Đại Tranh Chi Thế full 4

619 0 0
                                    


Dù sao thì phía Tề Báo đông người hơn, có thể bổ sung lực lượng liên tục không ngừng, Chu Bát giết đến nỗi khắp người bê bết máu, nhìn thấy kẻ địch đông đúc, phe mình tổn thất nặng nề, người ngựa càng lúc càng ít đi, Chu Bát hét to:

- Đóng cửa, mau đóng cửa lại!

Cánh cửa này không phải là cửa thành, dù cho đóng lại thì chỉ cần đối phương dùng vật nặng tông cửa cũng chẳng cầm cự được bao lâu, hơn nữa tường ngăn cách tuy cao, cũng không phải không leo qua được, Chu Bát làm vậy chỉ muốn tranh thủ thêm ít thời gi­an cho chúa công trốn chạy mà thôi.

Phía sau có người nghe thấy mệnh lệnh, vội vàng đến đẩy cửa đóng lại, bậc thềm có rất nhiều xác chết, lúc này cũng không phân biệt của địch hay của ta nữa, cứ dùng chân đá qua một bên. Trường mâu của Chu Bát đã bị chém gãy, lúc này trên tay đang cầm hai thanh trường kiếm sứt mẻ, điên cuồng giữ lấy cánh cửa.

- Ây…

Chợt đùi bị trường mâu đâm xuyên, Chu Bát hét lên đau đớn, vung kiếm chém bay mất nửa cái đầu của tên cầm mâu đâm mình, múa kiếm loạng choạng lui lại vài bước, một cây trường mâu khác lại đâm vào dưới bụng hắn, người kia mừng rỡ, hai tay ra sức đâm mạnh, vừa định xoáy mâu đâm nát nội tạng của hắn, Chu Bát hét to giận dữ, thanh kiếm bên tay phải được phóng ra ngay giữa mặt tên lính, tên lính bị kiếm đâm xuyên mặt, tắt thở ngã về phía sau.

Chu Bát ha hả cười to ba tiếng, lảo đảo lui về sau hai bước, vấp vào một xác chết dưới chân, vội dùng kiếm chống đỡ quỳ xuống đất, hắn trừng trừng đôi mắt đỏ rực về phía quân địch trước mặt, khí thế đó làm mấy tên gia tướng của Tề Báo nhất thời không dám tiến gần lui lại vài bước, lộ vẻ sợ hãi.

Nửa cánh cửa đã được đóng lại, Khánh Kỵ chợt hiểu ý, to tiếng:

- Hắn đang kéo dài thời gi­an, Công Mạnh Trập chắc đang bỏ trốn.

Tề Báo nghe vậy vội ra lệnh:

- Mau giết vào trong đó, đừng để hắn đóng cửa lại!

Nhận được lệnh của chủ nhân, đám gia tướng của Tề Báo một lần nữa lại xông lên, bên cạnh Chu Bát còn sót lại không có bao nhiêu người nữa, chúng vừa đánh vừa lui, bị ép lui lại sau cửa. Chu Bát bị đâm trúng bụng, biết là chết chắc, các võ sĩ xung quanh la hét bảo rút lui nên hắn cũng không chịu lùi lại, một chân quỳ gối, một tay cầm kiếm chống đỡ, tay kia lượm lên cây trường mâu kẹp dưới nách tiếp tục chiến đấu, lại đâm chết thêm hai người nữa. Thấy Chu Bát dũng mãnh như thế, tuy là kẻ địch một mất một còn với nhau, Khánh Kỵ vẫn sinh lòng khâm phục. Gã nam nhi trung thành này, tiếc là hắn bảo vệ cho Công Mạnh Trập nham hiểm độc ác hơn cả bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, cảm thấy không đáng cho hắn, hay may cho Công Mạnh Trập có thuộc hạ trung thành thế này đây?

Chính khách dùng mưu mẹo mưu cầu phú quí, dũng sĩ dùng lòng can đảm và máu thịt mưu cầu phú quí, cách thức khác nhau, mục đích lại giống nhau, chỉ là ai nấy dựa vào khả năng của mình cuốn vào vòng xoáy danh lợi giết hoặc bị giết mà thôi, tại sao chính khách bị người khác khinh bỉ, dũng sĩ lại được người ta kính trọng? Chính là họ phải hy sinh tính mạng, vẻ hiên ngang đó tác động mạnh vào tâm lí người khác.

Tề Báo thấy thế lên cơn tức giận, giơ cây chùy lấm lem máu lên hét lớn:

- Một lũ vô dụng, lui hết ra cho ta, để lão phu giết tên điên cuồng này.

Bắc Cung Hỉ đưa tay ngăn lại, cười một cách lạnh lùng:

- Tề đại phu đâu cần thiết hạ mình như vậy chứ!

Nói xong giựt lấy cung tên trên tay thị vệ bên cạnh, giương cung lắp tên bắn về phía Chu Bát, Chu Bát hét to đau đớn, mắt phải đã bị trúng tên.

- Đóng cửa lại!

Chu Bát ngước mặt nhìn trời hét lên, nửa cánh cửa còn lại dưới sự liều mạng chống trả của hắn đã được đóng lại.

- Ha ha!

Chu Bát cười to, đưa tay cầm mũi tên nhổ mạnh, mũi tên dính con mắt hắn được rút ra, Chu Bát ném mũi tên sang một bên, khuôn mặt bê bết máu, giơ kiếm điên cuồng xông về phía đám người Tề Báo, máu tuôn đầy mặt khiến hắn không còn nhìn thấy gì, đám võ sĩ của Tề Báo cùng xông lên giơ kiếm chém xuống, giết chết Chu Bát.

