươi, đây là ông trời đang trừng phạt ta đó, ta gây ra tội lỗi thì ta phải trả giá, ngươi đừng buồn nữa!”

Trần Bà nghe thấy vậy thì lại càng thêm đau buồn, nước mắt nước mũi chảy ra như suối.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Bệnh này của nương nương vị Thái Y đó đã chẩn đoán không chính xác! Bệnh này không phải là chứng Thực Nhiệt, theo như mạch chứng của nương nương cùng với tâm trạng mệt mỏi, chán nản, hơi thở gấp gáp, mồ hôi lạnh ra nhiều, chân tay lạnh cóng thì có thể thấy rằng bệnh của nương nương là Dương Suy!”

“Á!” Trần Mỹ Nhân nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy bất giác kêu lên thê thảm. Trần Bà đứng cạnh đó bèn lên tiếng hỏi: “Có nghiêm trọng không?”

“Dĩ nhiên là vô cùng nghiêm trọng rồi! Dương khí mà bị thoát thì thân thể sẽ mệt mỏi, tâm trạng chán chường, phải nhanh chóng kê một bài thuốc Tân Cam Ôn Nhiệt với liều lượng lớn để vãn hồi lại dương khí, ổn định tinh thần! Cũng may là hôm nay ta ở đây, do vậy bệnh tình của nương nương sẽ do đích thân ta chữa trị, ngươi yên tâm có ta ở đây nương nương sẽ không có gì nguy hiểm đâu, bệnh này chỉ cần có Đáp, Sâm Cao Ly, Gừng Pháo, Pháo Phụ Tử và Viêm Cam Thảo, mỗi một loại lấy mười tiền, sau đó sẽ dần dần giảm lượng xuống cho đến khi bệnh hoàn toàn khỏi hẳn!”

Trần Bà nghe xong thì thở phào một hơi nhẹ nhõm nói: “Đa tạ Bồ Tát đã bảo hộ! À không! Đa tạ Đỗ đại nhân đã ra tay cứu giúp! Đỗ đại nhân! Ngài đúng là Bồ Tát tái thế!”

Trần Mỹ Nhân nghe vậy bèn thở dài nói: “Thôi kệ đi! Không cần chữa đâu, chữa khỏi bệnh cho ta rồi thì sao chứ? Ta khỏi bệnh rồi vẫn cứ phải sống một cuộc sống nhục nhã như một con chó vậy! Như thế còn khó chịu hơn cái chết rất nhiều!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng: “Nương nương…”

“Thôi được rồi! Ngươi không cần khuyên ta nữa đâu! Ngươi cũng đừng lãng phí tâm huyết chữa bệnh cho ta nữa, ngươi hôm nay đến đây là đón Liên Nhi về hả? Nếu như vậy thì để nó theo chân ngươi về đi, nó dù sao cũng là thê thiếp của ngươi rồi, ta không thể ngày nào cũng chiếm hữu nó mãi như thế được, như vậy đối với ngươi cũng không hay chút nào cả!”

Đỗ Văn Hạo ngập ngừng đôi chút rồi nói: “Ừm! Thế này vậy! Nương nương cứ nghỉ ngơi trước đi, ta còn có chuyện muốn nói với Trần Bà đã!”

Đỗ Văn Hạo nói xong bèn bước ra ngoài cửa, Trần Bà thấy vậy liền nối gót lẽo đẽo theo sau, sau khi khép cửa lại hai người bèn đi đến bên gốc Hạch Đào nói chuyện.

“Sao không trông thấy Liên Nhi vậy?” Đỗ Văn Hạo ngồi xuống chiếc ghế đá đặt dưới gốc Hạch Đào nói.

Trần Bà đứng cạnh đó liền lên tiếng đáp: “Đỗ đại nhân cũng trông thấy chỗ này rồi đấy, nương nương ngủ ở phòng chính, mấy hôm trước đột nhiên căn phòng đó gặp trận mưa lớn nên bị dột, chỗ dột đó lại đúng ngay giường của Trần Mỹ Nhân, do vậy Liên Nhi liền kê giường sang chỗ khác. Nhưng nó vẫn sợ nương nương bị cảm lạnh, cộng thêm mấy ngày hôm nay bệnh tình của nương nương càng lúc càng nặng nên nó đã đi tìm người đến xem có sửa được hay không, bây giờ cũng đã là mùa thu rồi, gió cũng độc lắm, nếu không sửa nhanh e rằng nương nương sẽ chống đỡ nổi thêm được nữa mất!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng chỉ ừm lên một tiếng, những việc ở trong cung hắn cũng hiểu đôi chút, khi người ta bị thất thế thì có rất nhiều người cũng hùa theo vào để bắt nạt, để hành hạ, đây là việc quá đỗi thường tình trong cung rồi, hơn nữa Trần Mỹ Nhân lại là một nhân vật ghê gớm như vậy, ai mà không thù không ghét cơ chứ! Do vậy chắc bây giờ cũng chẳng có người nào chịu đứng ra giúp đỡ nàng ta cả.

“Chuyện phòng ốc thì ta sẽ đi tìm Tiêu công công đến giúp, ông ta là tổng quản của Hậu Cung mà, chuyện vặt vãnh này không là gì với ông ta cả đâu!”

Trần Bà nghe vậy thì lại nước mắt nước mũi tèm nhèm chảy xuống: “Đỗ đại nhân! Lần nào cũng phải làm phiền đại nhân giúp đỡ nương nương của lão nô như vậy lão nô cảm kích vô cùng! Nhưng đại nhân xin hãy cẩn thận không lại đắc tội với những Phi Tần khác trong cung, vì bọn họ vẫn căm thù nương nương lắm, lão nô đa tạ đại ân đại đức của đại nhân!”

Đỗ Văn Hạo cũng thở dài nói: “Ta cũng sắp phải đi xa rồi, sức khỏe của nương nương lại như, ta thật không yên tâm một chút nào cả! Ài! Chúng ta phải nghĩ cách nào mới được!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền trầm ngâm suy nghĩ. Trần Bà đứng cạnh đó nghe hắn nói vậy thì vẻ mặt thất kinh nói: “Sao cơ? Đại nhân sắp đi xa rồi? Đại nhân đi đâu vậy? Khi nào mới về?”

Đỗ Văn Hạo lúc trước không nói cho Trần Mỹ Nhân biết hắn sắp phải rời xa kinh thành vì sợ nàng buồn, nỗi buồn của nàng khi phải xa hắn không giống như với Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu hay những người khác, đó là sự chia tay của một người bạn thân thiết, sau này sẽ có dịp gặp lại. Nhưng với Trần Mỹ Nhân thì lại khác, nếu nàng biết hắn sắp đi xa nàng chắc chắn sẽ rơi vào cảnh tuyệt vọng, sẽ mất đi chỗ dựa cuối cùng của đời nàng, chính vì thế mà hắn không thể nói được, hắn cũng không đủ dũng khí để cho nàng biết chuyện đó nữa: “Ừm! Đúng vậy! Ta phụng chỉ của Hoàng Thượng vào Tứ Xuyên Nhã Châu Lộ nhậm chức, tất cả gia quyến của ta đều phải theo ta vào trong đó, ta sắp xuất phát rồi!” Đỗ Văn Hạo cất lên một giọng buồn buồn nói, hắn thậm chí còn không đủ dũng khí để ngẩng đầu lên nói với Trần Bà nữa.

Trần Bà nghe hắn nói vậy thì bất giác lùi lại hai bước, suýt chút nữa thì ngã ngửa người xuống, bà cố gắng vịn vào cành cây gần đó đứng cho vững, giọng nói đau đớn vô cùng: “Sao lại có chuyện như vậy được cơ chứ?” Nói xong Trần Bà quỳ luôn xuống ngửa mặt lên trời gào khóc thảm thiết.

Chương 309 Không muốn sống cuộc đời thừa như vậy! (2)

“Trần Bà! Bây giờ không phải là lúc để ngươi than thân trách phận như vậy, ta thấy nương nương cũng không muốn chữa bệnh, nếu tình hình vẫn cứ kéo dài như vậy thì e rằng tính mạng của nương nương có lẽ cũng chỉ còn sống được một hai năm nữa mà thôi, chúng ta phải nghĩ cách gì đó để cứu vãn tình hình này!”

Trần Bà nghe xong lập tức đứng hẳn người dậy, lắc lắc đầu tuyệt vọng nói: “Đỗ đại nhân! Đại nhân không cần phải lo lắng cho nương nương của lão nô thế mãi đâu, nương nương đã có lão nô lo cho rồi, chỉ cần lão nô vẫn chưa chết thì lão nô nhất quyết không thể để cho nương nương tắt thở trước mình được!”

“Ài! Chuyện này thôi cứ để đó cho ta suy tính, ngươi chỉ cần cắt thuốc theo đúng phương thuốc của ta, rồi cho nương nương uống đúng giờ là được rồi!”

Đột nhiên cánh cổng vang lên uỳnh một tiếng rất lớn, rồi bị mở toang ra, một nữ tử nhanh chóng xông hẳn vào trong vườn. Nàng ăn mặc vô cùng đơn giản, áo thô màu vàng nhạt, hai ống tay vắn cao, đầu tóc trang điểm đều rất nhẹ nhàng, tóc tết hai bên, kết lại vào nhau như hình cánh bướm, trên mái tóc nàng không có bất cứ thứ trang sức nào cả, tóc ở hai bên mai của nàng xõa xuống ngang vai, nữ tử đó không phải là ai khác, chính là Liên Nhi, người thiếp mà Đỗ Văn Hạo lâu lắm rồi chưa gặp.

“Bà Bà!” Liên Nhi thở gấp nói, sau đó nàng quay sang Đỗ Văn Hạo vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nói: “Tướng công! Sao tướng công lại đến đây vậy?” Đỗ Văn Hạo lâu lắm rồi mới gặp được Liên Nhi, trông nàng gầy, và tiều tụy hơn trước rất nhiều, nhưng nàng vẫn còn trẻ nên không dễ nhận ra sự thay đổi thất thường đó. Hai mắt của nàng lúc này cũng ngấn nước, trông bộ dạng vô cùng đáng thương.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đứng dậy đi về phía Liên Nhi, nhưng nàng lại cảm thấy ngượng ngùng e thẹn, chỉ biết cúi người xuống thi lễ rồi nói một câu tướng công.

Đỗ Văn Hạo tiến đến trước mặt nàng đưa tay lên lau đi những giọt nước mặt còn đọng trên hàng mi của nàng, nhẹ nhàng nói: “Sao vậy? Có người bắt nạt nàng sao? Nói cho ta biết để ta dạy cho bọn chúng bài học!”

“Bọn họ thật quá đáng! Không những đuổi thiếp ra khỏi cửa, mà còn đẩy thiếp ngã xuống đất nữa!” Liên Nhi tủi nhục nói với Đỗ Văn Hạo

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn ôm Liên Nhi vào lòng, rồi đưa tay ra vỗ nhẹ vào lưng của nàng an ủi. Trần Bà lúc này thấy mình ở đây có vẻ dư thừa bèn nhân lúc hai người không để ý, bèn lẳng lặng bỏ đi.

Được một lúc sau, Liên Nhi lên tiếng hỏi: “Tướng công sao hôm nay lại đến đây vậy?”

“Ta không được phép đến đây thăm Liên Nhi của ta sao? Nhìn nàng kìa! Lẽ nào nàng không nhớ ta sao?”

Liên Nhi nghe xong hai má ửng đỏ, cúi đầu e thẹn đáp: “Thì đây cũng là lần đầu tiên tướng công đến thăm thiếp mà!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì nhoẻn miệng cười, rồi hắn lại đưa tay ra ôm Liên Nhi vào lòng nói: “Hôm nay ta đến đón nàng về!”

Liên Nhi nghe xong liền theo phản xạ tự nhiên lách ra khỏi cánh tay của Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng công đã hứa với thiếp để thiếp chăm sóc cho nương nương rồi, nương nương hiện giờ…!”

“Được rồi! Được rồi! Ta biết rồi! Nhưng Hoàng Thượng đã ra lệnh cho ta phải vào Tứ Xuyên Thành Đô làm quan trong đó, ngày hôm sau là xuất phát rồi, Cầm Nhi, Thanh Đại, Phi Nhi đều theo ta và trong đó, ta rất nhớ nàng, nên hôm nay mới vào đây đón nàng về!”

Liên Nhi nghe xong thì cũng có một phản ứng giống y hệt của Trần Bà, gương mặt của nàng hiện lên một vẻ tuyệt vọng, hàm răng của nàng cắn chặt vào môi tưởng chừng như muốn rách đến nơi, trông nàng lúc này xúc động còn hơn cả lúc nãy khi trông thấy Đỗ Văn Hạo vào đây thăm nàng nữa.

“Nương nương lúc này đang bị bệnh nghiêm trọng như vậy, tướng công lại sắp phải đi xa, không biết nương nương về sau sẽ thế nào nữa?” Liên Nhi buồn bã nói, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Chuyện này ta sẽ nghĩ cách giải quyết, nhưng bây giờ ta hỏi nàng, nàng có muốn đi cùng ta không?”

“Thiếp…Thiếp!”

“Nàng thấy khó xử lắm sao?”

“Không phải như vậy, chỉ là thiếp đi rồi thì nương nương sẽ ra sao đây, thiếp không yên tâm, Bà Bà tuổi cũng đã cao, mắt mũi kèm nhèm, tay chân chậm chạm, thiếp đi rồi thì ai chăm sóc nương nương đây…!”

“Liên Nhi! Ngươi cứ đi đi!”

Cả Liên Nhi và Đỗ Văn Hạo cùng quay người lại nhìn, Trần Mỹ Nhân không biết đã đứng ở trước cửa tự bao giờ, Trần Bà lúc này cũng đứng cạnh đó một tay dìu đỡ Trần Mỹ Nhân.

Liên Nhi thấy vậy bèn vội vàng chạy đến bên Trần Mỹ Nhân sụt sùi nói: “Nương nương! Liên Nhi không đành lòng nào rời xa nương nương!”

Trần Mỹ Nhân liền đưa tay ra vuốt vuốt mái tóc của Liên Nhi rồi nói: “Liên Nhi tốt bụng của ta! Ta không thể vì mình mà làm lỡ hạnh phúc của ngươi được, ngươi đã là người của Đỗ đại nhân rồi, ngươi sống là người của người ta, chết cũng là ma của người đó, đạo lý này ngươi cũng phải biết chứ, đã có Trần Bà lo liệu cho ta rồi, ngươi cứ yên tâm theo Đỗ đại nhân đi đi!”

Liên Nhi nghe vậy thì lắc đầu quầy quậy nói: “Không! Liên Nhi không đành lòng! Sức khỏe của nương nương yếu lắm, lại không chịu uống thuốc nữa, nương nương cứ như vậy thì Liên Nhi sao yên tâm được! Ý! Sao hôm nay nương nương nói chuyện lại bình thường như vậy được, hay là bệnh của nương nương đã khỏi rồi?” Liên Nhi nói đến đây thì cảm thấy có gì đó không bình thường, nàng liền đưa mắt lên nhìn Trần Mỹ Nhân một cách khó hiểu.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn tiến lên nói với Trần Mỹ Nhân, cắt ngang lời nói của Liên Nhi: “Chuyện của Liên Nhi chúng ta tạm không bàn tới! Bây giờ ta kê cho nương nương một phương thuốc, nương nương mau uống vào, ta thấy trên trán nương nương vẫn còn vết bầm tím kia kìa, có lẽ là cho va đập vào vật cứng nào đó rồi, lần sau nương nương nên cẩn thận đừng làm như vậy nữa!”

Liên Nhi thấy vậy bèn chen vào nói: “Hôm trước nương nương đập đầu của mình vào tường nên mới bị bầm tím như vậy đó!”

Trần Mỹ Nhân lúc này cầm hẳn luôn lấy gấu áo của Đỗ Văn Hạo, nhát gừng nói: “Đỗ đại nhân đừng vì sức khỏe của ta mà hao tổn tâm trí nữa! Ngươi đem Liên Nhi đi đi, dù sao ta cũng không muốn sống một cuộc sống đời thừa đau khổ như thế này nữa, ta giờ đây chẳng qua là đang chờ cái chết cận kề mà thôi, khi ta chết rồi thì Trần Bà cùng với Liên Nhi đều được giải thoát!”

Trần Bà và Liên Nhi nghe xong thì đều khóc lên như mưa, Trần Mỹ Nhân cũng không kìm nổi lòng mình ôm cả hai người lại, sụt sùi thút thít.

Đỗ Văn Hạo lại là một người rất sợ trông thất cảnh tượng như thế này, hắn liền hạ quyết tâm, hắng lên một tiếng rồi nói: “Thôi đừng khóc nữa! Ta có cách này có thể đưa nương nương rời khỏi Lãnh Cung, sau đó sẽ đưa nương nương về quê đoàn tụ với gia đình!”

Hả? Cả ba người cùng đồng thanh kêu lên một tiếng vừa ngạc nhiên lại vừa mừng rỡ.

Đỗ Văn Hạo lúc này chỉ mỉm cười thần bí, rồi thì thào với ba người vài câu, ba người đều gật gật đầu ra vẻ hiểu ý, sau đó Đỗ Văn Hạo liền đi vào trong phòng cất bút lên viết hai phương thuốc đưa cho Trần Bà với Liên Nhi, rồi hắn lại dặn dò hai người nên tiến hành kế hoạch ra sao.

Đỗ Văn Hạo sau khi rời khỏi chỗ ở của Trần Mỹ Nhân, hắn lòng vòng, loanh quanh một hồi thì đã ra đến cổng, đây là Ngự Thư Phòng của Hoàng Thượng, khi mới đến đây nếu không có người dẫn đường chỉ lối, thì chắc chắn sẽ bị lạc trong này mất.

“Đỗ đại nhân đã đến rồi đó hả!” Viên thái giám tay cầm phất trần đã đứng trước cửa tự lúc nào đang cúi người ôm tay thi lễ trước mặt Đỗ Văn Hạo. Thường thì bước chân của Đỗ Văn Hạo vốn rất nhẹ nhưng viên thái giám này cho dù lúc đó đang đứng ngáp ngủ đã ngay lập tức có thể nghe thấy bước chân của hắn bước tới mà ra nghênh đón, chắc ở trong cung lâu ngày nên viên thái giám này đã luyện được chiêu Thuận Phong Nhĩ (đôi tai của gió), chỉ cần một tiếng động nhẹ thôi cũng đủ làm tên thái giám này chú ý, do vậy khi Đỗ Văn Hạo đi đến viên thái giám này đã chuẩn bị xong xuôi tư thế để nghênh tiếp hắn rồi.

Đỗ Văn Hạo tiến lên phía trước đưa tay chỉ vào phía trong thấp giọng hỏi: “Ta có thể vào được không?”

“Hoàng Thượng vừa mới ngủ dậy, mấy hôm nay trời nóng quá, Hoàng Thượng chỉ nghỉ trưa có một lúc thôi, lúc nãy Ninh công công đã lệnh cho nô tài bê trà vào trong đó rồi, có lẽ lúc này Hoàng Thượng đang phê duyệt bản tấu. Xin đại nhân cứ ngồi uống trà một lúc để nô tài vào bẩm báo với Hoàng Thượng!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cất tiếng cảm ơn, loáng một cái viên thái giám kia đã nhanh chân chạy vào trong thư phòng rồi.

Nơi phía trước cổng của Thư Phòng có đặt một bình hoa cao hơn nửa người, bên trong đặt những bức thư pháp, tranh họa của Hoàng Thượng, một bên đặt một chiếc bàn, trên đó có một chiếc hương lò nhỏ nhắn tinh xảo tỏa ra hương thơm ngào ngạt, không cần ngửi Đỗ Văn Hạo cũng biết, đây chính là mùi hương trầm mà Hoàng Thượng yêu thích nhất.

“Văn Hạo đến rồi sao?” Tống Thần Tông đang ngồi cặm cụi phê duyệt tấu chương, đầu vẫn không ngước lên mở miệng hỏi, Ninh công công đứng cạnh đó liền gật đầu rồi đưa tay ra hiệu cho Đỗ Văn Hạo vào trong.

Đỗ Văn Hạo vào đến bên trong bèn tiến đến cúi người thi lễ: “Vi thần Đỗ Văn Hạo tham kiến Hoàng Thượng!”

Tống Thần Tông lúc này mới ngẩng đầu lên, trông thấy sắc mặt của hắn buồn bã, lông mày cau lại, trên miệng hắn miễn cưỡng nở ra một nụ cười khổ sở, Tống Thần Tông trông thấy vậy bèn đặt bút xuống đứng dậy đi đến bên hắn nói: “Ta xem ngươi dường như đang có chuyện gì cần cầu xin thì phải, nói đi! Ngươi còn muốn Trẫm giúp ngươi việc gì, bây giờ nói ra vẫn chưa muộn đâu!”

Chương 309 Không muốn sống cuộc đời thừa như vậy! (3)

“Vi thần hôm nay đến đây mục đích chủ yếu là khấu tạ ơn đức của Hoàng Thượng! Hoàng Thượng suy nghĩ thật là chu đáo cho vi thần, bổ nhiêm Hàn Tu đại tướng quân làm chức Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Ti, và bảo với ông ấy rằng đó là do vi thần cố ý cất nhắc ông ta trước mặt Hoàng Thượng, như vậy chẳng khác nào để ông ta phải biết ơn vi thần, sau đó Hoàng Thượng lại không ngừng dặn dò ông ta không được phép can dự vào công cuộc biến pháp của vi thần! Hoàng Thượng đối với vi thần quả là ân trọng như núi vậy, vi thần cho dù có chết cả trăm ngàn lần cũng không biết làm gì để báo đáp Hoàng Thượng cả!” Tống Thần Tông nghe xong thì mỉm cười nói: “Không làm thì thôi! Nhưng đã làm thì phải làm cho ra trò! Hôm nay ngươi cũng đúng lúc lắm, Trẫm đang định cho người nói cho ngươi biết rằng Trẫm đã tìm cho ngươi một trợ thủ vô cùng đắc lực, đó chính là Tô Thức Tô Tử Chiêm!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nói: “Tô Đông Pha?”

Tống Thần Tông nghe vậy bèn hỏi: “Ai là Tô Đông Pha?”

Ngoại hiệu Tô Đông Pha này của Tô Thức dĩ nhiên lúc này vẫn chưa có, hoặc có lẽ chưa có người biết đến, chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng bào chữa: “Cái này vi thần lỡ miệng, ha ha ha! Là Tô Thức! Ông ta sẽ cùng với vi thần đến Nhã Châu sao?”

“Đúng vậy! Trẫm đã hạ chỉ cho Bộ Lại bổ nhiệm ông ta làm chức Chi Châu của Nhã Châu, Trẫm đã cho Tiểu Ninh Tử cùng ngươi đến Hoàng Châu tuyên chỉ, Tiểu Ninh Tử sẽ nói cho ông ta biết ý của ta, rằng chức vụ của ông ta cũng là do ngươi đề cử với ta, cho ông ta lại biết ơn của ngươi, nếu không chắc ông ta sẽ phải ở Hoàng Châu cả đời dưỡng lão mất ha ha ha!”

Tô Thức ngày trước đã từng nhậm chức Chi Châu của huyện Từ Châu, nhưng vì vướng vào vụ án “Ô Đài thi án” (đây là vụ án mà Ngự Sử Trung Thừa Lý Định lấy những lời trong bài thơ <Hồ Châu tạ thượng biểu> của Tô Thức ra định tội ông phỉ báng tân pháp cải cách của triều đình, Tô Thức sau đó bị gi­am ở Ô Đài bốn tháng.) Tô Thức sau vụ án đó thì may mắn giữ được mạng sống, rồi bị giáng chức đi làm Đoàn Luyện Phó Sử ở Hoàng Châu, chức này tương đương với chức phó bộ trưởng dân binh của huyện, ngoài ra ông cũng không có tư cách phê duyệt những công văn ở Hoàng Châu. Lần này Tô Thức đột nhiên lại được đề bạt trở lại, chắc chắn sẽ vô cùng biết ơn người đã tiến cử ông, mà người đó không phải ai khác chính là Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nghe Tống Thần Tông lại cố tình sắp đặt cho người khác phải biết ơn mình như vậy thì cười đáp: “Bẩm Hoàng Thượng! Thần luôn được Hoàng Thượng suy nghĩ chu đáo như vậy quả không tốt chút nào cả! Ha ha ha!”

“Tất cả đều vì một mục đích, đó chính là tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ngươi tiến hành cải cách. Tô Thức cho dù là người phản đối biến pháp, nhưng cũng không phải là phản đối hết tất cả những thứ của biến pháp, ông ta còn tán thành những cái hay, cái lợi của biến pháp nữa, ví dụ như: Miễn Dịch Pháp (luật bãi bỏ lao dịch.) Khi mới đầu thì ông ta vô cùng phản đối, nhưng sau đó thì ông ta phát hiện ra pháp lệnh mới này rất có lợi với dân chúng. Hơn nữa ông ta lại là người liêm khiết, một lòng yêu nước thương dân, tận tụy trong công việc. Mỗi nơi ông ta đến, ông ta đều tham gia vào công tác thủy lợi, cứu tế dân chúng, giảm thuế, miễn thuế, am hiểu nỗi khổ của người dân, ông ta là một vị quan tốt, rất có ích cho ngươi, có ông ta trợ giúp ngươi sẽ đỡ vất vả đấy! Trẫm sẽ bảo Tiểu Ninh Tử ngầm ra ý với ông ta, để ông ta ủng hộ biến pháp của ngươi. Hơn nữa trong Thánh Chỉ của Trẫm cũng có nói rồi, ngươi có toàn quyền quyết định trong phạm vi cai quản của ngươi, ông ta không có quyền can thiệp, ngươi cứ yên tâm!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong mà vô cùng xúc động, hắn không biết làm gì hơn, chỉ biết cúi người thi lễ tạ ơn, thầm nghĩ Hoàng Thượng suy nghĩ thật chu đáo, tạo dựng cho hắn một môi trường làm việc thuận lợi nhất có thể, nếu hắn không làm ra trò ngỗng gì thì thật mất mặt quá.

Tống Thần Tông lại nói: “Có chuyện này ta muốn nói cho ngươi biết, bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn rất nhiều lần xâm chiếm biên giới, cướp bóc hành hạ dân chúng vô cùng dã man, Trẫm đã mật chỉ cho Hàn Tu nếu có thể thì nên thừa thắng xông lên quyét sạch bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn để tiêu trừ hậu hoạn về sau luôn! Nhưng lại không được phép khuếch đại chiến tranh sang các bộ lạc khác, Trẫm không muốn trở mặt với Thổ Phồn!”

“Vâng, thưa Hoàng Thượng! Tây Hạ, Đại Liêu đều đang rình rập cơ hội! Lúc này chúng ta không nên có thêm một địch thủ nữa!”

“Ngươi hiểu như vậy là tốt!” Tống Thần Tông nở một nụ cười vui vẻ, rồi lại thấp giọng nói: “Trẫm nói cho ngươi biết nhé! Trẫm đã nghĩ kỹ rồi, một khi quét sạch bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn thì Trẫm sẽ bổ nhiệm cho ngươi làm Tây Sơn Vương, ở đó ngươi có thể cải cách theo tư tưởng, đường lối riêng của mình ngươi, tất cả thu nhập đều không cần phải cống nạp cho triều đình! Toàn bộ lợi nhuận thu được ngươi toàn quyền xử lý, phân phối! Ngươi có thể thành lập một đội quân mới, tiến hành cải cách ruộng đất, cải cách quân đội…v…v…Như vậy cũng có nghĩa là, chỉ cần lấy được Tây Sơn thì Trẫm sẽ gi­ao toàn bộ Tây Sơn cho ngươi, để ngươi muốn làm gì thì làm!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì mừng rỡ, hắn không ngờ mình có thể làm Tây Sơn Vương, ha ha ha! Nghĩ đến đây hắn liền vén áo quỳ xuống dập đầu nói: “Vi thần khấu tạ Hoàng ân, vi thần nguyện lấy hết sức mình ra để báo đáp lòng mong đợi của Hoàng Thượng!”

Tống Thần Tông vô cùng hài lòng gật đầu nói: “Được như vậy thì tốt! Bình thân! Ngươi đi đi!”

Đỗ Văn Hạo đứng dậy ngẫm nghĩ một lúc, ngập ngừng muốn nói điều gì đó nhưng rồi lại thôi.

Tống Thần Tông thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Sao vậy? Còn có chuyện gì nữa ư?”

Đỗ Văn Hạo chỉ đưa mắt ra liếc sang hai bên ho nhẹ một tiếng rồi lại im như thóc, không nói thêm câu nào nữa.

Tống Thần Tông trông thấy điệu bộ của hắn như vậy bèn hiểu ý, quay đầu sang nói với Ninh công công: “Tiểu Ninh Tử ngươi bưng mấy đĩa hoa quả lên cho Đỗ đại nhân đi! Trời nóng như thế này Đỗ đại nhân đã toát hết mồ hôi rồi kìa! Có lẽ là cảm nắng rồi cũng nên, chắc lúc nãy đi đường bị trúng nắng rồi! Những người khác cũng lui hết cả ra đi!”

Ninh công công và mấy viên thái giám, cung nữ đứng cạnh đó đều lập tức lui ra hết ngoài, Tống Thần Tông lúc này mới lên tiếng: “Được rồi! Có chuyện gì ngươi nói ta nghe xem nào!”

Đỗ Văn Hạo biết Ninh công công rất nhanh sẽ quay lại đây, do vậy hắn không muốn lãng phí thời gi­an bèn đi thẳng vào luôn vấn đề: “Hoàng Thượng hãy cứu lấy Trần nương nương!”

Tống Thần Tông nghe thấy vậy thì lập tức đứng thẳng người dậy hỏi: “Mỹ Nhân làm sao rồi?”

“Vi thần mấy hôm trước đến đón Liên Nhi! Hoàng Thượng cũng biết Trần nương nương đem Liên Nhi gả cho vi thần, nên nàng vốn là nô tỳ cũ của nương nương, giờ đây khi Liên Nhi sắp phải theo thần vào Tứ Xuyên chính vì thế nàng vô cùng lo lắng cho nương nương của mình, Liên Nhi e rằng một mình Trần Bà không chăm sóc nổi Trần nương nương. Trần nương nương bây giờ bị bệnh vô cùng nghiêm trọng, hơn nữa bệnh của nương nương lại là một bệnh truyền nhiễm rất chi là nguy hiểm!”

Tống Thần Tông nghe xong thì thất kinh nói: “Tình hình bây giờ thế nào? Ngươi mau mau nói cho Trẫm biết!”

Đỗ Văn Hạo trông thấy Tống Thần Tông vẫn còn rất quan tâm đến Trần Mỹ Nhân như vậy thì trong lòng mừng thầm, hắn giả bộ ngần ngừ đôi lúc rồi nói: “Có lẽ nương nương do vì quá thương nhớ Hoàng Thượng nên mắc phải chứng Thất Tâm Phong, cái này thì Hoàng Thượng cũng biết rồi đấy. Ngày nào nương nương cũng dầm mưa dãi nắng, gặp gì cũng ăn, do vậy mới bị nhiễm bệnh, loại bệnh này lây truyền rất nhanh, phải nhanh chóng cách ly Trần nương nương càng sớm càng tốt!”

“Hả?” Tống Thần Tông nghe xong bất giác kêu lên thất thanh, gương mặt trở nên trắng bệch, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói tiếp: “Bệnh này của Trần nương nương không thể một sớm một chiều mà chữa khỏi ngay được, tuy nơi ở của Trần nương nương xa với những nương nương khác, nhưng loại bệnh này lây truyền rất nhanh, do vậy vi thần mong Hoàng Thượng nghĩ ra cách gì đó mà giải quyết càng nhanh càng tốt!”

Vừa đúng lúc này thì Ninh công công đã bưng lên một đĩa hoa quả, trông thấy Tống Thần Tông vẻ mặt căng thẳng đi đi lại lại trong phòng, bất giác cảm thấy lo lắng vô cùng.

“Đỗ đại nhân! Vừa xảy ra chuyện gì vậy?” Ninh công công đặt đĩa hoa quả đặt lên trên bàn rồi vội chạy đến bên Đỗ Văn Hạo dò hỏi.

“Được rồi! Không nên phí phạm thời gi­an nữa, sự việc gấp gáp, Trẫm giờ sẽ đi tìm Thái Hoàng Thái Hậu!” Tống Thần Tông nói xong bèn bước luôn ra phía ngoài cửa, đứa cung nữ đứng chờ ngoài cổng thấy Hoàng Thượng đi ra bèn giật ô lên che nắng cho Tống Thần Tông.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng nối gót chạy theo nói nhỏ vào tai Tống Thần Tông: “Hoàng Thượng đã nghĩ ra nên nói với Thái Hoàng Thái Hậu như thế nào chưa? Vi thần lo rằng…!”

Tống Thần Tông nghe vậy bèn khoát khoát tay ra ý bảo Đỗ Văn Hạo không cần nhiều lời, sau đó sải chân thẳng tiến về tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu.

Đỗ Văn Hạo cũng biết Tống Thần Tông nói cho cùng cũng không phải là hôn quân, hơn nữa Hoàng Thượng lại là một người vô cùng thông minh, trông điệu bộ của Hoàng Thượng rất tự tin, chắc rằng mình chỉ cần đứng bên cạnh phụ họa một hai câu thì chắc cũng chẳng có vấn đề gì cả.

Đỗ Văn Hạo và Ninh công công cùng nối gót theo bước Tống Thần Tông đi đến cổng tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, đứa gác cổng trông thấy Hoàng Thượng đi tới liền vội vã chạy đến nghênh giá, còn người khác thì chạy thẳng vào trong tẩm cung bẩm báo. Rất nhanh, Tiêu công công đã đi ra nghênh đón, rồi ông ta thông báo cho Hoàng Thượng biết Thái Hoàng Thái Hậu đang ở trong vườn cây.

Tống Thần Tông cùng với mấy người liền thẳng bước tiến ra vườn cây của Thái Hoàng Thái Hậu, khi vừa mới đến đây thì Tống Thần Tông liền dừng bước đưa mắt ra nhìn bốn phía, rồi cất tiếng cười sảng khoái nói: “Xem ra sức khỏe của lão tổ tông càng ngày càng khỏe ra, khu vườn này được lão tổ tông chăm sóc tốt quá! Đúng là có cảm giác thanh đạm của chốn điền viên!”

Chương 310: Đại quân tây chinh!

Tiêu công công mỉm cười nói: “Đúng vậy! Lão tổ tông đã bỏ bao nhiêu tâm huyết vào cái vườn hoa này, tuy rằng gương mặt của lão tổ tông có bị phơi đen đi một chút, nhưng mà sức khỏe lại khỏe ra trông thấy, về đêm lão tổ tông ngủ rất ngon giấc, thông thường toàn là ngủ một mạch đến sáng luôn!”

Tiêu công công nhân lúc Tống Thần Tông đang đưa mắt ra bốn bề trông ngắm, bèn lén lút đưa ánh mắt sang dò hỏi Đỗ Văn Hạo như muốn nói Hoàng Thượng hôm nay đến đây làm gì, nhưng Đỗ Văn Hạo lại làm bộ như không biết chuyện gì, chỉ nhún vai một cách miễn cưỡng, Tiêu công công thấy vậy cũng chỉ biết đoán già đoán non mà thôi. Dạo gần đây, Hoàng Thượng rất ít khi đến thăm viếng Thái Hoàng Thái Hậu, mọi người đều biết sau khi Tống Thần Tông vi hành ở Đông Minh Huyện về thì vô cùng bận rộn, ngoại trừ hằng ngày có mấy người Hoàng Hậu hay đến thỉnh an ra, Hoàng Thượng dường như biến mất hẳn, không thấy tăm hơi đâu cả. Nhưng hôm nay, Tống Thần Tông lại đến đây, lại còn có cả Đỗ Văn Hạo đi theo nữa, do vậy Tiêu công công nhất thời không đoán ra được dụng ý của Tống Thần Tông đến đây làm gì.

Tống Thần Tông gật gật đầu nói: “Lão tổ tông hiện giờ đang ở đâu vậy?”

Tiêu công công vội vã cúi người đáp: “Khi nãy lão tổ tông vừa mới quay về phòng của mình, giờ chắc lão tổ tông đang gột rửa thân mình, thay đổi quần áo! Nô tài đã bẩm báo với lão tổ tông rồi, Hoàng Thượng mời đến Thượng Phòng nghỉ ngơi chờ đợi một chút, trên đó có trà Hoa Hồng và trà Kim Hoa để giải nhiệt, hai loại trà này là do đích thân lão tổ tông pha chế đó ạ!” Tiêu công công nói xong bèn cúi người đưa tay ra hiệu mời Tống Thần Tông.

“Không cần phải vội! Không cần phải vội! Trẫm đi lăng quăng, dạo mát một chút để ngắm cảnh cái đã, lâu lắm rồi không đến đây, Trẫm cũng muốn thưởng thức khu vườn của lão tổ tông một chút, nhân tiện tìm một gốc cây ăn quả nào đó rồi tự mình hái xuống ăn thử! Các ngươi chắc chưa có cảm giác đó bao giờ đúng không? Ăn như vậy có cảm giác còn ngon hơn cả khi mình đem chúng rửa sạch rồi cho lên đĩa rất nhiều lần!” Tống Thần Tông vừa nói vừa nhắm mắt lại tưởng tượng cứ như mình đang nếm hoa quả một cách ngon lành vậy.

Mọi người thấy vậy đều mỉm cười tán thành, Tiêu công công cũng thôi không mời Hoàng Thượng lên Thượng Phòng uống trà nữa, trong lòng thầm nghĩ mình quả là đa nghi, hôm nay chắc là Hoàng Thượng nhàn rỗi nên đến chơi vậy thôi, làm gì có việc gì quan trọng đâu.

Tiêu công công lúc này dẫn Tống Thần Tông cùng Đỗ Văn Hạo đi dạo xung quanh trong vườn, đi được tầm khoảng một tuần hương thì ba người đã đi dạo hết cả khu vườn. Lúc này Tiêu công công bèn mời Tống Thần Tông và Đỗ Văn Hạo lên Thượng Phòng dùng trà, sau đó tự thân mình đi mời Thái Hoàng Thái Hậu đến.

Đỗ Văn Hạo từ lúc đến đây vẫn chưa hé môi nói ra một câu nào cả, hắn trông Hoàng Thượng dường như đến đây là để dạo chơi hơn là bàn công chuyện, do vậy hắn cũng cũng chiều theo ý của Tống Thần Tông muốn dạo chơi thì cùng dạo chơi, nhưng thực chất trong lòng hắn lại rất sốt ruột, đứng ngồi không yên.

Trong lúc hắn đang ngồi suy ngẫm thì Thái Hoàng Thái Hậu đã ăn mặc gọn gàng, sáng sủa, sảng khoái tiến đến, mọi người thấy vậy ai cũng đứng hết dậy thi lễ.

Thái Hoàng Thái Hậu đưa mắt sang nhìn Đỗ Văn Hạo rồi mỉm cười nói: “Có phải ngươi muốn đến đây để làm ta rơi nước mắt thêm một lần nữa không? Ai Gia cứ tưởng ngươi đã lên đường đi rồi chứ! Sao giờ này vẫn còn lởn vởn ở kinh thành vậy? Lẽ nào ngươi lại thấy tiếc sơn hào hải vị ở đây, không chịu nổi cảnh đi xa màn trời chiếu đất, cơm bụi canh đất khổ sở hả?”

“Bẩm lão tổ tông! Vi thần không bao giờ có ý nghĩ như vậy cả, nếu mà thần có ý nghĩ như vậy thì chẳng khác nào đã phụ lòng mong đợi của lão tổ tông và Hoàng Thượng!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mỉm cười rồi quay sang bên Tống Thần Tông nói: “Hoàng Thượng! Sao hôm nay lại rảnh rỗi đến thăm Ai Gia vậy?”

“Lão tổ tông thứ tội, tôn nhi thật bất hiếu, khi nào rảnh rỗi thì không đến thăm người, thật không nên như vậy!” Tống Thần Tông thấy Thái Hoàng Thái Hậu nói vậy bàn cúi người đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng sửng sốt thầm nghĩ Tống Thần Tông quả là đáng nể, vừa gặp mặt Thái Hoàng Thái Hậu đã nhanh chóng đi thẳng luôn vào vấn đề, không hề có ý vòng vo Tam Quốc nào cả.

Thái Hoàng Thái Hậu lúc này đã đi đến bên một chiếc ghế rồi ngồi xuống, mọi người thấy Thái Hoàng Thái Hậu đã an tọa rồi thì cũng lục đục ngồi xuống, Thái Hoàng Thái Hậu sau khi thấy mọi người đã yên vị bèn lên tiếng: “Ai Gia biết Hoàng Thượng có chuyện đến tìm, hay là Hoàng Thượng hối hận không muốn cho Văn Hạo đi vào trong Tứ Xuyên hả? Nếu mà như vậy cũng tốt, về sau Ai Gia có bệnh tật gì còn có người khám cho, Ai Gia chẳng tin ai cả chỉ tin một mình Văn Hạo thôi!”

Hoàng Thượng nghe thì mở miệng cười lớn đáp: “Lão tổ tông đã không nỡ để Văn Hạo đi thì cứ giữ lại, chỉ có điều là chim ưng mà lúc nào cũng ở bên mẹ của mình nó sẽ không bao giờ biết bay, biết săn mồi được cả!”

“Hoàng Thượng nói đúng lắm! Ai Gia chẳng qua là nói đùa vậy thôi! Nói đi, lúc này đến tìm Ai Gia chắc là có chuyện gấp phải không? Nếu không phải chuyện gấp chắc Hoàng Thượng cũng chẳng bao giờ đến tìm Ai Gia như bây giờ cả!”

“Lão tổ tông quả nhiên anh minh, bọn ngươi lui hết ra ngoài đi, còn Đỗ ái khanh thì ở lại đây được rồi!” Tống Thần Tông nói xong khoát tay ra hiệu cho những người xung quanh lui hết ra ngoài chờ đợi.

Thái Hoàng Thái Hậu thấy Tống Thần Tông bỗng nhiên thu lại nụ cười lúc nãy của mình, nét mặt trở nên vô cùng nghiêm túc thì bất giác cảm thấy sửng sốt vô cùng.

Tống Thần Tông ngưng thần nhìn Thái Hoàng Thái Hậu một hồi lâu rồi mới chầm chậm nói: “Lão tổ tông! Hậu Cung lúc này phát hiện ra một bệnh ôn dịch đang hoành hành!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì há hốc mồm kinh ngạc đứng bật dậy nói: “Hả? Ai truyền nhiễm vậy? Ôn dịch phát tán từ bao giờ, đã truyền nhiễm cho ai rồi?”

“Lão tổ tông không phải lo lắng như vậy!”

“Không lo lắng sao được cơ chứ? Bệnh ôn dịch chỉ cần lây lan truyền nhiễm thì sẽ vô cùng nguy hiểm, Hoàng Thượng nói xem Ai Gia làm sao lại không lo lắng được cơ chứ?”

Tống Thần Tông ngập ngừng đôi chút rồi mới thấp giọng nói: “Là Trần Mỹ Nhân lây lan căn bệnh truyền nhiễm!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong bèn à lên một tiếng, rồi chầm chậm ngồi xuống ghế, đưa mắt lên nhìn Hoàng Thượng, rồi lãnh đạm nói: “Là nó à! Không sao! Nó cũng đã như vậy rồi, sao? Hoàng Thượng đến lúc này mà vẫn chưa quên được nó hay sao? Hoàng Thượng quả là một người nặng tình nặng nghĩa!”

Đỗ Văn Hạo thấy Tống Thần Tông lúc này có phần khó xử bèn vội vã tiến lên giải tỏa vấn đề: “Bẩm lão tổ tông! Chuyện này là do vi thần khi đến đón người thiếp thứ tư của vi thần là Liên Nhi đi Tứ Xuyên thì phát hiện ra mắt của Trần Mỹ Nhân lồi hết ra ngoài, mặt mũi vàng ởn, trong lòng sinh nghi bèn tiến đến bắt mạch cho nàng ta thì phát hiện trên người Trần Mỹ Nhân nổi đầy hạch nhỏ. Thần cũng chẳng quan tâm đến nó làm gì, nhưng bệnh dịch này một khi mà phát tán có lẽ sẽ nguy hại đến lão tổ tông và Hoàng Thượng cùng với các vị nương nương khác nơi Hậu Cung! Chính vì vậy mà thần đã trực tiếp đến tìm Hoàng Thượng bẩm báo đó ạ!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe xong thì ừ lên một tiếng, nét mặt lúc này mới giãn ra, hoàn hoãn hơn một chút nói: “Thì ra là như vậy, nếu như là Văn Hạo nói thì Ai Gia nghĩ rằng không phải là giả! Nhưng mà Ai Gia vẫn phải đích thân đến xem nó ra sao! Có đúng thật là nó như vậy không?”

“Lão tổ tông! Bệnh dịch này truyền nhiễm nguy hiểm lắm, lão tổ tông không nên đi là tốt nhất!” Tống Thần Tông vội vã tiến đến khuyên ngăn Thái Hoàng Thái Hậu.

Thái Hoàng Thái Hậu liền phất tay ra, đứng thẳng người dậy nói: “Văn Hạo! Ngươi đỡ Ai Gia đứng dậy, chúng ta xem xem tình hình thế nào! Có Văn Hạo ở đây rồi Ai Gia còn sợ cái gì cơ chứ!”

Đỗ Văn Hạo nghe Thái Hoàng Thái Hậu nói vậy bèn vội vã chạy đến đỡ lấy Thái Hoàng Thái Hậu, chầm chậm bước ra ngoài, Tống Thần Tông cũng vội vã bước theo sau.

Khi vừa mới ra khỏi cổng thì bỗng nhiên gió nổi đùng đùng, mây mù kéo đến bầu trời trở nên xám xịt, những đứa cung nữ che ô cho Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng đều bị gió thổi bạt đi, dáng người liêu xiêu lẹo xẹo.

Tống Thần Tông thấy vậy nói: “Lão tổ tông! Gió to như thế này chắc là sắp có giông rồi! Hay là hôm khác chúng ta đi cũng được, việc gì phải gấp gáp như vậy!”

Thái Hoàng Thái Hậu đưa tay ra xua đi nói: “Việc này mới là việc đáng lo! Hậu Cung có bao nhiêu người như vậy, chẳng may bị truyền nhiễm thì vô cùng nguy hiểm, dù gì thì đường cũng không xa lắm, ta nghĩ rằng chúng ta sẽ đến đó trước khi trời đổ mưa đó! Tiểu Tiêu Tử ngươi không cần đi theo Ai Gia đâu có Văn Hạo ở đây rồi, ngươi ở nhà thông báo cho các Thái Y khác chuẩn bị sẵn một bát canh gừng nóng cho ta là được rồi!”

“Vâng thưa lão tổ tông!” Tiêu công công lên tiếng đáp.

“Đi thôi!” Thái Hoàng Thái Hậu nhè nhẹ vỗ lên lưng của Đỗ Văn Hạo, hắn liền hiểu ý vội vàng đưa tay ra dìu lấy Thái Hoàng Thái Hậu tiến về phía trước.

Khi vừa mới tới cổng của Lãnh Cung thì những giọt mưa to như hạt đậu bắt đầu rơi xuống lộp bộp, Đỗ Văn Hạo vội vã dìu Thái Hoàng Thái Hậu đi vào dưới mái hiên tránh mưa, Tống Thần Tông và mấy người khác cũng nhanh chóng bước theo sau.

Cánh cổng của Lãnh Cung lúc này vẫn im lìm vắng lặng, một trận gió to thổi đến cánh cổng không cần người ra mở đã tự động hé ra, rồi bỗng nhiên uỳnh một tiếng đập vang lên rất to cánh cổng giờ này đã mở toang hẳn ra, nhưng trong kia cũng vẫn chẳng có lấy một bóng người nào chạy ra để ý đến nó cả.

Thái Hoàng Thái Hậu liền đưa mắt nhìn vào bên trong, rồi lấy trong người mình ra một chiếc khăn tay đưa lên miệng mình che lại rồi nói: “Trời mưa to gió lớn thế này chắc cũng chẳng có ai chịu ra ngoài đâu, chúng ta không cần vào trong đó ngay bây giờ đâu, chờ cho mưa nhỏ xuống rồi, chờ bọn chúng đi ra là được!” Tống Thần Tông thấy vậy cũng nói chen vào: “Trẫm cũng nghĩ vậy! Bây giờ chỉ còn biết làm như vậy thôi!” Tống Thần Tông nói xong bất giác cảm thấy lành lạnh, có lẽ khung cảnh nơi đây tạo cho người ta có cảm giác lạnh lẽo nên ai nhìn vào bao giờ cũng thấy sởn tóc gáy.

“Ha ha ha! Chim cò bay lả bay la, bay đi bay đi, ta cũng muốn…”

Mọi người đột nhiên nghe thấy tiếng nói trong trẻo của Trần Mỹ Nhân vọng ra từ bên trong, tất cả đều cùng lúc ngó đầu ra nhìn, thì thấy một nữ tử đầu đội mũ phượng xông ra ngoài mưa chạy nhảy múa may, đột nhiên một tia sét xanh giáng thẳng xuống cành cây của gốc Hạch Đào trong vườn, sau đó có tiếng của Trần Bà chạy theo gọi thất thanh: “Nương nương! Mau quay lại!”

Trần Mỹ Nhân vẫn cứ mải mê chơi đùa nhảy múa dưới gốc cây, dang hai tay ra, đầu ngẩng lên trời bỏ ngoài tai lời gọi của Trần Bà. Nàng ta cứ để mặc cho những giọt mưa nặng trĩu rơi vỡ tung tóe lên khuôn mặt, trên thân hình mảnh mai của mình, gió thổi cuồn cuộn hất tung bộ quần áo của nàng lên phấp phới phiêu dị, sau đó lại làm cho nó quấn quanh thân hình của nàng, thể hiện những đường cong linh lung tuyệt diệu. Trần Mỹ Nhân hai mắt nhắm lại môi nở nụ cười, hai tay chầm chậm dang rộng sang hai bên như đang muốn ôm lấy một vật gì vậy.

Từ khi Trần Mỹ Nhân bị gi­am vào trong Lãnh Cung cho đến nay, đây mới là lần đầu tiên Thái Hoàng Thái Hậu gặp mặt nàng, chỉ thấy khuôn mặt của nàng lúc này ngổn ngang vết sẹo đan nhau chằng chịt, một bên mắt cũng đã bị mù, một bên mắt thì lồi hẳn ra ngoài, trông vô cùng kinh khiếp liền bất giác lùi lại hai bước, hai hàng lông mày của Thái Hoàng Thái Hậu bất mãn cau lại vào nhau nói: “Nó, nó sao lại bị điên thế này vậy?”

Chương 310 Đại quân tây chinh! (2)

Tống Thần Tông trông thấy Trần Mỹ Nhân như vậy thì trái tim cũng thắt cả lại, đau đớn nghẹn ngào không nói nên lời, chiếc mũ phượng đó là vật mà Trần Mỹ Nhân đem theo vào cung, nàng rất hay đeo nó cho mình xem, đó là vật vô cùng quen thuộc với mình, nhưng mình dường như đã quên hẳn nàng ta rồi, Tống Thần Tông giờ đây cảm thấy có lỗi vô cùng, nhưng khi trông thấy gương mặt kinh khiếp của Trần Mỹ Nhân thì lại giật mình kinh hãi, bao nhiêu tình cảm thương xót trào dâng ban nãy đã vụt biến mất tăm mất dạng, Tống Thần Tông chỉ biết thở dài rồi quay mặt đi không nói câu gì nữa.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới lên tiếng nói: “Lão tổ tông! Khi vi thần mới đến đây, Trần nương nương nghe bên ngoài có động tĩnh bèn trèo luôn lên xà nhà, ngày trước vi thần thấy có gì đó không ổn, nhưng sau đó mới biết rằng nương nương ngoại trừ mắc phải bệnh Thất Tâm Phong ra, nàng còn ăn đất, ăn cát nói chung là gặp gì cũng ăn, chính vì thế nên thần không chú ý không được, chính vì ăn uống lung tung như vậy nên hiện giờ Trần Mỹ Nhân đã mắc phải một căn bệnh truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, lão tổ tông và Hoàng Thượng tuyệt đối không được đến gần nàng ta!” Nói xong Đỗ Văn Hạo liền bước đến khép cánh cổng lại, chỉ để hở ra một chiếc khe nhỏ, hai tay của hắn vẫn giữ lấy hai cái vòng kéo cửa bên ngoài để đề phòng nếu Trần Mỹ Nhân chạy vồ đến, hắn còn nhanh tay tay khép kịp cánh cổng lại, nhằm cách ly với thế giới bên ngoài. Những đứa cung nữ theo hầu lúc này cũng vây quanh lại để bảo vệ đề phòng bất trắc xảy ra với Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu.

Có vòng bảo vệ an toàn tuyệt đối như vậy rồi, Thái Hoàng Thái Hậu và Tống Thần Tông mới cảm thấy yên tâm, đứng xem Trần Mỹ Nhân qua khe cửa hẹp.

Mưa đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh, chỉ sau một trận mưa như vậy thì cũng đã trời quang mây tạnh, không khí trở nên mát mẻ.

Mọi người thông qua khe cửa trông thấy Trần Bà đi từ trong phòng ra mang theo một bộ quần áo đến bên Trần Mỹ Nhân rồi cẩn thận khoác lên người nàng, sau đó dìu nàng đi vào trong phòng. Nhưng mọi người không ngờ rằng lúc này không biết đứa cung nữ nào chẳng may đá phải chiếc chổi dựng ở ngay cổng đổ xuống phát ra tiếng động, Trần Mỹ Nhân nghe thấy tiếng động đó thì lập tức quay luôn đầu lại, mừng rỡ trông ra phía cổng bên ngoài, rồi chỉ ra đó mà nói với Trần Bà: “Trần Bà! Ngươi xem kìa Hoàng Thượng đến đón ta rồi kìa!” Trần Mỹ Nhân nói xong liền phi thẳng người luôn ra cổng, Trần Bà thấy vậy vội vã lật đật đuổi theo ôm luôn lấy Trần Mỹ Nhân, nước mắt chảy ròng ròng nói: “Nương nương! Mau quay về đi, bộ dạng của nương nương bây giờ đừng nói đến Hoàng Thượng, mà ngay cả thái giám trông thấy cũng sợ hãi! Chúng ta về phòng thôi! Trần Bà sắc cho nương nương thuốc uống, đến giờ uống thuốc rồi!”

Trần Mỹ Nhân nghe xong khuôn mặt trở nên sầu thảm, ngồi phịch luôn xuống đất.

Bên ngoài cổng Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu thông qua khe cửa hẹp có thể trông thấy rõ bộ dạng của Trần Mỹ Nhân, ai cũng nhìn thấy Trần Mỹ Nhân bây giờ điên điên khùng khùng không khác gì lời miêu tả của Đỗ Văn Hạo, dường như trên người của Trần Mỹ Nhân bây giờ rất khó làm cho người ta liên tưởng tới một mỹ nhân nhan sắc tuyệt trần, cử chỉ đoan trang kiều diễm như xưa kia nữa. Gương mặt của nàng, cổ nàng, tay chân đều mang một màu vàng ởn, nhất là con mắt, nó vàng đến mức ai nhìn cũng không thể nào quên được, có lẽ ai trông thấy cũng phải khiếp sợ mà lui lại vài bước.

“Lão tổ tông! Chúng ta không được ở đây quá lâu, bệnh truyền nhiễm này có độ lây lan vô cùng mạnh, cẩn thận vẫn là trên hết!” Đỗ Văn Hạo thận trọng nói.

Thái Hoàng Thái Hậu lúc này mới kịp hoàn hồn lại, đưa tay lên phất một cái ra hiệu cho mọi người cùng lui lại về phía sau.

“Ài! Đúng là cái phận đàn bà!” Thái Hoàng Thái Hậu đột nhiên thốt lên một câu không đầu không đũa, rồi cứ thế im lặng không nói câu nào nữa, mọi người cũng lục đục kéo theo đi về tẩm cung, ai cũng mang trong mình một niềm tâm sự khó tả.

Sau khi uống một bát canh gừng nóng, Đỗ Văn Hạo cảm thấy thân thể của mình ấm lên rất nhiều, chỉ có Thái Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng sắc mặt đanh lại, âm trầm không nói câu gì cả, do vậy mọi người cũng không dám thốt lên lấy nửa lời.

“Nó đã dở sống dở chết như vậy rồi, thì không bằng ta làm phúc cho nó bớt phải chịu khổ vậy, việc này không thể kéo dài mãi được nữa, Tiểu Tiêu Tử ngươi mau mau đi dẫn người đến đó nhanh lên, bất kể những ai đã từng tiếp xúc với nó đều không được giữ lại để trừ hậu hoạn về sau.”

Tiêu công công gật đầu tuân lệnh, đang định lui ra ngoài thì đột nhiên Tống Thần Tông lên tiếng: “Chờ chút!”

“Lão tổ tông! Tôn nhi có một việc không biết có nên nói hay không!”

“Hoàng Thượng cứ nói!”

Tống Thần Tông nghe vậy bèn đưa tay ra vẫy ra hiệu cho mọi người lui hết ra ngoài chỉ còn mỗi Đỗ Văn Hạo ở lại, sau đó Tống Thần Tông liền bước đến trước mặt của Thái Hoàng Thái Hậu nói: “Nếu như thời gi­an sống của Trần Mỹ Nhân không còn là bao nữa thì lão tổ tông hãy tha cho nàng ra khỏi cung, trong nhà của nàng vẫn còn cha mẹ, hai người đó có thể chăm sóc được cho nàng, cho dù nàng bị bệnh mà chết thì cũng coi là lá rụng về cội rồi! Như vậy há chẳng tốt hơn sao!”

Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy bèn ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Ài! Thôi vậy, thôi vậy, Ai Gia không hiểu Hoàng Thượng nghĩ gì nữa, Trần Mỹ Nhân là một đứa ác độc như vậy, thế mà đến tận bây giờ Hoàng Thượng vẫn đỡ lời, cầu xin cho nó. Ai Gia mặc kệ các người muốn giải quyết thế nào thì tùy, dù sao nó cũng đã thân tàn ma dại như thế rồi, e rằng cũng chẳng sống thêm đươc bao lâu nữa, Ai Gia cũng mệt mỏi lắm rồi, các ngươi lui ra hết cả đi!”

Đỗ Văn Hạo nghe Thái Hoàng Thái Hậu phán xong thì thấy hòn đã nặng trĩu treo lơ lửng trong bụng của hắn suốt từ nãy đến giờ đã được gỡ xuống, thầm nghĩ may mà mình gặp Hoàng Thượng tấu trình việc này trước, nếu không thì kết quả cũng chưa chắc đã được tốt đẹp như thế này. Hắn đã nắm đúng thóp của Hoàng Thượng, biết Hoàng Thượng vẫn còn khá nặng tình với Trần Mỹ Nhân, chắc chắn sẽ lo lắng, cầu xin cho nàng, quả nhiên Hoàng Thượng đã làm đúng y như hắn đã dự liệu.

Sau khi ra khỏi tẩm cung của Thái Hoàng Thái Hậu, Tống Thần Tông bèn quay sang Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Trần Mỹ Nhân bây giờ ta gi­ao hết cho ngươi rồi, ngay tối hôm nay ngươi phải đưa ngay nàng ra khỏi cung không được chậm chễ, Trần Mỹ Nhân sau khi rời cung thì ngươi sắp xếp cho Trần Bà theo hầu, lo liệu mọi thứ, nàng ta giờ đây không còn khả năng tự chăm sóc bản thân mình nữa rồi, có người đi cùng cho đỡ khổ thân!”

“Bẩm Hoàng Thượng! Vi thần đã hiểu! Vi thần sẽ đi lo liệu ngay bây giờ đây ạ!” Đỗ Văn Hạo đáp.

Tống Thần Tông lúc này mới trông vào Đỗ Văn Hạo một lúc, cảm khái chầm chậm nói: “Cảm ơn ngươi đã cứu Trần Mỹ Nhân!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng sửng sốt, trông thấy ánh mắt của Hoàng Thượng pha lẫn một nỗi niềm khó nói vô cùng, lẽ nào Hoàng Thượng đã biết mình lừa dối người và Thái Hoàng Thái Hậu rồi sao? Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây cũng không dám nghĩ thêm nữa, cúi người đáp: “Vi thần nguyện đem hết sức mình không phụ lòng mong mỏi của Hoàng Thượng, cho dù là dầu sôi lửa bỏng cũng không bao giờ chối từ!”

“Ừm! Hy vọng rằng Mỹ Nhân sau khi rời khỏi cung sẽ làm lại cuộc đời, đời này kiếp này đứt gánh giữa dòng, đứt mối tơ trời, không được cùng nàng đầu bạc răng long, nguyện kiếp sau được nối tiếp mối nhân duyên này cùng với nàng!”

Hai canh giờ sau, một cỗ xe ngựa dừng ngay trước cổng của Hoàng Cung, Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm đứng ở cạnh xe vẻ mặt vô cùng sốt ruột, lo lắng.

“Thanh Đại tỷ! Tỷ nói xem tướng công đã làm xong việc chưa vậy?” Bàng Vũ Cầm lúc này đã rất sốt ruột, nàng rất lo cho Đỗ Văn Hạo, mồ hôi trên tay nàng không ngừng túa ra, lau thế nào cũng không hết được.

Lâm Thanh Đại nét mặt nghiêm nghị, lặng thinh không đáp, hai mắt của nàng đau đáu trông về cánh cổng của Hoàng Cung, thực ra nàng cũng không biết nên làm thế nào cả, chỉ biết đứng đây im lặng chờ đợi mà thôi. Tuy là toàn bộ kế hoạch Đỗ Văn Hạo thiết kế vô cùng kín kẽ, toàn vẹn không một khe hở nào, nhưng nàng biết Thái Hoàng Thái Hậu không bao giờ muốn buông tha cho Trần Mỹ Nhân cả, chính vì thế cho dù kế hoạch có vẹn toàn đến đâu, nhưng vẫn phải xem ý của Thái Hoàng Thái Hậu, bởi vì chỉ có Thái Hoàng Thái Hậu mới là nhân vật then chốt nhất.

“Đến rồi! Đến rồi kìa!” Tuyết Phi Nhi đang đứng ở cổng của Hoàng Cung nói lên lanh lảnh, lúc này cánh cổng Hoàng Cung hé mở, có bốn năm người đang vội vã chạy ra ngoài, người đi đầu kia không phải ai khác mà chính là Đỗ Văn Hạo.

“Văn Hạo! Mấy người ra được ngoài rồi hay quá!” Tuyết Phi Nhi vội vã chạy lên trước nghênh đón, mọi người lúc này đã trông rõ Liên Nhi và Trần Bà đang dìu đỡ một người dáng người thanh tú, nhưng gương mặt vô cùng bệnh hoạn nhanh chân đi về phía mình.

Khi lên xe xong, Đỗ Văn Hạo liền đưa cái bọc của mình cho Trần Bà rồi dặn dò nói: “Ta đã cho mấy người giúp việc đứng ở ngoài thành chờ hai người rồi, trên đường về nhà hai người nhất thiết phải xưng hô với nhau là mẹ con, nương nương tốt nhất là không nên nói mình họ Trần!”

Trần Bà cảm động nước mắt nước mũi chảy ra như mưa gật đầu liên tục không biết nói gì, sau đó tiếp lấy chiếc bọc trên tay của Đỗ Văn Hạo, còn Trần Mỹ Nhân thì nắm chặt lấy bàn tay của Đỗ Văn Hạo nấc nghẹn nói: “Lần này chia tay không biết bao giờ mới được gặp lại, ơn cứu mạng của Đỗ đại nhân, Tiểu Thu (tên của Trần Mỹ Nhân) nguyện kiếp sau báo đáp!”

Đỗ Văn Hạo nở một nụ cười đáp lại: “Nương nương nên bảo trọng, trong bọc kia có đủ ngân lượng cho hai người về đến nhà, nhưng đường xá xa xôi, nương nương phải kiên trì uống thuốc mới được!”

Chương 310 Đại quân tây chinh! (3)

Trần Mỹ Nhân lúc này đã khóc không lên tiếng, nói không ra lời nữa, nàng chỉ biết đưa đôi mắt cảm kích của mình nghẹn ngào nhìn vào Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo thấy trời cũng sắp chập choạng tối, e sợ đêm dài lắm mộng, vội vã giục hai người mau chóng lên đường: “Được rồi! Được rồi! Chỗ này không nên ở lại lâu, hai người mau đi đi kẻo muộn!”

Liên Nhi lúc này vội vã chạy đến trước cỗ xe, cúi thụp người xuống quỳ lạy trước mặt Trần Mỹ Nhân, đau buồn nói: “Nương nương! Liên Nhi không được hầu hạ người nữa rồi, nương nương phải cố gắng trân trọng sức khỏe của mình!”

“Liên Nhi ngoan lắm! Trước đây ta đối xử không tốt với ngươi, may mà lại gả ngươi cho Đỗ đại nhân, chuyện xấu lại thành chuyện đẹp, chẳng may lại gặp được quý nhân phù trợ, ngươi cũng có được một nơi nương tựa vững chắc, ta cũng vô cùng yên tâm rồi, nếu như có ngày gặp lại, ngươi hãy đến Tô Châu thăm ta, ta sẽ rất nhớ ngươi và Đỗ đại nhân đó!”

Lúc này người đánh xe đã ra roi quất ngựa, âm thanh vang vọng trong không trung, cỗ xe cuốn bụi xé gió phóng đi.

Sáng sớm ngày hôm sau, cánh cổng của Đỗ Phủ giờ này đã rộng mở, tiếp đó là từng cỗ xe ngựa từ trong nối đuôi nhau đi ra ngoài, người thì ngồi, người thì kéo hàng, người thì đánh ngựa, số lượng cỗ xe lên đến mấy chục cỗ, Đỗ Gia ngoại trừ Hàm Đầu cùng với mấy người giúp việc trong nhà ở lại tiếp tục công việc ở Ngũ Vị Đường ra, tất cả mọi người trong nhà đều lũ lượt đi theo Đỗ Văn Hạo vào Tứ Xuyên hết.

Tiêu công công đại diện Thái Hoàng Thái Hậu đích thân đến đây tiễn đưa Đỗ Văn Hạo lên đường nhậm chức, Ninh công công thì theo hắn đến Hoàng Châu để ban chỉ cho Tô Thức, do vậy mà ông ta đã ngồi trên một cỗ xe đem theo cả ngự tiền thị vệ đến đây từ rất sớm.

Bà nội cùng với cha mẹ của Bàng Vũ Cầm, cha của Tuyết Phi Nhi, và các đồng liêu trong triều, bạn bè thân thiết của Đỗ Văn Hạo tất cả đều đến đây tiễn biệt hắn, cái ngõ nhỏ của Đỗ Phủ giờ đây trở nên vô cùng náo nhiệt đông đúc.

Sau khi người nhà của Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi khóc lóc dặn dò con của mình xong, thì mọi người đều lần lượt lên xe rồi hướng về phía người đưa tiễn vẫy tay chào tạm biệt, cả đại đội xe ngựa lũ lượt rầm rập kéo nhau ra cổng phía nam của kinh thành.

Chỗ này, Hàn Tu đã dẫn bốn vạn Cấm Vệ Quân chỉnh tề chờ đợi xuất phát tự bao giờ, khi đoàn xe ngựa của Đỗ Văn Hạo đến nơi thì mọi người nhất tề xuất phát.

Ra khỏi Kinh Thành chừng được mười dặm đường thì cả đại đội đi đến Tống Biệt Đình. Nơi này đã có người của Bộ Lại, Binh Bộ đứng chờ từ sớm, sau một hồi cùng nhau nói những lời chúc tụng, khách khí với nhau xong thì tất cả cùng cạn chén rượu tiễn biệt, bắt đầu từ bây giờ đoàn quân đã chính thức bước lên con đường tây chinh đầy gi­an khổ.

Khi đoàn quân đi được thêm hơn mười dặm đường nữa, thì Hàn Tu đem Cấm Vệ Quân phân làm hai nhánh, một nhánh có năm ngàn quân do Đỗ Văn Hạo thống lĩnh đoạn hậu từ từ theo sau, số còn lại thì do Hàn Tu thống lĩnh đi trước dọn đường.

Năm ngàn quân Cấm Vệ này đều là quân đội thân tín của Hoàng Thượng, họ đều là những người đã thông qua những sự lựa chọn khắt khe nhất, ai nấy đều giáp trụ ngời, gươm giáo sắc lạnh, nét mặt kiên nghị, trông oai phong hùng dũng, khí thế vô cùng.

Công việc đầu tiên của Đỗ Văn Hạo lúc này là kiểm duyệt lại toàn bộ tướng sĩ dưới trướng mình một lượt, sau đó tự giới thiệu mình cùng với phó tướng Lý Phố của hắn, sau đó đại quân tiếp tục tây tiến đến Hoàng Châu.

Khi trời chập choạng tối, đại quân liền dừng chân dựng trại, lần này Hàn Tu xuất chinh thì đại bộ phận đạo quân vận chuyển lương thảo đều bỏ lại đằng sau cho đạo quân của Đỗ Văn Hạo quản lý, do vậy lương thực đối với hắn lúc này không phải là một việc đáng lo.

Vốn dĩ khi ra trận thì không ai được phép uống rượu cả, nhưng đạo quân của Hàn Tu thống lĩnh lúc này là ba vạn năm ngàn quân, dư sức làm cỏ cả bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn, do vậy đạo quân của Đỗ Văn Hạo thực chất cũng chẳng cần tham chiến, chính vì vậy Đỗ Văn Hạo sau khi trưng cầu ý kiến của mọi người, nhất là người quản lý trật tự trong quân đội xong, liền mời hết các tướng tá chỉ huy tất cả đều vào trong lều của mình bày tiệc uống rượu xả láng.

Những tướng tá chỉ huy trong đại quân đều là những con sâu rượu, bợm nhậu nên sau vài tuần rượu các tướng soái, chỉ huy đã anh anh em em với nhau vô cùng thân thiện, ai cũng cầm lấy ly rượu của mình ra đích thân mời Đỗ Văn Hạo, rồi luôn miệng thề thốt mình sẽ trung thành với hắn như thế nào.

Sau vài tuần rượu như vậy, Đỗ Văn Hạo cũng trở nên xuề xòa, thế là hắn gọi hết luôn những tướng sĩ còn lại trong doanh trại vào trong lều mình uống rượu, đồng thời còn nâng cao tình trạng ăn uống tiêu chuẩn của quân sĩ lên một bậc, toàn bộ ba quân đều không biết bản lĩnh đánh trận của Đỗ Văn Hạo ra sao, nhưng bọn họ lúc này cảm thấy hắn tuy là một người rất được Hoàng Thượng trọng dụng, nhưng lại không hề tỏ ra hơn người ngạo mạn, mà ngược lại hắn vô cùng bình dị dễ gần, do vậy ai cũng hết lời khen ngợi hắn, làm thân với hắn.

Trong lúc mọi người đang ngồi trong lều uống rượu vui vẻ, thì có một viên tướng một tay cầm cốc rượu, một tay thì ôm lấy cái đầu của mình, nét mặt vô cùng đau khổ tiến đến bên Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân! Mạt Tướng Từ Tam kính người một cốc!”

Đỗ Văn Hạo từ lúc trước đã được Hoàng Thượng sách phong lên làm Cấm Vệ Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Ngụy đại tướng quân, quan chính ngũ phẩm. Ở đời Tống, võ quan mà làm đến chính ngũ phẩm như hắn là được coi có chức khá cao rồi, giờ hắn lại phụ trách thống lĩnh đại quân tây chinh cùng với Hàn Tu nữa, do vậy những võ tướng theo hầu hắn đều xưng hắn là Đỗ tướng quân.

Đỗ Văn Hạo đưa mắt lên nhìn viên tướng kia một cái rồi hỏi: “Ngươi làm sao vậy? Đau đầu hả?”

“Dạ vâng! Đầu của ti chức đúng là có chút đau!”

Đỗ Văn Hạo trông mặt mày của viên tướng này nhăn nhó, mồ hôi trán túa ra như suối bèn cười nói: “Thôi được rồi! Ta trông bộ dạng của ngươi cũng đoán ra được ngươi đang rất đau, lại đây để ta xem cho ngươi!”

“Ài!…Không có vấn đề gì đâu! Tướng quân cứ an tâm, mạt tướng không có vấn đề gì cả đâu!”

“Đây là mệnh lệnh!” Nét mặt của Đỗ Văn Hạo đanh lạnh, sắc mặt của hắn lúc này trầm hẳn xuống nói: “Nếu ngươi mà bị bệnh thì khi tiền phương cần đến các ngươi viện trợ, sao có sức khỏe để tiếp sức cho đại quân đi trước! Nếu mà đại quân của Hàn tướng quân đột nhiên cần đến chúng ta thật thì ngươi làm thế nào hả? Quân sĩ không có được sức khỏe tốt nhất nhất thì làm sao đánh thắng kẻ địch được cơ chứ?”

Lý Phố lúc này cũng đã ngà ngà say, ông ta hôm nay uống cũng khá nhiều, ngồi ngay cạnh đó thấy Đỗ Văn Hạo nói vậy bèn quay sang Từ Tam cười ha hả nói: “Ngươi đúng là không biết trời cao đất dầy gì cả, Đỗ tướng quân vốn là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu chuyên khám chữa bệnh cho Hoàng Thượng đó! Ngươi được Ngự Y của Hoàng Thượng đích thân ra tay chữa trị cũng không biết sao? Ngươi đúng là phúc bẩy mươi đời rồi đấy! Mau mau tạ ơn Đỗ tướng quân nhanh lên!”

“Dạ! Dạ!” Từ Tam mặt đỏ lựng lên cười trừ đáp, sau đó hắn ta tự nốc cạn cốc rượu trên tay mình, rồi ôm đầu đến bên Đỗ Văn Hạo ngồi xuống.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đau được mấy ngày rồi?”

“Được bảy tám ngày nay rồi!” Từ Tam trả lời, Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn sa sầm nét mặt nói: “Sao ngươi không nói sớm cho ta biết?”

“Hề hề! Mạt tướng cứ tưởng mấy ngày nữa là sẽ khỏi thôi, ai ngờ nó lại càng lúc càng nặng thêm.”

“Đồ ngốc! Ngươi chưa nghe câu che dấu nợ thì nghèo, che dấu bệnh tật thì chết sao? Có bệnh sao có thể âm thầm chịu đựng như vậy? Nếu ngươi cứ chịu đựng mãi như thế này thì cần những đại phu như ta làm gì chứ hả? Bệnh nhỏ mà không chữa thì sẽ dẫn đến bệnh lớn, đến lúc đó sẽ chuyển biến thành bệnh nan y, nguy hiểm vô cùng hiểu chưa?”

“Vâng! Vâng! Ha ha! Mạt tướng hồ đồ quá!”

“Ngoại trừ đầu bị đau ra, ngươi còn thấy mình có những hiện tượng nào khác nữa không?”

“Dạ! Mạt tướng còn thấy mình sợ lạnh nữa, mấy hôm nay lại còn bị sốt, ho, nhưng cũng không có gì nghiêm trọng lắm!”

“Ố! Ngươi đưa tay ra đây cho ta xem nào! Để ta bắt mạch cho ngươi trước đã!”

Sau khi bắt mạch xem lưỡi xong, Đỗ Văn Hạo thấy mạch của hắn phù đập nhanh, màng lưỡi mỏng trắng bợt, hắn liền nói: “Được rồi! Bệnh của ngươi đúng là không có gì nghiêm trọng cả, chẳng qua là chứng Phong Nhiệt Nhức Đầu thôi, ta kê cho ngươi Tang Cúc uống, chỉ cần uống vài thang thôi là ngươi sẽ hết đau đầu ngay thôi!”

“Dạ vâng! Ha ha! Đa tạ Đỗ tướng quân đã ra tay cứu chữa!”

Đại quân xuất chinh ngoại trừ việc lương thảo cùng với vật dụng hằng ngày ra, thuốc thang cũng là một vật không thể thiếu, trong quân đội của hắn lúc này cũng mang đầy ắp mấy bao thuốc theo hắn, do vậy mà thuốc thang của Từ Tam không phải là một vấn đề quá khó với hắn lúc này.

Đỗ Văn Hạo liền cho gọi Thị Phụng Vệ Binh (một chức quan chuyên việc chuẩn bị giấy tờ) mang đến bút nghiên cho hắn, Đỗ Văn Hạo sau khi cầm bút lên liền viết luôn một phương thuốc rồi bảo Từ Tam đến Quân Y cắt thuốc. Bọn tướng sĩ trông thấy Đỗ Văn Hạo quan tâm đến sức khỏe thuộc hạ của mình, lại còn đích thân chủ động ra tay chữa trị cho kẻ dưới như vậy, tất cả đều vô cùng cảm động, do vậy mà bọn họ đều lũ lượt cầm rượu lên kính hắn. Còn có những người thấy mình có một số bệnh vặt vãnh cũng nhân cơ hội này bảo Đỗ Văn Hạo chữa cho, Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là không từ chối ai cả, hắn một bên uống rượu, một bên khám bệnh cho họ, không khí trong lều lúc này trở nên huyên náo nhưng lại rất ấm áp tình người.

Sau khi uống thuốc của Đỗ Văn Hạo kê cho, bệnh của Từ Tam đã thuyên giảm thấy rõ, hắn vui mừng khôn xiết, và bắt đầu từ đó, Từ Tam lại càng nể trọng Đỗ Văn Hạo hơn.

Chương 311: Trong đầm có quỷ!

Đại quân lại đi thêm được mấy ngày nữa, giờ đây chỉ cách Hoàng Châu cũng không xa lắm, Đỗ Văn Hạo e sợ quân đội của hắn quen thói mấy ngày nay rượu chè phè phỡn, mất hết kỷ luật, tinh thần phân tán, nên hắn quyết định hạ trại duyệt binh, chỉnh đốn lại kỷ luật thép trong quân đội, như vậy cũng đỡ để cho Tô Thức trông thấy khỏi phải khinh thường hắn.

Những viên tướng theo Đỗ Văn Hạo thường ngay cười nói vui vẻ, phóng khoáng, nhưng khi đến lúc Đỗ Văn Hạo hạ trại duyệt binh thì tất cả mọi người đều không còn vẻ mặt cười đùa như mọi khi nữa, trông ai cũng nghiêm túc, nhất là khi bọn họ thấy Đỗ Văn Hạo đối xử với họ như anh em như vậy, nên tất cả đều không muốn hắn bị mất mặt trước Tô Thức. Chính vì vậy giờ duyệt binh chưa đến, bọn họ đã chỉnh tề đứng đợi bên lều của Đỗ Văn Hạo từ sớm, người nào người nấy đều ngẩng cao đầu, ngực ưỡn lưng thẳng, trông vô cùng hiên ngang, khí phách.

Đỗ Văn Hạo ngồi ở ngay lều chính của doanh trại quân đội, Quân Tào (tên một chức quan) phụ trách kỷ luật trong quân đội lúc này đã đi đến dâng lên cho hắn danh sách tướng sĩ theo cùng hắn, Đỗ Văn Hạo liền lần lượt điểm danh, khi hắn điểm danh đến tên Từ Tam thì không nghe thấy ai trả lời cả, mà chỉ nghe thấy tiếng khàn khàn khọ khẹ đáp lại, Đỗ Văn Hạo sững người không hiểu vì sao, khi hắn ngẩng đầu lên nhìn thì chỉ thấy Từ Tam đứng ở phía trước, miệng hắn ngáp ngáp nói không thành lời, chỉ đưa tay lên ra hiệu rằng mình đã đến.

Đỗ Văn Hạo cau mày lại hỏi: “Ngươi bị làm sao vậy?” Một viên tướng đứng bên cạnh Từ Tam liền cười cười nói đỡ cho hắn: “Từ Tam bắt đầu từ hôm qua đã nói năng có vấn đề rồi ạ! Hôm nay khi hắn thức dậy thì bỗng thấy mình không nói ra lời được nữa!”

“Ố!” Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục điểm danh, sau khi toàn bộ quân đội đã tề tụ đông đủ, hắn bèn đứng dậy bắt đầu phát hành quân lệnh, ban bố những kỷ luật nghiêm minh trong quân đội, kỷ luật thép mới là cơ sở của thắng lợi, sau khi nói xong những lời rỗng tuếch mà ai cũng biết từ khi nhập ngũ đó xong, thì mọi người được hắn cho giải tán ra về.

Khi Từ Tam chuẩn bị đi, thì Đỗ Văn Hạo bèn gọi giật hắn lại nói: “Ngươi đứng lại! Để ta xem xem ngươi rốt cuộc bị làm sao cái đã!”

Từ Tam vội vã cúi người tiến lại bên Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo liền bảo hắn ngồi xuống, rồi đưa mắt lên quan sát hắn một lúc, Đỗ Văn Hạo lẳng lặng chẳng nói thêm câu nào nữa, hắn cầm lấy tay của Từ Tam để bắt mạch sau đó lại xem lưỡi, hắn phát hiện mạch tượng của Từ Tam y hệt lần trước, bệnh tình không có gì tiến triển tốt cả, hơn nữa phương thuốc mà Đỗ Văn Hạo kê cho Từ Tam thuộc vào loại thuốc mát, liều nhẹ không thể nào làm cho hắn bị mất khả năng nói ra lời như vậy được, trong này chắc chắn phải có nguyên nhân nào đó, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn thấp giọng hỏi: “Hai ngày gần đây có ăn uống bậy bạ, lung tung gì không?”

Từ Tam nghe Đỗ Văn Hạo hỏi vậy bèn mở miệng đáp lại, nhưng miệng hắn chỉ mở ra ngáp ngáp không nói được lên lời, mặt hắn đỏ lựng lên lấy hết sức bình sinh nhưng vẫn vô vọng.

Từ Tam lúc này vô cùng khó xử, hắn không biết nên nói thế nào, bèn đưa tay ra quờ lấy viên Nha Tướng đứng bên cạnh đó, ra ý cho hắn ta nói hộ giúp mình.

Viên Nha Tướng đó vốn là chiến hữu vô cùng tốt của Từ Tam, thấy hắn làm vậy cũng ngường ngượng gãi đầu gãi tai cười trừ nói: “Bẩm tướng quân! Chuyện là thế này, sau khi Từ Tam uống thuốc của tướng quân kê cho hắn xong thì bệnh tình của hắn thuyên giảm rất nhiều, nhưng hắn vẫn cảm thấy đầu của hắn còn hơi đau đau, hắn vốn định đến bảo tướng quân phúc chẩn cho hắn, kê thêm vài đơn thuốc nữa cho hắn uống. Nhưng hắn lại sợ làm phiền tướng quân nhiều quá, cũng đúng lúc đó thì mạt tướng cũng vừa uống say về, nên đã mạnh miệng bảo hắn là chữa bệnh đau đầu dễ lắm! Chẳng cần làm phiền tướng quân làm gì, mạt tướng cũng có thể chữa thay cho hắn, sau đó mạt tướng kê cho hắn uống năm tiền Tế Tân, không ngờ hắn nghe lời mạt tướng thật, hắn cầm luôn bài thuốc của mạt tướng kê cho hắn chạy đến Quân Y đòi năm tiền thuốc, sau khi uống xong không lâu liền cảm thấy đầu càng lúc càng đau, nói chuyện cũng vô cùng khó khăn!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thở dài nói: “Sách Y Học có viết rằng: ‘Người ngoài không biết nói lăng nhăng, không hiểu đạo lý chữa lung tung, đến khi dùng thuốc cứ làm bừa, lẽ nào không phải là lang băm? ‘ Ngươi cũng là một người biết chút ít về y thuật, vậy sao lại không biết câu nói này hả?”

Viên Nha Tướng nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì cảm thấy ân hận vô cùng, hắn bèn chắp tay nói: “Bẩm tướng quân! Mạt tướng biết mình đã sai rồi, mong tướng quân hãy mở lòng nhân từ mà cứu chữa cho hắn!”

“Bệnh tình lúc này của hắn tuy cũng không nguy hiểm lắm, nhưng mà ngươi về sau cũng không nên kê thuốc bừa bãi như vậy nữa, nếu ngươi cứ làm bừa như vậy sẽ thành làm hại người khác đấy!”

Viên Nha Tướng nhe xong liền gật đầu tuân lệnh, rồi lại ngẫm nghĩ một lúc nói: “Bẩm tướng quân! Tế Tân không phải là loại thuốc chuyên chữa nhức đầu sao? Ông nội của mạt tướng là một lang trung, ông đã từng nói với mạt tướng rằng Tế Tân là thuốc chữa nhức đầu, mạt tướng còn tận mắt chứng kiến ông nội dùng Tế Tân chữa được bệnh đau đầu rồi!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Không sai! Tế Tân đúng là thuốc trị nhức đầu, nhưng mà bệnh nhức đầu thì có rất nhiều loại, không phải bệnh nhức đầu nào cũng có thể dùng Tế Tân chữa được, Tế Tân là vị thuốc cay đắng, tính của nó bột, chuyên trị bệnh Phong Hàn Nhức đầu, nhưng bệnh của Từ Tam là Phong Nhiệt Nhức Đầu, bản thân hắn cũng cảm thấy sợ lạnh, ngươi lại dùng Tế Tân chữa cho hắn thì chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa cho căn bệnh của hắn cả! Đầu lại nơi hội tụ của các Dương, Tế Tân sẽ là thuốc dẫn Dương Nhiệt hướng lên, do vậy Từ Tam sẽ càng cảm thấy đau đầu hơn, ngoài ra Tế Tân là vị thuốc rất dễ làm hao tổn khí huyết cơ thể con người, khi uống nhiều nhất cũng chỉ một tiền thôi, đằng này ngươi lại cho tận năm tiền! Như vậy là vô cùng nguy hiểm ngươi biết không? Nếu ngươi biết rằng khi dùng mỗi một mình thuốc Tế Tân với liều lượng lớn sẽ làm cho người ta bị suy kiệt đường hô hấp mà dẫn đến từ vong, thì chắc là ngươi sẽ không bao giờ dám kê đơn bừa bãi như vậy cả!”

Nha Tướng nghe xong thì toàn thân toát mồ hôi lạnh nói: “Vậy hắn có phải đã trúng độc của Tế Tân rồi không?”

“Ừm! Từ Tam hiện giờ đang trong trạng thái trúng độc mức độ nhẹ, nhưng cũng không có vấn đề gì lớn cả đâu, vẫn có thể uống tiếp Tang Cúc, cho thêm Vi Lồ, Mao Cân là được rồi!” Nói xong Đỗ Văn Hạo liền cất bút lên viết đơn thuốc rồi sau đó đưa cho Nha Tướng nói: “Ngươi mau mau đi cắt thuốc cho Từ Tam uống đi! Sau khi uống xong thang thuốc này thì bệnh của hắn sẽ khỏi thôi, đầu cũng hết đau, mà miệng cũng nói được nữa!”

Nha Tướng nghe xong liền cúi người tạ ơn xong rồi liền vội vã chạy đi ra Quân Y cắt thuốc cho Từ Tam.

Đại quân lại tiếp tục lên đường hành quân, giờ đây Đỗ Văn Hạo không còn ngày nào cũng gọi tướng sĩ đến lều của mình mở tiệc uống rượu nữa, mà hắn đổi thành cách ngày mới mở tiệc uống rượu, và định ra quy định, ngoại trừ những tướng sĩ đến lều của hắn mới được phép uống rượu, còn đâu ngoài ra nếu hắn phát hiện ai uống rượu ở ngoài sẽ bị trừng phạt theo luật.

Khi mới truyền lệnh này được có mấy hôm, thì những tướng sĩ thường ngày hay đến lều của Đỗ Văn Hạo uống rượu, không coi luật lệ hắn vừa ban bố ra cái gì, bọn họ vẫn lén lút uống rượu một mình, Đỗ Văn Hạo sau khi phái quân đi kiểm tra thì liền phát hiện ra, ngay lập tức hắn mời ngay người đó đến lều của hắn rồi phạt người vi phạm luật đó ba mươi roi ngay trước mặt tướng sĩ khác, từ đó trở đi, không còn ai dám vi phạm thiết quân lệnh của Đỗ Văn Hạo nữa.

Sau khi đánh xong ba mươi gậy, Đỗ Văn Hạo bèn đích thân đến thăm người bị đánh, rồi chữa trị cho hắn. Mấy viên tướng sĩ phạm tội thấy vậy lại vô cùng cảm kích hắn, và tự nhận thấy mình có lỗi nên đã hứa với Đỗ Văn Hạo rằng bọn họ lần sau sẽ tuân lệnh hắn, quyết không ao giờ phạm luật lần thứ hai.

Việc này tuy nhỏ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao, Đỗ Văn Hạo không những quan hệ với tướng sĩ của mình ngày càng thân mật hơn, mà còn duy trì được sự nghiêm minh trong kỷ luật quân đội của hắn, thiết lập được sự uy tín vô cùng to lớn trong đại quân của hắn.

Bây giờ đại quân chỉ còn cách Hoàng Châu hai ngày đường nữa là tới.

Hành quân nhiều ngày như vậy, nên Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy mệt mỏi. Ngày hôm đó, hắn đang ngồi trên xe ngựa hai mắt díp lại vào nhau, người hắn lắc lư theo từng nhịp của xe ngựa, đang trong lúc hắn ngủ gà ngủ gật như vậy, thì đột nhiên xe ngựa dừng luôn lại, Lâm Thanh Đại bèn đưa tay ra đẩy nhẹ hắn một cái nói: “Văn Hạo! Nơi này phong cảnh đẹp lắm, mọi người đều đi đường mệt rồi, hay là chúng ta ngồi nghỉ ở đây nhé?”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới mở mắt ra, rồi vén rèm nhìn ra bên ngoài, đôi mắt hắn chợt sang hẳn lên, trước mắt hắn bây giờ là một dòng thác chảy xuống thẳng tắp, một luồng khí mát rượi đập vào mặt hắn, trên mặt hắn lúc này vương vấn lấm tấm những hạt nước bắn lên, cạnh đó có một thảm cỏ tươi, đúng là một nơi phong cảnh hữu tình, nên thơ.

Đỗ Văn Hạo vội vàng truyền lệnh cho phó tướng Lý Phố của mình bảo với mọi người ngoại trừ đội quân thị vệ của hắn ra, đại quân tiếp tục hành quân thêm năm dặm đường nữa thì ngồi nghỉ một canh giờ để chờ.

Sau khi truyền lệnh, đại quân tiếp tục hành quân, còn Đỗ Văn Hạo và những người khác thì đánh xe đến bên thác nước rồi dừng xuống.

Sau khi xe dừng lại bên thác nước, Đỗ Văn Hạo bèn dắt mấy người vợ của hắn cùng xuống đây ngắm cảnh, Diêm Diệu Thủ thì chỉ đạo mấy đứa thị vệ đến bên thác nước dựng lều bạt ở gần đó. Liên Nhi và mấy đưa nha hoàn khác bèn đến bên xe đem đồ ăn xuống, thời tiết cũng hơi nóng, nhưng lại không có mặt trời, hai bên đường đều là những gốc liễu xanh mượt là nơi rất thích hợp cho việc nghỉ ngơi.

Chương 311 Trong đầm có quỷ! (2)

Tuyết Phi Nhi vô cùng thích thú, nàng vứt luôn cả đôi giầy Tú Hoa của mình sang một bên, cầm lấy tay của Liên Nhi nói: “Đi nào Liên Nhi! Chúng ta cùng đến bên thác nước rửa chân cho mát nào!”

Liên Nhi lúc này thẹn thùng đáp: “Phi Nhi và hai tỷ tỷ đi trước đi, muội và bọn nha hoàn chuẩn bị đồ ăn cho thiếu gia cái đã!”

Từ khi chia tay với Trần Mỹ Nhân xong, Liên Nhi luôn cứ hay giữ kẽ với mọi người, nàng giờ đây thích ngồi cùng với mấy đứa nha hoàn hơn, và ít nói chuyện với mọi người, lúc nào trông nàng cũng bận rộn làm việc, ngay cả với Đỗ Văn Hạo nàng cũng e dè, cung kính, cẩn trọng.

Đỗ Văn Hạo thấy Liên Nhi nói vậy bèn cười nói: “Liên Nhi! Nàng cứ đi đi, những chuyện vặt này cứ để cho mấy đứa nha hoàn lo liệu là được rồi, nàng đã là thiếp của ta rồi, nếu như nàng cứ bắt mình bận bịu như vậy, thì chẳng khác nào là tranh công tiếc việc của bọn chúng cả, lẽ nào nàng muốn cướp công ăn việc làm của bọn chúng sao?”

Liên Nhi nghe xong thì mỉm cười ngại ngùng, hai má ửng đỏ.

Anh Tử đứng cạnh đó cũng cười nói: “Thiếu gia nói đúng đó, nhị phu nhân và tam phu nhân cứ đi rửa chân cho mát, chỗ này đã có bọn nô tỳ lo cho rồi, cũng chẳng có gì cả đâu, đều là những thứ làm sẵn rồi, chẳng mất thời gi­an đâu!”

Đỗ Văn Hạo thấy nơi này cũng ít người qua lại, vô cùng thanh tĩnh bèn nói: “Chúng ta có phải đi nhầm đường hay không? Chỗ này sao mà lại yên tĩnh như vậy nhỉ?”

Lý Phố nghe vậy bèn tiến đến, ông ta không ngừng dùng ống tay áo đưa lên quạt quạt, mồ hôi nhễ nhại chảy đầm đìa ướt hết cả áo nói: “Bẩm đại nhân! Đại nhân quả nhiên tinh tường, đường chúng ta đi là một con đường tắt, binh sĩ đi trước dò đường phát hiện ra con đường mới đi này! Đại nhân không cần phải bận tâm đâu, ti chức đã cho người đi kiểm tra lại rồi, vô cùng an toàn! Đại nhân cùng người nhà của mình có thể ngồi nghỉ tại đây, ti chức sẽ đưa đám thị vệ đi tuần quanh đây cho đại nhân!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng hài lòng, bèn gật đầu đồng ý. Đợi cho mấy người đi hẳn, hắn liền quay sang Anh Tử nói: “Ngươi có thể đem Tiểu Khả ra ngoài cho nó thở được rồi đấy! Trời nóng thế này cho nó uống chút nước lấy sức đi!”

Anh Tử nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, nàng liền chạy lại xe của mình, chui vào phía trong tháo xích ra cho Tiểu Khả, con hổ liền tung mình nhảy luôn xuống xe, sau đó nó chạy vòng quanh người Anh Tử hai vòng, rồi lại chạy đến trước mặt Đỗ Văn Hạo quỳ xuống đưa lưỡi ra liếm liếm tay của hắn.

Mấy gã thị vệ của Đỗ Văn Hạo cũng biết hắn nuôi hổ, con hổ này hiền như con mèo vậy, nó không ăn thịt, tính tình vô cùng ngoan ngoãn, dễ chịu, và rất chi là nhát gan, chính vì thế mà mọi người đều không sợ nó.

Đỗ Văn Hạo thấy Tiểu Khả liếm liếm tay mình bèn nói: “Nó hình như nóng lắm rồi! Đưa nó đi tắm một cái cho mát!”

Anh Tử nghe xong bèn gật đầu hiểu ý, nàng kéo luôn Tiểu Khả đến bên thác nước, Tuyết Phi Nhi và Liên Nhi đang ngồi trên mỏm đá gần thác nước, thấy Anh Tử đi đến, bèn cười lên khanh khách sau đó dùng gáo nước hất về phía Tiểu Khả, tiếng cười giòn tan của bọn họ vang dội khắp nơi sơn cốc này.

Tiểu Khả rón rén bước đến bên thác nước, sau khi đưa chân trước ra dò dẫm độ sâu, cùng với nhiệt độ của nước xong mới dám dẫm chân xuống, Anh Tử thấy vậy bèn thả dây xích của Tiểu Khả ra, con hổ liền tung người nhảy xuống hố nước dưới chân thác kêu lên tùm một tiếng, nước bắn tung tóe khắp nơi, làm cho mấy người con gái đứng gần đó đều cười lên vui vẻ.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã tháo giầy ra, chân trần bước xuống dưới đầm nước lạnh, một cảm giác mát rượi tràn ngập khắp cơ thể của hắn.

Tuyết Phi Nhi quay sang Lâm Thanh Đại nói: “Tỷ tỷ! Nước mát thật đấy, hay là chúng ta xuống dưới đầm tắm mát một chút đi!”

Bàng Vũ Cầm đứng cạnh đó thấy vậy lên tiếng nói: “Cái này có vẻ không ổn lắm! Nơi này hoang vu vắng vẻ thế này!”

“Sợ gì chứ! Bảo đám thị vệ lui ra phía xa, còn những người đàn ông khác thì bảo họ tránh mặt đi là được chứ gì!”

Đỗ Văn Hạo ngồi cạnh đó cũng nghe thấy mấy người nói chuyện, bèn mỉm cười nói với Diêm Diệu Thủ: “Mấy người bọn ngươi lui vào trong rừng kia hóng mát một chút đi!”

Mấy người này nghe xong liền hiểu ý, vội vã cúi đầu lui vào tít xa hơn mười trượng, ngay cả Ninh công công cũng biết điều lui ra ngoài rừng theo cùng mấy người kia luôn.

Nhưng, Bàng Vũ Cầm vẫn cảm thấy có chút do dự, Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn nói: “Ta có cách này! Chúng ta sẽ cho bọn thị nữ đem lều bạt giăng xung quanh cái đầm này, như vậy sẽ chẳng có ai nhìn thấy chúng ta tắm dưới này cả!”

Tuyết Phi Nhi nghe xong thì vỗ tay nói: “Quá tuyệt! Mau mau làm đi!”

Thế là mọi người liền hạ lệnh cho mấy đứa thị tỳ giăng bạt che xung quanh cái đầm nước dưới chân thác lại, không để chừa ra một khe hở nào cả.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười ha hả nói: “Mấy người phụ nữ các ngươi thật đúng là…! Đến cả tắm rửa cũng phải phiền phức đến như vậy, cứ mặc nguyên quần áo mà xuống có phải là xong rồi không?”

Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn trợn mắt nói: “Thế thì có ý nghĩa gì chứ? Cởi sạch hết ra rồi tắm có sướng hơn không!”

“Hả?” Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt lên.

Tuyết Phi Nhi bèn cười lên khanh khách, sau đó tự tay cởi nút buộc trên váy của mình xuống rồi chui vào sau tấm lều che, sau đó rất nhanh nàng đã cởi sạch toàn bộ quần áo trên người xuống, rồi thò mỗi cái đầu ra ngoài, để lộ cả bộ ngực trắng nõn của mình híp mắt cười nói với Đỗ Văn Hạo: “Tướng công! Chàng có muốn vào tắm cùng không?”

Một bồn tắm tự nhiên, lại có người đẹp tắm cùng nữa, chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn, Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn mở miệng cười hắc hắc, hắn liền từ từ cởi quần áo của mình xuống.

Đúng lúc này từ nơi xa có một giọng nói của một người phụ nữ vọng đến: “Không được! Không được tắm ở đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy thì kinh hãi, hắn quay người lại nhìn, thì thấy cách đó không xa đang có một người phụ nữ trung niên chạy lại đây, xem cách ăn mặc của bà ta thì có lẽ là một người nông dân, trên tay còn cầm một cái giỏ mầu xanh.

Đỗ Văn Hạo thấy vô cùng kỳ lạ, tại sao những tên cảnh vệ lại không hề ngăn chặn bà ta lại, hắn liền lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Đến đây làm gì?”

Người phụ nữ đó trông thấy Đỗ Văn Hạo thân mặc quan phục, thì biết hắn là người làm quan nên vội vã cúi người đáp: “Thảo dân là người dân ở thôn gần đây, lúc trước vì đi hái rau rừng về cho lợn ăn thì mệt quá bèn nằm ngủ trong động!” Đỗ Văn Hạo nghe bà ta nói xong mới chợt hiểu tại sao bọn cảnh vệ không phát hiện để ngăn chặn bà ta lại, hăn bèn lên tiếng hỏi tiếp: “Lúc nãy ngươi nói gì vậy?”

“Bẩm đại lão gia! Nơi này có ma, không được phép tắm rửa đâu, nếu mà tắm ở đây sẽ bị mắc bệnh nghiêm trọng, nhẹ thì bị nằm liệt giường, còn nặng thì sẽ mất mạng!”

Mấy người vợ của Đỗ Văn Hạo đứng sau lều nghe vậy thì sợ hãi vô cùng, bọn họ thà tin lời của bà lão nói, chứ không dám đem mình ra thử nghiệm xem lời nói đó là thật hay giả, do vậy tất cả đều nhanh tay trèo lên bờ mặc luôn quần áo vào.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì cau mày nói: “Ngươi sao lại biết nơi này có quỷ?”

Người phụ nữ đó liền đáp: “Sao lại không biết được! Chuyện này dân phụ đã từng trải qua rồi, sao lại có thể không biết được cơ chứ!”

Lúc này mấy người vợ của Đỗ Văn Hạo đã ăn mặc quần áo chỉnh tề, chui ra khỏi lều che, người phụ nữ trông thấy từ trong lều che bước ra bốn mỹ nhân đẹp như tiên nữ giáng trần, thì vô cùng hoảng sợ, bà ta đứng ở đó mà tay chân run cầm cập, hai mắt như muốn lồi hẳn ra ngoài.

Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn nhẹ nhàng nói: “Ta thích nhất là nghe chuyện ma quỷ, cái đầm nước này có quỷ thật không vậy? Thím kể cho ta nghe được không?”

Người phụ nữ đó chần chừ một lúc rồi mới mở miệng nói: “Đó đã là chuyện của mười lăm năm về trước rồi, hồi đó dân phụ cũng trẻ đẹp như mấy vị phu nhân này! Bất kỳ người đàn ông nào trông thấy dân phụ đều phải nuốt nước bọt thèm muốn! Ha ha!” Người phụ nữ nói đến đó liền bật miệng cười ha hả làm cho Tuyết Phi Nhi và những người khác cũng phải bật cười theo.

Người phụ nữ đó lại tiếp tục kể: “Dân phụ nhớ rằng chuyện là thế này! Ngày hôm đó thời tiết cũng giống với hôm nay, nhà của dân phụ ở ngay sau cái thác này, có một con đường tắt dẫn đến đây rất nhanh, hôm đó dân phụ và chị dâu của mình hai người sau khi làm xong hết công việc, thì thấy thân hình nhơm nhớp khó chịu, áo quần đều bị mồ hôi thấm ướt hết cả, thế là hai người chúng tôi bèn bàn với nhau đến thác nước này để tắm, cái đầm này vì nằm ở nơi vắng vẻ, không gần đường đi, nên rất ít người qua lại nơi đây, chính vì thế nên chúng tôi vui đùa ở đây nửa canh giờ liền. Bởi vì là ban ngày nên trời vẫn sáng, quần áo lại phơi ở trên cây nên chúng tôi cũng hơi lo lắng có người đi qua nhìn thấy, vì thế nên cũng không dám tắm lâu, đang định đi về thì chị dâu của dân phụ đột nhiên kêu lên thảm thiết rồi ngã xuống cái đầm nước này, dân phụ lúc đó không biết xảy ra chuyện gì, vội chạy đến đỡ chị dâu dậy rồi dìu lên bờ, nhưng chị dâu lúc này đã ngất lịm đi rồi, dân phụ liền làm theo cách của ông lang trung trong làng dậy cho dân phụ là ấn vào huyệt Nhân Trung cho chị dâu tỉnh lại, sau đó quả nhiên chị dâu của dân phụ đã tỉnh lại, nhưng khi về đến nhà thì chị dâu bị bệnh, nửa tháng sau thì mất, còn dân phụ thì ngoài việc làm cơm, hái rau rừng ra đều không thể làm được việc gì khác nữa!”

Chương 311 Trong đầm có quỷ! (3)

Tuyết Phi Nhi nghe xong bèn nói: “Không thể như thế được! Làm gì có quỷ giữa ban ngày, người ta không phải hay gặp quỷ vào ban đêm, và hay xuất hiện ở những nơi hoang vu hẻo lánh sao? Nơi này không những có người ở, mà còn là ban ngày nữa, có lẽ thím đã tưởng tượng quá nhiều rồi!”

Người phụ nữ đó nghe vậy bèn thở dài nói: “Dân phụ cũng hy vọng mình đã suy nghĩ nhiều, nhưng sau đó người trong thôn tìm đến một thần bà vô cùng linh nghiệm đến làm phép, khi bà ta vừa vào trong nhà của dân phụ thì liền thay đổi hẳn nét mặt, rồi nhanh chóng lui ra ngoài rồi nói trong phòng của dân phụ âm khí quá nặng, sau đó bà ta phán rằng chị dâu của dân phụ bị con quỷ dưới đầm nó tóm đi rồi, nghe nói con quỷ đó là oan hồn hay vương vẩn dưới đầm, hễ ai xuống đó liền bám lấy cho đến chết!”

Người phụ nữ vừa dứt lời thì Tuyết Phi Nhi đã bắt đầu cảm thấy sờ sợ, nàng vội vã dựa vào vai của Liên Nhi nơm nớp lo lắng.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Như vậy cũng không đúng, tại sao đến giờ bà vẫn còn sống?” Người phụ nữ liền trả lời: “Dân phụ cũng hỏi thần bà tại sao như vậy, thì bà ta nói rằng dân phụ sinh vào mùa đông nên số rất cao, chính vì vậy nên mới thoát chết, nhưng không vì thế mà thoát nạn được, dân phụ từ đó sức khỏe luôn rất không tốt, có lẽ đã bị quỷ bám vào người rồi, những oan hồn dã quỷ đó chỉ tìm cơ hội là nhập vào người sống để được sống lại thôi!”