Chiếc kiệu nhỏ lướt nhanh như gió trên con đường mòn nhỏ ven sông, theo sau là hơn trăm võ sĩ trung thành hộ tống, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu cắn răng hối thúc liên hồi:

- Nhanh lên, nhanh nữa lên, chỉ cần xông được ra ngoài, lão phu là đã thoát nạn, lúc đó lũ phản loạn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ tất cả đều bị xử tội chết, gia sản vợ con đều thưởng hết cho các ngươi hưởng dụng!

Công Mạnh Trập đang hứa hẹn ban thưởng, phía trước khu rừng chợt tiếng thét vang trời, vài chục người nhảy từ sau bóng cây ra chặn đường, đó đều là phục binh Khánh Kỵ mới vừa điều động trong khi tấn công phủ đệ của Công Mạnh Trập. Vì số lượng binh mã có hạn, lại chưa xác định được mức độ khó khăn khi tấn công vào phủ đệ Công Mạnh Trạch, Tề Báo không dám chia nhỏ lực lượng ra, làm suy yếu sức mạnh tấn công của mình, đội quân nhỏ này chỉ chuẩn bị dùng vào lúc ngăn cản kẻ địch, tuy nhiên tất cả họ đều là tử sĩ dưới trướng Tề Báo, quân số tuy ít nhưng không hề sợ sệt.

Lúc này đang lúc đúng chỗ hẹp nhất của con đường mòn, một bên là vực sâu, một bên là rừng rậm, ở giữa chỉ cần hai người đứng ngang nhau là chắn hết lối đi.

- Giết!

Ngao Thế Kỳ không chút do dự, cầm kiếm xông lên, thân pháp Ngao Thế Kỳ cực nhanh, nhưng mũi tên bắn từ sau lưng hắn còn nhanh hơn, hắn mới tiến được ba bước, một mũi tên đã xẹt qua vai từ sau lưng, cắm vào cổ họng một tên võ sĩ chặn đường. Tên võ sĩ không kịp kêu lên một tiếng, lăn ra chết tươi, Ngao Thế Kỳ lại tiến thêm hai bước, vừa giơ kiếm định đâm, lại một mũi tên bắn xẹt qua vai, giết chết thêm một tên võ sĩ nữa. Ngao Thế Kỳ như sớm biết ai là người bắn tên, cũng không hốt hoảng, lập tức vung kiếm đâm về phía các võ sĩ sau lưng hai tên vừa bị bắn hạ.

Đám võ sĩ này vốn định chặn ngay nơi chật hẹp này để đối phương không phát huy được ưu thế người đông, ai ngờ đối phương lại có một thần tiễn thủ bách phát bách trúng, trong lúc hai bên hỗn chiến lại dám bắn tên trợ giúp, Ngao Thế Kỳ vung kiếm gạt nhát kiếm của kẻ địch đâm tới, lại một mũi tên bay tới cắm phập vào tên đó, Ngao Thế Kỳ không cần suy nghĩ, lại lao vào một tên khác.

Hai người phối hợp chặt chẽ, trong một lúc đã giết được mấy tên địch, mở ra con đường máu, đám gia tướng sau lưng ùa lên, tên mới ngưng bắn ra. Đám phục binh của Tề Báo này tuy ít ỏi nhưng lòng can đảm không sợ chết lại không hề thua kém bất kì một ai, chỉ thấy chúng vung gươm múa giáo, biết là chết chắc cũng không lùi bước, cho đến khi người cuối cùng ngã xuống, trên tay vẫn nắm chặt vũ khí chắn ngang đường.

- Mau đưa chúa công đi qua!

Ngao Thế Kỳ khắp người dính máu, vừa mới ra lệnh xong, phía sau lại văng vẳng tiếng hét, Công Mạnh Trập quay đầu lại thấy xa xa một đám người giơ binh khí đuổi theo đến nơi, sợ sệt kêu lên:

- Sao lại đến nhanh như vậy, Chu Bát chắc đã chết mất rồi…

Hắn vốn định mắng chửi Chu Bát vô dụng, nhưng lúc nguy nan này là lúc dùng người, nên nói đến đó thì ngưng không nói tiếp nữa, nhằm che giấu vẻ thất vọng, hắn mở miệng khóc to, làm ra vẻ đau thương tột cùng.

Các gia tướng xung quanh không nghe ra ý đồ thật sự của câu nói, Ngao Thế Kỳ nghiến răng, nắm chặt thanh kiếm trên tay, nói:

- Trường Sinh, chúa công gi­ao cho đệ, nhất định phải hộ tống chúa công đến cung thành an toàn.

Liễu Trường Sinh là tên võ sĩ theo sát Công Mạnh Trập, mặc áo bào màu trắng, trên tay cầm cây cung lớn, sau lưng đeo một bao tên, mắt thanh mày tú, tướng mạo như một sĩ tử. Hắn chính là người hồi nãy bắn hạ các tên chặn đường, người này vốn xuất thân một gia tộc suy tàn, đầu quân môn hạ Công Tôn Trập, cùng với Ngao Thế Kỳ, Chu Bát được xưng danh “Mạnh Trập tam kiệt”. Giữa ba người tình như anh em, trong số ba người, Chu Bát dũng mãnh can trường, Ngao Thế Kỳ kiếm thuật tuyệt diệu, còn Liễu Trường Sinh lại giỏi về bắn cung.

- Nhị ca.

Gi­ao tình của Liễu Trường Sinh và Ngao Thế Kỳ sâu nặng, ánh mắt chạm nhau đã hiểu tâm ý của Ngao Thế Kỳ, Liễu Trường Sinh gật đầu:

- Nhị ca yên tâm, chỉ cần Liễu Trường Sinh này còn một hơi thở, quyết không để chúa công gặp nguy hiểm.

- Ha ha, tốt!

Ngao Thế Kỳ hét lớn:

- Mau đưa chúa công đi trước, ta ở lại chặn kẻ địch.

Đám võ sĩ không dám dừng bước, khiêng kiệu lướt nhanh như cơn gió, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu làm bộ kêu lên:

- Thế Kỳ, đừng lao vào chốn nguy hiềm, cứ đi cùng lão phu.

Ngao Thế Kỳ cầm kiếm trên tay, cũng không đáp lại, vái chào hắn một cái, từ từ quay người lại.

Khánh Kỵ, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ công phá xong cánh cửa cuối cùng của phủ đệ Công Mạnh Trập, lục xét khắp nơi một lượt, quả nhiên không thấy tung tích Công Mạnh Trập đâu cả, thấy một cánh cửa nhỏ được khóa lại, lấy búa đập cửa ra, dẫn đến con đường mòn nhỏ ven sông, lập tức đưa người đuổi theo ngay.

Men theo đường mòn truy đuổi được một lúc, đã thấy bóng dáng đoàn người của Công Mạnh Trập phía trước, họ gia tăng tốc đuổi đuổi theo đến nơi, chỉ thấy xác chết la liệt, con đường trước mặt có Ngao Thế Kỳ cầm kiếm đứng một mình chặn lối, kiếm đặt ngang ngực, nghiêm giọng hét lớn:

- Ngao Thế Kỳ ở đây, ai dám đánh với Ngao mỗ một trận?

Tề Báo dừng bước, ánh mắt giận dữ, lúc này truy đuổi Công Mạnh Trập mới là việc quan trọng nhất, ai mà còn tâm trí gi­ao đấu với tên võ sĩ này chứ. Chỉ là thời Xuân Thu dù cho áp dụng vào trận chiến nào, cũng còn mang phong độ người quân tử, lấy thí dụ, một nước đang dốc toàn lực tấn công nước khác, quốc vương nước đó đột nhiên bệnh nặng qua đời, trong phần lớn trường hợp, phe tấn công sẽ dừng lại, cho đối phương thời gi­an ba ngày lo liệu việc tang lễ, thông thường còn đến bái tế quốc vương đó nữa.

Mà cũng là đội quân đó, nếu quả thực chiếm được kinh đô của đối phương rồi, giết người cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, có thể chuyện gì cũng làm ra được. Hành vi mâu thuẫn này nghĩ ra có vẻ tức cười, thậm chí nói là giả tạo, nhưng lại là lễ tiết người thời đó tuân thủ. Ngao Thế Kỳ đơn thương độc mã khiêu chiến với họ, nếu lấy số đông xông lên giành chiến thắng, là một chuyện rất mất phong độ quân tử. Người nước Vệ chính vì thủ cựu, kiên quyết giữ lấy truyền thống Chu lễ, nhiều người nhìn vào thế này, sao làm chuyện ỷ đông hiếp yếu được? Hơn nữa nơi hắn đứng chật hẹp một bên là vực sâu, một bên là rừng cây rậm rạp, có muốn xông lên bao vây cũng không thể nào.

- Chúa công, Dịch Tuyên xin ứng chiến!

Kiếm khách môn hạ của Tề Báo là Dịch Tuyên rút kiếm ra, xin phép Tề Báo.

Tề Báo không muốn kéo dài thời gi­an, lập tức xua tay:

- Đi, giải quyết hắn cho nhanh vào!

Dịch Tuyên vâng một tiếng bước lên đối mặt Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ hướng mũi kiếm về phía trước, hai bên vừa thu gần khoảng cách, lập tức lướt tới đâm, Dịch Tuyên nhảy vút lên cao, như một con đại bàng lao về phía Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ chỉ chuyển động đôi chân, theo thế lao xuống của Dịch Tuyên cúi xuống tránh né, như một chú thỏ con khiếp vía dưới nanh vuốt đại bàng.

- Không hay rồi!

Khánh Kỵ kinh hãi kêu lên, Dịch Tuyên quá chủ quan khinh địch, kĩ năng chiến đấu ít có ai nhảy lên không trung như thế, trừ khi thực lực hai bên chênh lệch quá rõ ràng mới dám làm vậy, nếu không thân ở trên không trung, không cách gì xoay chuyển né tránh nữa, nếu thực lực đối phương tương đương, như thế người đứng dưới đất sẽ chiếm trọn ưu thế. Ngao Thế Kỳ nhìn có vẻ như bị Dịch Tuyên dồn ép, nhưng đôi chân di chuyển có bài bản, đôi mắt điềm tĩnh ứng phó, chưa có vẻ gì thua kém đối phương.

“Keng!” Hai thanh kiếm chạm nhau tóe lửa, Dịch Tuyên đã phóng qua bên kia, Ngao Thế Kỳ từ từ đứng thẳng lưng, phía sau Dịch Tuyên lảo đảo, rồi ngã vật xuống đất, vừa nãy hai thanh kiếm chạm nhau, Ngao Thế Kỳ lập tức nhanh chóng thay đổi thế kiếm, đưa kiếm lên kéo lê một phát, nhát kiếm đó đã rạch ngang ngực Dịch Tuyên.

Đám người Tề Báo thấy vậy huyên náo cả lên, vừa rồi hai người tiếp chiến như đại bàng vồ thỏ, nhanh như tia chớp, chỉ trong chớp mắt Dịch Tuyên đã lăn ra chết dưới kiếm của Ngao Thế Kỳ. Phía Tề Báo ồn ào tức giận, lập tức lại có một kiếm khách dưới trướng Bắc Cung Hỉ đứng ra xin ứng chiến:

- Chúa công, Cát Anh xin ứng chiến!

Đến bước đường này, đám người Tề Báo như cưỡi trên lưng cọp, không thể vừa thua một trận là tất cả cùng xông lên cho người khác chê cười, Bắc Cung Hỉ gật đầu đồng ý:

- Hãy cẩn thận, không được khinh địch.