Liên Nhi nghe xong thì kêu á lên một tiếng kinh hãi, toàn thân nàng run lên cầm cập, chạy thẳng đến bên Đỗ Văn Hạo rồi rúc người vào lòng hắn.

“Thôi được rồi! Xem ngươi dọa người thiếp của ta sợ đến xanh mặt rồi đây này, quỷ với ma rõ là vớ vẩn!” Đỗ Văn Hạo thấy Liên Nhi sợ như vậy bèn trầm giọng nói.

Người phụ nữ kia thấy Đỗ Văn Hạo sa sầm nét mặt xuống bèn vội vã câm miệng lại, không dám nói thêm câu nào nữa.

Lâm Thanh Đại thấy người phụ nữ này bị Đỗ Văn Hạo làm cho sợ hãi thì cảm thấy không bằng lòng, tuy nàng biết hắn không tin vào ma quỷ, nhưng cũng không nên làm người lớn tuổi hơn mình phải sợ hãi như vậy, do vậy nàng bèn tiến tới khuyên giải: “Thiếu gia của chúng tôi không có ý gì đâu xin thím đừng sợ! Nhưng tôi thấy chuyện này có vẻ trùng hợp lắm! Thế về sau có thêm ai bị như vậy nữa không?”

Người phụ nữ đó bèn đáp: “Về sau mọi người đều nghe chuyện này xong liền không cho phép ai được tiếp cận dòng thác này để tắm rửa nữa, những người trong thôn còn lo sợ người ngoài thôn không biết mà đến tắm nên cũng đã dựng một tấm biển ở đây, có lẽ do đêm qua gió to quá nên nó chắc là bị thổi bay xuống dưới đầm nước kia rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đứng lên đưa mắt theo dõi, quả nhiên ở cách đó không xa hắn phát hiện thấy một tấm biển, hắn liền vội vã chạy đến nhặt lên xem xét, quả đúng như người phụ nữ kia đã nói tấm biển có đề dòng chữ: “Nơi này có quỷ, không được dừng chân tắm rửa ở đây!”

Đỗ Văn Hạo trông vậy liền lên tiếng cười hềnh hệch đắc chí, nhưng lại lo mấy người thê thiếp của hắn sợ hãi nên cầm cái biển đó quăng luôn vào trong bãi cỏ gần đấy, rồi mới chầm chậm quay lại chỗ cũ.

Lâm Thanh Đại thấy hắn quay về bèn lên tiếng hỏi người phụ nữ kia: “Vậy khi đó hai người có đi tìm thấy thuốc về khám bệnh không?”

“Tìm rồi! Dĩ nhiên là tìm rồi! Thầy thuốc trong thôn chúng tôi đã khám bệnh cho rồi, ông ta nói rằng tôi và chị dâu bị chứng Hư Nhiệt, thế là kê cho chúng tôi một đơn thuốc để uống, ai ngờ đến sáng ngày hôm sau thì thấy toàn thân lạnh ngắt, hai chân nhức mỏi, hai người chúng tôi lại uống thêm một ngày thuốc nữa thì càng kinh hãi hơn, tay chân lúc đó không thể co duỗi, đi lại bình thường được nữa!”

Tuyết Phi Nhi lúc này mới chỉ vào đôi chân của người phụ nữ kia vẻ mặt khó hiểu nói: “Nhưng tôi trông thấy hai chân của thím chẳng có dấu hiệu gì cả là sao?”

“Chuyện là thế này! Sau khi chị dâu của tôi mất được hai năm, thì có một hôm mọi người trong nhà tôi đều ra ngoài làm việc hết cả, khi đó trời đột nhiên mưa như trút nước, chỉ có một mình tôi ở trong nhà, ngoài sân vẫn đang phơi quần áo mà không ai thu lại cả. Tôi nằm trên giường trông thấy thì vô cùng sốt ruột, bởi vì nằm liệt trên giường cả hai năm trời không biết hai chân mình thế nào nữa, chỉ biết lúc đó do vội vã mà cố gắng xuống giường ra ngoài cất quần áo cho khỏi bị ướt thôi. Sau khi thu dọn hết đống quần áo vào nhà, thì mọi người cũng vừa vặn về đến nơi, thấy tôi đứng đó thì vô cùng kinh ngạc, sau đó mọi người bảo tôi cố gắng đi lại xem sao, mặc dù lúc đó hai chân tôi nhức mỏi, thiếu sức nhưng vẫn cố gắng lết đi được, và bắt từ đó trở đi, chỉ cần không phải tiết trời mưa dầm, ẩm ướt thì đôi chân của tôi không có vấn đề gì cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn nói móc người phụ nữ kia: “Thế ngươi có đi tìm thần bà trong thôn của ngươi hỏi xem rốt cuộc là tại sao ngươi bỗng nhiên đi lại được như vậy không?”

“Có, hỏi rồi! Thần bà nói rằng đây là do phụ thân của dân phụ ngày nào cũng thờ trời khấn phật, nên đã cảm động trời xanh, chính vì thế mà dân phụ mới đi lại bình thường được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy không nhịn nổi cười gật gật đầu nói: “Vậy ngươi tại sao vẫn nói ngươi bị tàn phế không làm nổi việc gì nữa?”

Người phụ nữ đó bèn đáp: “Tuy chân của dân phụ có thể đi lại bình thường được, nhưng mười lăm năm nay ngày nào cũng sau buổi trưa thì dân phụ lại phát sốt, toàn thân nhức mỏi, đầu óc quay cuồng, thần bà nói rằng con quỷ ngày trước vẫn còn bám lấy dân phụ chưa chịu buông tha, chính vì thế nên dân phụ mới bị như vậy!”

Lâm Thanh Đại nghe xong cũng thấy buồn cười: “Thím có lẽ không phải là gặp quỷ đâu mà là bị bệnh đó! Văn Hạo chàng bắt mạch cho Thím ta xem xem! Thím hôm nay cũng gặp may đấy nhé, tướng công của tôi cũng là một thầy thuốc, thím cứ để cho chàng khám cho!”

Người phụ nữ kia ngạc nhiên hỏi: “Mấy người không phải gọi ông ta là đại nhân hay sao? Sao giờ ông ta lại biến thành thầy thuốc rồi?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì cất giọng trầm ấm nói: “Cái này không quan trọng, nhưng mà nếu như ngươi đồng ý để ta xem bệnh cho ngươi thì có lẽ ta sẽ giúp được ngươi diệt trừ căn bệnh quái ác hành hạ ngươi suốt mười lăm năm nay đây! Ngươi có đồng ý không?”

Người phụ nữ kia nghe xong vẫn còn chần chừ, do dự, Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn hứ lên một tiếng nói: “Ài! Thiếu gia nhà chúng tôi là một người nổi tiếng lắm đó, hi hi! Thím đừng có bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này, có rất nhiều người bỏ cả núi tiền ra để nhờ thiếu gia nhà chúng tôi khám bệnh cho cũng không được nữa đâu đấy!”

Người phụ nữ kia nghe vậy thì tin ngay, vội vã chìa tay ra để Đỗ Văn Hạo bắt mạch cho mình.

Nhưng Đỗ Văn Hạo lại không gấp gáp bắt mạch vội, mà hỏi bà ta: “Ngoại trừ những triệu trứng mà ngươi đã nói từ trước, kinh nguyệt hàng tháng của ngươi có đều đặn không?”

Người phụ nữ kia nghe xong thì đột nhiên mặt đỏ hết cả lên, cúi đầu xuống không nói nên lời.

Tuyết Phi Nhi lại phá lên cười nói: “Ối chao! Thím ơi là thím, thím còn biết ngượng ngùng nữa à? Chỗ này ngoại trừ thiếu gia nhà chúng tôi ra thì tất cả đều là phụ nữ hết cẩ, chuyện kinh nguyệt hàng tháng ai cũng biết rồi, thím còn ngượng ngùng cái gì nữa, thiếu gia nhà chúng tôi là thầy thuốc, hỏi thím như vậy cũng là muốn chữa bệnh cho thím thôi, thím cứ ngúng nguẩy như vậy thì sao thiếu gia biết đường mà khám được, lẽ nào thím muốn mình bị bệnh cả đời hay sao?”

Người phụ nữ kia lúc này mặt đỏ như gấc, bà ta đưa mắt ra nhìn tứ phía rồi mới e thẹn lắp bắp trả lời: “Kinh nguyệt…vẫn…vẫn đều đặn, nhưng mà cái…cái…gì mà mỗi lần kinh đến…cái đó gọi là gì nhỉ…nó nhiều lắm…có lần ra nhiều đến nỗi như mình đi tiểu tiện vậy, nếu vào đúng thời tiết như thế này thì cả đũng quần của tôi cũng sẽ ướt sũng mất!”

Nói đến đến đây gương mặt người phụ nữ kia cúi xuống, xấu hổ không biết để đâu cho hết, mặt bà đỏ chín lên như một cái lò nung lửa vậy, Liên Nhi trông thấy bộ dạng của bà ta như vậy cũng cảm thấy ngại ngùng, nàng bèn đưa khăn tay lên che mặt e thẹn lặng lẽ bỏ ra ngoài. Lúc này chỉ còn mỗi Bàng Vũ Cầm và Lâm Thanh Đại tâm lý vững vàng, nét mặt bình thản ngồi ở đó im lặng lắng nghe mà thôi.

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn nói: “Ngươi há miệng ra để ta xem lưỡi của ngươi thế nào nào!” Sau đó hắn ra ý bảo người phụ nữa kia há miệng le lưỡi ra, Đỗ Văn Hạo trông thấy lưỡi bà ta dính đờm, màng lưỡi trăng trắng, sau khi bắt mạch thì thấy mạch đập yếu bèn nói: “Vị lang trung ngày trước kê thuốc cho ngươi, ngươi còn nhớ trong đó có ghi những loại thuốc gì không?”

Người phụ nữ kia ngại ngùng lắc đầu đáp: “Dân phụ một chữ bẻ đôi cũng không biết, hơn nữa nếu đi cắt thuốc gì thì cũng là do người nhà của dân phụ đi cắt cho cả, sau đó sắc thuốc xong thì bưng lên cho dân phụ uống, cái nước đen đen đó dân phụ chỉ biết uống thôi, chứ hỏi người ta ghi thuốc kê đơn làm gì cho mệt xác mình cơ chứ! Đại nhân dường như cũng là người có học đúng không? Chắc là một vị tú tài nên mới có bao nhiêu người theo hầu như vậy! Quả là uy phong! Tướng công của dân phụ không được như đại nhân, đại nhân ra ngoài thì có người theo hầu, còn tướng công của dân phụ ra ngoài chỉ có mỗi một con chó vàng đi theo mà thôi!”

Tất cả mọi người nghe đến đây thì bật cười nghiêng ngả, ngay đến cả một người suốt ngày nghiêm nghị như Lâm Thanh Đại cũng không nhịn được cười.

Chương 312 Nhất đại văn hào ăn rau dại

Đỗ Văn Hạo thấy người phụ nữ này nói cũng đúng, vì bà ta là người nông dân chân đất mắt toét, lấy đâu ra tiền mà học chữ, hơn nữa học chữ đối với thời Tống thì chỉ dành cho đàn ông, ngoại trừ các tiểu thư khuê phòng ra, thì hầu hết phụ nữ đều không được học chữ, hắn thấy vậy cũng không muốn quay sang hỏi Tuyết Phi Nhi xem lúc nãy nàng xuống dưới đầm nước tắm cảm giác ra sao nữa, nhưng Tuyết Phi Nhi lại lên tiếng hỏi hắn: “Thiếu gia! Trong đầm kia rốt cục là có quỷ không vậy?”

Người phụ nữ kia nghe vậy thì chen luôn vào: “Phu nhân còn trẻ đẹp thế này thì chắc chắn con quỷ dưới đầm kia nó thích lắm, phu nhân đừng đi ra cái đầm kia nữa, nếu không thì nguy hiểm lắm…”

“Thôi! Không nói mấy cái chuyện quỷ quái vớ vẩn nữa, trên đời này làm gì có ma với quỷ! Chẳng qua là do hôm đó ngươi và chị dâu của ngươi mồ hôi ra nhiều, cộng thêm nước ở trong đầm lại thuộc tính âm hàn, chính vì thế mà khi hai người xuống dưới đầm tắm thì bị khí hàn xâm nhập, dẫn đến cảm đột ngột, nước lạnh chui qua lỗ chân lông mồ hôi thấm vào trong người, chính vì thế mà hai người mới bị bệnh nghiêm trọng như vậy, cái này chẳng có liên quan gì đến ma quỷ cả hiểu chưa?” Tuy giọng nói của Đỗ Văn Hạo không to, nhưng nét mặt lại vô cùng nghiêm khắc, người phụ nữ kia nghe xong thì kinh hãi, nét mặt nơm nớp lo sợ, không dám nói thêm một câu nào nữa.

Đỗ Văn Hạo trông thấy tiết trời còn tốt, gió thổi hây hây, hắn nhận thấy tiết trời đẹp như thế này mà mấy vị phu nhân của mình không được nô đùa dưới thác thỏa thích thì quả là đáng tiếc, vì thế Đỗ Văn Hạo bèn tiếp tục ra hiệu đồng ý cho mấy người thê thiếp của mình dựng lều lên xuống dưới đầm tắm tiếp, sau đó hắn đưa mắt ra nhìn người phụ nữ với nét mặt lo âu kia nhẹ nhàng nói: “Ta là đại phu đến từ kinh thành, ngươi cứ yên tâm để ta chữa bệnh cho ngươi!”

Người phụ nữ trông thấy Đỗ Văn Hạo kéo theo cả một đạo quan quân đông như vậy, thì biết hắn chẳng phải là một đại phu bình thường, nên cũng không dám từ chối, vội vàng cúi đầu nói: “Dạ vâng! Xin thiếu gia chữa trị cho dân phụ!”

“Đừng gọi ta là thiếu gia, gọi ta là đại phu được rồi, hoặc là thầy lang cũng được mà! Ngươi ngồi xuống đi, ta có một số vấn đề cần hỏi ngươi, sau đó mới khám bệnh kê thuốc cho ngươi uống được!”

“Dân phụ…Dân phụ không có tiền mua thuốc đâu!”

“Ta có thuốc! Ta miễn phí tặng không cho ngươi là cùng chứ gì, như vậy ngươi đã yên tâm rồi chứ? Ta thấy ngươi cũng là người tốt bụng đã nhắc nhở cho chúng ta biết cái đầm này có quỷ nên mới đặc cách cho ngươi như vậy đấy!”

“Ha ha! Mọi người trong thôn đều nói dân phụ là người tốt cả đấy!”

Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu hỏi lại cặn kẽ từng chi tiết phát bệnh của người phụ nữ kia, hắn đã nắm rõ được tình hình của bà ta khi mới phát bệnh: Toàn thân lạnh ngắt, hai chân nhức mỏi, nhất là bụng chân dưới là đau nhức hơn cả, chân không duỗi đi lại được, sau khi được người nhà khiêng về thì đã mời rất nhiều đại phu đến chữa nhưng đều không có hiệu quả nào cả, bệnh tình cứ kéo dài như vậy được mười lăm năm nay rồi.

Đỗ Văn Hạo lại cẩn thận xem xét nét mặt của bà ta thì thấy mặt mày sạm đen, trán nóng, khi vấn chẩn thì biết đầu bà ta hay bị đau nhức, bắp chân dưới căng cứng nhức mỏi, chóng mặt mất sức, kinh nguyệt bình thường nhưng băng huyết nghiêm trọng, lưỡi của bà ta có đờm, màng lưỡi trắng, mạch đập yếu, có lẽ do mắc bệnh lâu năm nên chuyển biến thành khí hư dẫn đến bị viêm, khí trong người lại không đủ. Đỗ Văn Hạo định kê một đơn thuốc Bổ Trung Ích Khí Thang để làm mát giải nhiệt, nhưng trong lòng hắn vẫn cảm thấy có gì đó không thỏa đáng, nhưng lại không biết nó không thỏa đáng ở chỗ nào, cất nhắc một hồi lâu hắn lại hỏi tiếp: “Bao nhiêu năm nay ngươi đã uống thuốc gì ngươi có biết không vậy?”

Người phụ nữ kia bị căn bệnh này hành hạ đến tận mười lăm năm trời, chữa trị bao nhiêu lần không khỏi, thầy thuốc đến chữa trị, cắt thuốc liên miên, nên bà ta nghe thầy thuốc nói nhiều thành biết mình đang uống thuốc gì, do vậy bèn mỉm cười đáp: “Biết chứ! Không biết ngài muốn hỏi loại thuốc của vị đại phu nào?”

“À…Ừm! Người thầy thuốc chữa bệnh cho ngươi gần đây nhất!”

“Ồ! Người đó là lang trung họ Lý ở thôn đông, người ta hay gọi ông ta là Lý lang trung, dân phụ uống thuốc ông ta kê cho đã hai năm rồi, dân phụ thuộc lòng cả bài thuốc ông ta kê cho dân phụ, có Hoàng Uy, Sâm, Bạch Thuật, Thăng Ma, Sài Hồ, Đương Quý, Tiểu Hoàng Uy, Trần Bì, Thanh Hao, Địa Cốt Bì, Viêm Thảo!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì giật thót mình lên, đây lẽ nào không phải là bài thuốc Bổ Trung Ích Khí Thang sao? Hắn lúc nãy cũng đang định dùng bài thuốc này để kê cho người phụ nữ này sử dụng, không ngờ rằng đã có người cho bà ta uống đã hai năm nay rồi, hiệu quả hắn cũng đã thấy, bà ta vẫn bị bệnh tình hành hạ một cách khổ sở. Đỗ Văn Hạo lúc này cảm thấy ngượng chín người, hắn ho khan lên một tiếng rồi hỏi: “Bài thuốc này ngươi uống vào không có chút hiệu quả nào sao?”

“Vâng, đúng vậy, chẳng có hiệu quả gì! Dân phụ vô cùng tức giận, chạy thẳng đến nhà của Lý lang trung mà mắng chửi ông ta, bắt ông ta miễn tiền thuốc thang cho dân phụ!”

“Vậy nếu như ta cũng không thể chữa được bệnh cho ngươi thì ngươi cũng chửi mắng ta đúng không?” Đỗ Văn Hạo trêu đùa bà ta.

Người phụ nữ kia nghe vậy thì hai má đỏ ửng đáp: “Dân phụ không dám! Lý lang trung vốn là một người bà con xa của dân phụ, chính vì vậy mà dân phụ mới dám chạy đến mắng chửi ông ta, đại phu là quan ở kinh thành đến đây, dân phụ làm gì có gan mà làm như vậy, hơn nữa đại phu cũng vì lòng tốt mới khám cho dân phụ, lại còn tặng thuốc nữa, cho dù bệnh chữa không khỏi, dân phụ cũng không nên tìm đại phu mà chửi bới, mà nhiếc móc! Trên đời này làm gì có vị đại phu nào dám nói mình chữa được bách bệnh đâu!”

“Ha ha! Ngươi hiểu điều đó thì tốt rồi, nhưng mà ngươi cứ yên tâm, ta có lẽ sẽ chữa khỏi được bệnh cho ngươi!” Đỗ Văn Hạo tuy ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng của hắn chẳng có tý chắc chắn nào cả, hắn suy ngẫm xem xem hắn đã chẩn đoán sai ở khâu nào, theo lẽ thường thì do bệnh lâu năm nên làm cho thân thể người bị suy yếu là một chuyện đương nhiên, và chứng bệnh thường thấy chính là do Hư Chứng Phát Nhiệt mà ra, trong tình huống này thì nên dùng Bổ Ích Khí Thang là chuẩn nhất rồi! Nhưng mà thực tế cho thấy rằng nó không có hiệu quả, vậy thì bệnh tình không phải là Hư Chứng Phát Nhiệt rồi!

Nên biết rằng, bệnh lâu năm cũng không phải vấn đề to lớn cho lắm, nó bao gồm Thực Chứng và Hư Hàn, Đỗ Văn Hạo e ngại rằng hắn đã biện chứng sai, sau khi suy xét một hồi hắn lại một cách tỉ mỉ, hắn hỏi lại triệu chứng phát bệnh của người phụ nữ kia thêm một lần nữa, rồi lại dò xét kỹ lưỡng thêm một lần nữa, xem xem mình đã biện chứng sai ở chỗ nào.

Đỗ Văn Hạo còn hỏi thêm trong mười lăm năm đổ lại đây, khi căn bệnh tái phát hành hạ thì bà ta xử lý ra sao, được một lúc thì Đỗ Văn Hạo lại phát hiện ra khi bà ta thường có hiện tượng nóng lạnh khác thường, miệng khô đắng, chóng mặt, phát hiện ra điều này ánh mắt của hắn chợt vụt sáng lên, chứng bệnh của bà ta phải dùng Tiểu Sài Hồ Thang kết hợp với Đạt Nguyên để giải Thiếu Dương, tiêu trừ khí độc.

Đỗ Văn Hạo sau nắm rõ bệnh tình bèn gọi một đứa thị tỳ đem giấy bút đến, rồi viết cho một phương thuốc bảo đứa thị tỳ đó mau mau chạy đi cắt thuốc, sau đó hắn lại quay sang người phụ nữ kia nói: “Ta kê cho ngươi một phương thuốc, thuốc cũng sẽ cắt tặng cho ngươi, ngươi về sử dụng là sẽ khỏi ngay thôi!”

“Vâng! Đa tạ Thiếu gia!” Đỗ Văn Hạo nghe thấy bà ta đột nhiên lại xưng mình là thiếu gia bất giác cau mày lại, nhưng lại nghĩ bà ta cũng là do mừng rỡ nên gọi mình như vậy để tỏ lòng kính trọng mà thôi, vì vậy hắn lại mỉm cười gật đầu.

Sau khi tiễn người phụ nữ kia đi xong, thì Đỗ Văn Hạo liền nhanh chóng len lén đi đến gần chiếc lều căng gần đầm nước, trong đó vọng ra những tiếng cười nói lanh lảnh, hắn bèn vén rèm bước vào bên trong, thì thấy bốn người thê thiếp của hắn chỉ quấn quanh mình một chiếc áo lót đang nô đùa với nhau ở dưới nước. Đỗ Văn Hạo thấy vậy máu trong người sôi sục hẳn lên, hắn cởi tung hết quần áo trên người nhảy ùm xuống nước nô đùa cùng với mấy vị phu nhân xinh đẹp như tiên của mình.

Lại nói đến người phụ nữ kia sau khi được Đỗ Văn Hạo kê thuốc cho, về đến nhà đem câu chuyện bà ta gặp hôm nay kể cho mọi người trong nhà nghe, có người khuyên bà không nên uống thuốc của Đỗ Văn Hạo, có người lại nói cứ uống đi, dù sao cũng đã bị bệnh mười lăm năm rồi, có chết đi đâu mà sợ. Người phụ nữ kia nhớ lại khuôn mặt nhân từ của Đỗ Văn Hạo thì lại nghĩ ông ta không những khám bệnh cho mình, còn miễn phí tiền thuốc nữa, mình cũng chẳng có gì để ông ta phải hại mình cả, mà ông ta cũng chẳng rỗi hơi đi hại một người nông dân chân đất mắt toét như mình cả. Nghĩ vậy bà ta bèn đem thuốc lên sắc uống, không ngờ sau khi uống được mấy thang thuốc thì bệnh tình thuyên giảm đáng kể, được một thời gi­an sau thì căn bệnh của bà ta hoàn toàn khỏi hẳn.

Người nhà của người phụ nữ kia thấy bà ta khỏi bệnh thì cảm kích vô cùng, bọn họ đều cho rằng Đỗ Văn Hạo là thần tiên ở trên trời giáng trần chữa bệnh cho bà ta, thế là mọi người trong nhà đều lập bài vị, ngày ngày thờ cúng Đỗ Văn Hạo phù hộ độ trì cho cả gia đình họ. Còn về phần Đỗ Văn Hạo thì hắn không hề biết mình vừa được lập bàn thờ (mặc dù hắn vẫn còn sống), hắn vẫn âm thầm dẫn quân tây tiến, đại quân đi thêm mấy ngày đường nữa thì đến được địa giới của Hoàng Châu.

Từ chỗ địa giới mà đại quân vừa mới đi tới cách Hoàng Châu Châu Nha (Châu Nha ở đây là bộ máy chính phủ cai quản của cả Hoàng Châu) còn nửa ngày đường đi, đội trinh sát đi trước đưa tin về báo nói rằng các quan lại ở Hoàng Châu đã đứng chờ đợi đại quân ở Tống Biệt Đình của Hoàng Châu từ rất lâu rồi.

Thì ra Hoàng Châu Châu Nha đã sớm nhận được thông báo của Bộ Lại, biết được khâm sai đại thần Ninh công công sắp đến để tuyên truyền Thánh Chỉ, do vậy mà quan lại của Hoàng Châu đã phái người đứng đây chờ đợi đã được mấy ngày nay rồi, bọn họ không ngờ đạo quân do Đỗ Văn Hạo lại hành quân chậm như vậy, nhưng không ai dám tự ý bỏ đi, chỉ biết khổ sở đứng ở đây chờ đợi, cuối cùng cũng đợi được đến ngày hôm nay.

Đỗ Văn Hạo cùng Ninh công công bước đến Tống Biệt Đình, từ xa họ đã thấy mấy chục viên quan lại đang đứng đó chờ đợi, sau khi thấy hai người đi đến thì mấy viên quan lại đứng đợi bèn tiến đến rồi cúi người chắp tay thi lễ, trong đó có một vị cao tuổi nhất mình mặc quan bào đứng ngay hàng đầu tiên, trông thấy quan chính ngũ phẩm Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đi đến bèn vội vã chạy lên trước ngênh đón: “Ti chức Diệp Nhất Vinh, Huyện Ủy Hoàng Châu, đại diện Chi Châu lão gia đến ngênh đón nhị vị khâm sai, không biết nhị vị là…?”

Lý Phố lúc này đứng cạnh Đỗ Văn Hạo đã tiến lên giới thiệu: “Đây là truyền chi khâm sai Ninh công công, còn vị này là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phụ, kiêm Ngự Tiền Cấm Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Ngụy, Thành Đô Phủ Nhã Châu Câu Quản Quan Đỗ Văn Hạo, Đỗ đại nhân! (Chức vị của cu Hạo dài quá!)”

Diệp Nhất Vinh nghe xong mặt mày hớn hở cúi người chắp tay nói: “Nhị vị đại nhân đường xá xa xôi vất vả quá! Chi Châu Ngụy Văn Đức của Hoàng Châu ở trong thành chờ đợi đã lâu, nơi đây bọn ti chức đã bày sẵn tiệc rượu kính chờ nhị vị đại nhân! Mời nhị vị cùng các tướng sĩ vào đây nghỉ ngơi đôi chút!”

Ninh công công gật đầu nói: “Đỗ Ngự Y! Vậy chúng ta cùng vào trong đình nghỉ ngơi chút vậy!”

Chương 312 Nhất đại văn hào ăn rau dại! (2)

Đỗ Văn Hạo đáp: “Được! Lý Phố! Ngươi để đại quân dừng lại nghỉ ngơi nửa canh giờ, sau đó chúng ta sẽ xuất phát, rồi đóng trại ngoài thành!” Lý Phố nghe xong bèn cúi người tuân lệnh, sau đó quay người ra ngoài truyền lệnh.

Đỗ Văn Hạo và Ninh công công lúc này mới bước hẳn vào trong đình, Diệp Nhất Vinh vội ra lệnh cho hai đứa nha dịch phía sau mình phóng ngựa vào trong thành báo cho quan Chi Châu biết tin mà chuẩn bị.

Trong đình lúc này, tiệc rượu cũng đã được bày sẵn, Huyện Ủy Diệp Nhất Vinh cùng với mấy người tùy tùng đều cúi người xuống hết cỡ rót rượu mời Đỗ Văn Hạo và Ninh công công, sau khi giới thiệu cho hai người biết về phong tục tập quán, phong cảnh của Hoàng Châu xong thì Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đã đánh chén no say, Diệp Nhất Vinh cũng là người biết uống rượu nên mấy người bọn họ uống rượu với nhau vô cùng vui vẻ, nhưng trong đó có mấy người không uống nổi đành rút lui đứng ra bên ngoài.

Sau một canh giờ, Đỗ Văn Hạo và Ninh công công đều đã ngà ngà say, còn Diệp Nhất Vinh thì đã say mềm ra rồi, chân nọ đá chân kia đứng không vững nữa.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới nói: “Thôi được rồi! Chúng ta vào thành thôi!”

Từ chỗ này vào trong thành thì mọi người không được ngồi xe ngựa nữa, mà phải chuyển sang ngồi kiệu, đây là quy định riếng chuyên dành cho các quan trong triều. Ninh công công lúc này là quan khâm sai nên kiệu của ông ta đi đầu tiên, đi phía trước kiệu của ông ta là một đội Đại Nội Thị Vệ kèn trống rợp trời đi trước mở đường, kiệu của Đỗ Văn Hạo thì theo ngay sau lưng của ông ta, còn đội Thị Vệ của hắn thì đi đoạn hậu phía sau cùng, các vị phu nhân của hắn thì ngội kiệu nhỏ hơn lẽo đẽo theo sau hắn vào trong thành.

Ở cổng thành lúc này, Chi Châu Ngụy Văn Đức thân mặc quan bào, thống lĩnh quan lại và Hương Thân (Hương Thân bao gồm những người có học thi đỗ cao nhưng chưa làm quan, những người địa chủ có học hành, những viên quan lại đã về hưu…) đứng chờ sẵn để nghênh đón đoàn quân của Đỗ Văn Hạo.

Khi chiếc kiệu của Ninh công công vừa mới đến nơi thì Ngụy Chi Châu đã vội vã tiến đến cúi người thi lễ, Ninh công công thấy vậy bèn vén rèm che của chiếc kiệu lên gật đầu nói: “Không cần đa lễ! Hương án trong nha môn đã được bày biện xong chưa vậy?”

Ngụy Văn Đức nghe vậy mỉm cười đáp: “Bẩm! Đã chuẩn bị xong hết rồi, chỉ là…”

“Sao vậy?” Ninh công sa sầm nét mặt lại hỏi.

“Hồi bẩm công công! Người tiếp chỉ của Thánh Thượng là Tô Thức Tô Tử Chiêm đang bị bệnh nặng không thể đến đây được, do vậy không trực tiếp nghênh giá đón chỉ của Thánh Thượng được!”

Tô Đông Pha tên tự là Tô Tử Chiêm, cho dù bị cách chức đến Hoàng Châu làm một chức quan nhỏ, nhưng nói cho cùng thì ông ta cũng là một đại văn hào lớn thời bấy giờ, Ngụy Chi Châu khi nhắc đến ông ta thì cũng tỏ ra vô cùng khách khí.

“Cái gì?” Ninh công công sững người hỏi, ông từ nơi xa xôi đến đây để tuyên chỉ, vậy mà người tiếp chỉ lại bị bệnh liệt giường không ra tiếp chỉ được, đúng là một tình huống trớ trêu, chưa bao giờ gặp phải. Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy bèn vội lên tiếng hỏi: “Vậy bây giờ ông ấy ở đâu?”

“Dạ bẩm! Tô Tử Chiêm đang tĩnh dưỡng ở trong nhà mình!”

Ninh công công thấy vậy bèn nói: “Mau mau dẫn đường nhanh lên, ta và Đỗ Ngự Y cùng đến đó xem tình hình thế nào!”

“Tuân lệnh!” Ngụy Văn Đức bèn phân phó viên quan phụ trách tiếp đãi đưa gia quyến của Đỗ Văn Hạo vào một dịch trạm nghỉ ngơi, sau đó ra lệnh cho mấy người Hương Thân ra về, đến tối mới lại mời bọn họ quay lại phủ dự tiệc, sau cùng ông ta và các quan lại khác mới lên kiệu đi trước dẫn đương cho Ninh công công và Đỗ Văn Hạo ra ngoài thành tìm đến nơi ở của Tô Thức.

“Chờ một chút!” Ninh công công vén rèm che kiệu lên nói: “Bọn ngươi chạy ra ngoài thành làm cái gì vậy?”

Ngụy Văn Đức bèn hạ kiệu xuống, vén rèm lên rồi cúi người đáp: “Bẩm công công! Tô Tử Chiêm ở một ngọn núi ngoại thành phía đông có tên là Đông Pha Sơn, chúng ta đi tìm ông ta thì dĩ nhiên phải ra khỏi thành rồi!”

“Cái gì? Ông ta không phải là Đoàn Luyện Phó Sứ hay sao? Tự nhiên mò ra ngoài thành lên núi ở làm gì?”

“Cái này! Có lẽ mỗi người có một ý tưởng riêng của mình, ông ta có lẽ thích cuộc sống trên núi chăng?”

“Ngươi nói vớ vần gì thế! Ông ta là quan, không phải là nông dân! Thôi được rồi! Cứ đi đến đó trước rồi tính sau!”

Thế là đoàn người rồng rắn nhau lần lượt ra khỏi thành, khi ra khỏi thành được một lúc thì cả đoàn người bắt đầu phải leo núi, tuy nói là núi nhưng thực chất nó chỉ là cái đồi nhỏ, hai bên sườn dốc trồng đầy cây tùng bách.

Trên đỉnh đồi giữa khu rừng nhỏ thấp thoáng ẩn hiện một gi­an nhà cỏ, bên sau gi­an nhà là một vườn rau, trồng các loại rau xanh quả ngọt, phía trước nhà có một cái sân nhỏ, trong sân có đặt vài cái mẹt đựng đầy rau dại, cạnh đó có hai người phụ nữ ngồi trên ghế đá, đang sắp đám rau dại thành từng bó, gần đó có hai đứa trẻ cũng cúi người xuống nhặt rau cùng hai người phụ nữ kia.

Bọn họ lúc này đã ngước mắt lên trông thấy cách chỗ bọn họ không xa đang có một đoàn người kéo đến, đứa trẻ lớn hơn vội đứng dậy chỉ về phía đám người đang đi đến hỏi cái gì đấy, rồi sau đó nó chạy thẳng luôn vào trong nhà, ngay sau đó một người trẻ tuổi từ bên trong nhà bước ra, đứng trước cổng đưa tay lên ngóng nhìn.

Khi kiệu vừa đến cổng của gi­an nhà cỏ thì đều dừng hết cả lại, rồi mọi người mới từ từ bước xuống kiệu ra ngoài.

Người trẻ tuổi kia lúc này đã ra đến ngoài cổng, hai người phụ nữ kia cũng đứng hẳn dậy, tay dắt theo đứa trẻ cùng hướng ra ngoài ngóng trông.

Người trẻ tuổi kia giờ đây đã nhận ra Ngụy Chi Châu, bèn vội vã tiến đến cúi người thi lễ nói: “Chi Châu đại nhân đến rồi đó ư!”

“Ừm! Tô công tử!” Ngụy Chi Châu cũng cúi người đáp lễ, sau đó ông ta liền quay sang Đỗ Văn Hạo và Ninh công công giới thiệu nói: “Vị này là Tô Mại, là con trưởng của Tô Tử Chiêm!” Sau đó ông lại chỉ vào hai đứa trẻ đang đứng trong sân nói: “Còn người kia là nhị tử Tô Tạo, và người này là tam tử Tô Quá!”

Hai nữ nhân đứng gần đó lúc này bèn vội vã dắt hai đứa trẻ vào trong nhà, sau đó bước ra trả lễ đáp: “Thần thiếp tham kiến Chi Châu đại nhân!”

Ngụy Chi Châu lại quay sang Đỗ Văn Hạo và Ninh công công giới thiệu tiếp: “Nhị vị đại nhân! Đây là thê thiếp của Tô Tử Chiêm, cả hai đều họ Vương, gọi họ là Vương Thị. Còn đây là hai vị đại nhân từ kinh thành mới đến, một người là khâm sai tuyên chỉ Ninh công công, còn người này là Đỗ Ngự Y!”

Hai vị phu nhân của Tô Thức nghe xong liền cúi người thi lễ.

Đỗ Văn Hạo lúc này đã liếc nhìn hai vị phu nhân này một cái, hắn thấy hai người đều còn khá trẻ, xem chừng tuổi tác bọn họ, một người tầm trên dưới ba mươi tuổi, người còn lại có lẽ chưa đầy hai mươi tuổi nét mặt vô cùng non nớt.

Ngụy Chi Châu lúc này cung kính chắp tay nói: “Không biết Tử Chiêm huynh bệnh tình ra sao, có ở trong nhà không?”

“Ài! Bị bệnh như vậy rồi còn đi đâu được nữa, vẫn đang nằm trên giường trong nhà, mời các vị đại nhân mau mau vào trong!”

Đỗ Văn Hạo mới bước vào đến sân nhà thì thấy nơi đây nghèo nàn, đơn sơ một cách thái quá, hắn lại quét mắt nhìn vào đám rau dại đặt trong cái mẹt ở giữa sân, rồi thấp giọng hỏi Ngụy Chi Châu: “Bọn họ không phải là ăn những thứ rau cỏ này chứ?”

Ngụy Chi Châu bị hắn hỏi vậy, mặt mũi hiện lên một sự ngại ngùng khó xử đáp: “Thưa vâng! Bổng lộc của Tô Tử Chiêm huynh mỗi tháng chỉ vỏn vẹn có năm trăm quan tiền, không đủ để nuôi cả nhà sáu miệng ăn. Trong nhà có ba người con trai không giúp được gì, do vậy ông ấy mới đề xuất với Nha Huyện rằng cho ông ta ra ở đây để khai hoang, trồng mấy loại rau củ nâng cao đời sống hằng ngày. Bây giờ không phải là vụ mùa, lương thực dự trữ cũng đã dùng hết, không ăn rau rừng thì lấy gì mà sống?”

“Phía sau nhà không phải là đang trồng rau củ hay sao?”

“Chỗ rau đó là để mang vào trong thành bán lấy tiền để mua các vật dụng sinh hoạt hàng ngày đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì buồn bã vô cùng, hắn không ngờ một đại văn hào vĩ đại của Trung Quốc lại nghèo khó đến mức trong nhà không đủ ăn, phải đi hái rau dại về để cầm hơi qua bữa như thế này. Xem ra vụ án Ô Đài đem đến hậu quả quá to lớn cho Tô Thức, không biết tình hình sức khỏe của ông hiện nay ra sao nữa, mìn­hvào xem xét mới được.

Nghĩ vậy hắn bèn nối gót của hai vị phu nhân vào trong phòng của Tô Thức. Trong căn nhà cỏ này mọi thứ vô cùng đơn sơ, giản tiện, các vật dụng trong nhà thì vô cùng rẻ tiền, góc bếp thì được đắp bằng đất, trên đó đặt một chiếc nồi đã đứt một quai, nắp nồi thì có một đường nứt khá to. Đỗ Văn Hạo đưa mắt vào trông cái nồi đang bốc hơi kia thì thấy dường như nó đang nấu thứ gì đó, khi hắn mở vung ra thì phát hiện trong đó chỉ toàn là rau dại trộn với ít cơm cám đang sôi sùng sục.

Lúc này người vợ chính thất của Tô Thức mới vén rèm bước vào trong phòng riêng của Tô Thức nói: “Lão gia! Có Ninh công công vàĐỗ Ngự Y từ kinnh thành đến đây để tuyên Thánh Chỉ, à! Còn cả Ngụy Chi Châu cũng đến rồi nữa!”

Đỗ Văn Hạo nhân lúc vợ của Tô Thức không để ý bèn len lén đưa mắt ra nhìn vào phía trong phòng của Tô Thức, chỉ thấy trên giường lúc này có một người đàn ông gầy như da bọc xương, tầm tuổi trung niên, dưới cằm ông ta râu mọc lung tung, hốc mắt trũng sâu, đang đắp trên người một cái chăn mỏng, gối trên một chiếc gối trúc nhỏ, khó khăn lắm mới mở được mắt ra nhìn xung quanh.

Bên cạnh giường của ông ta có ngồi hai đứa bé trai, một đứa tầm bẩy tám tuổi, đứa kia có lẽ chỉ ba bốn tuổi đang dương đôi mắt to tròn đen nhánh lên nhìn mọi người đứng ở bên ngoài. Đỗ Văn Hạo trông thấy sức khỏe của người đàn ông trung niên kia yếu ớt không có sức sống như vậy thì bất giác cảm khái vô cùng, ai mà ngờ được cái người gầy gò ốm yếu không có sức sống kia lại là Tô Đông Pha, tác giả của hàng loạt những bài thơ hùng hồn, khí phách có một vị trí độc tôn nền văn học Trung Quốc thời Tống cơ chứ?

Chương 312 Nhất đại văn hào ăn rau dại! (3)

Tô Thức lúc này mới ngắt quãng thều thào nói: “Mại Nhi! Mau mau đỡ ta ngồi dây, quỳ xuống tiếp chỉ mau lên!” Tô Đông Pha vừa nói vừa gắng gượng ngóc đầu dậy, rồi lấy hết sức mình chống tay đỡ lấy thân mình ngồi dậy.

Người con trưởng Tô Mại vội vàng chạy đến bên giường đỡ lấy vai của cha mình, đang chuẩn bị đỡ ông ta ngồi thẳng dậy, thì Đỗ Văn Hạo vội vàng hét lên: “Đừng động đậy! Mau để Tô tiên sinh nằm xuống! Mọi người cứ nghe Ninh công công nói trước cái đã, sau đó ta sẽ xem bệnh cho tiên sinh!”

Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn tiến đến đưa tay ra ấn vào vai của Tô Thức, để ông ta nằm hẳn xuống, tuy rằng nằm trên giường tiếp nhận Thánh Chỉ là việc đại nghịch bất đạo, nhưng sức khỏe của Tô Thức không cho phép ông ta ngồi dậy, do vậy coi như cũng không phải có ý khinh thường Thánh Chỉ, nên Ninh công công cũng hiểu ý mà không làm khó Tô Thức.

Ninh công công nở một nụ cười ra nói với Tô Thức: “Tử Chiêm à! Huynh cũng được coi là may mắn rồi đó, huynh biết người đang ngồi trước mặt huynh là ai không? Vị này là thần y đệ nhất thiên hạ hiện nay, là Thái Y Ngự Dụng riêng của Hoàng Thượng, Ngự Tiền Chính Thị Đại Phụ họ Đỗ tên Văn Hạo, tự Vân Phàm. Có Đỗ đại nhân ở đây, cho dù Diêm Vương có đến đây cũng chẳng thể đem Tử Chiêm huynh đi được đâu, ha ha ha!”

Vừa mới nghe Ninh công công nói xong thì người vợ của Tô Thức, Vương Nhuận Chi, và người thiếp của ông ta là Vương Triều Vân đều mừng rỡ vô cùng, hai người đồng loạt vén váy quỳ luôn xuống đất nói: “Ngự Y đại nhân! Mong người hãy cứu lấy tướng công của thần thiếp!”

Ba người con trai trông thấy vậy cũng quỳ luôn gối xuống dập đầu xuống đất kêu lên côm cốp.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì kinh hãi nhanh chân chạy đến đỡ lấy mọi người đứng dậy, đồng thời hắn quay sang hai vị phu nhân nói: “Hai vị phu nhân đừng làm như vậy! Mau mau đứng dậy! Vân Phàm tuy chưa từng quen biết gì với Tử Chiêm huynh, nhưng Vân Phàm đã ngưỡng mộ đại danh của Tử Chiêm huynh đã lâu, lần này lại còn tiếp nhận Thánh Chỉ của Hoàng Thượng đến đây, cũng được coi là đồng liêu với nhau, Vân Phàm nhất định sẽ dùng hết sức mình để chữa trị cho Tử Chiêm huynh!”

Mấy câu nói của Đỗ Văn Hạo lúc này đã thắp lên một niềm hy vọng vô cùng to lớn cho cả gia đình Tô Thức, đây không chỉ là việc Đỗ Văn Hạo chữa khỏi bệnh được cho Tô Thức, mà còn có ý nghĩa khác, đó chính là Tô Thức một lần nữa được Hoàng Thượng tin tưởng trọng dụng trở lại rồi.

Bọn họ chỉ biết tin là sẽ có quan khâm sai đến đây để tuyên Thánh Chỉ thôi, chứ không hề biết nội dung của Thánh Chỉ là gì cả, do vậy trong lòng ai cũng suy đoán xem xem nó là họa hay là phúc. Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì cả nhà của Tô Thức đã hiểu ngay rằng, nội dung trong Thánh Chỉ chắc chắn là có tin vui sắp đến, do vậy nét mặt ai nấy đều trở nên rạng rỡ.

Ninh công công nói: “Tử Chiêm huynh lúc này bị bệnh không ngồi dậy được thì ta cũng có thể hiểu được cho huynh, vậy thì để cho cong trai trưởng của huynh quỳ xuống nhận chỉ thay cho huynh vậy!”

Tô Thức lúc này mới nở ra một nụ cười đầy miễn cưỡng nói: “Đa tạ! Đa tạ công công!”

Con trai trưởng của Tô Thức là Tô Mại nghe xong vội vã vén áo quỳ luôn xuống đất chờ nghe Thánh ChỮ

Ninh công công lúc này bèn lấy trong người ra một cuộn vải màu vàng, sau đó chầm chậm mở nó ra, rồi e hèm một cái cao giọng đọc Thánh Chỉ, sau khi đọc xong bèn trao Thánh Chỉ vào tay của Tô Mại. Tô Mại sau khi tiếp lấy Thánh Chỉ bèn dập đầu tạ ơn, sau đó đứng dậy đem Thánh Chỉ dâng lên cho Tô Thức.

Tô Thức cũng đã nghe xong nội dung của Thánh Chỉ, biết Hoàng Thượng đã phong mình làm Chi Châu của Thành Đô Phủ, Nhã Châu Lộ. Tô Thức trước khi bị cách chức thì ông ta đã từng đảm nhiệm Từ Tâu Chi Châu, do vậy lần này nhậm chức coi như là ông ta đã hồi phục lại chức vụ cũ ngày xưa của mình rồi. Tô Thức lúc này vô cùng xúc động, hai hàng nước mắt bắt đầu rơi xuống lã chã, người con trưởng Tô Mại liền chạy đên bên cha mình đỡ ông ngồi dậy, rồi hướng ông về hướng bắc, Tô Thức bèn chắp tay lại nói: “Vi thần đa tạ long ân của Hoàng Thượng!”

Ninh công công lúc này liền lên tiếng: “Ân nghĩa của Hoàng Thượng thì dĩ nhiên phải tạ ơn rồi, nhưng mà Tử Chiêm huynh à! Nếu như không có Đỗ Ngự Y ở trước mặt Hoàng Thượng tiến cử cho huynh, e rằng cái Thánh Chỉ này huynh cũng không đủ tư cách để mà nhận rồi!”

“Hả?” Cả gia đình của Tô Thức đồng loạt kêu lên một tiếng, rồi cùng nhau nhìn về phía Đỗ Văn Hạo.

Ninh công công thấy vậy bèn mỉm cười giải thích: “Tử Chiêm huynh chắc không biết! Đỗ Ngự Y vốn là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu, kiêm Cấm Vệ Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Úy chính ngũ phẩm, Đỗ Ngự Y không chỉ y thuật như thần, mà còn có những cái nhìn độc đáo về biến pháp nữa! Hoàng Thượng sau khi nghe Đỗ Ngự Y đàm luận xong thì lập tức phong cho Đỗ Ngư Y làm chức Câu Quản Nha Châu Thường Bình Thương, để ông ta tiến hành biến pháp ở Nhã Châu! Biến pháp của Đỗ Ngự Y hoàn toàn khác với cái biến pháp của Vương An Thạch, Đỗ Ngự Y sau khi tiếp chỉ bèn ở trước mặt Hoàng Thượng tiến cử Tử Chiêm huynh lên làm đồng liêu với ông ta, làm Chi Châu của Nhã Châu! Đỗ Ngự Y nói rằng Tử Chiêm huynh là một đại nho sĩ đương đại! Thi ca của huynh cổ kim hiếm gặp! Lại nói Tử Chiêm huynh khi làm quan thì vô cùng am hiểu nỗi khổ của dân chúng, yêu dân như con! Hoàng Thượng nghe xong thì nể mặt Đỗ Ngự Y mà hạ chỉ phong cho huynh lên làm chức Chi Châu Nhã Châu, huynh đã hiểu chưa vậy?”

Tô Thức chưa nghe xong Ninh công công nói đã nước mắt chảy dài, nhìn vào Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đỗ Ngự Y! Ti chức có tài có đức gi mà được Đỗ Ngự Y yêu mến như vậy! Nhuận Chi, Mại Nhi! Sao vẫn còn chưa tạ ơn đại nhân đi! Mau lạy tạ Đỗ Ngự Y nhanh lên!”

Do tâm tình lúc này quá đỗi xúc động Tô Đông Pha đột nhiên ho lên khù khụ, gập hết cả người lại.

Nhưng khi vợ con của Tô Thức vừa mới định quỳ xuống lạy tạ thì Đỗ Văn Hạo đã tiến đến ngăn lại nói: “Đừng làm như vậy! Đây là ân điển của Hoàng Thượng, ta cũng chẳng có công lao gì cả! Việc cấp bách nhất bây giờ chính là chữa bệnh cứu người! Tử Chiêm huynh! Bệnh tình của huynh bây giờ đã chuyển biến vô cùng nghiêm trọng rồi, huynh bây giờ đã có hiện tượng khí huyết suy kiệt rồi, nếu kéo dài thêm nữa e rằng sẽ nguy hiểm đến tính mạng!”

Mọi người nghe xong vội vã lui ra để cho Đỗ Văn Hạo ngồi lên giường xem bệnh cho Tô Thức. Đỗ Văn Hạo sau khi ngồi lên thành giường bèn chăm chú xem xét Tô Thức, hắn thấy trên trán ông ta mồ hôi lấm tấm, hai gò má ửng đỏ, đưa tay lên sờ thì thấy nóng vô cùng, Đỗ Văn Hạo liền hỏi: “Huynh có cảm thấy lạnh không?”

“Ừm! Ngồi dậy thì lạnh, nhưng khi nằm xuống thì lại thấy nóng, nóng đến đột toát mồ hôi!” Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn nói: “Há lưỡi ra cho tại hạ xem!”

Đỗ Văn Hạo trông lưỡi của Tô Thức thì thấy màng mỏng và khô, Đỗ Văn Hạo lại hỏi: “Còn có chỗ nào trong người khó chịu nữa?”

“Xương sườn bên trái vẫn thấy đau nhức, khi ho thì trong đờm có màu đỏ!”

Trong lúc nói chuyện thì Tô Thức lại bắt đầu ho lên dữ dội, trong tiếng ho của ông nghe được cả tiếng ho của đờm, người thiếp Vương Triều Vân của ông ta bèn vội lấy một chiếc khăn lại cho ông nhổ đờm vào trong đó, Đỗ Văn Hạo đưa mắt ra nhìn thì quả nhiên trông thấy trong đờm của ông có máu.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: “Hằng ngày ho ra đờm có nhiều không?”

Tô Thức vẫn ho khù khụ rồi không ngừng thở hắt ra một cách khó nhọc, người vợ Thuận Chi của ông bèn trả lời thay cho chồng mình: “Ho nhiều lắm! Có khi nhiều đến đầy cả ba tách trà này!”

Đỗ Văn Hạo đưa tay ra bắt mạch thì thấy mạch của Tô Thức nhỏ yếu, dây mạch bên phải thì trơn không có lực, hắn cũng thầm đoán ra được căn bệnh đến bảy tám phần rồi, hắn lại lên tiếng hỏi tiếp: “Bệnh kéo dài được bao lâu rồi?”

Vương Nhuận Chi và Vương Triều Vân cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi suy ngẫm, được một lúc thì Nhuận Chi lên tiếng đáp: “Cũng khá lâu rồi! Bọn thiếp cũng cho đi mời đại phu đến khám rồi, nhưng đều không có kết quả gì cả, bệnh tình của tướng công thì ngày càng nặng thêm!” Nói đến đây thì Vương Nhuận Chi nấc lên nghẹn giọng.

Đỗ Văn Hạo ngước đầu lên nhìn trần nhà của căn phòng này, hắn cơ hồ như nhìn được cả ra bầu trời bên ngoài, hắn lại tiếp tục nhìn lên trên bức tường được dựng bằng vỏ cây, chỗ nào cũng có lỗ hổng, Đỗ Văn Hạo thở dài lên một tiếng rồi nói: “Tử Chiêm huynh mùa đông nào cũng phải chịu lạnh đúng không?”

Tô Thức khó khăn lắm mới dứt được cơn ho thập tử nhất sinh của mình, ông từ từ lên tiếng đáp: “Đúng vậy! Căn nhà cỏ này không chịu nổi gió lạnh mùa đông! Ta thì cũng chẳng thấy có vấn đề gì! Chỉ khổ cho vợ con của ta thôi!”

“Huynh còn nói là không vấn đề gì! Ha ha! Bệnh này của huynh có tên gọi là bệnh Mùa Xuân, tại sao gọi nó như vậy? Là tại vì mùa đông huynh bị nhiễm lạnh, hàn khí xâm nhập vào cơ thể rồi thấm khí độc vào trong cơ thể, sau đó nó liền ẩn náu ở trong đó, đợi khi đến mùa xuân khi huynh chẳng may nhiễm cảm thì khí độc đang ẩn náu trong cơ thể của huynh sẽ được dịp bùng phát. Khi huynh mới phát bệnh chắc là huynh sẽ cảm thấy đau đầu, nóng lạnh thất thường đúng không?”

“Đúng vậy!” Tô Thức vô cùng kinh ngạc đáp, ông không ngờ rằng Đỗ Văn Hạo chỉ nhìn ông một cái thôi mà đã nói ra bệnh tình mấy tháng nay của ông rồi, điều này làm ông cảm thấy vô cùng khâm phục trình độ y thuật của Đỗ Văn Hạo.

“Mấy người tìm đại phu đến khám bệnh cho Tử Chiêm huynh người ta kê thuốc thế nào? Có còn đơn thuốc không?”

“Vẫn còn!” Vương Triều Vân đáp: “Để thần thiếp đi lấy cho tiên sinh!”

Vương Triều Vân liền chạy ra cái tủ ở góc tường sau một hồi bới tìm, cuối cùng nàng cũng tìm ra đơn thuốc đưa cho Đỗ Văn Hạo xem.

Chương 313 Tình hình quân sự khẩn cấp

Đỗ Văn Hạo tiếp lấy đơn thuốc rồi đưa mắt lên nhìn một cái nói: “Ma Hoàng, Hạnh Nhân…! Hầu hết đều là thuốc dùng để bài thoát dịch thể trong người, phân lượng của Ma Hoàng lại ít, còn những vị thuốc bài thoát lại quá nhiều, Tử Chiêm huynh vốn đã nhiễm khí lạnh ẩn chứa trong người, sức khỏe của cơ thể không đủ để chống lại được, vậy mà còn bài thoát, như vậy chẳng khác nào càng uống thuốc càng mất khí, làm gì có sức để chống lại khí hàn nữa! Chính vì dùng bài thuốc này nên bệnh tình của huynh mới được thể hoành hành, chuyển biến ác tính như vậy!”

“Hả” Nhị vị phu nhân nghe xong thì sững người kinh sợ: “Thế có nghĩa là sao?”

“Bệnh của Tử Chiêm huynh vốn là do khí độc đã xâm nhập cơ thể từ trước, đến khi mùa xuân về, Tử Chiêm huynh gặp phải cảm gió nên khí lạnh đó chuyển thành khí độc hành hạ cơ thể, chúng ta nôm na có thể gọi nó là khí hàn đến muộn, bệnh này thì có thể dùng Ma Hạnh Cam Cao Thang để chữa trị. Bởi vì tuy nó có những triệu chứng như nhức đầu, nóng lạnh thất thường nhưng nguyên do căn bệnh thì vẫn là do chứng khí hàn đến muộn kia, chính vì thế chúng ta phải thanh giải nó, mà cách thanh giải tốt nhất là làm cho đổ mồ hôi. Vị đại phu lúc trước khám cho Tử Chiêm huynh không hiểu sao lại khai nhầm đơn thuốc, ông ta dùng Ma Hoàng, Hạnh Nhân tưởng rằng bài thoát là có thể giải tỏa khí hàn, nhưng ông ta không biết rằng cái bài thoát dịch khí này chỉ là bài thoát dịch thể trong cơ thể con người, mà dịch thể ở đây bao gồm cả khí huyết, khí huyết bị bài thoát thì sẽ làm cho người ta mất sức, mà mất sức thì làm sao đối chọi được với khí hàn đến muộn kia, chính vì vậy mà bài thuốc của ông ta đã làm tổn hại đến khí huyết trong cơ thể của Tử Chiêm huynh, và làm cho khí hàn đến muộn kia càng được có cơ hội để hoành hành. Ông ta có lẽ không biết rằng dùng thuốc Ma Hoàng để chữa cho căn bệnh này sẽ làm cho người bệnh ho ra máu rồi chuyển biến thành bệnh nan y vô cùng nghiêm trọng, có khi còn nguy hiểm đến tính mạng con người nữa! Đúng là lang băm giết người không cần dao!”

Nghe Đỗ Văn Hạo giải thích xong thì Vương Nhuận Chi và Vương Triều Vân đều giậm chân xuống đất tức giận nói: “Chả trách mà sau khi lão gia uống thuốc xong bệnh càng lúc càng nặng thêm, lúc nào cũng thấy đau đầu, khô miệng, thì ra là do tên lang băm đó! Vậy bây giờ phải làm thế nào đây?”

“Cái này không vội!” Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy vị đại phu tiếp theo kê thuốc ra sao?”

Vương Triều Vân lại chỉ vào tay Đỗ Văn Hạo nói: “Đơn thuốc được kẹp hết vào với nhau đấy, tiên sinh cứ giở nó ra là thấy, nó ở đằng sau ấy!”

Đỗ Văn Hạo lại lật sang trang khác xem, hắn liền cau mày nói: “Quế Chi Ôn Đảm Chư Thang? Lang băm, ăn hại! Đúng là một lũ sâu mọt ăn hại! Quế Chi mà uống vào khí dương bốc lên đánh nhau với khí lạnh, nếu không cẩn thận thì người sẽ bị đột tử ngay tức khắc!”

Nhị vị phu nhân cùng Tô Thức nghe xong thì mặt mày thất sắc vội hỏi: “Ông ta cũng kê sai phương thuốc sao?”

“Đúng vậy! Không những thế còn kê sai hoàn toàn” Đỗ Văn Hạo nghiến răng ken két nói: “Cắt thuốc như thế này không những không giải trừ được khí hàn, mà còn dẫn hỏa công tâm, tổn hại chân khí!”

Đỗ Văn Hạo tức đến độ thở dốc, không chờ mọi người kịp có phản ứng gì thì hắn đã lại nói tiếp: “Tử Chiêm huynh nhiễm bệnh cũng khá lâu ngày rồi, bệnh của huynh đã chuyển biến thành bệnh Thiếu Dương Quân Hỏa rồi, Thiếu Dương Quân Hỏa là hiện tượng Dương Khí đã được hỏa nhiệt tương hỗ, cho dù trong người có khí hàn đến muộn nhưng hàn nhiệt hai khí lại hội tụ cùng một chỗ và xẩy ra xung đột với nhau, khí huyết trở nên hỗn loạn, do vậy phải thanh trừ khí hàn đến muộn trước sau đó mới dẫn nó thoát khí qua đường mồ hôi, phải tuần tự từng cái một mới mong khỏi bệnh. Đại phụ khi trước khám bệnh cho Tử Chiêm huynh đã sử dụng thuốc bài trừ khí dịch lung tung, làm cho khí huyết thất thoát ra ngoài, tổn hại sức khỏe nên lúc này phải dùng Bạch thược Cam Thảo Thang Phả để vãn hồi lại tình hình, nhưng huynh lại được một tên lang băm khác cho dùng thuốc Quế Chi Ôn Đảm Chư Thang không những không vãn hồi được mà còn làm cho đờm ra nhiều hơn, khí huyệt đảo lộn, dẫn đến ho ra máu, tình hình của Tử Chiêm huynh bây giờ là vô cùng nghiêm trọng!”

Đỗ Văn Hạo giải thích một thôi một hồi xong Tô Thức và người nhà của ông ta đều nghe ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm vậy, nhưng bây giờ họ đều có thể biết được một chuyện, đó chính là hai người đại phu lúc trước là bọn bất tài chữa bệnh lung tung, dùng thuốc bừa bãi chính vì thế mà bệnh tình của Tô Thức mới càng lúc càng nặng, giờ đây nghe thấy hai chữ nghiêm trọng thì rất lo lắng, bèn vội vàng lên tiếng hỏi: “Đỗ Ngự Y! Bây giờ phải làm thế nào đây?”

“Phải giữ một phần dương, rồi trừ một phần nhiệt!” (xin lỗi các vị độc giả, mình không phải là người am hiểu nhiều về trung y nên cũng chẳng hiểu nó có ý gì nữa, mong các bạn thông cảm, có vị độc giả nào làm thuốc trung y hiểu được có thể pm cho mình!)

Câu giải thích này của hắn làm cho tất cả mọi người đều lắc đầu ngao ngán, chẳng ai hiểu nổi hắn đang nói cái gì, chỉ dương mắt ra nhìn hắn mà thôi (Đấy thấy chưa! Ngay cả người Trung Quốc như họ còn không hiểu, chẳng trách được mình he he!)

Đỗ Văn Hạo chỉ lẳng lặng tiến đến chiếc thư án đặt gần đó, đưa bút lên viết một đơn thuốc rồi nói: “Tình hình bệnh tình của Tử Chiêm huynh lúc này đã rõ hơn bao giờ hết, căn bệnh này bắt buộc phải dưỡng khí âm để giữ nguyên khí, đại khái như chúng ta trồng rau, muốn rau con sinh trưởng thì phải dưỡng mầm tưới gốc chăm sóc cẩn thận bảo vệ sức khỏe cho nó, đây chính là nguyên lý của dưỡng khí âm để giữ nguyên khí, vì Tử Chiêm huynh ngồi dậy thấy lạnh, mà nằm xuống lại nóng và toát mồ hôi, mà toát mồ hôi kiểu này lại không thể thanh trừ khí hàn đến muộn, mà lại làm cho khí âm thoát ra, chính vì thế nên phải dùng Mẫu Lệ để cầm mồ hôi, sau đó dùng A Gi­ao bồi bổ chân khí, dùng Tiên Thạch hòa hoãn khí âm lạnh, nhuận tràng ích thận, vị, đây mới chỉ là bài thuốc sơ khai ban đầu, vì nó vẫn còn thiếu một loại thuốc dẫn nữa!”

“Thuốc dẫn đó có tên là gì vậy?” Nhị vị phu cùng đồng thanh hỏi.

Đỗ Văn Hạo trầm tư một lúc rồi mới nói: “Là sữa mẹ!”

“Hả? Còn phải cần sữa mẹ để làm thuốc dẫn nữa hay sao?” Nhị vị phu nhân cùng đỏ mặt kinh ngạc hỏi.

“Đúng vậy, sữa của con người vốn là nơi tồn trữ của huyết dịch, có thể hồi phục sức khỏe, đả thông kinh lạc mà bất kỳ các vị thuốc khác không thể thay thế được!”

“Nhưng mà bây giờ chúng ta biết đi đâu tìm sữa bây giờ?” Nhị vị phu nhân sốt ruột nói.

Ngụy Chi Châu lúc này mới lên tiếng nói: “Việc này không khó, sau khi vào trong thành lão phu sẽ lập tức cho người đi tìm xem ai mới sinh nở, rồi đến xin người ta một hai bát, đơn giản vô cùng!”

Ninh công công cũng cười nói chen vào: “Một ý rất hay! Mau mau cho người đi tìm trước đi, chỗ này cái gì cũng không có, không có thuốc uống, cũng chẳng có thuốc dẫn, vào trong thành là hay nhất. Nói cho cùng thì bệnh của Tử Chiêm huynh cũng phải chữa cho đàng hoàng, sau khi khỏi bệnh còn phải lên đường nhậm chức nữa, ai lại còn ở trên cái nơi đồng không mông quạnh, đồi núi heo hút như thế này để trồng rau bao giờ! Tử Chiêm huynh! Huynh thấy ta nói có đúng không?”

Tô Thức miễn cưỡng nở một nủ cười đáp: “Cứ theo ý công công mà làm!”

“Vậy thì tốt, mời nhị vị phu nhân mau mau thu xếp hành lý chúng ta cùng xuống núi luôn bây giờ! Ngụy Chi Châu! Ngươi mau mau gọi người đến khiêng Tử Chiêm huynh vào thành, đúng rồi, đem đơn thuốc cùng với thuốc dẫn ghi lại cho người đem vào trong thành chuẩn bị trước đi, chờ người của chúng ta xuống núi vào trong thành thì đã có thuốc sẵn để dùng luôn rồi, như vậy tiện cả đôi đường!”

“Vâng! Đúng vậy!” Ngụy Chi Châu bèn vội vã gọi hai tên nha dịch chạy đến bên Đỗ Văn Hạo tiếp lấy đơn thuốc trong tay của hắn rồi nhanh chóng chạy về thành trước chuẩn bị thuốc thang. Sau đó Ngụy Văn Đức liền sai người dỡ bỏ cánh cửa của căn nhà cỏ này của Tô Thức, sau đó ông ta cho bốn người lực lưỡng mỗi người một chân giường cứ thế mà khiêng Tô Thức xuống núi.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng không ngồi lên trên kiệu của mình nữa, mà lẽo đẽo đi theo chiếc giường của Tô Thức từ từ xuống núi. Trông Đỗ Văn Hạo không chịu ngồi kiệu thì Ninh công công cũng xuống đất cuốc bộ đi theo với hắn, Ngụy Chi Châu cùng với những quan lại khác trông thấy hai người bọn họ như vậy thì ai dám ngang nhiên mà ngồi trên kiệu xuống núi nữa.

Lúc này Đỗ Văn Hạo đưa tay ra gọi Ngụy Chi Châu lại bên hắn rồi nói: “Chi Châu đại nhân! Đại nhân đối xử với thuộc hạ của mình có phần không công bằng rồi đây! Ngươi trông thấy một đại văn hào nổi tiếng như Tô Thức nghèo nàn, bệnh tật triền miên như vậy mà chẳng ra tay cứu tế cho ông ta thì thôi, đằng nay ngươi lại cứ để kệ ông ta sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi là ý gì vậy?”

Ngụy Văn Đức nghe vậy thì cười đáp: “Ngự Y đại nhân! Chắc đại nhân không biết rồi, chúng tôi cũng cứu tế cho gia đình Tô Tử Chiêm nhiều lắm đấy! Bọn ti chức cũng thường xuyên cho người đến thăm nom, nhưng Tử Chiêm huynh toàn lấy tiền cứu tế của bọn ti chức mua gạo, mì rồi phân phát hết cho những người nghèo khổ, Tử Chiêm huynh còn cứng giọng nói rằng ông ấy có thể chịu khổ được, tiền bạc cứu tế cho ông ta đều phân phát cho những người cần nó hơn ông ta! Lần này bị bệnh, ti chức cũng cho mời đại phu đến khám cho Tử Chiêm huynh rồi! Nhưng mà ở nơi này chẳng có ai y thuật tài giỏi cả, chính vì thế mà bệnh của Tử Chiêm huynh càng ngày càng nặng thêm!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn thở dài nói: “Đại văn hào Tô Tử Chiêm quả là một con người nhân hậu, không phục không được! Ài! Nếu mà như vậy thì ta đã trách nhầm ngươi rồi!”

“Không dám! Không dám! Đây đúng là do ti chức đã chăm sóc không được chu đáo!”

Khi vào đến dịch trạm ở bên trong thành Hoàng Châu, mọi người bèn sắp xếp cho cả gia đình Tô Thức ở phòng ngay bên cạnh phòng của Đỗ Văn Hạo.

Viên nha dịch chạy về trong thành từ sớm đã lo liệu được một bát sữa mẹ đem dâng lên cho Đỗ Văn Hạo, sau đó hắn bèn đem bát sữa mẹ đó pha thêm một ít bột Cam Túc, rồi đổ thêm với một ít nước Tuyết Lê ép, rồi đem cho Tô Thức uống cùng với thuốc đã được kê sẵn của hắn.

Sau khi cho Tô Thức dùng thuốc xong, Đỗ Văn Hạo lại dặn dò người nhà của ông ta rằng liều lượng thuốc của Tô Thức uống là rất nhiều, nhiều như ông ta uống trà hằng ngày vậy, ngay cả buổi đêm cũng không được phép ngưng nghỉ.

Đêm hôm đó, Nha Môn đã bày sẵn tiệc rượu cho mời Ninh công công, Đỗ Văn Hạo cùng với các tướng lĩnh lãnh đạo quân đội, mọi người cùng mổ trâu, mổ gà khao thưởng ba quân đóng trại bên ngoài thành.

Đỗ Văn Hạo lúc này vẫn lo lắng bệnh tình của Tô Thức không ổn định, dễ biến chứng thay đổi phức tạp, do vậy hắn cũng không dám uống nhiều, hắn chỉ uống đến mức cho phép, xong liền đứng dậy ra về.

Đêm hôm đó, Đỗ Văn Hạo đem theo Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đến thăm Tô Thức hai lần trong đêm, sau khi tận mắt trông thấy Tô Thức uống liền một liều lượng lớn thuốc thang như vậy, ba người mới cảm thấy yên tâm cho bệnh tình của ông ta. Sau khi dùng thuốc xong, Tô Thức bèn nhắm mắt ngủ một cách ngon lành, những đốm mồ hôi lạnh lấm tấm trên đầu ông ta lúc này đã khô đi phần nào, môi của ông ta cũng trở nên hồng hào, miệng cũng đỡ đắng, nhưng gương mặt thì vẫn còn hốc hác xanh mét, xương sườn phía bên trái lại đau âm ỉ, nhưng mọi người cảm thấy mừng nhất chính là Tô Thức đã ít ho ra đờm, và trong đờm cũng không có kèm theo máu như lúc trước nữa.

Chương 313 Tình hình quân sự khẩn cấp! (2)

Đỗ Văn Hạo sau khi phúc chẩn xong liền đi ra khỏi phòng của Tô Thức, khi mới đi ra ngoài thì hai người vợ của Tô Thức đã chạy theo hắn thấp giọng hỏi: “Đỗ đại nhân! Sức khỏe của Lão gia thần thiếp tiến triển thế nào rồi?”

“Thuốc đã đúng bệnh! Nhưng căn bệnh này vô cùng khó chữa, chữa trị thời gi­an lại lâu, chắc phải cần mấy ngày nữa mới biết được kết quả, chỉ cần đều đặn liên tục uống thuốc, thì bệnh chắc sẽ khỏi hẳn thôi!”

Hai vị phu nhân nghe đến đây thì thở hắt ra nhẹ nhõm.

Bệnh tình của Tô Thức vô cùng hiểm nghèo, Đỗ Văn Hạo cũng không dám khinh xuất, chính vì thế mà ngay sáng sớm ngày hôm sau, hắn đã đem theo Tiền Bất Thu cùng đến phúc chẩn với hắn, hai người cùng ngồi hội chẩn với nhau thì sẽ nắm được nhiều phần thắng hơn, nhất là đối với những căn bệnh phức tạp như Thương Hàn này thì Tiền Bất Thu kinh nghiệm đầy mình, có lẽ ông ta sẽ giúp ích được rất nhiều cho Đỗ Văn Hạo.

Khi Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu hai người vừa đến phòng của Tô Thức thì ông ta cũng đã tỉnh dậy và đang nằm nói chuyện với vợ con của mình, Tô Thức trông thấy Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu đến đây thì vội vã bảo hai vị phu nhân đỡ mình ngồi dậy, dựa lưng vào đầu giường cố gắng đưa đôi tay yếu ớt của mình lên ôm quyền thi lễ nói: “Vân Phàm huynh đến rồi đó à?”

Đỗ Văn Hạo thấy thần sắc của Tô Thức lúc này khô héo, không còn sức sống! Tuy sức khỏe đã hồi phục dần dần nhưng vẫn vô cùng yếu, bệnh tình có lẽ vẫn chưa có chuyển biến theo bước đột phá, cảm giác như căn bệnh vẫn đang hoành hành tác oai tác quái trong thân hình gầy gò, hốc hác của Tô Thức. Nhưng ông ta lúc này dường như đỡ hơn lúc ở trên núi rất nhiều, sắc mặt so với lúc đó cũng khá hơn, ít ra trong lúc này ông vẫn thể hiện được phong thái an nhàn không còn khổ sở, đau đớn như lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo gặp ông nữa, Đỗ Văn Hạo thấy thần sắc của Tô Thức có chuyển biến như vậy thì mỉm cười vui vẻ đáp lại: “Tử Chiêm huynh, xem ra thần sắc của huynh cũng khá hơn trước nhiều rồi! Ha ha ha!”

“Đúng vậy! Ta cảm thấy tinh thần và sức khỏe đỡ hơn trước rất nhiều rồi, cả thân người cùng với đầu óc cũng cảm tỉnh táo ra hẳn! Ài! Cái mạng này của Tô mỗ cuối cùng cũng nhặt được về rồi, may mà có thần y Vân Phàm huynh ra tay cứu giúp, đây cũng coi là tạo hóa an bài cho Tô mỗ rồi…”

“Ha ha! Tử Chiêm huynh nói hay lắm! Nào đưa tay đây để tại hạ xem cái nào, bệnh tình của huynh lúc này phải chú trọng hơn nữa mới được!”

Đỗ Văn Hạo sau khi kiểm tra một hồi xong bèn mỉm cười nói: “Không có vấn đề gì nữa rồi! Tử Chiêm huynh cố gắng uống thuốc đều đặn, bệnh tình cũng sẽ khỏi nhanh thôi! Tại hạ vẫn còn phải chờ sức khỏe của huynh hồi phục rồi mới lên đường nhậm chức được!”

Tô Thức thấy vậy cũng cười đáp lại: “Được thôi! Đa tạ Vân Phàm huynh!”

Đỗ Văn Hạo sau đó liền quay sang Tiền Bất Thu rồi giới thiệu nói: “Đây là đệ tử của tại hạ, Thái Y Viện Tiểu Phương Mạch Thái Y Thừa, Ngự Thích Tử Y Kim Đái, mọi người thường xưng tụng Tiền Bất Thu là một vị thần y có tài có đức. Hôm nay tại hạ đem ông ta đến đây là cùng xem bệnh của Tử Chiêm huynh tiến triển ra sao!”

Tô Thức nghe xong thì nét mặt mừng rỡ chắp tay nói: “Danh tiếng của Tiền Thái Y như sét đánh ngang tai! Nghe nói Tiền Thái Y từng dùng Hoàng Thổ Thang chữa trị bệnh cho Hoàng Tử, chỉ một thang thuốc là khỏi bệnh, đúng là thần y giáng thế!”

Tiền Bất Thu nghe vậy chỉ mỉm cười đáp: “Không dám! Đó chẳng qua là trò trẻ con mà thôi, so với sư phụ của tại hạ thì chẳng đáng là gì cả!”

Tô Thức nghe vậy bèn đáp: “Đúng vậy! Đỗ Ngự Y còn biết mổ bụng trị thương, tuyệt kỹ này cổ kim chưa từng có bao giờ cả! Thần kỹ này đã từng cứu chữa bệnh tình cho Thập Tứ Hoàng Tử, hơn nữa cách chữa bệnh này thời Đông Hán mới chỉ có một thần y tên Hoa Đà là thông thạo, nhưng chuyện đó cách đây cũng lâu lắm rồi, và danh tiếng của Hoa Đà thì từ cổ chí kim không ai dám so bì cả, vậy mà không ngờ thời đại này lại có Đỗ Ngự ycũng biết thần kỹ đó, tại hạ rất lấy làm vinh dự khi được Đỗ thần y trị bệnh giúp cho!”

Đỗ Văn Hạo không ngờ danh tiếng của mình còn bay được đến cái nơi Hoàng Châu khỉ ho cò gáy này, hắn bất giác cũng có mấy phần đắc ý, nhưng Đỗ Văn Hạo không biết rằng kỹ thuật ngoại khoa phẫu thuật mổ bụng trị thương ở thời nhà Tống này vĩ đại không khác gì thời hiện đại Ein­stein phát hiện ra thuyết tương đối cả, chính vì thế mà một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn vạn, cứ thế chuyện hắn phẫu thuật mổ bụng cứu chữa Hoàng Tử trở thành một câu chuyện thần thoại mà người dân nào ai ai cũng thuộc lòng hết cả.

Tiền Bất Thu thấy vậy bèn lên tiếng nói: “Tử Chiêm huynh có lẽ không biết! Tư Mã đại nhân mắc phải chứng bệnh nan y khó chữa, tưởng chừng sắp từ biệt cõi đời này, thì cũng may nhờ ân sư của tại hạ ra tay cứu giúp nên mới tai qua nạn khỏi!”

Tư Mã Quang, tự Quân Thực cùng với Tô Thức, Vương An Thạch là tam đại danh nho đời nhà Tống lúc bấy giờ, ba người cùng được tiền bối Âu Dương Tu cất nhắc đề bạt, và đều được Phạm Trọng Yêm, Tăng Khổng vô cùng nể trọng và tán thưởng. Do vậy Tô Thức và Tư Mã Quang coi như là cũng đã quen biết nhau từ lâu. Tô Thức nghe nói Tư Mã Quang mắc phải bệnh nan y khó chữa cứ tưởng chết rồi nên vô cùng lo lắng, giờ ông lại nghe Tư Mã Quang được Đỗ Văn Hạo dùng thần kỹ phẫu thuật mổ bụng mà chữa khỏi thì cảm khái vô cùng: “Đỗ Ngự Y quả nhiên là thần y giáng thế, không ai sánh kịp!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ mỉm cười đáp: “Không dám! Tư Mã Quân Thực vẫn còn cần đến một vị thuốc nữa, nó có tên là Đông Trùng Hạ Thảo. Loại thuốc này chỉ sinh sản ở trên núi tuyết của Thổ Phồn mà thôi! Lần này tại hạ đến Nhã Châu nhậm chức, cũng có mục đích là tìm ra vị thuốc này đem về chữa trị cho Tư Mã đại nhân! Thôi được rồi! Bất Thu ngươi mau mau xem bệnh của Tử Chiêm huynh ra sao, xong rồi chúng ta còn về sớm để ông ấy nghỉ ngơi nữa!”

“Vâng thưa sư phụ!” Tiền Bất Thu vuốt vuốt bộ râu của mình xong bèn ngồi xuống, ông ta đã được Đỗ Văn Hạo thuật lại toàn bộ bệnh tình, cùng với trình trạng khám bệnh của mấy người thầy thuốc ngày trước khám bệnh cho Tô Thức rồi! Do vậy sau một hồi kiểm tra, xem xét xong bèn trầm ngâm giây lát mở miệng cười nói: “Tử Chiêm huynh! Ân sư của tại hạ biện chứng vô cùng chuẩn xác, dùng thuốc cũng vô cùng cẩn thận! Tử Chiêm huynh có yên tâm đi! Bệnh tình của huynh có ân sư ra tay chắc chắn sẽ khỏi thôi!”

Cho dù Đỗ Văn Hạo là Ngự Y của Hoàng Thượng, được Hoàng Thượng vô cùng trọng dụng, lại biết thần kỹ, nhưng hắn lại còn quá trẻ, chính vì vậy mà người bệnh thường cảm thấy không được yên tâm, nhưng bây giờ bên cạnh xuất hiện một vị đại phu râu tóc bạc phơ, chững chạc, điềm tĩnh như Tiền Bất Thu mở miệng ra nói đảm bảo như vậy, thì cả gia đình của Tô Thức đều thầm vui sướng trong lòng, họ biết căn bệnh của Tô Thức không lâu nữa chắc chắn sẽ khỏi hẳn, do vậy tất cả cùng đồng thanh lên tiếng tạ ơn rối rít.

Đỗ Văn Hạo và Tiền Bất Thu sau khi khám bệnh xong xuôi cho Tô Thức bèn đứng dậy ra về, cả hai đều không nói với nhau câu nào mà trực tiếp đi đến chiếc bàn tròn trong phòng của Đỗ Văn Hạo, rồi ngồi xuống đó, Diêm Diệu Thủ thấy vậy bèn đứng bên ngóng đợi, còn Anh Tử đã nhanh tay dâng lên hai tách trà thơm phức, sau khi Anh Tử lui ra ngoài xong thì Đỗ Văn Hạo liền lên tiếng hỏi: “Bất Thu! Ngươi nghĩ bệnh tình của Tử Chiêm huynh thế nào?”

Tiền Bất Thu nghe xong liền vuốt vuốt râu nói: “Hôm qua bệnh tình ra sao thì đệ tử không biết, nhưng với tình trạng của ngày hôm nay thì khí âm trong người bị tổn hại nghiêm trọng, khí huyết thì tàn, xem ra bệnh tình vô cùng nguy hiểm!”

“Đúng vậy! Nhưng so với tình hình nguy kịch hôm trước thì bệnh tình cũng đã thuyên giảm đi khá nhiều rồi, ta muốn tham khảo ý kiến của ngươi xem cách dùng thuốc của ngươi thế nào, sau đó xem xem phương thuốc ta kê có vấn đề gì không?”

Tiền Bất Thu nghe vậy bèn cúi người đáp: “Đệ tử không dám! Cách dùng thuốc của sư phụ vô cùng chuẩn xác, biện chứng thì tinh chuẩn, đệ tử vô cùng khâm phục!”

“Thôi đừng nịnh bợ ta nữa! Nói chuyện tử tế một chút đi, chữa khỏi bệnh sớm còn sớm lên đường nữa chứ! Tình hình quân sự bên thành đô bây giờ đã chính thức khai chiến rồi, mặc dù quân ta chắc chắn sẽ giành được thắng lợi, nhưng ta vẫn cảm thấy lo lắng lắm, mọi thứ quân dụng, lương thực đều nằm hết phía hậu quân do ta quản lý, nếu ta không nhanh chân tiếp ứng e rằng sẽ xảy ra nhiều chuyện không đáng có!”

“Đệ tử đã hiểu!” Tiền Bất Thu nói xong bèn vuốt râu trầm ngâm, ngẫm nghĩ một lúc xong ông ta bèn lên tiếng nói: “Bệnh tình của Tử Chiêm huynh đang trong gi­ai đoạn nguy kịch! Cách thức của sư phụ là cứu mạng ông ta xong trước, rồi mới nghĩ cách chữa trị là vô cùng chính xác, nếu như tính mạng của ông ta đã giữ được như vậy rồi thì bệnh tình sẽ có thay đổi tích cực. Nhưng dư chứng của căn bệnh vẫn còn nằm đấy, sách y học có câu ‘Dương dị phu nhĩ tân nan hồi’ (tạm dịch: Khí dương dễ hồi phục nhưng dịch huyết trong người lạ rất khó lấy lại được như xưa). Đệ tử nghĩ rằng dựa vào những bài thuốc mà sư phụ đã kê làm cơ sở chính rồi sau đó cho thêm mấy vị thuốc nhuận gan, bổ thận như vậy sẽ giúp Tử Chiêm huynh qua được cơn nguy kịch hiện nay!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong gật gật đầu nói: “Ngươi nói đúng lắm, nhuận gan bổ thận vô cùng chính xác, bây giờ Thảo Mộc không linh nghiệm bằng Linh Giới, ta cho thêm Sinh Giải Giáp và Sinh Quy Bản vào, người bệnh nào cần bổ thận nhuận gan thì chắc chắn không thể thiếu mấy vị thuốc này được!”

“Sư phụ quả nhiên dùng thuốc như thần, đệ tử khâm phục vô cùng!”

Khi hai người đang mải bàn bạc, thì bên ngoài có tiếng gõ cửa, Diêm Diệu Thủ vội vàng chạy ra mở cửa, thì thấy có một viên tướng đứng ngay trước cửa, dáng vẻ cao lớn, người này không phải ai khác mà chính là phó tướng của Đỗ Văn Hạo, Lý Phố, ông ta trông thấy Đỗ Văn Hạo bèn cúi người thi lễ: “Mạt tướng bái kiến tướng quân!”

“Mời vào!” Đỗ Văn Hạo liền đứng dậy đi ra tiếp Lý Phố: “Mời ngồi! Ngươi uống trà nhé!”

Lý Phố lúc này không buồn ngồi xuống nữa mà quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Bẩm tướng quân! Có tình hình quân sự cấp bách vừa mới đưa đến!”

“Ố!” Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn quay sang Tiền Bất Thu nói: “Ngươi mau mau viết đơn thuốc rồi đưa sang cho Tô Tử Chiêm sắc thuốc mau lên, ta đi công chuyện bây giờ!”

Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đưa Lý Phố đi vào trong phòng.

Vào đến trong phòng thì có một tên binh sĩ tiến đến thi lễ, sau đó hắn móc trong người ra một cuộn giấy đã được phong kín cẩn thận dâng lên cho Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ tướng quân! Thành Đô Phủ báo tin gấp, đây là thông điệp quân sự mà Hàn Nguyên Soái gửi cho tướng quân, mời tướng quân duyệt trình!”

Đỗ Văn Hạo vội vã đưa tay đỡ lấy, binh sĩ kia sau khi đưa cho Đỗ Văn Hạo xong bèn cúi người thi lễ đi luôn ra ngoài.

Lý Phố lúc này đã rút sẵn một con dao nhỏ ra dâng lên cho Đỗ Văn Hạo, Đỗ Văn Hạo đỡ lấy rồi dùng nó cắt một đường mở cuộn giấy đó ra xem, khi mới mở ra đọc thì sắc mặt của Đỗ Văn Hạo trở nên trắng bệch.

Trong thư của Hàn Tu gửi cho Đỗ Văn Hạo có viết, tình hình tiền phương bây giờ rất nguy kịch, bộ lạc Tây Sơn của Thổ Phồn vô cùng thiện chiến, sức tấn công mạnh như thế chẻ tre, các lộ quân của Thành Đô Phủ đã hoàn toàn bại trận, lúc này quân Tây Sơn đã sắp chiếm đóng được Đặng Châu, ép sát đến tận cửa ngõ của Thành Đô rồi.

Hàn Tu nói rằng ông ta cùng đại quân lúc này đã đi đến đại phận biên giới của Thành Đô, và ngày đêm hành quân để cứu trợ cho Thành Đô, nếu ông ta không đến kịp e rằng đạo quân Tây Sơn kia sẽ san Thành Đô thành bình địa mất, chính vì vậy bây giờ Hàn Tu đang gấp rút, gia tăng tốc độ hành quân hòng kịp đến giữ vững trận địa.

Đỗ Văn Hạo sau khi xem xong tình hình bèn gi­ao bức thư đó cho Lý Phố, Lý Phố xem xong liền trầm giọng nói: “Bẩm tướng quân! Mạt tướng có một ý như thế này không biết có nên nói hay không?”

“Lý tướng quân cứ nói!”

Chương 313 Tình hình quân sự khẩn cấp! (3)

“Tuân lệnh! Các đại quân tinh nhuệ của Đại Tống ta đều tập trung hết ở các vùng Tây Bắc tiếp giáp với Tây Hạ, và phía Đông Bắc tiếp giáp với biên giới với Đại Liêu, các bộ lạc của Thổ Phồn từ trước đến giờ đều rất ít gây sự với Đại Tống, đặc biệt còn có bộ lạc Hà Nhiếp Đào Giác Tư La nhiều khi còn giúp đỡ Đại Tống chúng ta tấn công Tây Hạ nữa, bọn họ cũng có thể coi là đồng minh của chúng ta, vậy mà theo mạt tướng được biết, thì ở Thành Đô bây giờ không có tinh binh, chỉ có vài đạo quân nhỏ không đáng kể, hơn nữa binh lực lại toàn là những người già yếu, còn bộ lạc Tây Sơn thì lại trẻ khỏe, chinh chiến lâu năm, sức chiến đấu cũng khá mạnh, chính vì vậy mà thế trận của bộ lạc Tây Sơn thắng như chẻ tre như vậy không có gì lạ cả, nhưng cũng không nên vì vậy mà xem thường bọn chúng. Mạt tướng còn nhớ thời nhà Đường, thì hai nước Thổ Phồn và Đại Đường cũng gi­ao tranh với nhau mấy lần, cả hai đều ở thế giằng co không ai hơn ai cả, và đợi cho đến khi nhà Đường bị nội loạn thì Thổ Phồn đã thừa cơ đánh thẳng đến Tràng An. Đến thời Đại Tống chúng ta thì tuy Thổ Phồn đã bị tan rã ra thành nhiều bộ lạc nhỏ nhưng cũng không nên vì thế mà khinh địch!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn nói: “Đúng vậy! Theo như tin tức Hoàng Thượng đã nói cho ta biết thì lần này bộ lạc Tây Sơn đã dốc hết binh lực vào cuộc chiến này, binh lực tuy có lúc thét lên tầm ba vạn, nhưng thực chất có lẽ cũng chỉ có một vạn mà thôi, cũng tại do trận đánh Tây Hạ tại thành Vĩnh Lạc quân đội Đại Tống tổn hại nghiêm trọng, điều động không ra được tinh binh, chính vì thế mà Hoàng Thượng chỉ phái có bốn vạn Cấm Vệ Quân ra để dẹp loạn Thổ Phồn mà thôi, nhưng thực chất bốn vạn quân đó lại bao gồm cả các lộ quân ở Thành Đô nữa. Đại quân của ta chiếm thiên thời địa lợi, do vậy đánh bại quân Thổ Phồn sẽ không thành vấn đề, chính vì thế mà Hàn Nguyên Soái mới để lại năm ngàn quân cho ta đoạn hậu, ông ta nói chỉ cần dùng ba vạn năm ngàn quân cũng đủ để dập tan một vạn quân của bộ lạc Tây Sơn rồi, nhưng xem tình hình hiện nay thì ba vạn lộ quân ở Thành Đô chưa kịp tụ họp với Hàn Tướng quân mà đã bị đánh tan tác hết cả rồi, tình hình quân sự xem ra đang ở trong tình thế vô cùng khẩn cấp, ba vạn lộ quân tiến tới Thành Đô trước chưa đánh đã thua, Hàn Nguyên Soái trong tay bây giờ chỉ còn năm ngàn quân Cấm Vệ, e rằng bọn họ không thể đỡ nổi thế công của Tây Sơn, ta thấy tình hình bây giờ đang rất khẩn trương!”

Lý Phố nghe vậy bèn thấp giọng nói: “Mạt tướng là người xuất thân trong quân đội, tòng quân cũng đã hơn hai mươi năm nay biết rất rõ thực lực quân đội của Đại Tống, nói thực lòng thì các lộ quân của Thành Đô tuy có đến ba vạn nhưng không hề có chút chiến đấu chút nào, Hàn Nguyên Soái nói rằng ông ta lãnh đạo ba vạn năm ngàn quân nhưng thực chất biết chiến đấu thì chỉ có năm ngàn quân cấm vệ binh đi sau của ông ta mà thôi. Ba vạn quân kia đến Thành Đô chưa đánh đã chạy hết cả, cho dù có đứng lại chiến đấu thì lại toàn là những binh lính già cả, yếu ớt làm sao đủ sức chống lại với Tây Sơn được! Chính vì vậy mà bọn họ không đánh đã chạy, nếu có đánh thì cũng chỉ là tự tìm cái chết cho mình mà thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì cau lông mày lại hỏi: “Nói như vậy thì theo tình hình thực tế thì quân của Tây Sơn nhiều gấp đôi quân của ta sao?”

Lý Phố liền gật gật đầu, ông ta trầm ngâm giây lát rồi lại thấp giọng nói: “Hàn Tu cũng là người chưa cầm quân đánh trận bao giờ, lần này xuất quân không biết sự lợi hại của bộ lạc Tây Sơn, ông ta lại quá khinh địch e rằng…!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì gương mặt biến sắc nói: “Việc quân không thể chậm chễ! Lập tức nhổ trại lên đường!”

Lý Phố chắp tay đáp: “Mạt tướng tuân lệnh!”

Lý Phố trầm ngâm đôi lúc rồi nói: “Bẩm tướng quân! Thế còn Tô Thức chúng ta giải quyết thế nào đây?”

Đỗ Văn Hạo không hề chần chừ nói luôn: “Đem theo luôn! Vừa hành quân vừa chữa trị cho ông ta! Không chết được đâu mà lo!” Đỗ Văn Hạo bây giờ đã biết tình hình trước mắt đã vô cùng nghiêm trọng rồi, hắn nhất định phải ngày đêm hành quân mới hòng bắt kịp đạo quân của Hàn Tu. Ngụy Chi Châu sau khi nghe được tin tức Đỗ Văn Hạo nhổ trại tây chinh, thì liền bừng tỉnh cơn mơ, ông ta vội vã chạy ra khỏi phủ nhanh đến nỗi chân quên cả mang giầy, nhưng khi Ngụy Chi Châu đánh kiệu ra ngoài cổng thành thì đạo quân của Đỗ Văn Hạo đã nhổ trại đi tự bao giờ rồi.

Ninh công công cũng xuất chinh theo cùng đại quân của Đỗ Văn Hạo, trên đường đi ông ta ngồi cùng một xe với Tô Thức, Ninh công công nhân lúc này bèn đem hàm ý của Hoàng Thượng ra nói cho Tô Thức biết, Tô Thức bây giờ mới hiểu người Ngự Y trẻ tuổi kia bây giờ đang gánh trên vai một trọng trách vô cùng to lớn, đó là tiến hành cuộc biến pháp lần thứ hai.

Thái độ của Tô Thức đối với biến pháp vô cùng thực dụng, chỉ cần biến pháp nào có lợi với dân chúng thì ông ủng hộ vô cùng nhiệt tình, không bao giờ phản đối cả, chính vì thế nên sau khi biết Đỗ Văn Hạo sắp sửa biến pháp thì cũng không nói thêm câu nào nữa, mà chỉ âm thầm chờ đợi xem kết quả ra sao, nếu tốt thì ông ta giơ cả hai tay ủng hộ, còn nếu không tốt thì…Ninh công công lúc này lại dặn dò, bảo ban thêm một lúc nữa Tô Thức giờ đây mới biết ông ta tuy hiện giờ là Hoàng Châu Chi Châu, còn Đỗ Văn Hạo chỉ là một chức Câu Quản bé nhỏ, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn còn giữ chức Ngự Tiền Thị Chính Đại Phu, quan chính ngũ phẩm, ngoài ra hắn còn Tử Y Kim Đái là biểu tượng cho chức quan chính tam phẩm, do vậy bất kể thế nào thì Tô Thức cũng còn kém xa Đỗ Văn Hạo về mặt chức tước, hơn nữa chức quan Chi Châu này của Tô Thức cũng là do Đỗ Văn Hạo cầu xin với Hoàng Thượng mới có được (mặc dù đây hoàn toàn là do chủ ý của Tống Thần Tông, nhưng Tô Thức làm sao biết được.) Chính vì thế mà Tô Thức có muốn làm khó dễ Đỗ Văn Hạo trong việc biến pháp cũng không được. Vả lại biến pháp không phải cái gì cũng xấu cả, phải xem hiệu quả ra sao mới có quyền nói nó tốt xấu được. Tô Thức là người thông minh, ông ta dĩ nhiên là hiểu cái đạo lý này.

Chính vì vậy mà những lời nói của Ninh công công lại càng làm vững chắc thêm ý nghĩ của Tô Thức hiện nay, ông ta có thể ủng hộ hoàn toàn Đỗ Văn Hạo, cho dù biến pháp có thành công hay không, bởi vì ông tin Đỗ Văn Hạo là một người hết mực thương dân, biến pháp chắc chắn sẽ do dân, và vì dân, một người đang làm quan cao trong triều đình sung sướng như Đỗ Văn Hạo, lại có thể tự nguyện đi ra một nơi chiến loạn nguy hiểm này tiến hành biến pháp, nếu không phải là người có lý tưởng cao đẹp, vì nước thương dân thì quyết không bao giờ có hành động như vậy cả. Tô Thức là một người có học suy nghĩ chín chắn, vì vậy ông sẽ dốc toàn bộ tâm sức của mình ra để tạo điều kiện tốt nhất cho Đỗ Văn Hạo biến pháp.

Đại quân sau khi hay tin quân đội khẩn cấp bèn ngày đêm hành quân không biết mệt mỏi, Đỗ Văn Hạo trước khi lên đường cũng đã kịp triệu tập tướng sĩ truyền đạt tình hình khẩn cấp cho ba quân biết, do vậy giờ đây tốc độ hành quân của hắn nhan hơi ngày trước rất nhiều.

Lúc này những tướng sĩ trong đại quân của Đỗ Văn Hạo tuy chưa bao giờ tham gia trực tiếp đánh trận bao giờ, nhưng nói cho cùng thì khi đã vào quân đội rồi thì luôn có một dòng máu tràn đầy nhiệt huyết chảy trong thân thể của họ, do vậy sau khi biết tin tình hình tiền phương khẩn cấp, ai nấy cũng cảm thấy phấn khích vô cùng, khí thế hùng dũng hiên ngang, sĩ khí vụt tăng lên nghút trời.

Đỗ Văn Hạo sau đó lại đem tình hình tiền phương ra báo cho Tô Thức biết, Tô Thức lập tức thể hiện thái độ cho dù ông ta có chết giữa đường nhưng cũng không nên vì bệnh tình của ông ta mà làm lỡ mất thời cơ của đại quân. Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng cảm động.

Chính vì thế mà ngay sau lúc đó, Đỗ Văn Hạo hạ lệnh xuất chinh, cấm đại quân uống rượu, còn Tô Thức cũng vì vội vã đi theo đại quân mà quên không mang đồ dụng theo mình, nhưng ông ta vẫn không hề nề hà, cứ thế người không mà đi theo Đỗ Văn Hạo tây chinh.

Đại quân của Đỗ Văn Hạo mang theo một số lượng lớn đồ quân dụng, hắn hành quân được một đoạn thì thấy tốc độ của đoàn quân dần dần chậm lại, hắn vô cùng lo lắng tình hình của tiền phương sợ đến không kịp để tiếp viện, nhưng trong tay hắn chỉ có năm ngàn binh sĩ, Đỗ Văn Hạo không thể phân binh ra được nữa, do vậy đại quân vẫn phải cố gắng kéo theo cả một đống quân dụng nặng nề, ba quân vì thế vô cùng mệt mỏi, xuống sức rất nhanh.

Nhưng ba quân không vì thế mà nhụt chí, tất cả mọi người đều cắn răng chịu đựng, tất cả cho tiền tuyến.

Lý Phố thấy tình hình quân đội như vậy cũng không ổn, vì có khi đại quân của Đỗ Văn Hạo chưa kịp thấy quân địch cũng đã mệt chết đi rồi, chính vì thế mà ông liền nghĩ ra một chủ ý là dọc đường hành quân thuê thêm xe ngựa để chở đồ quân dụng. Đỗ Văn Hạo nghe thấy hợp lý vì như vậy không những bảo tồn được sức lực của ba quân, mà lại còn gia tăng được tốc độ hành quân nữa, ngoài ra tiền thuê xe ngựa cũng không phải là đắt. Sau khi được sự đồng ý của Đỗ Văn Hạo, Lý Phố bèn trên đường đi thuê thêm hàng loạt xe ngựa chở hàng, đại quân vì thế mà tốc độ hành quân tăng lên thấy rõ.

Trong khi hành quân thì gia đình của Tô Thức được sắp xếp ở trong hai chiếc xe ngựa, một xe thì chở nhị vị phu nhân cùng với Tô Thức, còn một xe thì chở ba người con trai nhỏ tuổi của ông ta.

Tô Thức lúc này đã biết tình hình tiền tuyến đang rất khẩn trương, ông là người đọc sách, chưa bao giờ dẫn quân đánh trận chính vì thế mà lo lắng không yên, trong lòng thầm nghĩ mình vừa mới được bổ nhiệm làm Chi Châu ở Hoàng Châu, thì nơi đó đã bị Tây Sơn đánh chiếm mất rồi, không biết sao này làm quan sẽ ra sao đây.

Nhưng ngược lại với sự lo lắng của Tô Thức là sự tự tin của Đỗ Văn Hạo, bởi hắn tin một khi đại quân của hắn tới hội tụ cùng với Hàn Nguyên Soái thì Tây Sơn tất bại, do vậy mà khi rảnh rỗi hắn thường tìm đến xe của Tô Thức nói chuyện, rồi nhân tiện chữa bệnh cho ông ta.

Đại quân hành quân được mấy ngày thì bệnh tình của Tô Thức dưới sự chăm sóc chu đáo của Đỗ Văn Hạo đã khôi phục lại rất nhanh, nhưng do Tô Thức mắc bệnh lâu ngày tinh thần có phần bạc nhược, ngồi lên nằm xuống vẫn cảm thấy vô cùng khó khăn.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn gọi Tiền Bất Thu lại cùng hội chẩn, tìm cách cứu chữa cho Tô Thức một cách có hiệu quả nhất.

Hai người sau khi hội chẩn xong bèn quyết định cho thêm ba tiền Mẫu Lệ, mười tiền Quy Bản, rồi còn mỗi buổi sáng tối cho Tô Thức ăn thêm một bữa ngó sen trộn với đường làm điểm tâm. Ăn như vậy sẽ có lợi cho việc phục hồi sức khỏe nhanh hơn.

Mấy ngày sau, khi Đỗ Văn Hạo đã kiểm tra phúc chẩn cho Tô Thức xong xuôi thì gương mặt vốn đang rất căng thẳng của hắn bỗng nhiên trở nên dịu hẳn xuống, chầm chậm nói: “Tử Chiêm huynh! Chúc mừng huynh đã qua được thời kỳ nguy hiểm, tất cả các triệu chứng đã giảm đi hơn nửa, chờ cho tại hạ chuyển sang bài thuốc phục hồi nữa là huynh có thể điều dưỡng thân thể, bệnh tình tự khỏi!”

Nhị vị phu nhân của Tô Thức nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì vô cùng xúc đông, cả hai đều mừng rỡ nước mắt chảy xuống vui mừng.

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Bệnh mùa xuân của Tử Chiêm huynh kéo dài đã lâu, không thể một chốc một lát mà khỏe hẳn ngay được, vẫn cần vài ngày tĩnh dưỡng nữa mới thực sự khỏi bệnh được!”

Mấy ngày sau, Đỗ Văn Hạo cho thêm mấy bài thuốc phục hồi, tĩnh dưỡng sắc cho Tô Thức uống, quả nhiên khi đại quân tiến đến địa giới của phủ Thành Đô thì bệnh tình của Tô Thức đã khỏi hoàn toàn.

Vậy nhưng, chiến sự không hề đơn giản như chữa bệnh, Đỗ Văn Hạo vừa mới đi vào trong đến địa giới của Tứ Xuyên thì đã có tin báo khẩn cấp truyền đến cho hắn.

Ngày hôm đó, đại quân của Đỗ Văn Hạo mới vào đến huyện Đông Quảng An bên rìa địa giới Tứ Xuyên, cách Thành Đô vẫn còn mấy trăm dặm đường nữa, nhưng tin báo khẩn của tiền phương đã làm cho hắn không còn thời gi­an có thể nghỉ ngơi được nữa.

Đỗ Văn Hạo sau khi mở tin báo thì bỗng nhiên sắc mặt tái nhợt, đại quân của hắn mặc dù ngày đêm lặn lội nhưng cũng vẫn không cứu viện kịp cho tiền phương, Đặng Châu đã thất thủ, đại quân của Hàn Tu mạo hiểm đột kích giờ đang bị vây khốn, năm ngàn Cấm Vệ quân đã hy sinh hơn nửa ba vạn lộ quân Thành Đô chưa đánh đã chạy, sau đó bị truy kích chết hơn một vạn, quân Tây Sơn bây giờ đã áp sát Thành Đô, tình hình vô cùng nguy ngập.

Chương 314: Nghịch chuyển!

Ngay ngày hôm đó Đỗ Văn Hạo quyết định hạ trại, sau đó hắn cho gọi Lý Phố cùng với Tô Thức vào trong lều của hắn bàn bạc, phân tích tình hình quân sự. Viên Quân Tào (một chức quan chuyên lo chuyện bút giấy trong doanh trại quân đội.) lúc này đã đem bản đồ chiến trận ở Tứ Xuyên đến rồi trải ra cho cả ba người cùng xem, sau đó Quân Tào chỉ vào các vị trí trên bản đồ nói: “Lý tướng quân! Quân đội của bộ lạc Tây Sơn đã áp sát đến cửa ngõ thành Thành Đô rồi, còn quân của chúng ta vẫn còn đang ở Đông Quảng An cách nơi chiến sự tận mấy trăm dặm đường, mạt tướng không biết nhị vị tướng quân sẽ dùng cách nào để đẩy lui quân địch?”

Bảo Tô Thức làm thơ, viết văn, làm công tác xử lý hành chính thì còn được, chứ bàn về chuyện quân sự thì ông ta không đủ trình, do vậy Đỗ Văn Hạo không muốn làm khó Tô Thức mà chỉ quay sang Lý Phố, một viên tướng dày dạn trận mạc mà dò hỏi ý kiến của ông ta.