Vừa nãy chứng kiến kiếm pháp của Ngao Thế Kỳ, Bắc Cung Hỉ và Tề Báo đều e ngại trong lòng, hắn và Tề Báo đều dùng binh khí nặng cồng kềnh, giết giặc trên chiến trường uy lực vô cùng, nhưng trên lối nhỏ chật hẹp một chọi một đánh nhau, binh khí nặng không linh hoạt khi thi triển quả là lép vế, hai người đều không có lòng tin sẽ chiến thắng thanh kiếm của Ngao Thế Kỳ, với thân phận hai người họ, tất nhiên không cần thiết đích thân ra tay. Tên Cát Anh này cũng luyện kiếm, thích hợp đối phó với kiếm thuật của Ngạo Thế Kỳ.

Cát Anh cúi người:

- Dạ!

Chỉ thấy hắn nắm chặt kiếm trong tay, từng bước từng bước áp sát Ngao Thế Kỳ, khi hai người còn cách nhau một trượng, Cát Anh đột nhiên hét lớn, tuốt kiếm lao nhanh về phía Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ lần này không thèm né tránh, lúc Cát Anh vung kiếm lao tới, hắn cũng múa kiếm xông theo.

Hai người múa kiếm gi­ao đấu, hư hư thực thực, vừa thật vừa ảo, động tác chiêu thức vừa nhanh vừa mạnh. Hai người đâm qua đỡ lại, phút chốc đã gi­ao đấu mười mấy hiệp, trong khu vực chật hẹp này né tránh, xoay người, nhảy lên, đâm tới, kiếm ảnh sáng choang nhưng chỉ nghe vài ba tiếng leng keng chạm khẽ, nhìn có vẻ hung hiểm vô cùng, thanh kiếm trên tay hai người chạm nhau không nhiều, cứ đâm không trúng lập tức thu về, chiêu thức cả hai đều cực nhanh.

“Keng keng keng!” ba tiếng lảnh lót vang lên, Cát Anh vội vàng lùi bước, dồn hết sức nhảy ngược ra sau, lui ra hơn một trượng, lảo đảo quay về đám đông, được hai võ sĩ tay chân lanh lẹ đỡ lấy, một vết thương chạy dài từ cằm trái xuống đến vai, máu tuôn như suối, vết thương tuy không đủ lấy mạng hắn, nhưng ai nhìn vào cũng ghê tởm.

Tất cả nói ra phức tạp, nhưng chỉ diễn ra trong giây lát, Khánh Kỵ đưa mắt dõi theo, lúc này Công Mạnh Trạch đã chạy xa tầm bắn cung tên, hắn không biết Công Tử Triều đã chiếm giữ cung thành được chưa, sao chịu hành động ngu ngốc lãng phí thời gi­an đấu kiếm ở đây chứ. Hai tên võ sĩ vừa đỡ lấy Cát Anh, ấn mạnh vết thương giùm hắn định băng bó, Khánh Kỵ đã giơ trường mâu trong tay lên, hét lớn:

- Để ta!

Môn hạ của Tề Báo và Bắc Môn Hỉ phần lớn không biết thân phận thực sự của Khánh Kỵ, nhưng bản lĩnh của hắn lúc tấn công vào phủ đệ Công Mạnh Trập vừa nãy thì ai cũng nhìn thấy, không ai là không khâm phục thân thủ của hắn. Bây giờ phe mình liên tiếp thua hai trận, ai nấy ngỡ ngàng, thấy hắn xung phong ra trận ứng chiến, mọi người lập tức tung hô ủng hộ.

Hai mươi mấy tên võ sĩ đang đứng phía trước lập tức tránh sang hai bên, mở ra một lối đi. Khánh Kỵ nắm chặt trường mâu, đi xuyên qua hai hàng võ sĩ oai vệ tiến về phía trước.

Khánh Kỵ bước nhanh, càng lúc càng nhanh về phía trước, thanh trường mâu trong tay hắn cũng từ từ hướng lên sắc nhọn, làm ra thế sẵn sàng đâm tới trước mặt, các tư thế khá uyển chuyển đẹp mắt, đến khi trường mâu trong tay lấy thế đâm ra, dưới chân vẫn không ngừng di chuyển. “Hây!” thét to một tiếng, trường mâu đâm thẳng về phía Ngao Thế Kỳ.

Nhát đâm này nhắm vào vị trí ngang hông của Ngao Thế Kỳ, sức mạnh kinh hồn, nhanh tựa tia chớp, hoàn toàn không cần kĩ xảo nào, thứ Khánh Kỵ dựa vào duy nhất chính là thần lực trời phú và cảnh giới cao nhất đạt được trong tập luyện sau này.

Nhát này đâm ra, Ngao Thế Kỳ lấy làm kinh hãi, lập tức nhận ra đối thủ đáng sợ trước mặt, điểm đáng sợ là nhát mâu của hắn không biến hóa màu mè mà chỉ cần một sức mạnh to lớn, mà nguồn sức mạnh này được hòa hợp tuyệt hảo với thế đâm, nhát đâm quá nhanh Ngao Thế Kỳ không thể né tránh kịp, chỉ còn cách hai tay nắm chặt kiếm, phán đoán góc độ vị trí thời gi­an cây mâu đâm tới, chém một nhát mạnh vào mũi nhọn cây trường mâu.

“Bột!” Kiếm của Ngao Thế Kỳ chém vào chỗ cán mâu cách mũi nhọn hai thước, cán mâu làm bằng gỗ cứng, được sơn đen, vừa cứng vừa dai, với tốc độ và sức mạnh kinh người của Khánh Kỵ đâm tới, càng khó chém đứt được.

Nhất là Ngao Thế Kỳ vốn dựa vào phán đoán góc độ và tốc độ đâm tới xuất kiếm chém xuống, muốn gạt nhát đâm mạnh mẽ của Khánh Kỵ ra, nhưng Khánh Kỵ cầm mâu chỉ với một tay, cây mâu vẫn còn độ dài hai thước được kẹp dưới nách, dồn sức đâm về phía trước trường mâu theo thế lướt tới, lúc này tay đang nắm phần đuôi cán trường mâu, Ngao Thế Kỳ bị trường mâu đâm xuyên bụng, nhát kiếm mới chém được vào cán mâu, “Keng” một tiếng vang lên, thanh kiếm đã gãy.

Khánh Kỵ buông tay ra, bước lùi ba bước, ôm quyền nói:

- Các hạ quả là một dũng sĩ đáng kính trọng, gi­ao đấu trên chiến trường, không sống thì chết, thật là đáng tiếc.

Ngao Thế Kỳ sắc mặt trắng bệch, đôi môi run run, không còn sức lên tiếng hỏi danh tánh Khánh Kỵ, Ngao Thế Kỵ buông thanh kiếm gãy ra, hai tay nắm lấy cán trường mâu như muốn nhổ ra, nhưng chỉ nhổ được một nửa, máu nóng tuôn trào như suối, hơi thở hổn hển một hồi, sau đó nằm ngửa ra tắt thở.

- Mau đuổi theo Công Mạnh Trập!

Khánh Kỵ lớn tiếng ra lệnh, chạy nhanh đuổi về phía trước, đám người Tề Báo hãy còn ngớ người ra theo dõi trận chiến không kịp tung hô, được Khánh Kỵ nhắc nhở, vội vàng theo sau đuổi đến, lúc đi ngang xác chết của Ngao Thế Kỳ, vì kính trọng hắn anh dũng, không một ai dẫm đạp lên xác hắn.

Khánh Kỵ và mọi người tăng tốc đuổi theo sau Công Mạnh Trập, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu, tốc độ không kém người dồn sức chạy nhanh, bốn võ sĩ khiêng kiệu lúc mệt lập tức có người thay vào, Liễu Trường Sinh một tay cầm cung, một tay nâng kiệu, liên tục hối thúc tất cả tăng tốc. Đi dọc theo bờ hồ, phía trước cửa Tây cung thành đã đập vào tầm mắt, Liễu Trường Sinh mừng rơn.

Các võ sĩ càng đi nhanh hơn, điên cuồng lao đến dưới tường thành, đám người Khánh Kỵ vẫn còn một khoảng cách khá xa. Liễu Trường Sinh cất cao giọng:

- Mau mau đưa cầu treo xuống, mau đưa cầu treo xuống, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ làm loạn, Công Mạnh Trập đại nhân phải vào cung gặp quốc vương.

Ai ngờ bên kia con hào ngăn cách, bốn tên lính cầm mâu đứng canh gác cứ như bỏ ngoài tai không thèm lên tiếng. Công Mạnh Trập thấy vậy tức giận, bước xuống kiệu hét lớn:

- Mấy tên khốn này, không nhìn thấy bổn đại phu sao hả?

Hắn giơ cao ấn soái đại tướng quân ra trước mặt, tiếp lời:

- Ta là huynh trưởng của quốc vương Công Mạnh Trập, sao các ngươi còn chưa thả cầu treo xuống.

“Ha ha ha ha…” trên tường thành chợt một giọng cười vang đến, Công Mạnh Trập ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy một kẻ đang đứng trên tường thành ung dung ngước nhìn xuống dưới, chính là Công Tử Triều. Trong lòng Công Mạnh Trập chợt cảm thấy một niềm bất an, cung thành là nơi ở của quốc vương, Công Tử Triều nếu đoạt được đại quyền chỉ huy đám vệ sĩ trong cung, trừ khi khống chế được Vệ hầu Cơ Nguyên trước, Công Mạnh Trập không tin hắn có bản lĩnh đó, vẫn ôm hy vọng hỏi lớn:

- Tử Triều sao ngươi dám leo lên tường thành hoàng cung? Mau thả cầu treo xuống, lão phu phải vào cung kiến giá.

- Kiến giá thì không cần đâu, đại nhân đã đến đây, xin để lại một món đồ rồi hãy đi.

- Món đồ gì?

Công Mạnh Trập biết có gì không ổn, thu ấn soái lại.

- Tất nhiên là…cái đầu trên cổ lão tặc nhà ngươi.

Vừa dứt lời, thân hình Công Tử Triều lui lại một chút, sao đó một mũi tên lộ ra ngoài, bắn về phía Công Mạnh Trập.

- Chúa công cẩn thận!

Liễu Trường Sinh không cứu viện kịp, trong lúc nguy cấp dùng hết sức nâng kiệu ném qua, mũi tên cắm phập xuyên qua ghế ngồi, hãy còn lắc lư không dừng. Công Mạnh Trập lồm cồm bò dậy, sắc mặt sợ hãi, hắn một chân tàn phế, ghét nhất bị người ta nhìn thấy bộ dạng đó, giờ dáng đi khập khiễng bị tất cả mọi người nhìn thấy hết, lại còn bị hất ngã ra đất nữa, thật không còn mặt mũi nào. Tức giận hét lớn:

- Giết tên tiểu tặc Công Tử Triều cho ta!

Sự thể đến nước này, dù cho là hắn hay các gia tướng dưới trướng đều biết là phen này chết chắc, nhưng trước lúc chết, Công Mạnh Trập muốn bắn chết Công Tử Triều để hả cơn oán giận này.