Lý Phố thấy vậy bèn lên tiếng: “Quân địch liên tiếp chiếm đóng Nhã Châu, Đặng Châu, Thục Châu và bây giờ đại quân của chúng lại đang uy hiếp đến tận cửa ngõ của Thành Đô, chính vì vậy mà lúc này sĩ khí của chúng đang rất cao! Đây quả là một vấn đề nan giải!”

“Thứ nhất, chúng ta không thể đánh chính diện với bọn chúng ngay lúc này được, mà phải tạm thời tránh khỏi cái khí thế của chúng, thứ hai quân địch rốt cuộc là có bao nhiêu, vị trí cự thể ở chỗ nào thì chúng ta không hề được biết, do vậy tốt nhất là không nên hành động bừa bãi, phải vô cùng cẩn trọng cất nhắc cẩn thận. Thứ ba, quân đội trong tay chúng ta lúc này chỉ có năm ngàn người, và lại mang theo một khối lượng lớn đồ dùng quân dụng nữa, do vậy người ít mà đồ nhiều, khó mà thắng địch. Nếu theo như đúng dự đoán thì quân địch lúc này ít nhất có một vạn người, có lẽ còn cần cộng thêm cả những binh sĩ đầu hàng theo địch nữa, do vậy mà con số này không nhỏ chút nào. Chính vì thế mà tình hình của chúng ta hiện nay bất kể quân số, hay sĩ khí, thể lực đều không thể bằng với quân địch được, tránh gi­ao tranh trực diện là một biện pháp an toàn và khôn ngoan nhất lúc này. Thứ tư, quân đội của chúng ta ngày đêm hành quân đến đây, đường xá xa xôi mỏi mệt, vị trí lúc này cách Thành Đô còn cả một đoạn đường dài mấy trăm dặm, nếu chúng ta vẫn cứ kiên trì tiến tới thì quân địch chỉ cần dĩ dật đãi lao là quân ta thua sẽ chắc! Tổng kết bốn điều đã nêu ở trên, mạt tướng cho rằng chúng không nên đánh trực diện với bộ lạc Tây Sơn ngay lúc này!”

Đỗ Văn Hạo và Tô Thức nghe xong đều gật đầu đồng ý, nhưng nếu cứ đứng đây chờ đợi cũng không phải là cách, do vậy Đỗ Văn Hạo bèn lên tiếng hỏi: “Vậy đại quân của chúng ta bây giờ phải làm gì?”

“Trước tiên, chúng ta phải khẩn cấp thông báo cho triều đình tăng cường viện binh, thứ hai, phái một đội trinh sát đi do thám tình hình quân địch, thứ ba thì theo như mạt tướng được biết thì Thành Đô Phủ tường thành vững chãi, lương thực dồi dào, nếu như Hàn tướng quân cùng với các lộ quân của Thành Đô chịu khó giữ thế thủ đến cùng thì e rằng bộ lạc Tây Sơn nhất thời cũng không thể làm gì nổi, Hàn tướng quân nếu chịu khó chống đỡ thì có lẽ sẽ cầm cự ở đó được một thời gi­an khá dài, chính vì thế mà công việc trước mắt của chúng ta là lập tức thành lập một đội kỵ binh tinh nhuệ, sau đó phóng thẳng đến Thành Đô cầm cự, giằng co với quân địch, hợp sức với Hàn tướng quân giữ vững trận địa để chờ quân tiếp viện của triều đình!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì gật gù nói: “Đây là một cách rất hay! Ta cũng nghĩ rằng một vạn quân địch đến đây chẳng qua là cố gắng cướp bóc được bao nhiêu thì được thôi chứ không bao giờ dám ở lại đây lâu cả, bởi vì mục đích của bọn chúng cũng không phải là đánh chiếm Thành Đô, mà chỉ là do bộ lạc của chúng hiện giờ quá đỗi nghèo khó thiếu thốn nên mới phát động chiến tranh để cướp bóc giảm nhẹ sự nghèo đói của chúng mà thôi. Bộ lạc Tây Sơn chẳng qua cũng chỉ là những tên cướp ngày, khi nào cần tiền thì đi cướp, cướp xong rồi thì chạy! Do vậy bọn chúng uy hiếp Thành Đô chẳng qua là chỉ muốn kiếm thêm chút đỉnh, vơ vét thêm một chút của cải mà thôi, bọn chúng tuyệt nhiên không hề có ý chiếm đóng. Chính vì vậy mà đạo quân của chúng ta sẽ dùng phương pháp đánh du kích quấy rối đại quân của chúng, chờ cho quân địch mệt mỏi, đội hình phân rã, lòng quân e sợ thì chúng tất sẽ lui binh, chờ cho bọn chúng lui binh thì đại quân của chúng ta kết hợp với đại quân của Hàn tướng quân trong thành thừa cơ truy sát, thắng lợi nhất định sẽ nằm trong tầm tay của chúng ta, cái này gọi là: ‘Địch đến thì ta lui, địch dựng trại thì ta quấy rối, địch mệt mỏi thì ta đánh, địch lui thì ta đuổi!”

Lý Phố nghe xong thì há hốc mồm kinh ngạc đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo, ông ta không ngờ Đỗ Văn Hạo ngoại trừ là một thần y ra lại là một người rất biết dùng binh, Lý Phố lúc này vô cùng thán phục hắn, ôm quyền nói: “Không ngờ tướng quân lại làu thông binh pháp như vậy, mạt tướng khâm phục vô cùng, kế này quả nhiên tuyệt diệu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy chỉ mỉm cười không nói, hắn thầm nghĩ trong bụng, ta làm gì mà giỏi như thế cơ chứ, đây chẳng qua là mượn lời của Mao Chủ Tịch (Mao Trạch Đông) mà thôi, đây vốn là tôn chỉ thành công trên con đường trinh chiến của lão Mao, ông ta kinh nghiệm thực chiến đầy mình, và đây chính là chiến lược du kích nổi tiếng nhất của ông, nó đã giúp ông đánh tan quân Nhật, hạ gục quân Tưởng Giới Thạch để trở thành vị lãnh tụ đầu tiên của Trung Quốc, mở ra một thời kỳ xã hội hiện đại phồn vinh. Chiến lược của lão Mao vô cùng thực dụng đánh bại biết bao nhiêu là quân địch, không lợi hại mới lạ! Tình hình của mình bây giờ chả khác gì tình hình của lão Mao khi gi­ao tranh với quân Tưởng Giới Thạch cả, quân của lão Tưởng đông gấp mấy lần quân của lão Mao nhưng cuối cùng vẫn bị lão Mao dùng đòn du kích phản bao vây này hạ gục. (Xem ra Trung Quốc cũng giống Việt Nam mình quá! Ngày trước Bác Hồ cũng dùng chiến tranh du kích mà hành hạ quân Pháp đến hẹn lại lên, đúng là anh hùng thì ý tưởng luôn có phần giống nhau.). Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy lại càng cảm thấy tự tin hơn, chỉ cần hắn hành động theo đúng như dự tính, rồi đợi quân cứu viện đến là sẽ làm cỏ cả bộ lạc Tây Sơn, nhân tiện diệt cỏ diệt tận gốc, triệt để cắt bỏ cái ung nhọt khó chịu này đi luôn, cho cả bộ lạc Tây Sơn về sau sẽ vĩnh viễn biến mất trên bản đồ quân sự của Thổ Phồn!

Sau khi suy xét kỹ càng xong đâu đấy, Đỗ Văn Hạo liền phái Lâm Thanh Đại đi thám thính tình hình quân địch, lợi dụng đêm tối mà tiến hành lối đánh du kích quấy rối bọn chúng: “Lý Phố! Ngươi bây giờ chọn ra bốn ngàn quân tinh binh, khỏe mạnh trong năm ngàn binh sĩ này ra rồi thành lập một đội kỵ binh, tất cả đều mặc đồ nhẹ, chỉ mang theo người tầm khoảng mười lăm ngày đường lương thực là được rồi! Đội kỵ binh của chúng ta ngoại trừ mã đao ra còn phải mang theo cung nỏ và hỏa tiễn, đội quân này sẽ do đích thân ta dẫn, Tử Chiêm huynh! Huynh dẫn một ngàn quân sĩ còn lại hộ tống lương thảo và các đồ vật dụng quân đội đoạn hậu theo sau bảo vệ gia quyến là được rồi! Trên đường đi huynh phải để ý đến tình hình của tại hạ báo về!”

Lý Phố nghe xong bèn nói: “Đỗ tướng quân! Hay là tướng quân cùng với Tô Chi Châu đi sau đoạn hậu, hộ tống lương thảo, còn quân kỵ thì cứ để mạt tướng dẫn quân đi trước nghênh địch được rồi! Đỗ tướng quân cứ an tâm, tại hạ nhất định sẽ làm theo kế sách của tướng quân một cách nghiêm chỉnh!”

Tô Thức thấy vậy cũng khuyên bảo Đỗ Văn Hạo: “Đỗ Ngự Y vẫn còn nhiều trọng trách cần gánh vác nữa, không được phép mạo hiểm ra trận như vậy, Đỗ Ngự Y cứ để Lý tướng quân đi trước đánh giặc là được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì lắc đầu đáp: “Không được! Phải đích thân tại hạ đi mới được, lệnh quân đã ra rồi không ai được khuyên bảo nữa! Đúng rồi Tử Chiêm huynh! Trên đường đi đoạn hậu phía sau huynh nên liên lạc với quan phủ địa phương, rồi thu nạp thêm Bảo Giáp Binh vào đội ngũ của mình, như vậy có nghĩa là huynh vừa hành quân vừa chiêu binh mãi mã như thế sẽ thành lập được thêm một đạo quân mới, lực lượng của ta như vậy sẽ hùng hậu hơn!”

Tô Thức trầm ngâm giây lát rồi đáp: “Tự ý chiêu nạp Bảo Giáp Binh là tội chết đó!”

“Tội chết sao? Lần này tây chinh thất bại tất cả chúng ta cũng sẽ mất đầu cả! Lẽ nào điều này huynh không hiểu hay sao? Một trong hai cái huynh định chọn cái nào đây?” Đỗ Văn Hạo tức giận nói.

Tô Thức nghe xong chỉ im lặng không nói thêm câu nào nữa.

Đỗ Văn Hạo thấy Tô Thức khó xử như vậy bèn lên tiếng an ủi: “Tử Chiêm huynh cứ an tâm, trước khi xuất phát khởi hành cuộc tây chinh này, Hoàng Thượng đã đích thân bảo đảm với tại hạ rồi, tại hạ có thể tự ý chiêu binh mãi mã để thành lập một đội quân hoàn toàn mới! Đây cũng là chức trách của tại hạ, huynh chỉ cần dùng danh nghĩa của tại hạ đi chiêu binh mãi mã sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu! Huynh cứ yên tâm, tại hạ có Thánh Chỉ ở đây rồi, hơn nữa tình hình quân sự đang căng thẳng như thế này, chúng ta cũng bất đắc dĩ nên mới có hành động như vậy, Hoàng Thượng chắc chắn sẽ hiểu cho chúng ta thôi!”

Tống Thần Tông đã từng nói với Đỗ Văn Hạo rằng chỉ cần hắn dẹp tan bộ lạc Tây Sơn, thì sẽ phong Đỗ Văn Hạo lên làm Tây Sơn Vương, cho phép hắn thành lập một đạo quân hoàn toàn mới, nhưng không hề nói với hắn rằng hắn được phép tự do chiêu binh mãi mã trong địa giới của Đại Tống rồi thành lập một đạo quân mới bao giờ cả, nhưng tình hình chiến sự lúc này vô cùng khẩn trương, Đỗ Văn Hạo làm gì còn quan tâm đến nó nữa, hắn chỉ biết bây giờ việc cần nhất là giải vây cho Thành Đô, xong sau đấy giải thích sau cũng chưa muộn. Hơn nữa lúc này quân đội của bộ lạc Tây Sơn vô cùng thiện chiến, các lộ quân Thành Đô thì yếu ớt cùng cực, không có sức chiến đấu nào cả, vả lại trong tay hắn thì chỉ có mỗi bốn ngàn quân, làm sao có thể địch nổi với quân của Tây Sơn. Chính vì thế nên Đỗ Văn Hạo mới nóng lòng chiêu binh mãi mã như vậy, nếu như hắn cứ ngồi đợi quân tiếp viện của triều đình, thì e rằng quân tiếp viện chưa kịp đến nơi thì Thành Đô đã bị quân địch cướp sạch chỉ còn trơ mỗi cái thành trống không rồi! Đỗ Văn Hạo lúc này đặt việc binh lên hàng đầu, chỉ cần hắn có đủ quân đội thì Thành Đô sẽ được cứu vãn.

Tô Thức nghe Đỗ Văn Hạo nói Hoàng Thượng đã cho phép hắn như vậy thì cho dù trong lòng vẫn có chút hồ nghi nhưng cũng biết tình hình đang nguy cấp, không làm cũng không xong, suy đi nghĩ lại cũng chỉ còn nước tin tưởng Đỗ Văn Hạo mà thôi. Sau khi cân nhắc thiệt hơn Tô Thức liền ra quyết định liền ngay sau đó, ông lập tức liên lạc với các quan phủ địa phương thu nạp thêm Bảo Giáp Binh, dựng cờ chiêu binh mãi mã.

Do đại quân của Đỗ Văn Hạo là quân đoạn hậu vận chuyển và bảo vệ lương thực nên ngựa cũng rất nhiều, cộng thêm với số ngựa trên đường đi hắn mua để thồ hàng nữa thì kỵ binh giờ không hể thiếu ngựa để cưỡi. Chính vì thế mà rất nhanh Đỗ Văn Hạo đã thành lập xong một đội kỵ binh của riêng mình, sau khi thành lập xong, hắn liền ban bố sắc lệnh rồi ngay lập tức bốn ngàn kỵ binh của hắn phóng thẳng lên tiền tuyến nghênh địch. Tốc độ của kỵ binh rất nhanh, chỉ hai ngày thôi đã đến được địa phận Thành Đô rồi.

Trên đường đến đây, Đỗ Văn Hạo gặp rất nhiều dân chúng chạy đi tị nạn, sau một hồi thăm hỏi, Đỗ Văn Hạ biết quân địch lúc này đã đứng trước cửa ngõ của Thành Đô rồi, bây giờ trong thành tướng lĩnh vẫn đang liều mình cố thủ, quân Tây Sơn nhất thời cũng khó thể công phá được. Sau mấy lần tấn công, công phá không thành công, đại quân Tây Sơn thương vong trầm trọng. Bọn chúng biết không thể hạ thủ được Thành Đô bèn quay mũi giáo sang các thôn làng không có sức phòng thủ ở bên cạnh Thành Đô hòng cướp bóc, đập phá để xả hận.

Chương 314 Nghịch chuyển! (2)

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn nhanh chóng cùng Lâm Thanh Đại bàn bạc phương thức tấn công, Đỗ Văn Hạo nghĩ rằng hắn và Lâm Thanh Đại cùng nhau đi thăm dò tình hình của địch, nhưng Lâm Thanh Đại không nghe, nói rằng Đỗ Văn Hạo không biết võ công, hắn đi rồi sẽ chỉ là gánh nặng cho nàng, làm nàng phân tâm không thể hoàn thành nhiệm vụ được.

Đỗ Văn Hạo không biết nói thế nào nên đành chấp nhận ý kiến của Lâm Thanh Đại, để một mình nàng đi dò la tin tức, nhưng trong thâm tâm của hắn thì lo ngay ngáy cho Lâm Thanh Đại, nhỡ nàng có mệnh hệ nào thì…

Trong lúc Lâm Thanh Đại đi dò la tin tức, thám thính tình hình, thì Đỗ Văn Hạo gọi người ra mời những người dân tị nạn vào trong lều dò la tình hình của quân địch.

Trong lúc nói chuyện với dân chúng thì có mấy người bị bệnh vô cùng nghiêm trọng, sốt cao mệt mỏi, trướng bụng, đại tiện ra máu, thậm chí còn có người do sợ quá mà hóa điếc! Đỗ Văn Hạo phát hiện ra những người có bệnh trạng như vậy rất giống với bệnh Thương Hàn Liệt Tính, căn bệnh này có khả năng truyền nhiễm vô cùng kinh khủng!

Chính vì vậy mà Đỗ Văn Hạo bèn lập tức nhanh chóng ra lệnh cách ly mấy người này ra để quan sát, sau đó hắn liền ra tay cứu chữa, nhưng mọi thứ đều đã quá muộn, có hai người trong số đó đã chết vì căn bệnh truyền nhiễm này!

Đỗ Văn Hạo bèn cho người tìm hiểu lai lịch của hai người bị bệnh mà chết này, sau khi điều tra xong thì hắn phát hiện bọn họ đều là người của Nhã Châu, những người còn sống lúc này cũng nói cho hắn biết Nhã Châu bây giờ đang có một bệnh dịch truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, căn bệnh này trong lịch sử Trung Quốc gọi là Dương Chứng Tử, Dương Chứng Tử là căn bệnh truyền nhiễm cấp tính bao gồm cả Thương Hàn, người mắc bệnh này chết rất nhiều, quân của bộ lạc Tây Sơn vì sợ bị truyền nhiễm nên chỉ ăn uống bằng lương thực mà bọn chúng mang theo, sau đó chúng giết hại toàn bộ dân chúng mà chúng gặp phải.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng phẫn nộ, hắn lớn tiếng chửi rủa của bọn Tây Sơn cầm thú, mất nhân tính! Nhưng cũng từ đây mà hắn phát hiện ra một kế sách phá địch mới, nguyên lý phát bệnh của Thương Hàn thường xuất phát từ trong phân của người bệnh, chỉ cần xử lý khéo léo là hắn đã có trong tay một vũ khí hóa học vô cùng lợi hại.

Nếu như hắn dùng loại vũ khí hóa học mới này đối phó với quân Tây Sơn, thì quân địch sẽ bị hoảng loạn, sức mạnh theo đó mà cũng bị giảm sút, bệnh Thương Hàn thường sau một tháng sẽ phát bệnh vô cùng nghiêm trọng, Đỗ Văn Hạo có thể lợi dụng thời gi­an này mà kéo giãn đội hình của quân địch rồi mới thừa cơ quăng chất độc hóa học vào trong doanh trại của quân địch, đợi cho bọn chúng phát hiện ra thì cả đại quân của Tây Sơn cũng đã bị truyền nhiễm Thương Hàn cả rồi, như vậy có khi không cần hắn phải ra tay mà quân địch cũng tự phải rút lui.

Vũ khí hóa học kiểu này ở thời cổ đại thường rất ít người biết sử dụng nó, do vậy để phát hiện ra sức mạnh tiềm ẩn trong nó là chuyện không thể, hơn nữa bệnh truyền nhiễm Thương Hàn này tiềm ẩn trong cơ thể con người tầm một tháng sau thì mới phát bệnh, nhưng quá trình phát bệnh của nó lại diễn ra loại vô cùng nhanh chóng, cho dù lúc đó ra tay chữa trị có thể thoát khỏi cái chết, nhưng nó lại cần thời gi­an trị liệu rất dài, không thể một chốc một lát mà khỏi ngay được. Chính vì vậy mà một khi căn bệnh truyền nhiễm này phát bệnh và lây lan thì người mắc bệnh cho dù không chết thì cũng bị mất sức, đi lại khó khăn, đến lúc đấy thì làm gì còn sức mà chiến đấu nữa, khi đó bọn chúng chỉ là những con cừu non ngoan ngoãn chờ đợi đại quân của Đỗ Văn Hạo đến xử lý mà thôi.

Đỗ Văn Hạo sau khi suy xét kỹ lưỡng bèn lập tức cho người ra moi hết phân trong người của hai xác người chết do Thương Hàn lúc nãy ra, rồi lại phái người đi tìm những người bị nhiễm Thương Hàn khác, rồi tìm phân của bọn họ. Đỗ Văn Hạo sau khi có được mẫu vật trong tay bèn tiến hành xử lý sơ bộ, bây giờ những đống phân trong tay hắn đã trở thành một thứ vũ khí sinh học vô cùng lợi hại, chúng hiện giờ đã được chiết xuất thành một dạng chất lỏng được gói gọn trong một cái bọc kín kẽ, chỉ cần ném ra một cái là bệnh dịch ngay lấp tức có thể lây lan truyền nhiễm.

Về mặt của Lâm Thanh Đại thì nàng làm việc vô cùng nhanh nhẹn, hiệu quả. Nàng chỉ cần dùng một ngày thôi mà đã thu thập được hầu hết tin tình báo của bên địch, sau đó nàng liền đánh dấu lên bản đồ những điểm quan trọng, không những vậy trên đường do thám Lâm Thanh Đại còn tóm được một tên lính cao cấp của bộ lạc Tây Sơn nữa.

Đỗ Văn Hạo sau khi tra hỏi xong mới thực sự biết rõ tình hình quân địch, đúng là bộ lạc Tây Sơn lần này đã dốc toàn bộ binh lực vào cuộc chiến, không những vậy chúng còn vay mượn được một vạn đạo quân của mấy nước láng giềng, chính vì thế mà tổng binh lực của chúng lúc này lên đến hai vạn năm ngàn quân.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới trầm ngâm suy nghĩ, hai vạn năm ngàn quân cũng là một con số không nhỏ, chả trách mà đại quân của Hàn Tu không thể cưỡng lại nổi, thì ra là tin tức tình báo khi trước đã báo sai, quân địch rõ ràng mạnh hơn dự đoán rất nhiều.

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn sai người áp giải tên tù binh đó xuống, rồi cho gọi Lý Phố và Lâm Thanh Đại lại cùng bàn bạc phân tích tình hình để đưa ra kế hoạch tác chiến.

Đỗ Văn Hạo giờ đây đã đem ý nghĩ dùng vũ khí hóa học tấn công cho hai người kia nghe, Lý Phố và Lâm Thanh Đại đều không biết là loại vũ khí mới này có tác dụng hay không, nhưng đây đã là suy nghĩ của Đỗ Văn Hạo thì chắc không có vấn đề gì cả, vì dù sao hắn là người am hiểu về mặt này hơn ai hết.

Sau một hồi thương thảo, Đỗ Văn Hạo ra lệnh cho Lâm Thanh Đại mang theo hai mươi quân sĩ nhanh nhẹn nhất lên đường. Tất cả cùng đóng giả thành dân chúng thông thường, Đỗ Văn Hạo trao cho Lâm Thanh Đại phụ trách dùng khí sinh học này hạ độc quân địch. Lâm Thanh Đại dựa theo những gì mà nàng đã thu thập, biết được quân địch sẽ đi đâu để cướp bóc, nên nhân lúc bọn chúng thổi gạo nấu cơm bèn mang cái bình nước chứa đầy virus Thương Hàn kia đổ vào nguồn nước nấu cơm của bọn chúng.

Khinh công của Lâm Thanh Đại cao diệu tuyệt đỉnh, nàng cầm theo cái bình nước đó thâm nhập vào lòng địch như đi vào chỗ không người, nàng khéo léo đến từng chỗ cắm trại của quân Tây Sơn rồi hạ độc.

Về mặt Lý Phố thì sau khi có được những thông tin do Lâm Thanh Đại cung cấp, ông ta đã phục kích, tiêu diệt thành công hai ngàn quân Tây Sơn đang trên đường đi cướp bóc của dân chúng, sau khi đánh tan bọn chúng, Lý Phố còn cố tình thả xót một số ít rồi tha cho chúng ra về.

Những tên lính được tha về liền chạy vào đại doanh trại của Tây Sơn đem tình hình báo lên cấp, lãnh đạo quân Tây Sơn sau khi biết tin tức giận vô cùng, ngay lập tức chỉnh đốn đại quân, hướng thẳng vào bốn ngàn kỵ binh do Đỗ Văn Hạo dẫn dắt rồi bao vây vào giữa.

Nhưng, Đỗ Văn Hạo không hề ứng chiến, mà lại lợi dụng ưu thế tốc độ của kỵ binh, thoát khỏi vòng vây quân địch, sau khi thoát khỏi vòng vây thì kỵ binh của Đỗ Văn Hạo cũng không hoàn toàn bỏ chạy, mà cứ giữ khoảng cách nhất định với quân Tây Sơn. Quân kỵ của hắn như một bóng quỷ chập chờn lúc ẩn lúc hiện, vô cùng quỷ dị. Chỉ cần đợi đến ban đêm, quân địch cắm trại nghỉ ngơi thì kỵ binh của Đỗ Văn Hạo bèn tiến đến đánh trộm, hắn lợi dụng tầm bắn xa của cung nỏ kết hợp với hỏa tiễn, rất nhanh đã thiêu trụi bốn đại bản doanh của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn vô cùng ức chế, vì mỗi lần bọn chúng ùa ra đánh thì Đỗ Văn Hạo lại lẩn trốn như trạch, không biết đâu mà lần.

Cứ như vậy bốn ngàn quân kỵ của Đỗ Văn Hạo xỏ mũi dắt hai vạn quân Tây Sơn chạy lung tung khắp nơi, hắn rất biết duy trì khoảng cách an toàn, địch tiến thì hắn lui, địch lui hắn lại tiến. Quân Tây Sơn lúc này bị Đỗ Văn Hạo hành hạ đến hẹn lại lên, khổ sở vô cùng, bọn chúng chỉ thấy Đỗ Văn Hạo nhởn nhơ trước mặt mà không thể nào làm gì nổi. Còn Lâm Thanh Đại thì cũng nhân cơ hội mà không ngừng phát tán bệnh dịch, đồng thời nàng còn thu thập tin tức báo lại cho Đỗ Văn Hạo biết, do vậy đường đi nước bước của quân Tây Sơn đều bị Đỗ Văn Hạo nắm thóp, càng làm cho hắn được thể quấy rối quân địch kinh hơn trước.

Quân Tây Sơn cứ thể bị quấy rối làm cho một số bộ phận tách rời khỏi đại quân, đôi mắt nhạy bén của Đỗ Văn Hạo cũng nhìn ra được điểm đó, vì vậy chỉ cần thấy đội quân nào bị tách rời là hắn liền tập trung binh lực truy sát tiêu diệt luôn. Kiểu cách vừa đánh vừa chạy như thế này làm cho quân Tây Sơn mệt mỏi uể oải, thương vong hàng loạt.

Cũng đúng lúc này thì Tô Thức đã vừa vặn đem quân viện trợ đến nơi tham chiến.

Tô Thức làm công tác vận động vô cùng có hiệu quả, trên đường hành quân ông ta không ngừng chiêu mộ Bảo Giáp Binh cùng với các lộ quân khác nhập vào, không ngờ số lượng lúc này lên đến tận hai vạn quân.

Bây giờ lực lượng giữa hai bên đã có thay đổi rõ rệt, ngoài ra quân Tây Sơn lúc này lại mắc phải bệnh dịch truyền nhiễm do Lâm Thanh Đại thả ra, do vậy sức chiến đấu cũng đã giảm đi rõ rệt.

Đỗ Văn Hạo sau khi biết tin liền dự tính được trong một ngày không xa nữa, quân Tây Sơn sẽ hạ lệnh rút binh quay về Thổ Phồn, vì vậy hắn liền quyết định đem theo hai vạn quân xát nhập vào với bốn ngàn quân kỵ của hắn theo đường tắt bày bốc kích trên đoạn đường rút lui của quân Tây Sơn.

Quả nhiên, mấy ngày hôm hôm sau quân Tây Sơn do bị bệnh dịch hoành hành, sức mạnh đại quân giảm đi hơn nửa, lại hay tin triều đình Đại Tông đã phái binh chi viện cho Thành Đô nên sợ hãi quyết định hạ lệnh lui binh về Thổ Phồn.

Đường rút lui của quân Tây Sơn lúc này đi đúng vào con đường mà Đỗ Văn Hạo đã mai phục sẵn từ trước, khi quân Tây Sơn đi đến chỗ này thì đại bộ phận binh sĩ đã bị mắc bệnh Phong Hàn, Quân Y của chúng căn bản chữa trị không xuể vì số lượng bị truyền nhiễm quá lớn. Vì quân sĩ Tây Sơn lúc này ai nấy đều mắc bệnh cả, sức khỏe suy yếu, do vậy tốc độ hành quân vô cùng chậm chạm, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo đợi mãi vẫn không thấy bóng dáng của bọn chúng đâu, nhưng hắn vẫn kiên trì chờ đợi, quả nhiên từ xa hắn trông thấy con mồi của hắn đang uể oải bước những bước chân nặng trịch chui vào cái bẫy mà hắn đã giăng sẵn từ lâu.

Quân Tây Sơn đến giờ vẫn không hề hay biết là mình đang đi vào miệng hố của tử thần, vì thế đoàn quân vẫn lầm lũi bước những bước chân khó nhọc chầm chậm tiến tới.

Lúc này bốn bề bỗng nhiên nổ lên một tiếng hô động trời, tứ phía vang lên những tiếng thét vang dội, Đỗ Văn Hạo cầm đầu bốn ngàn quân kỵ binh làm quân tiên phong, dốc thẳng vào chính giữa quân địch, thế như chẻ tre, gươm đao vung lên đầu rơi máu chảy, hắn cùng bốn ngàn kỵ binh giờ đây xông vào quân địch như chỗ không người, ra sức chém giết, tiếng thét đau đớn hòa lẫn với tiếng gươm đao va chạm vào nhau tạo nên một cảnh tượng vô cùng tàn khốc, bi thảm.

Mặc dù hai vạn quân do Tô Thức chiêu nạp chưa từng tham gia đánh trận bao giờ, thậm chí đến cả luyện tập chính quy cũng chưa có, do vậy sức chiến đấu vô cùng kém cỏi. Nhưng quân Tây Sơn lúc này hầu hết đều bị nhiễm bệnh, sức tàn lực kiệt đến cả gươm giáo còn không vác nổi nữa là chiến đấu, chính vì thế mà bây giờ đại quân Tây Sơn đã trở thành mục tiêu sống động để cho hai vạn quân tiến hành luyện tập trận chiến đầu tiên của họ.

Trận chiến bây giờ không còn đúng theo nghĩa của nó nữa, mà nó đã biến thành một cảnh đồ sát thực sự, Đỗ Văn Hạo cầm đầu quân kỵ đi đến đâu đầu rơi đến đó, không đầy hai canh giờ đồng hồ toàn bộ quân Tây Sơn đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân sĩ Đại Tống lúc này vốn đã căm hận quân Tây Sơn mấy tháng gần đây giết người dã man, nên trong đầu bọn họ lúc này không còn tồn tại hai từ tù binh nữa, mà trong đầu bọn họ chỉ tồn tại hai chữ đồ sát và đồ sát mà thôi, do vậy mà đại quân Tây Sơn đến cả tư cách đầu hàng làm tù binh cũng không được, toàn bộ quân đội đều bị giết sạch hoàn toàn.

Chương 314 Nghịch chuyển! (3)

Đỗ Văn Hạo vốn lúc đầu định ngăn chặn cuộc đồ sát đẫm máu này, nhưng quân Đại Tống lúc này đã giết người đến độ đỏ cả mắt, không cần biết quân Tây Sơn là ai, cứ gặp là chém, quân Tây Sơn do vậy cứ đổ xuống như khúc chuối, tình hình vô cùng hỗn loạn, Đỗ Văn Hạo muốn truyền đạt mệnh lệnh của mình cũng không được nữa, hắn đành bất lực nhìn quân Tây Sơn bị giết như những con gà tội nghiệp.

Sau khi đồ sát kết thúc, Đỗ Văn Hạo đứng trên mỏm núi đưa mắt ra nhìn bãi chiến trường, lúc này xác người la liệt khắp nơi, máu chảy nhuốm đỏ cả một khoảng đất rộng lớn, đây là lần đầu tiên hắn tham gia chiến tranh, vẻ bi tráng của cuộc chiến thời thượng cổ làm cho trái tim của hắn rung lên mãnh liệt.

Khi tên quân sĩ cuối cùng của quân Tây Sơn đổ gục xuống đất thì nơi đây liền vang lên những tiếng thét thắng lợi động trời, tất cả binh sĩ cùng múa vũ khi trong tay mình hướng về phía Đỗ Văn Hạo hoan hô chiến thắng.

Đỗ Văn Hạo cũng cảm khái vô cùng, cuối cùng thì cũng đã kết thúc, một trận chiến không cân sức, nhưng cũng đủ thể hiện khả năng cầm quân của hắn không hề tồi một chút nào. Sau đó Đỗ Văn Hạo liền cho người chạy về phía Thành Đô thông báo tin thắng lợi cho Hàn Tu biết, Hàn Tu nghe xong thì cảm động đến rớt nước mắt. Tin tức Đại Tống thắng trận rất nhanh được lan truyền đi khắp nơi, ai nấy đều hoan hô mừng rỡ.

Hàn Tu sau đó liền đem những quân sĩ còn sót lại của mình ra hội tụ với đại quân của Đỗ Văn Hạo, xong sau đấy Đỗ Văn Hạo bèn gi­ao lại toàn bộ quân đội cho Hàn Tu nắm giữ, nhiệm vụ của hắn giờ đã kết thúc, hắn phải gánh vác một trọng trách khác nữa, một trọng trách vô cùng nặng nề, và quan trọng, đó là cải cách biến pháp.

Trong bụng của Hàn Tu lúc này cũng biết rằng tuy bây giờ ông nắm trong tay đại quân, nhưng uy tín của ông ta thì thua kém hẳn Đỗ Văn Hạo, ông biết rằng trên danh nghĩa thì ông là người lãnh đạo đại quân, nhưng trên thực tế thì vị trí, tầm ảnh hưởng của Đỗ Văn Hạo đã khắc sâu trong từng trái tim của mỗi quân sĩ rồi.

Bộ lạc Tây Sơn sau khi đại quân thua trận thì chẳng khác nào rắn mất đầu, Đỗ Văn Hạo, Hàn Tu, Lý Phố, Tô Thức bèn thương lượng rằng bây giờ đại quân nên thừa thắng xông lên xóa sổ luôn cả bộ lạc này, rồi chiếm đóng toàn bộ địa phận của chúng, sau đó đem toàn bộ đất đai của Tây Sơn sát nhập hoàn toàn vào lãnh thổ của Đại Tống.

Sau khi thương lượng bàn bạc xong, đại quân liền tiến quân sâu vào bên trong, chiếm đóng toàn bộ đất đai của Tây Sơn mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào cả, Sau khi bình định xong Tây Sơn thì đại quân tiếp viện của triều đình phái đến cũng vừa vặn đến nơi, vì vậy mà các bộ tộc lân cận không dám ho he câu nào, tất cả đều co vòi rụt cổ lại giương mắt ếch ra nhìn Đại Tống chiếm đóng Tây Sơn mà không dám hé răng nói thêm câu nào cả.

Mọi việc xong xuôi đâu đấy thì Đỗ Văn Hạo liền viết sớ thông báo cho triều đình biết là hắn đã dẹp tan được Tây Sơn, đang chờ đợi Hoàng Thượng phong tước Tây Sơn Vương cho hắn, chính vì vậy mà trong thời gi­an chờ đợi này Đỗ Văn Hạo vẫn chưa được tiến hành biến pháp ở đây (ở đây tức là chỉ Tây Sơn, chứ Đỗ Văn Hạo vẫn có quyền thi hành biến pháp ở Nhã Châu).

Đỗ Văn Hạo biết công việc trước mắt của hắn hiện giờ là khôi phục lại đời sống cho dân chúng sau cuộc chiến thảm khốc vừa rồi, sau đó lại khôi phục lại trật tự ở Thành Đô, xong đâu đấy hắn mới thực hiện cải cách ở Nhã Châu. Đỗ Văn Hạo biết rằng hắn trước mắt phải tích lũy kinh nghiệm cải cách ở Nhã Châu xong rồi mới có thể tiến hành cải cách ở Tây Sơn được.

Chính vì thế mà sau khi hắn bố trí đại quân của mình đóng ở những vị thế quan trọng ở Tây Sơn xong rồi mới đem theo Lý Phố quay lại Nhã Châu nhậm chức.

Nhã Châu sau trận chiến thương tích đầy mình, nơi nào cũng bị chiến tranh tàn phá một cách nghiêm trọng, toàn bộ thành ấp nơi đây chẳng có lấy nổi một bóng người, cả một khoảng đất rộng lớn trở nên heo hút, lạnh lẽo, không có sức sống gì nữa cả.

Bây giờ tiết trời đang là mùa hè nên kéo theo rất nhiều dịch bệnh, Đỗ Văn Hạo cũng xém chút nữa thì mắc phải bệnh ghẻ ở đây, nhưng hắn biết bản thân hắn không được phép dừng lại, bây giờ không phải là lúc nghỉ ngơi của hắn, tất cả người dân ở kinh thành Nhã Châu bây giờ đều không có nhà để về, không có nơi để ở. Nhiệm vụ trước mắt của Đỗ Văn Hạo lúc này là nhanh chóng tìm ra nơi ăn chốn ở cho bọn họ nếu không những người dân này sẽ trở nên bất mãn rồi tạo phản. Dân dĩ thực vi thiên (câu thành ngữ này lấy ở trong sách <Hán Thư> của Ban Cố, có nghĩa là lý tưởng cao nhất của dân chúng là được cơm no ấm bụng.), đây là ý tưởng bình dị nhất của tất cả bàn dân trong thiên hạ, giờ đây ruộng đồng hoang vắng, rất nhiều người dân trong trận chiến này đã mất đi ruộng vườn của mình, không có thức ăn họ đành phải tìm rau rừng quả dại ăn với gốc cây, sắn củ để sinh tồn. Nếu tình trạng này vẫn cứ tiếp diễn như vậy thì hậu quả vô cùng nghiêm trọng.

Đỗ Văn Hạo lúc này đã đem theo một tốp người đến Nhã Châu Châu Phủ để xem xét tình, sức khỏe của Tô Thức, ông ta bây giờ cũng chưa hoàn toàn khỏi bệnh, Đỗ Văn Hạo bèn cho người tìm giúp ông ta một nơi có vẻ còn toàn vẹn nhất cho ông ta trú chân ở tạm, còn hắn thì suốt ngày rong ruổi trên lưng ngựa lo lắng cho dân chúng, hết mình vì công việc xây dựng phục hồi sau chiến tranh.

Khi Đỗ Văn Hạo đi đến Nha Môn của Châu Phủ thì phát hiện nơi đây còn bảo tồn khá là hoàn hảo, phòng ốc bên trong cùng với các thiết bị trong nhà đều còn nguyên vẹn, dường như chưa bị phá hại một chút nào cả, Đỗ Văn Hạo lại cho Lý Phố đi kiểm tra kho lương thực ở đây, thì phát hiện bên trong rỗng không chẳng có một thứ gì.

Lý Phố thấy vậy tức giận dậm chân chửi thề, mấy người đi theo Đỗ Văn Hạo lúc này bèn quay sang nhìn hắn thì thấy hắn cau mày lại suy nghĩ điều gì đó, Lâm Thanh Đại đứng cạnh đấy thấy vậy bèn tiến tới khuyên hắn: “Thời tiết nòng thế này, chàng tìm chỗ nào mát mà đứng, cẩn thận không lại bệnh ra đấy…”

Đỗ Văn Hạo nghe xong chỉ ừ lên một tiếng rồi vẫn cứ đứng nguyên chỗ cũ, một lúc lâu sau hắn mới đưa mắt lên nhìn mọi người, rồi sau đó Đỗ Văn Hạo bèn đưa tay ra hiệu cho Lý Phố tiến lại chỗ mình rồi nói: “Ngươi mau mau đi dán giấy thị chúng, nói rằng nơi đây tạm thời dùng để làm nơi ở cho những người không còn nhà cửa, bất kỳ ai không có nhà cửa đều có thể đến đây ở tạm!”

Lý Phố đáp: “Bẩm đại nhân! Đây là nơi của Châu Nha, chúng ta có cần thông báo cho Tô đại nhân biết, rồi sau đó mới quyết định không ạ?” Đỗ Văn Hạo nghe xong vẫn kiên định nói: “Không cần đâu! Cứ để dân chúng ở tạm đây trước cái đã, bên phía Tô đại nhân thì tối nay ta sẽ nói cho ông ta biết, ngươi mau mau đi làm đi, ta phải đi kiếm Hàn tướng quân để bàn chuyện cứu tế cho dân chúng đây.”

Lý Phố nghe xong thì ngạc nhiên nói: “Bẩm đại nhân! Đó là lương thực dành riêng cho quân đội, Hàn tướng quân chắc gì đã đồng ý!”

Lâm Thanh Đại thấy Lý Phố có vẻ lắm chuyện bèn tiến lên nói: “Đỗ đại nhân bảo ngươi làm thì ngươi cứ đi làm đi, nếu bây giờ dân chúng vào đây ở mà không có thức ăn thì ai mà sống nổi cơ chứ?”

Lý Phố nghe xong vội vã lui ra ngoài.

Lâm Thanh Đại thấy Lý Phố đi rồi bèn nói: “Văn Hạo! Để thiếp đi cùng chàng nhé!”

Đỗ Văn Hạo suy ngẫm một lát rồi nói: “Không cần đâu! Ta chỉ cần đem theo hai tên quan binh được rồi!” Nói xong hắn liền đem theo hai tên quan binh hướng thẳng doanh trại của Hàn Tu đi đến.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo đã ngồi trong lều của doanh trại quân đội, thời tiết vô cùng nóng nực Đỗ Văn Hạo mặc dù đã phanh áo hết cỡ, nhưng vẫn cảm thấy nóng bức khó chịu khôn tả, nơi đây thỉnh thoảng cũng có gió thổi vào, nhưng lại là gió nóng, làm cho Đỗ Văn Hạo đã nóng lại càng thấy nóng thêm.

Một lúc sau một ông lão râu tóc bạc phơ thân mặc giáp trụ đầu ngẩng cao, bước vào trong lều của Đỗ Văn Hạo, đây không phải ai khác mà chính là Hàn Tu, ông ta trông thấy Đỗ Văn Hạo thì cười lên ha hả: “Đỗ Ngự Y đến rồi đó hả! Thật ngại quá, không biết đại nhân đến thật là thất lễ, không biết gia quyến của đại nhân sắp xếp thế nào rồi?”

Đỗ Văn Hạo thấy thế bèn mỉm cười tiến đến chắp tay nói: “Lần này tại hạ đến đây là có việc muốn nhờ đến Hàn đại nhân giúp đỡ.”

Hàn Tu nghe xong bèn đưa tay ra ý mời Đỗ Văn Hạo ngồi xuống.

Sau khi ngồi xuống, Hàn Tu mới đáp: “Đỗ đại nhân không nên khách khí như vậy, đại nhân đã có việc tìm đến lão phu, lão phu chắc chắn sẽ không có lý do để từ chối đại nhân cả!”

Đỗ Văn Hạo bèn mỉm cười nói: “Tại hạ lần này đến đây là hỏi mượn đại nhân một thứ!”

Hàn Tu đưa con mắt khó hiểu lên nhìn Đỗ Văn Hạo, tuy nét hắn lúc này trông có vẻ mệt mỏi, sắc mặt sạm đen, nhưng ánh mắt thì vẫn cháy lên rừng rực, tưởng chừng như không bao giờ tắt vậy, ông ta biết hắn nói đây không phải chuyện tầm thường nên Hàn Tu bèn vội vã lên tiếng: “Không biết Đỗ đại nhân muốn mượn vật gì, lão phu chỗ này ngoại trừ binh sĩ ra thì không biết Đỗ đại nhân muốn gì nữa?”

Đỗ Văn Hạo chỉ mỉm cười nói: “Cái mà tại hạ cần mượn là lương thực!”

Hàn Tu nghe xong thì sững người lắp bắp hỏi lại: “Đỗ đại nhân! Ngài nói sao cơ…Mượn lương…lương…thực sao?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu mỉm cười nói: “Tại hạ mượn lương thực để cứu tế dân chúng!”

Hàn Tu thấy vậy lắc đầu đáp: “Đỗ Ngự Y! Đại quân mấy vạn người cũng phải có cái ăn chứ, không phải là lão phu không muốn cho mượn, mà là không thể cho Đỗ đại nhân mượn được!”

“Hàn tướng quân! Tướng quân cũng biết rằng, sau trận chiến này có quá nhiều người dân tan hoang cửa nhà, tại hạ trên đường đến đây tận mắt chứng kiến dân chúng phải moi rễ cây lên ăn, có người còn bán cả con mình đi nữa, chúng ta không thể thấy chết mà không cứu được, Hàn đại nhân thấy tại hạ nói có đúng không?”

“Nỗi khổ của dân chúng thì lão phu biết! Nhưng, lương thực trong quân đội lúc này cũng không còn nhiều, cho dù có cho đại nhân mượn đi nữa cũng không thể duy trì trong thời gi­an dài được!”

Đỗ Văn Hạo gật đầu tán đồng, rồi thở dài nói: “Lời của đại nhân nói đúng lắm, nhưng hiện giờ tại hạ chỉ còn mỗi cách này để giải quyết tình hình nguy cấp trước mắt mà thôi, nhất thời không thể lo về lâu về dài được, nhưng nếu vấn đề không giải quyết ngay bây giờ e sẽ có loạn!”

Hàn Tu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Vậy đại nhân định phân phối số lương thực này ra sao? Nạn dân nhiều như vậy, lương thực sao đủ cho bọn họ dùng được!”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Tại hạ đã để Châu Nha làm nơi ở tạm thời cho những người không nơi nương tựa, sau đó sẽ đặt ở đó một chiếc nồi lớn để nấu cháo, rồi phân phát cho từng người một, tại hạ nghĩ tạm thời cũng chỉ có thể giải quyết như vậy được thôi!”

“Nếu mà như vậy thì được! Nào, mời đại nhân theo lão phu đi lấy lương thực cứu tế cho dân chúng!”

Lúc trời chập choạng tối thì Đỗ Văn Hạo mới vui vẻ quay về đến nơi ở của Tô Thức, hắn thấy nơi đây đã có khói bếp bốc lên, hắn liền trông thấy Liên Nhi và Tuyết Phi Nhi đang ở trong nhà dọn đồ.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn tiến tới nói: “Hai người làm gì vậy?”

Tuyết Phi Nhi thấy Đỗ Văn Hạo về đến bèn vui vẻ nói: “Tô đại nhân nói rằng chúng ta vẫn chưa có nơi ở, nên đem căn phòng ở phía tây ra nhường cho chúng ta, thiếp và Liên Nhi đang dọn dẹp đồ đạc!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy sa sầm nét mặt nói: “Vậy nhị vị phu nhân và ba vị công tử thìở đâu?”

Liên Nhi trông thấy nét mặt không vui của Đỗ Văn Hạo thì lí nhí đáp: “Dạ, ở đây có tổng cộng bốn căn phòng, Tô đại nhân ở cùng với hai vị phu nhân, ba vị công tử ở chung một gi­an, còn hai gi­an thì dành cho chúng ta!”

“Không được! Sức khỏe của Tô đại nhân vẫn còn tất yếu, trời thì nóng, phòng ở đây lại hầm hập thế này, làm sao có thể để ba người cùng ở trong một gi­an phòng được? Ngoài ra vẫn còn một phòng làm phòng bếp để lấy chỗ ăn cơm nữa, mấy người lẽ nào để Tô đại nhân ngồi ăn bên ngoài sân hay sao? Sao mấy người lại thiếu hiểu biết như vậy nhỉ? Chúng ta có thể dựng mấy cái lều ở bên ngoài cũng được, nhanh lên mau thu dọn hết đồ đạc cho ta!”

Tuyết Phi Nhi và Liên Nhi nghe xong thì vội vã gọi nha hoàn đến thu xếp đồ đạc lại đem ra ngoài.

Chương 315 Bước biến pháp đầu tiên.

“Vân Phàm huynh về rồi đó sao?” Giọng nói của Tô Thức bỗng nhiên từ trong phòng vọng ra ngoài hỏi.

Đỗ Văn Hạo nghe thấy tiếng của Tô Thức liền nhấc chân bước vào bên trong phòng của Tô Thức, vừa vào đến bên trong Đỗ Văn Hạo đã trông thấy Tô Thức đang ngồi trên một chiếc ghế nhỏ đặt giữa phòng, trong phòng lúc này chẳng có một ai khác cả, hắn thấy vậy bèn tiến đến chắp tay nói: “Tử Chiêm huynh! Không biết huynh cảm thấy trong người như thế nào?”

“Bây giờ đã không còn gì đáng ngại nữa rồi!” Tô Thức nói xong bèn mỉm cười đưa tay lên ra ý cho Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, rồi tự mình đứng dậy ra rót cho hắn một tách trà.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đưa hai tay ra đỡ lấy tách trà trên tay của Tô Thức xong liền uống một hơi cạn sạch, sau đó hắn liền chèm chẹp cái miệng của mình một cái rồi mới đặt tách trà xuống, Tô Thức thẩy vậy chỉ mỉm cười liền rót thêm cho hắn một tách nữa nói: “Chuyện mượn lương thực ra sao rồi?”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ có lẽ là Lâm Thanh Đại khi về đây đã đem chuyện hắn đi mượn lương thực kể cho Tô Thức nghe rồi, thấy vậy hắn bèn đem câu chuyện hắn vừa mới ở chỗ Hàn Tu về kể cho Tô Thức nghe một lượt.

Tô Thức nghe xong thì gật đầu tán đồng nói: “Cách làm của Vân Phàm huynh rất hợp lý! Không ngờ huynh lại có những ý nghĩ chu đáo cho dân chúng như vậy!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Tử Chiêm huynh e rằng nhất thời không thể chuyển đến đó ở Châu Nha được rồi, bởi Châu Nha đã bị tại hạ…”

Tô Thức nghe đến đây bèn cắt lời của Đỗ Văn Hạo nói: “Ta đã biết rồi, Vân Phàm huynh làm rất đúng, việc quan trọng trước mắt nhất bây giờ phải sắp xếp nơi ăn chốn ở của dân chúng ổn định cho xong đâu đất đã rồi mới làm gì thì làm được!”

“Tử Chiêm huynh biết không? Quan lại của Châu Nha ngoại trừ một số đã chết trận, thì những người khác cũng đã tháo chạy khỏi đây, vẫn chưa quay lại! Có lẽ phải một thời gi­an nữa cái Châu Nha của huynh mới có thể vận hành như xưa được!”

“Đúng vậy! Trong thời gi­an này nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là phải ổn định tâm lý cho dân chúng, phục hồi trật tự nơi đây, kể cả có ngồi lên chức quan Chi Châu mà không lo liệu chuyện cấp thiết trước mắt thì e rằng cũng chẳng ngồi lâu được!”

Hai người cứ vậy nói chuyện thêm được một lúc thì vợ của Tô Thức là Vương Nhuận Chi hớt hơ hớt hải chạy vào chỉ ra ngoài cửa hầm hập tức giận nói: “Đỗ đại nhân! Đại nhân đang làm cái gì vậy! Tôi nghe nói dạo gần đây Nhã Châu buổi đêm hay có bão, người khác thì không sao, nhưng sức khỏe của mấy vị Đỗ phu nhân cũng không được khỏe cho lắm, đại nhân không thể để bọn họ ngủ ngoài đường như vậy được, như vậy sẽ rất dễ sinh bệnh!”

Lúc này ở sau lưng của Vương Nhuận Chi, Liên Nhi vội vã chạy theo vào, gương mặt bối rối, sợ hãi lí nhí nói: “Thưa thiếu gia! Bọn thiếp không có vấn đề gì cả đâu, là Tô phu nhân muốn…”

Tô Thức nhất thời không hiểu mô tê đầu đuôi sự tình ra sao cả, ông thấy mọi người có những biểu hiện khác thường như vậy bèn lên tiếng hỏi: “Rốt cuộc là có chuyện gì xẩy ra vậy?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng lên tiếng giải thích nói: “Tô phu nhân không cần phải lo lắng như vậy! Thân thể của mấy vị phu nhân của tại hạ còn tốt lắm, hơn nữa bọn họ vẫn còn rất trẻ, trời cũng nóng như thế này, không đến nỗi bị nhiễm bệnh đâu! Nằm ngoài trời có khi lại cảm thấy thoáng mát, phu nhân xem tiết trời nóng nực thế này mà nằm ngoài hóng gió thì không phải là mát mẻ hơn hay sao?”

Vương Nhuận Chi nghe xong vẻ mặt vẫn tỏ vẻ không vui, chạy thẳng đến trước mặt Tô Thức trách móc: “Lão gia! Chuyện này không thể như thế được, chúng ta đã bàn bạc với nhau rằng sẽ nhường lại hai căn phòng cho Đỗ đại nhân! Ba đứa nhỏ thì dù sao đều là con trai, ở chung với nhau cũng được, không biết thiếp làm như vậy có điều gì sai, mà Đỗ đại nhân không vẫn không chịu đồng ý?”

Tô Thức lúc này mới nghe hiểu chuyện gì đang xẩy ra, ông vô cùng cảm động, liền liên tưởng đến lời nói của Hoàng Thượng dành cho Đỗ Văn Hạo, Tống Thần Tông đánh giá hắn là một người nói được làm được, hành sự vô cùng điềm tĩnh, chuyện gì suy nghĩ cũng vô cùng thấu đáo, đầu óc thông minh, nhay bén, nếu như cho hắn một khoảng không gi­an để hắn mặc sức tung hoành thì hắn chắc chắn sẽ làm lên chuyện lớn, nhất định sẽ không là cho mọi người thất vọng, nghĩ đến đây Tô Thức liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Vân Phàm huynh cũng mệt mỏi cả ngày hôm nay rồi, không thể để huynh căng bạt ngủ ở ngoài đường như vậy, huynh nghe lời ta dọn vào trong này ở, mọi người ở chung với nhau lại không phải vui vẻ náo nhiệt hơn sao?”

Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi định lên tiếng nói thì Tô Thức đưa tay gạt đi, cắt ngang lời của hắn: “Thôi được rồi! Chuyện này coi như ta nói là xong, nói cho cùng thì đây cũng là tình cảnh đặc biệt, do vậy chúng ta phải lựa thế mà sống, mấy đứa trẻ nhà ta cũng không nên nuông chiều chúng quá, phải cho chúng nếm mùi đau khổ thì chúng mới hiểu thế nào là sung sướng được!”

Vương Nhuận Chi nghe vậy bèn gật đầu nói: “Lão gia nói phải lắm! Đỗ đại nhân đừng từ chối mãi như vậy nữa, đây chẳng qua là một nơi tránh mưa tránh gió thôi mà, tôi tin đây chẳng qua chỉ là tình huống tạm thời thôi, chỉ cần chúng ta còn sống thì lo gì sau này không có chỗ ở, đạo lý này chắc Đỗ đại nhân cũng hiểu! Tôi tin rằng Đỗ đại nhân cùng với lão gia sẽ nhanh chóng khôi phục lại nơi này trong thời gi­an nhanh nhất có thể!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng cảm kích vô cùng: “Tô phu nhân nói phải lắm! Tại hạ bất tài, nguyện ghi nhớ những lời dạy bảo của phu nhân!”

Cũng đúng lúc này thì bên ngoài cửa sổ vọng vào tiếng sấm rền vang, tiếp sau đó là những tia lửa điện xe rách bầu trời, loằng ngoằng nhằng nhịt nối đuôi nhau lóe lên những ánh sáng bạc xuyên qua những đám mây đánh thẳng vào gốc hòe phía bên ngoài sân. Tiếp sau đó bên ngoài sân vang lên một tiếng hét thất thanh, Đỗ Văn Hạo mặt mày thất sắc đứng thẳng người dậy phóng luôn ra bên ngoài, chỉ trông thấy Tuyết Phi Nhi đang ôm lấy Lâm Thanh Đại mặt mày tái mét vì sợ hãi. Lâm Thanh Đại lúc này cũng chỉ đứng đó hướng về Đỗ Văn Hạo mỉm cười với hắn một cái, rồi cúi xuống thấp giọng nói với Tuyết Phi Nhi điều gì đó, Tuyết Phi Nhi nghe xong bèn gật gật đầu, sau đó chạy luôn vào túp lều gần đấy.

Một lúc sau, mưa rơi như trút nước, từng giọt mưa nặng hạt rơi lộp bộp dưới sân, rồi bắn tóe lên như hình con cóc nhảy, không khí bây giờ trở nên vô cùng mát mẻ, gió thổi vù vù xua tan đi cái nóng gay gắt của ban ngày. Nhưng, Đỗ Văn Hạo không vì như vậy mà cảm thấy sảng khoái hơn chút nào, nét mặt của hắn vẫn đượm một nỗi lo âu vô bờ bến, Đỗ Văn Hạo liền quay sang Tô Thức nói: “Trận mưa này e rằng không nhỏ! Tại hạ phải ra ngoài kia xem dân chúng thế nào rồi, không biết là họ có cần giúp đỡ gì không?”

Tô Thức thấy vậy bèn đáp: “Ta cũng đi!”

“Tử Chiêm huynh đừng đi, bệnh tình của huynh cũng vừa mới khỏi, bị nhiễm thêm lạnh vào lại lần nữa e rằng có hại cho sức khỏe!”

“Không sao đâu! Sức khỏe của ta, ta biết! Lúc này mà ta cứ ru rú ở trong nhà thì làm sao xứng đáng với chức Chi Châu của ta được! Đi, chúng ta đi thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn bật cười sảng khoái, sau đó hai người liền bước luôn ra bên ngoài, hai tên thị vệ theo hầu cũng vội vã chạy theo bật ô che chở cho hai người đi tuần.

Hai người trên đường đi tuần lúc này vô cùng bận rộn, một người là Chi Châu, người còn lại là Câu Quản tuy hai chức quan to nhỏ khác nhau, nhưng giờ họ lại chung một nhịp đập trái tim, đó là nhịp đập của lòng yêu nước thương dân. Trên đường đi hai người đem những người không có chỗ trú mưa đưa hết về Châu Nha lánh tạm, rồi bảo với Tiền Bất Thu đun nước gừng nóng để họ uống cho đỡ lạnh. Sau đó Đỗ Văn Hạo lại bàn bạc với Hàn Tu, Tô Thức lên kế hoạch xây dựng lại thành ấp nơi đây, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo mới chịu quay về nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo dậy từ rất sớm, bởi vì Tô Thức nhất quyết không cho hắn và gia đình dọn ra ngoài ngủ trong lều, nên hắn liền đưa bốn vị phu nhân của mình ở lại trong hai căn phòng mà Tô Thức đã nhường lại cho hắn. Còn Đỗ Văn Hạo và Lý Phố cùng ở trong một căn lều, bên cạnh lều của hắn là lều của Anh Tử với con hổ con Khả Nhi.

Sáng sớm trời quang mây tạnh, những con ve đáng ghét lại bắt đầu kêu lên vo vo, nghe mà lộn hết cả ruột, Đỗ Văn Hạo ghét nhất cái bọn ve này, sáng ra đã kêu ầm ĩ cả lên, làm cho người ta vô cùng khó chịu. Chính vì vậy mà khi mặt trời mới ló dạng, thì Đỗ Văn Hạo cũng đã tỉnh dậy ra ngoài vận động, Lý Phố thấy hắn ra ngoài cũng vội vã chui ra theo.

“Đại nhân! Sao ngài dậy sớm như vậy? Hôm qua đại nhân và mấy người khác đều nghiên cứu trùng tu lại nơi ăn chốn ở cho dân chúng đến khuya mới ngủ, mạt tướng nghĩ rằng đại nhân nên ngủ thêm một lúc nữa!”

Đỗ Văn Hạo bèn vừa đi vừa cài áo nói: “Thôi! Không cần ngủ thêm nữa đâu, hôm nay ta còn nhiều việc phải làm lắm, chúng ta mà ngủ nướng thì chuyện của dân chúng ai đứng ra giải quyết! Thời gi­an bây giờ là vàng bạc, đi thôi! Chúng ta ra chỗ Châu Nha xem tình hình mọi người ra sao!”

Lý Phố nghe xong bèn cúi người tuân lệnh, ông ta vốn là con nhà lính, chịu khổ cũng quen rồi, nhưng ông ta không ngờ rằng trông Đỗ Văn Hạo với dáng người nho nhã, mảnh khảnh thư sinh như vậy mà cũng biết chịu khổmình, thậm chí có lúc còn hơn mình thì vô cùng khâm phục. Lý Phố tin rằng Đỗ Văn Hạo là một vị quan yêu nước thương dân nhất mà ông từng gặp từ trước đến nay, hắn không chỉ quan tâm đến dân chúng từng li từng tý, mà còn đem hết sức mình ra tận tụy lo lắng cho sự an nguy của mọi người nữa, một con người vì dân vì nước như hắn, trên đời quả là hiếm có vô cùng.

Trật tự của Nhã Châu sau khi được khôi phục lại như cũ, thì những quan lại trước kia đã lục đục kéo về, trong số bọn họ cũng có một số người bị chết trong loạn lạc, Đỗ Văn Hạo cũng không gấp gáp trong việc bổ xung thêm quan viên nữa, vì nhiệm vụ trước mắt của hắn bây giờ là lương thực, phải có lương thực đầy đủ thì mới ổn định được lòng dân.

Trước mặt của Đỗ Văn Hạo giờ đây là những người dân khốn đốn sau chiến tranh, bọn họ không còn nhà để ở, không còn gạo để ăn, chiến tranh đã cướp đi tất những gì mà họ đã có, nhà cửa bị tàn phá, người thân bị chết trận, đồn điền bị hủy hoại, tiền của bị cướp bóc, họ đã mất tất cả. Người dân bây giờ chỉ biết trông chờ vào hắn, vào đồ cứu tế của triều đình mà thôi. Tình hình Châu Nha lúc này mọi thứ đều ngổn ngang, trẻ con khóc lóc đòi ăn, người lớn thì quặt quẹo nằm thu lu một góc. Trong số đó vẫn còn đó những người dân bị nhiễm Phong Hàn, bệnh dịch này vẫn đang hoành hành tác quái và dường như không có dấu hiệu nào kết thúc nào cả.

Tất cả những hình ảnh này in đậm trong tâm trí của Đỗ Văn Hạo, tàn dư để lại sau chiến tranh bao giờ cũng ảm đạm và khốn nạn như vậy.

Vấn đề đau đầu nhất của Đỗ Văn Hạo lúc này là hắn cũng không có đủ lương thực để cung cấp cho nạn dân, lương thực của Hàn Tu cung cấp cũng chỉ có hạn, không thể duy trì mãi được, Đỗ Văn Hạo biết giờ đây tất cả dân chúng chỉ trông chờ vào số lương thực này, nhưng đến một ngày nào đó số lượng thực này hết rồi thì hắn phải giải quyết sao đây?

Trong lúc ngổn ngang mọi bề thì nạn chết đói, bệnh dịch luôn luôn rình rập chờ đợi để cướp đi tính mạng của dân chúng một cách không thương tiếc, sự đe dọa của nó ngày một lớn dần và càng lúc càng trở nên đáng sợ.

Đỗ Văn Hạo biết hắn không thể chần chừ thêm được phút giây nào nữa, sau khi suy tính kỹ càng, hắn lập tức quay về phân phó công việc. Đầu tiên, hắn cho Tiền Bất Thu đem theo Diêm Diệu Thủ, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi cùng với mấy vị đại phu của các tiệm thuốc trong Nhã Châu này tham gia vào việc cứu tế, chữa trị cho dân chúng. Đỗ Văn Hạo từ đây đã nhanh chóng thành lập được một đội y tế, đội y tế này sẽ phụ trách chữa trị cho các nạn dân trong Nhã Châu. Sau đó, Đỗ Văn Hạo lại tuyển chọn trai tráng trong thành đưa ra bên ngoài xử lý rác thải, rồi phân phối bọn họ rắc nước diệt trùng để tiệt trừ mầm mống lây bệnh truyển nhiễm. Đồng thời, Đỗ Văn Hạo cho người vận chuyển lương thực từ chỗ Hàn Tu về Châu Nha nấu cháo cho dân chúng ăn, tình hình trước mắt Đỗ Văn Hạo chỉ có thể giải quyết được đến đó mà thôi, hắn vẫn chưa nghĩ ra kế sách lo liệu sau này, mà hắn giờ đây cũng chưa có đủ thời gi­an để suy xét chuyện đó.

Đỗ Văn Hạo sau khi sắp xếp xong, hắn vẫn cảm thấy chưa đủ bèn sai Lý Phố dẫn một đội quan lại trong nha phủ, cùng với mấy tên bổ khoái đi vào trong thành ấp tìm đến mấy người buôn gạo điều tra, dò hỏi xem bọn họ còn bao nhiêu lương thực nữa.

Lý Phố đoán rằng những người buôn gạo chắc chắn là sẽ còn kho dự trữ lương thực riêng của bọn họ, nhưng khi chưa biết được hư thực của sự việc, Lý Phố cũng không dám tự do hành động, như vậy cũng chẳng khác gì đi cướp của người ta cả.

Mấy ngày sau đó, Đỗ Văn Hạo cùng với Tô Thức đem theo quan lại của mình đi sâu, dò xét tình hình của các thôn làng bên cạnh thành Nhã Châu. Sau khi khảo sát tình hình khôi phục của thôn làng xong, bọn họ đều hay tin đồn điền ruộng lúa nơi đây vẫn còn giữ được khá là nguyên vẹn, mọi người do vậy nên mừng rỡ vô cùng. Chính vì thế mà ngay ngày hôm đó, đoàn người do Đỗ Văn Hạo dân đầu liền trực tiếp ra xem xét tình hình ruộng lúa ở đây ra sao, vừa ra đến nơi thì tình hình quả đúng như người trong thôn nói, ruộng lúa nơi đây vẫn còn bảo tồn nguyên vẹn như chưa từng xảy ra chuyện gì. Suy cho cùng thì mục đích của bộ lạc Tây Sơn đến đây cũng chỉ là vì cướp bóc tiền của, khi đó ruộng lúa vẫn còn chưa trổ bông, nên chúng cũng chẳng làm gì được, vì vậy mà những đồng ruộng nơi đây mới thoát khỏi kiếp nạn.

Nhưng, Đỗ Văn Hạo cũng không thể mừng rỡ được lâu, vì quân Tây Sơn không thu hoạch được lúa thì hắn cũng chẳng thu hoạch được, vì lúa cũng đã trổ bông đâu! Mà theo như tình hình trước mắt thì dân chúng trong thành đang cần một khối lượng lớn lương thực để duy trì cuộc sống bọn họ, kho thóc trong Nhã Châu thì cũng bị chiến tranh hủy hoại hết cả, lương thực của Hàn Tu thì cũng đang dần cạn kiệt, giờ đây người dân trong thành lại bắt đầu quay trở lại thời kỳ bới rễ cây mà ăn. Đỗ Văn Hạo quyết định không thể đợi thêm được nữa, hắn vốn định chờ cho tình hình của Nhã Châu khôi phục xong đâu đấy rồi mới tiến hành cải cách biến pháp, nhưng bây giờ thời cuộc cấp bách hắn không còn sự lựa chọn nào khác là tiến hành cải cách sớm hơn dự định.

Về đến thành Nhã Châu thì Đỗ Văn Hạo hay tin Lý Phố đã điều tra chính xác tình hình lương thực của hội những người buôn gạo, cùng với vị trí kho hàng tàng trữ lương thực của bọn họ. Theo như khai báo thì số lượng tích trữ lương thực của bọn họ vô cùng lớn, vì những kho dự trữ này được cất giấu vô cùng bí mật nên trong lúc loạn lạc, quân Tây Sơn không hề phát hiện ra nó, chính vì thế mà kho lương thực của hội những người buôn gạo này vẫn còn nguyên vẹn, chưa có ai động tới cả. Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, nhưng Lý Phố lại nói cho hắn biết một tin làm hắn tắt luôn nụ cười trên môi của mình xuống, tin đó là mấy hộ buôn gạo giờ đây không chịu hạ giá bán gạo cho Đỗ Văn Hạo, càng không muốn quyên góp từ thiện cho dân chúng trong thành, Đô Văn Hạo nghe mà tức điên lên, đúng là gi­an thương! Gi­an thương thì đời nào cũng có, ngay cả thời hiện đại cũng vậy, nơi nào mà xẩy ra thiên tai thì bọn chúng liền nâng cao giá tiền lương thực, đục nước béo cò. Lý Phố thấy vậy bèn ra ý bảo Đỗ Văn Hạo cưỡng chế thu lấy số lương thực đó.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì hiểu ngay hàm ý của Lý Phố, ngoài mặt thì bảo thu hồi của cải vào hỗ trợ lương khố quốc gia, nhưng thực chất hành động này chẳng khác nào đi cướp cả. Đỗ Văn Hạo cũng không nhẫn tâm ăn không của bọn gi­an thương, vì suy cho cùng thì đây cũng là công sức của bọn chúng tích trữ bao nhiêu năm, tư tưởng tư lợi thì bất kể người làm kinh doanh nào cũng có, do vậy cũng không thể trách chúng được. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn bảo Lý Phố triệu tập hội buôn gạo đó lại về Nha Phủ, sau đó đôi bên sẽ cùng bàn bạc cách giải quyết ổn thỏa với nhau.

Mấy hộ buôn gạo sau khi biết tin Lý Phố dò la ra tông tích kho gạo của chúng thì ai cũng lo lắng đứng ngồi không yên, tất cả chỉ lo sợ trong tình hình khốn khó như thế này Đỗ Văn Hạo sẽ hạ lệnh cướp hết số gạo mà chúng tích trữ bao nhiêu năm nay. Tuy bọn chúng vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo dẹp loạn giặc Tây Sơn cho Nhã Châu, nhưng người làm ăn kinh doanh lâu năm như chúng đều là những con cáo trên thương trường rồi, không bao giờ chịu mất không như vậy cả. Do vậy trước khi được Đỗ Văn Hạo mời đến Nha Môn thì tất cả bọn chúng đều đã liên kết với nhau lại, rồi cùng tìm cách đối phó với hắn.

Đỗ Văn Hạo lúc này dẫn theo Hàn Tu, Tô Thức cùng đến Nha Môn hẹn gặp hội buôn gạo kia, sau khi đọc xong Thánh Chỉ tuyên bố mình đã nhậm chức Câu Quản Nhã Châu xong, thì Đỗ Văn Hạo ban bố nội dung cải cách biến pháp mới của hắn cho mọi người biết, tất cả hội buôn gạo kia nghe xong thì thấy vô cùng lo lắng, muốn dị nghị vài lời, nhưng trông khí thế của hắn hùng hồn như vậy thì chẳng ai dám hé miệng ra hỏi, cả lũ đều xanh mét mặt mày đưa mắt nhìn nhau, lúc sau mới giả bộ đưa tay lên chúc mừng Đỗ Văn Hạo nhậm chức Câu Quản ở Nhã Châu.

Đỗ Văn Hạo sau đó liền giới thiệu thân phận của Hàn Tu cho hội buôn gạo biết, bọn chúng nghe xong thì biết đây là người đang nắm giữ binh quyền của Thành Đô, kiêm chức Đề Cử Thành Đô Phổ Lộ Thường Bình Thương phụ trách nhiệm vụ điều độ lương thực. Cả bọn biết Hàn Tu giờ đây là người cầm quyền sinh sát bọn họ ở trong tay, do vậy tất cả đều vội vã đứng dậy thi lễ với Hàn Tu để tỏ lòng kính trọng.

Hội buôn gạo này hiểu rằng Hàn Tu giờ đây mới là người có quyền cao nhất ở đây, hơn nữa ông lại lại có khả năng điều động lương thực của cả tỉnh, nếu như thất lễ với Hà Tu thì sau này con đường làm ăn của họ đều bị ảnh hưởng không nhỏ. Chính vì thế mà thái độ của chúng với Hàn Tu thậm chí còn cung kính hơn cả với Đỗ Văn Hạo.

Ánh mắt sắc bén của Đỗ Văn Hạo cũng nhận ra được sự thay đổi này, do vậy hắn bèn để Hàn Tu lên tiếng nói trước, Hàn Tu cũng là nhân vật lăn lộn nhiều năm trong quan trường, ông cũng nhận thấy ánh mắt của Đỗ Văn Hạo có ẩn ý, nên bèn ho khan lên hai tiếng rồi ôm quyền cung kính nói: “Các vị bây giờ cũng biết rồi đấy! Vị đại nhân đứng cạnh ta đây là Đỗ Ngự Y một người rất được Hoàng Thượng trọng dụng, y thuật của ông ta thiên hạ khó có ai bì được. Hoàng Thượng cũng đã ban bố Thánh Chỉ bổ nhiệm Đỗ Ngự Y đảm nhận chức Câu Quản của Nhã Châu, đồng thời còn ủy thác Đỗ Ngự Y tiến hành cải cách tân pháp ở đây. Bổn quan cho dù chức trách lên tới Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương nhưng cũng không được phép can dự vào công cuộc cải cách biến pháp của Đỗ Ngự Y. Chính vì vậy mà bây giờ Đỗ Ngự Y mới là người có quyền quyết định toàn bộ sự việc ở đây nên giải quyết ra sao! Đừng nói là các vị ngồi đây đều phải tuân theo mệnh của Đỗ Ngự Y, mà đến ngay cả bản thân của bổn quan cũng phải tôn trọng quyền quyết định của ông ta, không được phép thay đổi, hay dị nghị gì cả! Nếu các vị thấy điều này không ổn rồi đi tố cáo lên triều đình, thì cũng chẳng có tác dụng gì cả, bởi vì đây là ý chỉ của Hoàng Thượng, thử hỏi trên đời này còn ai dám cãi lời Hoàng Thượng nữa?”

Hội buôn gạo nghe xong, thì tất cả đều cảm thấy chưng hửng, trong bụng thầm kêu khổ, bọn chúng cứ tưởng bám được lấy Hàn Tu để lấy cớ từ chối sự điều động lương thực của Đỗ Văn Hạo, ai ngờ ông ta cũng không dám động vào hắn ta, trong bụng thầm oán trách Hàn Tu kém cỏi, nếu như bây giờ mà Đỗ Văn Hạo ra lệnh cưỡng chế thu hồi lúa gạo thì đúng là đi tong cả vỗn lẫn lãi, nhưng đây lại là ý chỉ của Hoàng Thượng, đi đâu mà kiện mà kêu khổ bây giờ? Mặc dù, Hoàng Thượng ở tít tận kinh thành, nhưng lúc này đến cả vị Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương Hàn Tu nắm trong tay mấy vạn binh mã này cũng không dám đả động gì đến hắn ta, thì mấy tên con buôn nhỏ bé như chúng thì sao dám ho he cơ chứ, Hàn Tu đã lên tiếng không can thiệp vào, thế thì đồng nghĩa với việc gã thanh niên trẻ tuổi này sẽ là người nắm toàn quyền quyết định ở Nhã Châu này rồi!

Hàn Tu lại tiếp tục lạnh lùng nói: “Ta đã đem những việc lợi hại ra nói hết cho các ngươi biết rồi đấy! Từ nay trở đi Đỗ Ngự Y tiến hành biến pháp ra sao, bất luân đúng sai, nếu có ai dám có ý phản đối, giở trò phá hoại thì đừng trách bổn quan vô tình!”

Những đứa buôn gạo lúc này đều chỉ biết đưa mắt lên nhìn nhau một cách tội nghiệp, nhưng nói cho cùng thì bọn chúng cũng đều là những kẻ thức thời, tuy trong bụng vô cùng ức chế nhưng cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, miễn cưỡng nở ra một nụ cười, rồi đồng thanh tán đồng lời nói của Hàn Tu, tất cả cùng đồng ý phục tùng tuyệt đối ý kiến của ông, quyết không có ý giở trò phá hoại.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy thì mỉm cười chắp tay lên đa tạ Hàn Tu, sau đó lại quay sang Tô Thức giới thiệu.

Việc Tô Thức được bổ nhiệm làm chức Hoàng Châu Chi Châu, trong đó bao gồm cả Nhã Châu đã được quan lại nơi đây gián dấy cáo thị khắp nơi, chính vì thế mà mọi người đều đã sớm đã nghe tiếng, nhưng giờ đây mới được gặp tận mặt Tô Thức, lúc này hội buôn gạo mới đưa mắt ra trông Tô Thức dò xét, thấy ông gầy gò ốm yếu, tuổi tầm trung niên, nhưng vẫn giữ được phong độ của một nhà nho tao nhã, hơn nữa Chi Châu lại còn có thể cai trị được Câu Quản, do vậy cả lũ đều mừng húm trong bụng như người chết vớ được phao chết đuối, vì thế mà tất cả bọn chúng đều vội vã đứng dậy chắp tay thi lễ, hòng lấy lòng của Tô Thức.

Tô Thức sau khi được Đỗ Văn Hạo giới thiệu cũng chỉ nói vài câu vô cùng ngắn gọn: “Các vị! Lúc nãy Hàn tướng quân cũng nói rồi, do vậy bổn quan cũng không cần nhiều lời nữa, bổn quan tuy là một Chi Châu nhưng cũng không được phép can thiệp vào công việc của Đỗ Ngự Y, bổn quan tin rằng tân pháp chắc chắn sẽ có lợi cho dân chúng, cứu rỗi bọn họ ra khỏi cảnh đói nghèo, không những vậy bổn quan sẽ dốc hết sức mình ra để phò tá Đỗ Ngự Y trong công cuộc đổi mới tân pháp này. Do vậy, bổn quan hy vọng mọi người cùng đồng tâm hiệp lực trợ giúp Đỗ Ngự Y có một môi trường làm việc tốt nhất! Có như vậy thì dân chúng mới có được cuộc sống ấm no hạnh phúc!”

Bọn buôn gạo nghe xong lại được một phen chưng hửng lần nữa, nhưng suy cho cùng tân pháp không biết nó lợi hại ra sao, đấy cũng là chuyện của tương lai, chuyện bây giờ là phải xem xem Đỗ Văn Hạo giải quyết kho thóc của chúng thế nào rồi mới nghĩ đến chuyện ủng hộ tân pháp hay không.

Đỗ Văn Hạo sau khi nghe Tô Thức nói xong bèn mỉm cười lên tiếng: “Mọi người không nên lo lắng như vậy! Đúng như Tô Chi Châu đã nói, biến pháp là dựa trên cơ sở do dân và vì dân, nếu như bổn quan có chỗ nào làm không tốt, chưa đáp ứng được nhu cầu của dân chúng, thậm chí còn làm tổn hại họ nữa thì mấy người cứ trực tiếp đề xuất cho bổn qua được biết, bổn quan nhất định sẽ tiến hành sửa đổi, còn nếu sửa đổi vẫn không được thì có thể phế bỏ nó đi. Lợi ích của dân chúng mới là hàng đầu! Bổn quan luôn luôn tin rằng, nếu như tân pháp của bổn quan không làm cho dân chúng có được cuộc sống hạnh phúc ấm no, thì tân pháp của bổn quan không bao giờ tồn tại lâu dài được. Một chế độ có được duy trì tốt hay không, thì đều phải có sự ủng hộ của tất cả mọi người, nhất là những người như các vị, nếu tân pháp không nhận được sự ủng hộ hết mình thì nó cuối cùng cũng sẽ bị đào thải mà thôi. Nhưng bổn quan đảm bảo với mọi người rằng, với cái tân pháp mới này tất cả mọi người ai cũng đều có lợi cả!”

Tô Thức từ trước đến giờ không hề hay biết Đỗ Văn Hạo rốt cục tiến hành tân pháp như thế nào, trên đường đi cũng dò hỏi hắn nhiều lần, tuy Thánh Chỉ có nói ông ta không được phép can dự vào công cuộc đổi mới tân pháp của Đỗ Văn Hạo, nhưng nếu như tân pháp của Đỗ Văn Hạo lại giống với của Vương An Thạch, không những không cải thiện được tình hình nghèo khổ của dân chúng, mà còn làm khổ bọn họ nữa, nếu theo như tính cách của Tô Thức e rằng khó tránh khỏi một trận cãi vã với Đỗ Văn Hạo. Nhưng, bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói mục đích tân pháp của hắn là phục vụ cho dân, giúp người dân có được cuộc sống ấm no và hạnh phúc, chứ không phải tăng thêm thu nhập cho triều đình, thìông cảm thấy khâm phục vô cùng, Tô Thức sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong liền đứng luôn dậy vỗ tay ủng hộ.

Hội buôn gạo thì cũng là những người hiểu sự đời, gặp qua nhiều chuyện lớn nhỏ, nên họ còn lạ gì mấy viên quan lại chỉ biết nói những lời trống rỗng, nhưng lần này bọn họ thực sự đã bị Đỗ Văn Hạo cảm động, bởi vì không phải vị quan nào cũng dám mạnh miệng công khai ủng hộ lợi ích của dân chúng trước mặt bao nhiêu người như vậy. Sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong thì mặc dù trong lòng chúng vẫn còn lo lắng chờ đợi hắn đi vào vấn đề chính mà bọn chúng đang rất quan tâm, đó chính là ý kiến của Đỗ Văn Hạo về kho gạo của bọn họ, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn cứ thao thao bất tuyệt về tân pháp nên chúng cũng chỉ biết im lặng chờ đợi. Đúng lúc này hội buôn gạo lại thấy Tô Thức đứng dậy vỗ tay khen ngợi Đỗ Văn Hạo thì tất cả bọn họ cũng đều đưa tay lên vỗ theo, hòng làm cho Đỗ Văn Hạo mải mê tân pháp, nhân tiện vỗ tay tâng bốc hắn lên sẽ làm cho hắn quên luôn kho thóc của mọi người thì lại càng tốt.

Đỗ Văn Hạo thấy mọi người đều đưa tay lên vỗ tay ủng hộ mình như vậy thì cũng không ngờ tới mọi người lại ủng hộ tân pháp như thế, mới đầu chỉ có một mình Tô Thức vỗ tay, nhưng bây giờ tất cả những người có mặt ở đây đều vỗ tay tán thưởng như vậy, vì thế hắn càng thấy mình phải quyết tâm biến đổi tân pháp cho tốt hơn.

Đợi cho tràng pháp tay kết thúc, Đỗ Văn Hạo mới mở miệng nói tiếp: “Tân pháp mà bổn quan sắp sửa thực thi sẽ được tiến hành từng bước một, bây giờ bổn quan sẽ tiến hành hai hạng mục tân pháp đầu tiên, hạng mục thứ nhất là phế bỏ các biến pháp cũ của Vương An Thạch đang được thực thi ở đây!”

Vừa mới nghe Đỗ Văn Hạo ban bố bộ luật đầu tiên như vậy thì hội buôn gạo đều kinh ngạc vô cùng, phế bỏ tân pháp của Vương An Thạch là một việc vô cùng trọng đại, không được sự đồng ý của Hoàng Thượng thì ai cũng không được phép phế bỏ nó cả, vậy mà Đỗ Văn Hạo vừa đến Nhã Châu chưa ấm đít đã ban lệnh hủy bỏ thì quả thật là một hành động to gan lớn mật, nhưng cả Tô Thức và Hàn Tu thì đều thấy đó là việc bình thường, bởi vì hai người đều biết Tống Thần Tông đã đình chỉ một số điều luật trong tân pháp rồi, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo làm vậy cũng chẳng có gì là lạ cả. Tô Thức và Hàn Tu đều biết chỉ có phế bỏ tân pháp của Vương An Thạch, thì Đỗ Văn Hạo mới tiến hành được tân pháp của hắn.

Đỗ Văn Hạo lúc này ngập ngừng một lúc rồi mới nói tiếp: “Tân pháp thì phải dựa trên tôn chỉ do dân và vì dân, nhưng với tình hình trước mắt thì Nhã Châu huyện của chúng ta vừa trải qua một cuộc chiến khốc liệt, chính vì vậy mà vấn đề cần giải quyết trước mắt bây giờ là lo cho dân chúng có cơm ăn không bị chết đói, nhưng kho thóc của Nhã Châu bây giờ không đủ cung cấp cho dân chúng, bổn quan biết các vị thương gia ở đây vẫn còn tích trữ một khối lượng lương thực rất lớn, do vậy việc cứu tế dân chúng lúc này bổn quan chỉ có thể trông chờ được vào các vị mà thôi!”

Hội buôn gạo nghe đến đây thì giật mình cái thót, đúng là tránh được nhất thời cũng không tránh được cả đời, bọn chúng cứ ngỡ rằng Đỗ Văn Hạo mải mê tân pháp mà quyên đi chuyện thóc lúa này rồi, nhưng không ngờ hắn lại đột ngột vào đề một cách trực diện như vậy, nên tất cả mọi người trong hội buôn gạo đều giương tròn mắt lên nhìn nhau mà không biết nói gì. Nhưng chỉ trong giây lát, có người nhạy bén nhận thức được tình hình hiện nay, người này biết Đỗ Văn Hạo không phải là kẻ có thể qua loa cho xong được, nếu như bị ép vào thế cùng thì chắc chắn hắn sẽ giở trò cưỡng ép thu hồi, đến lúc đó có muốn giữ cũng không giữ được nữa, thôi thì cứ thành thật mà quyên góp, có khi như vậy lại tạo được hình ảnh tốt với Đỗ Văn Hạo, về sau làm việc còn được hắn che chở nữa.

Nghĩ vậy nên người đó vội vàng đứng dậy chắp tay nói: “Đỗ đại lão gia! Lão gia muốn bao nhiêu cứ việc nói ra, thảo dân nhất định sẽ đáp ứng cho lão gia, quyết không hai lời! Mọi người ở thành Nhã Châu này đều là bà con hàng xóm với nhau cả, yêu thương giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn là việc nên làm (Đúng là miệng lưỡi của bọn gi­an thương, thật đáng kinh tởm), ai mà chẳng có lúc gặp phải khó khăn! Hơn nữa thảo dân cũng nhờ Đỗ đại lão gia đánh đuổi quân địch nên mới giữ được kho lương thực, nếu không thì bây giờ chắc tất cảbị quân giặc lấy đi hết rồi! Thảo dân quyên góp như vậy không dám có ý nào khác, mong đại nhân hiểu cho tấm lòng thành của thảo dân!”

Những người buôn gạo khác cũng đều là người thông mình, thấy người kia muốn gây ấn tượng như vậy thì cũng không chịu thua kém, tất cả cùng nhau tiến đến chắp tay nói: “Đúng vậy! Đỗ đại lão gia cần bao nhiêu cứ nói bọn thảo dân quyết không hai lời!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười đứng dậy chắp tay đáp: “Đa tạ các vị đã nể mặt bổn quan như vậy! Nhưng mà, các vị đã hiểu lầm ý của bổn quan rồi, lần này bổn quan mời các vị đến đây không phải là vì chuyện này, dĩ nhiên nếu các vị có lòng hảo tâm, từ bi hỷ xả, làm việc từ thiện như vậy thì bổn quan không những không ngăn cản, mà còn thay mặt dân chúng đa tạ lòng tốt của các vị nữa! (Công nhận cu Hạo cao tay thật! Bắt bọn chúng phải tự mở miệng mình ra nói tự nguyện quyên góp cho dân, còn hắn thì cũng không bị mang tiếng là ép buộc, hay mắc nợ bọn chúng!) Cái mà bổn quan định nói là điều luật thứ hai trong tân pháp!”

Hội buôn gạo nghe Đỗ Văn Hạo xong thì sững người không biết nên làm thế nào, trước khi đến đây trong lòng bọn họ luôn luôn sợ hãi Đỗ Văn Hạo cưỡng ép bọn chúng phải cống nộp lương thực để cứu tế cho dân, nên tìm đủ mọi cách để đối phó, nhưng không ngờ đến đây rồi lại thấy Đỗ Văn Hạo vòng vo tam quốc mãi rồi mới đả động đến quyên góp lương thực, cả hội đang định quyên góp để lấy lòng hắn thì Đỗ Văn Hạo lại nói mục đích tìm họ đến đây không phải là chuyện quyên góp lương thực, nhưng hội buôn gạo lúc này cũng đã trót nói mình tự nguyện quyên góp rồi nên cũng không tiện rút lại lời nói. Hơn nữa đối với bọn họ quyên góp lương thực chẳng qua là nấu vài nồi cháo to phân phát cho dân chúng là xong, vừa không tốn gạo lại còn được tiếng là người tốt nữa, nhưng so với việc bị Đỗ Văn Hạo cưỡng chế thu hồi mất cả chì lẫn chài thì còn đỡ hơn rất nhiều, nên nghĩ đến đây thì tất cả người trong hội buôn gạo đều thầm thở phào trong bụng. Nhưng sau đó lại nghe Đỗ Văn Hạo sắp ban bố tân pháp thứ hai thì lại cảm thấy lo lắng, vì không biết tân pháp này có ảnh hưởng gì đến lợi ích của bọn chúng không?

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Biến pháp ngày trước có một hạng mục gọi là Thanh Miêu Pháp, hạng mục này chuyên dùng để bổ trợ cho nhân dân những lúc chưa thu hoạch, nhưng mà hạng mục này có một căn bệnh vô cùng cố hữu đó là quan phủ nhúng tay vào quản lý nó, quan phủ không những bóc lột toàn bộ lợi ích của nhân dân, mà còn ngang nhiên cho thuê ruộng đất với giá cắt cổ, cưỡng chế sản xuất! Kết quả là Thanh Miêu Pháp không những làm cho dân chúng không hưởng được ích lợi gì mà ngược lại còn tăng thêm gánh nặng cho họ! Chính vì thế mà tân pháp của ta phải rút ra kinh nghiệm xương máu của nó!”

Thanh Miêu Pháp có liên quan vô cùng chặt chẽ với hội buôn gạo, chính vì thế mà mới nghe đến đây hội buôn gạo đã nín thở nghe xem cuối cùng tân pháp của Đỗ Văn Hạo là có lợi hay có hại với chúng.

Đỗ Văn Hạo tiếp tục nói: “Thanh Miêu Pháp làm cho quan phủ lạm dụng chức quyền, thu lợi của dân. Chính vì vậy mà tân pháp mới của ta sẽ chuyển đổi quyền vay mượn của Thanh Miêu Pháp từ tay quan lại sang tay của dân chúng. Từ bây giờ trở đi các hình thức vay mượn của Thanh Miêu Pháp đều do nhân dân đảm nhận, quan phủ không được phép can thiệp!”

“Vậy nhưng, cũng không thể để dân chúng tự do vay mượn nhau như vậy, bởi vì như thế sẽ lại đi vào vết xe đổ của tân pháp cũ, cho nên ta sẽ thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân cổ phần cho vay mượn trong biến pháp mới của ta!”

Thế nào là công ty cổ phần cho vay mượn? Tất cả mọi người tại đây đều mắt chữ o mồm chữ a chẳng hiểu mô ta gì cả, Đỗ Văn Hạo cũng biết mình đã áp dụng thuật ngữ chuyên ngành của thời hiện đại áp dụng vào đây, nên chả trách ngay cả một đại văn hào văn hay chữ tốt như Tô Thức cũng chẳng hiểu mô tê gì cả.

Đỗ Văn Hạo biết vậy nên cũng đã chuẩn bị sẵn, hắn đem những kiến thức và kết cấu trong công ty ra nói cho mọi người hiểu, sau nửa canh giờ giải thích, thì hội buôn gạo cũng hiểu ra hết ý nghĩa trong lời nói của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy mọi người cũng đã nắm được ý tưởng của hắn nên lại tiếp tục giảng giải: “Chế độ này không phải là cưỡng chế, hay ép buộc mà nó làm theo tôn chỉ tự nguyện, những quan lại đại biểu cho triều đình gia nhập công ty thì cho dù hàng tháng vẫn được nhận bổng lộc của triều đình, nhưng lại không được có quyền hành gì cả, như vậy cũng có nghĩa là một khi quan chức triều đình đã chấp nhận làm nhân viên trong công ty rồi, thì họ sẽ không có quyền hành gì nữa. Bọn họ chỉ là đại biểu thay mặt cho triều đình đầu tư vào công ty mà thôi, về mặt pháp luật thì quyền biểu quyết của bọn họ cũng giống với người dân đầu tư thông thường, tất cả đều phải dựa vào số vốn đầu tư mà quyết định, số ít phải phục tùng số nhiều, bọn họ không hề có chút đặc quyền nào khác cả!”

Hội buôn gạo nghe xong thì mừng rỡ ra mặt, gật đầu tán thưởng, một người trong số họ còn lên tiếng nói: “Nói như vậy thì khi bọn thảo dân gia nhập đầu tư vào công ty thì có thế tự mình tiếp tục cho vay lương thực đúng không ạ?”

Thanh Miêu Pháp làm cho quan lại lũng đoạn thị trường, ngăn cấm người dân cho vay cho mượn, chính vì thế mà người trong hội buôn gạo kia mới lên tiếng hỏi như vậy.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười gật đầu nói: “Đó là điều dĩ nhiên!”

Hội buôn gạo nghe xong thì mừng vui khôn tả, nên biết rằng trước khi tân pháp của Vương An Thạch được ban hành, hội buôn gạo ngoài trừ việc mua bán gạo đổi lấy tiền ra, bọn họ còn có một nguồn thu nhập lớn khác, là trong lúc vụ mùa chưa chín có thể cho dân chúng vay gạo, vay thóc. Sau đó chờ đến mùa thu hoạch thì lợi nhuận đã tăng vọt lên theo thành một con số khổng lồ, nhưng sau khi Thanh Miêu Pháp của Vương An Thạch ra đời thì con đường làm ăn này của bọn họ đã bị bóp nghẹt, do vậy sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói rằng bọ họ lại có thể làm ăn như xưa thì cả lũ đều mừng rỡ ra mặt.

Đỗ Văn Hạo thấy hội buôn gạo mừng rỡ như vậy cũng không vội vàng lên tiếng ủng hộ bọn chúng, hay nói ra ý kiến của mình mà chỉ nói: “Thế này vậy! Bây giờ ta cho các ngươi thương lượng nửa canh giờ, sau đó các ngươi nói cho ta nghe ý kiến của các ngươi! Tôn chỉ của ta vẫn như cũ, đây là tự nguyện không hề ép buộc!”

Nói xong, Đỗ Văn Hạo bèn cùng Tô Thức và Hàn Tu rút hết ra bên phòng bên ngoài, để lại hội buôn gạo ở sau hậu đường bàn bạc riêng với nhau.

Tô Thức vừa ra đến ngoài đã thấp giọng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Vân Phàm huynh! Phương pháp này của huynh không biết có vận hành được hay không?”

Đỗ Văn Hạo cũng không biết hắn bê nguyên cung cách thương mại, kinh doanh từ thời hiện đại mang vào thời cổ đại vận dụng có kết quả ra sao? Mô hình kinh doanh kiểu công ty có thích hợp với môi trường kinh tế của thời nhà Tống hay không? Tất cả hắn đều không nắm chắc được, vì thế mà sau khi nghe Tô Thức hỏi vậy cũng chỉ biết cười khổ đáp: “Tại hạ bây giờ cũng không thể trả lời huynh ngay lúc này được! Chỉ có thời gi­an mới trả lời được cho chúng ta biết điều này!”

Tô Thức và Hàn Tu nghe xong bèn gật đầu khen phải.

Đỗ Văn Hạo nói tiếp: “Tử Chiêm Huynh và Tử Hoa huynh suy nghĩ hộ tại hạ xem nếu như hai người là người trong hội buôn gạo kia thì hai người có muốn gia nhập vào trong công ty cổ phần cho vay mượn này không?”

Tô Thức và Hàn Tu cùng quay sang nhau nhìn một cái, rồi trầm ngâm giây lát, một lúc sau thì Hàn Tu lên tiếng nói: “Tại hạ thấy phương pháp của Vân Phàm huynh cũng có chỗ hợp lý, suy cho cùng bọn chúng đều là dân buôn, có lợi như vậy lẽ nào bọn chúng lại không làm, chỉ cần có tiền thì cho dù có phải mạo hiểm đến mấy bọn chúng cũng làm, chính vì vậy mà t nghĩ rằng, bọn họ sau khi cất nhắc lợi hại xong đâu đấy thì sẽ gia nhập thôi! Cái lợi của bộ luật tân pháp mới của Vân Phàm huynh ở chỗ bọn chúng có thể cho vạy gạo thóc, có cơ hội kiếm tiền như vậy tội gì không kiếm chác cơ chứ. Bọn chúng dựng kho thóc lớn như vậy mục đích cũng dùng là để ém hàng rồi cho vay, chính vì thế khi Vân Phàm huynh đồng ý cho bọn chúng cho vay thóc gạo như vậy thì bọn chúng chắc chắn sẽ gia nhập công ty thôi!”

Tô Thức cũng đứng ở cạnh đó gật đầu nói thêm vào: “Đúng vậy! Bách tính bây giờ đang gặp cảnh lầm than, khốn khó như vậy, làm gì còn có tiền mà mua lương thực nữa, nhưng bọn họ lúc này vẫn còn ruộng đồng, tuy đã bị tàn phá, nhưng chỉ cần tu sửa lại là có thể trồng trọt được rồi. Chính vì vậy mà chỉ cần hội buôn gạo cho vay với lãi suất hợp lý, thì dân chúng chắc chắn sẽ đồng ý đi vay thôi! Hơn nữa bây giờ hội buôn gạo mở kho thóc ra cho vay rồi chờ đến vụ mùa sau thu lãi, sẽ có lợi hơn việc cứ để chúng mốc ở trong kho! Chính vì lý do này mà lão phu nghĩ hội buôn gạo sẽ gia nhập công ty cùng chúng ta mà thôi!”

Chương 316 Nghi vấn của công ty.

Hàn Tu thấy vậy cũng nói: “Mà vấn đề then chốt nhất lúc này là Vân Phàm huynh đã đảm bảo công ty là của mọi người, ai cũng có quyền lợi của mình ở trong đó, chính vì thế nên chắc ai cũng muốn tham gia vào, hơn nữa quan lại đầu tư vào công ty thì chỉ là đại biểu của triều đình, về mặt pháp luật vẫn phải phục tùng đa số, không có quyền hành tuyệt đối nào cả, ngoài ra quan lại ở chính quyền địa phương lại không được phép nhúng tay vào trong công cuộc điều hành của công ty, tất cả cơ chế trong công ty đều do cổ đông vận hành quản lý, như vậy hội buôn gạo sẽ cảm thấy vững tâm khi đầu tư hơn, lão phu nghĩ bao nhiều quyền lợi như vậy hội buôn gạo ngu gì mà không nghe!”

Tô Thức thấy vậy cũng cho thêm ý kiến của mình vào nói: “Công ty vẫn còn một mặt có lợi khác làm cho lão phu vô cùng thích thú, đó chính là Vân Phàm huynh nói nó là cái gì mà hữu hạn…hữu hạn…!”

Đỗ Văn Hạo thấy Tô Thức lắp bắp không nói lên lời bèn gợi ý nói: “Trách nhiệm hữu hạn!”

“Đúng! Đúng rồi! Trách nhiệm hữu hạn! Những người kinh doanh sợ nhất chính là lỗ vốn, một khi mà lỗ vốn rồi thì tiền mất tật mang, không những tiền tiền đầu tư rơi vào tay kẻ khác, mà còn làm liên lụy đến cả gia đình nữa. Vậy mà ý tưởng của Vân Phàm huynh là thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, cái này có nghĩa là khi công ty đầu tư bị lỗ vốn thì công ty có bao nhiêu tài sản sẽ phải bù bấy nhiêu tiền, tiền bạc của cổ đông lúc đấy cũng sẽ được bảo vệ an toàn. Cổ đông không phải moi tiền túi của mình ra để mà bù lỗ nữa, thật là hay quá!”

Hàn Tu nghe xong cũng trầm ngâm nói: “Vậy nếu như có người cố tình đến công ty vay mượn một số tiền lớn, vượt quá cả tài sản của công ty, đến lúc đòi nợ thì người đó không có năng lực trả nợ, công ty cũng không có đủ tiền để bù đắp, thì không phải đối với các chủ nợ trong công ty là một điều không công bằng hay không?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Đầu tiên, đầu tư kinh doanh thị trường thì phải mạo hiểm, mỗi một công ty kinh doanh đều phải có nghĩa vụ kiểm tra rõ ràng tiềm lực kinh tế, cũng như tài sản của người hợp tác với mình, nếu đối phương không có tiềm lực kinh tế mà vẫn đến vay với một khoản tiền lớn thì công ty phải có nhiệm vụ điều tra rõ ràng xem có nên cho vay hay không? Dĩ nhiên, mở công ty thì phải có tiền, không có tiền thì mở sao được công ty! Và nếu muốn thành lập một công ty thì vẫn còn phải cần có một chế độ cung cấp điều tra tình hình đăng ký của công ty đó ra sao, việc này sẽ do quan phủ quản lý, nhiệm vụ của quan phủ lúc này mới trở nên quan trọng, vì chỉ có quản lý chặt chẽ thì mới không có hiện tượng người không có tiền mở công ty đi lừa gạt người khác. Quan phủ có một trọng trách vô cùng dặc biệt không những phải kiểm tra xem nơi nào có tiền mới được thành lập công ty, mà còn phải theo sát nó hàng năm, xem nó có còn kinh doanh nữa không, tình hình kinh thu nhập kinh tế có lãi, hay là thâm hụt. Nếu như quan phủ phát hiện ra công ty nào làm ăn thất bát, lỗ vốn thì phải ra tay kịp thời, ngăn chặn không cho phép công ty đó được tiếp tục kinh doanh nữa. Và chúng ta phải thành lập thêm một chế độ đặc biệt nữa là chế độ phá sản, chế độ phá sản được tạo ra nhằm để bảo vệ qu­uyền lợi cho các chủ nợ khi công ty không đủ sức gánh đỡ thâm hụt kinh tế!”

Đỗ Văn Hạo nói đến đây liền biết hắn đang dùng từ ngữ chuyên ngành của kinh tế thời hiện đại, nên Tô Thức và Hàn Tu đều như vịt nghe sấm, ù ù cạc cạc chẳng hiểu gì cả, hai người nhất thời chỉ biết há hốc mồm ra chờ đợi hắn giải thích lại một lần nữa.

Đỗ Văn Hạo liền nhẫn nại giải thích lại toàn bộ, thế nào là chế độ đăng ký thành lập công ty, thế nào là chế độ sát hạch hàng năm, và thế nào là chế độ phá sản.

Tô Thức và Hàn Tu nghe xong đều kinh ngạc vô cùng, Hàn Tu lúc này chỉ biết lắp ba lắp bắp nói: “Vân Phàm huynh! Bao nhiêu việc phức tạp như vậy huynh làm thế nào mà nghĩ ra được vậy?”

Đỗ Văn Hạo chỉ mỉm cười đáp: “Làm nhiều thì biết thôi! Chỉ là không biết những chế độ này có phù hợp với điều kiện hiện nay không? Dân chúng không biết có chấp nhận được không nữa?”

Tô Thức lắc lắc đầu nói: “Vân Phàm huynh đã nghĩ ra được những thứ phức tạp như vậy, lại còn bàn bạc thêm với hai người bọn ta nữa, nên lão phu lúc này chỉ muốn nói câu này! Lão phu nghĩ rằng những chế độ mà Vân Phàm huynh nêu ra vô cùng khó hiểu, đừng nói đến những người dân thông thường, mà ngay đến cả lão phu và Hàn tướng quân nghe xong phải khó khăn lắm mới hiểu được hàm ý sâu xa của nó! Chế độ này e rằng khó mà ban bố rộng rãi được!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn đáp: “Đúng vậy! Điểm này tại hạ cũng nghĩ qua rồi, làm việc gì cũng phải từng bước từng bước một, tại hạ cũng không gấp gáp trong việc ban bố chúng, cũng không vội vã trong việc thành lập chúng, do vậy tại hạ mới quay sang trưng cầu ý kiến của hội buôn gạo! Nếu như bọn chúng đồng ý thành lập công ty, thì chúng ta sẽ có vật để mà kiểm nghiệm xem hiệu quả của nó ra sao! Nếu như không được như ý, thì chúng ta sẽ từ từ điều chỉnh từng chế độ một, dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên, không có thử nghiệm sao biết được kết quả ra sao?”

Hàn Tu và Tô Thức nghe xong bèn đưa mắt lên nhìn nhau rồi cùng gật gật đầu, Tô Thức nói: “Ý tưởng của Vân Phàm huynh rất đúng! Ít ra với cái chế độ này thì dân chúng cũng cảm thấy nó có thu hút hơn, có tiềm lực hơn là Thanh Miêu Pháp!”

Hàn Tu cũng tán đồng: “Vân Phàm huynh tách rời quan phủ với chế độ công ty ra như vậy có thể tránh được việc quan phủ lợi dụng chức quyền mà bóc lột dân chúng! Nhưng, Vân Phàm huynh muốn dân chúng tin tưởng việc này thì huynh phải thành lập một bộ pháp luật rõ ràng, sau đó ban bố ra ngoài, như vậy dân chúng mới dám tin vào tân pháp mới của huynh!”

Đỗ Văn Hạo cười đáp: “Ha ha! Tầm nhìn của nhị vị huynh đài quả nhiên xa rộng, những ý kiến đề xuất cũng vô cùng chính xác, làm cho tại hạ cảm thấy mình càng lúc càng tự tin để tiến hành tân pháp rồi đấy! Tại hạ dự định sau khi thành lập công ty xong rồi sẽ ban bố một bộ luật tư pháp mới, và sẽ thi hành trong phạm vi vùng Nhã Châu này. Thực ra, chế độ thành lập công ty có ưu điểm lớn nhất là có thể quy tụ tài sản, tiền của các nơi vào một chỗ, nhất là khi có thêm lực lượng kinh tế hùng hậu của quan phủ Thường Bình Thương gia nhập, thì chúng ta có thể lợi dụng nguồn kinh tế hùng hậu của nó mà khuếch đại thanh thế của công ty ra, chỉ có như vậy mới trụ vững được dưới sự thử thách đầy mạo hiểm của thị trường được!”

Đỗ Văn Hạo lại cho thêm những từ chuyên ngày của hiện đại vào, nên Tô Thức và Hàn Tu đều cảm thấy vô cùng mới lạ, mặc dù hai người bọn họ không hiểu từng từ từng chữ, nhưng cũng có thể hiểu được đại khái nội dung trong lời hắn nói, sau khi suy ngẫm một lúc thì cả hai cùng gật đầu tán đồng.

Tô Thức đã từng làm chức Chi Châu, nên cũng từng quản lý qua Thường Bình Thương, do vậy cũng hiểu nó vận hành ra sao, vì vậy ông bèn lên tiếng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Cách làm của Vân Phàm huynh có nghĩa là dân chúng tự đầu tư vốn cho công ty, rồi công ty nhờ đó mà kiếm lời cho mình, cái này e rằng không cần động tới cả ngân khố của chính phủ nữa, như vậy thì triều đình sẽ không kiếm thêm được tiền, tuy là có lợi cho dân chúng nhưng lại không có lợi cho triều đình! Đêìu này nếu đến tai Hoàng Thượng ắt sẽ có dị nghị!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười đáp: “Tử Chiêm huynh nói trúng chỗ ngứa của vấn đề rồi đấy! Đúng là chúng ta phải giải quyết vấn đề này, không thể cứ để người dân chỉ mở một công ty, như vậy sẽ làm cho thị trường bị lũng đoạn, mà chúng ta phải bắt họ mở nhiều công ty, như vậy có hai điều lợi. Điều lợi thứ nhất, khi công ty mở nhiều ra rồi thì sẽ có cạnh tranh, nhiều công ty cho vay mượn sẽ tạo ra lãi suất thấp xuống, cái này thì dân chúng sẽ được hưởng lợi. Dĩ nhiên, chúng ta cũng phải có biện pháp phòng trừ các công ty thông đồng với nhau rồi thét giá cao ngất trời. Đối với loại thông đồng này thì quan phủ chúng ta phải nhúng tay vào giải quyết. Nhưng giải quyết ở đây không là chúng ta sẽ đi bắt bớ người ta, mà là sẽ trừng phạt về mặt kinh tế, nếu như những công ty đó vẫn còn tồn tại những hành vi không chịu sửa đổi thì chúng ta sẽ treo bằng kinh doanh của họ lại, không cho họ kinh doanh nữa!”

Cái kiến thức quản lý hành chính thị trường này đối với Tô Thức và Hàn Tu mà nói thì vô cùng mới mẻ, cả hai đều chưa bao giờ nghe đến nó cả, do vậy cả hai đều cảm thấy kiến thức của Đỗ Văn Hạo quả là sâu rộng.

Đỗ Văn Hạo lúc này vẫn thao thao bất tuyệt nói: “Điều lợi thứ hai, đó là khi công ty có nhiều rồi thì ắt sẽ phải nộp thuế, và thuế sẽ đánh vào nguồn thu nhập của công ty, công ty nào thu nhập càng cao thì thuế sẽ càng cao, như thế triều đình cũng có thêm một khoản lợi nhuận không tồi! Bất kỳ một chế độ nào đều phải tồn tại nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, dân chúng có lợi, triều đình cũng có lợi, nếu làm được như vậy thì chế độ này mới có thể tồn tại lâu dài được!”

Hàn Tu và Tô Thức nghe xong đều gật đầu tán đồng, Hàn Tu lúc này mới vuốt vuốt bộ râu của mình rồi quay sang nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Nói thực lòng! Khi trước Hoàng Thượng khen ngợi tân pháp của Vân Phàm huynh vô cùng mới mẻ, và hấp dẫn. Lão phu trong lòng lúc đó đã có mấy phân hiếu kỳ, hôm nay nghe xong quả nhiên mới cảm nhận được hết hàm ý của trong lời nói của Hoàng Thượng, quả nhiên tân pháp của huynh từ cổ chí kim chưa từng có bao giờ cả! Về sau thì lão phu không biết thế nào, nhưng chỉ riêng mỗi hai hạng mục ngày hôm nay cũng đủ lão phu biết được tân pháp của Vân Phàm huynh chắc chắn sẽ thành công!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn chắp tay đáp: “Đa tạ Tử Hoa huynh đã khen ngợi! Thật ra việc thành lập công ty vẫn còn rất nhiều công đoạn phải hoàn thành, chứ không phải chỉ có mỗi là cho vay mượn đơn giản như thế này cả!”

“Vẫn còn có thể làm việc gì khác nữa?” Tô Thức đứng cạnh đó tò mò hỏi.

Đỗ Văn Hạo đáp: “Ví dụ như, chúng ta có thể đem Thị Dịch Ti đưa vào trong công ty, rồi tiến hành kinh doanh!”

Tô Thức ngạc nhiên hỏi: “Ý của Vân Phàm huynh là để công ty mua rẻ bán đắt, áp chế giá cả hay sao?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Đúng vậy! Chỉ cần kinh doanh có lãi thì công ty đều có thể nhúng tay vào làm, từ việc sản xuất chế tạo sản phẩm, đến kinh doanh buôn bán, bất kỳ lĩnh vực nào công ty cũng đều có thể làm cả! Dĩ nhiên, không thể việc gì cũng đưa công ty cho vay mượn làm cả, chúng ta có thể thành lập một công ty khác chuyên làm những mảng này, như vậy thì thị trường sẽ đa dạng hóa hơn, nhưng chuyện này để sau hẵng tính, vì chúng ta còn phải thử nghiệm xong cái công ty cho vay mượn kia đã!”

Tô Thức thấy vậy bèn tán đồng nói: “Đúng vậy! Chúng ta phải làm cho xong một công ty để lấy kinh nghiệm trước đã, xem nó làm việc hiệu quả ra sao rồi mới tính bước tiếp theo được! Chỉ cần chúng ta làm tốt, thì công ty sẽ thành một biểu tượng kiểu mẫu thu hút thêm được những doanh nhân khác gia nhập vào, cộng thêm với việc làm lợi cho dân chúng nên chắc chắn ai cũng sẽ biết đến nó. Đến lúc đó thì mô hình công ty sẽ trở thành đầu câu chuyện của mọi người, một truyền mười mười truyền trăm, cứ như vậy mọi người sẽ tò mò tìm hiểu cách vận hành của nó ra sao, dần dần mọi người cũng sẽ hiểu hết nguyên lý hoạt động của nó! Như vậy thì quảng đại quần chúng sẽ hiểu thêm về công ty mà chúng ta không cần phải lo lắng giải thích cho họ nữa!”

Cả ba người lúc này cùng nhìn nhau rồi tủm tỉm cười đắc ý, sau đó lại tiếp tục bàn bạc các vấn đề thao tác cụ thể trong kinh doanh.

Hiện giờ trong kho của Nhã Châu lương thực và ngân lượng đều không có, nhưng vẫn còn vị Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ Thường Bình Thương ở đây, nên Hàn Tu có thể lợi dụng chức vụ của mình đề giải quyết vấn đề này, ông ta có thể ngay ngày hôm sau lên đường đến Thành Đô điều động lương thực và tiền bạc ở đó để hỗ trợ cho Nhã Châu, đây cũng là một phần trong phạm vi trách nhiệm của ông ta. Hàn Tu tin rằng ông có thể hoàn thành nhiệm vụ này, bởi triều đình đã đồng ý vận chuyển đồ cứu tế đến Thành Đô rồi.

Sau đó ba người lại bàn bạc xem ai có thể làm đại biểu cho quan phủ gia nhập công ty, nhưng việc này phải suy nghĩ cho kỹ bởi vì người này không những cần phải có đầu óc kinh doanh vô cùng nhạy bén, làm việc liêm khiết công bằng, ngoài ra phải nhận được sự tin tưởng của hội buôn gạo, chính vì vậy người này tốt nhất phải là người đã từng làm quan ở đây.

Ba người mới chân ướt chân ráo đến đây, vẫn chưa quen ai cả, sau khi bàn bạc xong bèn quyết định trao quyền quyết định chọn lựa đại biểu của triều đình làm việc trong công ty cho hội buôn gạo, sau đó ba người mới làm công tác tư tưởng cho viên quan đó.

Vấn đề sau khi bàn bạc xong xuôi, ba người liền quay lại hậu đường.

Hội buôn gạo lúc này vẫn đang tranh luận vô cùng sôi nổi, Đỗ Văn Hạo trông thấy trên nét mặt của bọn họ vẫn không tin rằng ông trời tự nhiên ban phát cho họ một cơ hội kiếm tiền tốt đến như vậy, tất cả đều không biết chuyện này đối với họ liệu có nguy hiểm gì không? Chính vì vậy mà lúc này vẫn chưa quyết định xong được vấn đề.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười nói: “Các vị bàn bạc thế nào rồi? Đã quyết định hợp vốn làm cổ đông chưa?”

Hội buôn gạo lúc này không ai dám lên tiếng trả lời, chỉ im lặng cúi đầu, không khí trong phòng bỗng nhiên trầm hẳn xuống.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng cảm thấy khó xử vô cùng: “Sao vậy? Mọi người không muốn cho vay mượn kiếm tiền nữa hay sao?”

Một người cao tuổi trong số bọn họ bèn đứng lên ôm quyền đáp: “Đỗ đại lão gia! Không phải bọn thảo dân không muốn kiếm tiền, nhưng mà…”

“Có gì cứ nói, đừng lắp bắp như vậy!”

Ở thời nhà Tống thì người ta ăn nói không được tự do như thời hiện đại, chỉ cần nói sai một câu là cũng có thể bị mất đầu, đặc biết là khi nói chuyện với người làm quan, chính vì thế mà những người trong hội buôn gạo lúc này đều vô cùng lo lắng, ai nấy đều đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo mà không dám lên tiếng, người cao tuổi kia lúc này cũng chỉ đưa mắt sang hai bên nhìn ngang nhìn dọc, rồi lại câm như hến.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười nói: “Lão tiên sinh có gì cứ nói, không phải lo lắng gì cả! Ta lúc trước cũng đã nói rồi, ta gọi mọi người đến đây là để bàn bạc làm việc, không hề có ý cưỡng ép ai cả, có gì thắc mắc cứ việc nói ra, nếu sau này mà có người v chuyện ngày hôm nay mà bị quan phủ tìm đến, thì đích thân ta sẽ đến tận nhà người đó dập đầu tạ tội, các ngươi lúc đó thậm chí có thể chửi rủa ta cũng chẳng có vấn đề gì cả!”

Nghe Đỗ Văn Hạo đã nói hết nước hết cái như vậy rồi, thì người cao tuổi lúc nãy bèn hạ quyết tâm nói: “Vâng! Đỗ đại lão gia đã nói như vậy rồi, mà lão phu vẫn giữ kẽ như vậy thật không ra gì cả, dù sao tính mạng của mọi người cũng đều do đại lão gia một tay cứu giúp, nếu không có đại lão gia ra tay đánh đuổi quân giặc thì giờ này người thân từ lớn đến nhỏ trong nhà của lão phu cũng đã phơi xác ngoài đường rồi, lão phu giờ đây cũng đã bảy mươi rồi, còn có gì để mà phải sợ nữa!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Lão tiên sinh không phải lo lắng gì cả, ta đem danh dự của ta ra đảm bảo với lão tiên sinh rằng lão tiên nói ra bất kỳ điều gì đều không có tội!”

“Đa tạ Đỗ đại lão gia!” Lão tiên sinh trong hội buôn gạo bèn cúi người nói: “Hội buôn gạo chúng tôi đúng là chưa từng gặp qua thể loại công ty mà đại lão gia để cập đến bao giờ, cũng chưa từng tham gia vào bao giờ cả! Đại lão gia nói vậy thì hội buôn gạo chúng tôi đều tin, nhưng về sau khi đại lão gia đi rồi, đổi một vị quan khác đến đây, ý của ông ta lại không giống với lão gia, hội buôn gạo lúc đó chỉ e rằng đem tiền đầu tư vào công ty sẽ khô ng thu hồi lại được thì sao?”

Sau khi lão tiên sinh kia nói xong thì những người khác cũng không nề hà gì nữa, tất cả đều nhao nhao xông lên hỏi Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo đúng là bị câu hỏi của lão tiên sinh kia làm khó, đúng là hắn đã nghĩ sự việc quá đỗi đơn giản rồi, cái cơ chế công ty này xuất phát từ Châu Âu, mà nơi đó thì ý thức về kinh tế cũng như pháp luật của bọn họ cũng đã có những cơ sở vững vàng, điều kiện phát triển kinh tế thị trường cũng thuận lợi hơn Trung Quốc rất nhiều, người Trung Quốc thời xưa vẫn còn nặng nề nhiều quan điểm lạc hậu, cổ hủ, nhất là đối với việc làm ăn buôn bán thì rất dễ bị khinh thường, đặc biệt là thời nhà Tống, con buôn luôn có vị trí thấp nhất trong xã hội thời đó, vì vậy thành lập công ty là một việc xem trừng đơn giản nhưng lại rất khó.

Hơn nữa thời nhà Tống lại thuộc vào thời phong kiến, tư tưởng vua chúa nặng nề, từ cổ đên nay thời đại phong kiến Trung Quốc cai trị đất nước đều phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người, căn bản không có loại pháp chế nào tồn tại cả. Tất cả kể từ Hoàng Thượng cho đến dân chúng đều không có ý thức cơ bản về pháp luật, vậy mà chuyện thành lập công ty lại đòi hỏi cần có một bộ luật hoàn thiện và vững mạnh để bảo hộ, thì nó mới có thể phát huy được tác dụng, ví dụ như trách nhiệm hữu hᮠcủa các cổ đông, chỉ có ở trong môi trường pháp luật mới có thể bảo vệ được quyền lợi của bọn họ, không có pháp luật thì lấy đâu ra làm chỗ dựa cho họ. Điều này lại trái ngược hoàn toàn với tình hình chính trị của nhà Tống lúc này, bởi vì yếu tố con người ở đây có thể quyết định mọi thứ, chỉ cần ta làm quan thì ta là cha mẹ của ngươi, ta muốn gì ngươi cũng phải theo, ta muốn cổ đông giải tán thì các ngươi phải giải tán, ai không nghe thì gô cổ nó bắt vào nhà lao là xong chuyện!

Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên cũng không bao giờ có thể từ bỏ dễ dàng được, pháp luật cũng phải đi lên từ yếu tố con người. Không phải bất kỳ nước nào khi mới thành lập đều có một bộ luật hoàn hảo để duy trì trật tự ngay được cả, pháp luật cũng đều phải từng bước từng bước mà hoàn thiện. Đỗ Văn Hạo nghĩ rằng hắn cũng có thể thực hiện được điều này, bắt đầu từ Nhã Châu làm nên, hắn sẽ biến Nhã Châu dần dần thành một nơi pháp trị, chỉ cần hắn không làm gì ảnh hưởng đến quyền lợi của Hoàng Thượng, không động đến hiến pháp, không vận động dân quyền, không dây dưa đến Hoàng quyền, thì biến Nhã Châu thành một nơi pháp trị như hắn muốn là hoàn toàn có thể, chỉ là công việc phải từ từ từng bước một hoàn thành, không được hấp tấp vội vàng.

Đỗ Văn Hạo nói: “Hoàng Thượng đã ủy quyền cho bổn quan tiến hành biến pháp ở Nhã Châu rồi, mà đã biến pháp thì phải có một bộ pháp lệnh hoàn chỉnh, bộ pháp lệnh này sẽ thông báo cho toàn bộ dân chúng trong Nhã Châu này biết, mọi người đều có thể giám sát nó, dĩ nhiên sự lo lắng của các vị ta cũng hiểu được. Thế này vậy! Ta ở đây đảm bảo cho các vị, trước khi ta rời khỏi đây, những cổ đông đã đầu tư vào đây lúc đó sẽ được quyền rút tiền lại, để bảo vệ quyền lợi của mình, quyết định này của ta cũng sẽ được viết vào trong bộ tư pháp mới sắp ban bố của ta.”

Lão tiên sinh trong hội buôn gạo nghe vậy bèn lên tiếng hỏi: “Không biết ai sẽ là người đại biểu triều đình gia nhập vào trong công ty?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Ta và hai vị đại nhân sau khi thương lượng xong, để quyền lựa chọn này cho các vị cổ đông! Việc này đều do cổ đông toàn quyền quyết định!”

Lão tiên sinh kia nghe vậy bèn lắc đầu nói: “Câu nói này có lẽ sẽ đắc tội với đại nhân mất, nếu như chưa xác định người nào làm đại biểu gia nhập thì e rằng chẳng có ai dám gia nhập làm cổ đông cả!”

Mọi người khác thấy vậy cũng gật đầu tán đồng, bọn họ đều hiểu quá rõ tác phong làm việc của quan lại ra sao, chỉ cần làm quan thì cho dù chức quan đó bé tẹo như hạt vừng thì cũng là quan, là phụ mẫu của dân, đều có quyền đứng trước mặt dân mà gào thét ra lệnh.

Đỗ Văn Hạo lại bị câu nói này làm cho á khẩu, điểm này hắn cũng chưa hể nghĩ đến, nên đành bất đắc dĩ hỏi lại lão tiên sinh kia: “Vậy ngươi nói xem ta phải làm thế nào đây!”

Lão tiên sinh kia liền cúi người cung kính đáp: “Bẩm đại lão gia! Chủ ý đều do lão gia nghĩ ra, lão gia lại rất hiểu biết về vấn đề này, nếu công ty đầu tiên thành lập mà không có sự tham gia của lão gia thì e rằng chẳng có ai biết nên điều hành nó ra sao cả. Nếu như không phải lão gia tham gia vào làm đại biểu thì người khác không biết sao chứ lão phu nhất quyết không tham gia làm cổ đông!”

“Ta ư?” Đỗ Văn Hạo vô cùng ngạc nhiên, hắn đưa mắt lên nhìn Tô Thức, rồi lại quay sang nhìn Hàn Tu, rồi quay sang nói với lão tiên sinh kia: “Nhưng theo quy định thì sau khi gia nhập vào công ty thì ta không còn được phép quản lý các mảng khác nữa, mà Hoàng Thượng đã đích thân bổ nhiệm ta làm chức Câu Quản ở đây rồi, ta không thể từ chức để gia nhập công ty cùng các ngươi được!”

Hàn Tu cũng là một người am hiểu tinh tế, ngày xưa ông là một người ủng hộ biến pháp của Vương An Thạch nhiệt tình nhất, đã từng là trợ thủ vô cùng đắc lực trong công cuộc biến pháp của Vương An Thạch, hai mươi năm biến pháp làm cho Hàn Tu am hiểu được rất nhiều thứ, trong đó ông biết rằng biến pháp bước đầu tiên là vô cùng quan trọng, nếu thành công được thì sẽ có được một cơ sở vô cùng vững chắc làm bệ phóng cho thành công sau này, do vậy Hàn Tu liền thấp giọng nói: “Đỗ Ngự Y! Bổn quan thấy lời nói của lão tiên sinh này cũng rất hợp lý! Cái cơ chế làm việc của công ty ra sao thì ngoài đại nhân ra, ai cũng chẳng hiểu gì cả. Nếu như đại nhân không tham gia, thì mọi người cũng không biết vận hành nó. Mặt khác, sau khi đại nhân đánh đuổi quân giặc khỏi đây thì vị trí của đại nhân trong long dân chúng là rất cao, chỉ cần có sự hiện diện của đại nhân trong công ty thì mọi việc sẽ được giải quyết ổn thỏa, như vậy cũng dễ dàng để đánh bóng tên tuổi cho công ty hơn!”

Tô Thức lúc này cũng nói chen vào: “Hàn tướng quân nói rất đúng! Hay là như vậy, chúng ta cứ để Đỗ đại nhân vào đảm nhận chức vụ đại biểu xong rồi phái thêm một người nhanh nhẹn, biết cách làm ăn đi theo học hỏi đại nhân. Chờ cho mọi việc vào guồng xong, mọi nếu thấy người đi theo học Đỗ đại nhân đã đủ tư cách thay thế thì để người đó lên thay Đỗ đại nhân luôn. Sau khi Đỗ đại nhân rút ra khỏi công ty thì sẽ lại tiếp tục công việc hành chính của mình. Dĩ nhiên trong thành phần cổ đông thì Đỗ đại nhân và người đi theo nếu có tham gia bỏ phiếu biểu quyết thì cũng chỉ được tính một phiếu thôi, các vị thấy ta giải quyết như vậy có được không?”

Mọi người nghe Tô Thức nói vậy xong thì đều vỗ tay tán thưởng.

Lão tiên sinh kia lại hỏi tiếp: “Vậy trong công ty thì ai là người cầm đầu? Chúng ta có phải bầu một người nào lên lãnh đạo không?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Dĩ nhiên là cần chứ! Người lãnh đạo công ty gọi là chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng phàm tất cả các việc quan trọng trong công ty thì chủ tịch không được phép tự ý quyết định, mà phải thông qua cổ đông bỏ phiếu quyết định. Những việc nào mới được coi là việc quan trong? Cái này thì phải xem tình hình cụ thể ra sao, ví dụ như có một cổ đông mới gia nhập, cổ đông cũ rút lui, khuếch trương quy mô…v…v…Cổ đông trước khi quyết định một việc trọng đại đều phải bỏ phiếu biểu quyết theo số nhiều mới được ra quyền quyết định. Thế nào gọi là biểu quyết đa chiều? Cái này có nghĩa là phiếu bầu nhiều, và cổ phiếu nhiều, điều này có nghĩa là khi quyết định một việc nào đó, thì số phiếu bầu đều phải nhiều hơn một nửa tổng số phiếu bầu, và số cổ phần của cổ đông cũng phải nhiều hơn một nửa số cổ phần của công ty!”

Mọi người nghe xong thì ngay lập tức bàn luận xôn xao, dường như ai cũng lộ vẻ mặt hớn hở sung sướng, bởi vì quan phủ thường là bên có cổ phiếu nhiều hơn số cổ đông còn lại trong công ty, nên sử dụng cách biểu quyết đa chiều này thì cho dù quan phủ có cổ phần nhiều hơn cổ đông khác bao nhiêu thì chỉ cần số lượng phiếu bầu không đủ vượt quá một nửa tổng số phiếu bầu thì bọn họ cũng chẳng có quyền quyết định được. Như vậy thì quyền lợi của các cổ đông khác, nhất là những cổ đông nhỏ đều được bảo vệ rất an toàn.

Lão tiên sinh kia trầm ngâm giây lát rồi lại lên tiếng hỏi: “Vậy những cổ đông rút lui thì số nợ của công ty phải làm thế nào đây?”

“Cổ đông trước khi rút lui phải chịu trách nhiệm gánh nợ cùng với công ty, do vậy khi rút lui phải thanh toán đầy đủ số tiền mình phải chịu trách nhiệm, sau khi thanh toán đầy đủ rồi thì lúc đó mới được phép rút lui!”

“Đây chỉ là Đỗ lão gia nói mà thôi, lão gia còn ở đây thì chúng tôi tin, nhưng mai sau, khi lão gia không còn ở đây nữa, thay vào đó là một vị quan khác đem cái chế độ này phế bỏ đi thì lúc đó chúng tôi vẫn phải chịu trách nhiệm trả nợ cho công ty sao? Như vậy thì thật là không công bằng!”

Đỗ Văn Hạo lại bị lão tiên sinh này hỏi cho cứng đơ cả lưỡi lại, điều này không những có thể xảy ra, mà khả năng xảy ra điều đó là rất cao, muốn giải quyết vấn đề này, thì hắn chỉ còn mỗi cách là ban bố pháp lệnh, nhưng cái này lại vô cùng khó thực hiện. Cho dù không được triều đình trực tiếp ban bố pháp lệnh đi chăng nữa, ì cũng phải có sự đồng ý của triều đình mới được ban bố pháp lệnh, như vậy mới được coi là hợp lệ, dân chúng mới yên tâm.

Nhưng, đây không phải là một chuyện dễ dàng chút nào, muốn triều đình đồng ý thì phải thông qua rất nhiều các tầng, các cấp, sau đó lại phải xem ý tưởng của Hoàng Thượng ra sao, nhưng đó cũng chưa phải là bước cuối cùng, vì một khi triều đình đồng ý thì cũng đồng nghĩa với việc cả nước được phép ban bố sắc lệnh của Đỗ Văn Hạo, như vậy mặc dù biến pháp của hắn chỉ được phép cải cách ở Nhã Châu thôi, nhưng thông qua việc ban bố sắc lệnh này mà làm ảnh hưởng đến toàn quốc, và gây nên một nỗi niềm bất an trong toàn dân chúng, đây không phải là điều mà Tống Thần Tông mong muốn. Tống Thần Tông đúng là muốn xem kết quả của biến pháp của Đỗ Văn Hạo ra sao, nhưng cũng không muốn biến pháp của hắn làm chấn động toàn quốc như vậy, đây cũng là lý do tại sao mà Tống Thần Tông đưa hắn ra tít tận Nhã Châu để tiến hành biến pháp.

Đỗ Văn Hạo cũng hiểu điều này, nên khi hắn đang định mở miệng giải thích thì Tô Thức đã cướp lời hắn nói: “Các vị! Làm ăn thì bao giờ mà chẳng phải mạo hiểm, cái này thì không cần bổn quan phải nhắc nhở các vị cũng biết đúng không? Bây giờ Đỗ đại nhân mở ra con đường kiếm tiền cho các vị rồi, có cơ hội kiếm tiền thì cũng phải có khả năng bị mất tiền chứ! Bất kỳ kinh doanh thứ gì thì hai chữ được và mất luôn luôn song hành, nếu như lúc nào cũng nhăm nhăm trong đầu kiếm tiền mà không chịu mạo hiểm thì tốt nhất đừng kinh doanh nữa cho mệt xác!”

Lão tiên sinh kia nghe xong liền gật đầu tán đồng đáp: “Chi Châu đại nhân nói chí phải! Được! Lão phu đồng ý gia nhập! Dù sao thì tính mạng gia đình lão phu cũng là do Đỗ đại nhân ra tay cứu giúp mới được sống sót, cho dù có bị thua lỗ thì cũng coi như là báo đáp ơn cứu mạng của Đỗ đại nhân!”

Lão tiên sinh nói câu này làm cho người khác cảm thấy ngược đời, người ta rõ ràng là có ý bày ra cơ hội cho ông ta kiếm tiền, còn nói đây là tự nguyện, ông ta không muốn làm thì thôi, chẳng ai ép, thế mà lúc nào cũng ngoài miệng nói rằng nhờ ơn Đỗ đại nhân cứu giúp mới được bảo toàn sinh mạng, ông ta tham gia vào công ty là để trả ơn Đỗ Văn Hạo, đúng là lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng lưỡi của bọn gi­an thương luôn luôn xảo quyệt như vậy! Không lúc nào là không sợ thua thiệt. Nhưng Đỗ Văn Hạo không hề oán trách ông ta, mà cho rằng dù sao ông ta cũng đã ủng hộ hắn do vậy hắn liền đưa tay lên nói: “Đa tạ lão tiên sinh đã ủng hộ và tin tưởng! Lão tiên sinh muốn mua bao nhiêu cổ phiếu?”

Lão tiên sinh e dè hỏi: “Quan phủ bây giờ đã có bao nhiêu cổ phiếu rồi?”

“Toàn bộ công ty đã phát hành một ngàn cổ phiếu, một cổ phiếu tương đương với một gánh lương thực, cũng có nghĩa là công ty sau khi thành lập sẽ có hai mươi vạn cân lương thực để cho vay mượn, như vậy là cũng đủ rồi, nếu như vẫn không đủ thì công ty sẽ tăng thêm cổ phiếu, hoặc thành lập một công ty khác để phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, công ty cũng có thể cho vay ngân lượng, vì vậy công ty vẫn còn phải có thêm cổ phiếu để đổi lấy ngân lượng, chúng ta sẽ chiếu theo tỷ lệ lương thực mà tính ra tỷ lệ ngân phiếu mà phát hành cổ phiếu, tổng mức có thể lên đến mười vạn lượng. Về sau nếu cần sẽ có thể gia tăng, nhưng vì biến pháp quy định chính phủ không được phép giữ quá một nửa số cổ phiếu của công ty, nên chính phủ chỉ mua bốn trăm chín mươi cổ phiếu thôi! Lão tiên sinh định mua bao nhiêu vậy?”

“Ồ, vậy…vậy thì…vậy thì…” Lão tiên sinh ngẫm nghĩ một lúc rồi mới e dè nói: “Cho ta mua mười cổ phiếu!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì suýt ngất, thời nhà Tống thì một gánh thóc tầm khoảng một trăm hai mươi cân, mười gánh thóc là một ngàn hai trăm cân. Dân số gia đình thời đó thường là năm người một nhà, từ bây giờ cho đến vụ thu hoạch sau vẫn còn ba tháng, mỗi một hộ dân một tháng ăn hết năm mươi cân lương thực, ba tháng là một trăm năm mươi cân. Điều này nói lên rằng, mỗi một hộ dân thường thì vay mượn một trăm năm mươi cân là đủ dùng đến vụ mùa rồi, lão tiên sinh mua cổ phiếu chưa đủ số lượng mười hộ dân vay mượn như vậy đúng là…

Nhưng khuôn mặt của Đỗ Văn Hạo vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh hàng ngày, hắn không hề tỏ ra giận dữ, bước đi đầu tiên bao giờ cũng vô cùng khó khăn, nói cho cùng thì vị tiên sinh này cũng đã giúp hắn có được bước đi đầu đời trên con đường biến pháp rồi, chính vì thế mà hắn phải cổ vũ ông ta, quyết không được nặng lời: “Rất tốt! Mười cổ phiếu đã thuộc về lão tiên sinh rồi! Còn có ai muốn mua cổ phiếu nữa không?”

Những người buôn gạo khác lúc này đều giương hai mắt ra nhìn nhau, một lúc lâu sau có thêm hai người nữa bước ra, mỗi người lại mua thêm mười cổ phiếu nữa.

Đang trong lúc Đỗ Văn Hạo cảm thấy thất vọng tràn trề về sự quá dè dặt trong kinh doanh này, thì có một người tai to mặt lớn trông rất ra dáng một người làm ăn lớn, đứng ra hét lớn: “Mấy người bọn ngươi coi đây là trò trẻ con hay sao? Cầm có mỗi mười cổ phiếu mà đòi đi buôn à, về mà cầm thóc nuôi gà nuôi vịt đi cho xong! Mẹ kiếp! Ta đem hết số lương thực trong nhà của ta đổi ra hết cổ phiếu! Ta vừa tính rồi, tổng cộng ít nhất cũng phải hai trăm bảy, tám mươi cổ phiếu!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mừng rỡ vô cùng, cuối cùng cũng có người biết làm ăn thật sự xuất hiện, hắn liền tiến lên chắp tay nói: “Xin hỏi vị đại ca này danh tính là gì vậy?”

Người to lớn kia vội vã đáp lại: “Bẩm đại lão gia Tại hạ…à không! Tiểu nhân họ Mễ, là người con thứ mười trong nhà! Mọi người thường gọi là Mễ Thập Nhị”

Người Trung Quốc khi xưa nhà đông con thì có nghĩa là nhiều phúc, do vậy mà người Trung Quốc vì muốn thể hiện nhà mình nhiều phúc nên đều tự nhận mình là người con thứ mười trong nhà, thực chất vị Mễ đại ca này là con thứ hai trong nhà, nhưng lại cứ nhận như vậy là cố ý để cho người khác biết, nhà của anh ta vô cùng lắm của, lắm phúc mà thôi (Ngoại trừ Hoàng Thượng, và mấy người năm thê bảy thiếp ra, chứ nhà bình thường chắc chẳng có ai đẻ được nhiều như vậy cả!)

Chương 317 Những căn nhà làm bằng trúc.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn chắp tay nói: “Ha ha! Thì ra là Mễ chưởng quầy! Họ của Mễ chưởng quầy mới nghe đã biết là có liên quan đến lúa gạo rồi ha ha! Xem ra Mễ chưởng quầy sinh ra là đúng là để đi buôn gạo thật! (Vì họ Mễ có nghĩa là gạo, chính vì thế nên Đỗ Văn Hạo mới nói vị Mễ chưởng quầy như vậy.)”

Mễ Thập Nhị nghe vậy bèn đáp: “Ha ha! Đa tạ Đỗ đại lão gia đã khen ngợi! Đỗ đại lão gia nói đúng lắm, tổ tiên của tiểu nhân đúng là nhà chuyên buôn gạo! Nghề buôn gạo của nhà tiểu nhân đã truyền được mấy đời rồi!”

“Mễ chưởng quầy mới ra tay một cái mà đã mua nhiều cổ phiếu như vậy, thật đúng là người biết cách làm ăn!” Đỗ Văn Hạo tươi cười nói, gặp phải con cá sộp như vậy không khen ngợi ông ta vài câu thì thật có lỗi quá.

“Vâng! Đa tạ Đỗ đại lão gia! Thực ra thì nhà Mễ gia của tiểu nhân buôn gạo bao nhiêu đời không bị phá sản toàn dựa vào hai chữ chắc chắn. Nhưng hôm nay, tiểu nhân dốc hết cả kho thóc của mình vào để mua cổ phiếu là vì, thứ nhất, tiểu nhân vô cùng tin tưởng Đỗ đại lão gia, từ lúc trước khi đại lão gia lên tiếng nói cho mọi người nghe về tân pháp của người, thì tiểu nhân đã rất tin tưởng lão gia rồi! Biến pháp của lão gia đúng là đều lấy dân làm trọng, thực sực phục vụ cho dân chúng, làm cho dân chúng được hưởng lợi. Tiểu nhân chính vì nhận thấy lão gia là người vì dân như vậy nên ra luôn quyết định đem hết số gạo ra mua cổ phiếu, đây cũng là một mẹo vặt của tiểu nhân khi đi buôn. Còn điều thứ hai, đó chính là lúc nãy vị tiên sinh kia đã nói, nếu như không có Đỗ đại lão gia dẫn quân đánh đuổi quân Tây Sơn thì cả gia đình của tiểu nhân chắc đã bỏ mạng nơi này rồi, mang ơn thì phải trả ơn, người ta thường vay một đấu thóc thì trả một bị gạo, vậy mà đây lại còn là ơn cứu mạng nữa, vì lẽ đó mà tiểu nhân sẽ làm hết sức của mình để trả ơn cho đại lão gia! Đây cũng là nguyên tắc làm người của Mễ gia, không giống như người nào đấy nói thì hay lắm, nhưng đến lúc làm thì lại…Hề hề hề! Đúng là đồ kém cỏi không ra dáng đàn ông chút nào cả!”

Mễ Thập Nhị vừa dứt lời thì lão tiên sinh kia nghe xong mà ngượng chín cả người, chỉ biết đứng đó cười trừ mà thôi.

Đỗ Văn Hạo lúc này vô cùng vui mừng, vì cuối cùng cũng có người am hiểu vấn đề như vậy, nên cười nói: “Mễ chưởng quầy! Xin mời ngồi! Vẫn còn ai muốn mua cổ phiếu nữa không? Những người mua cổ phiếu lúc trước nếu muốn thay đổi thì cũng có thể thay đổi, trước khi lên danh sách cổ đông đều có thể sửa đổi được, Nào! Có ai không?”

Lúc này lại có một người nữa đứng ra nói: “Mễ chưởng quầy nói phải lắm, tài lực của tiểu nhân không hùng hậu như ông ta nên chỉ có thể mua tám mươi cổ phiếu mà thôi!”

“Tiểu nhân nhận thêm một trăm cổ phiếu nữa!”

Lão tiên sinh nói lắm ban đầu thấy mọi người mua nhiều như vậy, bèn thấy trong tay mình chỉ có mỗi mười cổ phiếu thì cảm thấy mất mặt vô cùng, vả lại có bao nhiêu người mua cổ phiếu như vậy, mọi người đều cùng chung số phận cả, có chết thì đều chết chung với nhau, chính vì thế mà lão tiên sinh cũng vững dạ hơn, vội vàng đứng dậy nói: “Đỗ đại lão gia! Lão phu muốn mua thêm có được không?”

“Được chứ!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Vậy cho lão phu nhận tám mươi cổ phiếu nhé!”

Mới nghe thấy lão tiên sinh kia đòi đổi cổ phiếu thì hai người mới đầu cũng chỉ mua mười cổ phiếu cũng đứng dậy nói theo: “Tiểu nhân cũng nhận tám mươi cổ phiếu!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới nói: “Thành thật xin lỗi, số cổ phiếu của ba vị cổ đông vừa mua cộng với số cổ phiếu vốn có của quan phủ lúc này đã lên đến chín trăm bốn mươi cổ phiếu rồi, cộng thêm ba người các vị mỗi người mười cổ phiếu nữa là chín trăm bảy mươi cổ phiếu, mà tổng số cổ phiếu chỉ có một ngàn, chính vì vậy mà bây giờ chỉ còn mỗi ba mươi cổ phiếu để danh cho ba vị, vì thế mà mỗi người bây giờ nhiều nhất cũng chỉ được nhận thêm mười cổ phiếu nữa thôi!”

Ba người này vốn giờ đây thấy mọi người mua nhiều quá, mà mình chỉ mua có mười cổ phiếu nên cảm thấy xấu hổ đứng ra mua làm dáng mà thôi. Thực chất ba người cũng đã tính rồi, nếu mỗi người mua tám mươi cổ phiếu sẽ là vượt quá con số một ngàn, chính vì thế nên sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy bèn làm bộ tiếc rẻ nói: “Vậy thì tiểu nhân mua thêm mười cổ phiếu nữa vậy!”

“Được rồi! Như vậy là có tổng cộng sáu vị chưởng quầy đã gia nhập làm cổ đông, cộng với đại biểu quan lại nữa là bẩy người cổ đông. Bây giờ việc trước mắt của chúng ta là làm một danh sách cổ đông, sau đó đưa cho mọi người xem xét, xong rồi mỗi người sẽ ký lên đó, nên nhớ rằng khi các vị đã đặt bút ký là các vị đã chính thức trở thành một cổ đông chính thức của công ty, và cổ phiếu cũng bắt đầu có hiệu nghiệm, chính vì vậy mà bây giờ các vị không được phép hối hận nữa. Bây giờ căn theo quy định các vị phải viết vào thời gi­an quy định đem lương thực và tiền bạc đến gi­ao cho công ty, còn về phần của đại biểu triều thì ngày mai Hàn tướng quân sẽ lên Thành Đô vận chuyển về đây, xin các vị hãy yên tâm! Còn việc này nữa mà bổn quan cần phải nhắc nhở các vị nữa là, nếu mà các vị không gi­ao tiền và lương thực theo đúng thời hạn sẽ bị coi là vi phạm vào quyền và trách nhiệm của cổ đông, các vị sẽ phải bồi thường thiệt hại cho các cổ đông khác, ta nói vậy các vị đã hiểu chưa?”

Sáu vị cổ đông nghe xong liền đồng thanh nói đã hiểu hết rồi.

“À! Vẫn còn việc này nữa, công ty của chúng ta vẫn còn thiếu một cái tên, không biết nên gọ nó là gì?” Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi lại quay sang Tô Thức hỏi: “Tử Chiêm huynh! Huynh là một đại văn hào danh tiếng lừng lẫy, huynh giúp tại hạ nghĩ cái tên cho công ty được không?”

“Vân Phàm huynh quá khen rồi!” Tô Thức mở miệng cười nói: “Thực ra tên của công ty mục đích là để cho dân chúng nhìn, chính vì thế nên càng đơn giản dễ nhớ càng tốt, không cần thiết phải văn thơ, nho nhã làm gì, mục đích của biến pháp là do dân và vì dân, chính vì thế mà công ty cũng làm theo tông chỉ này, không bằng chúng ta gọi nó là ‘Huệ Dân Mễ Hàng’ (Tiệm gạo Huệ Dân) không biết ta đặt tên như vậy, chư vị thấy thế nào?”

Hàn Tu nghe xong thì xoa xoa hai tay vào nhau cười nói: “Cái tên này hay lắm! Vừa đơn giản đễ hiểu, dân chúng nhìn vào cái là hiểu, lại có ý nghĩa!”

Đỗ Văn Hạo và các cổ đông khác nghe xong cũng đều gật đầu đồng ý.

Sau khi có tên rồi thì Đỗ Văn Hạo lại đề xuất tiếp ý kiến của mình: “Vẫn còn thiếu một vị quan đại biểu cho triều đình nữa, mong chư vị đề cử lấy một người cho bổn quan biết!”

Sáu người cổ đông sau khi thương lượng xong liền thấy lão Áp Ti Hầu Trung (Cái chức Áp Ti này làm tôi nhớ đến tên Tống Gi­ang trong truyện Thủy Hử) phụ trách thu thuế kho thóc của Nha Môn là người trung thực, chân thành, hiểu biết làm ăn là người thích hợp nhất cho cái chức vụ này, do vậy tất cả đều nhất chỉ đề cử ông ta ra làm đại biểu.

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn cho người đi gọi Hầu Chung lại, sau khi giới thiệu sơ qua tình hình của công ty, cùng với cách thức thao tác, hắn lại nhấn mạnh cho ông ta biết một khi ông ta đồng ý gia nhập vào công ty đảm nhiệm chức vụ giám đốc, thì không được phép kiêm chức Áp Ti nữa, dĩ nhiên bổng lộc của triều đình thì ông ta vẫn được nhận như xưa, nhưng chỉ là ông ta không còn quyền hành của một Áp Ti nữa.

Hầu Chung cũng chẳng quan tâm đến cái quyền hành Áp Ti bé tẹo của ông ta vừa bị Đỗ Văn Hạo tước đi một cách không thương tiếc, mà ông ta chỉ quan tâm là mình được hắn xem trọng mà thôi, chính vì vậy mà sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói ông ta đã vui vẻ nói: “Đa tạ Đỗ đại lão gia đã cất nhắc ti chức! Đỗ đại lão gia đã tin tưởng lão phu như vậy, thì lão phu nghe lệnh của lão gia là xong chứ gì! Chức Áp Ti lão gia không muốn lão phu làm nữa, thì lão phu sẽ không làm nữa! Lão phu cũng chẳng hiểu Đỗ đại lão gia sách phong cho cái chức giám đốc là muốn lão phu đi làm cái gì nữa! Nếu như lão phu có gì sơ suất xin Đỗ lão gia lượng thứ, lão phu cái gì không làm được chứ chuyện chạy bộ, viết sách, chép con số thì lão phu tin rằng mình sẽ không làm cho lão gia phải thất vọng!”

Tất cả cổ đông nghe Hầu Chung nói xong thì bật cười nghiêng ngả, tiếp sau đó là chọn ra người nào sẽ ngồi vào chỗ chủ tịch hội đồng quản trị, cái này chắc không cần phải hỏi, dĩ nhiên mọi người đều nhất trí bầu Đỗ Văn Hạo ngồi vào vị trí đó, Đỗ Văn Hạo thấy mọi người đã bầu mình như vậy thì cũng không từ chối: “Đa tạ các vị đã tin tưởng! Hiệu quả làm việc của công ty này ra sao đều liên quan trực tiếp đến công việc biến pháp của bổn quan, chính vì vậy bổn quan sẽ gắng hết sức mình ra để làm cho công ty ngày một tốt hơn, ngày một hưng thịnh hơn!”

Đỗ Văn Hạo sau đó lại đề cử Mễ Thập Nhị vào làm chức tổng giám đốc, ông ta giờ đây sẽ phụ trách quản lý và xử lý công việc hàng ngày của công ty, bởi vì Mễ Thập Nhị có cổ đông nhiều nhất trong công ty nên khi ông ta được Đỗ Văn Hạo cất nhắc như vậy cũng chẳng có ai có ý kiến gì cả.

Sau đó Đỗ Văn Hạo chỉ đạo cho Mễ Thập Nhị cầm bút viết một bản danh sách cổ đông lên, bẩy cổ đông đều lần lượt cầm bút rồi ký tên mình lên đó, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo liền cầm con ấn lên đóng dấu đỏ lên đó, bây giờ bản danh sach đã có hiệu lực, và cổ phiếu bây giờ chính thức được ban phát ra.

Tiếp theo sau đó, mấy vị cổ đông dưới sự chỉ đạo của Đỗ Văn Hạo lại thương thảo đề ra một bản lịch trình, nội quy của công ty, rồi tất cả cùng bỏ ra một khoảng tiền vốn mua lấy mồn căn phòng ở nơi trung tâm náo nhiệt của thành Nhã Châu để làm văn phòng gi­ao dịch của công ty. Có văn phòng gi­ao dịch rồi, thì phải cần có kho hàng dự trữ của công ty nữa, do vậy mọi người lại bỏ tiền xây dựng thêm một kho hàng nữa, nhưng bây giờ thì mọi người cứ dùng tạm kho hàng của quan phủ trước đã, ngoài ra Thị Dịch Ti cũng đã bị tân pháp của Đỗ Văn Hạo đình chỉ làm việc rồi, nên hắn đem luôn nơi gi­ao dịch của Thị Dịch Ti biến thành địa điểm gi­ao dịch tạm thời của công ty.

Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục tổ chức một cuộc hội nghị đầu tiên của cổ đông, sau đó tiến hành bầu phía quyết định đề ra lãi suất cho vay mượn.

Đỗ Văn Hạo nói: “Theo như lẽ thường thì ta không nên yêu cầu cổ đông để mức thu lãi suất dìm xuống mức thấp đến như vậy, nhưng mà, đây là do tình hình bắt buộc nên ta mới làm như vây, bởi vì dân chúng vừa mới gặp phải nạn chiến tranh, có rất nhiều người không còn nơi ăn chốn ở, nhà cửa tan hoang, ruộng vườn bị phá hoại, tổn thất vô cùng to lớn, nếu như bây giờ chúng ta để lãi suất cao quá thì đời sống của dân chúng sẽ vô cùng quẫn bách, tuy họ có thể cắn răng chịu đựng đi vay của chúng ta để sống, nhưng đó cũng chỉ là do họ không còn cách nào khác, chính vì thế mà nếu chúng ta để mức thu lãi suất quá cao sẽ làm gia tăng gánh nặng cuộc sống của họ. Bởi vậy ta mới mạo muội thỉnh cầu chư vị rằng trong năm nay, các vị hãy để mức thu lãi suất thấp xuống hơn một chút! Mục đích cũng chỉ là giúp đỡ bách tính trong lúc khó khăn, để cho bọn họ có thể tai qua nạn khỏi, sau này khi tình hình kinh tế khôi phục rồi, chúng ta sẽ tăng lãi suất thu nhập lên cũng chưa muộn! Dĩ nhiên, đây cũng chỉ là ý kiến riêng của ta, chúng ta vẫn phải thông qua hình thức bầu phiếu không ghi tên để trưng cầu ý kiến của mọi người, mỗi một cổ đông đều có ý kiến, quyền lợi, cũng như cách nhìn của riêng mình, ý kiến của ta vừa đưa ra không hề có tính ép buộc nào cả, các vị không cần nhất thiết phải nghe theo, cứ làm những gì mà các vị muốn, đó là quyền lợi của các vị!”

Mễ Thập Nhị nghe xong thì cười lên ha hả nói: “Chủ tịch hội đồng quản trị! Chủ tịch cứ làm chủ là được rồi, các cổ đông khác nhất định sẽ làm theo chủ tịch thôi mà!”

Đỗ Văn Hạo thầm kêu khổ trong bụng, con người thời cổ đại sao mà thật thà, dễ thương như vậy, mình cho họ quyền tự do quyết định, thế mà bản tính cả nể trong con người họ vẫn còn nặng nề như vậy, ngay cả những người có đầu óc tư lợi như mấy người buôn gạo này mà khi bị dính dáng với quan phủ cũng trở nên ngoan ngoãn như mấy con cừu vậy, Đỗ Văn Hạo thầm than vãn tư tưởng cổ hủ tồn tại con người Trung Quốc không ngờ lại nghiêm trọng như vậy, đến cả bọn con buôn đầu óc nhanh nhẹn thế này mà còn không tránh khỏi, thế thì những người dân bình thường thì không biết sao nữa, đúng là văn hóa cổ đại của Trung Quốc không thích hợp với làm ăn buôn bán thật. Xem ra mình lại phải bỏ công quảng bá tư tưởng quyền lợi cho mọi người hiểu biết thêm về việc này vậy, ài! Nhiệm vụ này chắc hẳn là vô cùng nặng nề lắm đây!

Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Cái này nhất quyết không được! Lúc trước ta cũng đã nói hết ngọn ngành các điều lệ trong công ty cho mọi người biết rồi, việc bầu cử quan trọng như thế này nhất quyết phải thông qua hội nghị của cổ đông, bỏ phiếu đa chiều mới được quyền quyết định! Để cho mọi người thảo luận thêm phần tập trung hơn, ta đề nghị đưa ra ba phương án như thế này, phương án thứ nhất, dựa vào lãi suất vốn có của Thanh Miêu Pháp mà chúng ta sẽ thu lãi suất theo tỉ lệ gấp đôi, phương án thứ hai là lãi suất tỉ lệ gấp một chấm năm, phương án thứ ba là tỉ lệ một một. Nếu như trong quá trình bỏ phiếu mà ba phương án này không thấy xuất hiện số đông phiếu bầu thì chúng ta sẽ loại trừ phương án nào ít phiếu bầu nhất, rồi lại bỏ phiếu lần nữa, các vị cũng có thể đề xuất ý kiến của mình nói xem thu lãi suất bao nhiêu là hợp lý nhất lên trên phiếu bầu, chúng ta sẽ bỏ phiếu cho đến khi xuất hiện phương án nào đoạt được nhiều phiếu bầu nhất mới thôi!”

Mọi người đều gật đầu tán thưởng.

Lúc này nhiệm vụ phát phiếu được chính giám đốc mới được bổ nhiệm là Hầu Chung đảm nhiệm, sau khi mọi người được Hầu Chung phát phiếu cho liền lấy bút ghi lên trên phiếu rồi lại gi­ao trả cho Hầu giám đốc, Hầu giám đốc sau khi đảo lộn các phiếu lên xong bèn đưa cho Mễ Thập Nhị đọc kết quả của cuộc bỏ phiếu.

Kết quả của cuộc bỏ phiếu đầu tiên làm cho Đỗ Văn Hạo vô cùng kinh ngạc, tất cả các cổ đông đều chọn phương án thứ ba, tức là thu mức lãi suất tỉ lệ một một với lãi suất của Thanh Miêu Pháp.

Đỗ Văn Hạo trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng vì với một lãi suất thấp như vậy, người dân ở Nhã Châu huyện sẽ nhanh chóng giải quyết được vấn đề lương thực khan hiếm trước mắt. Còn Đỗ Văn Hạo lo vì hắn cảm thấy mấy vị cổ đông này hành động chưa hề có ý tưởng độc lập, cũng như chưa ý thức được giá trị của tấm phiếu bầu trong tay họ. Có lẽ lúc mới bỏ phiếu Đỗ Văn Hạo đã lấy thân phận là một ông quan phụ mẫu khuyên mọi người để mức lãi suất thấp giúp đỡ dân chúng, nên cổ đông ở đây đã bị lời nói của hắn tạo thành áp lực, vì vậy mà tất cả trở nên thụ động, bất giác quên mất quyền lợi của mình, một phần là vì họ cũng là những người mang tư tưởng văn hóa cổ đại, đối với những tư tưởng mang tính hiện đại như thế này làm sao hiểu hết được mình nên làm thế nào mới được cho là đúng. Hơn nữa, nơi đây còn có Hàn Tu Đề Cử Thành Đô Phủ Lộ và Tô Thức Hoàng Châu Chi Châu ngồi đây, mấy người buôn gạo lúc này thà thu ít lãi suất còn hơn là đắc tội với hai vị đại quan lão gia này.

Vấn đề là như vậy, nên Đỗ Văn Hạo cũng thầm tự trách mình đã quá lo lắng cho dân chúng mà làm mất đi tính công bằng trong kinh doanh, do vậy hắn hạ quyết tâm lần sau công ty có bất kỳ việc gì cần bỏ phiếu quyết định hắn phải tuyệt đối gỡ bỏ cái bộ dạng quan lão gia của hắn xuống, để cho mọi người đỡ bị áp lực như ngày hôm nay. Chỉ có công bằng trong các cổ đông, ý thức luật pháp và quyền lợi rõ ràng thì công ty mới có thể vận hành trơn tru như ý được.

Thực thi Thanh Miêu Pháp ngày trước có tính cưỡng chế vô cùng to lớn, ép buộc mười người gộp lại thành một bảo rồi phân phối ruộng đất. Bây giờ Đỗ Văn Hạo không thể dùng phương pháp đó được, hắn đề nghị dựa vào giá trị sản lượng ruộng đất, nhà cửa để làm vật thế chấp khi vay mượn, vật thế chấp cho vay mượn này khi người vay mượn đến kỳ không trả nổi nợ, sẽ bị cưỡng chế thu hồi, hoặc người vay nợ có thể có thể bán nó để trả nợ. Nếu không có những thứ như ruộng đất, nhà cửa làm vật thế chấp, thì người vay nợ có thể cung cấp người bảo lãnh tài sản cho công ty biết, và người bảo lãnh đó sẽ có trách nhiệm nếu người đi vay không trả nổi nợ, người bảo lãnh sẽ chịu thay.

Thời cổ đại tuy cũng có người bảo lãnh, và chế độ thế chấp của cải, nhưng không thể nào so bìđược với những quy định đã vô cùng hoàn thiện như thời hiện đại được. Đỗ Văn Hạo lúc này đã đưa chế độ đảm bảo trong bộ dân pháp của thời hiện đại vào trong này, do vậy mà mọi người đứng đó nghe xong vô cùng kinh ngạc, ai nấy đều thấy rằng điều lệ mà hắn vừa đưa ra rất rõ ràng mạch lạc, dễ hiểu. Hơn nữa những điều lệ này có tính an toàn rất cao, quyền lợi của công ty được bảo vệ vô cùng kín kẽ, không hề có chút sơ hở nào.

Tiếp theo sau đó, hội nghị cổ đông còn để ra một quyết định, đó là ngày trước buổi chiều ngày hôm sau tất cả tiền bạc, lương thực của các cổ đông bắt buộc phải gi­ao nộp hết cho công ty, sang ngày thứ ba sẽ bắt đầu tiến hành cho khai trương công ty. Nhưng trước đó, Mễ chưởng quầy sẽ phụ trách, lo liệu việc thuê mướn nhân công, và làm con dấu cho công ty, sau đó là dán cáo thị quảng cáo, tuyên truyền cho dân chúng biết trên đời này có một công ty sắp ra đời, và mọi người có thể đến đó để vay mượn lương thực, tiền bạc với mức lãi suất vô cùng thấp.

Những người trong hội buôn gạo bây giờ mới ý thức được một công ty hiện đại được thành lập nên thế nào, cổ đông bao gồm những quyền lợi gì, điều hành ra sao, tất cả mọi người đều được mở mang đầu óc ra rất nhiều, đây cũng là kết quả sơ bộ của Đỗ Văn Hạo, khi hắn miệt mài, nhẫn nại không ngừng nghỉ giải thích, giảng giải, dạy bảo cho bọn họ về những điều lệ dân pháp hiện đại.

Sau khi mọi việc hoàn tất, Đỗ Văn Hạo mừng rỡ vô cùng, vì cuối cùng sau bao nhiêu ngày tháng ấp ủ, một công ty hiện đại đã được mọc lên tr­rong thời cổ đại. Nhưng, hắn lúc này vẫn chưa thể cảm thấy yên tâm được, vì tình hình dân nơi ăn chốn ở của dân chúng bị tàn phá sau chiến tranh vẫn chưa được giải quyết triệt để, do vậy vậy trước khi hội buôn gạo ra về, Đỗ Văn Hạo còn dặn dò kỹ lưỡng bọn họ đừng quên giúp đỡ, cứu tế người dân nơi đây, sau đó hắn lại cùng với Tô Thức đi tuần ở trong thành Nhã Châu xem có ai cần sự giúp đỡ không. Dưới sự hào phóng của hội buôn gạo, không lâu sau các nạn dân trong thành đã lần lượt xếp hàng nhận phân phát lương thực, mãi cho đến khi trời tối hẳn rồi thìĐỗ Văn Hạo và Tô Thức mới chịu ra về.

Tối hôm đó, Bàng Vũ Cầm đích thân xuống bếp làm vài món ngon miệng rồi mời Hàn Tu, Tô Thức và Tiền Bất Thu đến dùng bữa.

Trong bữa cơm, Đỗ Văn Hạo cũng chúc mừng đội ngũ y tế của Tiền Bất Thu đã thành công trong việc phòng trừ dịch bệnh trong thành Nhã Châu, nhưng thần sắc của Tiền Bất Thu vẫn vô cùng ảm đạp, nét mặt không vui: “Bẩm sư phụ! Theo đúng như yêu cầu của sư phụ, đệ tử đã thu xếp xong đội dọn dẹp rác bẩn, và làm công tác diệt trùng, tất cả tiến hành hết sức thuận lợi! Tuy trong thành bây giờ bệnh dịch đã được giải quyết, nhưng mà tình hình bệnh dịch ở các vùng lân cận vẫn chưa có chuyển biến nào tốt cả!”

“Sao lại như vậy?” Đỗ Văn Hạo dừng đũa lại hỏi.

“Huyện Nhã Châu là vùng đồi núi, núi cao đèo sâu, rừng cây tươi tốt, nhưng cũng chính vì như vậy mà độ ẩm lại rất cao, vì thế mà các mầm mống bệnh dịch sẽ có điều kiện phát triển rất nhanh, cộng thêm với việc nơi đây các hộ dân định cư tản mạn, mà những người mắc bệnh truyền nhiễm thì phải hơn chục ngày sau mới phát tác, một khi bệnh tình phát tác thì bệnh dịch sẽ lây lan ra cả một thôn! Đệ tử sức lực có hạn, không thể nào làm tròn vẹn được công tác phòng chống dịch bệnh ở từng thôn như vậy, ngoài ra khi một thôn bị bùng phát dịch bệch thì mọi người trong thôn lại tìm cách di tản ra khắp nơi để tránh bệnh, chính vì vậy mà tốc độc khuếch tán của bệnh dịch ngày càng nhanh, phạm vi ảnh hưởng ngày càng rộng!”

Đỗ Văn Hạo khi trước cũng đã có kinh nghiệm phòng chống bệnh Dịch Hạch ở Đông Đạt huyện, cho dù bệnh Thương Hàn dễ bề chữa trị hơn bệnh Dịch Hạch, khả năng tử vong cũng thấp hơn nó, nhưng cũng không thể vì thế mà coi thường bệnh dịch Thương Hàn này được. Đỗ Văn Hạo biết đối với những loại bệnh dịch có khả truyền nhiễm lây lan mạnh mẽ thì hắn phải tiến hành biện pháp cách ly, tức là thành lập hẳn một khu dùng để cách ly người bệnh, sau đó mới tiến hành chữa bệnh. Nhưng để làm được việc đó hắn phải có trong tay số lượng nhân lực vô cùng lớn, bây giờ quân đội của hắn đã được cắm ở những nơi trọng yếu của Tây Sơn nhằm đề phòng các bộ lạc khác đánh úp, do vậy bây giờ trong tay hắn không có lấy một binh một tốt, công tác cách ly vì vậy đã trở thành một vấn đề vô cùng nan giải với hắn lúc này.

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Công việc phòng chống dịch bệnh vẫn là vấn đề cấp thiết trước mắt cần giải quyết, không được chậm chễ! Một khi căn bệnh bùng phát trở lại, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng! Cũng may mà lần này công tác phòng chống dịch bệnh cũng khác với lần ta làm ở Đông Đạt huyện. Lần bệnh dịch đó còn lợi hai hơn căn bệnh này rất nhiều, vì bệnh Thương Hàn này dù sao cũng không phải là bệnh nan y, do vậy chúng ta dễ bề chữa trị hơn, vì thế không cần đến phương pháp cách ly tuyệt đối như lần trước chúng ta vẫn có thể khống chế được nó. Thế này vậy! Đêm hôm nay ngươi lập tức tổ chức phân phát đầy đủ thuốc thang, bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ tập hợp tất cả các đại phu lại, sau đó phân thành nhiều tổ đội, rồi từng đội phụ trách một khu, nhớ phân chia khoanh vùng cho nó đều đặn, các đội sau khi phân chia xong sẽ lên đường thi hành nhiệm vụ phòng bệnh và chữa bệnh kết hợp với việc tuyên truyền phòng trừ dịch bệnh cho dân chúng nghe nữa, như vậy cũng giúp tự bản thân người cũng ý thức được các phòng ngừa dịch bệnh lây lan. Loại bệnh này chủ yếu là lây lan qua đường ăn uống! Chỉ cần chúng ta ngăn chặn những nguồn nước và nguồn thức ăn bị ô nhiễm thì có thể khống chế được khả năng lây lan trên diện rộng của nó! Do vậy lần này việc tuyên truyền ý thức phòng chống bệnh dịch cũng quan trọng không kém phần chữa bệnh! Chỉ cần dân chúng biết được nguồn phát bệnh, thì bệnh dịch cũng sẽ khó lây truyền được!”

Tiền Bất Thu nghe xong liền cúi người tuân lệnh.

Tô Thức ngồi cạnh đó cũng lên tiếng nói: “Tình hình trước mắt là hội buôn gạo đã mở kho phân phát lương thực cho nạn dân rồi, như vậy là chúng ta coi như cũng đã tạm thời giải quyết được việc ăn uống của nạn dân trong thành. Còn khi Hàn tướng quân đến Thành Đô vận chuyển lương thực về đây, thì chúng ta cũng nên phân xét tình hình cho rõ ràng, sau đó sẽ lên danh sách rồi mới phân phát lương thực, như vậy không chỉ cứu tế được cho dân chúng, mà còn đảm bảo được nguồn lương thực không bị ô nhiễm! Ngoài ra khi lương thực của triều đình đến đây thì công ty cũng đã có đủ tài lực để tiến hành cho vay rồi!”

Công ty của Đỗ Văn Hạo chủ yếu đem lương thực ra cho những người vẫn còn ruộng đồng vay mượn, để đến mùa vụ tới bọn họ sẽ thu lại những đồng lợi nhuận đầu tiên, sau đó là tìm đến những người có khả năng thế chấp tiến hành cho vay ngân lượng, như vậy những người vay mượn sẽ có tiền để làm việc khác, công ty sẽ lại nhận thêm được khoản thu nhập ngân lượng mới. Giờ đây ai muốn vay bao nhiêu cũng không thành vấn đề, vì khả năng tài chính của công ty là vô cùng đáng kể. Còn những hộ dân không còn có gì có thể thế chấp, hay đồng ruộng của họ đã bị phá hoại, cùng với những người kinh doanh bán hàng ở trong thành bị phá hoại do chiến tranh thì hắn sẽ đem đồ cứu tế của triều đình trợ giúp cho họ. Dĩ nhiên, đây chỉ là biện pháp tạm thời, có lẽ số lương thực cứu tế cũng chỉ cầm cự được trong mấy ngày thôi, nhưng như vậy cũng đủ để cho những người không có thế chấp, không có ruộng lúa có cái để mà cầm hơi, còn đối với những ng­wòi có thế chấp, có khả năng vay mượn thì bọn họ đã có đủ vốn để làm ăn, như vậy tình hình trong thành sẽ được đi vào ổn định hơn.

Chính vì vậy mà sau khi nghe Tô Thức nói thế, Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu đồng ý nói: “Đúng vậy! Bắt đầu từ ngày mai chúng ta sẽ tiến hành công việc như đã vạch ra, à quên còn một việc nữa, Tử Chiêm huynh có lẽ cũng không để ý đến, đó là nạn dân bây giờ đang ở nhờ trong Châu Nha của huynh chúng ta phải nghĩ cách giải quyết nơi ăn chốn ở cho bọn càng nhanh càng tốt. Cho dù bây giờ Tử Chiêm huynh chưa muốn vội vàng nhậm chức làm việc, nhưng dân chúng người ta cũng đang lo sốt vó tìm nơi làm nhà kia kìa. Việc này chúng ta phải giải quyết ra sao đây?”

Tô Thức thấy vậy bèn nói: “Ngày trước khi chúng ta xuống thôn đi khảo sát tình hình, thì ta phát hiện ra một nơi có sông có núi, ngoài ra nơi đó chỗ nào cũng mọc đầy trúc xanh. Trúc ở nơi đó mọc rất tươi tốt, và chắc khỏe, hơn nữa giá cả lại không đắt, chúng ta có thể dùng tiền cứu tế của triều đình để hỏi mua trúc ở đó rồi xây dựng nhà cửa cho dân chúng, đây cũng là một giải pháp tạm thời thôi, vì làm nhà bằng tre trúc cũng chỉ có thể làm mấy gi­an nhà đơn giản mà thôi, nhưng so với tình hình bây giờ cũng tốt lắm rồi, vì du sao bây giờ đang là mùa hè, thời tiết nóng nực, nằm trong nhà trúc người ta cũng thấy mát hơn! Phải an cư thì mới lạc nghiệp được, có nơi ở mới rồi thì ta tin rằng dân chúng sẽ nhanh tay bắt tay vào làm việc kiếm sống thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì suýt xoa nói: “Ý kiến của Tử Chiêm huynh quả là tuyệt vời! Sao mà tại hạ lại không nghĩ ra được nhỉ?”

Tô Thức nghe vậy thì mỉm cười nói: “Tại ở quê nhà của ta có rất nhiều người làm nhà bằng trúc như vậy, bọn họ đều là những người nghèo khó, không đủ tiền để xây nhà, chính vì vậy nên mới phải chặt trúc xuống để dựng nhà. Tuy nhà làm bằng tre trúc vào mùa đông thì sẽ rất lạnh, nhưng như vậy còn hơn là nằm ngoài trời!”

Những cây trúc mọc ở bên ngoài kia không phải là không có người quản lý, bởi vì nó thuộc vào phạm vi đất đai của địa chủ nơi đó, nhưng do tốc độ tăng trưởng của trúc rất nhanh, có lẽ chỉ cần hai ba năm là trúc đã mọc lên cao vút rồi, chính vì vậy mà giá cả của nó so với gỗ mộc thì rẻ đi rất nhiều, bây giờ nhân số của nạn dân ở trong thành cũng khá đông, nếu mà mua gỗ về xây nhà thì là một vấn đề lớn, Đỗ Văn Hạo với khoản tiền cứu tế có hạn không thể nào kham nổi, nhưng với căn nhà làm bằng trúc thì sô tiền đó dư sức mua cả một khu rừng trúc. Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo phái quân của hắn đi vào những rừng trúc lân cận hỏi mua trúc, mấy người địa chủ rừng trúc nghe nói có người muốn mua trúc, không những vậy số trúc này là dùng để xây nhà cho nạn dân, nên mấy người đại chủ đều ra giá rất thấp. Do bây giờ Hàn Tu vẫn chưa lên đường ra Thành Đô lấy tiền cứu tế của triều đình nên Đỗ Văn Hạo phải viết giấy mua nợ, tuy vậy mấy người địah chủ bán trúc kia đều vui lòng cho hắn nợ, vì mọi người đều biết đây dù sao cũng là việc công ích, vừa có tiếng lại vừa tích đức.

Sau khi mua được trúc rồi thì Đỗ Văn Hạo lại viết giấy cáo thị triệu tập những người thợ mộc và thợ làm nhà để làm nhà cho dân chúng. Cáo thị vừa đưa ra thì có rất nhiều người đến báo danh, bởi vì khi làm thợ xây nhà này, bọn họ không những được Đỗ Văn Hạo bao ăn, mà còn được hưởng thêm một chút tiền công nữa. Ý tưởng dựng nhà bằng tre trúc của Tô Thức không những giải quyết được nơi ăn chốn ở của nạn dân, mà còn tạo ra công ăn việc làm (làm thợ xây nhà) cho nhiều người khác, chính vì vậy mà bà con đều vô cùng biết ơn Đỗ Văn Hạo và Tô Thức.

Sắp xếp, dọn dẹp mọi thứ xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo đem theo quan lại đến Nha Môn bắt đầu đăng ký điều tra tình hình dân số của dân chúng để tiện bề lên kế hoạch xây nhà cho hợp lý.

Những người nạn dân lúc này coi Đỗ Văn Hạo chẳng khác nào Thánh sống cả, nên vừa trông thấy Đỗ Văn Hạo đi đến đã vội vàng dập đầu lạy tạ, cảm ơn hắn đã lo cho dân chúng tận tâm như vậy.

Đỗ Văn Hạo thấy mọi người làm thế bèn vội vã chạy đến nâng họ dậy, ngay ở hàng đầu tiên có một cậu bé tầm mười một, mười hai tuổi cứ nhìn Đỗ Văn Hạo như muốn nói điều gì đó nhưng rồi lại thôi. Ánh mắt sắc bén của Đỗ Văn Hạo cũng nhận ra được sự khác thường này, nên hắn cũng đưa mắt lên quan sát cậu bé, thì thấy cậu bé này cao cao gầy gầy, trông vô cùng lém lỉnh, nhanh nhạy. Đỗ Văn Hạo liền lập tức cho gọi cậu bé đó tiến lên trước cho hắn hỏi chuyện, cậu bé bỗng nhiên bị Đỗ Văn Hạo gọi đích danh như vậy, chỉ biết cúi đầu lầm lũi không dám bước tới.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mỉm cười hỏi: “Cậu bé! Tên cậu là gì? Sao cậu lại nhìn ta với con mắt như vậy, cậu có gì muốn nói với ta sao?”

Cậu bé lúc này nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì thấy hắn cũng nhân từ, thân thiện, bao nhiêu sợ hãi tự nhiên biến mất, câu bé mạnh dạn lên tiếng: “Cháu nghe vị tỷ tỷ kia nói rằng đại nhân là một đại phu có đúng không?” Cậu bé nói xong bèn đưa tay ra chỉ vào Tuyết Phi Nhi, ra ý nói rằng chính là nàng đã nói với cậu như vậy.

Đỗ Văn Hạo cũng biết trong thời gi­an gần đây Diêm Diệu Thủ, Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi và hai vị phu nhân của Tô Thức đều ở đây chăm lo, săn sóc mấy người bị bệnh ở đây, nên khi thấy cậu bé kia hỏi như vậy Đỗ Văn Hạo bèn ân cần hỏi: “Sao vậy? Có phải cậu bị bệnh không?”

Cậu bé liền lắc đầu nói: “Dạ! Không phải, cháu từ khi sinh ra đời thì mẹ của cháu đã nói là cháu chưa bao giờ bị bệnh cả! Ngay cả mùa đông cháu cởi trần ra mà mồ hôi cứ chảy dầm dề nữa là…!”

Cậu bé vừa nói đến đây thì có tiếng cười ở nơi khác vọng ra khúc khích, Đỗ Văn Hạo nghe cậu bé nói vậy cũng phì cười hỏi: “Vậy cậu hỏi ta là đại phu là để làm gì vậy?”

Cậu bé kia nhoẻn miệng cười đáp: “Mọi người đều nói Đỗ đại lão gia làm quan khác nhiều ông quan khác, là một lão gia thật lòng muốn giúp đỡ dân chúng, hơn nữa y thuật lại cao, còn chữa bệnh tặng thuốc miễn phí cho tất cả mọi người nữa! Chính vì thế nên cháu mới hỏi đại lão gia như vậy!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì bật cười ha hả: “Không sai! Ta đúng là một đại phu, chính vì thế ta khám bệnh cho mọi người cũng là lẽ đương nhiên, ai bảo ta là quan phụ mẫu của nhân dân cơ chứ, tất cả việc ta làm, đều là trách nhiệm của ta! Làm quan không phải là để ức hiếp dân chúng, mà làm quan là để phục vụ dân chúng!” Nói đến đây Đỗ Văn Hạo bèn đưa tay ra vỗ vỗ lên vai của cậu bé nói: “Cậu vẫn chưa nói cho ta biết cậu tên là gì đấy!”

“Cháu tên Hầu Tử (hầu tử trong tiếng Hoa có nghĩa: Con khỉ)!” Cậu bé nhanh nhẩu đáp.

Một cô bé trạc trạc tuổi Hầu Tử đứng cạnh đó cười lên khanh khách nói: “Chính vì cậu ta suốt ngày chạy nhảy, leo trèo nên mọi người mới gọi cậu ta là Hầu Tử đó ạ!”

Đỗ Văn Hạo bèn chêm vào: “Ồ! Nếu mà như vậy thì có nghĩa là cậu khá nhanh nhạy, láu cá đó! Khi tôi bằng tuổi cậu, tôi cũng hay chạy nhảy như cậu lắm!”

Hầu Tử nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì mừng rỡ ra mặt, cậu ta dương dương tự đắc, vén luôn ống quần lên rồi chỉ ra cây hòe ở ngoài sân, rồi quay sang nói với Đỗ Văn Hạo: “Đại lão gia! Bây giờ lão gia đếm đến mười là cháu có thể trèo lên cây hòe kia rồi, sau đó lão gia lại đếm đến mười lần nữa là cháu đã xuống đến đây rồi, cháu nói vậy lão gia có tin không?”

Mấy người quan lại đứng ở sau lưng Đỗ Văn Hạo lúc này sa sầm nét mặt nói: “Thằng nhóc này mau ra chỗ khác chơi! Ngươi cứ tưởng Đỗ đại lão gia nhàn nhã lắm sao mà ngồi đây chơi mấy cái trò vớ vẩn ấy với ngươi hả? Đại lão gia còn nhiều chuyện để làm lắm biết không?”

Hầu Tử nghe xong thì câm bặt, im lặng cúi đầu không dám ho he câu nào cả.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì khoát khoát tay nói: “Được! Vậy thì ta bắt đầu đếm rồi đấy nhé! Nơi này có bao nhiêu người làm chứng rồi đấy! Cậu mà không làm được thì lần sau đừng nói dóc như vậy nhé!”

Mọi người ở đây nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì ngay lập tức reo hò cổ vũ, còn Hầu Tử thì mừng rỡ ra mặt, quăng luôn đôi giày cỏ buộc ở chân ra, sau đó Hầu Tử cúi người lấy đà, một chân duỗi ra đằng sau chuẩn bị tư thế, rồi quay sang Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu ra ý cho hắn là cậu ta đã chuẩn bị sẵn sàng.

Đỗ Văn Hạo bèn đưa tay lên phất một cái nói: “Bắt đầu! Một! Hai!”

Lúc này thân hình của Hầu Tử nhanh như con sóc, phóng nhanh như điện xẹt đến bên gốc cây, mọi người cũng đều đưa mắt ra dõi theo thân hình nhanh nhẹn như cơn gió của Hầu Tử, khi Đỗ Văn Hạo đếm đến mười thì Hầu Tử đã leo tít lên cây, chui vào những đám lá rậm rạp trên đó rồi, khi Đỗ Văn Hạo bước đến bên thân cây ngước đầu lên nhìn thì không thấy bóng dáng của Hầu Tử đâu nữa.

“Hầu Tử! Cậu ở đâu vậy?” Đỗ Văn Hạo lên tiếng gọi.

“Đỗ đại lão gia! Cháu ở đây cơ mà!” Lời nói của Hầu Tử lúc này phát ra ở tít trên ngọn cao nhất của gốc cây, Đỗ Văn Hạo nghe thấy được tiếng lá xào xạc đung đưa trong gió, hắn bất giác lui lại hai bước, ngẩng đầu lên nhìn, thì trông thấy trên ngọn cây bóng dáng Hầu Tử đang lấp ló trên đó dơ tay vẫy vẫy chào hắn.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Cậu xuống đây phải cẩn thận đấy! Nào, bắt đầu! Một! Hai!”

Bóng dáng của Hầu Tử đột nhiên lại biến mất một cách nhanh chóng, Đỗ Văn Hạo vừa mới mở miệng ra đếm thì đã thấy thân hình của Hầu Tử nhảy xuống ừ một cành cây gần mặt đất nhất, sau khi nhảy xuống mặt đất thì Hầu Tử đã đứng trước mặt của Đỗ Văn Hạo miệng cười tươi roi rói.

“Đỗ đại lão gia thấy chưa! Cháu không hề nói dóc nhé!” Hầu Tử nói với giọng đầy vẻ đắc ý.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn gật đầu tán thưởng nói: “Đúng là rất nhanh, cậu cừ lắm!”

“Đỗ đại lão gia về sau cần Hầu Tử làm việc gì lão gia cứ việc nói, cháu rất thông thạo nơi đây, tất cả ngóc ngách trong thành Nhã Châu cháu đều thuộc lòng hết, tất cả các đường đi trên núi, dưới sông không nơi nào là cháu không biết cả!” Hẩu Tử cười nói với vẻ vô cùng đắc ý.

Lúc này Bàng Vũ Cầm đã tiến đến nói với Hầu Tử: “Vậy cậu biết các đường tắt trên núi không?”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy thì quay đầu lại tò mò hỏi Bàng Vũ Cầm: “Nàng hỏi đường tắt lên núi làm gì vậy?”

Bàng Vũ Cầm đáp: “Đồ cứu tế hiện nay của chúng ta không đủ cung cấp cho người dân ở đây nữa rồi! Chỉ mấy ngày nữa thôi e rằng…Chúng ta phải nghĩ cách khác để giải quyết việc ăn uống cho các nạn dân ở đây, hội buôn gạo cũng quyên góp hết mình rồi, nhưng vẫn không đủ. Thiếp nghĩ rằng, trên núi chắc chắn sẽ còn rau rừng quả dại có thể ăn được. Chúng ta sẽ phái một số người lên trên núi hái rau rại, với cây quả trên đó về, một mặt chúng ta có thể dùng nó làm lương thưc, một mặt thì chúng ta có thể phơi khô tích trữ!”

Hầu Tử nghe xong thì vỗ vỗ ngực nói: “Không có vấn đề gì! Tiểu đệ sẽ dẫn mấy vị tỷ tỷ lên núi hái rau quả!”

Viên quan lại đứng ở gần đó lại trừng mắt nói Hầu Tử: “Thằng ranh này ngươi xưng hô lung tung hỗn láo cái gì vậy? Mấy vị này đều là phu nhân của Đỗ đại lão gia, ngươi phải gọi họ là phu nhân hiểu không?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì chỉ mỉm cười nói: “Ta thấy cậu ta gọi là tỷ tỷ cũng hay, tuổi tác của mấy vị phu nhân cũng vẫn còn trẻ mà, hơn nữa cậu ta gọi như vậy cũng thuận miệng rồi! Cứ để cậu ta gọi như thế thế đi!”

Hầu Tử nghe xong thì vô cùng đắc ý, quay luôn đầu lại le lưỡi với mấy viên quan lại kia, sau đó cậu ta vội vã chạy đến bên Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm cung kính nói: “Tiểu đệ ra mắt các vị tỷ tỷ!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy thì mỉm cười thích thú, còn Bàng Vũ Câm thì đưa tay ra xoa xoa lên đầu Hầu Tử nói: “Thế cha mẹ của cậu đâu?”

Hầu Tử buồn bã đáp: “Ông bà, cha mẹ, anh chị em của tiểu đệ đã bị quân giặc giết hết cả rồi! Tiểu đệ trong lúc loạn lạc nhanh chân trèo được lên cây nên mới thoát được!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong thì thấy thương hại Hầu Tử vô cùng: “Thật đáng thương! Vậy về sau cậu định sinh sống thế nào?”

Hầu Tử lau đi hai hàng nước mắt trên má nói: “Tiểu đệ có thể chịu khổ được, cùng lắm là đi làm khuân vác, không đến nỗi bị chết đói đâu!”

Bàng Vũ Cầm thở dài quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Tướng công! Hầu Tử còn nhỏ tuổi như vậy sao đi làm công việc khuôn vác nặng nhọc đó được, cậu ta có một thân một mình tội nghiệp như vậy, sao có đủ năng lực tự chăm sóc bản thân mình, hay là chàng kiếm việc gì giúp cậu ta làm, cho cậu ta còn có cái mà sinh sống!”

Hầu Tử tính tình vô cùng nhanh nhẹn, nên khi nghe Bàng Vũ Cầm nói như vậy, thì liền nhanh nhảu nói: “Vâng! Thế thì hay quá, tiểu đệ cái gì cũng làm được! Tiểu đệ không ngại gi­an khổ nữa!”

Bàng Vũ Cầm đã nói như vậy rồi nên Đỗ Văn Hạo cũng không tiện từ chối, hắn suy nghĩ một lúc lâu, nhưng vẫn chưa nghĩ ra công việc nào thích hợp cho cậu bé mới mười một, mười hai tuổi này: “Cậu nhanh chân nhanh tay như vậy, hay là cậu đi theo ta làm chân chạy vặt, truyền tin! Chờ sau này xem còn việc gì thích hợp hơn thì ta sẽ nói cho cậu biết!”

Hầu Tử nghe xong thì vô cùng mừng rỡ, cậu ta lập tức cúi người dập đầu côm cốp tạ ơn: “Đa tạ đại lão gia! Đa tạ phu nhân!”

Chương 318: Tòa lâu đài trên núi

Mấy ngày sau, các ngôi nhà bằng trúc xanh được dựng lên thay thế các ngôi nhà bị tàn phá sau chiến tranh, và dần dần cũng đi vào quy hoạch với một quy mô khá lớn, từ đây dọc trên đường phố của thành Nhã Châu mọc lên những căn nhà ngay ngắn, thẳng hàng. Trong nhà, người dân đem những chiếc lá lau sậy ra phơi khô, rồi dùng nó trải ra làm chỗ nằm, như vậy không những có thể chống ẩm, mà còn mát mẻ nữa. Nhà cửa sau khi được sửa sang đàng hoàng xong thì dân chúng bắt đầu lục đục chuyển đến ở, nhưng do nạn dân quá đông, nhà cửa vẫn chưa dựng lên đầy đủ nên Đỗ Văn Hạo cùng mấy người công nhân đều gia tăng tốc độ làm việc, công việc càng lúc càng khẩn trương. Không lâu sau, thành Nhã Châu đã được các căn nhà bằng trúc che lấp đi những dấu tích kinh hoàng do chiến tranh để lại, mà thay vào đó là một quần thể kiến trúc mới tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng lạ mắt.

Sau khi đến đây được nửa tháng thì Đỗ Văn Hạo cảm thấy bản thân hắn dường như gầy đi rất nhiều, có những lúc hắn ba ngày không chợp mắt được chút nào cả. Bởi vì công việc tu sửa, xây dựng lại nơi đây luôn luôn cần đến sự chỉ đạo của hắn, chính vì vậy mà gánh nặng công việc, cộng với sự tận tụy hiếm có của hắn khiến hắn trở nên vô cùng tham công tiếc việc, bất kỳ chuyện gì cũng làm cho Đỗ Văn Hạo phải lo lắng thu xếp. Nhưng chắc trời xanh cũng cảm thấy thương hại cho hắn nên liên tục mấy ngày hôm nay trời đột nhiên trở nên mát mẻ, âm u, không có mặt trời, cũng chẳng có mưa rơi, chính vì thế mà tiến trình xây dựng của Đỗ Văn Hạo trở nên thuận lợi hơn rất nhiều và tốc độ xây dựng được tăng lên trông thấy. Sau đó lại đến chuyện công ty Huệ Dân, do công ty mới mở nên việc cần giải quyết cũng vô cùng nhiều, Đỗ Văn Hạo cùng với quan lại vì thế cứ chạy đi chạy lại, lúc bên này xây nhà, lúc bên kia xử lý công việc của Huệ Dân.

Nhưng, cũng may mà các cổ đông trong công ty Huệ Dân đối với công việc cho vay mượn đều vô cùng thành thục, bởi ngày trước bọn họ kiếm tiền chủ yếu đều nhờ vào cái trò cho vay mượn này, nên Đỗ Văn Hạo không phải lo lắng thêm khoản này nữa, ngoài ra vị giám đốc Hầu Chung, Hầu Áp Ti làm việc cũng rất nhanh nhẹn, tận tụy với công việc, việc gì ông ta cũng đều giải quyết cũng mau chóng, Hầu Chung rất biết cách quản lý công ty, nên giờ đây Đỗ Văn Hạo càng lúc càng đỡ đi được nhiều việc. Công ty Huệ Dân nhờ vậy mà vận hành càng ngày càng trơn tru.

Nhắc thêm đến chuyện lương thực, vì thời gi­an này đã qua mùa thu gặt, cộng thêm với hậu quả chiến tranh để lại, nhân dân vẫn chưa có lương thực để giải quyết chuyện ăn uống của mình, ngoài ra hội buôn gạo mở kho cứu tế cũng chỉ có hạn, nên người dân bắt đầu chuyển sang mục tiêu khác, đó là đi ra công ty Huệ Dân vay mượn lương thực, vì lãi suất vô cùng thấp nên người dân đến vay càng lúc càng đông. Trong đoàn người lũ lượt kéo đến vay mượn lương thực này, thì cũng có một bộ phận dân chúng cầm giấy tờ nhà, hoặc là nhờ người bảo lãnh để vay thêm tiền buôn bán, làm ăn. Công ty Huệ Dân do vậy mà sau mấy ngày đã cho vay hết hơn nửa số lương thực trong kho, số tiền cho vay cũng tăng lên chóng mặt, các cổ đông bây giờ thì đỏ hết cả mắt, họ chưa bao giờ cho vay nhiều đến như vậy trong đời cả, tất cả đều xoa tay vui mừng ra mặt, bởi họ biết rằng, tuy là họ cho vay với lãi suất thấp, nhưng số lượng cho vay lại rất nhiều, nếu công ty mà cứ tiếp tục làm ăn như vậy thì bọn họ kiếm được lời hơn ngày xưa gấp trăm lần, chính vì thế mà các cổ đông lại tiếp tục gia tăng vốn kinh doanh, tất cả cổ đông đều bị cảnh tượng làm ăn tốt đẹp trước mắt làm cho vô cùng kích động.

Công ty Huệ Dân bây giờ đã đi vào guồng, làm ăn càng lúc càng phát đạt, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo không c箠phải lo lắng công việc ở công ty nhiều như trước nữa, giờ đây hắn đã gi­ao hết công việc trong công ty cho giám đốc Hầu Chung lo liệu, còn mình thì chuyên tâm vào công việc xây dựng lại thành Nhã Châu.

Thái độ làm việc của Đỗ Văn Hạo được rất nhiều người dân nơi đây nể phục, các Hương Thân, cùng với những nhà buôn giàu có đều bỏ tiền, bỏ sức ra hỗ trợ thêm cho hắn, không khí làm việc của thành Nhã Châu bây giờ trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết, chính vì thế mà tinh thần Đỗ Văn Hạo càng lúc càng lên cao, hắn lại quyết định làm thêm những việc khác nữa.

Vào một hôm buổi trưa, trời nắng chang chang, Đỗ Văn Hạo sau một buổi sáng làm việc cật lực đang ngồi nghỉ dưới một gốc cây hòe, hắn lúc này không muốn ăn thứ gì cả, mà chỉ húp một ít cháo rồi gật gà gật gù dựa lưng vào gốc cây, ngủ thiếp đi.

Trong cõi mơ hồ, Đỗ Văn Hạo cảm thấy mình đang bước vào một hoa viên, trong đó có biết bao nhiêu là kỳ hoa dị thảo, đường đi quanh co, chim kêu ríu rít hòa quyện vào mùi hương thơm của hoa lá, tạo ra một cảm giác thanh thoát lạ thường. Từ nơi xa lắng, hắn dường như nghe thấy có tiếng đàn réo rắt vọng lại, Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên cảm thấy thân hình của mình nhẹ bẫng, bước đi của hắn càng lúc càng nhẹ, cứ như vậy hắn bước tới nơi phát ra tiếng đàn phát ra.

Từ xa Đỗ Văn Hạo trông thấy một chiếc đình nho nhỏ, gió mát thổi lên nhè nhẹ làm cho chiếc rèm che của chiếc đình bay lên hạ xuống, trông vô cùng ảo diệu. Hắn trông thấy ngồi trong đình lúc này là một thiếu nữ mặc bộ quần áo thanh thoát, tay đang ôm chiếc đàn, nàng dường như không phát hiện ra sự xuất hiện của Đỗ Văn Hạo. Từ nơi xa Đỗ Văn Hạo cũng không nhìn rõ gương mặt của thiếu nữ đó ra sao cả, nó mập mờ nhân ảnh như được cách bởi một tấm rèm che vậy.

Trong lúc Đỗ Văn Hạo đang ngơ ngẩn ngắm nhìn, thì bỗng nhiên có một giọng nói vọng lại: “Đại nhân! Đại nhân đã đói bụng rồi phải không, nơi đây thiếp đã chuẩn bị sẵn tiệc rượu chờ đại nhân rồi! Mời đại nhân lại đây dùng bữa với thiếp!”

Đỗ Văn Hạo đang trong lúc mơ hồ thì hắn trông thấy một thiếu nữ yêu kiều không biết ở đâu hiện ra, gương mặt của nàng đẹp như hoa nở, nàng đang mỉm cười tiến tới hắn nhẹ nhàng, tao nhã như đóa ngọc lan bên lan can cửa sổ. Dáng ngọc của nàng bất giác làm cho Đỗ Văn Hạo phải nuốt nước bọt kêu ực lên một tiếng, đôi chân hắn bất giác cứ thế bước theo sau thiếu nữ đi vào trong đình.

“Đại lão gia tỉnh dậy đi! Đại lão gia”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy có người đang gọi tên mình thì cố gắng mở mắt ra, hắn chỉ thấy một gương mặt mồ hôi nhễ nhại, áp sát vào mặt của hắn, Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, rồi ngay lập tức đưa tay lên đẩy khuôn mặt đó ra chỗ khác, sau khi hắn đưa mắt nhìn kỹ thì phát hiện ra, gương mặt đầy mồ hôi kia là của Hầu Tử.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì chửi thầm trong bụng, cái tên ranh này đánh thức mình dậy chẳng đúng lúc tí nào cả, đang trong lúc thần tiên như vậy, mình còn chưa kịp nhìn rõ nhan sắc của người thiếu nữ xinh đẹp kia, cũng chưa kịp được cùng nàng đối ẩm dùng bữa, tiếc quá. Đỗ Văn Hạo lúc này ngáp dài lên một tiếng, rồi đưa tay dụi dụi mắt hỏi: “Có chuyện gì thế? Có phải ta ngủ gật lâu lắm rồi không?”

Hầu Tử liền ghé sát vào tai hắn nói: “Đại lão gia! Cháu phát hiện ra một nơi vô cùng thú vị muốn dẫn đại lão gia đi xem! Đại lão gia có muốn đi không?”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã đứng thẳng người dậy, đưa mắt ra nhìn bốn phía thì thấy mọi người lúc này đã bắt đầu làm việc rồi, hắn cũng không biết mình đã ngủ được bao lâu nữa, chỉ chép miệng tiếc rẻ khi giấc mơ đẹp bị tan vỡ một cách lãng nhách như vây, ở bên cạnh hắn lúc này, Hầu Tử với ánh mắt vô cùng thần bí nháy nháy với hắn, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Cậu không đưa các vị phu nhân lên núi hái quả đi, còn ở đây làm cái gì vậy?”

Hầu Tử đáp: “Chính là mấy vị phu nhân bảo cháu đến đây gọi đại lão gia đó! Đi thôi, chúng ta đi luôn đi! Cháu đảm bảo đại lão gia đến đó sẽ thấy nơi đó vô cùng thú vị!”

Đỗ Văn Hạo vẫn còn ấm ức bị Hầu Tử phá hỏng giấc mơ đẹp, cảm thấy vô vị nên phất tay nói: “Cậu và Diêm Diệu Thủ đi đi! Chờ chút nữa ta còn phải về Nha Châu một chuyến nữa, vẫn còn bao nhiêu là việc đang chờ ta giải quyết đây này!”

Hầu Tử thấy Đỗ Văn Hạo từ chối không muốn đi, thì vội vàng nói: “Đại lão gia không tin sao? Thật đấy, nơi đó hay lắm, cháu đã tìm một con ngựa đến đây cho đại lão gia rồi, đại lại gia cưỡi nó đến đấy sẽ tiết kiệm được thời gi­an hơn! Như vậy chắc cũng kịp cho lão gia quay về làm việc!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đưa mắt lên nhìn, quả nhiên cách đó không xa hắn trông thấy một con ngựa được cột ở dưới gốc cây tự bao giờ: “Thôi được rồi! Vậy ta đi cùng ngươi xem xem nó thế nào, nhưng sao chỉ có một con, ngươi không cưỡi ngựa sao?”

Hầu Tử nghe vậy thì nhoẻn miệng cười đáp: “Đại lão gia cứ yên tâm! Cháu chạy bộ có khi nhanh ngang với đại lão gia cưỡi ngựa đó!”

Đỗ Văn Hạo ra vẻ không tin, người mà đòi đua với ngựa hả, ngươi bốc phét thì cũng phải vừa vừa thôi chứ, Hầu Tử trông nét mặt nghi ngờ của Đỗ Văn Hạo thì cũng đoán được ý của Đỗ Văn Hạo, bèn cười nói: “Đại lão gia cứ lên ngựa đi! Cháu dẫn đường, cho dù đại lão gia có đi trước cháu thì cũng chẳng biết đường đâu, do vậy đại lão gia không phải lo cháu chạy không nhanh bằng đại lão gia cưỡi ngựa nữa!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới hiểu, thằng ranh này ăn nói quỷ quyệt, lém lỉnh thật, nghĩ vậy hắn bèn mỉm cười tiến đến bên con ngựa kia, Hầu Tử đứng cạnh hắn liền đưa tay ra đỡ hắn lên ngựa, sau khi lên ngựa Đỗ Văn Hạo bèn gọi Lý Phố lại dặn dò ông ta thêm mấy câu, sau đó rong ngựa theo Hầu Tử hướng về phía đông mà đi.

Sau khi ra khỏi thành, Đỗ Văn Hạo mới thật sự cảm nhận được bước chạy thần tốc của Hầu Tử, trên đường đi tốc độ của cậu ta dường như ngang hẳn với tốc độ cưỡi ngựa của hắn, hơn nữa thể lực của Hầu Tử cứ như dùng không hết vậy, cậu ta giữ tốc độ rất đều, nhưng dường như không cảm thấy mệt mỏi muốn nghỉ chút nào cả. Sau khi đi được khoảng năm dặm đường, thì Hầu Tử chạy đến ghìm cương ngựa hộ Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Đại lão gia! Chúng ta đến nơi rồi!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn gật đầu, rồi nhanh chân xuống ngựa, hắn đưa mắt ra nhìn xung quanh thì thấy nơi đây chẳng có thứ gì hết cả, đây chẳng qua là một nơi thôn quê hoang dã chẳng có gì đặc biệt, lúc trước hắn vốn đã tức Hầu Tử phá hỏng giấc mơ đẹp của hắn, giờ lại thấy cái nơi mà Hầu Tử quảng cáo chẳng có gì đặc biệt, nên Đỗ Văn Hạo liền tức giận nói: “Ngươi chắc là gián điệp của sơn tặc phải không? Có phải bọn chúng phái ngươi đến lừa ta lên đây để bắt ta không?”

Hầu Tử nghe xong thì chẳng hiểu mô tê gì cả, cậu ta ngơ ngác hỏi lại: “Gián điệp là cái gì cơ đại lão gia?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì bật cười, hắn biết mình lại dùng từ hiện đại, chả trách mà Hầu Tử cứ ngây mặt ra chẳng hiểu gì cả, thấy vậy hắn liền lên tiếng giải thích: “Gián điệp có nghĩa là một người có bản chất là một kẻ vô cùng xấu xa, sau đó lại giả bộ làm người tốt, rồi trà trộn vào nơi những người tốt ở mà làm những chuyện xấu xa!”

Hầu Tử nghe xong thì không vui chút nào cả, cậu ta bèn dẩu mỏ lên cãi: “Cháu mà là người xấu à! Còn lâu ý!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì không nhịn được cười nói: “Thôi được rồi! Ta nói đùa đấy mà! Cái nơi mà ngươi nói thú vị rốt cuộc là nằm ở đâu vậy?”

Hầu Tử sau khi kiếm được một chỗ kín đáo xong bèn đem ngựa cột lại vào đó, rồi quay lại chỉ vào ngọn núi sau lưng của Đỗ Văn Hạo nói: “Ở trên núi cơ! Nhưng vì ngựa không leo lên được, nên cháu mới để đại lão gia đến đây cất ngựa đi trước đã! Đại phu nhân nói rằng nơi đây chắc chắn sẽ có con đường tắt để lên, nhưng cháu vẫn chưa tìm ra nó!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền gật đầu rồi bước theo Hầu Tử vào trong núi, đi được một lúc thì hắn cảm thấy đôi chân của hắn nặng như đeo chì, thở dốc liên tục, Đỗ Văn Hạo nghĩ chắc có lẽ mấy hôm gần đây hắn nghỉ ngơi không được tốt, có lần hắn còn thức liền ba ngày ba đêm, không hề chợp mắt, sau đó lại cộng thêm với việc ăn uống không đầy đủ nên mới xảy ra tình trạng mất sức nhanh như vậy.

Đi được thêm một canh giờ nữa, thì Hầu Tử mới chịu dừng lại.

Đỗ Văn Hạo sau khi dừng chân đứng lại bèn ngồi luôn xuống nghỉ ngơi, rồi đưa mắt lên nhìn, hắn liền phát hiện ra nơi đây là một khu đất bằng phẳng, dường như là một nơi do con người tạo ra, cách đó không xa là một khu rừng rậm rạp. Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Chúng ta đến rồi phải không?”

Hầu Tử im lặng không đáp mà chỉ gật gật đầu, rồi đưa tay lên chỉ về phía bên tay phải của Đỗ Văn Hạo ra ý cho hắn nhìn về phía đó. Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn quay người lại nhìn, thì ngay lập tức hắn bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh ngạc vô cùng. Cách chỗ hắn đứng không xa có một cây cầu đá, bên kia chiếc cầu đá có một trạch viện (như kiểu biệt thự của thời hiện đại) vô cùng lớn.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy liền vội vã đứng thẳng người dậy, Hầu Tử liền nói: “Đại lão gia! Chúng ta đi thôi, các phu nhân đang ở trong đó chờ đại lão gia đến đó!”

Đỗ Văn Hạo liền ngay lập tức đi đến bên chiếc cầu, hắn phát hiện ra phía dưới cây cầu này là một dòng sông khá lớn, nước chảy xiết, bên đầu cầu có dựng một tấm bia đá, trên đó có khắc mấy chữ: “Kha Gia Hà” (Con sông của nhà họ Kha)

Đỗ Văn Hạo trông vậy bèn mỉm cười nói: “Nhà ai mà ghê gớm như vậy nhỉ! Đến cả con sông này cũng là của riêng nhà người ta cơ đấy!”

Cây cầu này dài tầm hơn mười trượng, được dựng vô cùng chắc chắn.

Vật liệu làm nên cây cầu này cũng vô cùng đặc biêt, dường như toàn bộ được làm bằng đá Đại Lý, không những kiên cố, mà còn khí phái. Trên thành cầu được khắc trạm nhiều hoa văn vô cùng bắt mắt, xem ra cây cầu này có lẽ được người trong gi­an trạch viện kia dựng lên.

Sau khi bước qua cầu, Hầu Tử liền nhanh chân đi trước Đô Văn Hạo đến trước cánh cổng của trạch viện, cánh cổng lúc này đang hé mở, Hầu Tử liền đưa tay mở nó ra, Đỗ Văn Hạo đi theo sau liền đưa mắt lên quan sát cánh cổng của trạch viện, thì thấy nó cao gấp ba lần chiều cao của người bình thường, cánh cửa dầy lớn trông vô cùng khí phái.

Sau khi bước vào trong viện thì cảnh tượng trước mắt làm cho Đỗ Văn Hạo há hốc mồm kinh ngạc, nếu mà dùng hai từ trang viện để hình dung cái trạch viện này thì quả thật không tương xứng một chút nào, bởi tòa kiến trúc trước mặt hắn không còn có thể dùng hai từ trang viện để hình dung nó nữa, mà nên dùng hai từ lô cốt để hình dung nó có lẽ sẽ hợp lý hơn, toàn lô cốt sừng sững trước mặt hắn như một gã khổng lồ to lớn, lưng dựa vào vách núi phía sau, trông vô cùng hiên ngang hùng vĩ, còn cánh cổng dẫn vào trong lâu đài này thì lại được làm bằng sắt, trước cổng có một cái ao nhỏ, nước trong văn vắt, có thể nhìn xuống tận đáy.

Đỗ Văn Hạo chầm chậm bước đến cánh cổng sắt này, hắn thấy cánh cổng này thấp hơn cánh cổng ngoài kia một chút, định đưa tay lên đẩn nó thì cho dù hắn cố hết sức thế nào đi chăng nữa cũng chẳng xê dịch nổi cánh cổng này lấy một phân, Hầu Tử thấy vậy bèn nói: “Lúc nãy cháu và các vị phu nhân cũng đều không vào được bên trong, sau đó vị tứ phu nhân của đại lão gia liền trèo tường vào trong xong rồi mới mở được cánh cổng này!” Hầu Tử nói xong liền chỉ vào một dãy tường rất cao sừng sững bên cạnh. Bờ tường này đúng là rất cao và kiên cố, người bình thường chắc chắn không thể nào trèo qua nó được, nhưng đối với Lâm Thanh Đại mà nói thì đây chỉ là chuyện vặt mà thôi.

Hai người đang mải đứng ngoài nói chuyện, thì một cánh cửa sổ nhỏ trên chiếc cổng sắt này mở ra, chỉ hở mỗi đôi mắt, đôi mắt đó trông thấy Đỗ Văn Hạo liền vội nói: “Đại lão gia chờ một chút! Thiếp sẽ gọi người đến mở bây giờ đây!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn hỏi: “Mấy người bọn ngươi sao dám tự tiện đi vào nhà người ta như vậy hả?”

Hầu Tử đáp: “Dạ, cái trại viện này hiện giờ làm gì có người ở đâu ạ!”

Trong lúc Đỗ Văn Hạo đang mải suy ngẫm thì đột nhiên cánh cổng sắt kêu lên ken két, rồi hé mở ra, tiếng kêu nặng nề của nó làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy ghê hết cả răng.

Lúc này Lâm Thanh Đại đã bước ra ngoài, gương mặt của nàng ánh lên một nụ cười hiếm , Lâm Thanh Đại liền bước tới bên Đỗ Văn Hạo nói: “Cánh cổng sắt này hay thật đấy! Văn Hạo, chàng biết không? Cánh cổng này có một điểm vô cùng kỳ lạ là người đứng phía ngoài không nghe thấy tiếng của người đứng phía trong, nhưng ngườ đứng phía trong cánh cổng này lại nghe được tiếng của người đứng bên ngoài cổng, chàng thấy có hay không? Văn Hạo, chàng mau mau vào mà xem!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn bước vào trong cánh cổng, quả nhiên cảnh tượng bên trong vô cùng khác lạ, tuy không thể so bì được với các Tẩm Cung của các vị nương nương trên kinh thành, nhưng nó cũng có thể được coi là vô cùng nguy nga, và tráng lệ. Nơi đây chỗ nào cũng có các ô cửa sổ, và đường hành lang được điêu khắc vô cùng tinh diệu, nhưng chỉ tiếc một nỗi là, có lẽ nơi này đã bị bỏ hoang khá lâu, nên khung cảnh có vẻ âm u, hoang phế, trông vô cùng ảm đạm. Bên trong viện lúc này hoa cỏ mọc đầy khắp nơi, vô cùng lộn xộn, có vẻ như đã lâu lắm rồi không có người cắt tỉa chúng nữa, trên nóc nhà cũng giăng đầy mạng nhện càng tạo cho nơi đây một vẻ hoang vắng, tĩnh lặng.

“Mấy người sao lại biết cái trạch viện này không có người ở vậy?” Đỗ Văn Hạo quay sang Lâm Thanh Đại lên tiếng hỏi.

Lâm Thanh Đại đáp: “Bọn thiếp lúc mới đến đây cũng không biết nơi đây có người ở hay không! Nhưng Cầm Nhi phát hiện ra cánh cổng ở đây cũng đã bị rỉ nên Cầm Nhi suy đoán rằng, một căn nhà to lớn thế này, chủ nhân của nó ắt cũng thuộc vào dòng dõi trâm anh thế phiệt, do vậy không thể để cánh cổng nhà mình bị rỉ một cách vô duyên như thế này được, hơn nữa trên đường từ chiếc cầu đi vào bên trong này, bọn thiếp cũng không hề phát hiện ra có dấu chân người, bởi vì mấy ngày hôm nay trời mưa, đừng xá lầy lội, nhưng nơi đây tuyệt nhiên không có một vết bùn bẩn, cũng như vết chân người đi lại nào cả, chính vì thế cho nên…”

Đỗ Văn Hạo nghe Lâm Thanh Đại nói xong bèn đưa mắt ra nhìn tứ phía nói: “Hay là bọn họ đi thăm họ hàng xa thì sao? Cái tính tò mò của mấy người rồi sẽ có ngày phải rước họa vào thân đấy biết không hả? Thôi chúng ta đi thôi, ta cứ tưởng cái gì hay lắm!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn vội nói: “Văn Hạo! Chàng đừng tức giận như vậy, chàng từ từ nghe thiếp giải thích cái đã! Lúc bọn thiếp vừa mới vào đến đây thì cũng có cùng ý nghĩ giống như chàng vậy! Cũng nghĩ hay là mấy người ở đây đi thăm người thân rồi cũng nên! Nhưng, sau khi bọn thiếp đi ra phía sau của cái trạch viện này thì phát hiện nơi đó có mấy ngôi mộ liền, trông chúng còn rất mới. Hơn nữa bọn thiếp cũng để ý thấy đồ đạc ở đây đều lâu lắm rồi không có ai đả động vào cả, trong thư phòng thiếp còn phát hiện có một bức thư nữa!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng ngán ngẩm nói: “Mấy người các nàng cũng to gan thật đấy, nhà cửa của người ta mà các nàng điều tra, dò xét kỹ như vậy để làm gì cơ chứ?”