Đến bước đường này, Liễu Trường Sinh cũng bình tĩnh lại, với sức của hắn, đã không còn cách nào bảo vệ an toàn cho chúa công, giờ đây hắn chỉ còn cách giữ lời hứa chết cùng chúa công thôi. Nghe chúa công ra lệnh, Liễu Trường Sinh bình tĩnh giương cung lắp tên, động tác vô cùng nhanh chóng, giơ tay đã bắn mũi tên ra, Công Tử Triều thấy hắn giương cung vội bước lùi lại, nhưng Liễu Trường Sinh bắn tên rất nhanh, mũi tên xuyên qua giáp trụ trên đầu, bắn bật giáp trụ xuống đất, Công Tử Triều thất kinh hồn vía.

Công Tử Triều tức giận giương cung lắp tên, nhưng không ngờ Liễu Trường Sinh bên dưới đã lắp tên trước hắn, tốc độ nhanh hơn hắn ba phần. Công Tử Triều thấy thế lớn tiếng chửi rủa:

- Tên vô sỉ, không cho người ta bắn trả sao?

Liễu Trường Sinh nghe vậy, dừng lại không bắn mũi tên ra, thần sắc lạnh lùng:

- Mời bắn!

Công Tử Triều cười lớn, ra lệnh:

- Phóng tiễn!

Trên tường thành hàng trăm cung thủ giương cung ra, mưa tên vù vù bắn về phía dưới.

- Thật vô sỉ!

Liễu Trường Sinh tức giận hét lên, vội lao về phía Công Mạnh Trập lấy thân mình che chắn cho hắn, mưa tên qua đi, đám gia tướng của Công Mạnh Trập dưới thành đã chết hết hơn một nửa. Tề Báo, Khánh Kỵ đuổi đến nơi, chỉ thấy xác nằm la liệt, Liễu Trường Sinh nằm sấp trước kiệu, trên người bị năm sáu mũi tên bắn trúng, đã tắt thở từ lâu.

Công Mạnh Trập định thần lại mở mắt ra, thấy mình không bị suy suyễn gì, lập tức đẩy cái xác Liễu Trường Sinh che chắn cho mình ra, khập khiễng bước cao bước thấp men theo ngự hà chạy trốn. Đến lúc này rồi, hắn còn trốn được đi đâu nữa chứ, chỉ là Công Mạnh Trập nắm binh quyền trong tay bao lâu nay, nhưng lại là tên công tử sống trong nhung lụa, trước giờ chỉ có hắn giết người, chưa từng bị người khác đuổi giết. Hôm nay huyết chiến, chỉ là tinh thần cảm tử của đám thuộc hạ trung thành, còn hắn đã sớm hồn siêu phách lạc, trong lúc nguy nan, giờ chỉ mong một mình trốn đi giữ lấy tính mạng, không quan tâm mạng sống của đám thuộc hạ trung thành nữa, cũng mặc kệ bộ dạng lủi thủi ấy bị người khác nhìn thấy.

Lại một trận mưa tên bắn xuống, thấy truy binh của Tề Báo đến nơi, Công Tử Triều lập tức xuống thành, dặn dò mở cửa thành ra đón tiếp, bản thân đeo cung tên đi trước bước ra ngoài. Công Mạnh Trập đi được mười mấy bước chân, thấy một người chắn ngang trước mặt, người này ánh mắt căm giận, khinh bỉ pha chút thương hại đang lạnh lùng nhìn vào hắn, chính là tên thần bí bị nhốt vào thủy lao, Công Mạnh Trập bước lùi hai bước, giọng run rẩy:

- Lão phu…lão phu là anh của quốc vương, các ngươi không được giết ta.

- Anh của quốc vương không phải chết, người khác thì phải chết à?

Khánh Kỵ lạnh lùng cất tiếng:

- Công Mạnh Trập đại nhân, chết sớm chết trễ, đời người ai cũng phải chết, chết có chút khí tiết lên, đừng để các tráng sĩ trung thành của ngươi chết không nhắm mắt.

- Các ngươi muốn gì cứ lấy đi hết, xin đừng giết ta, xin đừng giết ta!

Công Mạnh Trập lại lao về phía cửa thành hoàng cung, hắn nghĩ thân mình tôn quý, không rẻ mạt như đám gia tướng kia, nhiều đôi mắt nhìn vào chắc chúng cũng nể nang không dám ra tay sát hại, chỉ cần bọn họ không phản cả vua, hắn vẫn còn cơ hội giữ được mạng sống.

Khánh Kỵ nhìn dáng vẻ khập khiễng của hắn, lạnh lùng lắc đầu, Công Tử Triều thả cầu treo xuống bước ra, giương cung lắp tên, hét to với Công Mạnh Trập:

- Mạnh Trập đại nhân, ngươi cậy quyền ỷ thế, định đuổi cùng giết tận người khác, có từng nghĩ đến bản thân cũng có kết cục như hôm nay.

Công Mạnh Trập cúi đầu bỏ chạy, thấy có người lên tiếng hỏi ngước mặt lên, thấy Công Tử Triều chặn ngay trước mặt, một tay cầm cung, tay kia kéo mạnh dây cung.

“Hự!” Công Mạnh Trập hai mắt lòi ra, giơ tay nắm lấy cổ họng, mũi tên đã bắn xuyên qua cổ họng hắn, trong lòng Công Mạnh Trập đã tắt hy vọng sống sót, hắn quỳ mọp dưới đất, đầu rũ xuống, tắt thở.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Phần thứ 237 238 239

Chương 172: Mạng rẻ mạt như kiến (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Trong nhà sau, Công Mạnh Trập đứng ở trên, nghe tiếng chém giết càng lúc càng gần, lòng đau như cắt ngửa cổ dậm chân nói:

- Một lúc không cẩn thận, thua cả ván cờ! Không ngờ âm mưu bại lộ, bị họ ra tay trước, chuốc lấy hậu quả này đây. Các ngươi đều có gia đình vợ con cả, không cần chết cùng lão phu, ai nấy tự bỏ trốn đi, có lẽ còn giữ được tính mạng.