Hầu Tử đứng cạnh đó liền nhanh nhảu đáp: “Cái này là vì cháu và mấy vị phu nhân phát hiện nơi đây có dự trữ rất nhiều lương thực!”

Hầu Tử vừa mới dứt lời, thì đôi mắt của Đỗ Văn Hạo vụt sáng lên, nói gì thì nói, bây giờ mà mọi người trong thành Nhã Châu cần nhất vẫn là lương thực. Chính vì thế cho nên khi nghe đến hai chữ lương thực, Đỗ Văn Hạo liền tỏ ra vô cùng phấn khích nói: “Có bao nhiêu vậy? Có nhiều không”

Lâm Thanh Đại lúc đó liền đắc ý nói: “Nhiều đến mức mà chàng cũng không thể tưởng tượng ra được!”

Đỗ Văn Hạo há hốc mồm lên kinh ngạc, rồi bật cười hả hê: “Thật như vậy sao? Không thể tin được!”

Lâm Thanh Đại thấy thần sắc của Đỗ Văn Hạo bỗng chốc trở nên phấn trấn như vậy, nàng liền kéo luôn tay áo của hắn nói: “Đi! Để thiếp dẫn chàng đi xem nó nhiều như thế nào! Đến lúc đó chàng sẽ tin rằng thiếp đã không nói dối chàng!”

Đỗ Văn Hạo lại thấy dường như có điều gì đó không phải, bèn nói: “Thôi không được đâu! Chúng ta phải cho người đi dò xét tình hình chủ nhân của trạch viện này trước rồi hẵng tính sau! Thành Nhã Châu vừa mới bị quân Tây Sơn đến cướp phá, chúng ta không thể làm đạo quân Tây Sơn thứ hai được! Đi thôi! Trước khi mọi thứ chưa được điều tra rõ ràng thì ai cũng không được đụng đến bất kỳ đồ gì ở trong trạch viện này!”

Lâm Thanh Đại thấy bộ dạng của Đỗ Văn Hạo rất nghiêm túc, không có vẻ gì là đùa với mình, nên đành phải kêu mấy người Bàng Vũ Cầm đi ra ngoài hết cả, không ai được phép ở lại trong đó nữa. Đỗ Văn Hạo cũng không đi vào trong xem xét nữa, mà quay người dẫn Hầu Tử đi luôn ra ngoài.

“Đại lao gia! Xin lão gia đừng giận! Mọi người chúng cháu về sau sẽ không làm như vậy nữa!” Hầu Tử thấy sắc mặt của Đỗ Văn Hạo lúc này đanh lại, e dè nói.

“Tự động xâm nhập gia cư bất hợp pháp là việc mà chúng ta không nên làm! Hôm ta cũng đã bước theo mọi người vào trong này rồi, chính vì thế mà ta cũng sai, cho nên mọi người cũng không cần phải xin lỗi gì ta cả! À, đúng rồi! Hầu Tử cậu có vẻ rất rành đường đi lối lại ở Nhã Châu đúng không? Vậy cậu đi điều tra cho ta xem căn trạch viện này rốt cuộc là như thế nào, chủ nhân của nó là ai, như vậy có được không?”

“Vâng, thưa đại lão gia! Cháu đã biết mình phải làm gì rồi!” Hầu Tử nhanh nhảu đáp.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười gật đầu, rồi quay ra nói với mọi người: “Chuyện ngày hôm nay chúng ta phải tuyệt đối giữ bí mật, kể cả những người dân đi theo chúng ta vừa rồi, chúng ta cũng phải dặn dò cho kỹ càng, không được phép để ai tiết lộ ra ngoài!”

“Ngày hôm nay có rất nhiều người đi theo Lý đại gia về trước rồi, còn những người khác vì hái quá nhiều rau dại, và hoa quả không có chỗ để đựng nên cũng đã về từ sớm rồi, chính vì thế mà nơi này chỉ có mỗi cháu và bốn vị phu nhân biết thôi, cháu đảm bảo với đại lão gia rằng, cháu sẽ không tiết lộ chuyện này lấy nửa câu!” Hầu Tử quả quyết nói.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười nói: “Vậy thì tốt, thôi! Chúng ta về thôi!”

Khi mọi người vừa về đến thành Nhã Châu thì trời cũng bắt đầu chập choạng tối

Khi vừa về đến nhà, Đỗ Văn Hạo bèn kêu bốn vị phu nhân của mình đi vào trong phòng, sau đó hắn liền đóng trái cửa lại, Bàng Vũ Cầm, Lâm Thanh Đại, Tuyết Phi Nhi, Liên Nhi bốn người hôm nay cũng biết là mình đã làm phải việc sai trái, nên bây giờ cả bốn người đều im lặng, không ai dám ngồi xuống cả, tất cả đều đứng im chờ Đỗ Văn Hạo lên tiếng dạy bảo.

Đỗ Văn Hạo sau khi thấy bốn vị phu nhân của mình ngoan ngoãn, cúi đầu biết lỗi thì hắn bắt đầu trịnh trọng lên tiếng: “Mấy người các nàng hôm nay tự do xâm phạm vào nhà riêng của người khác đúng là quá lắm! Việc ngày hôm nay tuyệt đối không được phép cho ai biết? Kể cả gia đình của Tô đại nhân, mấy người cũng không được phép nhắc đến, tất cả đã nghe hiểu rồi chứ?”

Lâm Thanh Đại nghe Đỗ Văn Hạo trách móc như vậy cũng cảm thấy có lỗi vô cùng, vì hôm nay nàng chính là người phi thân qua tường vào bên trong mở cánh cửa sắt ra: “Văn Hạo! Chàng đừng trách ba người bọn họ, tất cả đều là do một mình thiếp gây ra cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đập bàn quát: “Kể cả là ý của nàng đi chăng nữa, thì cũng đã sao? Chẳng nhẽ ba người còn lại không thấy nàng làm sai hay sao mà còn hùa vào theo nàng làm gì nữa? Bởi vậy mà ba người bọn họ cũng có lỗi, rõ ràng biết nàng làm sai mà không có ai đứng ra khuyên bảo nàng gì cả, thế cũng có nghĩa là có lỗi!”

“Bọn thiếp hôm nay biết mình đã sai rồi! Văn Hạo! Chàng đừng giận nữa!” Bàng Vũ Cầm thấy dáng điệu hùng hổ của Đỗ Văn Hạo như vậy cũng chỉ dám cúi đầu lí nhí vài câu, nàng không dám ngẩng đầu lên mà nhìn Đỗ Văn Hạo nữa.

Đỗ Văn Hạo thấy bốn người bọn họ có thái độ biết lỗi chân thành như vậy bèn thở dài lên một tiếng, rồi khoát tay lên nói: “Thôi được rồi! Mấy nàng cũng vất vả cả ngày hôm nay rồi, ta cũng không nói các nàng nữa, mấy người chắc cũng mệt rồi phải không? Thôi, đi nghỉ sớm đi!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn ngả người nằm xuống chiếc giường được làm bằng trúc, nhắm luôn mắt lại.

Tuyết Phi Nhi đang định nói thêm câu gì nữa thì Bàng Vũ Cầm đã đưa mắt ra ý cho nàng không nói nữa, tối hôm nay Đỗ Văn Hạo quyết định nằm ở đây với Bàng Vũ Cầm, nên Lâm Thanh Đại, Tuyết Phi Nhi, và Liên Nhi đều biết ý lui sang căn phòng còn lại, rồi khép cửa lại.

Bàng Vũ Cầm sau khi đưa ba người kia ra khỏi phòng, bèn tiến đến bên Đỗ Văn Hạo nằm xuống, do hôm nay phải lên rừng hái quả, trèo đèo vượt núi nên Bàng Vũ Cầm vừa nằm xuống bên cạnh Đỗ Văn Hạo đã nhắm mắt ngủ luôn, để Đỗ Văn Hạo chưng hửng nằm bên cạnh nghĩ ngợi lung tung. Trong đầu của hắn bây giờ đột nhiên nhớ đến cái trạch viện hôm nay.

Một căn trang viện cổ, nằm ở nơi thâm sơn cùng cốc, phía sau viện lại có những ngôi mộ mới đắp, con sông mang cái tên Kha Gia Hà, một kho lương thực với khối lượng tích trữ đến cả bản thân hắn cũng không thể tưởng tượng ra được. Đỗ Văn Hạo tuy lúc này đang nhắm mắt, nhưng trong đầu hắn lúc này vẫn đang mải mê suy nghĩ về căn trạch viện đó. Thường thì những người có tiền có thế một khi xây trạch viện, thì họ thường xây nó ở nơi nào ồn ào tấp nập nhất, nhưng trạch viện này lại không như vậy, nó được xây ở trên núi, một nơi hẻo lánh không người qua lại. Cái quy mô của trạch viện đó chẳng khác gì một tòa lâu đài cả, một công trình kỳ vĩ như vậy không biết xây bao nhiêu lâu mới hoàn thành được như vậy? Và không biết người chủ của nó là một người như thế nào? Những ngôi mộ mới được đắp lên như vậy, thì có lẽ mọi người trong đó cũng vừa mới chết, nhưng tại sao họ lại chết đột ngột như vậy? Lẽ nào cái chết của bọn họ là do quân Tây Sơn gây ra? Nhưng tình hình xem ra lại không phải như vậy, nếu như quân Tây Sơn phát hiện ra cái trạch viện này, thì nó không thể còn được bảo tồn một cách toàn vẹn như vậy cả, ít ra thì cũng bị bọn chúng lấy hết các thứ trong phòng đi mới phải, nhưng đồ đạc vẫn còn nguyên vẹn. Khu trạch viện này chắc chắn vẫn còn người ở đó, nếu không thì ai đã đắp mộ lên như vậy? Vậy thì bây giờ người đó đang ở đâu? Lẽ nào người đó vẫn ở trong cái trạch viện đó? Khả năng này cũng có thể xảy ra lắm! Đỗ Văn Hạo cứ thế năm nghĩ miên man, rồi hắn ngủ gục lúc nào mà không hay.

Cứ như vậy Đỗ Văn Hạo ngủ một mạch luôn đến sáng hôm sau, khi hắn tỉnh dậy thì phát hiện Bàng Vũ Cầm đã dậy từ lúc nào, lúc này nàng đang ngồi chải chuốt bên bàn trang điểm của mình.

Khi thấy Đỗ Văn Hạo choàng dậy, thì Bàng Vũ Cầm bèn quay đầu lại mỉm cười nói: “Tướng công! Sao chàng không ngủ thêm một chút nữa đi!”

“Thôi không cần ngủ nữa đâu! Bây giờ cũng đã muộn lắm rồi, ta vẫn còn một đống việc cần phải giải quyết đây này!”

Đỗ Văn Hạo sau khi dứt lời bèn, xuống giường nhanh chóng mặc quần áo vào, rồi đi ra ngoài, đến công trường làm việc, khi đến nơi thì hắn phát hiện nơi đây chỉ có lác đác vài người làm việc, bao nhiêu người khác không biết đã đi đâu hết cả. Đỗ Văn Hạo cảm thấy kỳ lạ vô cùng, hắn bèn đi tìm Lý Phố hỏi cho ra nhẽ, khi từ xa trông thấy Lý Phố, Đỗ Văn Hạo đã vội lên tiếng hỏi: “Bây giờ đã mấy giờ rồi mà sao vẫn không có ai đến làm việc vậy hả?”

Lý Phố thấy vậy bèn cúi người đáp: “Bẩm đại nhân! Ngày hôm qua đột nhiên có mười mấy người công nhân đột nhiên bị bệnh, ti chức đã cho người đi mời đại phu đến xem rồi, ti chức nghĩ rằng có lẽ bọn họ làm việc nhiều quá nên mới bị bệnh như vậy! Chính vì thế mà ti chức đã tự phép cho bọn họ nghỉ nửa ngày, rồi đến chiều họ sẽ lại tiếp tục làm việc!”

“Bị bệnh rồi sao? Vậy sao ngươi không thông báo cho ta biết hả?” Đỗ Văn Hạo sốt ruột nói.

“Ti chức thấy đại nhân mấy ngày gần đây cũng làm nhiêu việc quá nên ti chức không muốn làm phiền đại nhân nữa, vả lại mấy người kia chắc là bị dính mấy cái bệnh lặt vặt thôi mà, gọi mấy vị đại phu trong thành đến chữa chắc là không có vấn đề gì đâu ạ!”

Đúng vào lúc này thì Đỗ Văn Hạo đột nhiên trông thấy phu nhân của Tô Thức Vương Nhuận Chi vội vã chạy đến nói: “Đỗ Ngự Y! Tôi có việc muốn tìm đại nhân, may mà đại nhân lại ở đây, may quá!”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Tô phu nhân có chuyện gì vậy?”

“Lúc nãy tôi đang giặt đồ ở bên sông, thì bỗng nhiên ngửi thấy một mùi hôi thối lạ thường, tôi liền ngược dòng đi lên thượng nguồn tìm hiểu tình hình xem sao, thì đột nhiện phát hiện ra trên thượng nguồn có một số xác chết chưa được chôn cất đàng hoàng nằm ở đó! Cả thân hình đều trương phềnh nổi lềnh bềnh trên mặt nước!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy thì giật mình kinh hãi vội nói: “Lý Phố! Không phải ta đã bảo ngươi là cho người đi dọn xác chết, rồi­ra ngoại thành thiêu hết rồi hay sao? Tại sao lại vẫn còn xác chết nào ở đây nữa vậy?”

Lý Phố lúc này thấy Đỗ Văn Hạo tức giận như vậy thì ấp a ấp úng đáp: “Mạt tướng! Mạt tướng sẽ đi hỏi lại cho rõ ràng, đúng là ngày trước mạt tướng đã làm theo lệnh của đại nhân rồi, có thể mấy các xác đó mạt tướng xơ xót mà bỏ qua nó!”

Vương Nhuận Chi thấy vậy bèn nói: “Đây là một chuyện vô cùng hệ trọng. Con sông này vốn là nguồn nước của cả cái thành Nhã Châu này! Mấy cái xác đó dường như không phải là bị giết chết thì phải! Lẽ nào họ bị bệnh dịch mà chết? Nếu mà như vậy thì tình hình nguy cấp rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì dây thần kinh trong đầu của hắn bỗng nhiên căng ra, Vương Nhuận Chi cũng là một người hiểu biết, hết mực thông minh, nàng ta nói rất có lý, nguồn phát bệnh truyền nhiễm chủ yếu của Thương Hàn chính là nguồn nước, nếu như những người đó mà chết vì bệnh Thương Hàn thì e rằng cả thành Nhã Châu này lại một lần nữa đối mặt với một trận bệnh dịch mới bùng phát trở lại mất.

Đỗ Văn Hạo nghĩ đến đây, lập tức nhớ đến chuyện Lý Phố nói có rất nhiều người thợ, công nhân sáng nay bị bệnh xin nghỉ, hắn đột nhiên cảm thấy lo lắng vô cùng, Đỗ Văn Hạo biết tình hình không thể chậm chễ được nữa, hắn liền đem theo Vương Nhuận Chi và Lý Phố lên trên thượng nguồn tìm mấy cái xác kia xem tình hình ra sao.

Khi vừa đi đến nơi thì cả ba đều không thấy mấy cái xác kia đâu nữa, Vương Nhuận Chi lúc này kinh ngạc vô cùng: “Ý! Mấy cái thi thể lúc nãy ở đâu rồi? Rõ ràng lúc nãy còn nổi trương hết cả chỗ này mà?”

Đỗ Văn Hạo vội vã chạy đến bên chỗ Vương Nhuận Chi chỉ cho hắn, Đỗ Văn Hạo liền cúi xuống dùng mũi hít thít, nhưng hắn cũng không ngửi thấy một mùi vị gì lạ cả, sau đó hắn lại kiểm tra mấy viên đá gần đó một cách cẩn thận, nhưng cũng không tìm ra thêm bất kỳ tung tích nào cả, sau khi tìm kiếm kỹ lượng tất cả mọi nơi, Đỗ Văn Hạo bèn đứng dậy nói: “Tô phu nhân! Phu nhân không nhớ nhầm chỗ đấy chứ?”
“Không thể nào nhầm được! Chỗ này vẫn còn cái cây kia mà, lúc đó khi tôi mới đến đây, nhìn thấy cảnh tượng kinh hãi như vậy, sợ đến kinh hồn bạt vía, hai chân mềm nhũn ra không đứng dậy nổi, do vậy tôi phải dựa vào nó, sau đó mãi mới mò về để thông báo cho đại nhân biết đó chứ!”

Mấy người của Đỗ Văn Hạo lại tiếp tục lần theo bờ sông để tìm xem có tông tích gì nữa không, nhưng cuối cùng bọn họ cũng chăng tìm thấy bất kỳ dấu vết nào khác lạ cả.

Lý Phố lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, cười nói: “Tô phu nhân! Có lẽ lúc đó phu nhân nhìn nhầm thật rồi, có khi lúc đó nhìn mấy viên đá này thành mấy cái thi thể người cũng nên, bọn mạt tướng đã tìm hết rồi cũng có thấy cái thi thể nào đâu? Mạt tướng đã nói rồi mà, mấy hôm trước mạt tướng đã thu dọn sạch sẽ hết rồi, bờ sông này mạt tướng cũng đã đi kiểm tra mấy lần rồi, làm gì có chuyện sơ sót như vậy!”

Tô phu nhân lúc này cũng chỉ biết nhìn ra bốn hướng rồi tự mình cứ lầm bầm nói một mình: “Không thể như thế được! Tôi đã nhìn thấy tận mắt, rõ ràng là có mấy cái xác ở đây mà, lúc đó mùi hôi thối bốc lên kinh lắm!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới thở phào nhẹ nhõm nói: “Tô phu nhân! Mấy ngày hôm nay, phu nhân cũng bận lăm rồi, có lẽ mệt quá nên nhìn nhầm cũng nên! Thôi được rồi, không có thi thể ở đây là tốt lắm rồi, chúng ta quay về thôi!”

Đỗ Văn Hạo tuy ngoài miệng nói mạnh mồm như vậy, nhưng trong lòng vẫn lo lắng đứng ngồi không yên, sau khi về đến thành Nhã Châu, hắn liền lập tức đi đến chỗ mấy người công nhân bị bệnh ban sáng để xem xét tình hình.

Nhưng, kết quả kiểm tra của hắn làm cho hắn không thể nào yên tâm thêm được nữa, một số người trong số mấy người này đúng là đã bị truyền nhiễm bệnh Phong Hàn, nhưng vì trong thành Nhã Châu lúc này cũng vẫn có người mắc bệnh Phong Hàn, nên cũng không thể khẳng định bọn họ bị truyền nhiễm từ nước sông khi nãy, hơn nữa lúc nãy cũng đã tìm thấy mấy cái thi thể đó đâu mà đoán chắc mấy cái thi thể đó cũng bị bệnh Phong Hàn mà chết được, chính vì vậy bây giờ ra kết luận vẫn còn hơi sớm.

Cho dù như vậy, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn giữ được bình tĩnh, cũng may mà mấy ngày sau đó, trong thành không có hiện tượng bùng phát dịch Thương Hàn, nên hắn mới thở hắt ra nhẹ nhõm.

Vừa đúng lúc này thì Hàn Tu cũng đã nhận được lương thực cứu tế của triều đình, vì thế mà khi ông vận chuyển chúng từ Thành Đô về đây cũng vừa vặn cứu tế cho Nhã Châu, làm cho tình hình của Nhã Châu càng lúc càng trở nên ổn định.

Ngày hôm nay, người thiếp của Tô Thức là Vương Triều Vân hẹn Bàng Vũ Cầm đi lên phố mua một ít đồ, Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã ở đây hơn một tháng rồi, tình hình ở đây cũng khôi phục kha khá rồi, có rất nhiều nơi đã mở cửa bán hàng trở lại, cảnh buôn bán nơi đây đã bắt đầu lấy lại hình ảnh tấp nập vốn có khi xưa của mình.

Bởi vì cả nhà của Đỗ Văn Hạo ở gần ngay sát nhà với Tô Thức, nên quan hệ của hai nhà vô cùng khăng khít, chính vì thế mà Bàng Vũ Cầm hay gọi Vương Triều Vân là Vương tỷ, còn mình thì tự xưng là Bàng muội, hay muội muội.

Tuy hai người lúc này ăn mặc vô cùng giản dị lên phố mua đồ, nhưng vẻ đẹp thanh nhã của họ vẫn toát ra ngoài, vì thế mà khi họ mới đến nơi mua bán, thì tất cả mọi người nơi đây đều trầm trồ kinh ngạc. Thậm chí, còn có cả những người dân đứng ngay sau lưng hai người chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn tán xôn xao, làm cho hai người bỗng chốc trở nên vô cùng mất tự nhiên.

“Vân tỷ! Tỷ xem mấy người này rõ là đáng ghét! Đôi mắt của bọn họ như những con chim ưng đang soi mói hai người chúng ta vậy!” Bàng Vũ Cầm nói với một giọng vô cùng bất mãn.

Vương Triều Vân nghe vậy thì vẫn tỏ ra vui vẻ nói: “Cứ để cho bọn họ nhìn cũng chẳng sao đâu, giữa ban ngày ban mặt thế này bọn họ cũng chỉ có thể nhìn mà thôi, cũng có làm gì được đâu! Chúng ta cứ coi bọn họ là không khí ấy, để ý làm gì cho mệt! Hơn nữa bên cạnh chúng ta còn có cả thị vệ đi cùng, ai dám làm gì cơ chứ!”

Hai người lúc này đã dừng chân ở một tiệm bán chỉ khâu, Bàng Vũ Cầm muốn mua một ít chỉ về dùng, vì trong nhà bây giờ thiếu mất mấy mầu chỉ mà nàng đang cần dùng tới, tuy có rất nhiều việc nàng có thể vứt cho nha hoàn của mình lo liệu, nhưng bây giờ nàng cũng đang rảnh rỗi, nên mới đích thân đi mua đồ như vậy.

“Tỷ cũng không ngờ muội muội lại là một người xuất thân trong con nhà quan đâu đấy! Muội làm việc gì cũng cẩn thận, lại còn nhu mì hiền thục nữa, ngay cả trong việc lựa chọn chỉ khâu thôi mà cũng thể hiện ra được muội là một người rất đảm đang rồi!” Vương Triều Vân đứng cạnh đó tấm tắc khen ngợi.

Bàng Vũ Cầm đã nhanh tay chọn xong những sợi chỉ khâu mà nàng cần, sau đó bèn quay sang Vương Triều Vân mỉm cười nói: “Ngày trước khi còn ở trong nhà, thì những việc này muội không bao giờ phải đụng tay đụng chân vào gì cả. Những thứ này là sau khi về làm dâu nhà họ Đỗ, muội mới bắt đầu học đó ạ!” Bàng Vũ Cầm nói xong bèn móc tiền ra trả cho người bán hang.

“Đại tỷ lấy tổng cộng là bẩy loại mầu, mỗi màu ba cuộn, tất cả là hai mươi mốt cuộn, đại tỷ đưa cho tôi bảy mươi đồng là được rồi!” Người bán hàng nhanh nhảu tính toán, xong đâu đấy lại thỉnh thoảng liếc mắt lên ngắm nhìn Bàng Vũ Cầm.

Vương Triều Vân nghe vậy thì sa sầm nét mặt, lớn tiếng nói: “Sao lại đắt như vậy? Có mỗi mấy cuộn chỉ như thế này mà cũng đáng giá bảy mươi đồng sao?”

Bàng Vũ Cầm bình thường rất ít khi tự mình ra ngoài mua đồ như thế này, bình thường đều là do Liên Nhi và Tuyết Phi Nhi đi mua đồ, hôm nay chẳng qua là hẹn với Vương Triều Vân, cộng thêm bản thân cũng đang rảnh rỗi, nên mơi ra chợ mua đồ như vậy, bây giờ nghe Vương Triều Vân nói là đắt, trong lòng vô cùng thắc mắc không hiểu vị nhị phu nhân của Tô Thức này sao lại biết rõ giá cả như vậy? Nhưng lúc này nàng cũng không tiện lên tiếng hỏi, mà chỉ âm thầm đứng bên cạnh lắng nghe mà thôi.

Người bán hàng cũng không hề biết mặt Vương Triều Vân và Bàng Vũ Cầm là ai, nên thấy Vương Triều Vân tức giận như vậy bèn vội vàng giải thích: “Vị đại tỷ này có lẽ không biết! Ngày trước thì đúng là chỗ chỉ khâu này không đáng giá bảy mươi đồng như vậy, nhưng bây giờ chúng tôi nhập chỉ vào đã là năm mươi đồng rồi! Tất cả đều là do bọn quân Tây Sơn gây ra cả, nếu chị vẫn không tin thì cứ đi hỏi xem, cũng chẳng phải một mình cửa hàng của tôi mới bán đắt như vậy!”

Vương Triều Vân lúc này mới đưa mắt ra nhìn bốn phương, thì phát hiện ra nơi đây cũng vẫn còn khá nhiều các cửa hàng bán chỉ khâu khác, nên bèn lên tiếng nói: “Cũng được! Đắt như vậy ai mà mua được cơ chứ! Chúng ta đi xem xem các hàng khác tình hình thế nào đã!” Nói xong Vương Triều Vân bèn kéo tay Bàng Vũ Cầm đi sang hàng khác.

Chương 319: Vật giá

Bàng Vũ Cầm thấy Vương Triều Vân kéo mình đi như vậy bèn thấp giọng nói: “Vân tỷ! Tỷ làm sao biết được giá cả của mấy cuộn chỉ đó là đắt vậy…?”

Vương Triều Vân nghe vậy thì mỉm cười nói: “Thực ra thì tỷ cũng không hề biết đâu! Nhưng mà trước khi ra đây mua hàng thì đứa nha hoàn của tỷ Xảo Nhi đã nói cho tỷ biết tình hình giá cả rồi, nó còn nói là khi đi ra chợ mua đồ, chúng ta đều có thể mặc cả, bất kể thứ gì cũng đều có thể mặc cả được, muội chỉ cần mua đồ gì, thì muội cũng phải mặc cả, như vậy bọn họ cũng sẽ bán rẻ cho muội hơn, nếu mà Xảo Nhi không nói trước cho tỷ biết thì tỷ cũng ậm ừ cho qua thôi!”

Bàng Vũ Cầm lúc này mới hiểu, hóa ra là như vậy, nhưng khi nãy nàng thấy bộ dạng tức giận của Vương Triều Vân, nàng cứ tưởng là thật, hóa ra Vương Triều Vân cũng chỉ là làm bộ như mình là một người buôn bán sành sỏi lắm vậy, nghĩ đến đây thì Bàng Vũ Câm không nhịn được cười. Sau đó hai người lại đi đến một hàng bán chỉ khác, người bán hàng ở đây là một lão bà râu tóc bạc phơ, lão bà thấy hai người Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân đi đến bèn vội vã đứng dậy mỉm cười nghênh đón nói: “Nhị vị tiểu thư muốn mua kim chỉ loại nào vậy?”

Vương Triều Vân không đáp mà chỉ mỉm cười gật đầu, sau đó nàng liền lấy giùm cho Bàng Vũ Cầm mấy cuộn chỉ mà nàng đã chọn ở cửa hàng trước kia ra, đưa cho bà lão. Bà lão tuy tính toán không nhanh được bằng người bán hàng cũ kia, nhưng sau khi tính toán xong thì giá cả của lão bà làm cho hai người càng cảm thấy kinh dị hơn, tổng cộng hết tất cả là bảy mươi lăm đồng.

Bàng Vũ Cầm lúc này cảm thấy vô cùng khó hiểu hỏi: “Sao bà lại bắn đắt như vậy?”

Lão bà nghe vậy bèn mỉm cười đáp: “Ta cũng chẳng ép nhị vị phải mua, nếu nhị vị thấy nó đắt quá thì cứ việc sang hàng khác mà hỏi mua!”

Vương Triều Vân thấy vậy bèn nói: “Lão bà bà! Bà bà cho tôi hỏi là trước khi chiến tranh xảy ra thì giá cả đều cao như vậy ư?”

Bà lão nghe xong bèn lắc đầu nói: “Ta bán mặt hàng này cũng đã mười mấy năm nay rồi, nhưng cũng chỉ có lần này là đắt nhất thôi!”

Đúng là vật nào càng hiếm thì càng có giá, Bàng Vũ Cầm thực chất cũng không câu nệ về chuyện tiền nong cho lắm, nhưng nhà của Tô Thức lại rất nghèo, hơn nữa lại không chịu nhận tiền cứu trợ giúp đỡ của người khác, chính vì thế nên Bàng Vũ Cầm cũng vào mặc cả hộ cho Vương Triều Vân, nhưng cả hai nói mãi thế nào mà lão bà vẫn không chịu giảm giá, cuối cùng Vương Triều Vân không còn cách nào khác là phải mua về với giá bảy mươi lăm đồng của bà lão đó.

Khi Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân đi qua chỗ người bán kim chỉ ban đầu thì thấy người đó lên tiếng hỏi: “Nhị vị phu nhân xin dừng bước! Tại hạ muốn hỏi nhị vị một điều là tại sao nhị vị lại mua hàng của bà lão kia, mà lại không mua hàng của tại hạ, mặc dù giá cả của nhà tại hạ lại rẻ hơn của bà lão kia! Sao hai người không mua nơi rẻ hơn, mà lại mua của nơi đắt hơn vậy?”

Vương Triều Vân thấy vậy bèn đáp: “Cũng chẳng rẻ hơn được bao nhiêu, nhưng mà ngươi trẻ hơn bà lão, chính vì vậy mà ngươi nhập hàng nhanh hơn, bà lão thì già cả, nhập hàng chậm hơn ngươi, dĩ nhiên bán hàng cũng không thể nhanh nhẹn bằng ngươi được, chính vì thế nên chọn hàng bà lão mà mua hàng thôi!”

Người bán hàng kia nghe xong thì há hốc mồm kinh ngạc, thầm nghĩ trên đời này sao lại có người mua hàng kiểu lạ đời như vậy.

Khi hai người vừa đi đến nơi bán gạo, thì Vương Triều Vân cũng chợt nhớ ra là nhà mình cũng vừa vặn hết gạo, nên cả hai bèn tạt luôn vào trong hỏi mua hàng.

Khi Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân bước vào trong này thì đã trông thấy người bán hàng nơi đây không hề có ý đứng dậy tiếp khách gì cả, hắn ta vẫn cứ ngồi ở trong quầy tính tiền, hai chân gác cao lên trên bàn, hai tay khoanh trước ngực đưa mắt lên nhìn hai người khách lạ mặt vừa bước vào.

“Còn gạo để bán không?” Vương Triều Vân lên tiếng hỏi.

“Dĩ nhiên là còn chứ, nhưng mà…” Gã bán hàng lúc này đưa con mắt khinh thường lên nhìn vào bộ dạng tầm thường của Vương Triều Vân, lãnh đạm nói: “Gạo thì đúng là còn rất nhiều, nhưng không biết nhị vị có đủ tiền để mua không thôi!”

Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn cau mày lại nói: “Sao vậy? Gạo của nhà ngươi lẽ nào làm bằng vàng, bằng bạc chắc, hay là ăn vào sẽ sống lâu muôn tuổi hả?”

Gã bán hàng lúc này thậm chí cũng chẳng thèm liếc mắt lên nhìn Bàng Vũ Cầm nữa, mà chỉ hứ lên một tiếng nói: “Ngươi muốn nói gì thì nói, ta không thèm đôi co với ngươi làm gì! Nhưng cũng phải có tiền mới mua nổi gạo chứ đúng không? Gạo của nhà ta dĩ nhiên ăn vào chắc chắn không thể nào sống lâu muôn tuổi được! Nhưng mà không ăn thì e rằng…Ha ha ha! Thôi đi đi! Mau đi ra chỗ khác đi, đừng đứng ở đây mà ám cửa hàng ta nữa, đi đi cho ta còn bán hàng, thật đúng là! Nhìn bộ dạng nghèo rớt mùng tơi của mấy người mà cũng đòi đi mua gạo hả? Mau ra chỗ Châu Nha xếp hàng nhận cháo miễn phí mà ăn đi!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong cười lạnh nói: “Vậy thì ngươi nói cho chúng ta nghe xem giá gạo của ngươi rốt cuộc là bao nhiêu, để xem xem chúng ta có mua nổi hay không?”

Gã bán hàng lúc này vẫn tỏ vẻ khinh mạn Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân, gã liền thuận tay đưa ra vốc một vốc gạo lên rồi từ từ thả nó xuống, miệt thị hai người trước mặt gã nói: “Ngươi đã nhìn kỹ chưa? Chỉ một vốc cỏn con này thôi ngươi cũng phải trả cho ta mười đồng đấy, thế nào ngươi có tiền để mua gạo chứ?” Gã bán gạo nói xong bèn xua tay ra đuổi, vẻ mặt vô cùng khó chịu, thầm nghĩ đúng là bọn khố rách áo ôm, không có tiền mà cũng bày đặt vào đây mua gạo.

Vương Triều Vân đang định tiến lên nói vài câu thì mấy tên thị vệ đi theo sau bảo vệ cho hai người lúc này liền tiến tới trước mặt của gã bán gạo, sắc mặt đanh lại, gã bán gạo kia vừa nhìn thấy thị vệ thì tưởng họ vào đây mua gạo, không hề biết rằng mấy gã thị vệ này là người của Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân, nên khuôn mặt vẫn câng câng lên vẫy tay ra đuổi hai người ra khỏi nhà, sau đó lại quay sang mấy tên thị vệ tươi cười nói: “Ôi! Mấy vị quân gia đến mua gạo đó hả? Mờ các vị vào xem gạo!” Gã bán gạo nói xong, liền quay đầu lại thấy Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân vẫn còn đứng đó thì tức giận cau mày nói: “Này! Ta đã bảo mấy người đi rồi cơ mà! Sao hai người vẫn còn đứng ở đây vậy? Mau đi ra chỗ khác cho ta bán hàng nhanh lên!”

Mấy tên thị vệ lúc này đã lửa giận bốc lên ngùn ngụt, đang định gi­ang cho gã bán gạo kia một cái tát nảy lửa thì Bàng Vũ Cầm vội vã lên tiếng nói: “Không được phép đánh người vô cớ như vậy!” Mấy tên thị vệ kia nghe thấy Bàng Vũ Cầm quát lên như vậy, bèn vội vã lui ra đằng sau, không dám ho he gì nữa.

Gã bán gạo không ngờ thanh thế của Bàng Vũ Cầm lại to lớn đến như vậy thì sợ hãi đưa mắt lên nhìn ra bên ngoài, lúc này gã mới phát hiện bên cạnh Vương Triều Vân giờ đây xuất hiện thêm một vị phu nhân điệu bộ trông vô cùng cao quý, xem ra người này là chủ nhân của gã thị vệ kia, gã bán gạo bất giác giật thót mình kinh hãi, hắn không ngờ mình đã vô tình thất lễ với vị phu nhân cao quý này, may mà nàng ta ngăn chặn kịp thời, chứ nếu không chắc ốm đòn với mấy tên thị vệ này mất, nghĩ vậy gã bán gạo vội vã mỉm cười xiểm nịnh chạy đến đon đả mời chào.

“Có chuyện gì thế? Ai vừa làm ầm ĩ ở đây vậy hả?” Lời nói vừa dứt, thì một người trung niên béo tròn trùng trục bước ra từ sau quầy, có lẽ người này là chưởng quầy của tiệm bán gạo này. Khuôn mặt của ông ta tròn trịa như cái bánh bao, nung núc toàn thịt, hai mắt híp tịt lại như hai sợi chỉ mảnh, béo tu tu chạy ra ngoài, ông ta có lẽ tưởng là có người đến đây làm loạn nên đang định phát tiết thì bỗng nhiên trông thấy mấy gã thị vệ đứng ở đó liền chột dạ không dám ho he nữa. Ông ta lúc này nhanh mắt trông thấy một vị phu nhân cao quý đứng gần đó, trông cách ăn mặc cũng thuộc vào dạng có tiền liền hiểu ra ngay vấn đề, lập tức lên tiếng chửi gã bán gạo kia mấy câu, rồi hai mắt cười híp tịt lại, chạy ra nghênh đón Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân nói: “Nhị vị phu nhân và mấy vị quân gia đến đây mua gạo phải không ạ?”

Bàng Vũ Cầm thấy gã chưởng quầy niềm nở với mình như vậy, thì lạnh lùng nói: “Người bán hàng của ông cũng nói rồi, chúng tôi không có đủ tiền mà mua gạo ở cửa hàng của ông, không những vậy anh ta còn muốn đuổi chúng tôi đi ra khỏi đây nữa!”

Chưởng quầy tiệm gạo nghe vậy thì vội vã giải thích: “Xin phu nhân đừng chấp nhặt đứa tiểu nhân đó! Tên tiểu nhị này của tôi cũng vừa mới đến đây làm không lâu, nó không hiểu chuyện, nên mới đắc tội với nhị vị phu nhân…à không nhị vị tiểu thư, mong nhị vị tiểu thư hãy rộng lòng tha thứ!”

Bàng Vũ Cầm nói: “Ha ha! Cũng chẳng sao cả! Tên tiểu nhị của ngươi còn nói rằng chúng ta chỉ cần đến Châu Nha xếp hàng lãnh cháo cứu tế của triều đình là được rồi! Trên người bọn ta bây giờ đúng là không mang đủ tiền để mua gạo của nhà ngươi, chúng ta bây giờ phải đi lĩnh cháo cứu tế đây!” Bàng Vũ Cầm nói xong bèn kéo lấy tay áo của Vương Triều Vân đi ra khỏi tiệm gạo.

Gã chưởng quầy kia lúc này mới trông thấy cung cách ăn mặc sang trọng của Bàng Vũ Cầm, thì đoán ra ngay được nàng chắc chắn là tiểu thư con nhà có tiền, bây giờ tình hình làm ăn buôn bán vô cùng khó khăn, sau khi chiến tranh kết thúc thì những nhà có tiền mua gạo đúng là không còn nhiều nữa. Vì vậy, khi gã chưởng quầy trông thấy Bàng Vũ Cầm chẳng khác nào bắt được vàng cả, con cá sộp này sao lại có thể thoát đi một cách dễ dàng như thế được! Gã liền quay sang tên tiểu nhị đứng bên cạnh mình tức giận đạp luôn một phát vào mông hắn ta, rồi vội vã chạy đuổi theo Bàng Vũ Cầm nói: “Nhị vị tiểu thư xin dừng bước! Tiệm gạo của ta có thể nói là rẻ nhất ở Nhã Châu rồi đấy, hơn nữa tất cả đều là gạo mới, không giống với loại gạo cho vay mượn trong công ty Huệ Dân đâu. Huệ Dân toàn cho người ta vay mượn các loại gạo tồn kho để mấy năm nay rồi, mốc meo hết cả, bọn họ làm ăn khuất tất như vậy mà cũng chẳng biết xấu hổ là gì nữa!”

Bàng Vũ Cầm vừa nghe đến gã chưởng quầy kia nhắc đến công ty Huệ Dân của phu quân mình thì lập tức dừng chân lại, sau đó từ từ quay người lại, nhìn thẳng vào mặt ông ta hỏi: “Ngươi nói cái gì cơ? Gạo của Huệ Dân cho dân chúng vay mượn toàn là gạo tồn kho, mốc meo lâu năm ư?”

“Ồ! Đó là chuyện dĩ nhiên rồi! Tiểu thư vào trong này xem xem gạo của tôi ra sao đã! Đảm bảo với tiểu thư rằng, chỉ cần vốc một nắm lên ngửi thôi là mùi thơm đã thơm nức cả căn phòng lên rồi!” Gã chưởng quầy nói xong bèn ra ý cho tên tiểu nhị vác một bị gạo mang đến, rồi sau đó đặt xuống ngay dưới chân của Bàng Vũ Cầm nói: “Cửa hàng của tôi cũng chỉ là nơi làm ăn buôn bán nhỏ! Cũng chỉ đủ kiếm ăn qua bữa mà thôi! Chúng tôi đúng là không đủ thực lực để đấu đá lại với những hội người buôn gạo kia. Nhưng chúng tôi không bao giờ kiếm tiền một cách mất lương tâm như bọn họ cả, tiểu thư xem, gạo của chúng tôi thế này có tốt không?”

Bàng Vũ Cầm không nói gì chỉ đưa tay ra nắm lấy một vốc gạo, sau đó vo vo lại vào nhau, rồi lạnh lùng hỏi: “Một bịch gạo như thế này thì tầm bao nhiêu tiền vậy?”

Tên tiểu nhị đứng ngay cạnh gã chưởng quầy không đợi cho ông chủ của mình kịp lên tiếng trả lời đã lớn tiếng đáp: “Cũng không đắt lắm, chỉ tầm năm lượng bạc mà thôi!”

Năm lượng bạc thời này thì có lẽ cũng ngang tầm năm ngàn nhân dân tệ thời hiện đại (mười lăm triệu tiền VNĐ), một bị gạo mà tận năm lạng bạc, đúng là giá trên trời.

Lương của Tô Thức ngày trước khi còn làm Đoàn Luyện Phó Sứ ở Hoàng Châu thì một tháng cũng chỉ mới có năm trăm đồng, vậy mà một bịch gạo ở đây tận năm lượng bạc, cũng đồng nghĩa với việc Tô Thức phải dành dụm một năm trời mới có đủ tiền để mua bịch gạo này.

Vương Triều Vân đứng cạnh đó kinh hãi kêu lên: “Năm lượng bạc?”

Gã tiểu nhị kia lại được dịp nhếch mép lên cười một cách ngạo nghễ, nhưng lần này gã không dám nói gì cả, vì chỉ cần gã nói ra thì mấy tên thị vệ kia sẽ cho hắn không có răng để húp cháo nữa. Còn gã chưởng quầy kia thì chỉ quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Ha ha! Đúng là gạo này hơi đắt một chút, nhưng tiểu thư cũng biết rồi đấy, trước mắt vụ mùa chưa đến, thóc gạo khan hiếm, quân Tây Sơn đến đây cũng cướp bóc, thiêu đốt đi không biết bao nhiêu là lương thực, thóc gạo, chính vì vậy mà chúng tôi phải trèo đèo vượt núi mới nhập được số thóc này về, do vậy nó mới đắt như vậy!”

Vương Triều Vân theo phản xạ tự nhiên, đưa tay mình lên nắn nắn cái bóp tiền trong tay mình e dè nói: “Sao giá gạo lại có thể đắt như vậy được!”

Mấy tên thị vệ đứng ở đằng sau lưng lúc này mới tiến đến cúi người nói với Vương Triều Vân: “Bẩm phu nhân! Phu nhân đừng mua gạo của bọn họ nữa, công ty cho vay gạo của Đỗ đại nhân rẻ hơn của bọn họ rất nhiều!”

Vương Triều Vân lắc đầu nói: “Ta không thể đến đó vay gạo của Đỗ đại nhân được, ông ấy nhất định sẽ không lấy tiền của ta đâu!”

Gã chưởng quầy béo kia đứng cạnh đó mắt chữ o, mồm chữ a không biết nên làm thế nào cả, rồi đột nhiên ông ta cầm luôn bịch gạo lên, cúi người đi đến trước mặt của Vương Triều Vân nói: “Phu nhân! Tất cả mọi người ở đây đều là làng xóm láng giềng với nhau cả, xin phu nhân đừng để ý quá như vậy, nếu như phu nhân đang gặp khó khăn thì xin phu nhân cứ cầm lấy bịch gạo này của tại hạ, khi nào có tiền phu nhân đến trả sau cũng không muộn!”

“Cái này…Cái này nhất quyết không được!” Vương Triều Vân đưa tay lên bóp tiền của mình, nắn nắn hai ba cái, chần chừ do dự không biết nên làm thế nào cho phải cả.

Gã chưởng quầy kia có đôi tai vô cùng thính nên khi nghe trong bóp tiền của Vương Triều Vân kêu lên lạo xạo, thì cũng đoán được trong đó chỉ có tầm mấy trăm đồng mà thôi, vì vậy mà ông ta nhanh chóng dúi bịch gạo vào trong tay của Vương Triều Vân, rồi đưa tay ra cầm lấy cái bóp tiền nói: “Bẩm phu nhân! Không sao cả đâu! Chỗ tiền này cũng đủ rồi, bịch gạo này xin được gửi cho phu nhân!”

Gã tiểu nhị đứng bên cạnh cũng nghe thấy bên trong bóp tiền của Vương Triều Vân tiền không đủ, nên vội vàng đưa tay ra kéo lấy tay áo của chưởng quầy béo nói: “Chưởng quầy! Đừng!”

“Bên trong đó tiền ít lắm” Gã tiểu nhị lấm lét nói.

“Cút đi cho khuất mắt ta nhanh lên!” Gã chưởng quầy béo quát lên, rồi đưa tay lên đập một cái rõ đau lên đầu gã tiểu nhị kia, gã tiểu nhị kêu lên một tiếng ối đau quá, rồi luôn miệng càu nhàu: “Chưởng quầy đánh con làm gì cơ chứ? Trong bóp của người đúng là không có tiền thật mà!”

Gã chưởng quầy béo lúc này tức đến nổ đom đóm mắt, ông ta nghiến răng ken két quát lên: “Mày hiểu cái gì! Cút!”

Gã tiểu nhị thấy bộ dạng gã chưởng quầy béo như vậy thì kinh hãi chạy biến ra chỗ khác đứng, Vương Triều Vân cũng không nhận lấy bịch gạo, mà cầm lấy luôn cái bóp tiền, rồi cúi đầu bước ra khỏi tiệm gạo.

Bàng Vũ Cầm thấy Vương Triều Vân tủi hổ bước ra ngoài tiệm gạo như vậy thì cũng tức giận vô cùng, nàng liền quay sang gã tiểu nhị kia hứ lên một tiếng rồi cũng bước theo sau, mấy đứa thị vệ liền đưa con mắt cháy rực lửa giận nhìn thẳng vào gã tiểu nhị kia, sau đó mới chịu đi ra.

Gã chưởng quầy béo vội vã chạy đuổi theo, gọi liền mấy câu nữa, nhưng Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân không hề để ý đến ông ta nữa, chỉ lạnh lùng bước đi mà không thèm quay đầu lại nhìn.

Gã tiểu nhị lúc này vội vã chạy đến bên chưởng quầy của hắn nói: “Chưởng quầy! Bọn chúng chỉ là bọn khố rách áo ôm thôi mà, có gì mà phải…” Gã tiểu nhị chưa kịp nói hết câu thì bốp, một cái tát như trời giáng phạt thẳng vào lên khuôn mặt lơ láo, mất dạy của hắn.

Tiểu nhị sau khi ăn cái tát liền thấy trước mắt mình trời đất tối sầm lại, bên tai vẫn văng vẳng nghe thấy tiếng chửi bới của gã chưởng quầy béo: “Mày muốn tao tức chết hả? Mày đã nhìn thấy đứa nào khố rách áo ôm mà mang theo bên người một đống thị vệ chưa hả, đồ ngu?” Gã chưởng quầy lúc này tức đến độ hai mắt đỏ ngầu, cả thân hình run lên bần bật.

“Hả?” Gã tiểu nhị lúc này mới kịp hoàn hồn sau cú tát bất ngờ của chưởng quầy: “Ý của chưởng quầy là mấy vị quân gia vừa rồi là…là…tất cả đều là bọn khố rách áo ôm…”

“Khố rách áo ôm cái ông bà, ông vải nhà mày! Thằng ngu!” Gã chưởng quầy lại tặng cho tên tiểu nhị một cái tát nữa, sau đó gã quay ra cái nơi mà hình bóng của Bàng Vũ Cầm và Vương Triều Vân đã dần khuất ở nơi xa nói: “Ta nghe nói là quan Chi Châu mới nhậm chức ở đây vô cùng thanh liêm, yêu dân như con, ông ấy còn đem cả cái Châu Nha của mình ra làm chỗ nương thân cho những người dân mất nhà, mất cửa trong chiến tranh, sau đó còn lấy lương thực của quân đội ra để cứu tế cho dân chúng nữa. Người thiếu phụ lúc nãy, ăn mặc giản dị chắc là phu nhân của Chi Châu đại nhân! Còn người thiếu phụ kia, thì cử chỉ chắc chắn không phải là dân chúng thông thường, hơn nữa da trắng, tay thon tuyệt đối là một tiểu thư con nhà giàu, e rằng vị phu nhân đó chính là phu nhân của Câu Quản Đỗ đại nhân rồi! Mẹ kiếp! Ngươi hôm nay đắc tội với hai người bọn họ thì cái tiệm gạo này của ta về sau còn làm ăn thế nào được nữa, ông mày hôm nay phải đánh chết cái thằng ngu như mày!”

Gã chưởng quầy béo càng nói càng tức, càng tức lại càng muốn phát tiết, gã liền moi luôn cái đòn gánh ở trong phòng ra phang vào đầu tên tiểu nhị kia, tên tiểu nhị kia sợ hãi bèn ôm đầu né tránh, mồm mép không ngừng kêu lên thất thanh, thế là phút chốc cái tiệm bán gạo này trở nên ầm ĩ, trong đó có hai người một béo một gầy đuổi đánh nhau loạn xạ cả lên.

Vương Triều Vân lại đi sang tiệm gạo khác hỏi mua gạo, sau khi hỏi rõ giá cả, thì đều thấy giá cả nơi nào cũng như nhau, nàng cảm thấy buồn bã vô cùng, nhưng cũng may bây giờ Tô Thức mới thăng chức lên Chi Châu, nên bổng lộc cũng tăng lên không ít, chính vì thế mà Vương Triều Vân vẫn cố gắng cắn răng ra mua lấy một bịch gạo, rồi về nấu cơm trộn với ít rau rừng ăn.

Bàng Vũ Cầm đứng cạnh đó cũng không mua giúp cho Vương Triều Vân, bởi vì nàng biết Vương Triều Vân sẽ một mực từ chối, không chịu chấp nhận việc làm của nàng. Khi hai người về đến Nha Phủ của mình thì đã thấy Đỗ Văn Hạo và Tô Thức đang ngồi bàn bạc công việc cứu tế cho dân chúng, Bàng Vũ Cầm liền ngay lập tức kể lại câu chuyện hôm nay nàng đi chợ cho Đỗ Văn Hạo nghe.

Bàng Vũ Cầm cứ tưởng Đỗ Văn Hạo sẽ cảm thấy kinh ngạc, nhưng nàng không ngờ rằng cả Đỗ Văn Hạo lẫn Tô Thức đều chỉ nhìn nhau mà cười, không có một chút gì kinh ngạc cả.

Vương Triều Vân thấy vậy bèn quay sang nói với Tô Thức: “Lão gia! Sao lão gia và Đỗ đại nhân đều không có phản ứng gì hết vậy? Vị chưởng quầy đó nói hai người cho dân chúng vay gạo toàn là gạo mốc, gạo cũ cả thôi!”

“Dĩ nhiên tất cả đều là gạo cũ rồi, bây giờ trong kho làm gì có nhiều gạo mới đến như vậy cơ chứ? Những loại gạo mà cho dân chúng vay mượn dĩ nhiên vì thế mà rẻ hơn gạo mới ở trong các tiệm gạo rồi, chỉ có gạo cũ mới rẻ, nhưng quan trọng nhất là nó vẫn ăn được, ta cũng đã kiểm tra hết rồi, tất cả gạo cho vay của chúng ta đều được bảo tồn vô cùng tốt, không hề có chuyện bị mốc, nàng cứ yên tâm!” Tô Thức đủng đỉnh giảng giải cho Vương Triều Vân nghe.

“Nhưng công ty cho vay mượn của lão gia nếu dân chúng không có vật thế chấp và người bảo lãnh thì bọn họ không thể nào vay được cả, còn Châu Nha cung cấp cháo miễn phí cũng chỉ được một bộ phận nhỏ người dân nhận được mà thôi, hầu hết mọi người đi xếp hàng nhận cháo cứu tế, thì cứ đến lượt mình lại hết, trong thành còn rất nhiều dân chúng đang bị đói bụng kia kìa!” Vương Triều Vân bức xúc nói.

“Cái này thì chúng ta đều biết” Tô Thức trả lời.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới cười khổ nói: “Trước lúc hai người quay về đây, Lâm Thanh Đại và Liên Nhi cũng đến đây nói rồi, hai người đem chuyện mua rau cải ra nói cho ta biết, nàng biết bây giờ giá rau cải bao nhiêu tiền không? Hai mươi đồng đó, không những vậy các thứ khác đều lên giá vô cùng kinh khủng, ví dụ như muối hai mươi đồng một gói, Thanh Đại và Liên Nhi cũng mua về và đưa cho ta xem rồi!”

Vương Triều Vân thấy vậy bèn nói: “Vậy thế tại sao Đỗ đại nhân và lão gia vẫn còn ngồi đây mà cười được cơ chứ?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Đúng vậy! Chuyện này cũng không nên cười! Tình hình Nhã Châu bây giờ hoang tàn đổ nát, vật chất, tài nguyên, lương thực cái gì cũng khan hiếm cả. Chính vì như vậy mà vật giá mới tăng lên chóng mặt như vậy, Hàn tướng quân vận chuyển lương thực cứu tế đến đây cũng chỉ đủ đầu tư vào công ty Huệ Dân mà thôi, chúng ta không thể tự tiện đem nó ra dùng để cứu tế miễn phí được cả, hơn nữa hội buôn gạo cũng đã mở kho cứu tế, và kho gạo của bọn họ, cũng như của quân đội đều dã thâm hụt đi hơn nửa rồi! Cái này đối với nạn dân đông đúc ở trong thành mà nói thì chẳng khác nào như muối bỏ bể cả. Ngoại trừ lương thực, thóc gạo ra các đồ dùng thường ngày cũng thiếu thốn vô cùng, hiện nay vật giá cao đến mức mấy người như các nàng còn phải kêu là đắt thì huống hồ là dân chúng, ta và Tô đại nhân cũng đang tìm cách giải quyết vấn đề này!”

Đúng lúc này thì bên ngoài có người chạy vào bẩm báo: “Bẩm nhị vị đại nhân! Có một người tự xưng là Tiền chưởng quầy của tiệm gạo Vạn Thịnh mong được vào tiếp kiến Đỗ đại nhân!”

“Đến đúng lúc lắm!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đứng dậy đi ra ngoài.

Khi Đỗ Văn Hạo bước ra ngoài cửa, thì thấy cách đó không xa có một cỗ xe ngựa chở đầy lương thực đứng đợi ở đó, trên xe ngựa lúc này có một người mặc chiếc áo choàng dài màu trắng, người này có khuôn mặt dài như ngựa, hai hàng lông mày rậm rạp, thấy Đỗ Văn Hạo đi đến vội vã cúi người thi lễ, khi ông ta mỉm cười thì hở cả hai cái răng vàng chói lọi: “Thảo dân tham kiến Câu Quản đại nhân! Thảo Dân Tiền Dược, không mời tự đến mong đại nhân xá tội!”

Đỗ Văn Hạo liền chỉ vào chiếc xe ngựa hỏi: “Sao vậy? Ngay cả ngươi mà cũng biết là nhà của ta đang thiếu gạo thổi cơm hay sao?”

Tiền Dược thấy vậy thì xu nịnh nói: “Trong nhà đại nhân có nhiều gạo như vậy lại còn lo không có thổi cơm hay sao! Thảo dân có đến tìm đại nhân mấy lần liền, nhưng lần nào đến cũng thấy đại nhân đang bận bịu công việc nên thảo dân không dám làm phiền. Được đại nhân làm quan phụ mẫu ở Nhã Châu, thì dân chúng ở đây đúng là rất có phúc đó ạ!…”

“Thôi, thôi! Được rồi! Ngươi nói đi, ngươi đến tìm ta có chuyện gì vậy?” Đỗ Văn Hạo cắt ngang câu nói của Tiền Dược, nét mặt trở nên nghiêm túc, hắn chẳng muốn dây dưa lằng nhăng với gã này thêm lúc nào nữa, nếu mà cứ để gã nịnh bợ thêm vài câu nữa chắc mình thành thánh sống mất. Mình còn bao nhiêu việc phải giải quyết, làm gì có thời gi­an để nghe mấy cái câu nói rỗng tuếch này đâu cơ chứ.

Tiền Dược nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy bèn vội vã nói: “Đây là một chút lòng thành của tiệm gạo Vạn Thịnh, mong Câu Quản đại nhân vui lòng thu nạp!”

Đỗ Văn Hạo bước lên phía trước quan sát xe ngựa, rồi hắn đưa tay lên đếm, sau đó quay sang Tiền Dược nói: “Cái xe này của ngươi e rằng phải tiêu mất mấy trăm lạng đấy nhỉ!”

Tiền Dược nghe vậy vội đáp: “Đỗ đại nhân chê cười thảo dân rồi! Tiệm gạo Vạn Thịnh từ trước đến giờ đều nhập gạo hầu hết từ dân chúng cả, ở nhà của thảo dân vẫn còn ba mẫu đất nữa, vì thế mà cũng không tốn kém đến mức như đại nhân nói đâu ạ!”

Đỗ Văn Hạo nhìn vào những bao thóc căng đầy nằm trên xe ngựa, bèn cười nói: “Ngươi có biết rằng trong căn phòng kia còn một vị Chi Châu đại nhân đang ngồi trong đó không? Ta nghĩ ngươi nên tặng thêm cho ông ta đi! Ngươi chỉ tặng cho mỗi mình ta mà quên mất ông ta cũng là một Chi Châu huyện thì e rằng ngươi đã đắc tội với Chi Châu đại nhân rồi đây!”

Tiền Dược nghe xong thì sững người lại, nhưng rất nhanh gã liền đưa tay lên huýt sáo ra lệnh, ngay lập tức từ trong rừng bước ra một người kéo theo đằng sau một chiếc xe ngựa chở đầy thóc gạo đi đến, Tiền Dược lại nói tiếp: “Thảo Dân đa tạ đại nhân đã nhắc nhở, ha ha ha! Nếu Đỗ đại nhân đã đồng ý nhận cho tại hạ, thì mong đại nhân cũng có vài lời tốt đẹp hộ thảo dân trước mặt của Chi Châu đại nhân được không ạ?”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới đưa mắt lên quan sát kỹ gã Tiền Duyệt này, hắn thầm nghĩ đúng là họ thế nào thì người thế đấy, có tiền thì mua tiên cũng được. Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn mỉm cười lên tiếng gọi mọi người trong nhà lại: “Đem tất cả lương thực ở đây dỡ xuống rồi vác vào trong kho!”

Tiền Dược nghe xong thì mừng rỡ vô cùng, hắn liền đi xuống giúp đỡ mấy đứa người ở trong nhà của Đỗ Văn Hạo bê gạo vào trong sân, nhưng hắn cũng không dám đưa mắt lên nhìn trong sân lúc này có ai đang ngồi ở đó, sau khi bốc vác xong thì Tiền Dược liền lên tiếng cáo từ ra về.

Đỗ Văn Hạo sau khi đưa Tiền Dược đi ra ngoài cửa, dõi mắt theo hai cỗ xe ngựa của hắn dần dần khuất dần, trên miệng hắn lúc này liền nở một nụ cười vô cùng khó hiểu.

“Văn Hạo! Sao chàng lại có thể làm như vậy…” Lâm Thanh Đại đi đến bên Đỗ Văn Hạo hỏi hắn đầy vẻ bất mãn và nghi ngờ.

Nhưng, Đỗ Văn Hạo chỉ quay sang Lâm Thanh Đại cười mà không đáp.

Người ở trong nhà của hắn lúc này mới nói: “Thiếu gia! Lương thực nhiều như vậy, bọn con đặt ở đâu cho nó hợp lý bây giờ?”

“Những bao lương thực này tạm thời cứ để trong hai phòng của bốn vị phu nhân cái đã!” Đỗ Văn Hạo nói.

Lúc này, Tô Thức và Vương Triều Vân đã bước ra đến bên ngoài.

Tô Thức sau khi nhìn cả một sân chất đầy lương thực, ông cũng biết Đỗ Văn Hạo không phải là một tham quan, ông biết hắn làm vậy chắc chắn là có một dụng ý khác, nên cũng không phàn nàn gì cả.

Trong bữa tối, lại có thêm mấy người làm ăn buôn bán­lục đục đến tặng hắn lụa là, gấm vóc, cùng với một ít rau tươi, Đỗ Văn Hạo thu nhận hết một cách vô cùng tự nhiên.

Vương Triều Vân lúc này tỏ ra vô cùng lo lắng, nàng liền đem ý nghĩ của mình ra nói với Tô Thức.

“Lão gia! Đỗ đại nhân làm sao vậy? Nếu mà Đỗ đại nhân mà cứ làm như vậy thì dân chúng sẽ nhìn chúng ta bằng con mắt nào đây?”

Tô Thức không trả lời câu hỏi của Vương Triều Vân mà kéo nàng vào ngồi sát bên cạnh mình, sau đó đặt hai tay của nàng lên đùi của mình, ông không trả lời câu hỏi của nàng, mà chỉ đưa tay nàng lên vuốt nhẹ nói: “Nàng dạo gần đây vất vả quá! Chỉ mới có một tháng trời thôi mà bàn tay của nàng đã thô ráp như vậy rồi!” Tô Thức nói một giọng vô cùng thương xót.

Bên ngoài sân ba đứa nhỏ con của hai người vẫn đang nô đùa vui vẻ, thỉnh thoảng lại có mùi rau thơm bay vào trong phòng thơm phức, Vương Triều Vân bèn dựa đầu của mình lên vai của Tô Thức, trán của nàng như vô tình, hay hữu ý cứ cọ vào bộ râu cảu ông ta nói: “Thiếp không vất vả gì đâu! Chỉ cần có thể được đi theo lão gia thì nỗi khổ nào thiếp cũng đều thấy nó ngọt ngào vô cùng!”

Tô Thức thầm cảm thấy hạnh phúc, rồi đưa tay mình ra cầm lấy bàn tay của Vương Triều Vân, âm thầm lặng lẽ một hồi lâu rồi nói: “Ta cũng không biết Vân Phàm huynh đang làm chuyện gì nữa, nhưng từ hồi gặp huynh ấy đến giờ, nhất cử nhất động của huynh ấy ta đều biết, huynh ấy dám nói dám làm, rất mạnh mẽ, nhưng không bao giờ tham tiền cả. Vân Phàm huynh chưa bao giờ chèn ép dân chúng, không hề kênh kiệu ra dáng làm quan, thấu hiểu lòng dân, không hề có chút gì tư lợi cả. Hơn nữa, theo ta được biết thì huynh ấy chữa bệnh cũng đã kiếm được rất nhiều tiền rồi, Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu ban tặng châu báu ngọc ngà cho huynh ấy nhiều không thể đếm xuể được! Lẽ nào huynh ấy lại đi tham mấy cái thứ tầm thường này sao? Vân Phàm huynh làm như vậy chắc chắn là có dụng ý riêng của mình!”

Vương Triều Vân nghe xong liền nói: “Thiếp từ trước đến giờ cũng thấy Đỗ đại nhân là người như lão gia nói, nhưng có những người càng ngày càng tham, Đỗ đại nhân không biết…?”

Tô Thức thấy vậy thì mỉm cười rồi nhìn Vương Triều Vân nói: “Nếu như Vân Phàm huynh đã thay đổi thành người xấu như vậy, thì việc gì huynh ấy phải cố tình diễn kịch trước mặt mọi người làm gì, hơn nữa, huynh ấy có thể lấy những lý do khác mà đem những đồ sang chỗ khác mà cất nó lại, như vậy, như vậy thì cũng chẳng bị mọi người dị nghị gì cả!”

Vương Triều Vân nghe vậy bèn cong môi lên nói: “Dù sao thì thiếp cũng không biết Đỗ đại nhân đang nghĩ cái gì? Hy vọng ông ta giống với những gì mà lão gia đã nói, mong rằng ông ấy đang có một mục đích khác!”

Nhã Châu lúc này bỗng nhiên nổi lên một tin đồn thất thiệt, đó là vị Câu Quản đại nhân mới đến nhậm chức là một con người hám tiền, đầu óc vô cùng tư lợi, nói rằng ông quan này vì muốn tàng trữ vật phẩm do các phú thương đem tặng, mà đã cho xây dựng cả một cái kho để chứa, thậm chí còn có người nói Đỗ Văn Hạo ngoài mặt là đến đây cứu tế cho dân chúng, nhưng thực chất đến đây là để bòn rút, nhận tiền hối lộ là chính.

Sáng sớm ngày hôm nay, Bàng Vũ Cầm mặt mũi buồn bã cùng với Anh Tử đi từ chợ về đến phủ, trong lòng nàng lúc này đầy một bầu tâm sự, nên không để ý đến phía trước mặt mình là Vương Triều Vân, suýt chút nữa thì Bàng Vũ Cầm đâm thẳng vào nàng ta.

Vương Triều Vân trông thấy Bàng Vũ Cầm sa sầm nét mặt như vậy, bèn quay sang nhìn Anh Tử, nhưng Anh Tử không dám tra lời, bất đắc dĩ Vương Triều Vân bèn lên tiếng hỏi: “Anh Tử! Có phải ngươi làm cho phu nhân của ngươi tức giận như vậy không?”

Anh Tử vội đáp: “Nô tỳ không dám! Phu Nhân lúc nãy đi chợ, thì nghe thấy mọi người bàn tán về thiếu gia, do vậy…”

“Anh Tử!” Bàng Vũ Cầm quay lại quát Anh Tử lên một câu, Anh Tử sợ quá không dám nói thêm câu nào nữa cả.

Vương Triều Vân lập tức hiểu ra luôn vấn đề, nàng liền ra ý cho Anh Tử đem rau vào trong nhà trước, sau đó liền tiến tới cầm lấy tay của Bàng Vũ Cầm nói: “Đi nào! Hôm qua tỷ và Xảo Nhi đi ra bờ sông rửa rau, thì phát hiện ra một loại rau quả mọc ở dưới nước đem về nấu lên ăn rất ngon, vừa thơm vừa ngọt, lại vừa miệng nữa! Hôm qua tỷ mới hái đem về cho lão gia và đại tỷ (Vương Nhuận Chi) ăn thử, hai người bọn họ đều khen ngon, hôm nay chúng ta đi ra đó hái thêm một ít mang về nhé!” Nói xong Vương Triều Vân bèn kéo lấy tay của Bàng Vũ Cầm lôi đi.

Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn nói: “Vân tỷ! Muội hôm nay không muốn đi chút nào cả, muội cảm thấy khó chịu trong người lắm! Muội muốn nằm nghỉ một chút!”

Vương Triều Vân biết Bàng Vũ Cầm đang rất buồn nên nàng nhất quyết phải kéo Bàng Vũ Câm đi bằng được: “Lẽ nào muội lại để cho tỷ đi một mình hay sao? Thôi đi nào! Đại tỷ và Thanh Đại đang phơi thuốc ở hậu viện, không có thời gi­an đi cùng chúng ta rồi. Muội cũng biết Phi Nhi và Liên Nhi thì dính với nhau như hình với bóng ấy, hơn nữa hai đứa chúng nó tỷ cũng không hay nói chuyện, chỉ còn mỗi mình muội thôi! Nào đi thôi!” Vương Triều Vân cố gắng thuyết phục Bàng Vũ Cầm.

Bàng Vũ Cầm thấy vậy chỉ biết thở dài, để mặc cho Vương Triều Vân kéo mình đi đâu thì đi.

Khi đến bên bờ sông, Bàng Vũ Cầm ngồi lên một tảng đá gần đó rồi cởi giầy để sang một bên, sau đó đưa cả hai chân ngâm xuống dưới nước. Vương Triều Vân cũng làm y hệt như Bàng Vũ Cầm đều thả hai chân của mình xuống dưới dòng nước mát lạnh, đột nhiên Vương Triều Vân hét lên một tiếng thất thanh, Bàng Vũ Cầm đang mải mê chạy theo suy nghĩ của mình cũng phải giật mình choàng tỉnh lại, nàng vội vã hỏi: “Vân tỷ! Tỷ bị làm sao vậy?”

Vương Triều Vân phì cười nói: “Tỷ cứ tưởng muội không còn để ý đến bên cạnh mình đang có người ngồi cơ chứ!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong thì ngượng ngùng mím môi lại cười, sau đó đưa tay ra đẩy nhẹ Vương Triều Vân rồi noi: “Vân Tỷ! Tỷ xấu thật đấy! Muội cứ tưởng tỷ bị rắn nước nó cắn cơ!”

Vương Triều Vân nghe vậy thì bật cười khanh khách nói: “Thôi! Biết cười lên là tốt rồi đấy, đừng để ý người ta nói cái gì cả, người ta không trông thấy gì, không nghe thấy gì dĩ nhiên sẽ nghĩ ra thêm nhiều chuyện hoang đường khác rồi thêm mắm dặm muối vào, muội có nghe đến một tin đồn rằng, ngày xưa có một người bị què, nhưng một hôm có một tin đồn nói rằng người ấy chạy rất nhanh, thế là một đồn mười, mười đồn trăm, mấy ngày hôm sau tất cả đều biết đên người đó với đôi chân của thần gió! Tất cả đều là tin đồn mà thôi, Đỗ đại nhân là phu quân của muội, muội phải tin ông ấy chứ!”

Bàng Vũ Cầm lúc này cúi đầu xuống nhìn vào đôi chân trắng ngần của mình đang bị mấy cây cỏ nước quấn vào xung quanh, cảm giác buồn buồn khó tả, nàng thở dài ra một hơi rồi nói: “Ngày Hoàng Thượng cho chàng đến đây nhậm chức, cha của muội vô cùng lo lắng, ông ấy nói rằng chàng làm Ngự Y cũng đã tốt lắm rồi, nhưng làm quan thì không phải ai cũng làm được cả, trong người chàng vẫn còn thiếu cái khí cốt để làm quan!”

Chương 320: Phong tiêu tiêu hề!

Vương Triều Vân nghe xong bèn trịnh trọng nói: “Cầm Nhi! Những người làm quan trong quan trường cần những thứ gì thì đều không thể tách rời được hai thứ là ngạo khí và khí cốt, đó là tiền đề để làm nên một người ngay thẳng, một người ngay thẳng chính khí mà làm quan thì dân chúng mới được nhờ! Còn làm quan mà thủ đoạn, tham ô, thì chỉ hại dân hại nước mà thôi!”

Bàng Vũ Cấp thấy vậy bèn đáp: “Vân tỷ nói đúng lắm, chính vì thế mà tỷ tỷ xem tướng công của muội bây giờ xem! Chàng không còn là một người ngay thẳng nữa, mà chàng đã biến chất rồi! Chàng đã biến thành một viên quan tham lam, sâu mọt của dân chúng!”

Vương Triều Vân nghe vậy thì mỉm cười, đưa ngón tay thon dài của mình lên chọc chọc vào vầng trán của Bàng Vũ Cầm nói: “Thế mà lúc nãy muội còn nói muội tin tưởng tướng công của mình cơ đấy! Đỗ đại nhân là người như thế nào có lẽ muội biết rõ hơn tỷ rất nhiều. Bây giờ ngay cả muội không tin tưởng con người của Đỗ đại nhân nữa, thì dân chúng làm sao mà lại không nghĩ Đỗ đại nhân là một người tham lam, bòn rút của dân chúng như vậy! Muội cũng đã nghĩ như vậy rồi, thì tỷ chắc cũng phải nghi ngờ Đỗ đại nhân đang lợi dụng chức quyền của mình để buôn gi­an bán lận, lấy tiền hối lộ đúng không?”

“Không phải! Không phải đâu! Tướng công của muội không phải là người như vậy! Chỉ là muội nghe người dân trong thành bàn tán đến chàng, nói chàng không ra một cái gì cả, nhưng còn chàng thì cứ để mặc ngoài tai, cứ xuề xòa để mặc cho dân chúng nói mình, muội thật không hiểu được tướng công của muội muốn làm cái gì nữa!”

Vương Triều Vân lúc này liền co đôi chân mình lên, rút khỏi mặt nước, sau đó đặt nó lên trên mặt tảng đá để mặc cho ánh nắng chiếu rọi vào đôi chân trắng nõn của mình, rồi nàng quay sang Bàng Vũ Cầm nói: “Việc gì cuối cùng cũng sẽ đế ngày sáng tỏ mà thôi! Việc muội cần làm nhất bây giờ là chuyên tâm đi tìm loại rau quả đó cùng với tỷ!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong thì bất giác hỏi lại: “Thật là có loại rau quả đó sao hả Vân tỷ?”

Vương Triều Vân lúc này đã đi xong giầy rồi, nghe Bàng Vũ Câm hỏi lại nàng liền quay đầu lại trả lời: “Dĩ nhiên rồi! Tỷ lừa muội để làm gì chứ! Muội đi giầy vào đi nhanh lên! Chúng ta bây giờ đi kiếm mỗi người một cành trúc, bởi vì loại quả đó nằm sâu dưới lớp bùn dưới sông, chính vì vậy mà chúng ta cần phải có một thứ dụng cụ để moi nó lên, lúc nãy chúng ta vội đi ra khỏi nhà quá mà tỷ quên mất không mang theo thứ để đào, nhưng tỷ thấy dùng cành trúc cũng được rồi!”

Bàng Vũ Cầm sau khi đi giầy xong thì nghe từ nơi xa có giọng nói của Tuyết Phi Nhi, nàng liền lên tiếng gọi, rất nhanh Tuyết Phi Nhi và Liên Nhi hai người liền chui ra ở khu rừng gần đó. Hai người liền vội vã đi đến chỗ Bàng Vũ Cầm, gió thu man mác thổi bay làn tóc xanh uốn lượn trong gió: “Nhị phu nhân, Cầm tỷ tỷ, hai người làm gì ở đây vậy?” Tuyết Phi Nhi gương mặt ửng đỏ chạy đến cầm lấy tay của Bàng Vũ Cầm ân cần hỏi, còn Liên Nhi thì chỉ im lặng ngoan ngoãn đứng ở gần đó mỉm cười không nói.

Vương Triều Vân liền lên tiếng đáp: “Cầm tỷ tỷ của hai người tâm trạng không được vui nên ta đưa Vũ Cầm ra đây ngắm cảnh, đi dạo cho đỡ buồn, ta cũng đang định tìm loại rau lạ ở đây, may quá có hai người ở đây rồi, chúng ta cùng đi tìm được không?”

Tuyết Phi Nhi nghe Vương Triều Vân nói Bàng Vũ Cầm có chuyện không vui như vậy, bèn lo lắng quay sang hỏi Bàng Vũ Cầm: “Cầm tỷ tỷ! Tỷ bị làm sao vậy?”

Bàng Vũ Cầm cũng thấy ngường ngượng chỉ lắc đầu nói: “Không có gì đâu, đừng nghe nhị phu nhân nói! Thôi! Chúng ta đi đào rau đi!”

Đỗ Văn Hạo mấy ngày hôm nay bận đến bù đầu bù cổ, dường như không ai là trông thấy bóng dáng của hắn ở đâu cả, cứ thoắt ẩn thoắt hiện, như một con trạch vậy.

Bây giờ các công trình kiến trúc trọng điểm trong thành Nhã Châu về cơ bản đã được hoàn tất, những người bị mất nhà trong chiến tranh, không nơi nương tựa giờ đây đều đã có nhà mới, xong đâu đấy Đỗ Văn Hạo lại kêu gọi những phú thương mở kho nấu cháo cứu tế them cho dân chúng.

Còn việc phòng chống bệnh truyền nhiễm cũng vô cùng thuận lợi, đội y tế được Đỗ Văn Hạo phái đi làm việc đều làm ăn vô cùng hiệu quả, bọn họ quán triệt hết tư tưởng đường lối mà Đỗ Văn Hạo đã vạch ra, bệnh truyền nhiễm Thương Hàn cũng được khống chế một cách có hiệu lực.

Mọi việc bây giờ đã dần dần đi vào quỹ đạo, Đỗ Văn Hạo lại bắt đầu nhắm vào việc phát triển nông nghiệp theo hướng đa chiều, còn có tên gọi là nông nghiệp lập thể.

Công việc đầu tiên trong nông nghiệp lập thể là Đỗ Văn Hạo phải tìm được hộ dân để thử nghiệm trước. Thế là hắn đi ra ngoài thành tìm đến một nhà nông dân có ao nước đàng hoàng, sau đó hắn liền truyền bá tư tưởng nông nghiệp lập thể là gì, cách thư xây dựng nông nghiệp lập thể như thế nào, mô hình vận hành nó ra sao cho nhà nông dân đó nghe. Nói cho cùng thì mô hình nông nghiệp lập thể này cũng đơn giản, chỉ cần lợi dụng hết nguồn tài nguyên mà mình có trong tay thì cái gì cũng có thể làm được.

Hộ nông dân kia sau khi nghe xong Đỗ Văn Hạo giảng giải thì tất cả đều há hốc mồm kinh ngạc, những thứ mà hắn nói đều vô cùng mới mẻ, và đơn giản, ai cũng nghĩ tại sao ngày trước mình không nghĩ ra nhỉ, thao tác nó cũng đơn giản, chẳng có gì nặng nhọc cả, nhưng lợi ích thu được lại vô cùng to lớn, xem ra sau này sẽ lợi nhuận sẽ tăng nhiều hơn xưa gấp mấy lần.

Sau khi hoàn thành công tác tìm điểm thử nghiệm nông nghiệp lập thể, Đỗ Văn Hạo liền triệu tập những hộ nông dân có kinh nghiệm lại vào với nhau, rồi đưa họ đến điểm thử nghiệm tiến hành làm mẫu, rồi giải thích cho họ nghe về mô hình nông nghiệp mới mẻ này.

Hiện trường giải thích bao giờ cũng có hiệu quả hơn là ngồi nghe giảng không, những hộ nông dân sau khi chứng kiến tận mắt những lý luận của Đỗ Văn Hạo được áp dụng ra sao, thì bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy tay chân, aimuốn ngay lập tức chạy về nhà của mình rồi thử nghiệm một phen, xem xem kết quả thu được sẽ ra sao.

Nông nghiệp lập thể là đường lối phát triển nông nghiệp vô cùng quan trọng của các hộ nông dân vùng núi, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo đặc biệt chú trọng đến nó, do vậy hắn thường hay thức khuya dậy sớm suốt ngày bận rộn với công việc đồng áng, sau khi tiến hành xong công tác tư tưởng, thì hắn lại quay ra chỉ đạo các hộ nông dân tiến hành thực tế.

Đúng vào lúc này, thì có một tin xấu bay đến chỗ của Hàn Tu, Hàn đại tướng quân.

Hàn Tu sau khi nhận được tin bèn cho gọi Đỗ Văn Hạo và Tô Thức cùng đến doanh trại quân đội của ông ta, sau đó đem bức thông điệp mật mở ra cho hai người cùng xem.

Đỗ Văn Hạo đưa bức thông điệp đó lên xem xong thì kinh hãi vô cùng, trong bức mật báo này nói đến các bộ lạc lân cận Tây Sơn đang tập trung binh lực lại hòng đoạt lại đất đai của bộ lạc Tây Sơn.

Sau một hồi thương thảo, Đỗ Văn Hạo hạ quyết tâm nói: “Bây giờ mà bẩm báo với triều đình để điều động Cấm Vệ Quân đến đây viện trợ chắc là không kịp rồi, chúng ta phải tìm biện pháp đối phó khác ngay, tại hạ nghĩ chúng nên dùng biện pháp cũ, đó là tự ý chiêu binh mãi mã, tăng thêm quân số để đối phó với tình hình hiện nay!”

Hàn Tu nghe xong thì im lặng, ngẫm nghĩ một lúc rồi mới chầm chậm nói: “Đỗ Ngự Y, chúng ta chiêu binh mãi mã phải có Thánh Chỉ của Hoàng Thượng mới làm được, Hoàng Thượng lo sợ nhất là các tướng biên ải tay nắm trọng binh, chính vì vậy mà Hoàng Thượng đã siết chặt, khống chế tướng tá biên cương cầm nắm binh, sau đó còn ban lệnh bất kỳ ai tự phép gia tăng quân số trong quân đội của mình sẽ bị chu di cửu tộc!”

Tô Thức thấy vậy cũng nói: “Đúng vậy! Vân Phàm huynh, lần trước chúng ta tự ý chiêu binh mãi mã, bổ xung binh lực lên được mấy vạn đại quân, tuy nhiên tình hình lúc đó cấp bách, do vậy mới vi phạm vào luật cấm của triều đình. Nếu như lần này chúng ta lại tự ý tăng cường binh lực, thì chắc chắn sẽ phạm vào lệnh cấm do Thái Tổ Hoàng Đế để lại, một khi Viện Kiểm Sát biết chuyện tâu lên Hoàng Thượng, thì e rằng Hoàng Thượng cho dù thấu hiểu, thông cảm chúng ta đến mấy cũng không thể nào bảo hộ cho chúng ta được nữa!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Vậy mấy vị nói xem chúng ta định giải quyết thế nào đây? Theo tình hình trước mắt bây giờ chúng ta có trong tay đạo quân có sức chiến đấu nhất vẫn chỉ là năm ngàn Cấm Vệ Quân đã đánh tan quân Tây Sơn, còn lại tất cả đều là lính mới, tuy nói là binh lực lên đến mấy vᮬ nhưng tất cả đều không có kinh nghiệm chiến trường, bọn họ cũng chỉ mới tham gia có một trận chiến, mà trận chiến đó quân địch do mắc bệnh nên mới không đủ sức chiến đấu, do vậy lính mới của chúng ta mới giành thắng lợi được! Còn bây giờ quân địch của chúng ta lại khác, đều là đại quân dày dạn chiến trường nhất của Thổ Phồn, sức chiến đấu của chúng mạnh hơn chúng ta quá nhiều, thực lực hai bên quá mất cân bằng. Bây giờ bọn chúng tụ họp lại với nhau nhăm nhe mảnh đất Tây Sơn hòng cướp lại cho bằng được, khí thế bọn chúng đang vượng như vậy, e rằng quân khó mà địch lại được!”

Hàn Tu nghe Đỗ Văn Hạo phân tích xong tình hình bèn nói: “Nói thì nói như vậy! Đỗ Ngự Y, lão phu có điều này có lẽ đại nhân không muốn nghe, nhưng lúc này đây lão phu không nói không được! Lão phu cần phải nhắc nhở đại nhân rằng, lệnh cấm của Thái Tổ Hoàng Đế không ai được phép vi phạm cả! Đại nhân đã hiểu chưa vậy?”

“Thật sao?” Đỗ Văn Hạo như muốn nhảy dựng lên nói: “Thế thì tại hạ cũng nhắc nhở với tướng quân một câu rằng, tướng ở ngoài trận có thể không nghe Thánh Chỉ! Hàn tướng quân và Tô Chi Chi! Nếu hai người sợ sệt, không dám làm thì cứ để đấy cho tại hạ! Một mình tại hạ làm là được rồi! Tại hạ quyết không thể nhắm mắt làm ngơ khi để quân Thổ Phồn cướp lại mảnh đất Tây Sơn của mình cả! Có lẽ nhị vị không biết chứ Hoàng Thượng đã nói rồi! Chỉ cần chiếm được Tây Sơn, Hoàng Thượng sẽ phong cho tại hạ làm Tây Sơn Vương! Nếu nhị vị vẫn sợ hãi như vậy, thì cứ ngồi ở đây mà rụt đầu lại, tại hạ sẽ tự mình lo liệu hết!”

Hàn Tu và Tô Thức nghe xong thì thầm kinh hãi, hai người đều không ngờ Hoàng Thượng lại tin tưởng Đỗ Văn Hạo như vậy, bất giác cả hai cùng đưa mắt lên nhìn nhau, rồi cùng đứng dậy, hướng về Đỗ Văn Hạo cúi người thi lễ: “Nguyện nghe lời chỉ đạo của đại nhân!”

Hai người bọn họ trước khi đến đây đều đã được Tống Thần Tông đích thân nói cho họ rằng, bọn họ được như ngày hôm nay tất cả đều là do Đỗ Văn Hạo cất nhắc mà lên cả, nên cũng vì thế mà có phần nể mặt hắn. Hơn nữa những lời Đỗ Văn Hạo vừa nói đều hợp tình hợp lý, nếu như vẫn cứng nhắc giữ luật cũ, không biết biến hóa thì thật là đáng xấu hổ, chính vì vậy mà cả hai sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đứng dậy nghe theo hắn.

“Vậy thì tốt! Chúng ta bây giờ lập tức chiêu binh mãi mã luôn! Đồng thời báo tin quân sự khẩn cấp lên cho triều đình biết để tăng thêm quân tiếp viện!”

Sau khi buổi họp kết thúc, cả thành Nhã Châu bây giờ bắt đầu sôi lên sùng sục, trong thành ngoài phố, ở khắp mọi nơi đều dựng cờ chiêu binh chống giặc ngoại xâm.

Trong những ngày khôi phục lại sau chiến tranh, dân chúng cơm không đủ no, áo không đủ mặc, cho dù nhận được cứu tế của triều đình nhưng cuộc sống vẫn vô cùng khổ cực, bây giờ chiêu binh thì sẽ có cái ăn, nên rất nhanh Đỗ Văn Hạo đã lại chiêu mộ được hàng vạn binh sĩ.

Những binh sĩ mới chiêu mộ được này, Đỗ Văn Hạo đều gi­ao hết cho Lý Phố quản lý, huấn luyện.

Có lẽ là do đột nhiên có hàng vạn quân Đại Tống tràn sang vùng đất Tây Sơn, và biên giới của Nhã Châu đắp thành xây lũy tiến hành phòng ngự, nên đạo quân của Thổ Phồn lúc này không dám manh động, chỉ dám im lặng chờ đợi, vì thế mà nhất thời chưa có chiến tranh đổ ra.

Điều này làm cho Đỗ Văn Hạo hơi yên tâm thêm một chút, nên sau khi tình hình biên giới im ắng trở lại, hắn liền đem hết sức lực của mình vào việc khôi phục Nhã Châu và tiến hành nông nghiệp lập thể. Có những lúc hắn còn ăn ngủ ở nhà các hộ nông dân. Bẵng đi một thời gi­an, hôm nay Hầu Tử có chuyện muốn đến tìm Đỗ Văn Hạo, khi mới trông thấy hắn, Hầu Tử liền thất kinh, cậu không thể tưởng tượng ra được người đang đứng trước mặt mình là Đỗ Văn Hạo nữa, hắn bây giờ vừa gầy vừa đen, trông khắc khổ vô cùng.

Đỗ Văn Hạo sau khi gặp Hầu Tử liền đưa cậu ta ra chỗ cái bàn đá ở dưới gốc cây hòe gần đó, ngồi xuống nói chuyện, trong tay hắn lúc này có hai cái bánh bao không nhân, hắn đưa lên cắn một cái, còn một cái thì đưa cho Hầu Tử.

Hầu Tử tiếp lấy cái bánh bao trong tay Đỗ Văn Hạo, rồi đưa tay lên bóp bóp thì thấy chiếc màn thầu này cứng như hòn đá, thậm chí nó còn bốc lên một mùi khó ngửi nữa. Hầu Tử cũng chẳng quan tâm, bởi vì cậu ta cũng đã từng ăn những thứ còn khủng khiếp hơn chiếc bánh bao này rồi, vì vậy đưa luôn lên miệng cắn liền một miếng, rồi chờ cho nước bọt ngấm vào trong miếng bánh làm cho nó mềm ra, sau đó cậu ta mới nhai, nuốt nó vào trong bụng.

Hầu tử sau khi cắn xong một miếng bèn quay ra hỏi Đỗ Văn Hạo: “Đại lão gia! Ngày nào lão gia cũng ăn mấy thứ như thế này sao?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu mỉm cười đáp: “Ngon ra phết! Mấy cái bánh này chống đói rất tốt, chỉ cần ăn hai cái là no căng bụng rồi! À mà đúng rồi! Cậu đến tìm ta có việc gì vậy?”

Hầu Tử đáp: “Dạ cháu đã điều tra rõ ràng hết rồi!”

“Điều tra cái gì mà rõ ràng thế?” Đỗ Văn Hạo khó hiểu hỏi lại.

“Đại lão gia! Lão gia quên rồi sao? Lão gia bảo cháu đi điều tra về cái trạch viên trên núi đó!” Hầu Tử nhanh nhảu đáp.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới nhớ đến cái tòa lâu đài được xây như cái lô cốt ở trên núi, liền vỗ vỗ lên đầu cười nói: “Ồ! Đúng rồi! Ha ha, sao ta lại quên nó được nhỉ! Cậu đã điều tra được cái gì rồi?”

“Cháu gái của ông Lý đã từng làm việc cho Kha Gia Sơn Trang một thời gi­an, nhưng không lâu sau vì phải đi lấy chồng nên không làm ở đó nữa. Sau đó cháu lại hỏi chị ta xem còn có ai nữa không, thì chị ta bèn đưa cháu đi tìm thêm mấy người đã từng làm ở đấy nữa! Sau khi nghe họ nói xong thì cháu cũng biết được đại khái tình hình, chính vì thế mà cháu mới đến tìm lão gia để bẩm báo!”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng vừa vặn cắn một miếng bánh bao rất to vào trong miệng, chính vì to quá mà hắn không thể nào nuốt trôi được đẫn đế bị ngẹn. Đỗ Văn Hạo vội vã chạy đến bên thùng nước cạnh đó, cầm một gáo nước đưa lên uống ừng ực, sau đó mới lên tiếng nói: “Được, tốt lắm! Cậu nói cho ta nghe xem cậu đã điều tra được cái gì rồi!”

Hầu Tử nghe vậy bèn đáp: “Gia thế của dòng họ Kha Gia vốn là một đại địa chủ tại Nhã Châu, nghe nói bọn họ cái gì cũng làm, dĩ nhiên là bọn họ buôn bán đều là những thứ hợp pháp, không hề dính líu đến thứ gì tệ hại cả, quản gia của Kha gia có tên là…”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây thì chen vào cắt lời của Hầu Tử nói: “Thôi được rồi! Cậu không cần phải nói đến gia phả nhà bọn họ đâu! Gia tộc của họ có tiền, có của thế nào ta cũng biết rồi, cái tòa lâu đài to lớn thế kia không phải ai cũng có được đâu! Nếu không phải nhà có tiền, có thế làm sao xây được một trạch viện quy mô đến như vậy! Thế trong nhà bọn họ bây giờ có ai còn sống không?”

“Dạ! Ngày trước mọi người vẫn còn sống ạ!” Hầu Tử dẩu mỏ lên nói.

“Vớ vẩn! Nếu ngày trước không có người nào còn sống, thì làm gì có ai xây được cái trạch viện to như vậy!” Đỗ Văn Hạo cau mày nói.

“Hề hề! Ý của cháu là sau khi quân Tây Sơn bị tiêu diệt xong rồi thì người nhà Kha gia vẫn còn sống?”

“Ố? Vậy tại sao khi cậu và mấy vị phu nhân đến đó lại không thấy có ai vậy?” Đỗ Văn Hạo khó hiểu hỏi,

“Cháu nghe một bà cô làm việc suốt cho Kha gia kể rằng, bà ta rời khỏi Kha gia ba ngày trước khi cháu và ba vị phu nhân phát hiện ra trạch viện. Cái trạch viện đó chỉ là một trong những căn trạch viện của Kha gia mà thôi, thường ngày mọi người trong nhà Kha gia đều sống ở trong thành, sau khi căn trạch viện ở trong thành bị quân Tây Sơn thiêu đốt thì bọn họ bèn chuyển lên khu sơn trang trên núi lánh nạn!” Hầu Tử liến thoắng cái miệng kể.

“Ố! Bọn họ cũng biết lo xa trông rộng ra phết đấy chứ! Cậu nói tiếp đi!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Khi đó, Kha lão gia bị bệnh, chắc là do tức quá nên mới sinh bệnh như vậy, bởi vì con dâu của nhà Kha gia bị quân Tây Sơn làm nhục, người con dâu sau đó vì bị làm nhục mà xấu hổ tự sát, trong bụng lúc đó đang mang thai một đứa bé, Kha lão gia vì chuyện đó nên tức quá sinh bệnh, sau đó không lâu thì qua đời!”

“Ài!” Đỗ Văn Hạo nghe đến đây bất giác thở dài cho số phận chớ trêu của một gia đình bất hạnh.
“Kha gia nhân khẩu rất đông, nghe nói có đến mấy chục người lận! Kha lão gia lúc sinh thời có năm vị phu nhân, và mười một người con trai, về sau thì chỉ còn có bốn người con trại là ở lại trong nhà, về sau…!”

“Thôi được rồi! Cậu lại nói lạc vấn đề chính rồi, cậu nói lằng nhằng nhiều thứ quá, nói đơn giản thôi!” Đỗ Văn Hạo nghe Hầu Tử thao thao bất tuyệt sang chuyện khác, thì vội vã ngăn lại.

Hầu Tử thấy vậy bèn nói: “Dạ, vâng! Nghe nói gia đình Kha lão gia là ngũ đại đồng đường (năm đời ở chung với nhau). Nhưng khi quân Tây Sơn đến đây, Kha gia liền mất đi ba người! À, đúng rồi! Trong Kha gia có một người tên Kha Minh, ông ta giết chết vợ, thiếp và ba người con của của mình, sau đó thì tự sát!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây bất giác chen vào nói: “Tất cả đều chết rồi hả?”

Hầu Tử đáp: “Nghe nói Kha Minh là cháu đích tôn của Kha lão gia, nhưng Kha lão gia không hề muốn đem tài sản truyền lại cho người này, nói chung câu chuyện rất là phức tạp! Có lẽ Kha Minh vì vậy nên tức giận giết luôn mấy người trong nhà mình, sau đó tự sát!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây cảm thấy rờn rợn gai ốc nói: “Vậy những người khác còn sống chứ?”

Hầu Tử đáp: “Nghe nói đi vào trong đất Thục (tên địa danh) rồi, gia cảnh nhà họ giầu có như vậy, cũng chẳng thấy tiếc rẻ gì một cái trạch viện con con như thế này cả, nhưng mà nghe nói còn có người muốn ở lại, không muốn đi vào trong đất Thục, nhưng ngườiđó lại không ở trong cái trạch viện này. Đúng rồi, kho thóc trong khu trạch viện đó nhiều lắm, nhiều đến độ đại lão gia cũng không thể tưởng tượng nổi đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì rung động trong lòng, đây cũng là lúc mà hắn đang cần lương thực hơn bao giờ hết, Đỗ Văn Hạo suy nghĩ giây lát rồi nói: “Cậu lại đi điều tra tiếp xem người ở lại đó là ai, có thể đem lương thực của người đó ra quyên góp cho chúng ta không?”

Hầu Tử nghe xong thì cười lên với vẻ vô cùng đắc ý: “Cháu đã điều tra hết rồi, trong hơn chục ngày nay, cháu nghe mọi người nói nhiều lắm, cái gì cũng có. Nào là chuyện Kha Minh có bốn người con, chỉ giết đi ba người, do vậy mà người còn lại ở đây chính là người con thứ tư của Kha Minh! Cũng có người nói rằng, thực ra người trong dòng họ Kha gia đã bỏ đi hết cả rồi, không còn một ai ở đây cả. Sau đó, cháu trong một lần tình cờ, nghe thấy Lão Cưu (Tú Bà ở lầu xanh) ở Lạc Diêu Viện nói bọn họ mới mua về một nhân vật tuyệt sắc gi­ai nhân có tên là Kha Nghiêu, nghe nói người này thuộc vào dòng dõi của Kha gia. Xong đâu đấy rồi cháu lại chạy đến thông báo cho phu nhân nghe, phu nhân liền bảo cháu dẫn thêm mấy người thị vệ đi xem tình hình, bởi vì cháu còn nhỏ tuổi quá không nên vào mấy chỗ đó!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì phá lên cười ha hả.

Hầu Tử nghe Đỗ Văn Hạo cười vậy cũng ngượng chín người, mặt đỏ tía tai nói: “Đại lão gia! Lão gia đừng cười cháu nữa!”

“Ta cười là vì một người sinh ra trong một gia tộc có tiền, gia thế hiển hách như vậy, sao lại rơi vào hoàn cảnh khốn nạn như vậy! Nhưng ta đoán có lẽ Lão Cưu đó chẳng qua là bày trò ra như vậy thôi, chứ trạch viện nhà của người ta còn đấy, đi vào đó làm kiếp con hát làm gì! Thế mà cậu cũng tin sao?”

Hầu Tử nghe xong liền đáp: “Đúng thật mà đại lão gia, vị cô nương đó mới vào đó được một thời gi­an ngắn thôi, vả lại tuổi còn nhỏ nên chưa tiếp khách được! Vị cô nương đó còn mời cả sư phụ đến để học cầm kỳ thi họa mà! Cháu cũng trông thấy vị cô nương đó rồi! Cháu chỉ cần nói tên của đại lão gia ra thôi là Lão Cưu đã sợ xanh mắt mèo đem vị cô nương đó ra cho cháu xem mặt luôn!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền đưa tay lên vỗ mạnh tay mình xuống lưng của Hầu Tử kêu lên một tiếng chát chúa, Hầu Tự bị đau kêu lên oai oái: “Thằng ranh con này! Sao ngươi dám lấy danh nghĩa của ta mà vào lầu xanh tìm cô nương hả? Sau này chắc ngươi cũng là một tên thích đi hái hoa ven đường (thích đi lầu xanh)!”

Hầu Tử chỉ biết gãi gãi đầu cười hềnh hệch đáp: “Đại lão gia không biết chứ vị cô nương tên Kha Nghiêu kia xinh đẹp lạ thường! Khi cháu mới gặp cô ấy mà đã như ngây như dại rồi, công nhận là đẹp hết chỗ chê!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đưa mắt khinh khỉnh nói: “Một tên nhãi ranh miệng còn hôi sữa như ngươi thì biết gì về cái đẹp cơ chứ?”

Hầu Tử le lưỡi ra nói: “Đại lão gia không tin cứ đến đó mà nhìn, cô ấy mới mười bốn tuổi thôi, mà trông cao ráo dễ nhìn, chỉ mỗi tội là sắc mặt quá đỗi lạnh lùng, gặp ai cũng chẳng cười, nghe nói Lão Cưu còn tự ý đặt cho cô ấy một cái tên là Lãnh Nguyệt, cháu thấy cái tên này hơi khó nghe!”

Đỗ Văn Hạo cũng gật gù nói: “Ta cũng thấy cái tên này khó nghe!”

Hầu Tử nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói như vậy thì hai mắt sáng lên nói: “Thật chứ?”

Đỗ Văn Hạo lại giơ tay lên định đánh, thì Hầu Tử đã nhanh nhẹn chạy sang chỗ khác tránh né, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cười nói: “Cái gì mà thật với chả giả! Ta cho ngươi đi điều tra việc ở trạch viện, thế mà ngươi đã lăng nhăng chạy sang Lạc Diêu Viện để chơi rồi! Không cho ngươi ăn đòn không được!”

Hầu Tử nghe vậy chỉ mỉm cười ma mãnh, sau đó e dè bước đến gần Đỗ Văn Hạo, thấp giọng nói: “Đại lão gia xin đừng đánh cháu vội! Lúc cháu gặp Lãnh Nguyệt, cháu đã hỏi rằng cô ta có quen Kha Minh không, đại lão gia biết cô ta trả lời ra sao không?”

“Không quen!” Đỗ Văn Hạo nói luôn không cần suy nghĩ.

“Sao đại lão gia lại biết được vậy?” Hầu Tử khó hiểu hỏi lại.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đứng dậy nói: “Thì ta đã nói rồi đó thôi, đây chẳng qua là chiêu bài của Lão Cưu để đánh bóng tên tuổi của mình thôi, cậu sao lại nghĩ một tiểu thư danh giá trong dòng họ trâm anh thế phiệt như Kha gia lại phải vào lầu xanh làm con hát nhỉ? Để ta nói cho cậu biết nhé, thứ nhất nếu cô ấy đúng là con của Kha Minh vậy thì khi Kha Minh giết vợ và ba con của mình thì chẳng có lý do gì để không giết cô ấy cả, giết một người và giết một trăm người đều là giết người, về mặt tính chất thì chúng chẳng khác nhau là mấy, thứ hai cho dù Kha Minh không giết cô ấy, thì cả dòng họ Kha gia cũng không thể nào để cô ấy bơ vơ một mình nơi này mà không quan tâm cả! Vàđiều thứ ba cũng là điều quan trọng nhất, nếu cô ấy là dòng dõi Kha gia, thì cái trạch viện trên núi kia giàu có thế nào cậu cũng biết rồi, cô ấy việc gì phải tự hạ thấp mình đi làm kỹ nữ để nuôi sống bản thân mình cơ chứ!”

Hầu Từ nghe xong thì thấy Đỗ Văn Hạo nói vô cùng có lý, nên đành nói: “Vậy thìđề cháu đi điều tra tiếp xem sao!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Đi đi! Về sau cậu cũng đừng đến những nơi như Lạc Diêu Viện nữa, nếu không cậu không thọ lâu được đâu!”

Hầu Tử vẫn còn trẻ con nên chắc chắn không hiểu hết hàm ý trong câu nói của Đỗ Văn Hạo, chỉ mỉm cười gật đầu rồi quay người bước ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo thấy Hầu Tử đã đi bèn đứng dậy quay vào trong phòng, nhưng khi mới định bước vào trong thì bên ngoài có một viên binh sĩ chạy vào trong thông báo: “Bẩm đại nhân! Bên ngoài có người muốn tìm gặp ngài!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn bước ra ngoài cổng nhìn, khi hắn vừa mới ra đến cổng, thìđã trông thấy ở đó có một nữ nhân ăn mặc diêm dúa, lòe loẹt mỉm cười đứng đó chờ đợi.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Người này ta đâu có quen đâu!”

Viên binh sĩ thấy vậy bèn cười thầm trong bụng đáp: “Dạ đây là bà chủ của Lạc Diêu Viện ở trong thành đó ạ! Bà chủ muốn mời đại nhân và Lý tướng quân đến đó dự tiệc!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn thầm nghĩ, những loại người này đúng là ghê gớm, dám đến tận doanh trại quân đội tìm mình và Lý Phố, dự tiệc cái nỗi gì! Mục đích đến đây là mời mình đến chơi lầu xanh của mụ ta thôi mà, có gì là lạ! Ý, hình như cô gái tên Kha Nghiêu kia hình như cũng ở trong cái Lạc Diêu Viện này thì phải, sao mà trùng hợp như vậy nhỉ! Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Ngươi ra bảo người ta về trước đi, ta và Lý Phố sẽ đến sau!”

Sau khi thu dọn, chuẩn bị xong Đỗ Văn Hạo và Lý Phố bèn lên đường dự tiệc.

Ở phía tây thành Nhã Châu, đường đi quanh co, khúc khuỷu, rặng liễu đìu hiu nên thơ, là một nơi nổi tiếng lãng mạn trong thành Nhã Châu, nơi này khung cảnh hữu tình, là một địa điểm vô cùng thích hợp để khai kỹ viện, chính vì vậy mà kỹ viện nơi đây mọc lên như nấm, và kỳ lạ một điều là khi quân Tây Sơn đến đây cướp phá, thì bọn chúng lại không hề động chạm gìđến nơi đây cả. Toàn bộ thành Nhã Châu chỉ còn mỗi chỗ này là còn nguyên vẹn, và giữ được vẻ phồn hoa vốn có của nó.

Lão Cưu đúng là một người rất biết làm ăn, suy nghĩ vô cùng chu đáo, Lão Cưu biết Đỗ Văn Hạo và Lý Phố sắp đến đây, nên đã chuẩn bị sãn hai cái kiệu chờ cách doanh trại quân đội một đoạn không xa, như vậy khi Đỗ Văn Hạo và Lý Phố lên kiệu vào trong Lạc Diêu Viện, thì sẽ không có ai biết được ai người vào trong đó chơi bời cả! Hai người sau khi lên kiệu, đoàn người liền ngay lập tức khởi kiệu đi thẳng đến khu ăn chơi bậc nhất thành Nhã Châu.

Đỗ Văn Hạo nghe Lý Phố nói rằng, kỹ viện nơi đây xây dựng cũng phải có cách thức riêng của nó, phía trước cổng tốt nhất là nên trồng dương liễu, có hàm ý là e ấp, e thẹn; bên ngoài cửa sổ tốt nhân là nên có dòng lưu thủy, có hàm ý là tình bất tận. Bên trong thiết kế nên chú ý các điểm sau, tiền đường phải rộng, các đình, viện phía trong phải đẹp, xung quanh nên trồng hoa, bên cạnh đó có thể dựng vài hòn non bộ, cạnh đó là có một cái ao cá lãng mạn. Phòng nơi đây rèm che nửa vời, các họa tiết hoa văn trong phòng phải tinh sảo, và không thể thiếu được các yếu tố cầm kỳ thi họa, bút nghiên, mực giấy, căn phòng này phải toát lên một sự tao nhã, thanh lịch quyết không phải là nơi chợ búa bán rau bán thịt. Có như vậy thì khi khách vào trong này mới có cảm giác mình lạc vào chốn thần tiên, tất cả các nỗi tức giận, mệt nhọc, uể oải đều bay đi hết cả. Tiếp sau đó là thứ­caăn, điểm tâm, hoa quả, cốc chén, bát đũa, tất cả đều phải thiết kế tinh hoa đẹp mắt và sạch sẽ. Lạc Diêu Viện là một kỹ viện tốt nhất của Nhã Châu, đầu bếp được mời về từ kinh thành, phục vụ cũng vô cùng chu đáo, đồ ăn nơi đây thanh đạm, nhưng rượu lại rất nồng, trà thì thơm mát, tách uống lại vô cùng sạch sẽ. Người hầu trà, hầu rượu đại bộ phận là những thiếu nữ xinh xắn, lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng uyển chuyển, động tác thì dịu dàng, hiền thục không có vẻ gì thô lỗ cả. Chính vì vậy mà có rất nhiều người thích đến lầu xanh hưởng thụ như vậy!

Có lẽ do đã được Lão Cưu dặn dò cẩn thận nên hai chiếc kiệu sau khi đến nơi đã tự giác đi ra đằng cổng sau, chứ không phải đi thẳng vào từ cổng trước. Ở cổng trước lúc này cóđủ các loại đàn ông đến đây tìm thú vui, ở một nơi điều kiện phụ vụ tốt như thế này thì bất kỳ các quý ông nào trong túi có tiền đều muốn đến đây hưởng thụ, chỉ cần vài lạng bạng thôi là bọn họ đã có thể tận hưởng vài chén rượu, vài tách trà, và còn được các vị cô nương ngồi hầu nữa, chính vì thế mà họ chẳng tiếc mấy đồng lẻ mà hưởng lạc ở đây, Nhưng, những cô nương phục vụ bọn họ cũng không phải là những cô nương tốt nhất ở đây, bởi tuy cùng là kỹ nữ, nhưng kỹ nữ cũng có cấp bậc riêng của nó, tiền ít thì cô nương xấu hơn một chút, tiền nhiều thì dĩ nhiên làđược dùng hàng đẹp rồi!

Khi bước xuống kiệu, Đỗ Văn Hạo liền đưa mắt ra bốn phương quan sát, nơi đây là một con ngõ nhỏ, không có một bóng người nào cả, lần đầu tiên đến kỹ viện, nên Đỗ Văn Hạo cũng có chút rụt rè, e sợ. Hắn rất khinh bỉ mấy cái ổ chứa như thế này, chính vì thế nên khi mới bước vào trong hắn đã hơi cúi đầu sợ sệt, nhưng Lý Phố thì không, ông ta vẫn hiên ngang đi đằng sau lưng hắn, hiếu kỳ đưa mắt nhìn khắp nơi.

“Ôi! Đỗ Câu Quản đến rồi! Khách quý, khách quý! Thúy Nhi bái liến Đỗ đại nhân và Lý tướng quân!” Lão Cưu lúc này bận một bộ vấy áo đỏ chót, hai cái vạt áo thắt qua giữa ngực, hai tay buông thong, bước đến nghênh đón, tuy bà ta đã ngoài ba mươi tuổi, nhưng lúc này vẫn trông thấy dáng vẻ thanh tú thời thiếu nữ khi xưa, trông cũng không đến nỗi làm người ta cảm thấy ác cảm.

Lão Cưu vừa nói vừa đi đến bên Đỗ Văn Hạo, đưa tay lên đặt lên tay cánh tay của Đỗ Văn Hạo, nhưng ngay lập tức bị hắn hất luôn ra, Lão Cưu thấy vậy vẫn chỉ mỉm cười không nói, trông nét mặt thờ ơ của Đỗ Văn Hạo liền không dám có những hành động thân mật như vậy nữa.

Đỗ Văn Hạo và Lý Phố lúc này được Lão Cưu sắp xếp vào một căn phòng có tên “tổ ấm” trên lầu hai ở phía đông, khi mới bước vào đây một mùi thơm dịu bốc lên thanh thanh, nội thất căn phòng được bố trí vô cùng tao nhã, trông như một khuê phòng của thiếu nữ, trên tường còn treo một bức tranh vẽ hình một thiếu nữ, thiếu nữ trong tranh thân hình đầy đặn, ăn mặc vô cùng hở hang, một tay cầm quạt che nửa bên mặt, một tay đặt lên trên bàn, phía sau cô gái là một hòn non bộ, trên đó được điểm một vài bong hoa màu đỏ, vừa vặn điểm lên mái tóc của thiếu nữ, bức tranh này bố cục cũng khá hợp lý, nét vẽ cũng cầu kỳ công phu.

Đỗ Văn hạo đến gần nhìn kỹ thì phát hiện dưới góc tranh có một dấu ấn triện khắc ba chữ: “Diêm Lập Bổm”, Đỗ Văn Hạo sững người sửng sốt, bức tranh này trên thị trường khá là đáng giá, xem ra Lão Cưu Thúy Nhi này cũng biết tiêu tiền chơi sang lắm đây.

Sau khi ngồi xuống thì, Lão Cưu cho gọi hai thiếu nữ gương mặt thanh tú lên hầu, nhưng, nét mặt của Đỗ Văn Hạo vẫn như lúc mới vào đến đây, cứng ngắc và lạnh lùng. Lão Cưu lại cứ tưởng hắn không thích hai thiếu nữ này bèn vội gọi hai người khá đến, Lý Phố thấy vậy thì nét mặt đanh lại, Lão Cưu biết ý không đợi Lý Phố kịp lên tiếng nói đã ra ý bảo hai thiếu nữ đó lui ra, sau đó thận trọng, e dè đến bên Lý Phố, thấp giọng tươi cười nói: “Lý tướng quân! Ngài xem, chúng ta nên chọn cho Đỗ đại nhân người nào thì thích hợp!”

Lý Phô nghe vậy hừ lên một tiếng nói: “Ngươi đã mời Đỗ đại nhân đến đây rồi! Thế mà sao vẫn chưa mời hoa khôi của viện các ngươi lên đây để hầu hạ hả?”

Lão Cưu nghe xong thì cảm thấy vô cùng khó xử, Lý Phố thấy vẻ mặt Lão Cưu như vậy bèn lớn giọng nói: “Ngươi nhỏ nhen như vậy mà cũng đòi mời khách à? Đỗ đại nhân bận rộn như vậy, làm gì có thời gi­an ở đây mà lằng nhằng với ngươi! Đi! Đi hết cả đi! Không có người thì chúng ta đi đây!”

Lão Cưu thấy vậy thì sợ hãi vô cùng, bèn len lén đưa mắt sang nhìn Đỗ Văn Hạo, thì thấy nét mặt của hắn cũng chẳng có biểu hiện gì cả, thì thầm nghĩ chả trách mà trẻ tuổi như vậy mà đã làm đến chức Câu Quản, xem ra cá sộp rồi đây, nghe nói đến cả Chi Châu đại nhân còn phải nghe lời ông ấy, thì đúng là người có bề thế rồi! Trông ông ta còn trẻ vậy mà đã trầm tĩnh như vậy thì thật là hiếm có!

Chương 321: Một lòng tận trung mà lại bị trách tội!

Lão Cưu nghĩ vậy bèn nói: “Lý tướng quân! Tướng quân đừng…đừng giận dữ như vậy! Xin hai vị đại nhân nghe thảo dân giải thích, ngày trước Lạc Diêu Viện đúng là có hoa khôi, nhưng sau đó hoa khôi đã bị quân Tây Sơn cướp đi rồi! Ài! Thảo dân cũng không làm gìđược cả, nếu như thảo dân không dâng hoa khôi cho chúng thì chúng sẽ đập phá, thiêu đốt Lạc Diêu Viện này mất, thảo dân nói thật! Thúy Nhi không dám lừa dối hai vị đại nhân đâu ạ!”

Lý Phố nghe xong bèn đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, thì thấy thần sắc của hắn vẫn lạnh lùng như không, chỉ ngồi đó im lặng không nói, Lý Phố liền biết Đỗ Văn Hạo muốn tìm thiếu nữ tên Kha Nghiêu ra nói chuyện, nhưng ông biết Đỗ Văn Hạo không tiện mở mồm nói, sau một hồi suy nghĩ, Lý Phố bèn nở một nụ cười gi­an xảo nói: “Hôm nay chúng ta đến đây để uống rượu, nghe cô nương ca hát, ngươi chỗ này có vị cô nương nào phong trần thoát tục hơn một chút không? Đỗ đại nhân không thích mấy cái loại vừa vào đã liếc mắt phong tình như vậy!”

Lão Cưu nghe xong liền gật đầu lia lịa, sau đó bèn đi ra ngoài cửa, gọi một đứa nha hoàn đến rồi nói: “Ngươi đi xem Lãnh Nguyệt đã tan học chưa? Mau đưa nóđến phòng “tổ ấm” để tiếp khách nhanh lên!”

Không lâu sau, một thiếu nữ đã bước đến đi vào trong phòng, nàng mặc một chiếc áo màu xanh nhạt, cổ tay áo màu xanh lục, chiếc vào màu lam nhạt, bên trên chiếc váy được phủ bởi một lớp vải sa màu xanh biếc, chiếc cổ áo của nàng dựng theo hình lá sen, nét mặt trang điểm thanh nhã, nhẹ nhàng, lông mày thẳng, cong như vẽ, ánh mắt trong sáng, mái tóc nàng buông xõa, cũng không hề có vật gì trang sức trên đó cả, trông dáng vẻ của nàng vô cùng nhanh nhẹn, gọn gang.

Đỗ Văn Hạo vừa trông thấy thiếu nữ này thì lông mày của hắn hơi nhướng lên, hai mắt sáng hẳn ra, Lão Cưu suy cho cùng cũng là người tinh đời, ở cái nơi này bà ta cũng đã nhìn quá quen với những cảnh tượng như vậy, chỉ cần nhất cử nhất động thôi, cho dù đó chỉ là một cái nhướng mắt, một cái nhếch môi là Lão Cưu đã biết được người ta muốn gì, Đỗ Văn Hạo cũng không ngoạiệ.

“Lãnh Nguyệt! Nhanh! Mau, mau lại đây, vào trong này mau lên, mau mau bái kiến Câu Quản đại nhân đi!” Lão Cưu vội vã tiến tới bên Lãnh Nguyệt kéo nàng đến trước mặt của Đỗ Văn Hạo, rồi ra ý cho nàng bái kiến hắn.

Đỗ Văn Hạo bất giác có cảm thấy vô cùng mơ hồ, hắn không nhìn rõ người thiếu nữ đứng trước mặt mình, không biết là do hắn say hay là trong tâm của hắn bị tà nhập, hắn cũng không biết nữa, hắn chỉ cảm thấy trên người của người thiếu nữ trẻ tuổi này toát ra một mùi thơm dịu nhẹ của mùi thuốc. Tại sao không phải mùi thơm của phấn son nhỉ? Hắn khó hiểu vô cùng, nhưng Đỗ Văn Hạo lúc này liền nhoẻn miệng cười, một nụ cười vô cùng miễn cưỡng.

“Kha Nghiêu tham kiến Câu Quản đại nhân!” Một giọng nói lạnh lẽo như ở một nơi hoang vu gió lạnh vọng đến, Đỗ Văn Hạo rõ ràng nghe nàng ta nói là tham kiến cẩu quan chứ không phải Câu Quản, cái tên của chức quan này đúng là không hay chút nào! Đỗ Văn Hạo cảm thấy có rất nhiều người có thể lợi dụng đọc lái tên quan của hắn là có thể chửi hắn là cẩu quan rồi, tuy hắn từ trước đến giờ chưa từng tự nhận hắn là một tên cẩu quan, nhưng chắc chắn vẫn có người lợi dụng cái chỗ hổng này mà chửi hắn. Nhưng Đỗ Văn Hạo chỉ nghĩ vậy thôi, chứ không nói ra một câu nào cả.

“Thôi đứng dậy đi! Ngươi tên là gì?” Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi.

Lãnh Nguyệt lúc này mới ngẩng đầu lên, môi hơi nhếch lên như vầng trăng khuyết, đôi mắt to tròn lấp lánh, hàm răng nàng trắng đều, Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên cảm thấy kích thích lạ thường, máu huyết trong người hắn bỗng sôi lên sùng sục chảy ngược lên, tim hắn đập loạn xạ, hồi hộp. Đỗ Văn Hạo biết ngay là Lão Cưu đã bỏ thuốc kích thích vào trong tách trà vừa rồi rồi, nếu không thì tại sao hắn lại cảm thấy trong người rạo rực như vậy! Con mụ tú bà này đúng là có ý muốn hại ta đây mà, mẹ kiếp! Chờ sau này ta sẽ xử lý ngươi, thôi cố gắng chịu đựng, đai quần lúc này ta phải siết cho thật chặt, ở nhà ta vẫn còn bốn vị phu nhân đang đợi ta kia kìa.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn ngồi thẳng người dậy, giờ đây hắn mới trấn tĩnh hơn một chút, nhưng phải công nhận người con gái trước mặt hắn lúc này đúng là một tuyệt sắc gi­ai nhân, nhưng tuổi tác còn quá nhỏ, trông vô cùng tội nghiệp, hắn liền không dám có thêm những ý tưởng bậy bạ ở trong đầu nữa.

“Kha Nghiêu tham kiến Đỗ đại nhân!” Tiếng nói của thiếu nữ này lại vang lên văng vẳng, như tiếng vọng trên núi vọng lại vậy, Đỗ Văn Hạo quay sang nhìn Lý Phố, thì thấy ông ta không có phảm ứng gì lạ cả, hắn thầm cảm thấy khó hiểu, tại sao ông ta lại không bị sao vậy? Đều cùng uống một tách trà cả, thật là kỳ lạ!

Đỗ Văn Hạo liền để Kha Nghiêu đứng dậy, Lão Cưu lúc này đi đến bên Đỗ Văn Hạo cười bí hiểm nói: “Lãnh Nguyệt trước đây là con của một nhà đại địa chủ! Từ nhỏ đã học cầm kỳ thi họa, chính vì vậy mà bây giờ đã vô cùng tinh thông rồi ạ! Đại nhân, ngài có muốn Lãnh Nguyệt…?”

Đỗ Văn Hạo đưa mắt lên liếc nhìn Lãnh Nguyệt một cái, thì chỉ thấy nàng chỉ lạnh lùng đứng ở cạnh đó, không có vẻ gì từ chối, nhưng cũng không có vẻ vồn vã, cái thái độ dùng dằng chẳng dứt của nàng làm cho người khác khó có thể từ chối nàng được,

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy ngươi hát cho ta nghe một bài xem! Ngươi muốn hát gì cũng được, Lão Cưu! Ngươi đem cho ta ít rượu và đồ nhắm lên đây, uống trà thì có vị gì!”

Lão Cưu nghe xong vội vã cho người chạy đi chuẩn bị, Kha Nghiêu đứng bên cạnh đó bất giác quay sang Đỗ Văn Hạo mỉm cười một cái, nhưng chỉ là thoáng qua, ngay cả Đỗ Văn Hạo cũng nghĩ đó là ảo giác! Kha Nghiêu sau khi nhận lấy cây đàn, liền đưa tay lên gẩy, cất tiếng hát: “Thân hình nhỏ nhẹ, yểu điệu! Gió thổi lay lắt bóng kiều xinh, toàn thân như ngọc như man mác, thử hỏi ai đó có muốn không…?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong, thầm nghĩ những bài hát dâm đãng như thế này không nên phát ra từ cửa miệng của một thiếu nữ tuổi trăng tròn như thế này, Đỗ Văn Hạo càng nghe càng thầm tiếc thương cho cô gái tuổi còn nhỏ, mà thân hình đã nhuốm bóng lầu xanh.

Sau khi bài hát kết thúc, Kha Nghiêu hai tay ôm cầm, đầu cúi xuống như đang suy nghĩ điều gìđó, nàng không ngẩng mặt lên nói chuyện, không khí bỗng chốc trở nên nặng chĩu.

Đỗ Văn Hạo trông thấy Lão Cưu ngồi gần đó có vẻ không vui, e rằng sẽ làm khó dễ Kha Nghiêu, nên bèn mỉm cười nói: “Bài hát hay lắm! Đàn đánh cũng rất tuyệt! Nhưng màdường như Lãnh Nguyệt cô nương đang có tâm sự gì đó thì phải, nếu không có nhã hững nữa thì thôi không cần phải hát nữa, chúng ta cùng ngồi nói chuyện được rồi!”

“Dạ được ạ! Lãnh Nguyệt mau mau ra kính rượu cho Đỗ đại nhân nhanh lên!” Lão Cưu ngay lập tức đưa mắt lên nhìn Lãnh Nguyệt ra ý, Lãnh Nguyệt hội ý xong bèn đứng dậy đi đến bên Đỗ Văn Hạo quỳ xuống cầm lấy bình rượu lên, Đỗ Văn Hạo phát hiện ra đôi tay của nàng run lên cầm cập, trong lúc sơ ý Lãnh Nguyệt bất cẩn để rượu rơi vào cả người của Đỗ Văn Hạo.

Lãnh Nguyệt thấy vậy thì sợ đến xanh cả mặt, nhất thời không biết làm thế nào cho phải, chỉ biết vội vã rút khăn lau trong người ra lau cho Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Thôi! Không sao đâu, ngươi cũng luyện đàn cả ngày hôm nay, vì thế mà tay bị mất sức âu nên mới lỡ tay như vậy, đây cũng là chuyện thường tình thôi, không sao đâu!”

Lão Cưu thấy vậy bèn bước đến trừng mắt lên nhìn Lãnh Nguyệ một cái, rồi kéo nàng ta lại ra phía sau. Còn bà ta thìđích thân rút khăn tay của mình ra lau sạch rượu trên người Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ đại nhân! Hay là thảo dân thay cho người và Lý tướng quân hai đứa khác lên hầu vậy! Xin đại nhân đừng giận!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Không sao! Nghe Lãnh Nguyệt cô nương đánh đàn, chắc là đến chỗ này của ngươi rồi mới học đúng không?”

Lãnh Nguyệt vội vã cúi đầu đáp: “Tiểu nữ từ nhỏ đã theo cha mẹ đi học đàn, tiểu nữ đã học được hơn mười năm rồi ạ!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn quay sang nói với Lão Cưu: “Thôi được rồi! Chỗ này không cần ngươi nữa đâu, ngươi bận gì thì cứ đi làm đi! Ta muốn ngồi đây nói chuyện với Lãnh Nguyệt cô nương một chút!”

Lão Cưu nghe vậy thì mừng húm, đây làđiều mà bà ta mong đợi đã lâu, hơn nữa Lạc Diêu Viện cũng đang rất bận, việc gì cũng phải để mắt tới, thế nên mới nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, bèn lựa lời cáo lui luôn, trước khi đi bà ta còn đến bên Lãnh Nguyệt dặn dò thêm vài câu, Lãnh Nguyệt nghe xong bèn gật đầu đáp lại, nhưng vẫn không hé môi nói lên câu nào cả. Mãi cho đến khi Lão Cưu đi ra khỏi cửa, Lãnh Nguyệt mới âm thầm thở phào ra nhẹ nhõm.

Tuy nàng thầm thở hắt ra như vậy, nhưng Đỗ Văn Hạo cũng đã để ý thấy hành động khác thường này cảu nàng, bèn hỏi: “Kha Nghiêu! Nghe nói ngươi xuất thân từ một gia đình giàu có phải không? Vậy tại sao ngươi lại ra nông nỗi như bây giờ vậy?”

Lãnh Nguyệt nghe xong thì sững người, đưa mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Bẩm đại nhân! Có phải là Lão Cưu nói vậy với đại nhân không? Xin đại nhân đừng tin lời bà ta, tiểu nữ không phải là người xuất thân từ gia đình giàu có!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười nói: “Ngươi đã không phải xuất thân trong một gia đình giàu có như vậy, thì tại sao lại biết đánh đàn?”

Lãnh Nguyệt lúc này nghẹn lời, ấp úng nói: “Cái này thì…thì có liên quan gì đến con nhà giàu có ạ?”

Đỗ Văn Hạo cũng không muốn giải thích gì thêm nữa, mà chuyển luôn sang đề tài khác nói: “Đúng rồi! Lúc nãy ta thấy lời bài hát của ngươi lúc nãy vừa hát cũng được lắm, ngươi có thể giúp ta…”

“Đại nhân muốn thử xem xem tiểu nữ có biết viết chữ đúng không ạ?” Kha Nghiêu tỏ ra vô cùng thông minh dò đoán được ngay ý đồ của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn cười nói: “Ngươi dĩ nhiên là biết viết chữ rồi, là Lão Cưu của các ngươi nói cho ta biết vậy, nếu ngươi không muốn viết thì thôi, ta cũng không muốn ép ngươi làm gì, ngươi chỉ cần nói cho ta biết ai viết lời bài hát đó, rồi để ta còn cho người đi tìm!”

Lãnh Nguyệt suy nghĩ một lúc rồi nói: “Hay là cứ để dân nữ viết cho đại nhân vậy! Nếu như để cho Lão Cưu biết thì tiểu nữ chắc sẽ bị một trận đòn no nê mất!”

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi lại: “Sao lại như vậy được? Ngươi chắc chắn sau này sẽ là hoa khôin tương lai của Lạc Diêu Viện! Sao bà ta lại có thể nhẫn tâm mà đánh ngươi được cơ chứ?”

Lãnh Nguyệt cười lạnh lên một tiếng nói: “Đại nhân chắc là không biết, hoa khôi là trưởng thành từ những trận mưa roi của Lão Cưu đó!”

Đỗ Văn Hạo bất giác trông thấy đôi mắt của Lãnh Nguyệt lúc này bỗng nhiên ngấn lệ, trông đáng thương vô cùng: “Thôi được rồi! Ta không nói cho Lão Cưu thì bà ta làm sao mà biết để trách phạt ngươi!”

Lãnh Nguyệt nghe xong bèn quay đầu ra cửa nhìn, Lý Phố lúc này thấy vậy cũng chạy ra cửa xem xét, sau đó ngoái đầu lại nói: “Có người đứng canh đây rồi! Ngươi cứ viết đi, đừng sợ!”

Lãnh Nguyệt thấy vậy bèn bước đến bên bàn, sau đó trải giấy, mài mực rồi ngay lập tức cúi đầu, cặm cụi viết, rất nhanh nàng đã viết xong, Lãnh Nguyệt cẩn thận bưng tờ giấy đó lên rồi dâng đến cho Đỗ Văn Hạo xem, Đỗ Văn Hạo mở ra xem thì thấy nét bút của nàng ta thanh thoát nhẹ nhàng, tuyệt đối không phải của người mới học viết chữ.

“Được rồi! Cái này ta thu nhận lấy rồi, đa tạ Kha Nghiêu cô nương nhiều lắm!” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Đại nhân! Về sau đại nhân cứ gọi tiểu nữ là Lãnh Nguyệt được rồi! Còn về cái tên Kha Nghiêu thì từ khi tiểu nữ vào trong cái Lạc Diêu Viện này thì không còn tồn tại nữa rồi!” Lãnh Nguyệt lạnh lùng nói.

“Được thôi! Vậy chúng ta đi đây” Đỗ Văn Hạo nói bèn luôn đứng dậy.

Lãnh Nguyệt thấy vậy thì kinh ngạc vô cùng, nàng thấy Đỗ Văn Hạo mới đến đây chưa làm gì mà đã đòi về như vậy cũng có phân bất ngờ, bèn lên tiếng hỏi: “Đại nhân! Có phải Lãnh Nguyệt đã hầu hạ hai người không tốt không?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ồ! Không phải! Bởi vì ta còn quá nhiều công việc phải làm, hôm nay được trông thấy Lãnh Nguyệt, và nghe thấy tiếng đàn tuyệt diệu, cùng với giọng ca tuyệt vời của nàng, đã là quá đủ rồi, ta không thể ở đây lâu thêm được nữa!”

Lãnh Nguyệt lúc này liền đi tới bên Đỗ Văn Hạo định nói cái gìđó, nhưng cuối cùng nàng vẫn không nói ra được, chỉ biết cúi người đưa mắt tiễn đưa hai người Lý Phố và Đỗ Văn Hạo hai người đang đi xuống dưới lầu, sau đó quay người đi vào trong phòng rồi khép cửa lại.

Lãnh Nguyệt lúc này đi tới bàn trang điểm mở chiếc ngăn kéo ra, rồi lấy trong đó ra một chiếc cẩm hộp, nàng nhìn vào chiếc cầm đó một cách ngây dại đờ đẫn, luôn miệng lẩm bẩm nói: “Cha, mẹ! Hài nhi thật là bất hiếu, hài nhi không thể đi cùng hai người được, hài nhi vẫn muốn ở lại nơi đây, ở lại nơi đây mãi mãi!”

Đỗ Văn Hạo và Lý Phố ra về mà không muốn làm kinh động tới Lão Cưu, hai người âm thầm lặng lẽ đi ra từ cổng sau, cũng không ngồi kiệu, chỉ lẳng lặng đi ra ngoài bằng đôi chân của mình mà thôi.

“Đại nhân! Đại nhân nói xem Lãnh Nguyệt cô nương có phải là người của Kha gia trạch viện không vậy?” Lý Phố đột nhiên lên tiếng hỏi.

Đỗ Văn Hạo đáp: “Ta nghĩ chúng ta phải mau rời khỏi đây thôi!”

“Vậy thì mạt tướng không thể nào hiểu nổi, một cô gái cành vàng lá ngọc, đại gia khuê nữ như vậy sao lại rơi vào chốn lầu xanh như thế này?” Lý Phố vẫn cố dò hỏi.

“Ta làm sao biết được! Mọi việc rồi cũng sẽ đến ngày sáng tỏ hết thôi!” Đỗ Văn Hạo trả lời một cách qua loa tùy tiện.

Việc cần làm của Đỗ Văn Hạo bây giờ quá nhiều, hắn thậm chí chẳng còn thời gi­an đâu mà lo chuyện của Kha gia nữa, bây giờ trong đầu của hắn trừ mấy chuyện trùng tu lại kiến trúc ở Nhã Châu, cứu tế cho dân chúng, thành lập nông nghiệp theo mô hình lập thể, và còn rất nhiều việc vụn vặt lung tung khác nữa, và thu thuế chính là một trong số đó.

Mấy vị quan lại phụ trách về thu thuế đã mấy lần đến tìm hắn rồi, tất cả đều nói rằng hiện nay dân chúng sau cuộc chiến tranh tàn khốc, không còn một ai có đủ tiền để nộp thuế nữa rồi, hắn đến lúc này vẫn chưa nghĩ ra cách giải quyết thế nào cho hợp lý cả.

Suy đi tính lại cũng chẳng còn cách nào khác ngoài việc giảm, và miễn thuế rồi.

Điều này cũng nhắc nhở Đỗ Văn Hạo một điều, là hắn bắt buộc phải tiến hành cải cách chế độ thu thuế, Than Đinh Nhập Mẫu là môộ t chế độ không tồi chút nào. (Than Đinh Nhập Mẫu là một chế đố thu thuế mang tính đột phá, xuất hiện ở thời nhà Thanh Trung Quốc, tức là hơn sáu trăm năm sau, luật thuế này đã loại bỏ chế độ thuế thu theo đầu người của thời nhà Tống, thay vào đó là tính theo số mẫu ruộng mà đánh ra thuế thu nhập, chính vì vậy mà nó đã rũ bỏ được các khoản thu thuế đè nặng lên đầu người dân một cách hợp lý, và gia tăng gánh nặng cho các địa chủ có nhiều đồn điền.)

Nhưng mà, cái cách chế độ thu thuế tuyệt đối không phải là một chuyện dễ dàng, Đỗ Văn Hạo đối với chế độ thu thuế Than Đinh Nhập Mẫu cũng không nắm chắc lắm, bởi vậy nên hắn quyết định đem việc này ra bàn bạc với Hàn Tu và Tô Thức, vì dù sao hai người này đều đã từng tham gia vào công việc biến pháp trước kia của Vương An Thạch, và cả hai đều có kinh nghiệm làm việc trong các vấn đề hạ tầng như vậy.

Hàn Tu và Tô Thức sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói về chuyện cải cách này, thì cả hai cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng gật gật đầu. Hàn Tu nói: “Đợt biến pháp lần trước thu thuế theo kiểu bình quân ruộng đất, cùng với cách thức của Vân Phàm huynh là rất giống nhau, đều đem thuế và ruộng rất liên kết lại với nhau. Nhưng chỉ khác nhau ở một chỗ là Vân Phàm huynh đã hủy bỏ thuế thu theo đầu người, nếu như đem đầu người tính vào thuế ruộng đất, thì thu thuế sẽ dễ dàng, hơn nữa dân chúng sẽ không còn lo lắng về vấn đề tăng thuế sinh trưởng nữa, đây đúng là một biện pháp giúp ích cho tăng trưởng dân số! Lão cho rằng biện pháp này rất hay, chúng ta đều có thể thử nghiệm một phen!”

Tô Thức thấy vậy cũng nói: “Đúng vậy! Nhưng mà, chuyện này có quan hệ vô cùng trọng đại, e rằng chúng ta phải thận trọng hơn bao giờ hết khi thực thi nó, lão phu nghĩ rằng chúng ta nên phân thành từng bước mà thực hiện, như vậy sẽ an toàn hơn!”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Tại hạ cũng nghĩ như vậy, trước tiên chúng ta sẽ bắt đầu tiến hành điều tra dân số, sau đó đem kết quả điều tra làm căn cứ để tiến hành Than Đinh Nhập Mẫu, các nhân khẩu về sau chúng ta sẽ không cho thêm họ vào mà đánh thuế nữa!”

Hà Tu và Tô Thức đều cùng gật đầu hiểu ý, Tô Thức nói: “Như vậy thì tốt! Chuyện điều tra dân số thì cứ để cho lão phu đi làm được rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn chắp tay nói: “Được vậy thì tốt quá! Phiền Tử Chiêm giúp tại hạ một phen!”

Ba người lúc này đang bàn tán thêm, thì có một đứa nhan dịch hốt hoảng chạy từ ngoài cổng vào bẩm báo nói: “Đỗ Ngự Y! Đại Lão Gia! Nhanh lên! Thánh Chỉ tới!”

“Thánh Chỉ?”

Cả ba người đều kinh ngạc sửng sốt, Tô Thức nói: “Có phải là chuyện Hoàng Thượng bổ nhiệm Đỗ đại nhân làm Tây Sơn Vương đó không?”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ rằng, có lẽ Hoàng Thượng muốn ban thưởng cho hắn trong việc dẹp tan giạc Tây Sơn hồi trước, nên trong lòng cũng khấp khởi mừng thầm nói: “Ở đâu vậy? Sao không có ai thông báo trước vậy?”

“Tiểu nhân cũng vừa mới biết mà thôi, tuyên chỉ công công vừa mới đem theo thị vệ từ kinh thành đến, đang trên đường tiến đến nơi đây đó ạ!” Viên nha dịch nhanh miệng đáp.

Để dễ bề mọi thứ, Đỗ Văn Hạo mấy hôm nay đều không mặc quan phục, mà toàn mặc bồ đồ thông thường. Chính vì vậy, nên mới nghe tên nha dịch này nói vậy, thì hắn đã vội vội vàng vàng chạy ra bên ngoài nói: “Vậy thì nhanh tay nhanh chân chuẩn bị hương án nhanh lên! Ta đi thay đồ đã!”

Khi Đỗ Văn Hạo vừa thay áo quần xong, thìở đại đường cũng đã bày xong hương án, tuyên chỉ thái giám cũng vừa vặn đem theo thị vệ đến nơi.

Đỗ Văn Hạo từ xa đã nhận ra vị tuyên chỉ công công kia không phải ai khác, mà chính là vị công công thân cận bên mình Hoàng Thượng Ninh công công, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn vội vã bước đến cúi người thi lế nói: “Ti chức Đỗ Văn Hạo, tham kiến Ninh công công!”

Ninh công công mặt lạnh như tiền, đến cả một nụ cười cũng không buồn nhếch lên, chỉ gật đầu bước đến trước bàn hương án, rồi dõng dạc đọc luôn Thánh Chỉ: “Đỗ Văn Hạo nghe chỉ!”

Đỗ Văn Hạo lập tức vén áo quỳ xuống tiếp chỉ.

Ninh công công lúc này mới mở chiếc cuộn vải màu vàng, rồi hắng giọng nói: “Hoàng Đế chiếu viết: “Các Đông Phủ, Đồng Đạt huyện Đỗ Văn Hạo, tự Văn Phàm, tự động lạm dụng binh quyền, cách chức Cấm Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Úy, Thành Đô Phủ Lộ Nhã Châu Thường Bình Thương Câu Quản, đi đầy ba năm, nộp phạt một ngàn lạng bạc để chuộc tội, khâm thử!”

Cách Chức? Đi đầy ba năm?

Đầu óc của Đỗ Văn Hạo ong hết cả lên, hắn không hiểu nổi rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì nữa! Ngoại trừ chức Ngự Y vẫn còn được giữ lại, thì hai cái chức vụ kai đều đã bị cách hết cả rồi, còn chức Tây Sơn Vương ư? Đừng có nằm mơ giữa ban ngày nữa! Không những bị cách chức còn bị đi đầy ba năm nữa! Cũng may là vẫn còn có nộp tiền chuộc tội!

Thời nhà Tống có thể dung tiền để chuộc tội, cũng có nghĩa là dùng tiền để thoát tội, bỏ ra một ngàn lạng bạc để thoát tội đi đầy ba năm, thực ra một ngàn lạng bạc này cũng chỉ là con số nhỏ, đối với Đỗ Văn Hạo thì nó chẳng đáng là bao cả.

Nhưng, Đỗ Văn Hạo không hề cảm thấy vui mừng vì chuyện hắn nộp phạt để đỡ phải bị đi đầy ba năm. Đầu óc của hắn giờ đây quay cuồng, không hiểu chuyện gìđang xảy ra nữa. Đỗ Văn Hạo theo phản xạ tự nhiên đưa mắt lên nhìn Ninh công công, thì chỉ thấy ông ta sắc mặt đanh lại, sau khi cuộn Thánh Chỉ lại, hai tay buông thong, trầm giọng nói: “Đỗ Vân Phàm tiếp chỉ thôi!”

Đỗ Văn Hạo vẫn chưa hồi tỉnh lại sau cú sốc trời giáng vửa rồi, còn Tô Thức và Hàn Tu hai người thì như ngây như dại, cũng may là hai người cũng đã từng nếm trải vị đắng của việc giàng chức này, nên vẫn giữ được bình tĩnh, hơn nữa bọn họ cũng không bị ảnh hưởng gì cả, mà chỉ có một mình Đỗ Văn Hạo là thê thảm nhất mà thôi.

Tô Thức lúc này mới thấp giọng nói nhắc nhở Đỗ Văn Hạo: “Vân Phàm huynh!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới sực tỉnh, hai tay đưa lên tiếp chỉ, sau đó nói lên một câu đa tạ long ân, rồi mới uể oải đứng dậy.

Đến lúc này, Ninh công công mới nở ra một nụ cười với hắn nói: “Vân Phàm huynh! Lão nô tuyên chỉ từ nơi xa xôi đến đây như vậy, mà huynh không mời nổi lão nô uống một tách trà hay sao?”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới ngớ người, mỉm cười nói: “Đúng rồi! Mời Ninh công công ra hậu đường uống trà!”

Hai người sau khi ra hậu đường, liền mỗi người một chỗ ngồi xuống, chờ cho đám người hầu lui ra hết, khép cửa lại xong rồi…

Đỗ Văn Hạo liền nhẹ nhàng rút trong người ra một tập ngân phiếu, cũng không biết là bao nhiêu, liền đưa cho Ninh công công.

Ninh công công miệng cười ha hả, sau đó liền đưa tay đỡ lấy, mặt mày của ông ta lúc này vô cùng vui vẻ nói: “Chuyến đi này đáng giá hai ngàn lạng cơ đây! Ha ha! Vân Phàm Thánh Chỉ nói rằng chỉ cần một ngàn lạng để chuộc tội thôi, cái này có…vẻ…hơi…bị…nhiều…”

“Công công đi đường vất vả rồi, nên tại hạ mới đưa thêm cho công công một chút, gọi là một ít lòng thành, mong công công vui lòng nhận lấy” Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói.

“Ha ha! Đỗ Ngự Y ra tay lúc nào cũng vẫn hào phóng như xưa vậy, lão nô cảm thấy hổ thẹn vô cùng!” Tuy ngoài miệng nói như vậy, nhưng Ninh công công đã cuộn đống ngân phiếu đó cho vào tay áo của mình rồi.

Đỗ Văn Hạo lần này tiêu tiền là muốn mua lấy tin tức, hắn muốn biết rốt cuộc là có chuyện gì xẩy ra với hắn, nên sau khi thấy Ninh công công nhận tiền rồi, bèn chắp tay nói: “Ninh công công! Trong Thánh Chỉ có nói là tại hạ lạm dụng binh quyền, rồi cách chức của tại hạ, tại hạ đến lúc này vẫn không tài nào hiểu nổi, mong Ninh công công chỉ dạy đôi điều!”

Ninh công công lúc liền nhấp một ngụm trà lên, rồi thấp giọng nói: “Đỗ lão đệ à! Không phải lão nô dọa lão đệ đâu! Lão đệ vừa từ quỷ môn quan quay về đó, lão đệ có biết không hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì kinh hãi vô cùng: “Hả? Rốt cuộc là có chuyện gì vậy?”

“Vậy lão nô hỏi lão đệ một câu nhé! Lần này ai là người cầm quân tiêu diệt bộ lạc Tây Sơn?”

“Là tại hạ!”

“Thế lão đế có được phép sử dụng binh quyền không?”

“Ồ!” Đỗ Văn Hạo cố gắng nhớ lại rồi đáp: “Không có, lẽ nào là vì lý do này sao?”

“Ha ha, Tây Chinh đại tướng quân Hà Tu mới là người cầm quân đánh giặc, tại sao lại thành lão đệ cầm quân đánh giặc được? Về phần thắng bại chúng ta không cần bàn đến vội, chỉ riêng cái việc lão đệ tự ý lạm dụng binh quyền này thôi, lão đệ cũng đã bị chặt đầu rồi!”

“Nhưng việc này là do Hàn tướng quân ủy quyền cho tại hạ! Ông ấy đem năm ngàn Cám Vệ Quân gi­ao cho tại hạ, để cho tại hạ chỉ huy, hơn nữa, tịa hạ cũng là Cấm Quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Úy mà!” Đỗ Văn Hạo càng nói càng thấy khó hiểu.

“Vân Phàm lão đệ! Tại sao lão đệ lại khôn ba năm mà dại một giờ như vậy cơ chứ? Cái chức đó của của lão đệ chẳng qua là một cái chức không, chỉ có hưởng bổng lộc, mà không được phép cầm binh, lão đệ đã hiểu chưa! Hàn tướng quân đem hậu quân cho lão đị thống lãnh, tuy là cũng là vi phạm vào việc lạm dụng binh quyền, nhưng cái này không nghiêm trọng lắm, nếu chỉ là việc cỏn con như vậy thì cũng không thể trị tội lão đệ được! Nếu như lão đệ ngoan ngoãn dẫn quân đến Thành Đô Phủ Lộ gi­ao cho Hàn tướng quân thì cùng lắm là chỉ bị phạt một ít bổng lộc vậy thôi! Nhưng mà, lão đệ lại làm một việc vô cùng ngu ngốc, không thể nào cứu chữa nổi!”

“Chuyện gì vậy?”

“Chiêu binh mãi mã!”

“À! Cái này…Công công có lẽ không biết, lúc đó việc quân khản cấp, quân Tây Sơn đã vây quanh kinh thành rồi, mà các lộ quân Thành Đô lúc đó cũng đã đại bại, trước sau đều không có quân đội, nếu như tại hạ không lập tức chiêu binh mãi mã đến giải vây, e rằng Thành Đô thất thủ thì vô vàn bách tính trăm họ sẽ chết một cách vô cùng thê thảm!”

“Đỗ lão đệ! Sao lão đệ không biết suy nghĩ nó chu đáo hơn một chút?” Ninh công công thấp giọng nói: “Thành Đô thất thủ thì thôi chứ làm sao! Khi đó Hoàng Thượng lại phái binh đến đoạt lại, lão đệ sao phải lo cái chuyện này thay cho Hoàng Thượng làm gì? Lại còn chiêu binh mãi mã, thành lập một đại quân đến mấy vạn người, đây có phải là việc lão đệ phải làm không? Còn nữa, mấy ngày trước, lão đệ lại lấy lý do các bộ lạc Thổ Phồn muốn cướp lại Tây Son lại tiếp túc khuếch trương binh lực, việc này có nghĩa là gì? Nói nghiêm trọng thì là mưu phản! Nếu lúc đó lão đệ ngoan ngoãn ngồi chờ viện binh đến đoạt lại Nhã Châu, rồi tiến hành biến pháp như vậy có tốt hơn không? Nhưng lão đệ lại cứ thích nhảy lên làm tướng quân, động đến binh quyền làm gì có chuyện đơn giản như vậy! Đỗ lão đệ à! Lão đệ có thể làm mọi thứ, nhưng binh quyền tuyệt đối đừng có dây dưa vào, đây là câu nói tâm huyết nhất của lão nô dành cho lão đệ đó!”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới hiểu ra vấn đề, bây giờ hắn mới hiểu đúng là hắn đã làm một việc vô cùng dại dột!

Thời nhà Tống binh quyền là một việc vô cùng kiêng kỵ, từ Tống Thái Tổ bãi quyền các tướng bắt đầu, qua đến mấy đời Hoàng Đế, ai cũng nghĩ ra đủ mọi cách để khống chế binh quyền, phân tán binh lực trong tay của các tướng quân, thời Tống là trọng văn khinh võ, quan văn cầm binh rất nhiều, để có thể khống chế binh quyền, Hoàng Đế đã dùng hết mọi cách, mục đích chỉ có một đó là Hoàng Thượng nắm hết binh quyền trong tay, nghiêm cấm bất kỳ ai cầm binh, rồi cắt đất xưng vương.

Đỗ Văn Hạo chiêu binh mãi mã, đã phạm đúng vào điều đại kỵ này của Hoàng Thượng, cho dù Tống Thần Tông đã cho phép hắn được thành lập một đội quân ở Tây Sơn, nhưng ý của Hoàng Thượng là xây dựng quân đội ở biên giới bộ lạc Tây Sơn, mục đích là lấy quân đội của Thổ Phồn chống lại Thổ Phồn, chứ không phải là cho phép hắn chiêu binh mãi mã trong khu vực Nhã Châu, hay bất kỳ nơi khác của Đại Tống, đã thế hắn còn hai lần gia tăng binh lực, chính vì thế nên mới có hậu quả như ngày hôm nay.

Ninh công công nói: “Những hành động của lão đệ các Ngự Sử Đài đều biết hết cả, nên đều tấu trình lên Hoàng Thượng, tất cả bọn họ đều nói y luật trị lão đệ, sau khi cách chức lão đệ xong sẽ áp giải lão đệ đến Đại Lý Tự chặt đầu trị tội!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì giật thót tim, hắn cảm thấy mồm miệng của hắn đắng ngắt cả lại, cổ của hắn cảm thấy ngưa ngứa, cứ như đang có một lưỡi dao sắc lạnh đang kề lên trên đó vậy.

Ninh công công lại nhấp thêm một ngụm trà nữa nói: “Hoàng Thượng sau khi nhận tấu trình xong vô cùng tức giận, vốn định phái Tiền Điện Thị Vệ đến đây để bắt lão đệ, nhưng Thái Hoàng Thái Hậu biết được bèn đem theo Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu đến căn ngăn Hoàng Thượng, hề hề! Lão đệ công nhận có một hậu phương vững chắc thật đấy, đến cả Lâm Tiệp Trữ, Chu Đức Phi nương nương cũng đến cầu cứu Hoàng Thượng tha cho lão đệ! Tất cả bọn họ đều nói hành động của lão đệ là vì an nguy của sơn hà xã tắc, nên mới làm như vậy, sau khi tiêu diệt xong quân Tây Sơn lão đệ đã gi­ao lại binh quyền cho Hàn tướng quân rồi, nếu như nói lão đệ lam dụng binh quyền thì cũng đều có thể hiểu được! Tất cả mọi người đều bảo Hoàng Thượng giảm nhẹ tội trạng của lão đệ. Hoàng Thượng lúc sau mới hết giận, sau đó viết sớ gi­ao cho Đại Lý Tử xem xét, rồi bảo bọn họ cho ý kiến!”

Đại Lý Tự lúc đó tương đương với tòa án tối cao thời hiện đại, Đỗ Văn Hạo không ngờ là mình đã phạm vào một trọng tội như vậy, giờ đây hắn còn làm kinh động đến cả tòa án tối cao nữa.

Đỗ Văn Hạo bất giác cười cổ, không biết ai đã giúp hắn qua khỏi cơn nguy cấp này nữa.

Ninh công công tiếp tục nói: “Mấy tên khốn của Đại lý Tự đó không những không giúp lão đệ, mà còn chơi trò đổ thêm dầu vào lửa, ai cũng muốn lão đệ phải chịu tội chết mới cam lòng, như vậy càng tôn lên vẻ quyền uy của chúng! Sauk hi thương lượng, tất cả bọn chúng đều thống nhất tội trạng của lão đệ, đáng bị bị treo cổ! Gia sản của lão đệ sung công hết! May mà Thái Hoàng Thái Hậu có người ở Đại Lý Tự nên sau khi biết chuyện, lão tổ tong gọi Đại Lý Tự Khanh và Ngự Sự Thái Trung Thừa đến chửi cho một trận, sau đó bọn họ quay về sửa lại tội trạng thành cách chức, đi đầy ba năm!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì không biết nói thế nào cho phải, những người này sao mà lại ác độc đến như vậy, hắn một lòng tận trung với triều đình mà không ngờ lại bị đối xử như vậy, trong lòng hắn bỗng nhiên trở nên băng giá vô cùng.

Ninh công công thấy vẻ mặt rũ rượi của Đỗ Văn Hạo, bèn đưa tay lên vỗ vỗ vào vai hắn nói: “Đỗ lão đệ! Cũng may mà ngày trước lão đệ cứu được thập tứ Hoàng Tử, Lâm Tiệp Trữ liều mình cầu xin cho lão đệ, Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu và Hoàng Hậu cũng năm lần bảy lượt đến cầu cạnh Hoàng Thượng! Lão đệ y thuật như thần, là một nhân tài hiếm có, nhưng màđi đầy ba năm thì nặng quá, do vậy Hoàng Thượng sau khi suy ngẫm bèn cho lão đệ cái quyền chuộc tội!”

Chương 322: Tứ phương tầm y.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo lúc này vô cùng thất vọng, hắn hiện giờ cảm thấy bản thân mình không thể nuốt trôi kết quả tồi tệ như thế này. Hắn không ngờ rằng hắn hết lòng hết sức vì triều đình, thậm chí quên mình liều chết để đánh đuổi quân Tây Sơn ra khỏi bờ cõi Đại Tống, vậy mà lại bị coi là lạm dụng binh quyền, có ý tạo phản. Còn gì đau đớn hơn chuyện mình vì người ta mà sống chết, tận tâm như vậy mà bị coi là phản nghịch, nhưng, ngẫm nghĩ lại một lúc Đỗ Văn Hạo lại chẳng thấy có gì phải hối tiếc cả, bởi vì cũng trong đời nhà Tống này có một vị tướng tên Nhạc Phi, chiến công của ông ta còn hiển hách hơn hắn gấp hàng ngàn, hàng vạn lần rồi cuối cùng cũng bị Hoàng Đế Đại Tống chặt đầu.

So với Nhạc Phi thì hắn cảm thấy mình may mắn hơn ông ta rất nhiều. Bây giờ, Đỗ Văn Hạo nghĩ đến các vị nương nương cùng với Thái Hoàng Thái Hậu lo lắng cho mình như vậy, thì cũng cảm thấy được an ủi rất nhiều, nghĩ vậy hắn bèn hướng về hướng đông, rồi quỳ xuống dập đầu nói: “Đa tạ lão tổ tông! Đa tạ các vị nương nương, không có các vị thì Đỗ Văn Hạo giờ đây đã hồn bay dưới suối vàng rồi! Công ơn to lớn của các vị, Đỗ Văn Hạo ngàn đời cũng không dám quên ơn! Nếu kiếp sau có duyên gặp lại, Văn Hạo xin nguyện đem hết sức mình ra báo đáp công ơn!” Nói xong Đỗ Văn Hạo lập tức dập đầu xuống đất kêu lên côm cốp mấy tiếng, rồi mới thẳng người đứng dậy.

Ninh công công đứng cạnh đó trông thấy Đỗ Văn Hạo đau đớn như vậy, cũng cảm thấy mủi lòng, bèn lên tiếng an ủi hắn: “Đỗ lão đệ! Lão đệ đừng buồn nữa, ít ra thì Hoàng Thượng cũng chỉ là cách chức cầm quân của lão đệ thôi! Còn chức Ngự Y thì vẫn còn, ngay cả cái túi Tử Y Kim Đái cũng có thu lại đâu! Do vậy Đỗ lão đệ vẫn còn nhiều hy vọng lắm!”

Đỗ Văn Hạo vẫn vô cùng buồn bã đáp: “Chắc Hoàng Thượng thấy cái tay nghề y thuật của tại hạ vẫn còn dùng được, nên mới không thu về đó thôi!”

“Hề hề! Đỗ lão đệ à! Lão đệ đừng nản chí như vậy chứ! Cái chức tướng quân Điện Tiền Ti Võ Đức Kỵ Úy đó chẳng qua là một cái chức có tiếng mà không có miếng, còn cái chức Nhã Châu Câu Quản thì cũng bé tí tẹo, chẳng có gì gọi là hấp dẫn cả! Lão nô trên đường đi đến đấy để ý thấy bọn dây nơi đây, chẳng khác gì bọn man di mọi rợ, cà răng căng tai cả, ta thấy nơi đây không thích hợp cho lão đệ chút nào cả!”

“Vậy thì tại hạ phải đi đâu bây giờ? Hoàng Thượng có thêm chỉ thị gì không?” Đỗ Văn Hạo hỏi lại.

“Cái này thì trước mắt Hoàng Thượng vẫn chưa đề cập đến gì cả! Nhưng mà, bây giờ cái chức Câu Quản của lão đệ cũng đã bị cách đi rồi, cái Nhã Châu này thì lão đệ không còn ở thêm một giây một phút nào nữa cả!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì buồn rầu nói: “Biến pháp cũng chỉ vừa mới bắt đầu ở Nhã Châu một thời gi­an ngắn, bây giờ tại hạ không còn ở đây nữa, thì phải làm sao bây giờ?”

Ninh công công nghe vậy thì mỉm cười nói: “Cái này thì Hoàng Thượng cũng đã dặn dò rồi, biến pháp nơi đây sẽ gi­ao cho Tô Thức, Tô Chi Châu đại nhân tiếp tục tiến hành, lão đệ chỉ việc đem những ý tưởng của mình ra nói cho ông ta biết, để ông ta tiếp tục hoàn thành là được rồi. Lần này, vốn cả Tô Thức cùng với Hàn Tu cũng sẽ chịu chung hình phạt lạm dụng binh quyền với Đỗ lão đệ. Nhưng, Hoàng Thượng nói rằng hai người bọn họ sau khi đến đây nhậm chức, cũng đã vô cùng vất vả, khó khăn rồi, như vậy cũng đông nghĩa với việc bọn họ đã chịu sự trừng phạt rồi. Công việc cải cách của Nhã Châu vẫn còn rất nhiều gập ghềnh trắc trở, hãy để cho hai người đó đem công chuộc tội mà hoàn thành nốt công việc đang còn dang dở này. Chính vì thế mà Hoàng Thượng không hạ chỉ trừng phạt hai người bọn họ nữa, nhưng mà lão nô cũng sẽ nói cho bọn họ biết sự lợi hại của sự việc lần này.”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cảm thấy có lỗi vô cùng: “Cái này tất cả đều do tại hạ làm liên lụy đến hai người bọn họ cả!”

“Không hẳn như vậy! Đỗ lão đệ trẻ người non dạ, còn hai người kia thì tuổi già kinh nghiệm phong phú, nhẽ ra phải tìm đủ mọi cách ngăn cản Đỗ lão đệ lạm dụng binh quyền như vậy. Nhưng, bọn họ không những không ngăn cản, mà lại còn hùa theo lão đệ, như vậy chẳng khác nào làm hại lão đệ cả. Chính vì vậy mà nói theo cách khác thì chính bọn họ mới là người hại lão đệ, chứ không phải lão đệ hại họ. Đỗ lão đệ đã hiểu chưa vậy?”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì vội vã lên tiếng giải thích: “Không phải như vậy! Bọn họ cũng đã khuyên can tịa hạ rồi, chỉ là tại hạ cứng đầu không nghe mà thôi!” Nói đến đây Đỗ Văn Hạo ngập ngừng giây lát, rồi lại buồn buồn nói: “Đem công việc tại đây gi­ao cho bọn họ, vậy thì tại hạ làm gì bây giờ? Lẽ nào lại quay về kinh thành tiếp tục làm Ngự Y sao?”

Ninh công công nghe xong bèn lắc đầu nói: “Tạm thời lão đệ đừng về kinh thành vội, Ngự Sử Đài đang dâng tấu nói rằng Hoàng Thượng xử phạt lão đệ như vậy là quá nhẹ, có phần thiên vị lão đệ một cách thái quá! Chính vì thế mà bọn chúng vẫn quyết tâm không muốn buông tha cho lão đệ, bọn chúng vẫn cứ dựa vào cái tội lạm dụng binh quyền của đệ mà cáo buộc! Còn nói Hoàng Thượng quá nuông chiều lão đệ, nếu không trị tội lão đệ e rằng sẽ thành nội loạn. Bọn chúng giờ đây ngày nào cũng tấu trình Hoàng Thượng yêu cầu rút lại mệnh lệnh, bắt lão đệ về kinh thành trừng trị, cũng may mà có lão tổ tông đỡ cho một phần, nhưng đám Ngự Sử Đài này đều là những lão thần trong triều, khí thế vô cùng thịnh. Hoàng Thượng giờ đây cũng cảm thấy khó xử, nên luôn tìm cách trốn tránh bọn họ, bây giờ mà lão đệ lại thò mặt về kinh thành thì chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa, làm khó cả Hoàng Thượng lẫn lão tổ tông cả! Chính vì vậy mà trước khi lão nô đến đây, lão tổ tông đã dặn dò ta khuyên lão đệ lẩn tránh đi một thời gi­an, chờ cho gió yên biển lặng rồi hẵng tính tiếp. Lão đệ cố gắng phiêu bạt bên ngoài vài năm, chờ mọi chuyện im ắng rồi Hoàng Thượng sẽ hạ chỉ truyền lão đệ về cung!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thất vọng đến cùng cực, thậm chí có lúc hắn đã có ý nghĩ buông xuôi tất cả: “Ninh công công! Nếu như bị đi đầy thì sẽ đi đầy đến đâu vậy?”

Ninh công công nghe xong có phần kinh ngạc, nhưng cũng trả lời: “Những nới bị đầy đều cách kinh thành khoảng tầm ba ngàn dặm đường, ví dụ như Thành Đô Phủ Lộ này, nơi đây cũng có khá nhiều tù nhân bị đầy đến đây. Ngoài ra còn có Chương Châu Lộ, Túc Châu Lộ Nam Bộ, Quảng Nam Tái Lộ, Phúc Kiến Lộ, tất cả những nơi này đều thuộc vào phạm vi bị đi đầy. Mấy nơi này đều là các nơi mà bọn man di mọi rợ sinh sống, cuộc sống của những nơi này vô cùng khó khăn, khổ cực. Nhưng mà, Đỗ lão đệ cứ an tâm! Có lão tổ tông che chở cho lão đệ rồi, bọn Ngự Sử Đài cũng không có cách nào động đến một cái lông chân của lão đệ đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thở dài một tiếng rồi nói: “Thôi, bỏ đi! Tại hạ không muốn làm phiền mọi người nhiều như vậy nữa, bọn Ngự Sử Đài không phải là muốn đầy tại hạ đến những nơi như vậy sao? Tại hạ cũng chẳng thấy có gì mà phải sợ cả! Tại hạ chiều hết, đi đầy thì đi đây chứ có gì mà đáng sợ như vậy! Những nơi đó chắc cũng cần đến đại phu chứ! Thôi thì tại hạ dùng ba năm đi đầy của mình dùng nghề y chữa bệnh cho những người dân ở đó vậy! Đây coi như là một cách chuộc lại tội lỗi của mình!”

Ninh công công nghe vậy thì thất kinh, ông ta đưa luôn tay ra vỗ lên vai của Đỗ Văn Hạo kêu bốp lên một tiếng nói: “Đừng có ngốc ngếch như vậy chứ lão đệ! Lão tổ tông và Hoàng Thượng tìm đủ mọi cách để che đỡ cho lão đệ như vậy, mà sao lão đệ lại làm thế hả! Đỗ lão đệ hành động như vậy chẳng khác nào khinh thường mấy người bọn họ cả! Đỗ lão đệ à! Lão đệ đừng có nản chí như vậy, lão đệ vừa rồi nói đi chữa bệnh cho thiên hạ cũng là một ý kiến vô cùng sáng suốt! Hoàng Thượng cũng đã nói để Đỗ lão đệ hành y thiên hạ rồi đem y thuật của mình ra truyền thụ cho người khác, nếu mà chỉ có mỗi một mình lão đệ y thuật cao diệu, thì cả đời lão đệ liệu có thể chữa khỏi được bao nhiêu người? Nếu lão đệ chịu khó đem sở học của mình ra truyền thụ cho người khác, để người ta kế tục được y thuật cao siêu ủa lão đệ, lúc đó thì khắp thiên hạ sẽ có thêm nhiều vị y giả có y thuật cao siêu như lão đệ, và đó cũng là hông phúc của bách tính! Đỗ lão đệ cũng đừng chỉ đi mỗi một nơi như vậy, còn rất nhiều nơi, nhiều người nữa đang chờ lão đệ đến cứu chữa, như vậy Đỗ lão đệ mới có thể chữa bệnh được cho rất nhiều người!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì hồ nghi hỏi lại: “Hoàng Thượng có thật là nói như vậy không?”

Ninh công công nghe xong thì chỉ mỉm cười, rồi đưa tay lên cổ mình ra hiệu: “Đỗ lão đệ à! Lão nô vẫn còn muốn giữ cái đầu đội nón này của ta lắm, không muốn nó bị rơi xuống sớm như vậy cả! Cho dù lão nô có to gan lớn mật thế nào đi chăng nữa, lão nô cũng không dám giả truyền ý chỉ như vậy đâu! Đây là khẩu dụ của Hoàng Thượng, nói rằng lão đệ có thể dùng chức Ngự Y mà tầm y, đây cũng là một cách lập công chuộc tội! Bây giờ lão nô còn phải hồi kinh bẩm báo cho Hoàng Thượng đã! Đỗ lão đệ mấy năm này tứ phương tầm y, truyền thụ y đạo, cứu chữa dân chúng cũng sẽ vô cùng vất vả, thôi thì như vậy cũng giảm nhẹ phần nào tội lội mà lão đệ đã gây ra!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền đáp: “Thôi thì đành thế vậy! Nếu đã là khẩu dụ của Hoàng Thượng thì tại hạ đành tuân lệnh vậy! À còn việc này nữa! Ở thành Nhã Châu này tại hạ đã dựng lên một công ty vay vốn trách nhiệm hữu hạn Huệ Dân, bây giờ tại hạ lại phải rời đi như vậy, thì không biết công ty sẽ vận hành ra sao, tại hạ đã từng đảm bảo cho các cổ đông trong công ty rằng các chính sách của chính phủ đối với công ty không gì có thể thay đổi được! Chính vì vậy mà tại hạ hy vọng rằng người kế nghiệp của tại hạ đừng để các cổ đông trong công ty phải chịu thiệt, đừng để tại hạ đã bị giáng chức như vậy, lại còn ôm thêm cái tiếng xấu nữa!”

Ninh công công nghe xong mỉm cười nói: “Cái này thì Đỗ lão đệ cứ việc an tâm lớn đi! Hoàng Thượng đã nói rồi, các cải cách biến pháp của lão đệ vẫn sẽ được duy trì như xưa! Hoàng Thượng rất muốn xem thành quả của việc biến pháp sẽ ra sao, lão nô cũng sẽ dặn dò với Tô Thức, bảo ông ta phải áp dụng hoàn toàn tất cả các đường lối của lão đệ vào công việc cải cách ở đây!”

“Cũng không cần thiết phải bê nguyên vào như vậy, hy vọng Tử Chiêm huynh có thể linh động, biến hóa nó, bởi vì ngay cả bản thân tại hạ cũng không biết hiệu quả của việc biến pháp sẽ cho kết quả ra sao! Chỉ cần làm cho biến pháp có lợi cho cả dân chúng, lẫn triều đình là được rồi, nếu cần thì cứ cải tiến không sao cả, biến pháp mà! Làm gì cũng phải mò mẫm mà ra cả thôi!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Được thôi! Nếu như vậy thì lão nô sẽ chuyển lời này của lão đệ cho Tô Thức biết” Ninh công công cười nói.

Sau khi nói chuyện xong với Đỗ Văn Hạo, thì Ninh công công cho gọi thêm Hàn Tu và Tô Thức lại, rồi mắng cho cả hai người một trận. Cả Hàn Tu lẫn Tô Thức nghe xong đều sợ đế toát mồ hôi hột, luôn miệng cáo lỗi, sau đó lại hướng về phía đông tạ ơn Hoàng Thượng.

Tiếp sau đó là Đỗ Văn Hạo bàn gi­ao những công việc còn lại trong biến pháp cho Tô Thức.

Trong lúc hai người đang bận rộn thu xếp thì Lão Cưu của Lạc Diêu Viện đến bái kiến.

Đỗ Văn Hạo lúc này chẳng còn tâm chí đâu giải quyết các việc vụn vặt khác, nhưng do hắn đã nhúng tay vào rồi, nên cũng không tiện từ bỏ giữa chừng, vì thế mà khi nghe có Lão Cưu đến, hắn liền đi ra ngoài gặp mặt. Khi vừa ra đến ngoài cổng, thì Đỗ Văn Hạo đã trông thấy bà ta đứng dưới bóng cây, tay không ngừng phành phạch cái quạt. Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ trời trưa nắng gắt như thế này không biết con mụ Tú Bà này đến đây tìm mình làm gì không biết.

“Đỗ đại nhân! Thảo dân đúng là hết cách rồi mới đến tìm đại nhân!” Lão Cưu trông thấy Đỗ Văn Hạo đi ra khỏi cổng, bèn vội vã bước đến nghênh đón.

“Có chuyện gì vậy?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

Lão Cưu sau một hồi nhìn ngang nhìn dọc, rồi dáng điệu vô cùng khó sử nói: “Là Lãnh Nguyệt bị bệnh rồi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười nhạt nói: “Ngươi không phải là bảo ta đi chữa bệnh cho khoa hôi của ngươi đấy chứ?” Lão Cưu nghe xong thì sợ hãi đến độ mặt cắt không còn hột máu, vội vàng giải thích: “Không! Không phải đâu ạ! Do Lãnh Nguyệt một mực đòi gặp đại nhân đó ạ! Thảo dân nói thế nào cũng không được, chính vì vậy mà thảo dân mới đến đây tìm đại nhân!”

“Muốn gặp ta sao?” Đỗ Văn Hạo biết Lãnh Nguyệt muốn tìm hắn thì chắc chắn là có việc, nhưng mà hắn vẫn cứ giả bộ kinh ngạc.

“Vâng! Đúng vậy, Lãnh Nguyệt muốn gặp đại nhân!” Lão Cưu nhắc lại.

Đỗ Văn Hạo ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Vậy thì ngươi kêu Lãnh Nguyệt cô nương ra đây đi, sau đó sẽ tìm nơi nào đó để nói chuyện, bây giờ ta đang rất bận, không có thời gi­an!”

Lão Cưu nghe xong thì cảm kích đến rớt nước mắt đáp: “Vâng! Vậy thì đại nhân xem chúng ta gặp mặt nhau ở đâu thì tiện ạ? Tối nay thảo dân sẽ đưa Lãnh Nguyệt cô nương đến gặp đại nhân!”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, cái nơi nhơ bẩn đó ta thèm gì đến, bèn nói: “Đến cái đình phía trước mặt kia kìa!”

“Vâng! Vâng, được ạ! Vậy thảo dân xin được phép cáo từ!” Lão Cưu nói xong bèn vội vã cáo lui.

Bàng Vũ Cầm không biết tự lúc nào đã đứng bên cạnh Đỗ Văn Hạo: “Bà ta chính là Lão Cưu của Lạc Diêu Viện hả?”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy bèn quay đầu lại gật gật đầu. Lần trước sau khi ra về từ Lạc Diêu Viện hắn đã đem tất cả mọi chyện cho Bàng Vũ Cầm nghe rồi, nên giờ đây Bàng Vũ Cầm mới hỏi câu như vậy.

Bàng Vũ Cầm nói tiếp: “Sao vậy? Kha Nghiêu muốn gặp chàng sao?”

“Đúng vậy!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Vậy nàng ta có biết rằng chúng ta đã đem bút tích của nàng ta ra, đem ra so sánh với bút tích của bức thư trong cái trạch viện trên núi của Kha gia không?”

“Không biết, thôi chờ đến lúc gặp thì chúng ta sẽ biết Kha Nghiêu tìm ta có việc gì!” Đỗ Văn Hạo đáp

Hai canh giờ sau, bên chiếc đình cạnh doanh trại quân đội của Đỗ Văn Hạo.

Hoàng hôn như huyết, trời bỗng nhiên rơi tí tách những hạt mưa nhỏ xuống, khi Đỗ Văn Hạo bước đến chiếc đình, thì cách đó không xa có một cỗ xe ngựa dừng ngay dưới gốc cây gần đấy, sau đó một bóng hồng mặc bộ áo váy màu xanh nhạt bước xuống, rồi đi vào chiếc đình.

Kha Nghiêu vẫn bận bộ áo váy lần trước, khi nàng lần đầu gặp Đỗ Văn Hạo, chiếc cổ tay màu xanh lục, chiếc váy màu xanh nhạt được che bởi chiếc khăn màu xanh ngọc, cổ áo hình lá sen màu xanh thanh đạm. Vẻ đẹp của Kha Nghiêu hòa quyện với màu xanh, làm cho nàng trở nên thanh tú, đôi lông mày cong như vẽ, đôi mắt sáng trong dịu dàng, mái tóc để xõa đen nhánh, trông vô cùng tao nhã. Mưa nhỏ lách tách làm nàng phải bật ô lên che, những bước chân nàng uyển chuyển như chuồn chuồn chạm nước, dáng vẻ của nàng lúc này hoàn toàn hòa quyện vào một màu xanh trang nhã, tự nhiên.

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn bước gần tới Lãnh Nguyệt, nhưng dường như Lãnh Nguyệt đang mải suy nghĩ, nên không thấy phát hiện bên cạnh mình lúc này đã có thêm một người khác, chờ đến khi Đỗ Văn Hạo lên tiếng, thì nàng mới giật mình, tỉnh lại.

“Đỗ đại nhân đã đến rồi sao?” Lãnh Nguyệt cười hỏi.

Đỗ Văn Hạo cũng cười đáp: “Không phải là ngươi bị bệnh hả? Sao lại không đứng đợi ta trong kia, mà cứ đứng bên ngoài này dầm mưa vậy?”

“Tiểu nữ thích cảm giác đứng trong mưa rơi mà trông cảnh vật xung quanh mìn, thật là tuyệt diệu!”

“Thôi! Chúng ta vào trong đình ngồi đi, ta có mang theo ô đâu!” Đỗ Văn cười nói.

Lãnh Nguyệt cũng mỉm cười đáp lại, sau đó hai người liền cùng nhau bước vào trong chiếc đình nói chuyện.

Sau khi hai người đã an tọa, thì Lãnh Nguyệt lên tiếng: “Đỗ đại nhân! Hôm nay tiểu nữ tìm người đến đây là có việc cần đại nhân giúp đỡ!”

“Ngươi cứ nói!”

“Tiểu nữ muốn nói với đại nhân về chuyện hôm trước đại nhân đã hỏi tiểu nữ về chuyện Kha gia, tiểu nữ…”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn nói: “Không phải lần trước ngươi đã phủ nhận rồi sao?”

“Dạ! Tại lần trước tiểu nữ không tiện nói ra…” Lãnh Nguyệt đáp.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng thấu hiểu cho nàng nói: “Vậy lần này ngươi đến tìm ta rốt cuộc là có chuyện gì vậy?”

“Tiểu nữ muốn nhờ đại nhận giúp tiểu nữ thông báo cho nhị thúc biết! Đại nhân cứ nói rằng, tiểu nữ không yêu cầu ông ấy đến chuộc tiểu nữMà chỉ cần ông ấy nhớ đến việc thắp hương, thờ phụng cha mẹ của tiểu nữ thôi! Nếu được như vậy thì Kha Nghiêu cảm kích vô cùng!”

Đây là lần đầu tiên Lãnh Nguyệt nói đến thân phận của mình, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn không thể hiểu nổi tại sao nàng lại muốn như vậy, lẽ nào người nhà của nàng không biết nàng không còn ở trong trạch viện của Kha gia nữa?

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn nói: “Vậy ngươi nói cho ta biết nhị thúc của ngươi hiện giờ đang ở đâu, để ta còn tiện bề mà nhắn tin!”

Lần này thì đến lượt Lãnh Nguyệt tỏ ra kinh ngạc nói: “Lẽ nào đại nhân không hề biết nhà của tiểu nữ ở đâu sao? Vậy đại nhân từ đâu mà biết được tiểu nữ là người của Kha gia vậy?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Ý của ngươi nói là khu trạch viện ở trên núi phải không?”

“Đúng vậy!”

“Đó là một trạch viện hoang vắng, không có ai ở! Khi ta và mọi người đến đó thì chẳng thấy một bóng người nào cả, khi đó là do ta và mấy người nữa đi hái rau rừng mới phát hiện ra khu trạch viện đó” Đỗ Văn Hạo nói.

Kha Nghiêu nghe xong thì không còn tin nổi vào đôi tai của mình nữa, chỉ ngây dại ngồi đó, hai mắt trợn tròn lên nhìn Đỗ Văn Hạo nói: “Sao lại có thể như vậy được cơ chứ? Vậy tam thúc, tứ thúc và cô cô của tiểu nữ, bọn họ giờ này đang ở đâu?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta cũng thấy khu trạch viện đó đồ đạc vẫn còn nguyên vẹn, nên cũng thắc mắc tại sao lại như thế! Sau khi cho người đi điều tra, thì mới điều tra ra tung tích của ngươi!”

Kha Nghiêu nghe xong thì lắc đầu không tin nói: “Không thể như thế được! Vậy đại nhân có trông thấy mấy ngôi mộ mới đắp đằng sau viện chưa?”

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Mấy ngôi mộ đó là do ngươi đắp hả?”

Kha Nghiêu lắc đầu đáp: “Không phải! Không phải tiểu nữ đắp lên! Tiểu nữ cũng không biết người nào đã làm việc đó cả! Tiểu nữ chỉ biết mấy ngôi mộ đó là của Cha, mẹ cùng với chị và em gái của tiểu nữ mà thôi!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng cảm thấy kỳ lạ, nên hỏi: “Vậy ngươi từ đâu mà biết được chuyện này?”

Kha Nghiêu nghe xong thì vô cùng buồn bã đáp: “Đó là do một ngày, Lão Cưu đưa tiểu nữ đến tiệm vải may quần áo, ở đó tiểu nữ gặp lại người làm ngày trước của Kha gia, chính là bà ấy tiết lộ cho tiểu nữ biết!”

Đỗ Văn Hạo lúc này cảm thấy sự việc có vẻ ly kỳ nên hỏi: “Vậy ngươi có thể cho ta biết, ngươi vì sao mà phải dấn thân vào Lạc Diêu Viện không?”

“Tiểu nữ bị như ngày hôm nay là do nhị thúc của tiểu nữ bán vào trong này!” Kha Nghiêu nói đến đây thì thần thái của nàng trở nên vô cùng tĩnh lặng.

“Nhị thúc của ngươi?” Đỗ Văn Hạo cả kinh nói.

“Vâng, chính là nhị thúc của tiểu nữ!” Kha nghiêu đáp.

“Nhị thúc của ngươi tại sao lại đang tâm bán cháu gái của mình vào cái nơi nhơ bẩn như vậy chứ?” Đỗ Văn Hạo phẫn nộ hỏi.

“Câu chuyện dài lắm! Đó là chuyện của ba tháng về trước, ngày hôm đó tiểu nữ cùng với con gái của nhị thúc Kha Uyển cùng vào trong thành vui chơi, nhưng đúng lúc đó thì tên thủ lĩnh quân Tây Sơn trông thấy tiểu nữ, nhưng bọn chúng cũng biết gia thế của Kha gia ở Nhã Châu ra sao, thế nên không ai dám làm bừa. Mấy hôm sau đó, thủ lĩnh của Tây Sơn bèn cho người đến kết thân, nhưng cũng chỉ biết tiểu nữ và một người chị họ trong nhà là mười sáu tuổi, vừa vặn tuổi lấy chồng, bọn chúng bắt Kha gia phải gả một trong hai người tiểu nữ và người chị họ của tiểu nữ con nhị thúc cho thủ lĩnh của chúng. Đúng vào lúc đó, thì cha của tiểu nữ là người nắm quyền trong nhà, vì cha của tiểu nữ muốn bảo vệ cho tiểu nữ, nên quyết định đưa người chị họ kia ra mắt tên thủ lĩnh kia, người chị họ của tiểu nữ từ nhỏ mắc phải một căn bệnh lạ, nên bị mù một bên mắt. Tên thủ lĩnh kia không chịu, chính vì vậy mà Kha Uyển bị chúng bắt lấy đi!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây cũng chẳng hiểu gì cả nên hỏi: “Vậy nhị thúc của ngươi làm thế nào mà biết chuyện này?”

Kha Nghiêu đáp: “Chắc là do Kha Uyển nói cho ông ta biết, đúng vào ngày Kha Uyển lên xe hoa, thì nhị thúc của tiểu nữ đã bỏ thuốc vào trong bình trà, sau đó đem tiểu nữ bán cho Lạc Diêu Viện, và còn dặn dò Lão Cưu rằng, trong vòng một tháng không được để tiểu nữ lộ diện ra ngoài. Bây giờ ngẫm lại, tiểu nữ thấy rằng nhị thúc muốn giết hết cả nhà của tiểu nữ để trả thù!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn nói: “Vậy theo ý của ngươi là, nhị thúc của ngươi đã giết toàn bộ gia đình ngươi ư?”

Kha Nghiêu nghe vậy thì im lặng gật đầu không đáp.

Đỗ Văn Hạo nghi hoặc nói: “Nhưng sao ta lại nghe nói là, cha của ngươi mới là người giết toàn bộ người nhà của ngươi?

Lãnh Nguyệt nghe xong thì xúc động vô cùng: “Không thể như thế được! Sao lại có chuyện như vậy? Mẹ của tiểu nữ đang mang thai, cha và mẹ của tiểu nữ đều rất yêu thương nhau, làm gì có chuyện hoang đường như vậy được!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Nhưng, toàn bộ Kha gia trong một đêm tại sao lại không còn một bóng người nào nữa vậy?”

Kha Nghiêu ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: “Chưa hẳn đã là như vậy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cảm thấy vô cùng khó hiểu nói: “Sao ngươi lại nói như vậy? Ta đã vào đó xem rồi, đúng là không có một bóng người nào cả!”

Kha Nghiêu đáp: “Bẩm đại nhân! Trong trạch viện của Kha gia có một đường hầm bí ẩn, nó dẫn trực tiếp ra một khu biệt khác ở đằng sau núi, đường hầm đó vô cùng bí ẩn, nó được cụ nội của tiểu nữ xây nên để tránh buổi loạn lạc!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì thấy vô cùng kinh hãi, hắn thầm nghĩ, đúng là tiền nhiều cũng không tốt, lúc nào cũng lo ngay ngáy có người đến cướp bóc, thế nên mới xây nhiều nhà đến như vậy. Nhưng, nhị thúc của Kha Nghiêu sao mà ngốc thế! Tại sao ông ta lại đem cháu gái của mình bán cho lầu xanh ở ngay gần nơi mình ở như vậy? Lẽ nào ông ta không lo có người thông qua cháu gái của mình mà phát hiện ra nơi ông ta ẩn náu hay sao?

“Đỗ đại nhân! Đại nhân đang suy nghĩ điều gì vậy?” Kha Nghiêu thấy Đỗ Văn Hạo ngẩn người ra suy nghĩ, bèn lên tiếng hỏi.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền nhếch môi lên cười, rồi thở dài ra một cái nói: “Nghĩ đến cuộc đời con người, người ta làm bao nhiêu là chuyện sai lầm xong đều cảm thấy hối hận cả! Nhưng trên đời này làm gì có người nào bán thuốc để chuộc lãi lỗi lầm cơ chứ, nếu mà như vậy thì người ta đã giàu có hơn cả Kha gia rồi!”

Kha Nghiêu nghe xong thì cười nói: “Đại nhân thật biết nói đùa! Nhưng mà tiểu nữ cũng cảm thấy dường như đại nhân cũng có tâm sự thì phải!”

“Làm gì có! Về sau ngươi cũng đừng gọi ta là đại nhân nữa! Hoàng Thượng đã cách chức của ta rồi! Không lâu sau ta cũng sẽ phải rời khỏi Nhã Châu, vì thế mà ngươi muốn nhờ ta việc gì thì cứ nói!”

Kha Nghiêu nghe vậy thì kinh ngạc nói: “Tại sao lại như vậy?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu đáp: “Cũng chẳng sao cả! Cũng vừa vặn là cả gia đình ta đang muốn được ta đưa đi ngắm phong cảnh! Cái chức quan này bị cách cũng chẳng sao! Thôi, không nói đến chuyện của ta nữa! Ta đang nghĩ tại sao nhị thúc của ngươi lại bán ngươi vào Lạc Diêu Viện? Ông ta làm vậy lẽ nào không lo người ta thông qua ngươi mà phát hiện ra sự tồn tại của ông ta sao?”

Kha Nghiêu đáp: “Vấn đề này tiểu nữ cũng đã suy nghĩ rồi! Nhưng cũng không thể hiểu nổi tại sao ông ta lại làm vậy! Đại nhân! Bây giờ đại nhân không làm quan nữa, vậy cũng đỡ phải lo lắng nhiều thứ nữa, như vậy Kha Nghiêu nói chuyện với đại nhân lại càng cảm thấy nhẹ nhàng hơn!”

Đỗ Văn Hạo cũng biết vị tiểu cô nương thông minh này cũng đang an ủi mình, nên nói: “Cũng phải! Nhưng ta cũng nghĩ rằng ngươi không nên ở lại cái nơi nhơ nhớp đó! Ngươi nói trong trạch viện còn có một đường hầm bí ẩn dẫn đến biệt viện khác, hay là ngươi dẫn ta đi xem sao, nếu như tìm thấy những người khác, thì để họ đến mà chuộc ngươi ra!”

Kha Nghiêu nghe xong bèn im lặng e dè gật gật đầu.

Đỗ Văn Hạo sau đó bèn dẫn Kha Nghiêu về nhà của mình, rồi đem toàn bộ câu chuyện ra kể cho mọi người trong nhà nghe, bao gồm cả Diêm Diệu Thủ và Tiền Bất Thu. Đỗ Văn Hạo lại đem chuyện hắn bị cách chức, lưu đầy ba năm ra nói cho cả nhà biết, tất cả mọi người trong nhà nghe xong đều toát mồ hôi lạnh vì sợ hãi, nhưng sau khi ngẫm nghĩ lại thấy cũng còn may mắn, giờ đây không làm quan nữa lại làm cho bọn họ cảm thấy nhẹ nhõm đi rất nhiều.

Đỗ Văn Hạo sau khi lựa lời khuyên bảo cả nhà xong, bèn đem chuyện của Kha Nghiêu ra cùng thảo luận với mọi người, xem xem nên giải quyết ra sao.

Lâm Thanh Đại nghe xong bèn đưa ra ý kiến nói: “Hay là ngày mai chúng ta lên đó xem sao, bây giờ dù sao cũng đã muộn rồi!”

Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu khen phải, sau đó hắ quyết định để cho Lý Phố tiễn Kha Nghiêu ra về, hắn còn dặn dò cho Kha Nghiêu biết không được phép tiết lộ chuyện hắn bị cách chức nói cho Lão Cưu biết, rồi sắp xếp Lý Phố ngày hôm sau đến đón nàng đi lên núi tìm đường hầm bí ẩn.

Một lúc sau, khi mọi người đang nói đến Lý Phố, thì ông ta đã từ ngoài chạy vào thông báo, điệu bộ vô cùng khẩn trương nói: “Đỗ đại nhân! Mạt tướng vừa phát hiện ra gi­an tế của Thổ Phồn!”

Đỗ Văn Hạo lúc này đang ở trên lầu dọn dẹp lại đống sách y học của mình, chuẩn bị thu gom chúng lại để lên đường rời khỏi Nhã Châu, nơi đây còn có cả Diêm Diệu Thủ và Tiền Bất Thu cùng dọn dẹp giúp hắn.

Đỗ Văn Hạo nghe thông báo như vậy bèn cười nói với Lý Phố: “Chuyện này ta nghĩ rằng ngươi nên thông báo cho Tô đại nhân biết! Ngươi tìm ta thông báo được ích gì!”

Lý Phố nghe vậy thì mỉm cười đáp: “Mạt tướng biết đại nhân nhất định sẽ nói câu đó, chính vì vậy mà mạt tướng đã đi hỏi Tô đại nhân rồi, Tô đại nhân nghe xong liền bảo mạt tướng đến đây tìm đại nhân!”

Tiền Bất Thu đứng gần đó nói: “Sư phụ! Đệ tử nghĩ rằng chúng ta nên đến đó xem sao!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy, vẫn đủng đỉnh đưa tay lên phủi phủi bụi dính trên vạt áo mình rồi nói: “Gi­an tế gì vậy?”

Lý Phố đáp: “Chúng ta vừa đi vừa nói được không?”

“Được!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đưa tay chỉ ra cổng, ra ý vừa đi vừa bàn việc.

Sau khi xuống lầu, hắn trông thấy Vương Triều Vân và Bàng Vũ đang đứng nói chuyện với nhau, Vương Triều Vân vừa trông thấy Lý Phố đi xuống bèn lên tiếng hỏi: “Có phải Lý tướng quân vừa nói bắt được hai đứa gi­an tế của Thổ Phồn không?”

Lý Phố đáp: “Vâng thưa nhị vị phu nhân! Mạt tướng cùng Đỗ đại nhân chuẩn bị đi xem xét tình hình đây!”

Bàng Vũ Cầm thấy vậy bèn nói: “Trời dường như cũng sắp mưa rồi! Mấy người đi sớm về sớm!”

Hai người cùng mỉm cười gật đầu, sau đó liền ra cổng cưỡi ngựa phi thẳng đến doanh trại quân đôi. Khi vừa đến nơi, quả nhiên Đỗ Văn Hạo đã trông thấy hai nam nhân ăn mặc kỳ dị, trời nóng thế này mà họ vẫn mặc quần áo lông thú, trên đầu còn đội một chiếc mũ lông khổ lớn đang đứng dưới gốc cây.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn tiến đến, hai người kia dường như nhận ra Đỗ Văn Hạo, sau đó nói một tràng tiếng dân tộc, Đỗ Văn Hạo nghe mà chẳng hiểu bọn họ nói gì cả, một tên binh sĩ đứng cạnh đó thấy vậy bèn cầm roi tiến đến quát: “Nói gì vậy hả?”

Lý Phố lúc này thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Bọn chúng biết nói tiếng của chúng ta!”

Trong hai người, có một tên béo hơn một chút nói: “ói gì! Bọn ta nói gì nhỉ!”

Tên binh sĩ kia nghe vậy, bèn vung roi lên quất vào người tên béo này, nhưng chắc vì quần áo hắn mặc khá dầy, nên sau khi tên binh sĩ kia đánh xong, tên béo này chẳng có cảm giác đau đớn gì cả, mà ngược lại còn vênh mặt lên sách mé nói: “Sức yếu như thế này mà còn dám đánh với dũng sĩ Thổ Phồn sao?”

Lý Phố nghe vậy thì bùng bùng lửa giận, giật luôn sợi roi trong tay tên binh sĩ kia, rồi cười lạnh nói: “Không phải sức bọn ta yếu, mà là vì bọn ngươi ăn mặc nhiều quá, trời nóng thế này mà còn sợ lạnh sao? Ngươi đâu! Mau lột hết mấy cái áo trên người chúng ra, ta lâu lắm rồi mới ra tay đánh người như thế này, đang ngứa tay đây! Xem xem hôm nay ngươi có biết đau là gì không?”

Mấy viên binh sĩ nghe vậy liền sấn đến lột hết quần áo trên người hai tên gi­an tế xuông, Đỗ Văn Hạo vốn lúc đầu định lên tiếng khuyên can, nhưng hắn lúc này cũng đang chán đời, nên cũng không muốn chen vào, cứ để mặc mọi người muốn làm gì thì làm. Đỗ Văn Hạo không muốn dây dưa vào, nên tự tìm một gốc cây gần đó ngồi xuống, một tên binh sĩ thấy vậy bèn tiến đến đưa cho hắn một bát nước, thế là Đỗ Văn Hạo giờ đây vừa ngồi uống nước vừa thưởng thức màn tra tấn không mất tiền này.

Quả nhiên, sau khi lột quần áo chúng ra, sau một trận đòn của Lý Phố hai tên Thổ Phồn đã bắt đầu thở dốc, rồi sau đó kêu gào thảm thiết.

Đỗ Văn Hạo thấy Lý Phố đánh cũng đã tay rồi, nên gọi hắn lại ra ý ngồi xuống nghỉ ngơi uống nước, còn mình thì từ từ tiến đến trước mặt hai tên kia nói: “Nói đi, các ngươi đến đây định làm gì?”

“Chúng tôi vâng lệnh tướng quân đem thi thể người chết vứt lên thượng nguồn để nó ung thối chảy xuống hạ lưu, như vậy mấy người các ngươi sẽ bị dính bệnh!”

Đỗ Văn Hạo nghe đến đây lập tức nhớ tới chuyện của Vương Nhuận Chi nói với mình, bèn bất giác kinh ngạc hỏi: “Các ngươi làm chuyện này được bao nhiêu lâu rồi?”

“Lần trước chúng tôi vừa mới làm, thì bị người khác phát giác, nên mới phải khiêng sang chỗ khác, sau đó khi định vứt thi thể lần thứ hai thì bị bắt!”

“Tướng quân của các ngươi còn bảo các ngươi làm gì nữa?”

“Không làm gì nữa cả!”

Lý Phố nghe vậy lập tức cẩm roi sấn sổ tiến tới, hai tên Thổ Phồn kia thấy vậy sợ quá thét lên: “Tráng s tha mạng! Đúng là không có gì nữa!”

Lúc này một tên binh sĩ đem đến cho Đỗ Văn Hạo một chiếc túi được làm bằng da thú, nói: “Bẩm đại nhân! Vật này là bọn thuộc hạ lấy được khi mới bắt được bọn chúng! Không biết nó là vật gì nữa!”

Đỗ Văn Hạo cầm túi đó lên nhìn, thì phát hiện ra trong túi đựng đầy Đông Trùng Hạ Thảo.

Chương 323: Ra roi quất ngựa

Đỗ Văn Hạo trông thấy gói Đông Trùng Hạ Thảo này đang ở trong tay của mình, thì cảm thấy sung sướng vô cùng, hắn chạy luôn đến bên của Lý Phố nói: “Thật là kỳ diệu! Ta đã lấy được loại thuốc quý hiếm này rồi! Bây giờ ngươi phái người mau mau phóng về kinh thành báo tin ngay lập tức! Chỉ cần có loại thuốc này thì căn bệnh của Tư Mã đại nhân và Hoàng Thượng đều sẽ được chữa khỏi thôi! Giờ ta sẽ viết đơn thuốc, và cách dùng rồi đưa cho người kia, việc này vô cùng gấp, ngươi phải nhanh chóng làm cho ta việc này luôn đi!”

Lý Phố nghe xong bèn chỉ vào hai tên gián điệp Thổ Phồn nói: “Vậy hai tên này chúng ta sẽ giải quyết chúng ra sao đây?”

Đỗ Văn Hạo nghe xong bèn cười nói: “Đó là việc của Lý tướng quân mà! Tướng quân muốn làm gì thì làm, ta không có quyền can dự vào!”

Lý Phố cũng cảm thấy hai tên gián điệp này biết nói tiếng của Đại Tống, nên ông ta cũng dè chừng, không dám nói gì nhiều trước mặt chúng, vì vậy mà nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy bèn gọi người áp giải hai tên gián điệp đó đi, sau đó Lý Phố mới quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Đại nhân! Mạt tướng không muốn đại nhân rời khỏi đây chút nào cả!”

Đỗ Văn Hạo trong lòng cũng đã cảm thấy chua chát lắm rồi, do vậy hắn cũng không muốn nhắc gì thêm về chuyện bị cách chức nữa, nên nghe Lý Phố nói vậy, bèn khéo léo chuyển đổi chủ đề nói chuyện: “À! Đúng rồi! Khi ngươi đưa Kha Khắc đưa về cung thì Lão Li có nói gì không vậy?”

Lý Phố nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy biết hắn vẫn còn đau đớn chuyện bị cách chức, nên sau một hồi suy ngẫm, ông ta liền đưa mắt ra nhìn sung quanh, rồi vén áo quỳ luôn xuống, ôm quyền nói: “Đỗ đại nhân! Mạt tướng vốn là một tướng quân bại trận, tiền đồ bấp bênh, cuộc sống lận đận, mạt tướng cứ nghĩ cuộc đời của mình sẽ kết thúc với một kết quả bi thảm, không thể ngóc đầu lên được như ngày hôm nay! Nhưng nhờ có đại nhân chỉ dẫn, cất nhắc mạt tướng, mạt tướng mới có được vinh quang như ngày hôm nay. Đại nhân văn võ song toàn, đánh đâu thắng đó, đi đến đâu quân thù đều nghe tiếng mà kinh hồn bạt vía! Cho dù trong lúc tình hình binh lực ít ỏi, sĩ khí sút giảm nhưng đại nhân vẫn lấy ít thắng nhiều, làm cho quân đội Tây Sơn thất điên bát đảo, công trạng cũng như tài trí của đại nhân, đương triều ít ai sánh kịp, vậy mà giờ đây đại nhân lại nhận được hậu quả như vậy, mạt tướng cảm thấy ông trời thật là bất công! Mạt tướng và mấy vị huynh đệ cùng đại nhân vào sinh ra tử cũng cảm thấy nuốt không trôi kết quả của ngày hôm nay! Sau khi suy sét cẩn thận, bọn mạt tướng cũng muốn tìm lại sự công bằng cho đại nhân, hơn nữa bọn mạt tướng cũng đã cảm thấy chán ngán cái con đường làm quan, làm tướng rồi, do vậy sau một hồi thương lượng, tất cả đều muốn đi theo phục vụ đại nhân, nguyện cùng được đại nhân sống chết có nhau! Mong đại nhân thu nạp!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì sững người sửng sốt, hắn không ngờ Lý Phố lại có một hành động như vậy, trông Lý Phố quỳ xuống như vậy, Đỗ Văn Hạo bèn đưa tay ra đỡ lấy ông ta dậy nói: “Tiền đồ của Lý tướng quân vẫn vô cùng sáng lạn, việc gì phải đi theo một tên lang băm như tại hạ hành tẩu gi­ang hồ cơ chứ?”

“Đây là niềm vinh hạnh của mạt tướng! Bọn mạt tướng cũng không phải là cây trong vườn hoa mà không chịu nổi cảnh mưa bão ngoài trời, mong đại nhân hãy thu nạp để cho các huynh đệ được phò tá, phục vụ đại nhân!” Lý Phố nói với giọng vô cùng kiên định.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì cảm động vô cùng, tuy hắn mới cùng làm việc với Lý Phố trong thời gi­an rất ngắn, nhưng hắn rất có thiện cảm với ông ta, và Lý Phố cũng vậy, cái này có thể coi như điển tích anh hùng tiếc anh hùng trong các bộ tiểu thuyết kiếm hiệp vậy. Đỗ Văn Hạo cũng thực sự không muốn rời xa người trợ thủ đắc lực này, Lý Phố không chỉ hết lòng tận tụy, mà lại là một người tốt bụng, thẳng thắn, trung thành nữa.

Đỗ Văn Hạo lúc này liền tiến đến bên Lý Phố rồi vỗ vỗ lên vai ông ta nói: “Đa tạ Lý tướng quân! Ta bây giờ cũng đã bị cách chức rồi! Từ nay về sau cũng đừng gọi ta là đại nhân nữa, cứ gọi thẳng tên của ta là được rồi!”

“Mạt tướng không dám!” Lý Phố nói xong bèn cười ha hả, rồi lại ôm quyền nói tiếp: “Tiên sinh hiện giờ chẳng khác gì đại ca lãnh đạo của mọi người cả, vậy thì mạt tướng xin gọi người là Đỗ đại ca vậy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười lớn đáp: “Được thôi! Ha ha ha! Đại ca lãnh đạo!…” (Nghe rất giống với đại ca lãnh đạo trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, he he!)

Ngày hôm sau, khi trời vẫn còn chưa kịp sáng, Lý Phố đã đón Kha Nghiêu ra khỏi Lạc Diêu Viện. Đỗ Văn Hạo và những người khác lúc này cũng đã đứng chờ sẵn ở dưới chân núi, chính vì thế mà Lý Phố sau khi đón được Kha Nghiêu, bèn ra roi quất ngựa chạy hết tốc lực đến dưới chân núi để hội hợp với Đỗ Văn Hạo.

Trông tình trạng của Kha Nghiêu lúc này, thì có vẻ như đêm qua nàng ngủ không được tốt, sắc mặt của nàng hiện giờ vô cùng tiều tụy, mệt mỏi.

Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại đem theo hơn hai mươi người tùy tùng cùng với Hầu Tử, từ xa đã trông thấy bóng dáng của Lý Phố đang cưỡi ngựa phóng lại. Cả dãy người sau đó liền lần lượt bước lên trên núi.

Khi tất cả đi được khoảng một canh giờ, thì đều đã đến một ngã rẽ, Kha Nghiêu bèn tiến đến bên Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ đại nhân! Con đường nhỏ phía bên tay trái dẫn đến một con đường tắt khác, đại nhân có thể men theo đó mà đi!”

Đỗ Văn Hạo bèn nghe theo lời chỉ dậy của Kha Nghiêu, dẫn đoàn người đi sang con đường nhỏ bên tay trái. Quả nhiên, bọn họ đi được một đoạn đường không xa thì đã trông thấy một con sông, cách đó không xa bóng chiếc cầu đá của Kha gia đã lấp ló ẩn hiện tại nơi đó rồi.

Đỗ Văn Hạo trông thấy thần sắc của Kha Nghiêu có phần mệt mỏi, bước chân cũng dần dần chậm lại, bèn lên tiếng hỏi: “Có phải ngươi không muốn bước chân vào trong đó phải không?”

Kha Nghiêu nghe vậy bèn gật đầu đáp lại.

Đỗ Văn Hạo nói: “Cuối cùng thì ngươi cũng phải đối mặt thôi! Cho dù có bất kỳ điều gì sắp xảy ra đi chăng nữa, thì ngươi nên ghi nhớ rằng, ngươi vẫn còn mọi người bọn ta ở bên cạnh ngươi lúc này đây!”

Kha Nghiêu nghe xong thì vô cùng cảm kích nhìn vào Đỗ Văn Hạo, nhưng nàng cũng không lên tiếng đáp lại, có lẽ do nàng quá hồi hộp, lo lắng với những chuyện sắp xảy ra.

Khi đoàn người bước qua cầu xong, thì tất cả đã đến bên khu trạch viện to lớn của Kha gia. Mọi người chỉ thấy Kha Nghiêu đi đến bên một con sư tử đá, rồi đưa tay lên cho vào bên trong miệng của nó, và thật bất ngờ cánh cổng của trạch viện lúc này đã dần dần hé mở.

Khi đoàn người vừa bước vào bên trong khu trạch viện, thì cánh cổng cũng tự động đóng luôn lại.

Kha Nghiêu vừa bước vào bên trong căn viện, bèn đưa mắt lên nhìn ra tứ phía, nàng lúc này mới phát hiện ra rằng nơi này đã bị bỏ không, hoang phế khá lâu, giờ đây không còn bóng người nào ở trong này cả, nàng liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Đại nhân! Chúng ta trực tiếp đi ra biệt việt sau núi phải không?”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Cái này ngươi cứ tự mình quyết định đi! Chúng ta nghe theo ngươi là được rồi!”

Kha Nghiêu nghe xong bèn rất thuần thục, rành rỏi đi vào trong một chiếc hành lang dài, đi qua một cái cổng cầu vồng, rồi xuyên qua một khe suối nhỏ đi đến một trang viện, cánh cổng của trang viện lúc này vẫn hé mở, Kha Nghiêu liền lên tiếng nói: “Đây là nơi ở của cha mẹ tiểu nữ! Tiểu nữ muốn vào trong đó xem một chút!”

Đỗ Văn Hạo và những người khác cũng không nói gì, chỉ im lặng bước theo Kha Nghiêu đi vào bên trong. Thì hắn để ý thấy nơi này được dựng lên vô cùng cao ráo, thoáng đãng, sạch sẽ, trước cổng còn treo bốn chữ “Hoa Cư Nhã Xá”, rõ ràng khu trang viện này được bày biện vô cùng trang nhã khác hẳn với những gi­an phòng khác trong này. Đỗ Văn Hạo rất thích bốn chữ “Hoa Cư Nhã Xã” kia của căn phòng, nơi đây còn treo hai tấm biển khác, một tấm có đề “Tân Nguyệt Tiểu Các”, còn tấm kia có đề “Địch Mặc”, nét chữ của mấy tấm biển này được viết vô cùng hoa văn, đẹp mắt, rất có phong thái của một nhà đại thư pháp gia.

Kha Nghiêu lúc này mới lên tiếng giới thiệu: “Trang viện này có ba gi­an phòng, gi­an bên trái là nơi nghỉ ngơi riêng của mẹ tiểu nữ, bên phải là thư phòng của cha tiểu nữ, còn gi­an ở giữa là nơi cả hai cùng nghỉ ngơi!”

Lâm Thanh Đại sau khi quan sát xong căn phòng, liền thốt lên: “Nơi đây thật là thanh tao, nhã nhặn, xem ra cha của ngươi cũng là một nhà nho có học!”

Kha Nghiêu nghe xong thì mỉm cười e thẹn, sau đó nàng tiến gi­an phòng đến phía giữa, rồi đưa tay đẩn cửa bước vào. Bên trong này bụi bặm bám đầy, đôi môi của Kha Nghiêu bất giác run lên, rồi quay đầu lại nhìn Đỗ Văn Hạo một cái. Đỗ Văn Hạo hiểu ý, liền dừng chân thôi không bước tới nữa, mà để mặc một mình cho Kha Nghiêu bước vào phía trong, sau khi thấy nàng đã ở trong đó rồi, hắn liền đưa tay lên khép cửa lại cho nàng, khi cánh cửa vừa khép lại thì hắn đã nghe thấy tiếng khóc rưng rức của Kha Nghiêu vang lên.

Đỗ Văn Hạo liền ra ý cho mọi người đứng đợi hết ở bên ngoài, còn mình và Lâm Thanh Đại cũng ngồi với nhau ở dưới một gốc cây hòe trong viện để hóng mát chờ đợi.

“Văn Hạo! Thiếp thấy cô bé Kha Nghiêu này đúng là đáng thương quá!” Lâm Thanh Đại thở dài nói, nàng lúc này cũng vô cùng thương cảm với số phận trớ trêu của Kha Nghiêu.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn bông đùa nói: “Kha Nghiêu đáng thương như vậy! Hay là ta đem chuộc nàng ta ra ngoài, rồi đem nàng ta theo bên mình đi hành tẩu gi­ang hồ nhé!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy thì tưởng thật, vui vẻ đáp: “Thật vật sao? Như vậy thì tốt quá, Kha Nghiêu thông minh lại xinh đẹp và lễ phép, hiểu biết như vậy, nếu như chàng có ý thì đưa nàng ta về làm thiếp cũng được đấy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười lên phớ lớ, hắn đưa tay lên đánh nhẹ vào bàn tay của Lâm Thanh Đại nói: “Nàng tưởng ta nói thật à? Lẽ nào nàng không ghen với ta sao?”

Lâm Thanh Đại nghe vậy bèn thấp giọng đáp: “Để thiếp nói cho chàng nghe nhé, chàng đã có một Cầm Nhi hiền thục, một Tuyết Phi Nhi hoạt bát đáng yêu, một Liên Nhi nhu mì, dễ bảo. Bây giờ chàng chỉ thiếu một người thiếp thông minh như Kha Nghiêu nữa mà thôi!”

“Thôi được rồi! Đừng nói nữa, ta biết nàng đang âm mưu gì với ta rồi! Ta lại còn không biết nàng sao, hứ! Nàng đã vô cùng thông minh rồi!” Đỗ Văn Hạo bông đùa đáp lại.

Lâm Thanh Đại nghe vậy bèn cười lên khanh khách, khi nàng đang định nói tiếp thì cánh cổng căn phòng được mở ra, Kha Nghiêu cũng từ trong đó bước ra, mắt mũi nàng giờ đây đỏ lựng lên, xem ra nàng đã khóc một trận vô cùng dữ dội.

“Thật xin lỗi tất cả mọi người! Tiểu nữ đã làm mất thời gi­an của mọi người rồi! Chúng ta tiếp tục đi tiếp thôi!” Kha Nghiêu lên tiếng nói.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng an ủi: “Thôi! Ngươi cũng đừng suy nghĩ nhiều nữa, ngươi có muốn đến phòng mình xem nữa không?”

Kha Nghiêu lúc này bèn đưa ánh mắt vô cùng đáng thương của mình lên nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Còn thời gi­an cho tiểu nữ không? Tiểu nữ thật có thể đến đó xem không?”

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn lên tiếng nói: “Chúng ta đi xem thôi!”

Kha Nghiêu nghe xong bèn mím môi lại, buồn bã nói: “Khi nãy tiểu nữ nằm trên giường của cha mẹ mình, dường như vẫn còn ngửi thấy mùi thơm của hai người đó vẫn còn phảng phất đâu đây!”

Lâm Thanh Đại lúc này bỗng nhiên cảm thấy sống mũi của mình cay cay, liền quay mặt đi sang chỗ khác khóc thầm.

Sau khi rời khỏi đây, đoàn người lại hướng về phía đông, sau đó thông qua một đường hành lang khá dài, lại trông thấy một khuôn viện nhỏ, và cánh cổng khuôn viện này lại được khóa trái lại.

Kha Nghiêu lúc này bèn quay sang Lý Phố nói: “Làm phiền Lý tướng quân cho người đến phá khóa hộ tiểu nữ!” Lý Phố nghe vậy, không nói không rằng rút luôn thanh kiếm đeo bên hông ra, chỉ nghe chát lên một tiếng khô khốc, chiếc khóa đã đứt làm đôi. Cánh cổng giờ đây rộng mở, Kha Nghiêu là người đầu tiên bước vào trong này, nhưng ngay lập tức nàng vội cau mày lại, rồi nhanh chóng lui ra bên ngoài, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

“Không vào nữa! Không vào nữa! Tiểu nữ thấy trong đó có vết máu! Tiểu nữ đoán có thể đó là vết máu của em gái mình, tiểu nữ không muốn nhìn” Kha Nghiêu hốt hoảng đáp.

Đỗ Văn Hạo hiểu kỳ liền tiến lên phía trước, rồi ngó đầu vào trong nhìn, quả nhiên hắn thấy nơi đây, máu me vãi bắn tung tóe khắp nơi, làm cho bất kỳ ai trông thấy cũng đều phải kinh hãi.

“Vây thì thôi vậy! Chúng ta đi tiếp thôi!” Đỗ Văn Hạo nói.

“Tiểu nữ muốn đến phòng của nhị thúc xem xem, sau đó sẽ đến mộ của cha mẹ, và em trai của tiểu nữ!” Kha Nghiêu nói.

Đỗ Văn Hạo khi đến khuôn viện của nhị thúc của Kha Nghiêu, thì hắn không ngờ rằng khuôn viên của vị nhị thúc này còn to hơn cả trang viện của cha mẹ Kha Nghiêu nữa, hơn nữa nơi đây trông còn có vẻ nguy nga, bề thế vô cùng.

Kha Nghiêu liền tiến tới cánh cổng của khuôn viện này, thì thấy nơi đây cũng được khóa trái lại, lần này Lý Phố không để cho Kha Nghiêu kịp lên tiếng đã vung kiếm lên chém chiếc khóa tách ra làm đôi. Sau đó, Kha Nghiêu liền bước vào phía trong, sau khi đi được hai vòng trong này, Kha Nghiêu bèn dừng chân trước bàn trong thư phòng.

“Đỗ đại nhân! Mời đại nhân đến đây xem một chút!”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy bèn tiến đến bên Kha Nghiêu xem xét, thì thấy trên bàn lúc này có một tờ giấy, tờ giấy lúc này đã bám đầy bụi, Kha Nghiêu bèn cầm nó lên và thổi bụi đi, nàng liền trông thấy trên đó có viết: “Trời xanh đúng là có mắt, ta Kha Khối đi đây!”