Bên dưới là mấy trăm tên gia tướng trung thành cầm gươm giáo đứng đó, đứng đầu là Ngao Thế Kỳ và Chu Bát thấy âm mưu bại lộ vội đến hộ vệ. Ngao Thế Kỳ khẳng khái nói:

- Chúa công đối với chúng ta ân trọng như núi, giờ là lúc chúng ta thề chết báo đáp chúa công, thuộc hạ và chúa công đồng sinh cộng tử, thề chết đi theo chúa công.

Mấy trăm gia tướng bên dưới cùng lúc đưa gươm giáo lên, đồng thanh hét lớn:

- Đồng sinh cộng tử, thề chết đi theo chúa công.

- Tốt, tốt…

Những lời Công Mạnh Trập nói lúc nãy vốn chỉ định kích động lòng thù địch của mọi người, nay thấy có tác dụng, trong lòng vui mừng, vội chắp tay nói:

- Trong lúc nguy nan, mới thể hiện được khí tiết anh hùng, các tráng sĩ không phụ Mạnh Trập, Mạnh Trập cũng không dám phụ các tráng sĩ. Khi thoát nạn này, vinh hoa phú quý, Mạnh Trập cùng sẽ hưởng với các tráng sĩ đây.

Chu Bát ôm quyền nói:

- Chúa công không cần hoảng loạn, thuộc hạ biết người trong thủy lao đã trốn thoát, đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ chắc là nhận được tin của hắn nên mới liều chết chống cự, đột nhiên tấn công ta. Bọn họ bỗng nhiên đánh tới đây chắc cũng chỉ chống cự trong tuyệt vọng, không có chuẩn bị kĩ lưỡng, chúa công nắm giữ đại quyền binh mã nước Vệ, tiếc chi một phủ đệ? Chúng thuộc hạ liều chết hộ tống chúa công phá vòng vây chạy đến cung thành hợp sức với quốc quân. Trong thành lương thảo đầy đủ, tường thành kiên cố, bọn phản tặc Tề Báo khó tấn công vào. Sau đó chúa công điều động binh sĩ thành Vệ đến dẹp tan bọn phản tặc, đợi khi năm ngàn binh mã vượt Hoàng Hà đến nơi, lúc đó mới bao vây tiêu diệt bọn chúng.

- Chu Bát nói có lí lắm, chúng ta hộ tống chúa công giết ra ngoài nào!

Ngao Thế Kỳ vừa dứt lời, chỉ nghe tiếng la hét vang dội truyền đến, tiếng binh khí va chạm nhau nghe chói tai, người ngựa của Tề Báo đã tấn công vào khu vườn thứ tám.

Chu Bát sắc mặt thay đổi, cầm cây trường mâu thanh đồng lên lớn tiếng la hét:

- Quân địch tấn công dũng mãnh, Ngao Thế Kỳ mau hộ tống chúa công lui về phía cung thành, ta đi chặn giết kẻ địch!

Nói xong giơ cao trường mâu, dẫn theo một nhóm người xông ra ngoài như cơn lốc.

- Chúa công mau đi thôi!

Ngao Thế Kỳ giơ tay ra hiệu, mấy tên lính khiêng qua một chiếc kiệu, đưa Công Mạnh Trập ngồi lên đó, rút nhanh về phía hậu viên.

- Giết giết giết!

Đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ hăng say chém giết, la hét tấn công vào khuôn viên khu vườn thứ tám, chém giết với đám gia tướng trung thành đang bày trận đợi sẵn ở đó. Những người của đôi bên đánh được vào đây, phòng thủ ở đây đều có võ nghệ cao cường, là dũng sĩ ngoan cường không khiếp sợ cái chết, hai bên gi­ao chiến, kì phùng địch thủ, như hai cơn sóng mạnh đập vào nhau, bọt máu văng tung tóe cả lên.

Chính vào lúc này, Chu Bát phóng ra như cơn lốc, theo sau là một đám dũng sĩ đang hăng máu, khuôn viên khu vườn này khá rộng lớn, người của đôi bên chiếm giữ cả khu vườn, khắp nơi đều đang dằng co với đối phương, đội người của Chu Bát đến nơi, cứ như là dòng suối đổ thêm vào cơn sóng mạnh mẽ xô bờ, không làm dậy sóng thêm được bao nhiêu. Tuy nhiên quân cứu viện đến nơi lại tạo thêm không ít lòng tin nơi quân lính phe mình, các gia tướng trong phủ càng hăng say hơn chiến đấu, trong một lút đẩy lùi được đám người đang tiến vào của Tề Báo.

- Các cung thủ chuẩn bị!

Chính lúc này đại đội binh mã của Tề Báo, Bắc Cung Hỉ và Khánh Kỵ chỉ huy tụ lại giết đến nơi. Thấy tình cảnh này lập tức hét to một tiếng, các cung thủ giương cung lắp tiễn, với khoảng cách gần như vậy, người của bên kia lại đứng san sát nhau, tức thì bị tên bắn chết ngã xuống rất nhiều.

- Giết, ai lấy được đầu của Công Mạnh Trập, thưởng một ngàn lượng vàng, một trăm mẫu ruộng.

Đám người Tề Báo lại tấn công vào bít cả lối đi, Chu Bát thấy thế, trường mâu giơ ngang, lớn tiếng ra lệnh:

- Tất cả theo ta, chặn lối vào lại.