“Kha Khối là tên của nhị thúc của ngươi sao?” Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi.

Kha Nghiêu gật đầu đáp: “Vâng! Đúng ạ!” Nói xong, nàng liền đặt tờ giấy đó lên bàn, Đỗ Văn Hạo lúc này đã nhanh mắt trông thấy phía sau tờ giờ còn chữ, nên hắn vội vàng cầm lấy tờ giấy lên đọc: “Nghiêu nhi! Xin cháu đừng trách nhị thúc của cháu! Muốn trách thì nên trách cha của cháu đã tàn nhẫn với nhị thúc. Nếu như đến một ngày nào đó, cháu trông thấy được những dòng chứ này, thì cháu sẽ biết được rằng nhị thúc của cũng đã vô cùng ân hận. Giờ đây nhị thúc đã đem hết mọi người trong nhà cao rời khỏi nơi đây rồi! Nhị thúc để lại khu trạch viện này cho cháu, mong cháu hãy quên đi những thành viên trong Kha gia đi! Ta thể theo yêu cầu của cha mẹ cháu, đã chôn cất hai người cùng với em trai, em gái của cháu ở phía sau phòng của cháu, để cháu tiện bề hương khói cho họ!”

Đỗ Văn Hạo đọc xong bèn đưa tờ giấy cho Kha Nghiêu xem, Kha Nghiêu sau khi xem xong, thì thân hình của nàng rung động không ngừng, cuối cùng nàng cũng gào lên: “Ông đã lừa tôi, ông đã lừa tôi, ông đem tôi bán cho lầu xanh, rồi bây giờ ông còn bảo tôi hương khói cho cha mẹ tôi, tôi hương khói cho họ kiểu gì, khi mà thân xác của tôi vẫn còn đang ở cái nơi nhơ bẩn kia, tôi hận ông, Kha Khối!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nhẹ nhàng nói: “Kha Nghiêu! Thôi đừng khóc nữa, ngươi cũng đang bị bệnh, đừng quá đau buồn như vậy! Bây giờ sự việc cũng đã sáng tỏ rồi, ngươi vẫn muốn đi xem khu biệt viện sau núi kia chứ?”

Kha Nghiêu nấc nghẹn lên đáp: “Không cần nữa! Không cần đi nữa rồi! Đỗ đại nhân! Kha Nghiêu cầu xin đại nhân một việc!”

“Ngươi cứ nói”

“Đại nhân hãy bán khu trạch viện này, rồi chuộc thân giúp tiểu nữ có được không?” Kha Nghiêu nói.

“Được! Ta đồng ý! Thôi ngươi đừng khóc nữa, ta thấy khu trạch viện này không có ai ở Nhã Châu có đủ tài lực để mua nó cả! Hơn nữa ta cũng thấy các đồ vật bày biện nơi đây đều là những thứ đắt tiền, thậm chí là vô giá, lẽ nào ngươi nỡ lòng nào đem chúng bán đi như vậy?” Đỗ Văn Hạo nói.

Kha Nghiêu đáp: “Người giờ đây đã không còn nữa rồi, thì mấy thứ đồ đó để lại cũng có ý nghĩa gì nữa!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Thực ra chỉ cần bán một bức tranh trong này cũng đủ để chuộc ngươi ra khỏi Lạc Diêu Viện rồi, không cân thiết phải bán hết tất cả như vậy, hơn nữa ngươi cũng cần có nơi ăn chốn ở nữa, nếu bán đi rồi thì ngươi ở đâu? Ngươi xem ta nói có đúng không?”

Kha Nghiêu nhe vậy thì lắc đầu một cách hoảng loạn đáp: “Không! Không! Tiểu nữ không ở đây nữa đâu! Tiểu nữ sợ ở đây lắm, tiểu nữ không muốn ở đây thêm một chút nào nữa!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn tiến lại gần nói: “Nếu Kha Nghiêu không còn muốn ở đây nữa thì chúng ta cũng không nên miễn cưỡng người ta làm gì! Nơi này, thiếp nghĩ đối với Kha Nghiêu mà nói thì nó đồng nghĩa với tang thương, và chết chóc. Nhưng, thiếp nghĩ cũng không nhất thiết đem bán cả cái khu trạch viện này đi như vậy, chúng ta cứ để nó ở đây cũng được! Hơn nữa lương thực nơi đây không biết có thể đem ra bán cho binh sĩ trong quân đội không?”

Kha Nghiêu nghe vậy bèn lên tiếng: “Tất cả đều nghe theo Đỗ đại nhân và Lâm tỷ tỷ quyết định!”

Lâm Thanh Đại lúc này đã tiến đến nắm lấy tay của Kha Nghiêu, thân thiện nói: “Vậy thì chúng ta đi thôi! Bây giờ chúng ta sẽ vào trong tìm một bức tranh nào đó bán đi để chuộc thân cho muội! Còn cái trạch viện này, thì ta nghĩ người bình thường cũng không vào được, chỗ nào cũng có cơ quan, muội cứ để nó ở đây cũng chẳng có vấn đề gì cả! Nếu như một ngày nào đó mà muội muốn quay về đây thắp hương cho cha mẹ của muội, thì muội vẫn còn chỗ mà về thôi!”

Mấy ngày sau đó, lương thực của Kha gia đều theo ý của Kha Nghiêu bán cho quan nha với ra rất rẻ, để dùng nó cứu tế cho dân chúng Nhã Châu. Tuy Lão Cưu có hàng ngàn, hàng vận lần không muốn, nhưng bà ta cũng phải để cho Kha Nghiêu ra đi, bởi bà ta đã ra giá từ trước đó rồi. Lý Phố sau đó cũng đã đưa tiền đến, Lão Cưu cũng không dám nuốt lời, bởi bà ta biết rằng đắc tội với Lý Phố, thì chỉ có nước bán sới rời khỏi đây mà thôi, chính vì thế mà Lão Cưu đành nhận tiền của Lý Phố gửi đến mà tha cho Kha Nghiêu.

Kha Nghiêu sau khi được tự do, thì chỉ còn một thân một mình, không biết đi đâu về đâu cả, khi Đỗ Văn Hạo lên tiếng hỏi nàng, thì nàng chỉ im lặng không nói.

Lý Phố thấy vậy cũng động lòng trắc ẩn, bèn nói với Đỗ Văn Hạo cho nàng được đi theo hắn hành tẩu gi­ang hồ, rồi sau đó sẽ tìm một người thích hợp mà gả nàng cho người ta. Làm như vậy không chỉ giúp nàng có một nơi để nương tựa, mà còn làm cho nàng đỡ phải một thân một mình, tủi nhục không biết dựa vào đâu mà sống. Đỗ Văn Hạo nghe xong vẫn chưa đồng ý với ý kiến của Lý Phố, thì bốn người vợ của hắn đều đến cầu xin hắn, bảo hắn thu nhận người con gái hồng nhan bạc mệnh này, đã đến nước này thì Đỗ Văn Hạo cũng không tiện từ chối nữa, hắn chỉ còn cách gật đầu đồng ý.

Cuối cùng, ngày xuất phát lên đường hành tấu gi­ang hồ cũng đã đến, tất cả bà con lối xóm trong thành Nhã Châu đều đến tiễn đưa hắn và gia quyến.

Tất cả mọi người đều biết Đỗ Văn Hạo vì lạm dụng binh quyền mà bị cách chức, nhưng nói cho cùng thì hắn cũng vì giải cứu nhân dân thoát khỏi lưỡi dao của quân Tây Sơn nên mới có hành động như vậy. Vì thế mà, tất cả mọi người đến tiễn đưa hắn đều vô cùng cảm kích công ơn cứu mạng của hắn. Ngoài ra, Đỗ Văn Hạo còn giúp cho dân chúng khôi phục sản xuất sau chiến tranh, cứu tế dân chúng khỏi nạn đói khổ, ra tay chữa trị cho dân chúng thoát khỏi bệnh dịch tràn lan, công lao của hắn quả thực là quá to lớn đối với những người dân ở thành Nhã Châu này, Người dân ở đây, không những được hắn chỉ dậy cho phương thức nông nghiệp lập thể, thu lợi gấp mấy lần ngày xưa, mà còn giúp họ tìm lại được niềm vui trong cuộc sống. Chính vì vậy khi hay tin Đỗ Văn Hạo bị cách chức điều đi chỗ khác, người dân nơi đây đều đến tiễn biệt hắn.

Đỗ Văn Hạo vốn vì chuyện cách chức mà đang chán nản đến mực cực điểm, chỉ muốn ngủ một giấc mấy ngày mấy đêm, để quên hết tất cả. Nhưng, giờ đây khi hắn trông thấy Tô Thức, Hàn Tu đem theo Hương Thân, Thương Hội cùng với hàng ngàn hàng vạn bà con dân chúng đến tiễn đưa, thì tâm trạng uể oải chán chường của hắn bỗng chốc đều tan biến hết cả. Hắn bây giờ biết được, cho dù hắn đã bị cách chức, nhưng bao nhiêu việc hắn đã làm cho mọi người nơi đây không bao giờ trở nên vô ích cả, hắn đã cứu rỗi được hàng trăm, hàng vạn người dân nơi đây thoát khỏi cảnh lầm than, thoát khỏi cảnh khủng hoàng, như vậy là quá đủ rồi. Đỗ Văn Hạo bây giờ không bao giờ cảm thấy hối hận vì những việc mà hắn đã làm.

Đoàn người tiễn đưa hắn ra đến mấy chục dặm đường rồi mới ra về, mãi đến tận về sau Đỗ Văn Hạo vẫn chìm đắm trong sự cảm kích của tất cả mọi người nơi đây.

Bàng Vũ Cầm và những người khác thấy tâm trạng của Đỗ Văn Hạo bắt đầu trở nên vui vẻ trở lại, thì đều vô cùng mừng rỡ. Tuyết Phi Nhi nói: “Tướng công! Chúng ta định đi đâu đây? Lúc trước thiếp hỏi chàng rồi mà chàng chẳng chịu trả lời gì cả, mà chỉ nói đi về hướng nam mà thôi!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng chỉ im lặng không đáp, hắn chầm chậm đưa tay lên vén rèm che của chiếc xe, đưa mắt nhìn ra non xanh, nước biếc, rồi thở dài ra nói: “Tâm đã như vậy, thì người cũng là như vậy!”

“Cái gì vậy?” Tuyết Phi Nhi trợn to đôi mắt của mình khó hiểu hỏi.

Lâm Thanh Đại nói: “Ý của Văn Hạo là chàng đã không có mục đích đi đến đâu cả! Chúng ta cứ du ngoạn sơn thủy một phen, đi đến đâu thì hay đến đó, thiếp nói vậy có đúng không?”

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, rồi lại lắc đầu nói: “Đúng! Nhưng mà lại không hoàn toàn đúng! Hoàng Thượng muốn ta tứ phương tầm y, không nói địa điểm cụ thể nào cả, chính vì vậy mà ta muốn đi đâu thì đi thôi! Nhưng mà, ta đi tứ phương tầm y cũng là vì chuộc tội cho mình, chính vì thế mà chúng ta sẽ đi về hướng nam để tầm y, sau đó mới quay về phía bắc, tình hình đại khái là như vậy đấy!”

Liên Nhi thấy vậy bèn lên tiếng hỏi: “Lão gia! Vậy chúng ta tứ phương tầm y trong bao lâu vậy?”

“Sao vậy? Nàng sợ rồi sao?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Không! Lão gia muốn đi đâu, Liên Nhi cũng theo đó, cho dù đó là dầu sôi lửa bỏng Liên Nhi cũng không sợ!” Liên Nhi đáp lại.

Đỗ Văn Hạo nghe xong liền đưa tay lên bẹo vào bên má trắng mịn của nàng nói: “Miệng của nàng ngọt lắm! Thế thì tốt! Vậy Nàng cứ cùng với lão gia của nàng đi vào dầu sôi lửa bỏng vậy!”

Liên Nhi lúc này ngượng ngùng đưa mắt lên nhìn Kha Nghiêu đang cuộn tròn ngồi trong một góc, nhẹ nhàng nói: “Lão gia! Vẫn còn có người khác ở đây này!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười trừ, rồi thu luôn tay lại.

Bàng Vũ Cầm nói: “Tướng công nói rồi! Hoàng Thượng và Thái Hoàng Thái Hậu muốn tướng công ở bên ngoài ít nhất là một năm, chờ cho mọi chuyện yên ắng lại rồi tính tiếp, chính vì thế chúng ta sẽ có rất nhiều thời gi­an!”

Tuyết Phi Nhi ở gần đó cười lên khanh khách nói: “Một năm thì ít quá! Chúng ta khó khăn lắm mới có chuyến đi xa thế này, tất nhiên phải chơi cho đã cái đã, cứ chơi ba năm năm rồi quay về cũng không muộn mà!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy bèn nói: “Theo như ý của thiếp, thì tốt nhất chúng không quay về kinh thành nữa, dưới chân Thiên Tử, Công Tôn Vương Tử nhiều vô kể như vậy, chức tước lúc nào cũng to hơn tướng công! Tướng công gặp ai cũng phải cúi người chào hỏi, hơn nữa làm bạn với vua chẳng khác nào làm bạn với hổ, không biết lúc nào mình bị mất đầu nữa, sống như vậy thì sống làm gì! Không băng bây giờ chúng ta phiêu dạt gi­ang hồ, tự do, tự tại, ngoài thời gi­an khám bệnh ra, thì chúng ta có thể du hí sơn thủy, đây chính là câu tướng công đã nói ‘tâm đã như vậy, thì người cũng như vậy’ của tướng công, thiếp nói đúng không?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu nói: “Đúng vậy! Những ngày tháng đó ta sống cũng đủ rồi, tự do tự tại đúng là sướng hơn nhiều! Cả gia đình chúng ta lại được ở bên nhau, cùng nhau hưởng thụ cuộc sống, ở đâu chúng ta thấy tốt, thì chúng ta sẽ ở đó, chẳng phải lo nghĩ gì cả, thật là nhàn nhã, nhẹ người!”

Tất cả mọi người nghe xong thì đều vỗ tay tán thưởng.

Nhưng, chỉ có mỗi Kha Nghiêu là vẫn im lặng, không nói, nàng cứ tĩnh lặng như một giọt nước trầm lặng vậy.

Có những lúc con người sẽ xuất hiện những cảm giác lệch lạc, trong một hoàn cảnh và thời gi­an đặc biệt, con người sẽ hiểu sự việc theo chiều hướng tốt, hoặc xấu. Sau đó sẽ dựa theo cảm giác lệch lạc của mình đi tìm hiểu sự việc, rồi cho rằng điều này nhất định là đúng, và không hề biết rằng trong mắt người khác bạn trở nên lập dị, và thậm chí người ta đều nghĩ rằng bạn là một người điên.

Kha Nghiêu là dạng người như vậy, nàng suốt đường đi đều vô cùng dè chừng với những người xung quanh mình, đối với Đỗ Văn Hạo và bốn vị phu nhân của hắn thì nàng tỏ ra vô cùng kính trọng, tuy nàng xuất thân trong một gia đình giàu có, nhưng nàng không hề có biểu hiện của nàng tiểu thư cành vàng lá ngọc, gặp bất kể việc gì nàng cũng đều tranh lấy làm hộ.

Ngày hôm nay, đoàn người của Đỗ Văn Hạo đến một tiểu trấn, thuộc vào địa giới của Gia Châu, nơi này địa thế hiểm nghèo, dốc núi lởm chởm, nơi nào cũng có đèo ngang dốc lên vô cùng nguy hiểm. Tiểu trấn này cũng thuộc vào dạng nhỏ, trong trấn chỉ có vài trăm hộ dân, bởi vì mấy ngày nay nơi đây không có mưa, cộng thêm thời tiết nóng nực, nên Lý Phố mời Đỗ Văn Hạo ở lại nghỉ ngơi một hai ngày lấy sức, và chuẩn bị thêm một ít lương khô rồi mới lên đường đi tiếp. Đoàn người của Đỗ Văn Hạo lúc này đã lên đến gần ba mươi người, vì thế mà hắn bảo Lý Phố vào trong trấn tìm mấy ngôi nhà đủ rộng cho tất cả mọi người cùng được nghỉ ngơi dưỡng sức hai ngày.

“Hạo Ca, có thể cho muội mượn một hai quyển sách y học của huynh xem được không?” Kha Nghiêu đến bên Đỗ Văn Hạo nói.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Sao muội lại có cảm hững với y thuật như vậy?”

“Không nói cho huynh biết, đây là điều bí mật riêng của muội!”

Tiền Bất Thu lúc này ngồi bên bàn bên cạnh thấy Kha Nghiêu hỏi vậy, bèn lên tiếng nói: “Cô nương có phải thấy khó chịu trong người không? Cứ nói cho ta biết, ta sẽ xem cho cô nương!”

Kha Nghiêu nghe vậy bèn quay đầu lại nói: “Tại hạ vẫn khỏe lắm!”

Đỗ Văn Hạo lúc này chỉ sang Bàng Vũ Cầm nói: “Cầm tỷ tỷ của muội cũng là người vô cùng say mê y thuật! Nhưng dường như gần đây nàng ta không còn hứng thú gì nữa thì phải!”

Nhưng, hành động nhỏ này của Bàng Vũ Cầm, Kha Nghiêu đều nhìn ra hết, nàng thấp giọng nói: “Bàng tỷ tỷ mệt rồi! Mấy ngày gần đây tỷ tỷ đã vất vả rất nhiều!”

Bàng Vũ Cầm nghe xong thì ánh mắt trở nên dịu dàng đi hơn lúc nãy rất nhiều, rồi nàng lại từ từ khép mắt lại tiếp tục giấc mơ đang con dang dở của mình.

Lúc này, Lý Phố đã phóng ngựa quay lại nói: “Đỗ đại ca! Trời sắp tối rồi, phía trước có một nhà họ Thành vừa vặn có một trang viện để không, tại hạ vừa đi xem xong, tuy nó có vẻ cũ kỹ, nhưng chỉ cần thu dọn một chút là chúng ta có thể ở tạm đó được! Không có vấn đề gì cả!”

Lâm Thanh Đại nói: “Như vậy thì tốt quá, đây chẳng qua cũng chỉ là ở tạm mà thôi, chúng ta cũng không cần mong muốn gì cao sang cả! Chút nữa bọn thiếp và mấy đứa nha hoàn sẽ dọn dẹp sạch sẽ ngay ấy mà!”

Thế là, mọi người cùng thu dọn đồ đạc đi theo Lý Phố đến khu trang viện đó, đi được một đoạn thì mọi người đã trông thấy một ông lão chống gậy đứng chờ ở dưới chân một quả núi.

Đỗ Văn Hạo trông thấy vậy, bèn chủ động tiến đến thi lễ tạ ơn, ông lão kia trông Đỗ Văn Hạo cũng là người thân thiện, nên mỉm cười nói: “Mấy người các ngươi đến cũng đúng lúc lắm! Ta mới xây một cái trang viện mới, mấy hôm trước mới dọn đến đó ở, còn cái cũ thì vẫn có thể ở được, chỉ mỗi tội là hơi cũ một chút thôi!”

Kha Nghiêu trông vào ông lão, rồi chần chừ đối lát, mới thấp giọng hỏi: “Lão nhân gia! Lão có phải trong người không được khỏe không?”

Ông lão đáp: “Ngươi sao lại có thể thấy được như vậy! Mấy ngày hôm nay có lẽ dọn nhà nên mệt quá, do vậy cũng thấy trong người có đôi chút khó chịu!”

Kha Nghiêu nghe xong bèn nói: “Hãy để cho ca ca của tiểu nữ xem bệnh cho lão nhân gia, huynh ấy là Ngự Y đó!”

Đỗ Văn Hạo bị Kha Nghiêu làm cho dở khóc dở cười, nhưng hắn cũng thấy tốc độ say mê y học của Kha Nghiêu nhanh hơn của Bàng Vũ Cầm rất nhiều, đây là nàng còn chưa được ai chỉ dậy đấy! Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì vô cùng hứng thú, nếu có một đệ tử như Kha Nghiêu thì cũng không tồi chút nào, bây giờ nàng đã nói thân phận mình ra rồi, thì mình cũng chẳng có lý do gì từ chối cả, cứ chiều theo ý của nàng là được rồi.

Ông lão nghe Đỗ Văn Hạo là một Ngự Y, thì vội vã mời hắn về nhà mới của mình, sau đó lại cho người đem trà lên mời Đỗ Văn Hạo, xong đâu đấy ông lão mới mời hắn bắt mạch cho mình, Kha Nghiêu thấy vậy bèn chăm chú theo dõi từng động tác của Đỗ Văn Hạo, nàng chuyên tâm đến nỗi chỉ sợ một cái chớp mắt của mình thôi cũng có thể bỏ qua một chi tiết nhỏ trong quá trình chữa bệnh của hắn.

Đỗ Văn Hạo một bên bắt mạch cho ông lão, một bên lên tiếng hỏi: “Lão nhân gia! Xin hỏi tại hạ nên xưng hô với lão nhân gia ra sao đây!”

“Ta họ Thành, tiên sinh cứ gọi ta là Thành lão hán là được rồi!”

“Dạo gần đây lão có cảm giác khó chịu nào không?” Đỗ Văn Hạo vừa hỏi, vừa đưa mắt lên quan sát sắc mặt của Thành lão hán, hắn phát sắc mặt của ông lão có phần tái nhợt, không có sức sống.

“Cũng không có cảm giác gì khó chịu đặc biệt nào cả, chỉ là mỗi khi đi vào nhà xí, thì màu sắc của cái vật bẩn bẩn đó không giống như thường ngày!” Ông lão có lẽ không biết nên nói với Đỗ Văn Hạo về cái đại tiện của mình thế nào, nên mới nghĩ nửa ngày, mới nghĩ ra cái từ đó.

“Là màu gì vậy?” Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng hiểu ông lão đang nói về cái gì.

“Vật bẩn bẩn là cái gì vậy?” Đỗ Văn Hạo không ngờ, Kha Nghiêu đứng cạnh đó lại lên tiếng hỏi như vậy.

Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Là đại tiện!”

Kha Nghiêu nghe xong thì mặt mũi đỏ lựng lên, chỉ biết ồ lên một tiếng, rồi im lặng không dám nói thêm câu nào nữa.

“Màu đen” Ông lão trả lời.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì vô cùng cảnh giác hỏi tiếp: “Ngoại trừ là màu đen ra, thì lão có thấy tim mình đập nhanh, ra mồ hôi và chóng mặt không?”

Ông lão ngẫm nghĩ một lúc, rồi lắc đầu, vừa đúng lúc này thì có một bà lão đi vào, có lẽ là vợ của ông lão nói: “Lão quên rồi sao, buổi sáng ngày hôm trước khi lão đang cắt cỏ cho lợn ăn, lão nói là lão cảm thấy tim lão đập nhanh, đầu óc quay cuồng hay sao?”

Ông lão lại nói: “Bà thì biết cái gì! Khi đó trời nắng như vậy, người nào mà chả bị như thế!”

Bà lão thấy vậy bèn ngập ngừng nói: “Thầy thuốc vừa hỏi ông như vậy, ông cũng có nhớ đâu!”

Ông lão nghe vậy thì sắc mặt đanh lại nói: “Mau đi làm cơm đi, đừng đứng đây làm phiền người khác nữa!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì mỉm cười nói với ông lão: “Trời nắng nóng thế này, mà lão vẫn chịu khó làm việc vậy sao?”

Ông lão đáp: “Ta sợ con dâu nên mới phải làm như vậy đấy!”

Đỗ Văn Hạo nghe thế thì bật cười, ông lão cũng phá lên cười không ngừng, Đỗ Văn Hạo lại nói tiếp: “Ông lão! Đưa cho tại hạ xem lưỡi của ông lão một chút, rồi sau đó lại bắt mạch tiếp!”

Chương 324: Hư thực không phân

Đỗ Văn Hạo sau khi chẩn đoán xong, thì trầm ngâm đôi lúc, sau đó hắn lại hỏi: “Lão nhân gia! Khi mới bị bệnh thì đại tiện của lão là không thông, đúng không nhỉ?”

Ông lão nghe vậy thì kinh ngạc hỏi lại: “Đúng vậy! Sao tiên sinh lại biết thế?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Lão nhân gia không những đại tiện không thông, mà còn hay cảm thấy chóng mặt, thân thể tê dại, đúng không?”

Ông lão nghe vậy thì lại càng cảm thấy kinh ngạc hơn, lão theo phản xạ đưa tay lên bóp bóp vào cánh tay của mình nói: “Tiên sinh! Tiên sinh đúng là quá thần rồi! Lão phu bị bệnh ra sao, tiên sinh đều biết được hết!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Bệnh chứng và mạch tượng đã nói cho tại hạ biết như vậy! Lão đã tìm đại phu khám cho mình, nhưng càng khám bệnh càng nặng hơn, đúng không?”

Ông lão nghe xong thì chỉ biết há hốc mồm, ngoái đầu lại nhìn ra phía ngoài cửa. Bà lão lúc này cũng nghe thấy lời nói của Đỗ Văn Hạo, bèn vội vã lui ra ngoài cổng ngó nghiêng, trông bộ dạng vô cùng lo lắng, hoảng sợ.

Ông lão thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Tiên sinh! Tiên sinh nói nhỏ thôi, đây là bà lão lén lút lấy tiền tiết kiệm trong nhà ra, tìm vị Linh đại phu khám cho ta đó, nếu chuyện này mà để cho con dâu của lão biết được thì nguy hiểm lắm, nhất quyết không được tiết lộ ra ngoài, nếu không không thì cả nhà này sẽ tan hoang, tanh bành lên mất!”

Đỗ Văn Hạo đáp: “Lão đừng lo! Tại hạ không nói cho bất kỳ một ai biết cả đâu! Lão nói cho ta biết, Linh đại phu đã kê cho lão đơn thuốc như thế nào được không?”

Ông lão đáp: “Cái này thì lão phu cũng không biết, nhưng mà ta vẫn còn lưu một ít ở lại đây, để ta đưa cho tiên sinh xem nhé!”

Nói xong ông lão bèn tiến đến chiếc tủ, rồi từ trong đó lấy ra một cái bọc mầu xanh, sau đó ông lão mở cái bọc ra, rồi lấy ra hai viên thuốc đưa cho Đỗ Văn Hạo xem.

Đỗ Văn Hạo tiếp lấy hai viên thuốc rồi ngắm nghía một hồi, hắn cau mày nói: “Bị Cấp Hoàn? Đây là loại thuốc chữa táo bón Thực Hàn, rất có công hiệu trong việc tiêu trừ những khí hàn tích tụ trong cơ thể. Vậy nhưng, bệnh của lão là Dương Hư Âm Kết, cái này còn gọi là Hạ Tiêu Âm Hư, bởi vì dương khí không tự vận hành nên không lưu thông được, do vậy bị đẫn đến Âm Kết dưới Hạ Tiêu, đây là chứng táo bón Hư Hàn, chứ không phải là Thực Hàn, biện chứng hư thực không phân, dĩ nhiên dùng thuốc sẽ không đúng bệnh! Lão nhân gia! Tuy đại tiên của lão đã thông được, nhưng rất nhanh lại bị vón cục và không thông nữa, ngoài ra bệnh tình giờ đây càng lúc càng trở nên nguy ngập, chính vì dương khí không vận hành được như vậy, nên cơ thế mới bị tê dại, tại hạ nói đúng chứ!”

“Đúng vậy! Tiên sinh nói không hề sai một chút nào cả! Đại tiện mới thông được hai ngày hôm nay, thì lại bị tắc, tay chân của lão phu thì tê dại nhức mỏi vô cùng!” Ông lão thở dài nói: “Không ngờ, tiên sinh tuổi đời còn trẻ mà y thuật lại cao siêu đến như vậy! Tiên sinh chỉ cần xem bệnh qua một cái thôi mà đã nói không sai một chút nào cả!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Theo như mạch tượng hiện tại của lão, thì sau này lão vẫn còn sử dụng các loại thuốc khác nữa! Và những loại thuốc này cũng là dùng sai, không chữa đúng bệnh, do thế nên bệnh tình đã nặng lại càng nặng thêm!”

Ông lão lúc này chỉ còn biết trợn tròn hai mắt lên mà nhìn Đỗ Văn Hạo, ông nghĩ rằng người trẻ tuổi ngồi trước mặt mình bây giờ, không phải là người thường nữa, mà là một vị thần tiên giáng trần, ông cứ đơ người ra như vậy một lúc rồi mới nói: “Lão phu quả thật vô cùng khâm phục tiên sinh, đúng là ta đã sử dụng loại thuốc khác! Sau khi dùng thuốc của Linh đại phu xong, thì ta thấy thân thể càng lúc càng đau nhức, tê dại, đại tiện không thông, bất kể thứ gì cũng đều không ăn được, mặc dù lão vẫn còn trong tay mấy viên thuốc của Linh đại phu để lại, nhưng lão chỉ dám để đó, không dám dùng thêm nữa. Bà lão sau khi dùng hết tiền tiết kiệm cắt thuốc cho ta, bèn lén lút nói cho con trai ta biết, con trai ta bèn lại giấu giếm đưa cho ta tiền đi mời vị đại phu ở thôn bên cạnh khám bệnh! Sau đó ta lại cắt thêm thuốc để dùng! Nhưng, sau khi dùng liều đầu tiên thì vẫn thấy đại tiện không thông! Ta lại dùng thêm ba liều nữa, ì đại tiện mới bắt đầu thông. Tuy vậy, đại tiện thông thì thông rồi, nhưng nó chảy ra cứ như là nước vậy, làm cho cả thân thể của ta lạnh vô cùng, toàn thân nhức mỏi, đứng ngồi không yên. Ta thấy vậy bèn thôi không dùng thuốc nữa, và vậy là đại tiện lại không thông!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy nói: “Thế lão vẫn còn giữ đơn thuốc đó không?”

Ông lão đáp: “Vẫn còn hai bao ở đây này, để lão phu lấy cho tiên sinh xem!”

Ông lão lại đi về chiếc tủ, rồi lấy ra hai bao thuốc đưa cho Đỗ Văn Hạo xem, Đỗ Văn Hạo mở ra xong liền hứ lên một tiếng nói: “Đúng là lang băm! Đây là Thừa Khí Thang! Hơn nữa lượng dùng lại quá lớn, Thừa Khí Thang chuyên trị Dương Minh Phủ Thực Chứng, dùng Hàn trị Hàn, chả trách lão bị những hiện tượng như vậy! Lão dường như vẫn còn tìm vị đại phu khác khám bệnh cho nữa đúng không?”

“Đúng vậy! Hai ngày hôm trước, lại có một vị Linh đại phu nữa đi qua đây, bà lão thấy lão phu đau khổ như vậy, lại lén lút mời vị Linh đại phu đó đến xem cho ta, sau khi đưa cho ông ta sáu lạng, khai thuốc xong, thì ta không đủ tiền đi cắt thuốc nữa, nên đành chờ xem còn cách nào xoay xở, ai ngờ trong lúc này thì tiên sinh đến đây!” Ông lão nói.

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy ông lão đưa cho tại hạ xem đơn thuốc cả vị đại phu đó!”

Ông lão nghe xong liền rút ra từ trong người một tờ giấy, rồi đưa cho Đỗ Văn Hạo xem.

Đỗ Văn Hạo đưa tờ giấy lên, lướt một lượt, rồi xé nó ra thành trăm mảnh, vò nó lại vứt luôn xuống đất nói: “Đúng là quá may mắn! Ông lão! Vị Linh đại phu này kê cho lão đơn thuốc có tên là Hoàng Tề! Đơn thuốc này chuyên trị Âm Hư táo bón, bệnh của lão vốn là Dương Hư Âm Kết, nếu như lão dùng loại thuốc này rồi thì chắc chắn dương khí sẽ bị tổn thương nghiêm trọng, đến lúc đó có khi có nguy hiểm đến tính mạng nữa!”

Ông lão nghe xong thì sợ đến toát mồ hôi lại, e sợ nói: “Hả? Nguy hiểm như vậy sao?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Lão nhân gia! Tại hại nói cho lão biết nhé, bệnh của lão là dương khí bị suy kiệt, chính vì vậy mà ruột non của lão không đủ sức vận chuyển, nên dẫn đến táo bón. Loại bệnh của lão nếu như không dùng thuốc lung tung, thì rất dễ chữa trị, có khi chỉ cần dùng Tề Xuyên cùng Nhục Quế hay là Bán Lưu Hoàn để ôn dương, là có thể chữa được rồi. Lão cứ yên tâm! Tại hạ sẽ chữa trị tận gốc căn bệnh này của lão, tại hạ cần giấy bút để kê thuốc!” Bà lão đứng đó nghe vậy bèn lật đật đi tìm giấy bút đưa cho Đỗ Văn Hạo kê thuốc, nhưng trong nhà lại chẳng lấy đâu ra giấy bút cả.

Ông lão nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy thì cảm ơn rốt rít, nhưng vẫn không biết lấy đâu ra bút giấy cho hắn kê thuốc cả. Đỗ Văn Hạo bèn quay sang Kha Nghiêu nói: “Trong hộp thuốc của ta có giấy bút đó, phiền Kha muội lấy giúp cho ta!”

Kha Nghiêu đứng cạnh đó nghe Đỗ Văn Hạo chữa bệnh nhập tâm đến quên hết tất cả, nhưng khi nghe thấy Đỗ Văn Hạo cần giấy bút, thì nàng liền mở hộp thuốc của Đỗ Văn Hạo ra, rồi đưa tay vào lấy giấy bút mực nghiên cho hắn. Sau đó nàng lại cung kính đứng bên cạnh hắn xem hắn viết đơn kê thuốc. Đỗ Văn Hạo sau khi viết xong, Kha Nghiêu bèn nhanh nhẹn tiến đến, cầm đơn thuốc lên thổi cho khô mực, rồi mới trao nó cho ông lão,

Đỗ Văn Hạo sau khi kê thuốc xong, hắn bèn quay sang ông lão dặn dò: “Ông lão nên nhớ rằng, ẩm thực của lão lúc này nên chú ý thanh đạm, không được uống rượu, không được mệt mỏi quá sức, và nhất thiết không được phép tức giận!”

Ông lão nghe xong, lại cảm ơn rồi rít, rồi đứng dậy tiễn Đỗ Văn Hạo ra tận cổng. Đúng lúc này, bỗng nhiên từ đâu vang tới một tiếng mắng của người phụ nữ: “Ông già chết tiệt kia! Vẫn còn có thời gi­an nói chuyện phiếm với người khác nữa sao! Ông muốn lợn nhà bị chết đói hết cả sao hả? Tôi thấy ông ngày nào đến giờ ăn cũng là người đầu tiên nhảy vào mâm, thế mà sao lại cứ hay quên cho lợn ăn hả? Ông chỉ biết mình đói mà không biết lợn đói hả?”

Kha Nghiêu nghe vậy thì quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một người phụ nữ trạc tuổi trung niên, dáng hình béo tròn, hai tay chống nạnh, gương mặt đanh ác đứng ở dưới hành lang của căn nhà, chỉ ra phía cổng mà chửi bới.

Kha Nghiêu nói: “Lão nhân gia! Kia có phải là con dâu của lão không?”

Ông lão nghe vậy bèn ra ý bảo bọn người Đỗ Văn Hạo mau mau rời đi, Đỗ Văn Hạo cũng đã để ý thấy ông lão đã lén lút đem đơn thuốc mình vừa kê cho ông đút vào trong tay áo, sau đó ông lão liền ngoáy đầu lại quát con dâu mình: “Mày không thấy tao đang nói chuyện với khách đây hả? Tao chuẩn bị đi rồi, đừng có mà chửi nữa! Trời cũng đã tối đâu hả, kêu cái gì mà kêu, đúng là…”

Kha Nghiêu lúc này định bước lên nói vài câu, thì nàng đã bị Đỗ Vân Hạo nhanh tay can lại.

Nhưng Kha Nghiêu thấy vậy bèn nói: “Đỗ đại ca! Sao huynh không để muội nói chuyện với người phụ nữ chua ngoa đó chứ! Sao chị ta lại có thể đối xử với người lớn tuổi như vậy, thật đúng là…”

Đỗ Văn Hạo lúc này trông bộ dạng tức giận của Kha Nghiêu vô cùng thú vị, môi nàng cong lên, đôi mắt vốn đã to tròn giờ lại còn trợn ngược hẳn lên, hắn cũng không muốn xảy ra xích mích gì với người khác, hơn nữa đây cũng là chuyện riêng nhà người ta, người ngoài cũng không tiện chen vào, do vậy hắn liền vội vã lên tiếng giải thích: “Đây là chuyện riêng nhà người ta, mình chen vào làm gì! Hơn nữa, họ đều là người nhà quê, chân đất mắt toét, nói chuyện toàn kiểu không trên không dưới như vậy! Lẽ nào muội muốn bọn họ ăn nói nho nhã, có học hay sao? Làm gì có chuyện ngược đời như vậy! Muội thật giống Phi Nhi quá, lúc nào cũng muốn chen vào chuyện người khác để quản!”

Kha Nghiêu thấy vậy bèn nói: “Muội với Phi Nhi không giống nhau!”

“Có điểm nào không giống nhau!” Đỗ Văn Hạo nói.

Kha Nghiêu ngẫm nghĩ một lúc nói: “Cha của muội nói rồi! Cãi nhau, to tiếng là biểu hiện của sự hèn kém, muội có thể lấy đức thu phục lòng người!”

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì phát bật cười thành tiếng, hắn bỗng nhớ lại cha của Hoàng Phi Hồng trong một bộ phim cùng tên, câu cửa miệng của ông ta lúc nào cũng là lấy đức thu phục lòng người.

“Huynh cười cái gì vậy?” Kha Nghiêu hỏi.

“Không có gì! Ta không cười muội đâu! Thôi, chúng ta về thôi! Chúng ta cũng chẳng có việc gì ở đây nữa rồi!” Đỗ Văn Hạo nói.

Sau khi về đến trang viện, sau một hồi thu dọn, quả nhiên người đông thì việc gì cũng nhanh chóng, nhẹ nhàng, cả cái trang viện giờ đây đã được dọn dẹp vô cùng sạch sẽ, mấy đứa nha hoàn lúc này cũng đã chuẩn bị cơm nước. Mấy người của Lý Phố còn không biết tìm ở đâu ra một đống rơm, ông ta giờ đây đã dùng chúng lợp lại mái nhà một cách kín kẽ, và chắc chắn.

Kha Nghiêu lúc này đứng bên cạnh Đỗ Văn Hạo nói: “Đúng rồi! Đỗ đại ca! Huynh vẫn còn chưa nói cho muội biết bệnh của ông lão rốt cuộc là bệnh gì đấy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đưa tay lên bụng của mình, xoa xoa nói: “Chờ ăn cơm xong rồi nói có được không?”

Kha Nghiêu nũng nịu nói: “Đừng mà! Bây giờ nói được không hả Đỗ đại ca! Muội nghĩ rằng, chắc là con dâu của ông lão cho ông lão ăn uống linh tinh, nên đại tiện của ông lão mới có màu như vậy, muội nói không biết có đúng không vậy?”

Đỗ Văn Hạo cố tình ra vẻ nói: “Không phải là muội muốn mượn sách của ta sao? Hay là muội đọc sách y học của ta xong rồi tự tìm đáp án cho mình đi!”

“Đáng ghét!” Kha Nghiêu sẵng giọng nói.

Chờ cho Kha Nghiêu đi khỏi, Lâm Thanh Đại bèn bước đến, Đỗ Văn Hạo thấy trên người của nàng còn đọng một ít bụi, bèn đưa ống tay áo của mình lên phủ đi cho nàng, còn Lâm Thanh Đại thì thấp giọng nói: “Vừa xong thiếp còn thấy cô nhóc Kha Nghiêu đó còn làm nũng với chàng cơ đấy!”

“Đúng vậy!” Đỗ Văn Hạo đáp.

“Cô bé này, sao đến đây lại đổi tính đổi nết, cứ như là bị người nào cho ăn phải bùa mê thuốc lú gì vậy. Có lúc nó nói chuyện, làm bao nhiêu việc rất kỳ quái, thiếp chưa từng bao giờ thấy nó làm nũng như thế bao giờ cả, không biết tại sao nó lại tự nhiên có hứng với y thuật đến như vậy nữa!” Lâm Thanh Đại nói.

Đỗ Văn Hạo nghe xong thì nhún vai, ra ý bản thân hắn cũng không hiểu vì sao. Đúng lúc này, thì trên trời bỗng vang lên một tiếng nổ dữ dội, và Kha Nghiêu vội vàng chạy ra khỏi phòng, hai tay bịt tai lại nói: “Trời ơi! Sắp mưa rồi hay sao ấy? Muội không muốn nằm ngủ với Liên Nhi và Tuyết Phi Nhi đâu, hai người đó còn nhát gan hơn cả muội nữa!”

Bàng Vũ Cầm lúc này cũng từ trong phòng đi ra nói: “Chỗ này cũng chỉ có tất cả tổng cộng có tám phòng thôi, người của chúng ta nhiều như vậy, vậy thì muội nói xem muội muốn ngủ với ai chứ hả?”

Kha Nghiêu không nói chỉ chu môi lên đáp lại, rồi đi đến bên Lâm Thanh Đại lắc lắc vạt áo cảu nàng, mặt của Kha Nghiêu ửng đỏ, rồi mỉm cười nói: “Muội có thể nằm ngủ với Lâm tỷ tỷ được không?”

Lâm Thanh Đại đáp: “Ta và Cầm Nhi, cùng với Anh Tử, công thêm con hổ Khả Nhi ngủ cùng một phòng rồi, nếu như muội không chê con hổ nhó đó có mùi, thì muội đến ngủ với ta cũng được!”

Kha Nghiêu nghe xong bèn nhanh nhảu đáp: “Vâng! Không sao đâu! Muội chẳng ngại gì cả!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Phòng ở đây vốn cũng không to, đừng ngủ đông như vậy, trời nóng như thế này, bốn năm người chen chúc trong một căn phòng bé tý tẹo như vậy, e rằng…”

Kha Nghiêu nghe xong thì biết Đỗ Văn Hạo lên tiếng phản đối, nên nàng chỉ biết cúi đầu đi vào trong phòng của mình, trên trời lúc này lại vang lên tiếng sấm nữa, lần này Kha Nghiêu không thấy chạy ra ngoài nữa, mà chỉ nghe thấy tiếng nàng kêu gào ở trong phòng vọng ra.

Sau khi ăn cơm xong, mọi người bèn ra ngoài sân ngồi hóng mát, gió thổi hây hây, vô cùng mát mẻ.

Lý Phố ngồi được một lúc thì lên tiếng càu nhàu nói: “Thời tiết đúng là quỷ quái, sấm kêu ầm ầm như thế mà chẳng thấy có mưa gì cả, muốn làm người ta bị nóng hầm hập mà chết hay sao?”

Hầu Tử là người chưa bao giờ ngồi im được một chỗ cả, chính vì thế mà Đỗ Văn Hạo mới nói do mông của cậu ta nhọn quá nên mới như vậy, Hầu Tử nghe Lý Phố càu nhàu như vậy bèn nói: “Khi chúng ta mới đi qua đây, thì cháu nghe thấy cách đây không xa có tiếng nước kêu, nếu như có một con sông nước trong mát mẻ, thì chúng ta có thể xuống đó chơi đùa cho mát đấy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cũng thấy đây là một điều thú vị, hơn nữa hắn cũng cảm thấy thân hình của mình cũng đã bắt đầu bốc mùi. Nên hắn nghĩ, nếu như lúc này được chơi đùa dưới nước thì còn gì thú vị bằng! Nghĩ đến đây Đỗ Văn Hạo liền bảo Hầu Tử và ba người nữa đi tìm xem dòng sông đó ở đâu.

Lúc này, Kha Nghiêu lại bắt đầu rón rén bước đến bên Đỗ Văn Hạo rồi thỏ thẻ nói: “Đỗ đại ca! Huynh có nghĩ là phía sau núi này có thú dữ không nhỉ?”

Bàng Vũ Cầm ngồi cạnh Đỗ Văn Hạo đang phe phẩy chiếc quạt, nghe vậy bèn quay sang lắc đầu nói: “Cái này khó nói lắm! Nơi này chỗ nào cũng là rừng sâu, núi cao, có thú dữ xuất hiện thì cũng chẳng có gì lạ cả!”

Đỗ Văn Hạo cũng gật đầu tán đồng câu nói của Bàng Vũ Cầm, Kha Nghiêu nghe vậy bất giác rùng mình, nàng e sợ đưa mắt ra nhìn tứ phía nói: “Vậy lúc nãy muội trông thấy cánh cửa phòng hình như bị hỏng rồi thì phải!”

Tuyết Phi Nhi bỗng từ đâu liền nói chen vào: “Chẳng sao cả đâu, chỉ cần lấy một cây gậy gỗ đỡ lấy cánh cửa là được rồi!”

Kha Nghiêu nghe vậy chỉ há mồm lên, chứ không dám nói tiếp, nàng nhanh tay bê luôn chiếc ghế mình đang ngồi đến bên cạnh Đỗ Văn Hạo, rồi ngồi xuống điệu bộ vô cùng lo lắng.

Lúc này, bên ngoài cổng bỗng nhiên có một bóng người đi lại, Đỗ Văn Hạo đưa mắt lên nhìn, thì ra là Thành lão hán, thấy vậy hắn bèn đưa tay lên ra ý chào hỏi ông lão.

Thành lão hán cầm theo một chiếc làn trúc đi đến bên Đỗ Văn Hạo rồi ngồi xuống, Kha Nghiêu ngồi bên cạnh cũng ngó đầu ra tò mò nhìn vào trong chiếc làn, nàng trông thấy bên trong có một ít hạt Anh Đào màu hồng bóng láng, cáu cạnh, trông vô cùng hấp dẫn.

Thành lão hán nói: “Đỗ tiên sinh! Trong nhà đúng là không còn có gì tốt hơn để khoản đãi các vị được cả, lúc nãy lão đi cắt rau về cho lợn, thì thấy bên hồ có cây ăn quả, trông vô cùng hấp dẫn, thế là lão liền ngắt nó xuống ăn để giải khát, ăn xong cũng thấy rất ngọt miệng, Anh Đào thực ra cũng chẳng phải là cái gì lạ lẫm cả, nhưng lão thấy ngon quá nên mang đến đây cho các người nếm thử!”

Mọi người nơi đây chưa từng trông thấy hạt Anh Đào nào lại có màu tím, và bóng láng như vậy bao giờ, tất cả nghe nghe vậy bèn xúm lấy xung quanh ông lão để xem. Thành lão hán thấy vậy bèn đưa chiếc làn lên đưa cho Kha Nghiêu, Kha Nghiêu liền nhón một hạt lên nếm thử, rồi nàng lại phân phát cho từng người một ăn, quả nhiên vị của hạt Anh Đào này vô cùng ngọt, và ngon miệng.

Đỗ Văn Hạo liền quay sang nói với Thành lão hán: “Lão nhân gia! Không phải là lão không tiện đi mua thuốc ư?”

Ông lão nghe xong thì sững người lại, nét mặt trở nên khó xử, lúc sau chỉ cười cười đáp: “Cũng không hẳn như vậy! Cái chính là cũng tại lão thấy bệnh của mình cũng chẳng phải là bệnh gì to tát cả, không nhất thiết phải tiêu tiền hoang phí như vậy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy vội nói: “Tại hạ nghĩ lão nên tranh thủ thời gi­an đi mà cắt thuốc! Bệnh này nếu chữa rồi thì nó chỉ là một loại bệnh vặt vãnh, không đáng gì cả. Nhưng, nếu như lão không chịu chữa trị thì e rằng sau này lão có lẽ sẽ phải tiêu cả đống tiền để chữa trị đó!”

Thành lão hán nghe vậy chỉ cười trừ ha ha hai tiếng, rồi lại không nói thêm gì nữa, lúc này Hầu Tử bỗng nhiên từ cửa chạy vào bên trong, gương mặt vui vẻ nói: “Đại lão gia! Đúng là có một con sông thật, nó nằm ngay dưới phía chân núi đằng kia, nước sông mát lạnh, trong vắt. Tất cả mọi người cùng ra đó tắm thôi! Lý đại ca đang đứng ở bên sông chờ mọi người đó!”

Thành lão hán nghe vậy bèn đứng dậy nói: “Đúng vậy! Mấy người trẻ tuổi các người nên đi ra đó bơi lội, tắm rửa cho mát đi! Vậy lão ở đây cũng không tiện làm phiền mọi người thêm nữa, mọi người cùng nhau đi đi!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Lão nhân gia! Lão tốt nhất là đừng có quên lời dặn dò của tại hạ dành cho lão! Nếu như con dâu của lão không cho lão tiền đi cắt thuốc, thì lão cứ đến tìm tại hạ, tại hạ sẽ cho lão tiền để mua thuốc!”

Thành lão hán nghe xong thì vô cùng cảm động gật gật đầu ra ý cảm ơn, rồi sau đó cầm lấy chiếc gậy chống, lững thững ra về.

Kha Nghiêu ngồi cạnh đó lên tiếng nói: “Tại sao chúng ta lại phải cho tiền ông lão để ông lão đi cắt thuốc?”

Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh thản nhiên nói: “Tặng thuốc, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo khổ là việc làm mà tướng quân của ta hay làm từ trước đến giờ!”

Kha Nghiêu cũng nghe ra được Bàng Vũ Cầm cố ý nhấn mạnh hai chữ ‘tướng công’, nhưng nàng cũng không thèm để ý nhiều, chỉ nói: “Muội nghĩ là không phải như vậy! Hiếu kính với người già cả, cao tuổi là trách nhiệm cũng như bổn phận của những người trẻ tuổi như chúng ta! Nhưng chúng ta chỉ có thể mua giúp cho ông lão ngày hôm nay, nhưng còn ngày mai, ngày kia, và rất nhiều ngày sau nữa, khi chúng ta không còn ở đây nữa thì sao? Con dâu của ông lão không cho ông lão mua thuốc! Vậy thì muội phải cho người đến đánh cho bà ta một trận ra trò…để chừa cái thói mất nết như vậy!”

Bàng Vũ Cầm nghe mà ù hết cả hai tai, nàng không ngờ Kha Nghiêu lại có thể thốt lên những lời lẽ như vậy, Liên Nhi ngồi cạnh đó bèn nhỏ nhẹ chen vào nói: “Vậy mà lúc này muội còn nói là lấy đức để thu phục người! Lẽ nào muội không biết rằng, muội đánh người ta hôm nay, vậy còn ngày mai, ngày kia, và rất nhiều ngày sau nữa thì sao, chờ cho chúng ta không còn ở đây nữa, vậy thì không biết con dâu của ông lão còn hành hạ ông lão kinh khủng không biết nhường nào nữa!”

Đỗ Văn Hạo cũng không ngờ ngày thường e thẹn ít nói như Liên Nhi, lại có thể thốt lên những lời nói đầy đạo lý như vậy, Kha Nghiêu nghe nàng nói như vậy, chỉ biết cúi đầu hậm hực vài câu: “Liên Nhi tỷ nói đúng, vậy thì tỷ đi nói đạo lý với con dâu của lão đi!”

Liên Nhi nghe thấy Kha Nghiêu đột nhiên giở thói cãi cùn như vậy cũng không hề tức giận, chỉ mỉm cười đáp: “Được thôi! Dù sao thì chúng ta cũng không thể đi tắm cùng với thiếu gia, vậy ta sẽ đi tìm đến nhà của Thành lão hán để nói chuyện vậy!”

Tuyết Phi Nhi lúc này liền trợn mắt lên nhìn Kha Nghiêu một cái, rồi nắm lấy tay của Liên Nhi nói: “Đi, để ta cùng Liên Nhi đi đến đó nói đạo lý với người ta!”

Kha Nghiêu thấy vậy cũng chỉ hứ lên một tiếng, rồi cầm lấy cuốn sách y học mới mượn của Đỗ Văn Hạo, đứng dậy đủng định đi về phía chỗ mình ngồi khi trước, rồi giở sách ra xem.

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn ra ý cho Bàng Vũ Cầm đi ra bên ngoài cùng mình, khi ra đến ngoài hắn thấy nét mặt của Bàng Vũ Cầm trở nên vô cùng khó coi, bèn ôm lấy bờ vai của nàng nhỏ nhẹ an ủi nói: “Thôi nào! Đừng như vậy nữa! Ta cũng thấy Kha muội dạo gần đây đột nhiên trở nên kỳ lạ làm sao ấy! Cứ như là muốn gây chuyện với tất cả mọi người vậy! Thôi nàng đừng để ý đến nó nữa, có lẽ suốt dọc đường đi, Kha muội không có ai để mà tâm sự, giãi bày nỗi buồn trong lòng mình, rồi cứ ngồi nghĩ ngợi lung tung, nên mới thành ra như vậy!” Nhưng Bàng Vũ Cầm nghe xong vẫn đơ mặt ra, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn thở dài nói tiếp: “Ta mới đầu cũng không muốn đem nó đi theo bên mình như vậy, ai mà biết được nó lại khó gần như thế! Hay là nàng chịu khó ngồi tâm sự với nó thêm được không? Nó cứ như vậy thì e rằng chúng ta cũng cảm thấy vô vị, nó cũng cảm thấy chúng ta thờ ơ, mà càng ngày càng xa lánh mọi người, ta không muốn như vậy chút nào cả!”

Đỗ Văn Hạo thấy Bàng Vũ Cầm vẫn có vẻ khó chịu, lại nói: “Thôi được rồi! Kha muội rốt cuộc tuổi còn trẻ, cũng chưa đầy mười sáu tuổi, hơn nữa, chắc là do cha mẹ mất sớm, còn mình thì bị nhị thúc đem bán cho một cái nơi như vậy, ta nghĩ chắc Kha muội cũng buồn, và khổ tâm lắm. Nhưng, nỗi buồn của Kha muội lúc này lại không thể tìm được người để giãi bày, nên chắc như vậy Kha muội mới trở nên khác thường như vậy, nàng là đại tỷ trong nhà, cũng là vợ cả của ta, nàng cũng nên để ý mà khuyên nhủ, hay là tâm sự cùng Kha muội một chút chứ!”

Đêm đó canh hai, trời quả nhiên đổ mưa như trút nữa, cơn mưa này đến vô cùng mãnh liệt, kèm theo gió thổi vù vù, làm cho mọi người nằm trong phòng không tài nào yên giấc được.

Đỗ Văn Hạo cũng không biết tại sao hắn lại nhơ đến Kha Nghiêu, không biết lúc này nàng đã ngủ chưa? Đỗ Văn Hạo bèn ngồi thẳng người dậy, bên ngoài mưa gió bão bùng, không thể nào nghe được thêm tiếng động gì ngoài tiếng mưa gió, lúc này Lý Phố nằm bên cạnh hắn cũng mở mắt ra nói: “Sao vậy Đỗ đại ca? Đại ca không ngủ được sao?”

“Ừm! Ta có chút lo lắng cho con nhóc Kha Nghiêu đó! Nó nhát gan lắm!” Đỗ Văn Hạo nói xong rồi lại nằm xuống.

“Ha ha! Đại ca cũng đừng lo lắng như vậy nữa! Tại hạ thấy nó đến loài hung dữ như rắn còn dám thò tay ra bắt nữa là…Đây cũng chỉ là trận mưa thôi mà! Thi thoảng nổ vài tiếng sấm thôi, không có gì đáng lo như vậy cả đâu! Hơn nữa, bên đó còn có hai vị phu nhân nằm bên cạnh nữa mà, đại ca cứ khéo lo, thôi đại ca cứ an tâm mà ngủ đi!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng chỉ ừm lên một tiếng rồi im lặng không nói thêm câu nào nữa, một lúc sau, hắn đã nghe thấy tiếng ngáy đều đều của Lý Phố phát ra, Đỗ Văn Hạo thấy vậy cũng cảm thấy buồn ngủ, nên hắn nhắm mắt vào ngủ tự lúc nào không hay.

Sáng hôm sau, sau một đêm mưa gió bão bùng, không khí ngoài trời trở nên sáng trong, và sảng khoái lạ thường.

Mới sáng sớm, Thành lão hán đã lọ mọ đến tìm Đỗ Văn Hạo, nói là lão vừa vặn hôm nay ra chợ, muốn đến rủ mọi người đi cùng, rồi ông lão nói nơi đây có một loại bánh đặc trưng của vùng này rất ngon, bên trên có phết một lớp vừng dầy, sau đó đem nó đánh bẹt ra, rồi cho lên chảo chiên với dầu, cứ thể để lửa nhỏ, bánh sẽ vô cùng giòng, và thơm ngon. Bàng Vũ Cầm và mấy người khác nghe vậy thì tất cả đều trở nên huyên náo, ai cũng nhao nhao lên bảo cùng đi với ông lão.

Khi tất cả mọi người đang hí hửng, nhốn nháo với chuyện đi chợ, thì Kha Nghiêu bước ra từ trong phòng, Đỗ Văn Hạo liền đưa mắt lên nhìn nàng, thì bất giác hắn cảm thấy vừa kinh ngạc vừa buồn cười, hai quầng mắt của nàng trũng sâu, thành hai vòng tròn thâm thâm, trông giống y hệt như con gấu mèo, còn mái tóc của nàng được tết sang hai bên vô cùng tự nhiên, không những vậy nàng thi thoảng lại đưa tay lên ngáp, trông vô cùng đáng yêu.

Liên Nhi thấy vậy thì mỉm cười thấp giọng nói: “Hôm qua Kha Nghiêu không ngủ được, muội ấy cứ thắp đèn dầu cả đêm để đọc sách!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Kha Nghiêu! Hay là muội ở nhà ngủ thêm chút đi! Đừng đi cùng với mọi người nữa, muội xem đôi mắt của muội kìa!”

Kha Nghiêu lại đưa tay lên che miệng ngáp lên một cái, rồi lắc đầu đáp: “Không! Muội không muốn nằm trong phòng nữa đầu, muội muốn đi cùng với mọi người cơ! Muội lúc nãy cũng nghe thấy rồi! Ở đây có cái bánh gì ngon lắm, m thì phải, muội cũng muốn ăn!”

Bàng Vũ Cầm lên tiếng nói: “Muốn đi thì cùng đi! Dù sao muội ở nhà một mình như vậy, chắc cũng không dám ngủ!”

Thế là tất cả mọi người cùng đi ra khỏi cổng, sau khi ra đến bên ngoài, Thành lão hán bèn đưa mắt lên nhìn bốn phía, rồi nhanh chân chạy lên phía trước, Đỗ Văn Hạo bước theo phía sau, thấp giọng hỏi: “Hôm nay lão đưa bọn ta đi chợ như vậy, lẽ nào người con dâu hung dữ của lão lại không nói gì sao?”

Thành lão hán đáp: “Mấy việc phải làm hôm nay lão đã làm xong hết rồi, con trai ta và cháu của ta đều xuống ruộng làm rồi, một mình ta ở nhà lúc này thì cũng bị nó cằn nhặn khó chịu, không bằng đi ra ngoài với mấy người có khi còn vui hơn!”

Đoàn người sau đó, đi theo một con đường mòn ở ven núi ra chợ, vì hôm qua có một trận mưa lớn, nên đường đi vô cùng trơn, mấy người nữ giới trong đoàn thường ngày cũng ít khi phải đi qua những con đường như vậy, nên ai cũng cẩn thận dò dẫm cho khỏi ngã.

Hai bên vệ đường lúc này nở đầy các bông hoa dại rực rỡ, cạnh đó là hai ba con chim nhỏ màu sắc rực rỡ không sợ người lại, cứ đan sen nhau nhẩy qua nhẩy lên ven đường. Tuyết Phi Nhi thấy vậy bèn móc ra từ trong người một ít hạt thóc giống đặt lên bàn tay rồi hạ xuống cho mấy con chim nhỏ đó ăn, nhưng mấy con chim nhỏ đó không dám tiến đến gần, chỉ khi Tuyết Phi Nhi vung nắm thóc sang chỗ khác, thì chúng mới dám tiến lại gần nhặt thóc.

Kha Nghiêu vẫn cứ lầm lũi bước đi cách đoàn người một đoạn khá xa, nàng cúi đầu lầm lũi, không nói câu nào, cứ như là nàng đang suy nghĩ một điều gì đó. Khi đi đến bên sông, thì đoàn người đã trông thấy ở đó có mấy người phụ nữ đang giặt quần áo, mấy người phụ nữ đó trông thấy Thành lão hán thì đều vui vẻ vẫy tay lên chào hỏi ông lão, bọn họ lúc này còn trông thấy ông lão dẫn theo một đoàn người lạ hoắc, do vậy tiếng bàn tán xôn xao cứ thế vang lên rầm rầm.

Mặt trời lúc này đã nấp sau những bóng mây trên trời, do vậy đoàn người cũng không cảm thấy thời tiết nóng nực, còn Thành lão hán thì cứ mồm năm miệng mười nói chuyện với mọi người trong đoàn, sau khi đi qua mấy sườn dốc, thì từ phía xa, mọi người đã trông thấy một thị trấn đông người qua lại, theo như Thành lão hán giới thiệu thì thị trấn này có tên Thanh Gi­ang Trấn.

Thành lão hán thấy đoàn người đi được một đoạn khá xa, bèn bảo mọi người cùng ngồi dưới bên gốc cây hòe để nghỉ chân một lát, Đỗ Văn Hạo lúc này bèn tiến đến bên Thành lão hán nói: “Lão đã nói chuyện với con dâu của mình chưa vậy?”

“Nói rồi! Nó đưa tiền cho lão mua thuốc rồi, hôm nay lão đưa mọi người lên đây, một là vì đi chợ, hai là cũng nhân tiện mua thuốc luôn!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì gật đầu hài lòng, sau đó hắn quay sang bên Kha Nghiêu rồi thấp giọng nói: “Kha muội đã nghe thấy gì chưa? Con dâu của Thành lão tuy là người đanh đá, chanh chua, nhưng việc gì cần làm thì bà ta vẫn cứ làm rồi đấy, nói cho cùng thì bà ta cũng đối xử tốt với ông lão lắm đấy!”

“Hứ! Chưa chắc đã phải như vậy!” Kha Nghiêu xí lên một tiếng đáp.

Đoàn người sau khi xuống dưới chân núi, thì người nơi đây bắt đầu cũng đã trở nên đông đúc, ai nấy cũng đều đeo theo một cái giỏ lớn đan bằng trúc phía sau lưng. Nơi này, vốn cũng không phải là nơi giàu có, phồn vinh, dân chúng bách tính nơi đây đều phải nhờ trời mà sống (có thể là làm việc đồng áng, chăn nuôi…vv. Vv…Nói chung đều là những công việc dựa vào thời tiết là chủ yếu), khi gặp phải thời tiết tốt thì bọn họ có thể có một cuộc sống ấm no, còn thời tiết xấu thì…Chắc họ đành phải dùng tạm những đồ dự trữ từ trước, hoặc vào rừng kiếm thêm rau dại, hoặc săn ít thú rừng về ăn.

Nói là đi chợ, nhưng khu chợ của Thanh Gi­ang Trấn chỉ là một đoạn đường ngắn mà thôi, những người bán hàng nơi đây, hoặc ngồi hoặc đứng, không giống với những người bán hàng trong kinh thành, bọn họ có tiệm, có sạp đàng hoàng, còn nơi đây thì vô cùng đơn sơ, tạm bợ. Các thương hộ của Thanh Gi­ang Trấn cũng chỉ có vài hộ, bọn họ chủ yếu bán các đồ bán buôn như đồ gia dụng thường ngày, chợ nơi đây tuy không to lắm, nhưng lại vô cùng đông đúc.

Lâm Thanh Đại cùng mọi người đều thấy rau xanh, hoa quả nơi đây đều vô cùng tươi tốt, hơn nữa giá cả lại rất rẻ, chính vì vậy mà chưa không lâu sau tất cả ai cũng đã mua đầy chiếc làn sách theo bên người. Thành lão hán lúc này cũng không vội vàng đi mua thuốc, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy có phần kỳ quái, hắn thấy cái tiểu trấn này chỉ có mỗi một tiệm thuốc duy nhất, bèn đem theo ông lão vào bên trong đó, Kha Nghiêu thấy vậy cũng lẽo đẽo bước theo hai người vào bên trong cùng.

Chưởng quầy của tiệm thuốc xem ra cũng quen biết Thành lão hán, nên vừa mới thấy ông lão bước vào thì đã tươi cười nghênh đón, hai người sau khi hỏi han nhau vài câu, thì Đỗ Văn Hạo bèn nói rõ mục đích đến đây của mọi người cho chưởng quầy nghe, rồi nói cho vị chưởng quầy biết tình hình bệnh tật của Thành lão hán cho Chưởng quầy nghe, vị chưởng quầy nghe xong thì mỉm cười nói: “Thành lão đúng là cũng có mấy lần đến đây cắt thuốc, nhưng uống mấy lần vẫn không khỏi gì cả!”

Thành lão hán thấy vậy thì nét mặt bỗng nhiên trở nên khó xử, một lúc lâu sau mới lên tiếng nói: “Thật ra…Thật ra, lão cũng chẳng thấy mình có bệnh gì cả, hay là chúng ta thôi không cắt thuốc nữa…”

Chưởng quầy nói: “Thành lão hán, lão như vậy là không đúng rồi! Có bệnh thì phải uống thuốc chứ! Mấy cậu con trai của lão, ai cũng hay lam hay làm, đều có thể kiếm tiền về cho lão, lão đừng nhỏ nhen như vậy chứ! Thôi cứ để đấy, tôi đi bốc thuốc cho lão!”

Thành lão hán đáp: “Cái này thì lão hiểu, nhưng mà…”

Đỗ Văn Hạo thấy Thành lão cứ ấp a ấp úng như vậy, thì thấy có vẻ kỳ lạ, bèn thấp giọng hỏi: “Hay là con dâu của lão không cho lão tiền mua thuốc hả?”

Thành lão hán trầm ngâm đôi lúc, rồi ông cúi đầu gật gật im lặng không nói.

Kha Nghiêu lúc này bèn liếc sang Đỗ Văn Hạo một cái, rồi quay sang nói với Thành lão: “Con dâu của lão đúng là con mụ dạ xoa chết bầm! Đi! Chúng ta cùng về tính sổ với mụ ta!”

“Không, không! Thực ra là do hoàn cảnh nhà của ta nghèo quá, không có tiền mua thuốc, cũng không phải là nó không muốn cho ta tiền cắt thuốc, mà thực sự là ta không có tiền!”

“Mụ ta đối xử với lão như vậy, mà lão vẫn còn bênh vực cho mụ ta sao?” Kha Nghiêu ấm ức nói.

Chương 325: Căn bệnh hoành hành tại nhà nghỉ.

Đỗ Văn Hạo nghe Kha Nghiêu nói như vậy bèn đưa tay lên khoát khoát nói: “Thôi, bỏ đi đừng làm như vậy! Lão nhân gia, lão đem phương thuốc đây cho tại hạ, để tại hạ cắt thuốc dùm cho lão!”

Chưởng quầy đứng cạnh đó cũng nói: “Đúng đấy! Lão còn không mau đưa đơn thuốc đây cho tôi, tôi đến trưa là đóng cửa rồi, không mở cửa nữa đâu!”

Kha Nghiêu thấy vậy bèn lên tiếng: “Ông lão! Nếu như con dâu của lão không chịu đưa tiền cho lão cắt thuốc, thì Đỗ đại ca sẽ trả tiền dùm cho lão, lão nên biết rằng trên đời này không phải người nào cũng giống với con dâu lão cả đâu, bởi vì thế gi­an này không phải ai cũng thấy tiền sáng mắt, chỉ nhận tiền chứ không nhận người như bà ta cả!”

Chưởng quầy nghe Kha Nghiêu nói ra như vậy, cũng không ngờ một cô gái xinh đẹp, trẻ tuổi lại có thể thốt ra những lời như thế, tuy rằng lời của nàng hơi khó nghe, nhưng lại vô cùng có lý, thấy vậy bèn nói: “Vị cô nương này nói đúng lắm, con dâu của lão ghê gớm, sư tử Hà Đông như vậy, cả cái trấn này ai mà chả biết, nó mà cho tiền lão thì mới trời sụp, không cho tiền lão thì là lẽ đương nhiên rồi!”

Thành lão hán nghe xong, thì ngồi trầm ngâm suy nghĩ, một lúc lâu sau mới ngượng ngùng lấy từ trong tay áo ra đơn thuốc của Đỗ Văn Hạo rồi đưa cho chưởng quầy, chưởng quầy đưa tay tiếp lấy, vô cùn kinh ngạc, rồi đi đến bên quầy thuốc lấy cân ra đong thuốc nói: “Thành lão à! Để tôi nói cho lão biết nhé, bệnh này của lão vẫn còn vô cùng nghiêm trọng, có phải là dạ dày của lão không tốt, đại tiện có màu không vậy?”

Thành lão hán nghe vậy thì chỉ im lặng gật đầu trả lời.

Chưởng quầy lại nói tiếp: “Cái này là do tôi xem đơn thuốc của vị tiên sinh này kê nên biết được, bài thuốc này có một ít thuốc chuyên trị ruột non và dạ dày, vậy nên bệnh của lão phải chữa càng nhanh càng tốt, không được kéo dài thêm nữa!”

Thành lão hán đáp: “Ta biết rồi!”
Chưởng quầy rất nhanh đã cắt xong thuốc, rồi gói gém cẩn thận đưa cho Thành lão hán, sau đó liền quay sang Đỗ Văn Hạo nói: “Tiên sinh chính là đại phụ khám bệnh cho Thành lão hán phải không?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu.

Chưởng quầy thấy vậy thì bất giác cảm thấy vô cùng khâm phục vị đại phu trẻ tuổi ngồi trước mặt ông ta, sau đó ông ta liền tấm tắc nói tiếp: “Hậu sinh khả úy à! Đúng là hậu sinh khả úy, phương thuốc này tiên sinh kê vô cùng cao diệu, các vị thuốc đều kê rất vừa vặn, chỉ cần nhìn thôi là cũng biết là một cao thủ rồi! Không biết tiên sinh có ý định định cư ở Thanh Gi­an Trấn, hay chỉ là đi qua thôn này thôi!”

Kha Nghiêu đứng cạnh đó nhanh nhảu nói: “Lẽ nào ông muốn Đỗ đại ca của ta ở lại tiệm thuốc của ông để khám bệnh hay sao?”

Chưởng quầy nghe vậy thì nở môt nụ cười đôn hậu đáp: “Cái chỗ nhỏ bé này của chúng tôi dĩ nhiên không thể nào giữ chân được một vị cao thủ trong ngành y ở lại đây được, Thành lão hán hôm nay gặp được các vị, đúng là có phúc vô cùng!”

Đỗ Văn Hạo lúc này chỉ ngồi tủm tỉm cười, không hề lên tiếng gì cả, sau đó hắn liền đưa Thành lão và Kha Nghiêu rời khỏi tiệm thuốc kia.

Thành lão hán vô cùng cảm kích Đỗ Văn Hạo, sau khi ra khỏi tiệm thuốc lão bèn quay sang nói với hắn: “Đa tạ tiên sinh! Tiên sinh không những chữa bệnh cho ta, mà còn bỏ tiền túi của mình ra để trả tiền thuốc cho lão nữa!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Lão nhân gia! Lão chỉ uống mấy thang thuốc này thì không khỏi được đâu, lão cần phải nói với con dâu của lão một câu là lão phải trường kỳ dùng thuốc, như vậy căn bệnh của lão mới có thể hoàn toàn trị tận gốc được.”

Thành lão hán nghe xong thì chỉ im lặng không nói gì cả, Kha Nghiêu thấy vậy bèn lên tiếng: “Xem ra hôm qua lão nói chuyện với con dâu lão không có tác dụng gì rồi, thôi để hôm nay tiểu nữ đến đó nói thay cho lão!”

Thành lão hán nghe vậy thì vô cùng kinh hãi, lão liền vội lên tiếng ngăn cản nói: “Không được, không được! Cũng không có tác dụng gì đâu! Đây là chuyện riêng trong nhà của ta, ta tự biết cách, đa tạ cô nương đã quan tâm!”

Kha Nghiêu nghe xong cũng chỉ biết thở dài một cái, rồi nói: “Cái gia đình của lão thì đáng lẽ lão mới là người có tiếng nói cao nhất trong nhà chứ! Có những người, những việc mà lão không nên e dè, sợ hãi mãi như vậy!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cười thầm trong bụng, Kha Nghiêu bây giờ sao mà giống với Dụ Cáp Nhi khi còn ở Đông Minh Huyện đến như vậy, cứ hay lo chuyện bất bình thay cho người khác. Nhớ hồi đó, Dụ Cáp Nhi động chuyện gì cũng muốn ra tay hiệp nghĩa giúp đỡ người khác, hành động của Kha Nghiêu bây giờ không khác nàng là bao.

Trên đường về nhà, Thành lão hán cứ im lặng không nói câu nào cả, chỉ có Bàng Vũ Cầm và mấy người khác là líu lo, ríu rít vì những chuyện ngày hôm nay, bọn họ trên đường bàn tán hết chuyện phong tục tập quán nơi đây, rồi lại bàn đến những thứ đặc sắc của Thanh Gi­ang Trấn, Tuyết Phi Nhi thì mồm năm miệng mười, nói không ngớt lời, mọi người ai nấy đều bị những câu chuyện của nàng làm cho cười đến đau cả bụng. Không lau sau đoàn người đã đi đến trước cổng nhà của Thành lão hán.

Vừa vặn lúc này, thì gia đình của Thành lão hán cũng vừa đi làm đồng về, bọn họ ai nấy cũng đều lên tiếng chào hỏi đoàn người của Đỗ Văn Hạo vô cùng thân thiện, không những vậy người nhà của Thành lão hán còn tặng cho đoàn người một ít rau quả mà họ vừa hái dưới đồng về, sau đó thì mọi người đều vui vẻ chia tay, ai về nhà nấy.

Sau khi vào trong trang viện, cất hết những thứ mua được từ thị trấn về, mọi người trong nhà Đỗ Văn Hạo bèn ra sân hóng mát, còn mấy đứa nha hoàn thì chuẩn bị cơm nước cho mọi người. Đúng lúc này, thì bỗng nhiên có tiếng cãi vã vang lên ở trang viện bên cạnh, Kha Nghiêu liền ngước mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, rồi đứng dậy đi thẳng ra ngoài cổng.

“Kha Nghiêu! Muội định đi đâu vậy?” Đỗ Văn Hạo thấy Kha Nghiêu đi ra ngoài cổng, bèn lên tiếng hỏi.

Kha Nghiêu nghe vậy bèn đưa ngón tay lên chỉ về phía trang viện bên cạnh ra ý mình định đi ra đó, Đỗ Văn Hạo bèn khoát khoát tay ra ý không cho đi, Bàng Vũ Cầm thấy vậy cũng lên tiếng nói: “Chúng ta đừng nên chen vào chuyện gia đình của người ta!”

Tuyết Phi Nhi lúc này cũng vừa vặn bưng chậu nước ra cho Đỗ Văn Hạo rửa mặt, thấy vẻ mặt tức giận của Kha Nghiêu bèn nói: “Chúng ta bây giờ không nên đến đó vội, nếu như bên đó cãi nhau gay gắt quá thì mới sang!”

Kha Nghiêu thấy ai cũng lên tiếng ngăn cản mình, nên đành phải quay lại chỗ ngồi của mình ngồi xuống, ảo não nói: “Chẳng qua là muội ghét cái cách bọn họ đối xử với người cao tuổi như vậy!”

Liên Nhi ngồi cạnh bèn lên tiếng nhẹ nhàng nói: “Ở quê nhà của thiếp cũng không bao giờ có những chuyện ngược đãi người có tuổi như vậy bao giờ, nếu như chuyện này mà để cho Lý Chính hay Tộc Trưởng biết được chắc chắn sẽ đem mấy người đó thả bè trôi sông hết cả thảy!”

Tuyết Phi Nhi cũng nói: “Nơi đây cũng chẳng có hàng xóm láng giềng nào cả, làm gì có ai mà quản bọn họ cơ chứ!”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng rửa mặt xong, Liên Nhi thấy vậy bèn đem chiếc chậu rửa mặt của hắn đem ra ngoài sân đổ đi, nhưng khi vừa mới đổ xong thì nàng bỗng nhiên trông thấy một đứa bé chừng năm sáu tuổi, mặc một chiếc yếm vải màu xanh, hai mũi thò lò nước mũi, tóc cắt kiểu đầu nồi niêu đất, bộ dạng vô cùng xấu xí, mũi tẹt miệng rộng, hai mắt to tròn đứng ở ngoài cổng.

“Đại thúc ơi! Mẹ của cháu muốn treo cổ tự tử rồi!” Đứa bé đứng ở ngoài cổng hô hào, Lý Phố lúc này cũng vừa vặn ngồi ở thềm đá ngay cạnh cổng, nên đứa bé mới quay sang ông ta mà gọi, trông bộ dạng của nó vô cùng tội nghiệp, đáng thương.

Lý Phố cũng nhận ra đứa bé này là cháu nội của Thành lão hán, cũng có nghĩa là con mụ sư tử Hà Đông kia là mẹ của đứa nhóc này, Lý Phố nghe bà ta sắp treo cổ tự tử thì ngồi cười lên như pháo rang: “Mẹ của cháu không muốn sống rồi sao? Được thôi, chết rồi cũng tốt, một mụ đàn bà tính khí như vậy thì chết có lẽ còn tốt hơn là sống đấy, thôi cứ để mặc bà ta chết đi cho được việc!”

Đứa bé nghe Lý Phố cười nói chế nhạo như vậy, chỉ biết mím môi, mặt như muốn khóc, trông vô cùng đáng thương, Liên Nhi thấy vậy bèn chạy đến bên đứa bé, rồi dúi vào tay nó một cái bánh dỗ dành nói: “Cháu ngoan! Không khóc nữa, mẹ của cháu bây giờ ở đâu vậy?”

“Mẹ của cháu đang cãi nhau với ông nội!” Đứa bé đáp.

Lý Phố nghe vậy hứ lên một câu nói: “Vẫn còn đang cãi nhau với ông nội à? Sao không phải là treo cổ tự tử rồi sao?”

“Vẫn chưa ạ! Mẹ cháu chỉ đang cầm dây thôi” Đứa bé lấm lét nói.

Phụ nữ toàn như vậy cả, hết khóc rồi lại làm mình làm mẩy, làm mình làm mẩy xong rồi lại đòi treo cổ tự tử, đây có lẽ là tuyệt chiêu ngàn đời của họ, cũng là quyền lợi mà họ có, Liên Nhi thấy đứa bé trả lời như vậy bèn lên tiếng hỏi: “Mẹ của cháu tại sao lại muốn treo cổ tự tử vậy?”

“Là ông nội cãi nhau với mẹ cháu, mẹ cháu liền lấy chổi đánh ông nội, ông nội tức quá bèn đá mẹ cháu một cái, ngã luôn xuống dưới đất, mẹ cháu thấy vậy bèn chạy đi kiếm dây nói muốn tự tử!” Đứa bé đáp.

Đỗ Văn Hạo lúc này bèn đứng dậy, nhưng sau một lúc suy ngẫm hắn lại ngồi luôn xuống, Kha Nghiêu thấy vậy bèn hỏi: “Đỗ đại ca! Chúng ta có cần đi xem tình hình bên đó thế nào không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ừm! Cũng nên đi, chuyện có vẻ trở nên phức tạp rồi đấy! Hay là muội cùng với Thanh Đại, Phi Nhi sang đó xem tình hình thế nào! Những người còn lại thì thôi không cần phải đi nữa!”

Kha Nghiêu nghe xong liền đứng luôn dậy đi ra dắt tay đứa bé lem luốc, tội nghiệp kia, sau đó nàng liền lấy khăn tay của mình ra lau nước mũi cho đứa bé, rồi nói: “Đi! Cô cô đi cùng cháu xem thế nào nhé!”

Đứa bé lúc này liền ngoái đầu sang phía Đỗ Văn Hạo, rồi nhìn hắn bằng ánh mắt cầu xin, cứ đứng ở chỗ đó, nhất định không chịu đi cùng Kha Nghiêu.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn mỉm cười nói: “Để cô cô đi cùng với cháu! Đi đi!”

Đứa bé nghe vậy thì nấc lên nói: “Mẹ cháu dữ lắm, mấy vị cô cô này không khuyên được mẹ cháu đâu!”

Tuyết Phi Nhi nghe vậy thì cười nói: “Mẹ cháu lợi hại như vậy sao? Cháu yên tâm, cô cô còn ghê gớm hơn mẹ cháu nhiều đấy! Đi thôi! Thanh Đại tỷ, chúng ta cùng đi xem bà ta ghê gớm đến mức nào nào!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy thì gật đầu đồng ý, rồi nàng đứng dậy đi theo mọi người ra cổng, đứa bé thấy vậy không còn cách nào khác cũng đành đi theo ba vị cô cô xinh đẹp như hoa đi ra ngoài cổng.

Khi mọi người đến cổng trang viện của Thành lão hán, thì thấy bên trong viện giờ này đồ đạc ngổn ngang, mọi thứ vứt bừa bãi lung tung, cứ như nơi đây vừa xảy ra một trận cuồng phong thổi bay hết mọi thứ lên vậy, Kha Nghiêu lúc này chỉ cười nói: “Đứa bé sang bên nhà chúng ta thời gi­an cũng khá lâu rồi, nếu như mụ ta muốn treo cổ tự tử, thì e rằng lúc này cũng đã hồn lìa khỏi xác rồi…”

Khi mấy người bước vào bên trong, thì chỉ thấy nơi đây có mấy người phụ nữ tuổi tác lớn nhỏ khác nhau, đang cố gắng ôm lấy cô con dâu của Thành lão hán, người thì kêu cô cô, người thì kêu tỷ tỷ lại có người kêu là mẹ, còn con dâu của Thành lão hán thì tay cầm sợi dây thừng, vừa khóc vừa chửi, nhưng lạ một điều là tất cả nam nhân trong nhà của Thành lão hán đều đứng về phía của ông lão. Thành lão hán lúc này tức giận đến mặt đỏ tía tai, trong miệng không ngừng lẩm bẩm, mắt nhìn bà con dâu không chớp, trông ông lão có vẻ đã tức giận đến đỉnh điểm.

Con dâu của Thành lão hán lúc vẫn cứ kêu gào không ngớt: “Tôi không muốn sống nữa rồi! Cái nhà này ai muốn lên quản thì đi mà quản, tôi cả đời mình ngày nào cũng thức khuya dậy sớm lo cho cái nhà này, đến cả việc chăm sóc con gà, con lợn trong nhà cũng không dám trễ nải, vậy mà bây giờ các người dám ăn hiếp tôi như vậy…”

Con dâu của Thành lão hán lại càng bù lu bù loa hơn nói: “Trời ơi là trời, đất ơi là đất, người đáng chết lại không chết, người muốn sống cũng chẳng được sống yên thân! Trời đất ơi, ông trời ơi, ông bị mù hết rồi cả hay sao mà để cái thân tôi nó khổ như thế này!” Cứ thế, con dâu của Thành lão hán kêu gào đến khản cả cổ, giọng điệu càng lúc càng nghiệt ngã.

Kha Nghiêu nghe vậy thì cau mày lại vô cùng tức giận, nàng buông luôn tay của đứa bé ra, rồi tiến lên phía trước lớn tiếng nói: “Tất cả mọi người đều bỏ chị ta ra, chị không phải muốn chết hay sao? Vậy thì chị cứ treo cổ lên mà chết luôn đi, sống làm gì cho nhọc xác ra, chết rồi cũng tốt, như vậy cũng sẽ sớm được đầu thai, thoát được cảnh khổ! Tốt nhất là chị nên đầu thai vào một gia đình giàu có, mà làm tiểu thư ấy, như vậy thì chị sẽ sung sướng hơn bây giờ rất nhiều!”

Tiếng nói của Kha Nghiêu the thé rất khó nghe, khi nàng vừa dứt tiếng thì tất cả mọi người nơi đây đều lặng người vì kinh hãi, mấy người phụ nữ đang ôm lấy con dâu của Thành lão hán cũng đều buông tay ra, kinh ngạc trông vào Kha Nghiêu không nói nên lời.

Sau khi hoảng hồn, thì một thiếu nữ tiến tới chỉ vào mặt Kha Nghiêu sẵng giọng nói: “Chị là ai hả? Chị có quyền gì mà to tiếng ở đây chứ? Chị bước ra ngoài kia nhanh lên!”

Con trai của Thành lão hán, Thành Nghị thấy vậy bèn lớn tiếng quát: “Diệp Tử! Không được vô lễ với khách như vậy! Đây là khách của nhà ta từ phương xa đến!”

Diệp Tử nghe vậy chỉ ừ lên một tiếng, rồi đưa mắt lên nhìn Kha Nghiêu một cách khinh thị, rồi nói: “Đây là việc nhà Thành gia của chúng tôi, không cần một người ngoài như chị xía vào, mời chị ra ngoài cho!”

Kha Nghiêu nghe vậy cười lạnh nói: “Ngươi chắc là con gái của chị ta phải không?”

Diệp Tử nghe vậy bèn ngẩng đầu, ưỡn ngực lên nói: “Phải thì đã làm sao hả?”

Kha Nghiêu nghe xong thì giơ tay, nhún vai ra ý mình đã hiểu, nói: “Thảo nào! Vậy thì chả trách hung dữ như vậy, đúng là rồng sinh rồng, phượng phượng sinh phượng, chuột sinh ra con biết ăn vụng!”

Diệp Tử nghe vậy thì vô cùng tức giận, đưa tay lên đẩy vào người Kha Nghiêu một cái, đúng là con cháu ở nông thôn, sức mạnh khá lớn, Kha Nghiêu bị cú đẩy của Diệp Tử đẩy lui mấy bước loạng choạng suýt ngã.

Thành lão hán thấy vậy liền quát lên: “Diệp Tử! Sao mày dám vô lễ với khách như vậy hả?”

Diệp Tử thấy ông nộ quát lên như vậy, bèn dừng tay không tiến lên đánh thêm nữa, chỉ đứng đó cười lạnh nhìn sang Tuyết Phi Nhi, sau đó quay trở lại nắm lấy tay của của mụ con dâu của Thành lão hán.

Thành Nghị thấy vậy bèn tiến lại gần, vẻ mặt vô cùng ăn năn nói: “Tôi biết mấy người đều là những người có lòng hảo tâm, nhưng xin các vị hãy ra về cho, đây dù sao cũng là việc nhà của chúng tôi, chúng tôi sẽ tự biết cách giải quyết!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy bèn tiến lên trước mặt Thành Nghị nói: “Vị đại ca này! Chúng tôi thực ra cũng không muốn can thiệp vào việc nhà của anh, nhưng ông lão đúng là đang bị bệnh, hơn nữa bị bệnh rất là nặng, vợ của anh là con dâu của lão, không những không đưa tiền cho lão trị bệnh, mà còn dùng lời lẽ cay nghiệt mà chửi mắng ông lão, chúng tôi đúng là không thể quản được chuyện nhà của anh, nhưng mà tôi thiết nghĩ anh cũng không thể giống chúng tôi, thấy việc làm sai trái trong nhà mà không ra tay quản được. Nói cho cùng thì Thành lão cũng là cha của anh, nuôi anh lớn thế này cũng không phải dễ dàng gì, giờ đây Thành lão cũng đã già cả rồi, vậy mà lại còn phải chịu đựng một người con dâu như vậy, thiết nghĩ không nên…”

Lâm Thanh Đại đang nói chuyện, thì đột nhiên nghe thấy phái sau đầu mình có một tiếng gió phóng vút đến, nàng không cần quay đầu, cũng biết có một vật gì đó đang bay thẳng về phía người mình, thân hình của nàng chỉ khẽ lay động thôi, là nàng đã tránh khỏi vật đánh trộm kia. Quả nhiên, khi nàng tránh sang một bên thì đã trông thấy một chiếc ghế bay vù qua bên mang tai của mình, đập đúng luôn vào người của một nam nhân đối diện với nàng. Nam nhân đó bị cái vé văng đúng vào người kêu lên một tiếng đau đớn, rồi quỳ luôn xuống.

Lúc này có bóng một người phụ nữ vội vàng chạy đến bên nam nhân kia suýt xoa, rồi quay đầu lại nói: “Cô cô! Cô cô làm cái gì vậy, Thành Tề nhà cháu có làm gì cô đâu mà cô lại ném ghế vào người chàng như vậy chứ hả?”

Con dâu của Thành lão hán mới đầu định đánh trộm Lâm Thanh Đại, nhưng không ngờ nàng lại tránh được cú phi ghế tác quái đó, trong bụng kinh ngạc vô cùng, bà ta thầm nghĩ không biết nữ nhân kia có phải là có con mắt đằng sau lưng hay không nữa.

Thành Nghị vừa rồi nghe lời nói của Lâm Thanh Đại, vốn đã cảm thấy khó chịu trong người, giờ lại thấy bà vợ của mình cầm ghế đánh người, may mà người ta tránh được sang một bên, chứ nếu không thì chắc chắn sẽ to chuyện, bởi vì những người đi cùng trong đoàn với Lâm Thanh Đại ai cũng dữ tợn như hổ, nhất là Lý Phố và những người tùy tùng, tuy họ không có mặt ở đây, nhưng nếu để họ biết chuyện cô nương của họ bị ghết đánh vào đầu, chắc sẽ đốt cả cái nhà này cũng nên, nghĩ vậy Thanh Nghị vô cùng tức giận, chạy đến bên vợ mình đang định mở mồm chửi thì, mặt của ông ta đã bị đánh lệch sang một bên, thì ra là bà vợ của ông ta thấy ông ta hùng hổ tiến đến như vậy, đang sắn cục tức trong bụng cho luôn ông ta một cái tát như trời giáng vào mặt.

Thành Nghị bị cái tát đau đến độ nổ cả đom đóm mắt, kinh hãi ôm mặt đưa mắt lên nhìn vợ mình, bà ta lúc này một tay chống nạnh, một tay hất hất sợi dây trong tay, chỉ thẳng vào mặt Thành Nghị mà quát: “Ông định làm cái gì hả? Hả? Định đánh tôi hả? Có giỏi thì đến đây mà đánh! Đánh đi, vớ vẩn, rõ cái đồ nhát chết! Bà mày lại chả nện cho một trận bây giờ!”

Thành lão hán thấy vậy thì đau đớn vô cùng, ông không ngờ con dâu mình lại ghê gớm như vậy, đành bất lực nói: “Con trai của ta! Mày sao mà hèn kém thế hả con, đến cả con vợ của mày mà mày cũng không quản nổi, xem ra hôm nay không phải nó chết, mà ta chết rồi!”

Con dâu của Thành lão hán nghe vậy thì hứ lên một tiếng, rồi lại chống nạnh đi đến trước mặt Thành lão hán sẵng giọng nói: “Vậy sao ông không chết luôn đi, ông già chết bằm!”

Kha Nghiêu nghe vậy thì tức giận lên đến đỉnh điểm, nàng hằm hằm chạy đến bên con dâu Thành lão hán nắm lấy tay cảu bà ta, lấy hết sức bình sinh giật lại một cái, nhưng không ngờ sức mạnh của con mụ sư tử Hà Đông lớn hơn nàng rất nhiều, bà ta chỉ cần khẽ vung tay lên một cái, Kha Nghiêu đã bị hất văng ra ngã trên mặt đất.

Không những vậy con sư tử cái này trông thấy thân hình liễu yếu đào tơ của Kha Nghiêu, bị hất xuống đất như người ta quăng một bịch gạo, kêu lên bịch một cái, rồi cất tiếng tru tréo như người ta trọc tiết lợn: “Ối giời ơi! Giết người rồi!…”

Kha Nghiêu thấy vậy bèn đứng dậy quát: “Giết người? Đúng đấy, ta đang muốn giết ngươi đây! Cái gì mà ông già chết bằm chứ? Không có ông lão thì ngươi lấy đâu ra chồng và con của ngươi chứ? Ngươi mà còn dám ăn nói láo lếu như vậy, ta sẽ lôi ngươi ra Từ Đường bắt nhốt vào trong rỏ lợn, cho ngươi biết thế nào là lễ độ! Tư Chính và Trưởng Tộc chắc chắn sẽ không tha cho ngươi đâu, đừng có ở đó mà tru tréo!”

Mụ sư tử cái nghe vậy thì kinh hãi, nhất thời không dám hé miệng nói ra nửa lời.

Kha Nghiêu lúc này quay sang quát vào mặt của Thành Nghị: “Anh có phải là nam nhân nữa không hả? Sao anh vẫn cứ trơ mắt ra mà nhìn vợ anh hành hạ cha của mìn mãi như thế? Tôi hỏi anh, anh rốt cuộc là do bố mẹ anh sinh ra, hay là do vợ anh sinh ra anh vậy? Hứ! Anh đúng là một thằng hèn đốn mạt! Tôi khinh thường anh!”

Thành Nghị nghe Kha Nghiêu nói mình như vậy, khuôn vốn đã mặt đỏ lên vì tức giận, giờ lại trở nên tím tái, anh ta liền chạy đến góc tường cầm lấy một thanh tre, quay sang nện thẳng vào mặt của vợ mình.

Mọi người nhất thời bị hành động của Kha Nghị làm cho sững người, trước mắt bọn họ bây giờ là một trận mưa đòn giáng xuống mụ sư tử cái kia, từng trận roi trút xuống như mưa bão, con dâu của Thành lão hán lăn lộn trên đất kêu gào thảm thiết, mọi người thấy Thành Nghị lúc này như nổi cơn điên, không dám ai tiến đến can ngăn, ngay cả Diệp Tử cũng lần đầu tiên thấy cha mình tức giận như vậy, sợ hãi khép nép đứng một bên không dám ho he gì cả, một lúc sao thanh tre trong tay của Thành Nghị tả tơi hoa lá, nát bươm không con hình dạng gì cả, xem chừng bao nhiêu nỗi uất ức bấy lâu nay của anh ta đã dồn hết lên nó, giờ đây thanh tre đã bị đánh tẽ ra thành trăm mảnh.

Thành Nghị sau khi đánh xong, bèn quang thanh tre nát bươm trong tay mình xuống trước mặt mụ sư tử Hà Đông, rồi chỉ vào mặt bà ta mà nói: “Mấy vị khách này nói rất đúng! Ta không cần đến một người đàn bà như ngươi nữa! Từ trước ta nể ngươi đã sinh, và nuôi dưỡng con cái cho gia đình nhà họ Thành, do vậy mới để ngươi muốn làm gì thì làm, nhưng hôm nay nếu mà ta còn giữ ngươi ở lại, thì ta sẽ mang tội bất trung, bất hiếu, ta quyết định hôm nay sẽ tống cổ mày đi khỏi đây, từ nay trở đi ngươi không còn là con dâu của nhà Thành gia này nữa!”

Mụ sư tử cái lúc này trên người chỉ mặc mỗi một chiếc áo mỏng, giờ đây bị quất cho nát bươm, máu me be bét, chảy ròng ròng khắp thaanh mình, xem bà ta bị đánh không nhẹ chút nào. Lúc này, sau khi nghe Thành Nghị nói như vậy, bà ta không còn có thể tin vào mắt tai mình được nữa, bà không ngờ ông chồng hiền như ông bụt của mình, hôm nay lại trở nên mạnh mẽ, ác hiểm như một hung thần, đánh mình một trận thê thảm như vây.

Bà ta lúc này biết Thành Nghị không phải nói đùa, nên vội vã lồm còm bò dậy, tay cầm lấy sợi dây thừng, chạy như bay đến bên dưới gốc cây hòe trong sân, rồi ôm theo chiếc ghế, quăng dây lên trên cành cây, rồi lớn tiếng nói: “Trời ơi là trời! Tôi không muốn sông nữa rồi, được! Được lắm, bây giờ tôi sẽ chết! Mấy người mong tôi chết lắm rồi đúng không? Tôi sẽ chết cho mấy ngươi xem!”

Con gái Diệp Tử của bà ta thấy vậy vội vàng chạy đến can ngă, nhưng Thành Nghị đã lạnh lùng lên tiếng: “Lão nhị, lão tam đâu? Hai đứa chúng mày còn không mau kéo chị chúng mày về đây, hôm nay ông muốn xem xem nó thật có mày chết như vậy không? Nếu mà mày chết thật rồi, thì tao Thành Nghị sẽ đào hố chôn cho mày, mày cứ yên tâm mà đi đi!”

Hai người con trai thấy Thành Nghị nói vậy, bèn chạy đến kéo Diệp Tử lại, giờ đây trong này không còn có ai đến can ngăn cho con dâu của Thành lão hán, ai cũng đưa mắt lên chờ đợi xem bà ta sẽ diễn trò đến đâu.

Mụ sư tử Hà Đông sau khi thắt dây đáng hoàng xong đâu đấy, đưa lên cổ họng của mình thì mới phát hiện ra, trong sân lúc này không có một ai tiến đến can ngăn bà ta như lúc trước nữa, thấy vậy mụ sư tử cái thầm giật thót người kinh hãi, sau đó liền đưa mắt lên nhìn Thành Nghị, Thành Nghị thấy vậy chỉ quay đầu đi cười lạnh, không nói.

“Các người! Lẽ nào các người lại cứ để mặc cho ta chết đi như vậy sao?” Mụ sư tử cái tuyệt vọng gào rú.

Thành Nghị vẫn làm ngơ như không thấy gì cả, Diệp Tử thấy vậy bèn lên tiếng: “Mẹ ơi! Mẹ xin lỗi ông nội và cha đi, ông nội đúng là bị bệnh thật, lúc nãy con còn trông thấy ông sách một túi thuốc mang về, mẹ ơi! Diệp Tử cầu xin mẹ đấy! Mẹ nhận lỗi, rồi xin lỗi mọi người đi! Trong nhà này không có ai thường ngày đều không nhường nhịn mẹ cả, mẹ thương bốn đứa trẻ chúng con, ngày nào cũng dành phần ngon nhất dành cho chúng con, mọi người trong nhà thấy vậy cũng đều không phản đối mẹ. Con của nhị thúc bị bệnh, mẹ không đưa tiền cho nhị thúc đem em đi khám, nhị thúc bèn vào rừng kiếm củi chữa bệnh cho con mình, mọi người cũng không dị nghị gì mẹ cả, bởi vì ai cũng biết cuộc sống của chúng ta đúng là rất khó khăn, nhưng mà mẹ không thể suốt đời làm chuyện như thế được!”

Mụ sư tử cái lúc này mới đờ đẫn đưa mắt ra nhìn mọi người xung quanh, cuối cùng bà ta cũng bỏ cái dây thòng lọng, đang tròng vào cổ của mình xuống, rồi bước xuống dưới, sau đó bà ta dò dẫm bước đến trước mắt của Thành lão hán, từ từ quỳ xuống lí nhí nói: “Cha ơi! Con biết con đã sai rồi, mong cha tha tội cho con lần này, nếu cha vẫn còn trách con thì e rằng Thành Nghị chắc sẽ bỏ con mất, con xin cha đó!”

Thành lão hán nghe vậy nhưng vẫn quay mặt đi không nói câu nào cả. Mụ sư tử cái kia thấy vậy bèn nói: “Ngày trước là do con không tốt, vì muốn xây một trang viện mới nên mới tằn tiện, tiết kiệm không dám tiêu pha lung tung như vậy, mọi việc con làm đều là vì cho chúng ta có một căn nhà tử tế, mùa hè thì không bị mưa ướt, mùa đông thì không bị gió lạnh mà thôi!”

Thành Nghị đáp: “Ngươi vẫn còn cảm thấy mình rất đáng thương, rất tộ nghiệp đúng không? Ngày trước ta không nói ngươi là vì ta thương ngươi vất vả vì gia đình, nhưng ngươi lại thế nào hả? Ngươi đem những thứ ngon nhất dành hết cho bọn trẻ, vậy những người khác thì sao? Ngươi ngày nào cũng trách móc người khác ăn nhiều, dùng nhiều, ngươi quá đỗi ích kỷ, ngày trước ta lấy ngươi, thì đúng là một sai lầm lớn nhất trong đời ta, ta không thể tha thứ cho ngươi được, thôi ngươi đi đi!”

Kha Nghiêu lúc này đột nhiên đi đến trước mặt của Thành Nghị, dáng vẻ nghiêm trọng nói: “Thành đại ca! Đại ca có thể để cho tôi nói một hai câu không?”

Thành Nghị lúc này cũng hơi bất ngờ trước hành động này của Kha Nghiêu, nhưng cũng gật đầu đồng ý.

Kha Nghiêu nói: “Cách đây một năm, tôi vẫn là một người con gái trong nhà, được cha mẹ yêu quý, nhưng bây giờ tôi đã mất tất cả, cha mẹ, em trai, em gái tôi đều cũng đã chết hết rồi! Giờ đây tôi đến một người thân bên cạnh cũng không có nữa! Vừa rồi tôi quá nóng giận mà nói như vậy thôi! Bây giờ Thành đại nương (chỉ mụ sư tử Hà Đông kia) cũng đa biết lỗi rồi, vậy tôi xin đại ca hãy tha thứ cho chị ta, chị ta cho dù có làm hàng ngàn hàng vạn điều gì sai chăng nữa, thì chị ta vẫn cứ là mẹ của mấy đứa nhỏ này, bọn chúng không thể không có mẹ được!”

Diệp Tử lúc này thấy vậy cũng vội vàng nói chen vào: “Cha ơi! Con xin cha đấy, mẹ đã biết lỗi rồi, cha cho mẹ con thêm một cơ hội nữa được không? Nếu như mà mẹ vẫn còn như vậy, thì khi đó cha đuổi mẹ đi cũng vẫn không muộn, con cầu xin cha đấy!” Nói đến đây, Diệp Tử bèn ôm mặt khóc lóc.

Thành Nghị thở dài một tiếng, rồi đi đến trước mặt của Thành lão hán quỳ xuống dập đầu côm cốp ba cái nói: “Cha ơi! Con thật là bất hiếu, để cho cha chịu khổ, chịu cực bao nhiêu năm nay, nếu như không có mấy vị đây thức tỉnh, thì có lẽ con vẫn chưa được tỉnh ngộ! Cha nói đi, mọi việc trong nhà bây giờ đều do cha quyết định cả, cho dù cha có quyết định thế nào đi chăng nữa, con cũng không hề oán trách!”

Thành lão hán nghe vậy bất giác hai hàng nước mắt từ từ chảy ra trong đôi mắt khô héo, già cỗi, ông đưa tay ra nâng Thành Nghị đứng dậy, rồi vỗ vỗ vào vai của anh ta nói: “Cha cũng đã có tuổi rồi, trong một ngày không xa nữa cha cũng sẽ khuất cả, nếu như con và gia đình của con sống hòa thuận với nhau, thì cha và mẹ cũng đều không có gì oán trách cả! Vị cô nương này nói đúng lắm, mấy đứa cháu nhà chúng ta không thể không có mẹ được! Thôi thì để nó (chỉ mụ sư tử Hà Đông kia) ở lại cũng không sao!” Nói xong, Thành lão hán bèn gạt hai hàng nước mắt của mình, rồi bước vào trong phòng.

Ngoài sân lúc này, mọi người trông thấy ông lão đã nói vậy, nên ai nấy đều lần lượt vào nhà người đấy, ngoài sân bây giờ chỉ còn trơ mỗi vợ chồng Thành Nghị và Diệp Tử, Thành Nghị đi đến bên mụ sư tử nghiêm giọng nói: “Cha đã nói là cho phép ngươi ở lại, vậy ngươi tạm thời ở lại cũng được! Nhưng mà, bất đầu từ hôm nay trở đi, cái nhà này sẽ do cha quản hết tất cả mọi thứ! Mà ngươi cũng đừng ở nhà mãi như vậy, sáng mai ngươi cũng phải xuống đồng làm việc cùng với ta, tiền của trong nhà về sau sẽ do cha mẹ quản, ngươi có đồng ý không vậy?”

“Tôi…Tôi đồng ý! Tôi đồng ý!” Mụ sư tử lí nhí đáp lại.

Lâm Thanh Đại thấy mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa, nên cũng quay sang Liên Nhi và Tuyết Phi Nhi ra ý bảo cả hai quay về nhà cùng mình. Nhưng, khi nàng quay sang thì phát hiện ra Kha Nghiêu không biết đã biến mất từ bao giờ rồi.

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn bảo Kha Nghiêu quay về trước, còn mình thì mon theo bờ sông tìm Kha Nghiêu, quả nhiên sau một đoạn đường đi, nàng đã trông thấy Kha Nghiêu đang ngồi ôm mình trên một tảng đá ven sông, Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn nhẹ nhàng bước đến bên cạnh.

“Cô nhóc này! Đã đến giờ ăn cơm rồi đấy, sao vẫn còn ngồi đây làm gì thế hả?” Lâm Thanh Đại nhẹ nhàng nói, sau đó nàng liền ngồi xuống bên cạnh Kha Nghiêu.

Kha Nghiêu lúc này đã chuyển sang tư thế tay chống cằm, hai mắt xa xăm nhìn xuống dòng nước bên dưới, sau đó nàng ngước mắt lên nhìn Lâm Thanh Đại, Lâm Thanh Đại bây giờ mới phát hiện ra là Kha Nghiêu đang khóc.

Kha Nghiêu buồn bã, sâu lắng nói: “Lâm tỷ tỷ! Muội muốn ngồi ở đây một mình một lúc, tỷ tỷ cứ về trước đi!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy bèn đứng dậy tiến đến bên Kha Nghiêu, rồi nhẹ nhàng ôm lấy nàng vào lòng, dịu dàng nói: “Muội muốn khóc thì cứ khóc đi!”

Kha Nghiêu gật gật đầu đáp lại.

Lâm Thanh Đại thở dài một tiếng rồi nói: “Ta bây giờ không nhớ nổi hình dạng của mẫu thân ta nữa rồi, ta chỉ nhớ rằng khi ta còn rất nhỏ, mẫu thân ta trong một lần lên núi hái táo rừng cho ta ăn, đã không may trượt chân ngã xuống dưới chân núi mà chết!”

Kha Nghiêu nghe xong bèn ngước mắt lên nhìn Lâm Thành Đại, sau đó nàng nghiêng đầu vào áp mình vào lòng của Lâm Thanh Đại, buồn bã đáp: “Tỷ tỷ! Vậy còn phụ thân của tỷ tỷ thì sao?”

Lâm Thanh Đại cười nói: “Cũng đã mất rồi! Ngày đó ta cảm thấy, dường như cả bầu trời này bỗng nhiên sụp xuống vậy, ta khi đó ôm chặt lấy thi thể của ông ấy, sống chết cũng không để cho người khác đem ông ấy đi chôn, sau đó mọi người nhân lúc ta khóc mệt quá ngủ thiếp đi, đã đem xác cha của ta chôn đi, khi ta tỉnh dậy thì ta đã được sư phụ đưa về nhà của người rồi!”

Kha Nghiêu nói: “Nhưng khi cha mẹ của muội mất, thì muội không được ở bên cạnh họ!”

Lâm Thanh Đại an ủi nói: “Cô bé ngốc này! Muội bây giờ vẫn còn chúng ta đây!”

Kha Nghiêu lúc này nước mắt đầm đìa thấm ướt cả vạt áo của Lâm Thanh Đại, Lâm Thanh Đại bèn đưa tay lên gạt hàng nước mắt còn đọng dưới cằm của nàng nói: “Thôi, đợc rồi! Muội thấy đấy ta và muội cũng có hoàn cảnh giống nhau, nhưng chúng ta vẫn còn có Văn Hạo, Cầm Nhi, Tuyết Phi Nhi và Liên Nhi nữa mà!”

Kha Nghiêu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Muội và tỷ không giống nhau! Tỷ là phu nhân của Đỗ đại ca, còn muội chẳng là gì của huynh ấy cả!”

Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn nắm lấy bèn tay của Kha Nghiêu nói: “Vậy muội bây giờ sẽ là em gái của ta, có được không?”

Kha Nghiêu nghe vậy thì mừng rỡ ngước lên nhìn Lâm Thanh Đại, run run nói: “Thật…Thật không ạ?”

Lâm Thanh Đại mỉm cười gật đầu.

“Tỷ Tỷ!” Kha Nghiêu vòng tay ôm lấy Lâm Thanh Đại, khóc rấm rức.

Ba ngày sau, đoàn người của Đỗ Văn Hạo cũng đã nghỉ ngơi xong xuôi, tất cả cùng đến cáo biệt với gia đình của Thành lão hán, gia đình của Thành lão hán cũng đã chuẩn bị sẵn cho bọn họ lương khô và hoa quả, sau đó còn tiễn đoàn người ra đến tận mười dặm, sau đó mới lưu luyến ra về.

Khi ra khỏi thị trấn Thanh Gi­ang, đoàn người của Đỗ Văn Hạo lại chầm chậm đi thêm được mấy ngày đường nữa, thì bọ họ đã rời khỏi địa phận của Nhã Châu, vào đến Gia Châu.

Gia Châu Châu Phủ nằm ngay dưới ngọn núi Nga Mi, Đỗ Văn Hạo chưa từng đến Nga Mi Sơn bao giờ cả, chính vì vậy hắn thấy đây cũng là cơ hội tốt để chiêm ngưỡng ngọn núi nổi tiếng này, hắn muốn xem xem trên đó có bóng dáng của vị Diệt Tuyệt Sư Thái chưởng môn nhân phái Nga Mi lừng lẫy đó không, cho dù đó có là chuyện của thời nhà Minh của ba trăm năm sau, hay đó là nhân vật trong tiểu thuyết “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” của Kim Dung.

Vậy nhưng, khi đoàn người vừa bước vào trong địa phận của Gia Châu, thì Kha Nghiêu đột nhiên đổ bệnh.

Mấy hôm trước mọi người đều không hề chú ý đến, bởi vì sau khi Kha Nghiêu và Lâm Thanh Đại kết tình tỷ muội xong, thì tâm tình đột ngột trở nên vui vẻ, mọi người ai cũng biết vướng mắc tâm lý trong lòng của Kha Nghiêu giờ đây đã được giải quyết, suy cho cùng thì nàng đã mất hết người thân trong khi tuổi vẫn còn nhỏ, hơn nữa lại còn bị nhị thúc của nàng bán cho lầu xanh, một ký ức đau buồn như vậy, cũng chẳng trách sau khi có người chị mới như Lâm Thanh Đại, nàng đã tìm lại được tổ ấm của gia đình, tìm thấy một chỗ dựa về tinh thần. Chính vì thế mà Kha Nghiêu muốn làm gì thì làm, không có ai muốn làm phiền nàng nữa, trong quãng thời gi­an này, cũng chỉ có một mình Lâm Thanh Đại là thấu hiểu tình trạn của nàng. Trên đường đi mưa gió không ngừng, mọi người lại thấy khí trời mát mẻ, nên cũng tranh thủ lên đường, ngay cả Lâm Thanh Đại cũng không phát hiện ra Kha Nghiêu có biểu hiện thất thường, đột nhiên hôn mê bất tỉnh.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã kịp thời xem bệnh cho Kha Nghiêu, mất một thời gi­an rất lâu, Kha Nghiêu mới từ từ tỉnh lại, nàng trông thấy mọi người đang túm tụm vây lấy xung quanh mình, thì mỉm cười một cách yếu ớt nói: “Mọi người đừng quá lo lắng, muội chắc là mệt quả nên mới vậy đấy, không có chuyện gì đáng ngại cả đâu!”

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn hỏi: “Dạo gần đây muội có cảm thấy có gì khác lạ, khó chịu trong người không?”

Kha Nghiêu đáp: “Cũng không có! Muội chỉ thấy gáy của mình hơi ngứa thôi, còn không thì đều ổn cả, muội không thấy có gì bất ổn trong cơ thể của mình!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn quay sang bảo Lâm Thanh Đại vạch cổ áo của Kha Nghiêu xuống nhìn. Quả nhiên, hắn trông thấy nơi sau gáy của Kha Nghiêu có ba bốn nốt ban đỏ, có chỗ còn bị Kha Nghiêu gãi rách cả ra, Đỗ Văn Hạo lại hỏi tiếp: “Hôm qua ta thấy muội ăn cơm rất ít, muội có thấy tay chân mình nhức mỏi hay gì không?”

Kha Nghiêu đáp: “Có ạ! Nhưng mà suốt ngày đi đường như thế này, muội nghĩ tay chân nhức mỏi là chuyện thường thôi mà!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy sao? Vậy ta thử xem xem tay chân của muội có bị sưng phù không đã!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy bèn vắn ống quần của Kha Nghiêu lên cho Đỗ Văn Hạo xem, Kha Nghiêu đột nhiên cảm thấy xấu hổi, bèn thu luôn chân lại, Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn cười nói: “Muội bây giờ là em gái của Lâm Thanh Đại, thì cũng là em gái của ta rồi, anh xem bệnh cho em gái thì có gì mà phải xấu hổ chứ hả?”

Kha Nghiêu mỉm cười hì hì nói: “Người ta ngượng lắm!”

Đỗ Văn Hạo cũng chỉ lắc đầu mỉm cười, rồi đưa tay lên ấn vào bắp chân dưới của Kha Nghiêu, quả nhiên hắn phát hiện ra chân của nàng đã có hiện tượng phù lên, hắn liền bảo Kha Nghiêu le lưỡi ra cho hắn xem, chỉ thấy lưỡi của Kha Nghiêu màng lưỡi vàng, bóng và dầy, mạch tượng thì thấy mạch trơn, nhịp đập nhanh mạnh, sau đó hắn đưa tay lên trán dò xét, thì bất giác hiểu ra vấn đề, hắn bảo Kha Nghiêu nằm xuống rồi nói: “Muội cố gắng nghỉ ngơi đi, đừng ngồi dậy nữa, có gì cần thì muội cứ gọi nha hoàn đi làm cho! Cầm Nhi, nàng cho một đứa nha hoàn chuyên phục vụ riêng cho Kha Nghiêu nhé!” Nói xong Đỗ Văn Hạo bèn đi đến bên chiếc bàn của mình.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng biết tình hình bệnh trạng của Kha Nghiêu vô cùng nghiêm trọng, hắn bây giờ phải nhanh tay kê thuốc cho nàng uống, như vậy bệnh tình mới nhanh chóng được khống chế.

Kha Nghiêu trông thấy nét mặt của Đỗ Văn Hạo trở nên lo lắng, nghiêm trang, thì bất giác trong lòng cũng cảm thấy sợ hãi, bèn thấp giọng hỏi hắn: “Hạo ca! Muội bị bệnh rồi phải không?”

Đỗ Văn Hạo cắm cúi viết chữ, không ngẩng đầu lên, chỉ đáp: “Dĩ nhiên rồi, nhưng muội cũng không cần pahri lo lắng đâu, muội nghe lời ta cố gắng uống thuốc, những việc khác muội cũng không cần phải quan tâm đâu!”

Đỗ Văn Hạo sau khi viết xong đơn thuốc, bèn đưa cho Anh Tử đi cắt thuốc, bởi vì xe của hắn có đem theo thuốc thang đầy đủ.

Đoàn người lại đi thêm được một đoạn đường nữa, đến một thị trấn nhỏ, đoàn người bèn vào trong đó tìm một nhà nghỉ để nghỉ ngơi.

Sau khi sắp xếp đâu vào đấy, Lâm Thanh Đại bèn lén lút đến bên Đỗ Văn Hạo thấp giọng hỏi: “Con bé Kha Nghiêu đó rốt cục là bị sao vậy hả Văn Hạo?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Thời tiết ở Nhã Châu khô hơn nơi rất nhiều, cộng thêm việc ở lầu xanh Lão Cưu không để cho nó được nghỉ ngơi tử tế, ngày nào cũng phải ôm đàn, ngâm thơ, trước khi lên đường lại bị ốm một trận, chúng ta lại không hay chúý đến nó, chính vì vậy mà lần này mới sinh bệnh như vậy đó!”

Lâm Thanh Đại nghe vậy thì vô cùng lo lắng, vội vã hỏi: “Có nghiêm trọng lắm không?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Bệnh này là do nội ngoại cảm, cộng thêm mỏi mệt quá độ, trên đường lại mệt mỏi, hai thứ này hợp cùng lại một chỗ tạo thành bệnh Thấp Nhiệt, cũng may mà chúng ta phát hiện từ sớm, nếu như phát hiện muộn thì sẽ vô cùng phiền phức! Đại bộ phận người bệnh đều rất dễ bị kích động khi biết bệnh tình của mình trong thời kỳ nguy hiểm, mà bệnh của Kha Nghiêu thì rất kỵ điều này, chính vì thế mà nàng nhất thiết không được phép tiết lộ cho nó biết đấy! Ngoài ra nên nhớ đừng để cho Kha Nghiêu phơi nắng, chỉ được phép ở trong phòng thôi đấy!”

Lâm Thanh Đại hỏi: “Vậy rốt cục là nó bị bệnh gì vậy?”

Kha Nghiêu mắc phải căn bệnh, trên da nổi những vết ban đỏ, căn bệnh này đến một cách nhanh chóng, và có khả năng đột biến vô cùng cao, chỉ cần không cẩn thận thôi là cũng có thể mất mạng như chơi, hơn nữa căn bệnh này lại rất hay xuất hiện ở những người trẻ tuổi. Đỗ Văn Hạo dĩ nhiên là không muốn cho Kha Nghiêu biết, vì sợ nàng lo lắng đâm ra bệnh tình càng trở nên nhẹ hơn, vì vậy hắn bèn suy ngẫm thêm một hồi, sau đó mới chầm chậm nói: “Là một chứng Thấp Nhiệu vô cùng nghiêm trọng, nếu như nó hỏi nàng, thì tốt nhất nàng nên nói là các vết ban đỏ ở cổ không thể ra nắng được, muốn ăn uống gì chỉ cần bảo đứa nha hoàn nó làm cho là đượ rồi!”

Lâm Thanh Đại nghe xong bèn gật đầu ra vẻ hiểu ý, trong lòng vô cùng lo lắng.

Ngày hôm sau, bệnh tình của Kha Nghiêu càng lúc càng trở nên trầm trọng, Lâm Thanh Đại liền nhanh chóng thông báo tin tức này cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo vội vã đi theo Lâm Thanh Đại đến phòng của nàng xem xét tình hình của Kha Nghiêu, chỉ thấy Kha Nghiêu hai mắt đỏ ngầu, khi hắn đến gần thì phát hiện ra đôi chân của Kha Nghiêu lúc này đã phù lên to khủng khiếp, nàng chỉ biết nằm trên giường mà rên rỉ đau đớn không ngừng.

Đỗ Văn Hạo bèn kiếm lấy một chiếc ghế rồi đem nó đến bên cạnh giường của Kha Nghiêu rồi ngồi xuống, sau đó hắn quay sang Kha Nghiêu nói: “Nếu như muội đau quá thì có thể thét lên, như thế cơn đau cũng sẽ giảm đi được nhiều hơn!”

Kha Nghiêu nghe vậy miễn cưỡng đáp: “Hạo ca! Toàn thân muội lúc này đau đớn vô cùng, có phải muội sắp chết rồi không?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, nhẹ nhàng nói: “Muội nói năng lung tung cái gì thế! Trên đường đi trời nóng nực như vậy, chúng ta lại còn vội vã lên đường, sau đó trời lại đổ mưa, do vậy trời mới trở nên ẩm thấp nên muội mới bị nhiễm khí ẩm thấp đó vào trong người, do vậy muội mới bị như vậy, muội chỉ cần cố gắng uống thuốc đem khí ẩm thấp trong người bài tiết ra ngoài thì bệnh sẽ khỏi thôi, đừng lo lắng như vậy!”

Kha Nghiêu cố gắng mở hai mắt mình ra, mệt mỏi nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, rồi gật gật đầu đáp lại, sau đó lại khép mắt lại nói: “Hạo ca! Thân hình của muội lúc này cứ như bị thiêu trên lò lửa vậy, nóng quá! Huynh bảo Thanh Đại tỷ đến cõng muỗi ra bờ suối tắm một cái nước lạnh cho mát có được hay không?”

Đỗ Văn Hạo đưa tay lên sờ vào trán của Kha Nghiêu, thì thấy chàng nàng nóng như hòn tha, thấy vậy hắn bèn bảo Anh Tử di lấy một chậu nước, sau đó ngâm một chiếc khăn vào trong đó, rồi đưa lên đắp vào trán của Kha Nghiêu để giảm nhiệt.

Đỗ Văn Hạo lại an ủi Kha Nghiêu thêm vài câu nữa, rồi mới dời đi, khi vừa ra khỏi phòng của Kha Nghiêu thì hắn trông thấy Bàng Vũ Cầm đang đứng ở ngoài dãy hành lang, thở ngắn than dài. Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn bước tới thấp giọng nói: “Bệnh của Kha Nghiêu vô cùng phức tạp, không thể nào uống một vài thang thuốc mà khỏi ngay được cả! Nàng mau mau bảo đứa nha hoàn đi nấu cho nó đi! Có lẽ trong hai ba ngày nay, nó ăn sẽ bị nôn ra đấy, nhưng vẫn phải bắt nó ăn, nếu không chắc thân thể của nó không chịu nổi đâu!”

Bàng Vũ Cầm thở dài một cách ai oán nói: “Trời xanh thật tàn nhẫn, sau khi bố mẹ, em gái, em trai bị chết, thì bị nhị thúc đem bán vào trong lầu xanh, giờ đây lại gặp phải căn bệnh quái ác này, thiếp đã trông thấy mấy vết ban đỏ trên người của nó rồi, muội thấy thương nó quá!”

Đỗ Văn hạo nói: “Đúng vậy! Với căn bệnh này, thì bệnh nhân phải có một sự nhẫn nại vô cùng lớn, bởi vì trong gi­ai đoạn này không ai có thể giúp nó được cả, cũng không ai có thể gánh vác nỗi đau của nó nữa!”

Đoàn người vì Kha Nghiêu sinh bệnh, nên ở lại đây thêm ba ngày nữa.

Buổi sáng sớm ngày thứ ba, Đỗ Văn Hạo liền đến phòng của Kha Nghiêu để phúc chẩn, mấy hôm nay ngày nào hắn cũng như vậy, mới mở mắt ra là hắn bèn sang phòng của Kha Nghiêu xem xét tình hình.

Khi mới bước vào bên trong, hắn đã trông thấy Tuyết Phi Nhi đang gục trên bàn ngủ từ lúc nào, mấy ngày hôm nay đều là do Tuyết Phi Nhi chăm nom cho Kha Nghiêu, chắc vì thế nên nàng mệt quá mà ngủ thiếp đi như vậy…

Kha Nghiêu gắng gượng nhổm người ngồi dậy, nhưng do những vết sưng tấy trên người vẫn chưa tiêu đi được, đặc biệt là hai chỗ sưng phù dưới chân nàng, làm cho nàng ngay cả những chiếc quần hàng ngày cũng thể mặc vào được nữa. Bàng Vũ Cầm thấy vậy vội sai người đến tiệm may, may cho Kha Nghiêu một chiếc quần ống rộng tạm thời cho nàng mặc. Kha Nghiêu sau ba ngày dùng thuốc thì tinh thần cũng đã ổn định hơn trước rất nhiều.

Đỗ Văn Hạo trông thấy nàng cố gắng ngồi dậy như vậy, liền vội vã tiến đến dìu đỡ, rồi thấp giọng nói: “Cẩn thận, để ta đỡ muội! Muội muốn làm gì vậy?”

Kha Nghiêu chỉ vào Tuyết Phi Nhi, thấp giọng nói: “Huynh đừng nói to như vậy, để cho Phi Nhi tỷ ngủ một chút, muội chỉ muốn ngồi dậy đi…đi…!”

Đỗ Văn Hạo thấy nàng ấp úng như vậy thì cũng hiểu là nàng muốn đi giải quyết sinh lý hàng ngày, nên hắn biết mình không thể đỡ nàng mãi được, phải gọi người đến dìu nàng đi mới xong, nhưng hắn quay sang Tuyết Phi Nhi thì thấy nàng vẫn đang ngủ ngon lành, không tiện đánh thức, thế nên hắn nói: “Để ta đi gọi Thanh Đại, muội chờ một chút nhé”

Kha Nghiêu nghe vậy vội nói: “Muội buồn quá rồi, không nhịn được nữa rồi, huynh di giầy giúp muội, sau đó đưa muội ra ngoài tìm tỷ tỷ cũng được!”

Đỗ Văn Hạo liền tìm cho Kha Nghiêu một đôi giầy rồi xỏ vào chân cho nàng, nhưng ai ngờ chân của nàng bây giờ bị phù to quá, đôi giầy này căn bản không thể nào vừa chân nàng được, Kha Nghiêu lúc này mặt đỏ lựng lên nói: “Hạo ca! Huynh mau mau ôm muội bế xuống lầu nhanh lên!”

Đỗ Văn Hao nghe vậy thì hơi có chút do dự, Kha Nghiêu thấy vậy bèn đưa tay lên đẩn hắn một cái nói: “Huynh là anh trai của muội! Muội còn không ngại, huynh cũng đừng có ngại nữa!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì chỉ còn biết ôm nàng bế thốc ra ngoài, rồi nhanh chóng đi xuống dưới lầu, vừa đúng lúc này thì hắn gặp Liên Nhi, hắn liền đặt Kha Nghiêu xuống bảo Liên Nhi dìu nàng đi giải quyết.

Khi hai người đi khỏi, thì Đỗ Văn Hạo sau khi bế Kha Nghiêu, đã cảm thấy nàng cũng đỡ sốt hơn mấy hôm trước rồi, nhưng để cho cẩn thận hắn chờ hai người đi ra liền tiến đến đặt tay lên trán của Kha Nghiêu, quả nhiên trán của nàng đã trở ấm lại như người thường, xem ra bệnh tình của nàng cũng có dấu hiệu chuyển biến tốt rồi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Muội lúc này cũng vẫn chưa được ra ngoài phơi nắng đâu! Liên Nhi mau mau dìu Kha muội lên lầu nhanh lên!”

Kha Nghiêu lúc này nháy mắt một cách tinh nghịch, lém lình nói: “Không! Hạo ca bế muội lên trên lầu cơ!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì cảm thấy hơi xấu hổ, Liên Nhi đứng cạnh đó thấy Đỗ Văn Hạo bị làm khó như vậy, thì thầm che miệng mỉm cười rồi nói: “Con bé này! Ngươi không biết là nam nữ thọ thọ bất thân không hả?”

Kha Nghiêu nghiêng đầu sang một bên, rồi nửa cười nửa đùa nói: “Muội vẫn còn nhỏ tuổi mà!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng không biết nói gì, chỉ đơ mặt đứng đó chần chừ không dứt. Kha Nghiêu thấy vậy bèn nói: “Muội là em gái của huynh mà!”

Đỗ Văn Hạo cảm thấy hắn đúng là ở trong tình trạng khóc dở mếu dở, không biết làm thế nào, đúng lúc này thì Lâm Thanh Đại đi đến, Đỗ Văn Hạo vội chạy đến bên nàng, kéo nàng lại gần nói: “Bây giờ có tỷ tỷ của muội ở đây rồi, tỷ tỷ của muội là người luyện võ, bế muội lên không có vấn đề gì cả đâu! Ta vẫn còn có việc phải bận bây giờ, ta đi đây!” Nói xong Đỗ Văn Hạo bèn nhanh chân đi khỏi nơi đây.

Kha Nghiêu trông bộ dạng của Đỗ Văn Hạo như vậy, thì cảm thấy tức cười, nàng đứng sau lưng hắn cười lên khanh khách khoái chí, Lâm Thanh Đại thấy vậy thì gật đầu cười nói: “Sức khỏe mới khỏe lên được có một chút thôi, mà đã biết trọc nghẹo Hạo ca rồi hả?”

Kha Nghiêu nghe vậy bèn phủ phục lên trên lưng của Lâm Thanh Đại, để mặc cho nàng cõng mình lên, rồi ghé miệng vào tai của Lâm Thanh Đại thì thào nói: “Hi hi! Muội thích cảm giác được huynh ấy ôm muội!”

Lâm Thanh Đại nghe xong thì giật thót tim, lẽ nào cô nhóc này đã có tình cảm gì với phu quân của mình rồi hay sao? Nàng liền quay sang nhìn Kha Nghiêu một cái, rồi lại lặng thinh không nói câu nào nữa.

Qua mấy ngày sau, những chỗ sưng tấy trên người Kha Nghiêu cũng đã tiêu bớt đi khá nhiều, nàng bây giờ ăn uống cũng đã đều đặn như ngày trước, nhưng duy chỉ có một điều là Đỗ Văn Hạo vẫn không cho phép nàng đi xuống bên dưới lầu. Kha Nghiêu cứ ở mãi trong phòng cảm thấy vô cùng vô vị, chờ cho mặt trời khuất núi, nàng liền kèo nhèo, nhặng lên đòi xuống bên dưới đi dạo.

Lâm Thanh Đại lựa lời khuyên nhủ mãi, mà Kha Nghiêu nhất định không chịu nghe, nàng vẫn một mực đòi xuống bên dưới chơi, đúng lúc này thì Đỗ Văn Hạo đi đến.

“Thôi mà! Thôi mà! Để muội đi đi! Muội đã nằm trên giường mười mấy hôm nay rồi, mông của muội nằm mãi nó cũng to bè ra hết cả rồi đây này!” Kha Nghiêu chu môi lên làm nũng với Lâm Thanh Đại.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Con nhóc này, ăn với chả nói, sau lại đem những lời lẽ như vậy ra nói với Thanh Đại hả? Chẳng biết ngượng là gì cả!”

Kha Nghiêu nghe vậy bèn kéo lấy tay áo của Đỗ Văn Hạo, rồi ngúng nguẩy nói: “Hạo ca! Huynh xem kìa! Mặt trời cũng đã xuống núi rồi, huynh để cho tỷ tỷ của muội đưa muội xuống kia chơi đi! Muội sẽ rất nghe lời, không ăn thứ gì lung tung cả, không ăn bất kỳ thứ gì mà huynh không cho phép muội ăn, nếu muội đi mệt rồi thì nhất định sẽ quay về nằm luôn, thế đã được chưa?”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn lên tiếng hù dọa Kha Nghiêu: “Nếu bây giờ mà muội mà đi ra bên ngoài, thì gương mặt của muội sẽ nổi những chấm đỏ, không thể nào chữa khỏi được, muội muội sau này không lấy được chồng, thì đừng có trách ta nhé!”

Kha Nghiêu nghe xong, thì chẳng cảm thấy gì sợ hãi cả, nàng bật cười lên khanh khách nói: “Muội chẳng sợ gì hết! Nếu như không có ai muốn lấy muội, thì muội cứ bám theo huynh cả đời cũng được!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì đanh mặt lại, nghiêm túc nói: “Muội đừng nói đùa với anh trai của mình như vậy, muội mà về sau còn dám nói như vậy nữa, thì cẩn thận huynh đánh đòn đó!” Sau đó hắn giả bộ đưa tay lên đánh Kha Nghiêu, nhưng Kha Nghiêu không hề sợ hãi, mà ngược lại, nàng đưa luôn gương mặt xinh xắn của mình lên, sẵn sàng hứng chịu cái tát của Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo nào dám đánh nàng, hắn thấy nàng làm như vậy thì bất giác thu luôn tay lại, không đánh nữa. Khi hắn thu tay lại thì một mùi hương thơm mát từ gương mặt của Kha Nghiêu tỏa ra bay vào mũi hắn, làm hắn rung động lạ thường.

Kha Nghiêu thấy vẫn vậy lại càng trơ trẽn, hướng mặt lên khiêu khích nói: “Đánh đi! Huynh đánh đi! Má của muội đay này, huynh cứ việc đánh, nếu huynh đánh nhẹ, thì muội biết là huynh rất thương muội!”

Chương 326: Bệnh không đợi người.

Đỗ Văn Hạo lúc này cảm thấy vô cùng khó xử, không biết xử lý ra sao, Lâm Thanh Đại thấy vậy bèn tiến tới nói với Kha Nghiêu: “Con nhóc nghịch ngợm này, muội chỉ biết bắt nạt Đỗ đại ca của muội thôi! Huynh ấy sao dám đưa tay động thủ mà đánh nữ giới cơ chứ, hơn nữa người đó lại là một người xinh đẹp như muội!”

Đỗ Văn Hạo cũng chỉ biết lắc đầu cười trừ, rồi chắp hai tay ra đằng sau quay người đi ra khỏi phòng, Kha Nghiêu thấy vậy vẫn cố nói với theo: “Đỗ đại ca! Rốt cục là muội có được ra ngoài đi chơi không vậy?”

Đỗ Văn Hạo vẫn quay lưng, đầu không ngoái lại đáp: “Khi nào muội trở nên ngoan ngoãn hơn thì ta sẽ cho muội đi!”

Kha Nghiêu nghe vậy thì sị cái mặt ra, hai chân dẫm dẫm xuống đất nói: “Đỗ Văn Hạo! Huynh…huynh quá đáng quá rồi đấy!”

Đỗ Văn Hạo chỉ nhếch môi lên cười một cái, rồi tự lẩm bẩm một mình nói: “Con nhóc con này, dám trực tiếp đem cả tên ta ra mà réo, mà gọi! Cẩn thân ta lại nhốt mi thêm mấy nữa, không cho ra ngoài bây giờ chứ lại!” Nói xong, hắn lại mỉm cười, miệng huýt sáo bước đi.

Gia Châu nằm ở dưới chân núi Nga Mi, nơi đây cũng không hề lớn hơn Nhã Châu được là bao, và cũng là nơi lưu đày của các phạm nhân, ngoại trừ phong cảnh hữu tình, núi cao nước đẹp ra, thì dân chúng nơi đây có một cuộc sống vô cùng vất vả. Khi vào trong thành Gia Châu thì mới thấy, chốn này nghèo hèn, rách nát, quần thể kiến trúc thì cũ kỹ, nhưng lưu lượng người trong thành thì lại khá đông, nhưng đa phần bọn họ đều là những người nghèo khó, chẳng có mấy ai ăn mặc đẹp đẽ cả. Có khi nơi đây còn không bằng với huyện Đông Đạt, nơi mà Đỗ Văn Hạo đầu tiên đặt chân, khi mới xuyên thời gi­an bay về quá khứ.

Kha Nghiêu được Đỗ Văn Hạo chữa trị cho căn bệnh cũng đã đỡ hơn rất nhiều, và sau lần trọc ghẹo nhau ở trong nhà nghỉ đó, nàng đã ngoan hơn phần nào, suốt chặng đường đi rất biết nghe lời.

Đoàn xe của Đỗ Văn Hạo sau khi vào bên trong thành Gia Châu, thì đều thu hút hết tầm mắt của những người dân hiếu kỳ nơi đây, xem ra những đoàn người có đội hình hoàn tráng như đoàn người của Đỗ Văn Hạo rất ít xuất hiện nơi đây, có lẽ vì thế mà những người dân nơi đây cảm thấy mới mẻ, tân kỳ.

Bên ngoài cổng thành có mâý người dân binh canh cổng, đang uể oải đứng làm nhiệm vụ thì, khi trông thấy đoàn xe của Đỗ Văn Hạo cũng không hề ra tay ngăn lại, thậm chí còn không thèm lên tiếng dò hỏi, mà ngược lại hộ vệ của Đỗ Văn Hạo Từ Tam còn phải xuống ngựa hỏi đường đi đến Nha Môn trong thành. Mấy người dân binh nghe vậy cũng chỉ lười biếng đưa tay lên chỉ hướng, rồi thuận miệng hỏi một câu đến tìm Nha Môn có chuyện gì.

Từ Tam cũng không hề nói rõ thân phận của đoàn người, cũng chỉ thuận miệng trả lời qua quýt một hai câu, mấy người dân binh thấy vậy cũng chẳng buồn hỏi thêm cái gì nữa.

Khi đoàn xe đến cổng Nha Môn, thì thấy cổng của Nha Môn lúc này đến một đứa canh cổng Nha Lại cũng không có. Đoàn xe vừa mới dừng chân đỗ lại, thì Từ Tam đã phóng người từ trên ngựa xuống, đi thẳng vào bên trong Nha Môn. Mới vào đến nơi thì Từ Tam cảm thấy nơi đây vắng hoe vắng hoắt, không một bóng người, Từ Tam cảm thấy vô cùng kỳ lạ, bèn lên tiếng gọi vài câu, lúc này nơi đây mới xuất hiện một ông lão hai mắt kèm nhèm chạy ra nói: “Mấy người đến tìm ai vậy?”

Từ Tam đáp: “Chi Châu đại lão gia của các người đâu rồi? Mau mau đi thông báo cho Chi Châu đại nhân biết là, Đỗ Ngự Y Đỗ Văn Hạo đại nhân từ kinh thành mới đến, mau bảo Chi Châu đại nhân ra tiếp đón nhanh lên!”

Đỗ Văn Hạo là Ngự Tiền Chính Thị Đại Phu, quan lên đến ngũ phẩm, ngoài ra hắn còn có túi Tử Y Kim Ngư, là vật phẩm của qua chính tam phẩm, ở đời nhà Tống thì chức quan Chi Châu cao lắm cũng chỉ đến tòng lục phẩm, kém hơn của Đỗ Văn Hạo rất nhiều, chính vì thế mà khi đến đây thì theo lẽ Chi Châu phải chạy ra mà bái kiến, tiếp đón hắn!

Cái này giống như hạ cấp phải ra đón thượng cấp từ trên trung ương về vậy.

Ông lão hai mắt kèm nhèm nói cho cùng cũng là người lăn lộn ở trốn quan trường lâu năm, gặp qua nhiều người, cũng đã từng đón tiếp không ít các viên quan lại cao cấp đến đây thị sát, nên sau khi nghe Từ Tam nói vậy thì hai mắt kèm nhèm của ông lão bỗng nhiên trở nên sáng rực, vội vã cúi người gật đầu, sau đó chạy vội ra cổng mở to ra, để cho đoàn xe của Đỗ Văn Hạo đi vào bên tron­bg, sau đó nhanh chân chạy vào Nha Môn thông báo.

Khi đoàn xe tiến vào bên trong sân của Nha Môn, Đỗ Văn Hạo liền vén rèm bước ra khỏi xe, sau đó hắn vuỗi lại bộ quan bào trên người, thắt lại đàng hoàng cái túi Tử Y Kim Ngư ở bên hông của mình, rồi hắn ngoái đầu lại nhìn Anh Tử và Liên Nhi đang dìu Bàng Vũ Cầm xuống xe, vừa vặn lúc này bỗng có tiếng nói từ phía sau lưng hắn vọng tới: “Ngự Y đại nhân! Chi Châu của chúng tôi đến rồi!”

Đỗ Văn Hạo quay người lại xem, thì thấy cách hắn không xa có mấy người đang nhanh chân bước tới, trong bộ quan phục thì hắn đã nhận ra một trong số đó là Chi Châu, Thông Phán, Huyện Ủy và Điển Sử, người vừa lên tiếng nói vừa rồi chính là ông lão mắt mũi kèm nhèm khi nãy.

Chi Châu chỉ cần trông vào bộ quan phục chính ngũ phẩm trên người Đỗ Văn Hạo, cũng biết người trẻ tuổi này chính là Đỗ Ngự Y danh tiếng lẫy lừng, ông ta vội vàng tiến đến cúi người thi lễ nói: “Hạ Quân Ngô Thiên Bình, là Chi Châu của Gia Châu, xin hỏi đại nhân có phỉa là Đỗ Ngự Y đó không ạ?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu đáp: “Chính là bổn quan!” Sau đó hắn rút trong người ra một chiếc lệnh bài rồi đưa cho Ngô Thiên Bình xem.

Ngô Chi Châu thấy vậy liền đưa tay lên lau mồ hôi trên trán, rồi mỉm cười cẩn thận tiếp lấy tấm lệnh bài của Đỗ Văn Hạo, sau khi xem xét kỹ lưỡng ông ta liền trao lại cho Đỗ Văn Hạo, mặt mày hớn hở nói: “Đỗ Ngự Y! Hạ quan thật là thất lễ quá, không biết Đỗ đại nhân đại giá quang lâm đến Gia Châu, không thể tiếp đón từ trước, mong Đỗ đại nhân xá tội!”

“Không cần khách khí, bổn quan thực chất là đang phụng chỉ tứ phương tầm y, do vậy đường đi cũng vô cùng bất định, không thể thông báo trước được, do vậy các người cũng không biết ta đến đây cũng có gì là lạ đâu!” Đỗ Văn Hạo nói.

Ngô Chi Châu nghe xong, liền biết Đỗ Văn Hạo phụng chỉ tứ phương tầm y, chẳng khác nào đi tuần, chức vụ có lẽ cũng không khác gì Khâm Sai Đại Thần là mấy, do vậy trong lòng có chút lo lắng, vì thất lễ không kịp nghênh đón Khâm Sai Đại Thần là một việc vô cùng hệ trọng, do vậy Ngô Chi Châu liền luôn miệng cáo lỗi, trong lòng chỉ e sợ Đỗ Văn Hạo trách tội ông ta.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy bèn nói: “Không hề gì! Bổn quan có lẽ phải ở Gia Châu một thời gi­an khá dài, có khi dăm bữa nửa tháng cũng không biết chừng, phiền đại nhân hãy lo cho gia quyến, và tùy tùng của ta nơi ăn chốn ở!”

Ngô Chi Châu nghe vậy liền đưa tay vỗ trán ra vẻ mải nói chuyện mà quyên mất, ông ta có lẽ cũng vì lo lắng, hồi hộp quá nên không nghĩ ra chuyện như vậy, sau khi nghe Đỗ Văn Hạo nói vậy, lại luôn miệng cáo lỗi, chắp tay nói: “Vâng! Vâng! Dịch trạm của Gia Châu lúc này phòng ốc rất đơn sơ, và không nhiều, e rằng không thể sắp xếp hết được cho đại nhân và mọi người. Thế này vậy! Nơi đây có nhà nghỉ tốt nhất của Gia Châu có tên là nhà nghỉ Nga Mi, cách Nha Môn cũng không xa lắm, nằm ở ngay ngã tư mặt đường đàng kia, nơi đó cũng là nơi trung tâm, ồn ào và náo nhiệt, đại nhân và mọi người cùng ra đấy ở, không biết hạ quan sắp xếp như vậy có được không ạ?”

“Ha Ha! Chi Châu đại nhân quá khách khí rồi!” Đỗ Văn Hạo nói.

Ngô Chi Châu nghe vậy cũng biết Đỗ Văn Hạo rất hài lòng với thái độ của mình, thì trong lòng khấp khởi, ông ta liền đem theo Tả Quan của mình lên kiệu, dẫn đường cho Đỗ Văn Hạo ra nhà nghỉ. Sau khi đi qua mấy con đường, thì tất cả cũng đã đến nhà nghỉ Nga Mi, nhà nghỉ này nếu mà đặt ở kinh thành thì có lẽ chỉ thuộc vào hạng rách nát, thô s. Nhưng, ở cái nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn sỏi này thì nó hiện lên vô cùng kỳ vĩ, và sạch sẽ.

Đỗ Văn Hạo cũng đoán ra được là nhà nghỉ Nga Mi này có lẽ là nơi chuyên dùng để tiếp đón các quan cao cấp khi họ về đây, do vậy mà chưởng quầy của nhà nghỉ và tiểu nhị cũng đều rất có kinh nghiệm trong việc tiếp đón những vị khách sộp như thế này, ai cũng mặt mày niềm nở tiếp đón đoàn người của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo biết nơi đây nghèo, mà người của hắn lại đông, nên hắn biết ý gọi luôn chưởng quầy ở đây lại để trả tiền phòng, nhưng Ngô Chi Châu đã nhanh chân chạy đến, hấp ta hấp tấp nói: “Ngự Y đại nhân…Ngự Y đại nhân! Đại nhân làm như vậy chẳng khác nào tát vào mặt của hạ quan cả! Đại nhân đại giá quang lâm đến đây, đã là niềm vinh hạnh vô cùng to lớn của Gia Châu rồi, tiền nong tiêu pha ở đây tất cả đều do hạ quan chi trả, đại nhân không phải lo lắng nhiều đâu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cau mày nói: “Đoàn người của ta rất đông! Ta e rằng kinh phí quá lớn, ngươi không thể nào mà đảm trách nổi! Chuyện tiền nong như thế này, cứ để tự ta lo liệu, hơn nữa ta còn ở lại đâ dăm bữa nửa tháng, chữa trị các loại bệnh dịch tạp chững nơi đây, nên cũng có thêm thu nhập, chính vì thế mà Ngô đại nhân cũng đừng lo lắng quá, ta cũng có tiền, cộng thêm vào tiền chữa trị nữa, cũng đủ để chi trả rồi! Ta không muốn cầm bổng lộc của đại nhân mà tiêu xài hoang phí! Ngô đại nhân cứ nghe ta, đừng quá khách khí như vậy!” Nói xong Đỗ Văn Hạo liền rút trong người ra một tập ngân phiếu.

Ngô Chi Châu mới đầu cũng định nằng nặc đòi trả tiền, nhưng đó ngẫm lại thấy rằng đoàn người của Đỗ Văn Hạo đúng là khá đông, hơn nữa thời gi­an ở đây lại lâu, nếu như ông ta vẫn cứ cứng đầu đòi chi trả, thì có lẽ ông ta có bán hết cả ruộng đất, đồ đạc trong nhà cũng không đủ tiền lo liệu. Hơn nữa, bổng lộc của quan lục phẩm cũng rất thấp, mà đoàn người lại đông, thời gi­an lưu lại lại lâu, ông muốn chi trả thì có lẽ cả năm tới chắc phải nhịn đói cả nhà mất. Ngô Chi Châu cũng là người thấu tình đạt lý, mặt khác ông lại thấy tập ngân phiếu trong tay Đỗ Văn Hạo có lẽ cũng lên đến mấy trăm lượng, nên biết hắn là người có tiền, không cần ông phải lo liệu, nên cũng đành cười gượng, gật đầu đồng ý.

Nhà nghỉ này thực ra cũng không tồi cho lắm, phòng ốc cũng khá sạch sẽ, và hướng của cửa sổ lại ngắm được cả núi Nga Mi Sơn nữa.

Việc sắp xếp dọn dẹp nơi ăn chốn ở đều do Bàng Vũ Cầm và Lý Phố đảm nhiệm, Đỗ Văn Hạo được xếp vào một căn phòng to nhất, và cũng là nơi để hắn chuyên dùng để tiếp khách, và người khách đầu tiên của hắn không phải ai khác chính là vị Ngô Chi Châu này, sau khi mọi người đều ngồi đông đủ, thì tiểu nhị liền bưng trà lên cho mọi người vừa uống trà, vừa bàn công chuyện.

Ngô Chi Châu lúc này liền giới thiệu sơ qua về phong tục tập quán, danh lam thắng cảnh, cùng với con người nơi đây cho Đỗ Văn Hạo và mọi người cùng nghe. Đỗ Văn Hạo có vẻ rất hào hứng với những nét đẹp ở nơi đây, thi thoảng lại lên tiếng hỏi này hỏi nọ, điều này làm cho mấy vị quan lại ngồi cùng hắn cảm thấy vui mừng vô cùng, mọi người đều thấy Đỗ Văn Hạo tuy quan cao hơn họ, nhưng lại không có chút kênh kiệu, mà ngược lại họ cảm thấy hắn bình dị, và dễ gần.

Đỗ Văn Hạo nói: “Lúc nãy ta cũng đã nói rồi, lần này đến đây là do bổn quan phụng chỉ tứ phương tầm y, mỗi lần đi qua một nơi nào đó, không những phải điều trị khám chữa bệnh, mà còn phải trao đổi học hỏi thêm những thủ thuật y học của các vị đại phu nơi đó. Đồng thời bổn quan còn phải hỗ trợ, đào tạo thêm Nữ Y và nhiều lĩnh vực khác cho những nơi đó. Hai việc này này thì phải nhờ đến sự giúp đỡ của Chi Châu lo liệu sắp xếp cho bổn quan, Chi Châu có nhiệm vụ triệu mời toàn bộ các đại phu trong địa hạt quản lý của mình, nếu như có thể bọn họ cũng nên đem theo những người bệnh mắc chứng nan y, khó chữa đến cho mọi người cùng đàm luận nên chữa trị ra sao, như vậy sẽ thông qua thực tiễn chữa trị mà trao đổi y thuật với nhau. Sự trao đổi y thuật này vốn không phải là việc thu phí, mà là miễn phí hoàn toàn, nhưng ngoài việc đó ra, thì các việc chẩn đoán và chữa trị đều phải thu phí, thu được phí nhiều hay ít, thì phải phụ thuộc vào bệnh tình khó dễ, tình trạng kinh tế ra sao mà định. Còn về việc đào nạo Nữ Y thì phải tổ chức thành lập càng nhanh càng tốt, việc này thì hoàn toàn miễn phí, tốt nhất là nên có thêm một người đỡ đẻ có kinh nghiệm truyền thụ ngay tại hiện trường!”

Đỗ Văn Hạo là một Ngự Y, là một đại phu thân cận bên cạnh Hoàng Thượng, theo lý thuyết thì hắn là đại phu tài giỏi nhất trên toàn quốc, được hắn trực tiếp truyền thụ y thuật là một cơ hội ngàn năm hiếm có, nhất là ở thời cổ đại thì y thuật thường là thầy chỉ truyền thụ cho học trò, không truyền cho người ngoài. Đặc biệt là mấy vị danh y có những phương thuốc bí truyền, hay những thủ thuật chữa bệnh bá đạo thì càng không bao giờ được phép truyền cho người ngoài. Vậy mà bây giờ hắn, Đỗ Văn Hạo một Ngự Y danh tiếng trong triều đình lại đi miễn phí truyền thụ y thuật cho người khác, chẳng khác nào một quả bom tấn trong nền truyền thụ, giáo dục y học thời bấy giờ cả.

Ngô Chi Châu nghe xong thì vô cùng cảm kích, vội vã đứng dậy cung kính cúi người thi lễ: “Đây đúng là hồng phúc của Gia Châu! Hạ quan thay mặt cho các vị đại phu, cùng với bệnh nhân nơi đây đa tạ tấm lòng vàng của Đỗ đại nhân! Hạ quan sẽ lập tức phái người thông báo, và dán cáo thị cho toàn bộ đại phu, cùng với bệnh nhân trong Gia Châu được biết!”

Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi vốn định ra ngoài đường đi dạo quanh đây, nhưng Đỗ Văn Hạo sau khi nói với hai người bọn họ rằng ngày mai tất cả sẽ phải tham gia vào lớp đào tập, tập huấn của Nữ Y thì cả hai đều từ bỏ ý định dạo chơi của mình, mà tập chung hết vào công việc tuyên truyền của lớp bồi dưỡng Nữ Y.

Lâm Thanh Đại, Liên Nhi và Kha Nghiêu thấy hai người kia không đi, thì ba người bọn họ cũng không đi nữa, cả ba đều xúm vào giúp Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi lên kế hoạch chuẩn bị cho lớp bồi dưỡng Nữ Y.

Đêm hôm đó, Ngô Chi Châu mở tiệc thiết đãi Đỗ Văn Hạo ở một tửu lầu sang trọng nhất cảu Gia Châu, Lý Phố cũng đi theo hắn dự bữa tiệc này. Các vị quan lại lớn bé trong Gia Châu đều đến tham dự, không những vậy bọn họ còn mời thêm cả những người có công danh, Hương Thân cùng với danh y đến dự. Những viên quan lại và Hương Thân đến đây vốn cũng chỉ là góp mặt đông đủ cho vui, chứ mấy vị danh y kia thì mới là những người mừng rỡ nhất, vì bọn họ biết rằng gặp được Ngự Y của Hoàng Thượng trao đổi y thuật chẳng khác nào một cơ hội trời cho. Cảm giác của bọn họ lúc này chẳng khác nào mình đi học võ được một vị đệ nhất cao thủ võ lâm trực tiếp truyền thụ, sau này võ công chắc chắn sẽ thăng tiến không ngừng vậy.

Sau ba tuần rượu, thì cơm canh cũng đã hội đủ, Chi Châu cùng với các vị quan lại chúc rượu xong, là đến mấy người Hương Thân, danh y đứng lên chúc rượu. Trong đó có một vị lão y mái tóc bạc trắng tiến thẳng đến trước mặt của Đỗ Văn Hạo, hai tay run run cầm chén rượu lắp ba lắp bắp nói: “Đỗ…Đỗ…Đỗ Ngự…Y Lão phu nghe danh đại nhân như sét đánh bên tai! Ngưỡng mộ đã lâu! Lão phu cũng nghe danh đại nhân tinh thông tuyệt kỹ của Hoa Đà, có thể mổ bụng liệu thương cho Thập Tứ Hoàng Tử, tinh thông quảng đại, trên đời ít người sánh kịp! Vậy mà…Vậy mà không ngờ đại nhân lại có mặt…có mặt ở cái nơi xa xôi hẻo lánh tại vùng biên cương này, thật là vinh hạnh cho nơi đây quá! Lão phu cũng nghe Chi Châu đại nhân nói rằng đại nhân còn muốn truyền thụ y thuật cho các vị đại phu nơi đây nữa! Lão phu cảm động không biết nói thế nào để thể hiện niềm vinh dự này của mình nữa! Lão phu…Lão phu kính chúc đại nhân một chén để tỏ rõ lòng thành của lão phu!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn đáp lại vài câu khiêm tốn, rồi cũng đưa chén lên uống một hơi cạn sạch, hắm thầm nghĩ không ngờ danh tiếng của mình lại còn vang đến tận nơi đây, điều này có lẽ là do việc thành công phẫu thuật cho Thập Tứ Hoàng Tử nên mới được được như vậy, thủ thuật phẫu thuật này ở đời nhà Tống bấy giờ thì chẳng khác nào một thần kỹ cả, chả trách mà mọi người ai cũng biết đến danh tiếng cua hắn.

Vị y giả cao tuổi đó lại rót thêm một chén, rồi cung kính nói: “Đỗ đại nhân! Thần kỹ mổ bụng trị thương của đại nhân lão phu cũng chỉ được nghe nói, mà vẫn chưa được có duyên chứng kiến, không biết đại nhân có thể cho lão phu được mở rộng tầm mắt của mình được không? Lão phu xin kính đại nhân chén rượu này, mong đại nhân cho lão phu cơ hội được trông thấy thần kỹ đó!”

Vị y giả đó nói xong bèn nâng chén rượu lên, hai mắt hiện rõ lên một sự chờ đợi vô cùng bức thiết, giống như muốn hắn ngay lập tức triển khai thần thông của mình ra mà chỉ dạy cho ông ấy vậy.

Đỗ Văn Hạo cũng nâng chén rượu của mình lên cười đáp: “Mổ bụng trị thương không phải là chuyện đơn giản như mãi võ ngoài đường! Chỉ cần cầm dao lên khua khua vài đường mà biết được!”

Vị y giả cao tuổi nghe vậy thì sắc mặt ửng đỏ, vội vã chắp tay nói: “Lão phu quả thật lỗ mãng, đường đột quá! Nhưng, lão phu không có ý khinh mạn đại nhân như vậy, trong y quản của lão phu lúc trước có một bệnh nhân đau bụng được mấy ngày nay rồi! Lão phu đã cho uống rất nhiều loại thuốc, nhưng đều không có công hiệu gì cả! Chính vì thế nên lão phu mới…”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn lên tiếng hỏi: “Bệnh gì vậy?”

Vị y giả cao tuổi đó đáp: “Là do đau bụng, đã đau ba ngày nay rồi, bệnh nhân kêu bụng đau dữ dội, như chết đi sống lại vậy!”

Đau bụng dữ dội, thì cũng có nguyên nhân là do bị nghiễm trùng ổ bụng mà ra, Đỗ Văn Hạo nghe vậy bèn hỏi: “Bệnh nhân đâu? Y quản của lão ở đâu vậy?”

“Dạ! Bẩm đại nhân! Lão phu sau khi không thể chữa trị cho được cho người đó, nghĩ rằng là bệnh nan y, không thể chữa khỏi nên đã cho người nhà đến đón về nhà, lo chuyện hậu sự rồi!” Lão y giả đáp.

“Nhà của bệnh nhân ở đâu? Có phải ở trong thành không?” Đỗ Văn Hạo hỏi.

“Dạ! Ở phía nam của thành!” Lão y giả đáp.

“Vậy mau mau đưa ta đi xem sao!” Đỗ Văn Hạo vội nói.

Ngô Chi Châu thấy vậy bèn vội vã đứng dậy chắp tay nói: “Đỗ đại nhân! Bệnh nhân cũng đã bị bệnh bao nhiêu ngày nay rồi, cũng không cần phải gấp trong lúc này, ngày mai hạ quan sẽ phái người đưa người bệnh đến cho đại nhân khám chữa!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy thì thản nhiên nói: “Bệnh không đợi người đâu! Có khi đêm nay bệnh nhân qua đời thì làm sao! Bệnh đau bụng cấp tính này không thể nào chần chừ được, tiệc rượu thì lúc nào uống mà chả được, nếu như chỉ vì ngồi đây ăn tiệc uống rượu mà để lỡ thời cơ chữa bệnh, để cho bệnh nhân bị chết, thì lương tâm của người làm nghề y vứt đi đâu bây giờ!”

Ngô Chi Châu nghe vậy thì toát mồ hôi trán sợ hãi, vội vã chắp tay nói: “Vâng! Vâng! Đỗ đại nhân trách tội hạ quan đúng lắm! Hạ quan biết tội rồi, Tạ đại phu còn không mau mau đưa Đỗ đại nhân đến chỗ ở của bệnh nhân để khám bệnh đi hả? Hạ quan cũng sẽ đi cùng với đại nhân đến đó xem sao!”

Đỗ Văn Hạo nghe vậy cũng không nói thêm lời nào nữa, chỉ chắp tay lên cáo từ, rồi đem theo Lý Phố đi xuống bên dưới lầu, sau khi xuống lầu hắn liền gọi người đi chuẩn bị kiệu để đi.

Những người Hương Thân, quan lại ở trên lầu thấy Đỗ Văn Hạo đi xuống cũng không tiện ở lại, nên liền lục đục kéo xuống, còn những vị danh y khác thì càng nhanh chân hơn, bởi vì đây là cơ hội ngàn năm để cho bọn họ được chiêm ngưỡng thần tượng của mình trổ tài.

Một lúc sau, kiệu đã được khiêng đến, Đỗ Văn Hạo liền bảo mọi người mau mau lên kiệu, rồi mình và Lý Phố dưới sự chỉ đường của Tạ đại phu (vị y giả cao tuổi) nhanh chóng đi phía nam của thành Gia Châu.

Khi đi đến phía nam của thành Gia Châu, thì mọi người rẽ vào một con ngõ nhỏ dẫn đến một trạch viện, cái trạch viện này so với tình hình kinh tế của Gia Châu, thì cũng được coi là một nơi khá sang trọng, và tử tế, xem ra đây là nơi ở của một người có tiền trong thành. Đỗ Văn Hạo đứng bên ngoài cũng nghe được có tiếng khóc lóc vang vọng từ bên trong viện vọng ra, Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên cảm thấy lòng mình nặng chĩu, lẽ nào là mình đến muội, bệnh nhân đã qua đời rồi sao? Nhưng mà đã đến đây rồi thì cũng nên vào trong một chuyến xem sao.

Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy bèn đưa chân bước tới, ngay lúc này thì một viên quan lại đã nhân chân bước lên phía trước hô lên: “Đỗ Ngự Y và Chi Châu đại nhân đên! Mọi người mau mau tránh đường! Chủ nhà đâu, mau ra nghênh tiếp nhanh lên!”

Tiếng khóc trong phòng lúc này bỗng nhiên câm hẳn, Đỗ Văn Hạo bước vào đến sân của trạch viện, thì thấy nơi đây đã treo đèn, giăng dây màu trắng, và cách đó không xa có một người phụ nữ mặc áo tang đang ngồi lau nước mắt, ngước lên nhìn đoàn người đang tiến vào bên trong.

Trong nhà lúc này có mấy người già cả, và trai tráng đều đã đứng dạt sang một bên cúi người cung kính.

Tạ đại phu vội vã chạy lên trước nói: “Bệnh nhân đã đi rồi hay sao?”

Trong số người nhà của bệnh nhân, có một người nhận ra Tạ đại phu, bèn thở dài, lắc đầu nói: “Đúng vậy! Vừa mới trút hơi thở cuối cùng rồi!”

Tạ đại phu nghe vậy thì dậm chân nói: “Trời ơi! Chúng ta đến muộn mất rồi!”

Tất cả mọi người trong nhà của bệnh nhân, đều hướng mắt lên nhìn Tạ đại phu, không hiểu ông ta rốt cuộc là có ý gì nữa.

Tạ đại phu đấm tay vào nhau thở dài nói: “Đỗ Ngự Y ở kinh thành vừa mới đến đây! Đây chính là vị thần y mà ta đã nói cho mấy người biết rồi đấy! Đỗ đại nhân tinh thông mổ bụng trị thương, chỉ có Đỗ đại nhân may ra mới trị được căn bệnh này mà thôi!”

Hả? Tất cả mọi người trong nhà bệnh nhân từ bé đến lớn nghe xong đều kêu lên thất thanh, rồi gào khóc thảm thiết: “Ông trờ ơi! Sao ông lại nỡ lòng nào không mở mắt như vậy chứ!”

Đỗ Văn Hạo lúc này không hề để ý đến mọi người, trong đầu hắn lúc này đang cố gắng suy ngẫm về tình hình của bệnh nhân, hắn biết nhiều người đau quá mà rơi vào tình trạn bị sock, sau đó thì ngất đi, hoặc là chết giả, hắn không biết bệnh nhân có phải là đang trong tình trạng này hay không, nên hắn vẫn quyết định tiến hành chẩn đoán, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo liền tiến tới nói: “Bệnh nhân đang ở đâu? Có thể đưa ta đến xem được không?”

Người già cả ban nãy nghe vậy bèn lên tiếng nói: “Đã tắt thở cả rồi! Cho dù có là thần tiên cũng không thể nào cứu chữa được nữa rồi!”

Ngô Chi Châu nghe vậy liền nói: “Thần tiên không cứu được, thì không có nghĩa là Đỗ đại nhân không cứu được! Thôi đừng nhiều chuyện, lắm lời nữa, người bệnh đã nhập liệm, đóng quan tài chưa vậy? Nếu vẫn chưa nhập liệm thì mau đưa Đỗ đại nhân đi xem xem nào!”

Người già cả ban nãy nghe vậy liền vội vã chắp tay đáp: “Dạ vẫn chưa làm gì hết cả! Phải đợi đến tối mới bắt đầu nhập liệm, đóng quan tài. Mời Đỗ đại nhân đi cùng lão phu vào trong kia xem tình hình, tất cả mọi người tránh ra hết đi! Còn quỳ ở đây làm cái gì nữa, nhanh lên!”

Người già cả này nói vậy thì có lẽ là chủ của gia đình, nên sau khi ông ta vừa dứt lời xong thì những người lớn nhỏ trong nhà đang quỳ khóc đều lục đục ngồi dậy, cúi người tránh sang một bên nhường đường cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo, Ngô Chi Châu và còn Tạ đại phu cùng với mấy vị y giả khác đều nối đuôi nhau đi vào bên trong, khi vừa mới vào đến nơi, thì tất cả mọi người đều trông thấy trong này có đặt một tấm phản, trên đó có một xác người nằm đấy.

Dưới chân của thi thể lúc này có đặt một ngọn đèn Trường Minh Đăng, ngọn lửa trong chiếc đèn leo lét theo gió, hiu hắt trông vô cùng rùng rợn, cả căn phòng lúc này vô cùng lãnh lẽo âm u, người chết và ánh đèn tạo nên một không khí như trong một địa ngục vậy.

Đỗ Văn Hạo lúc này tiến đến bên thi thể, rồi đưa tay gỡ tấm vải trắng che mặt của xác chết lên, gương mặt của thi thể trắng bệch, hai mắt hờ khép, đờ đẫn hướng về một nơi xa xăm, dường như vẫn còn rất lưu luyế với cõi trần tục này.

Đỗ Văn Hạo đưa tay lên nắm lấy cánh tay của thi thể vận động vài cái, thì thấy thi thể không hề có dấu hiệu cương cứng, rất tự nhiêu, hắn lại đưa tay lên sờ mũi người chết, nhưng hắn không thấy có cảm giác gì, hắn lại vạch mắt thi thể lên để xem đồng tử, nhưng do ánh đèn quá tối, hắn không thể nào nhìn rõ được, hắn liền đưa ngón tay mình lên xoa xoa để xem rõ hơn sự thay đổi của đồng từ, nhưng vẫn không thể nào xem rõ được. Đỗ Văn Hạo tức mình liền cầm luôn ngọn đèn Trường Minh Đăng lên.

Người già cả thấy vậy cả kinh thét lên: “Không được làm như vậy!”

Ngô Chi Châu thấy vậy liền quay lại trợn mắt lên nhìn vào ông lão, rồi gằn giọng nói: “Câm miệng! Ngươi không được phép làm phiền Đỗ đại nhân!”

“Vâng! Vâng!” Người già cả cũng cảm thấy mình đã thất lễ nên lên tiếng xin lỗi, vì nói cho cùng người ta cũng là quan, hơn nữa lại là quan to làm Ngự Y ở kinh thành đến, là người hầu hạ bên mình Hoàng Thượng, đừng nói là cái ngọn đèn Trường Minh Đăng bé nhỏ kia, cho dù hắn có cầm cả trăm cái đuốc đến đây để thắp sáng, thì mình cũng chỉ biết gật đầu vâng lời mà thôi.

Bởi người già cả kia biết ông có phản đối cũng chẳng có nghĩa lý gì.

Đỗ Văn Hạo tay cầm chiếc đèn đưa đến gần sát vào mặt của thi thể, sau đó hắn lại đưa tay lên mở mắt của xác chết ra nhìn đồng tử, tay của hắn day day vào mắt của thi thể, sau đó buông ra, chỉ thấy đồng tử dãn ra một cái rồi rất nhanh hồi lại như cũ.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy thì cả mừng, hắn lại lấy tay xoa xoa vào động mạch, nhưng lại không thấy cảm giác gì cả.

Lẽ nào bệnh nhân không phải là đang ở trong trạng thái chết giả hay sao?

Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói: “Đưa cho ta con dao đến đây nhanh lên!”

“Dao?” Tất cả mọi người đều ngơ ngác không hiểu hắn đang muốn làm việc gì nữa.

“Đúng! Dao, nhanh lên!” Đỗ Văn Hạo nhanh miệng nói.

Người già cả kia nghe xong, liền vội vã chạy ra bên ngoài gọi mấy người phụ nữ trong nhà lại nói: “Nhanh! Mau đi tìm dao cho Đỗ đại lão gia nhanh lên!”

Một thiếu nữ trẻ tuổi lúc này lau sạch nước mắt trên mặt, vội vã vâng lời, sau đó vén chiếc áo tang trắng mặc trên người của mình lên, chạy vội ra hậu đường, không lâu sau trong tay đã cầm đến mộ con dao đưa cho người già cả kia.

Người già cả kia tiếp lấy rồi chạy luôn vào bên trong đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy con dao, dọc ngang vài đường, người thiếu nữ kia lúc này cũng đứng ở bên ngoài trông vào trong này, thấy Đỗ Văn Hạo đang cầm dao lên chặt đứt cánh tay của thi thể, thì sợ đến độ thét lên thất thanh, tay ôm lấy mặt, trợn mắt lên nhìn Đỗ Văn Hạo.

Tiếng kêu của nàng ta làm cho Đỗ Văn Hạo giật mình cái thót, hắn quay đầu lại nhìn thì chỉ thấy gương mặt xinh đẹp của thiếu phụ trắng bệch run lên sợ hãi, hai bàn tay ngọc đang ôm lấy miệng, đôi mắt phượng đang trợn to hết cỡ nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền mỉm cười một cái, rồi lại quay lại cầm dao cắt một nhát lên ngón tay của thi thể, máu tươi tiếp sau đó liền bắn phun ra ngoài.

“Máu vẫn còn lưu động, vẫn còn chảy, điều này chững tỏ là người vẫn còn sống!” Đỗ Văn Hạo nói xong liền vứt luôn con dao trong tay mình xuống: “Vợ của người chết ở đâu vậy?”

Tất cả mọi người trong nhà người chết nghe thấy Đỗ Văn Hạo nói người nhà mình vẫn chưa chết, thì vô cùng kinh ngạc, lại nghe hắn hỏi vợ của người chết ở đâu, ai nấy cũng đều ngơ ngác chẳng hiểu gì cả.

“Nhanh lên! Nếu không nhanh thì người này sẽ chết thật sự đấy! Vợ của người chết ở đâu rồi?”

Người già cả lúc này mới kịp hoàn hồn lại, quay sang thiếu nữ đang hoảng sợ ôm mặt đứng ở ngoài thét lên: “Tiểu Ni! Vẫn còn đứng đó làm gì hả, mau đi gọi mẹ mày vào đây nhanh lên!”

Tiểu Ni bị câu nói và hành động của Đỗ Văn Hạo làm cho sững người, chết lặng, nhưng khi nghe người già cả kia lên tiếng, thì mới hoàn hồn trở lại, chạy ra bên ngoài gào lên: “Mẹ! Mẹ ơi! Đỗ Ngự Y ở kinh thành nói cha vẫn chưa chết! Ông ấy gọi mẹ vào trong có việc!”

Một lão phụ lúc này đang quỳ trước linh đường gào khóc thảm thiết, nghe con gái mình vừa chạy vừa gọi mình thì liền lồm cồm mò dậy: “Hả? Mẹ ở đây! Mẹ ở đây!”

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng đã tháo khuy áo cài cổ của thi thể, rồi hắn ra tay ấn mạnh vào ngực nạn nhân, sau đó lại xoa bóp liên tục, khi thấy lão phụ kia tiến tới liền lên tiếng nói: “Mau mau bóp lấy mũi của chồng ngươi, rồi thổi khí qua vòm miệng! Nghe lệnh của ta, nhanh lên!”

Người phụ nữ kia tay chân luống cuống không biết Đỗ Văn Hạo cóý gì, chỉ bóp chặt lấy mũi của chồng mình, nhưng không biết hà hơi thổi vào trong miệng. Đỗ Văn Hạo thấy vậy liền làm mẫu động tác cho bà ta kia xem, nhưng người phụ nữ vẫn không hiểu, thực ra bà không phải là không hiểu làm thế nào, mà là không biết là làm như vậy có tác dụng gì, chỉ biết ngơ ngác nhìn hắn.

Người già cả kia nghe nói con trai mình chưa chết, dĩ cũng không tin, nên ông ta liền tiến tới bắt mạch con trai mình, nhưng ông vẫn cảm thấy mạch không đập, không có hơi thể, vậy nhưng trông dáng điệu của Đỗ Văn Hạo, thì ông biết là hắn không hề đùa cợt mọi người, liền đưa chân lên đá vào người con dâu đang ngơ ngác không hiểu gì kia của mình một cái quát lên: “Mày còn đứng đực ở đấy làm gì hả? Còn không làm theo lời của Đỗ đại nhân đi!”

Người phụ nữ kia nghe vậy liền nghe theo, ru rẩy tiến tới làm theo đúng như những gì Đỗ Văn Hạo đã dạy, một tay bóp lấy mũi của xác chêt, còn miệng thì hà hơi thổi vào trong miệng của xác chết.

Đỗ Văn Hạo đứng cạnh cũng khen ngợi bà ta làm rất tốt, đồng thời hắn còn bảo mọi người dỡ hết các tấm rèm che trong phòng ra, sau đó bắt mọi người đi hết ra ngoài cho không khí được lưu thông hơn.

Ngô Chi Châu và những người khác dĩ nhiên chưa được chiêm ngưỡng tuyệt kỹ xoa bóp, phục hồi tim mạch (thực ra đây là kiểu hô hấp nhân tạo của thời hiện đại), nên cũng không hiểu vì sao mà Đỗ Văn Hạo cứ bắt người phụ nữ kia thổi hơi vào miệng người chết, còn hắn cứ ra sức ấn vào ngực thi thể để làm gì, nhưng ai trong lòng cũng nghĩ hắn đến cả mổ bụng chữa bệnh còn biết nữa, thì những trò lạ mắt này có là gì lạ lẫm với hắn đâu.

Đỗ Văn Hạo để cho Tạ đại phu đứng lại quan sát mạch đập của thi thể, còn mình thì vẫn cứ chăm chỉ không ngừng ra sức ấn ngực cho xác chết.

Tất cả mọi người đứng ở ngoài sân lúc này đề thin thít chờ đợi, bầu không khí bỗng chốc trở nên im phăng phắc, sau khi tấm rèm tang được gỡ xuống, thì tất cả mọi người đều có thể chiêm ngưỡng vị Ngự Y đến từ kinh thành đang hì hục ấn vào ngực nạn nhân, cạnh đó là một người phụ nữ cũng chăm chỉ hà hơi thổi ngạt theo sự chỉ đạo của Đỗ Văn Hạo, mọi việc diễn ra vô cùng nhịp nhàng. Tất cả mọi người đều cảm thấy kinh dị, nhưng không ai dám lên tiếng, chỉ sợ làm ảnh hưởng đến tiến độ cứu người của Đỗ Văn Hạo.

Cuối cùng, sau một tuần hương thì Tạ đại phu đột nhiên gào lên sung sướng: “Trời ơi! Mạch đập trở lại rồi! Đúng là đã đập trở lại rồi, thần kỳ quá! Đúng là quá thần kỳ!”

Chương 327: Truyền máu.

Trong tiếng hô lên kinh hãi tất cả mọi người đều xúm lại xem nhưng bị Lý Phổ và hộ vệ cùng sai dịch nha môn cản lại.

Đỗ Văn Hạo cầm tay thử xem mạch, quả nhiên mơ hồ có nhịp đập của mạch khẽ động. Hắn lại cúi xuống nghe hơi thở, hắn cũng cảm nhận được hơi thở hết sức mong manh làm hắn vô cùng mừng rỡ.

Lão giả nọ cũng vội vàng tiến lên đưa tay sờ mạch, lập tức cũng kêu lên vẻ vừa mừng vừa sợ.

Mọi người cao hứng nhưng Đỗ Văn Hạo lại không dám cao hứng. Bản thân khôi phục hô hấp mới chỉ là bước đầu tiên của cuộc trường chinh vạn dặm, không giải quyết vấn đề đau bụng cấp tính, sự nguy hiểm đến tính mạng vẫn còn, bất kỳ giây phút nào cũng có thể mất mạng.

Hắn lập tức quay người phân công Lý Phổ: “Ngươi hãy lập tức quay về khách sạn, bảo mấy phu nhân của ta chuẩn bị giải phẫu. Mau đi”.

Lý Phổ không biết giải phẫu là cái gì. Hắn thực sự không hiểu từ đó là gì nên kinh hãi hỏi: “Giải phẫu ư?”

“Chính là phẫu thuật chữa thương. Mau đi. Hãy nói bệnh nặng nguy cấp”.

“Dạ” Lý Phổ cũng rất tò mò về truyền thuyết của thần kỹ này. Hắn lập tức quay người chạy ra ngoài. Lão giả vội vàng sai người dắt ngựa tới. Lý Phổ vội vàng nhảy lên ngựa phóng đi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Hãy nhanh chóng chuẩn bị nhân sâm thang cứu nghịch*. Mau”.

Tạ đại phu cũng biết Nhân sâm thang cứu nghịch nên vội vàng thúc giục: “Tô chưởng quỹ, hãy mau đi làm theo lời Ngự y đại nhân nói”.

Chưởng quỹ họ Tô này có mấy cửa hiệu buôn ở trong thành, cũng được coi là một nhà giàu có nên đương nhiên trong nhà không thiếu nhân sâm. Tô chưởng quỹ vội vàng trả lời rồi sai đầy tớ đi chuẩn bị.

Người nhà của Tô chưởng quỹ quả thật không dám tin vào tai và mắt mình. Tất cả đều kích động đến mức toàn thân run rẩy, vừa khóc vừa cười khi chứng kiến người thân của mình đã tắt hơi lại có thể khôi phục lại hơi thở cùng mạch đập, tất cả đều xum lại nhìn. Thiếu nữ lúc trước lại thừa dịp hỗn loạn xấn tới hỏi Đỗ Văn Hạo: “Ngự y đại nhân, phu thân tiểu nữ có thể cứu được không?”

“Ừ. Nhưng bây giờ bệnh tình vẫn còn rất nguy hiểm, bất kỳ lúc nào cũng có thể mất mạng” Đỗ Văn Hạo quay đầu nói với Tô chưởng quỹ: “Lão nhân gia, ta có thể phẫu thuật chữa thương cho con của ông. Ta đã từng chữa khỏi bệnh như bệnh của con ông nhưng bệnh của con ông rất nặng. Ta không dám đảm bảo có thể chữa khỏi. Nếu như ông đồng ý để cho ta phẫu thuật chữa thương cho con mình thì lát nữa xin mời ông hãy ký tên vào vào thư đồng ý để phẫu thuật chữa thương cho con mình, hứa là nếu vạn nhất xảy ra chuyện gì cũng không được trách tội ta, được không?”

Nhất thời Tô chưởng quỹ không biết trả lời thế nào, ông ta quay đầu nhìn con dâu của mình.

Phụ nhân đó vẫn đứng đờ đẫn ở đó bởi vì nàng nhận ra việc mình thổi hơi lại có thể làm cho trượng phu của mình thở lại. Nàng không biết đó là phương pháp gì nên kích động không biết nói thế nào cho phải thế nhưng nhìn dáng vẻ trượng phu của mình không khác gì một người chết, hy vọng lại đến, nàng lắp bắp nói với Đỗ Văn Hạo: “Ngự y, Ngựu y đại nhân, cầu xin ngài cứu phu quân của tiện thiếp, Cầu xin người”.

Tô chưởng quỹ đá cho nàng một cước nói: “Đứng sang bên! Không nghe Ngự y đại nhân nói là sẽ phẫu thuật chữa thương để chữa bệnh cho trượng phu của ngươi à. Người còn đứng đó ồn ào cái gì vậy?”

Phụ nhân nọ vội vàng thối lui sang bên.

Đỗ Văn Hạo nói: “Tô chưởng quỹ, ông có nguỵên ý ký vào thư đồng ý phẫu thuật chữa thương để đồng ý cho ta giải phẫu chữa bệnh cho con của ông không? Nếu ông đồng ý ta sẽ lập tức cho mang con ngươi tới khách sạn của ta, ở đó ta có người hỗ trợ, có dụng cụ chuyên môn cùng với dược phẩm. Ta nhất định sẽ tận lực giải phẫu chữa thương để cứu tính mạng con của ông”.

Tô chưởng quỹ đương nhiên không biết thư đồng ý là cái gì thế những đã có hy vọng, chung quy còn tốt hơn so với việc đi lo hậu sự cho con mình, đừng nói tới việc không biết nội dung thư đồng ý giải phẫu là gì, cho dù có biết ông ta cũng không phân vân, ông ta liền vội vàng gật đầu giống như một con gà mổ thóc: “Được, được! Ngự y đại nhân, hết thảy làm phiền ngài hãy cứu con của ta. Cho dù ta phải táng gia bại sản cũng sẽ báo đáp đại ân của ngài”.

Đỗ Văn Hạo không nói câu nào nữa, hắn lập tức sai người đưa người bệnh lên xe ngựa chở tới khách sạn Nga Mi nơi hắn đang ở.

Hàng xóm xung quanh náo động. Dĩ nhiên tất cả mọi người vừa mừng, vừa sợ, xen lẫn sự tò mò khi thấy một người đã chết lại được cứu sống, mọi người đổ xô tới trước sân Tô gia nhìn xem, cũng may đã có các sai dịch nha môn duy trì trật tự nên xe ngựa mới có thể rời Tô gia thuận lợi.

Những người hàng xóm hiếu kỳ này vẫn không tự động giải tán. Vào thời cổ đại dù không có các phương tiện truyền thông nhưng tốc độ truyền khẩu cũng tương đối nhanh dù không thể nhanh bằng so với xã hội hiện đại nhưng không ít người trong thành đã nhanh chóng biết tin Ngự y đến từ kinh thành là người đã cứu sống Tô Đại thiếu gia, lại còn muốn mổ bụng chữa bệnh cho hắn nữa, tất cả đều ồn ào, sôi động, xem ra còn náo nhiệt hơn cả hội chùa làng. Mọi người như ong đi theo sau xe ngựa tới bên ngoài khác điếm, kiễng chân nhìn quanh cảnh ồn ào. Nếu như không phải có bộ khoái nha môn châu phủ ngăn cản thì chỉ e bọn họ đã ùa cả vào trong nhìn xem.

Trong khách sạn, tâm trạng Đỗ Văn Hạo lại hết sức nặng nề. Những người bệnh nặng như vậy từ trước tới nay không phải hắn chưa từng gặp qua. Những người chết giả sau đó sống lại rồi tiến hành phẫu thuật chữa thương, hắn không thể biết được liệu có xuất hiện những ảnh hưởng tới chức năng của cơ quan trong cơ thể, rất có thể người bệnh sẽ chết ngay trên bàm mổ. Từ khi xuyên không gi­an tới đây, hắn đã tiến hành hơn mười ca phẫu thuật chữa bệnh, không có ca nào coi như thất bại, không có người bệnh nào tử vong. Đương nhiên hắn không hy vọng kỷ lục này bị phá vỡ.

Hắn thực sự muốn khiêu chiến với giới hạn năng lực của bản thân mình.

Trên đường đi tới khách sạn hắn liên tục hỏi thăm tình trạng của người bệnh trước và sau khi phát bệnh. Nên nhớ muốn giải phẫu thành công, phải phán đoán chuẩn xác nguyên nhân gì gây nên chứng bệnh nguy cấp. Đây là vấn đề mấu chốt. Tìm đúng nguyên nhân gây bệnh mới có thể áp dụng những biện pháp ứng phó tương đối được.

Thế nhưng Tô lão chưởng quỹ cùng mọi người trong Tô gia không rõ rốt cuộc là nguyên nhân gì gây bệnh. Bọn họ chỉ nói mấy hôm trước hắn ôm bụng về nhà, khi hắn về đến nhà trời sắp tối, hắn nói đau bụng, hỏi hắn đau bụng như nào hắn chỉ nói là không rõ. Khi tìm đại phu chữa bệnh cũng không khỏi, bệnh tình chuyển rất nhanh, hắn nhanh chóng bị hôn mê. Chỉ sau ba ngày đại phu đã tuyên bố hắn đã tắt thở, may mắn là đã gặp Đỗ Ngự y đến từ kinh thành.

Tình huống này càng làm tâm trạng của Đỗ Văn Hạo thêm nặng nề. Bây giờ hắn đã gặp phải một tình huống mà không có chút lạc quan nào. Nguyên nhân gây bệnh không rõ ràng, người bệnh trong tình trạng hôn mê sâu, không thể nào hỏi chẩn, lại thiếu các phương tiện khám chữa bệnh hiện đại, đặc biệt các phương tiện cấp cứu hiện đại, còn cả một sự thật nữa là không có đèn mổ.

Ki xuất phát ở kinh thành, Đỗ Văn Hạo không nghĩ tới tình huống phải giải phẫu chữa bệnh cho nên hắn không mang theo đèn chiếu sáng giải phẫu cùng với nguồn sáng do hắn chế tạo ra, mặc dù loại trang bị đèn chiếu giải phẫu này kém hơn nhiều so với đèn chiếu sáng giải phẫu hiện đại nhưng cũng hoàn toàn thoả mãn ánh sáng để giải phẫu.

Sau khi đưa người bệnh tới khác sạn Nga Mi, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đã chuẩn bị sẵn sàng phòng giải phẫu, kể cả thiết bị chiếu sáng phòng giải phẫu cũng đã bố trí xong, thì ra các dụng cụ giải phẫu này bọn họ cũng mang theo xe cùng vưới dược phẩm, hơn nữa mọi người cũng đã quen việc nên mọi việc xử lý cũng nhanh chóng. Ngay khi nghe Lý Phổ quay về báo các nàng chuẩn bị giải phẫu mọi người liền tiến hành chuẩn bị đâu ra đấy.

Ngay khi mấy người Đỗ Văn Hạo về tới nơi, các công việc chuẩn bị trước giải phẫu đã xong.

Không phải là Kha Nghiêu không muốn tới nhìn xem nhưng nàng bị Lâm Thanh Đại ngăn cản: “Phẫu thuật chữa thương không giống với việc cắt một cái mụn nhọt. Đây chính là chuyện mổ bụng người ta, muội không thể làm Hạo ca phân tâm vì vậy muội không được tới đó”.

Kha Nghiêu cũng hiểu được sự lợi hại trong đó dù trong lòng không muốn nhưng nàng vẫn cong môi đi tới chờ ở căn phòng bên cạnh.

Đỗ Văn Hạo bảo nhị nữ đưa người bệnh lên bàn giải phẫu, mau chóng dùng thuốc kháng khuẩn, chống viêm và nước muối, thuốc gây tê cùng với cạo lông ở chỗ giải phẫu và làm vệ sinh da.

Sau khi Đỗ Văn Hạo rửa tay, Bàng Vũ Cầm giúp hắn mặc quần áo kháng khuẩn. Thừa dịp khoảng thời gi­an rỗi này nàng khẽ hỏi Đỗ Văn Hạo: “Tướng công, người này mắc bệnh gì vậy?”

Đỗ Văn Hạo khẽ nói: “Tạm thời vẫn chưa biết rõ lắm, thế nhưng trước khi ta sử dung phương pháp làm trái tim người bệnh đập trở lại ta thấy thân nhiệt của người bệnh rất thấp, hôn mê sâu, đầu môi tím. Sau khi sống lại, mạch tế sổ, gần như không có. Hơn nữa sau khi hỏi thêm về triệu chứng bệnh có thể sơ bộ phán đoán người bệnh bị chứng viêm màng bụng cấp tính có mủ”.

Tuyết Phi Nhi lại gần nói: “Không phải như vậy. Trước kia chàng đã có nói cho bọn thiếp biết những chứng viêm, nhiễm thường gây sốt, hẳn phải tăng thân nhiệt nhưng chàng lại bảo thân nhiệt của người này rất thấp nhưng vậy chứng tỏ bệnh không phải là viêm, nhiễm, không phải là viêm màng bụng hoá mủ”.

Đỗ Văn Hạo vừa đi bao tay vừa nói: “Điều này không sai. Sốt do lây, nhiễm xuất hiện vào thời kỳ đầu cùng thoài kỳ giữa của bệnh, chính xác là luôn duy trì thân nhiêt ở nhiệt độ cao nhưng khi tới gi­ai đoạn cuối cùng thì thân nhiệt lại đột nhiên giảm xuống, thấp hơn cả thân nhiệt của một người bình thường. Khi chúng ta mới tiếp nhận, người bệnh đã ở tình trạng chết giả vì vậy không thể dùng trạng thái nhiệt độ cơ thể để phán đoán bệnh tình, phải kết hợp với bệnh sử. Trên đường tới đây ta đã hỏi được chi tiết phát bệnh ban đầu, người bệnh kêu là đau bụng, cơn đau bụng kéo dài liên tục, vị trí đau bụng cụ thể bọn họ lại không hỏi, hơn nữa hơi thở nặng nề cùng với ho khan sau đó nhanh chóng lan ra toàn bộ ổ bụng đều đau. Sau đó còn xuất hiện buồn nôn và nôn mửa. Tất cả những triệu chứng này đều là viêm màng bụng lâm sàng cấp tính. Thế nhưng có một điều là bọn họ không chú ý liệu người bệnh có xuất hiện thân nhiệt cao hay không”.

“Không thể nào như vậy, không phải là khi phát sốt rất dễ phát hiện ra sao?”

“Ừ, cũng có thể bọn họ không chú ý thế nhưng nhiệt độ cơ thể biến đổi không phải là căn cứ duy nhất để phán đoán’ Đỗ Văn Hạo đi tới trước bàn phẫu thuật, hắn ấn tay vào bụng người bệnh để kiểm tra: “Căn cứ vào bụng trướng rất rõ ràng, hơi thở bụng biến mất, điều này cũng góp phần đưa ra phán đoán là viêm màng bụng cấp tính có mủ, thế nhưng tất cả mới chỉ là nghi ngờ, vẫn chưa chẩn đoán chính xác bởi vì người bệnh hôn mê nên không thể hỏi bệnh”.

“Vậy bây giờ phải chuẩn bị thế nào?”

“Nguyên nhân gây bệnh không rõ mà thời gi­an gấp gáp, chỉ có thể mở bụng kiểm tra mà thôi rồi căn cứ vào tình huống mà quyết định bước giải phẫu tiếp theo. Phi Nhi, nàng phải luôn chú ý tới mạch đập cùng với sự biến đổi nhiệt độ cơ thể của người bệnh”.

“Dạ”.

Đỗ Văn Hạo cầm dao giải phẫu, hắn đang chuẩn bị mổ bụng dò xét thì đột nhiên hắn a lên một tiếng rồi hắn bỏ dao xuống, ấn tay lên bụng người bệnh, một vệt ngấn màu tím hiện lên ở chỗ ấn tay đó.

Lúc trước hắn kiểm tra qua quần áo, bây giờ đã cởi quần áo ra chuẩn bị giải phẫu mới phát hiện ra. Hắn vội vàng kéo cái khăn phủ trên người ra, để lộ ra nhiều chỗ phát ban.

Đó là những vết phát ban hình tròn dưới da, triệu chứng của xuất huyết, trong đó có mấy chỗ máu tụ rất rõ ràng.

Đỗ Văn Hạo đã tốt nghiệp pháp y chuyên nghiệp, chỉ cần nhìn thoáng qua hắn đã có thể kết luận đây là xuất huyết dưới da do ngoại thương làm tổn hại cơ quan cơ thể. Vị trí ngay ở gan!

Một suy nghĩ bất chợt xuất hiện trong đầu Đỗ Văn Hạo. Mọi chuyện cần phải suy nghĩ lại một cách cẩn thận, người bệnh không phải là mắc chứng viêm màng bụng cấp tính gây sốt mà là do một lượng máu tụ lại gây sốc. Điều này giải thích tại sao người nhà của bệnh nhân không chú ý thấy nhiệt độ tăng lên đặc biệt của khoang bụng. Nguyên nhân chính thức gây bệnh có thể là do bị ngoại thương đúng vào vị trí của gan, làm vỡ gan gây ra chảy máu trong.

Tính chất gan yếu khi gặp ngoại thương rất dễ dàng bị vỡ. Trong điều kiện thiếu các phương tiện giải phẫu ở cổ đại, nội tạng vỡ căn bản là một tuyệt chứng không thể chữa trị.



*Tứ nghịch thang

Cách dùng: Sắc nước uống.

Tác dụng: Hồi dương cứu nghịch.

Giải thích bài thuốc: Trong bài thuốc vị Thục phụ tử tính vị đại cay, đại nhiệt, ôn phát dương khí, khu tán hàn tà, là chủ dược, Can khương ôn trung tán hàn hợp với phụ tử gia tăng tác dụng hồi hương, Chích thảo ôn dưỡng dương khí làm giảm bớt tính cay nóng của khương phụ.

Ứng dụng lâm sàng: Bài thuốc dùng để trị các chứng thiếu âm dương khí suy kiệt, âm hàn nội thịnh sinh ra chân tay quyết lạnh, nằm co sợ lạnh, tinh thần mỏi mệt, thích nằm, hoặc đại tiẹn lỏng, trong, bụng đau lạnh, miệng nhạt không khát, lưỡi tái rêu trắng mạch trầm vi khó bắt hoặc do chứng dùng thuốc phát hãn quá mạnh gây nên chứng vong dương, bệnh tuỳ nặng nhẹ mà sử dụng bài thuốc gia giảm. Nếu chân tay quyết lạnh do chứng tiêu chẩy mất nước âm dịch suy vong, nên dùng bài thuốc gia Nhân sâm gọi là bài Nhân sâm tứ nghịch thang để hồi dương cứu âm. Nếu thiếu âm tả lỵ chân tay quyết lạnh, mạch vi khó bắt dùng bài tứ nghịch thang bội Can khương gọi là bài thông mạch tứ nghịch thang để ôn lý thông dương mạnh hơn. Trường hợp thiếu âm hạ lợi, chân tay quyết nghịch, mặt đỏ, mạch vi là chứng âm hàn thịnh ở dưới, bức hư dương xông lên có thể dùng tứ nghịch thang gia Thông bạch bỏ Cam thảo gọi là Bạch thông thang (thương hàn luận) để thông dương phục mạch. Hạ lợi không cầm, mặt đỏ nôn khan bứt rứt chân tay, quyết nghịch, mạch không bắt được dùng Bạch thông thang gia thêm nước tiểu người, nước mật lợn gọi là bài Bạch thông gia Chư đởm thang (Thương hàn luận).



Thế nhưng một khi đã xác định là gan vỡ thì Đỗ Văn Hạo cũng không xác định được là có chữa trị được hay không bởi vì hậu quả trực tiếp của gan vỡ chính là gây chảy máu trong cơ thể rất nhiều. Bởi vì sau khi gan bị tổn thương, lượng máu trong cơ thể giảm xuống. Muốn tiến hành giải phẫu này thì phải tiến hành truyền máu, đồng thời với việc chữ trị gan nhưng Đỗ Văn Hạo không có thiết bị truyền máu.

Hơn nữa bệnh của người bệnh đã phát mấy ngày rồi, đã bị sốc do lương máu xuống thấp. Rõ ràng lượng máu trong cơ thể người bệnh đã xuống rất thấp. Dưới tình huống này mà không truyền máu thì chỉ e bản thân hắn chưa tiến hành khâu ổ bụng lại thì người bệnh đã chết ngay trên bàn mổ vì nguyên nhân thiếu máu.

Những việc này chỉ là phán đoán sơ bộ nhưng thời gi­an để phán đoán không nhiều, hiển nhiên hắn chỉ có thể kiên trì đến cùng. Lập tức Đỗ Văn Hạo quyết định, hắn dùng dao mở ổ bụng ở ngay chỗ bị ngoại thương để xem có phải là gan vỡ hay không, còn về phần truyền máu chưa tới lúc vạn bất đắc dĩ hắn sẽ không truyền.

Đỗ Văn Hạo muốn lưu lại bằng chứng. Hắn lập tức gọi Bàng Vũ Cầm mang giấy Nhu mễ mỏng tới đặt lên trên các vết phát ban màu tím rồi vẽ hình các vết phát ban đó vào giấy, đặc biệt là mấy chỗ tím bầm do máu tụ nhiều.

Sau khi làm xong, Đỗ Văn Hạo một tay hắn cố định làn da, một tay hắn mở ổ bụng ở chỗ ngoại thương của người bệnh. Bàng Vũ Cầm ở bên dùng băng gạc hoặc kìm kẹp hỗ trợ cầm máu.

Khoang bụng vừa mở ra, một mùi tanh nồng nặc của máu tươi sộc lên mũi hắn. Tâm trạng Đỗ Văn Hạo vô cùng nặng nề: Chảy máu trong, tám chín mười là gan bị tổn thương.

Tổn thương gan thường kèm theo tổn thương các cơ quan khác trong cơ thể. Ngay trong điều kiện ngoại khoa hiện đại tỷ lệ tử vong cũng rất cao. Đỗ Văn Hạo cũng thật sự không biết bản thân hắn có vượt qua được cửa ải này không.

Đỗ Văn Hạo bảo Bàng Vũ Cầm dùng cái ông dẫn bằng xi - phông tự chế dùng để dẫn lưu máu tích tụ trong ổ bụng ra ngoài. Bản thân hắn thì trực tiếp cho tay vào trong ổ bụng, hắn thò ngón tay vào lỗ hỗng của phần mỡ chày (mỡ chày - lớp mỡ bao bọc đại tràng), xiết chặt dây chằng ruột đầu và gan. Hắn sử dụng biện pháp này để phòng ngừa việc xuất huyết, tránh cho tình trạng mất càng trở nên trầm trọng. Tay kia của hắn sơ bộ kiểm tra việc tổn thương của gan.

Sau khi sơ bộ kiểm tra, phát hiện mặt ngoài của gan có một vết nứt.

Đỗ Văn Hạo bảo Bàng Vũ Cầm dùng băng gạc đè lên vết thương để cầm máu. Sau đó hắn tiếp tục kiểm tra gan và các cơ quan khác xem có bị tổn thương hay không.

Kết quả kiểm tra làm hòn đá đang đè nặng trong tim Đỗ Văn Hạo đã được gỡ xuống. Ngoại trừ mặt ngoài của gan có một vết nứt nhỏ còn thì không xuất hiện tình trạng gan vỡ cùng tổn thương túi mật và tổn thương các cơ quan nội tang khác. Thực sự là trong cái rủi lại có cái may. Điều may mắn là chỉ có một vết nứt nho nhỏ mới khiến người bệnh có thể gắng gượng được trong mấy ngày xuất huyết trong liên tục.

Bởi vì đã xác định các cơ quan nội tạng khác trong khoang bụng không bị tổn thương. Máu tích tụ trong khoang bụng cũng sẽ không bị lây nhiễm, vốn có thể dùng máu chảy ra ổ bụng tiến hành truyền trở lại thân thể thế nhưng vấn đề đáng tiếc trước khi tiến hành truyền máu trở lại phải lọc máu, ly tâm sau đó mới có thể truyền lại vào thân thể người bệnh nhưng những loại thiết bị đó Đỗ Văn Hạo không thể chế tạo ra. Hắn chỉ có thể giương mắt nhìn hy vọng máu không chảy ra nữa.

Trong khi Đỗ Văn Hạo đang khâu vết thương ở gan lại thì Tuyết Phi Nhi phụ trách giám sát tình trạng sức khoẻ của người bệnh đột nhiên kêu lên: “Tướng công, không hay rồi. Không còn bắt được mạch nữa, lúc có lúc không. Hơi thở đứt đoạn”.

Tâm trạng Đỗ Văn Hạo chán nản. Máu chảy quá nhiều nên một lần nữa lại gây sốc. Nếu như lần này không truỳên máu bổ sung lượng máu cho người bệnh thì chắc chắn người bệnh sẽ chết.

Một chiêu cuối cùng là dùng máu của chính mình truyền cho người bệnh.

Nhó máu của Đỗ Văn Hạo là máu 0. Ngay từ lúc ban đầu lên kế hoạch tiến hành giải phẫu ổ bụng hắn đã nghĩ tới tình huống vạn bất đắc dĩ thì phải dùng máu của chính mình truyền cho người bệnh. Hắn đã rất nhiều lần suy nghĩ làm thế nào có thể tiến hành truyền máu dưới điều kiện của thời cổ đại không có ống cao su. Hắn cũng đã nghiên cứu dùng da động vật khâu lại, sau khi trừ độc dùng làm thiết bị truyền máu. Hắn còn đích thân làm ra một bộ thiết bị truyền máu do hắn thiết kế ra.

Đỗ Văn Hạo đã dùng thiết bị này thử nghệm truyền máu vào một con trâu nhỏ. Trước tiên hắn rút máu ra khỏi con trâu nhỏ sau đó hắn lại dùng thiết bị đơn sơ này truyền máu trở lại. Điều đáng mừng là con trâu nhỏ đó không chết, thậm chí không xuất hiện đọng máu cũng như nhiễm trùng máu. Có được điều này chính là nhờ hắn đã tiến hành trừ độc một cách kỹ lưỡng với thiết kỵ của mình.

Sau vài lần kiểm tra, Đỗ Văn Hạo hoàn toàn tin tưởng thiết bị truyền máu đó có thể vận hành được nhưng vấn đề là hắn không có thiết bị kiểm tra nhóm máu trước khi truyền máu.

Trước mắt hắn chỉ biết có mỗi nhóm máu của mình. Cho dù hắn có là một người truyền máu vạn năng nhưng thân thể của một người khoẻ mạnh thì mỗi lần truyền máu cũng không thể vượt quá bốn trăm mili nếu không sẽ có hại cho sức khoẻ của mình. Một khi đã lên tới tám trăm mili thì sẽ tổn hại nghiêm trọng tới sức khoẻ. Nếu vượt quá một ngàn hai trăm mili thì sẽ nguy hiểm tới tính mạng. Trong trường hợp bị mất quá nhiều máu thì phải truyền quá bốn trăm mili mới tạm ổn. Nếu làm thế thì chính là đổi sức khoẻ của mình lấy tính mạng của người khác.

Hơn nữa dù hắn đã thử nghiệm thiết bị truyền máu trên động vật nhưng hắn vẫn chưa từng tiến hành truyền máu trên cơ thể người. Hắn đương nhiên không biết có xảy ra hậu quả gì không bởi vì hắn không có kỹ thuật bảo quản máu được lấy ra ngoài cùng với tinh lọc máu bởi vậy hắn đành phải truyền toàn bộ máu được rút ra ngoài. Nhưng khi truyền toàn bộ máu lấy ra thì nguy hiểm hơn rất nhiều so với máu đã được lọc. Căn cứ vào những điều lo ngại trên nên trong quá trình chữa bệnh Đỗ Văn Hạo cố gắng không truyền máu nếu không cần thiết nhưng lúc này đây hắn không còn đường lui.

Hắn quyết định lập tức tiến hành truyền máu.

Vì để giảm bớt tối đa thời gi­an máu ở bên ngoài cơ thể, hắn quyết định dùng phương pháp truyền máu trực tiếp, dùng trọng lực tiến hành truyền máu, cũng may lúc này miệng vết thương ở gan đã được khâu lại, chỉ còn phải tẩy trùng khoang bụng mà tiến hành khâu ổ bụng lại mà thôi.

Đỗ Văn Hạo nói với Bàng Vũ Cầm: “Cầm nhi, nàng hãy tẩy trùng khoang bụng sau đó tiến hành khâu ổ bụng lại. Phi Nhi, nàng hãy giúp ta truyền máu”.

Khái niệm về máu, nhóm máu và truyền máu trước kia Đỗ Văn Hạo dạy qua cho nhị nữ, hắn cũng từng thí nghiệm truyền máu qua động vật cho nhị nữ xem. Hai nàng đương nhiên cũng biết phương pháp này thế nhưng Đỗ Văn Hạo cũng nói cho hai nàng biết sự nguy hiểm của phương pháp này nên ngay khi nghe Đỗ Văn Hạo nói muốn truyền máu cho người bệnh, hai nàng vô cùng kinh hãi.

Bàng Vũ Cầm lo lắng nói: “Tướng công, cái này không được. Từ trước tới nay thiếp chưa bao giờ khâu như vậy”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nàng hãy tin tưởng vào chính mình, nàng có thể làm được. Ta đã dạy cho nàng, nàng cũng đã luyện tập rất nhiều lần”.

“Thế nhưng đó là thực hành trên thịt lợn. Thiếp chưa bao giờ thử trên người”.

“Nàng cứ yên tâm, có ta đây. Ta sẽ ở bên cạnh giúp nàng. Nàng hãy làm mau đi, chậm trễ nữa là không kịp.

Phi Nhi, trước tiên nàng phải đổ cứu nghịch nhân sâm thang cho người bệnh sau đó nàng giúp ta truyền máu. Mau đi!”

Phi Nhi vội vàng la lên: “Tướng công, chàng muốn lấy máu của mình truyền cho hắn sao?”

“Đúng vậy, ta là người truyền máu vạn năng. Một lượng máu nhỏ thì không thành vấn đề”.

“Truyền máu của thiếp có được không?”

“Ta vẫn chưa kiểm tra nhóm máu của nàng. Nàng cũng biết hậu quả của việc truyền máu mà không biết rõ nhóm máu. Thôi đừng dài dòng nữa. Mau đi!”

Tuyết Phi Nhi dậm chân rồi nàng chạy đi bưng tới một bát thuốc cứu nghịch nhân sâm thang. Bàng Vũ Cầm run rẩy một mình tiến hành tẩy trùng ổ bụng. Đỗ Văn Hạo cẩn thận tiến hành tẩy trung thiết bị truyền máu. Đỗ Văn Hạo đẩy một cái bàn cao di động trong phòng tới bên cạnh bàn giải phẫu sau đó hắn trèo lên trên bàn nằm, cắm một đầu thiết bị truyền máu vào mạch máu của mình và cố định lại.

Lúc này Tuyết Phi Nhi đã mang cứu nghịch nhân sâm thang tới cho người bệnh rồi nàng cầm lấy đầu dây truyền máu kia, làm theo lệnh của Đỗ Văn Hạo, chờ tới khi máu chảy ra ngoài ống chích. Sau khi đẩy hết không hkí ra ngoài Tuyết Phi Nhi run run cắm đầu còn lại vào tĩnh mạch người bệnh. Từ trước tới nay nàng chưa từng châm như này, Đỗ Văn Hạo phải hướng dẫn mấy làn nàng mới châm đúng vào tĩnh mạch, cũng may người bệnh đã uống thuốc gây tê nên không có cảm giác đau.

Vì để khống chế tốc độ truyền máu, Đỗ Văn Hạo đã thiết kế ở chính giữa thiết bị truyền máu có gắn một cái ống làm bằng ngọc lưu ly tuy hơi mờ nhưng vẫn có thể thoáng nhìn thấy có máu chảy hay không cùng với tốc độ truyền máu.

Sau khi rót hết cứu nghịch nhân sâm thang cho bệnh nhân, máu trong người Đỗ Văn Hạo cuồn cuộn đưa vào trong mạch máu của Tô Đại thiếu gia. Cuối cùng Tuyết Phi Nhi kêu lên vẻ vui mừng xen lẫn sự kinh ngạc sau khi nàng kiểm tra lại mạch của người bệnh: “Tướng công, hình như mạch đập mạnh hơn so với lúc trước một ít, hơi thở cũng mạnh hơn một chút”.

Đỗ Văn Hạo cười vẻ yếu ớt. Lương máu hắn đưa vào trong cơ thể người bệnh nhất định đã vượt qua con số bốn trăm mili nhưng hắn vẫn không kêu ngừng truyền máu. Cứu người thì phải cứu tới cùng, tiễn Phật thì phải đưa tới Tây Thiên. Bản thân hắn hoàn toàn có thể tái tạo lại lượng máu đã mất, chỉ cần tăng cường bồi dưỡng là được vì vậy mãi tới khi hắn thấy trong người khó chịu, tim đập nhanh hơn, tay chân rét run, trước mắt tối sầm lại, mơ màng ngủ, đã xuất hiện triệu chứng sốc thì hắn mới bảo Tuyết Phi Nhi ngừng truyền máu.

Đỗ Văn Hạo không biết rằng hắn đã truyền gần tám trăm mili máu của mình cho người bệnh.

Lúc này Bàng Vũ Cầm dưới sự chỉ bảo của Đỗ Văn Hạo cũng đã hoàn thành việc tẩy trùng ổ bụng, đưa ống dẫn lưu vào rồi tiến hành khâu ổ bụng lại. Đây là lần đầu tiên nàng độc lập hoàn thành công việc giải phẫu dù chỉ là một sư trợ giúp nho nhỏ, hơn nữa vẫn có sự chỉ bảo cặn kẽ của Đỗ Văn Hạo nhưng chỉ điều này thôi cũng làm nàng hết sức vui mừng.

Bàng Vũ Cầm vui vẻ quay người nói với Đỗ Văn Hạo: “Tướng công, thiếp khâu không tệ lắm, phải không? Tướng công! Chàng làm sao vậy?”

Lúc này Bàng Vũ Cầm mới phát hiện sắc mặt Đỗ Văn Hạo tái nhợt, mồ hôi lạnh từ trán chảy dòng dòng xuống. Nàng luống cuống kêu lên: “Phi Nhi, tướng công làm sao vậy?”

Tuyết Phi Nhi cũng vội vàng đi tới, nàng cầm tay Đỗ Văn Hạo. Bàn tay hắn giá lạnh như một khối băng, hơn nữa còn run rẩy.

Đỗ Văn Hạo gượng cười nói: “Đừng, đừng lo lắng. Ta không việc gì đâu. Mau! Hãy lấy cho ta Tham Phụ Lý Trung thang. Mau!”

Tham Phụ Lý trung thang là một trong những thành quả của việc nghiên cứu Trung, tây y kết hợp của học iện Trung y của Đỗ Văn Hạo. Thang thuốc này có thể nhanh chóng khôi phục lượng máu thấp cùng chống sốc của người bệnh, ổn định việc lưu thông máu, tăng cường dưỡng khi cùng với huýêt áp, cải thiện khẳ năng tuần hoàn, đẩy mạnh hồi phục khi bị sốc.

Khi tiến hành làm thuốc cấp cứu, Đỗ Văn Hạo đã nói cho cả Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi về cách pha chế thang thuốc này cùng với những thang thuốc khác để hai người có thể biết cách dùng dược lúc khẩn cấp, tránh việc trở tay không kịp.

Tất cả những loại thuốc này đều đã được sắc chuẩn bị trước vì vậy Đỗ Văn Hạo vừa nói xong Bàng Vũ Cầm liền vội vàng chạy ra ngoài bưng một bát to vào trong. Tuyết Phi Nhi ôm Đỗ Văn Hạo ngồi tựa vào lòng mình, Bàng Vũ Cầm vừa chảy nước mắt vừa dùng cái thìa múc từng thìa cho hắn uống.

Đỗ Văn Hạo trừng mắt nhìn nói: “Đừng khóc. Ta rất khoẻ mà. Không có đại phu nào chữa bệnh cho người bệnh lại làm chết chính mình cả. Ha ha”.

Nước mắt Bàng Vũ Cầm lại càng tuôn rơi khi nàng nghe Đỗ Văn Hạo nói như vậy. Nàng vừa cho Đỗ Văn Hạo uống thuốc vừa nghẹn ngào nói: “Chàng còn nói nữa vì chữa bệnh mà suýt chút nữa mất mạng. Chàng hãy hứa sau này không được làm chuyện hồ đồ này nữa”.

Tuyết Phi Nhi ôm chặt Đỗ Văn Hạo vào lòng mình, dùng nhiệt độ cơ thể mình sưởi ấm cho hắn, nàng cũng khóc theo: “Đúng đó. Chàng không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho bọn thiếp chứ”.

Sau khi Đỗ Văn Hạo uống xong Tham Phụ Lý Trung thang hắn cảm thấy cơ thể mình dần ấm hơn, hai mắt có có thần hơn. Từ trong lòng Tuyết Phi Nhi hắn ngẩng đầu nói: “Được. Ta nghe các nàng sau này ta không khinh xuất nữa”.

“Ừ, dù chàng có muốn làm nữa bọn thiếp cũng không đồng ý” Hai nàng nặng nề nói. Bây giờ cả hai hết sức hối hận là đã không ngăn cản Đỗ Văn Hạo làm vậy vì bọn họ không biết hậu quả của việc mất máu quá nhiều, giờ đây phát hiện ra thì đã muộn. Cả hai chỉ thầm kinh hãi tự trách mình mà thôi.

tien hiep moi 2Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