Nói xong dũng cảm xông lên trước, các dũng sĩ theo sau hùng dũng tiến lên, liều chết giữ lấy cửa vào, hai bên đánh nhau đẫm máu, cánh cửa khu vườn vốn rộng rãi nay đã chen chúc chật ních, người này ngã xuống lập tức có người khác thế vào chỗ trống. Mạng người dưới đao kiếm không đáng giá một xu, không ngừng có người ngã xuống, bị giẫm đạp như mớ thịt vô tri vô giác dưới chân kẻ khác.

Dù sao thì phía Tề Báo đông người hơn, có thể bổ sung lực lượng liên tục không ngừng, Chu Bát giết đến nỗi khắp người bê bết máu, nhìn thấy kẻ địch đông đúc, phe mình tổn thất nặng nề, người ngựa càng lúc càng ít đi, Chu Bát hét to:

- Đóng cửa, mau đóng cửa lại!

Cánh cửa này không phải là cửa thành, dù cho đóng lại thì chỉ cần đối phương dùng vật nặng tông cửa cũng chẳng cầm cự được bao lâu, hơn nữa tường ngăn cách tuy cao, cũng không phải không leo qua được, Chu Bát làm vậy chỉ muốn tranh thủ thêm ít thời gi­an cho chúa công trốn chạy mà thôi.

Phía sau có người nghe thấy mệnh lệnh, vội vàng đến đẩy cửa đóng lại, bậc thềm có rất nhiều xác chết, lúc này cũng không phân biệt của địch hay của ta nữa, cứ dùng chân đá qua một bên. Trường mâu của Chu Bát đã bị chém gãy, lúc này trên tay đang cầm hai thanh trường kiếm sứt mẻ, điên cuồng giữ lấy cánh cửa.

- Ây…

Chợt đùi bị trường mâu đâm xuyên, Chu Bát hét lên đau đớn, vung kiếm chém bay mất nửa cái đầu của tên cầm mâu đâm mình, múa kiếm loạng choạng lui lại vài bước, một cây trường mâu khác lại đâm vào dưới bụng hắn, người kia mừng rỡ, hai tay ra sức đâm mạnh, vừa định xoáy mâu đâm nát nội tạng của hắn, Chu Bát hét to giận dữ, thanh kiếm bên tay phải được phóng ra ngay giữa mặt tên lính, tên lính bị kiếm đâm xuyên mặt, tắt thở ngã về phía sau.

Chu Bát ha hả cười to ba tiếng, lảo đảo lui về sau hai bước, vấp vào một xác chết dưới chân, vội dùng kiếm chống đỡ quỳ xuống đất, hắn trừng trừng đôi mắt đỏ rực về phía quân địch trước mặt, khí thế đó làm mấy tên gia tướng của Tề Báo nhất thời không dám tiến gần lui lại vài bước, lộ vẻ sợ hãi.

Nửa cánh cửa đã được đóng lại, Khánh Kỵ chợt hiểu ý, to tiếng:

- Hắn đang kéo dài thời gi­an, Công Mạnh Trập chắc đang bỏ trốn.

Tề Báo nghe vậy vội ra lệnh:

- Mau giết vào trong đó, đừng để hắn đóng cửa lại!

Nhận được lệnh của chủ nhân, đám gia tướng của Tề Báo một lần nữa lại xông lên, bên cạnh Chu Bát còn sót lại không có bao nhiêu người nữa, chúng vừa đánh vừa lui, bị ép lui lại sau cửa. Chu Bát bị đâm trúng bụng, biết là chết chắc, các võ sĩ xung quanh la hét bảo rút lui nên hắn cũng không chịu lùi lại, một chân quỳ gối, một tay cầm kiếm chống đỡ, tay kia lượm lên cây trường mâu kẹp dưới nách tiếp tục chiến đấu, lại đâm chết thêm hai người nữa. Thấy Chu Bát dũng mãnh như thế, tuy là kẻ địch một mất một còn với nhau, Khánh Kỵ vẫn sinh lòng khâm phục. Gã nam nhi trung thành này, tiếc là hắn bảo vệ cho Công Mạnh Trập nham hiểm độc ác hơn cả bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, cảm thấy không đáng cho hắn, hay may cho Công Mạnh Trập có thuộc hạ trung thành thế này đây?

Chính khách dùng mưu mẹo mưu cầu phú quí, dũng sĩ dùng lòng can đảm và máu thịt mưu cầu phú quí, cách thức khác nhau, mục đích lại giống nhau, chỉ là ai nấy dựa vào khả năng của mình cuốn vào vòng xoáy danh lợi giết hoặc bị giết mà thôi, tại sao chính khách bị người khác khinh bỉ, dũng sĩ lại được người ta kính trọng? Chính là họ phải hy sinh tính mạng, vẻ hiên ngang đó tác động mạnh vào tâm lí người khác.

Tề Báo thấy thế lên cơn tức giận, giơ cây chùy lấm lem máu lên hét lớn:

- Một lũ vô dụng, lui hết ra cho ta, để lão phu giết tên điên cuồng này.

Bắc Cung Hỉ đưa tay ngăn lại, cười một cách lạnh lùng:

- Tề đại phu đâu cần thiết hạ mình như vậy chứ!

Nói xong giựt lấy cung tên trên tay thị vệ bên cạnh, giương cung lắp tên bắn về phía Chu Bát, Chu Bát hét to đau đớn, mắt phải đã bị trúng tên.

- Đóng cửa lại!

Chu Bát ngước mặt nhìn trời hét lên, nửa cánh cửa còn lại dưới sự liều mạng chống trả của hắn đã được đóng lại.

- Ha ha!

Chu Bát cười to, đưa tay cầm mũi tên nhổ mạnh, mũi tên dính con mắt hắn được rút ra, Chu Bát ném mũi tên sang một bên, khuôn mặt bê bết máu, giơ kiếm điên cuồng xông về phía đám người Tề Báo, máu tuôn đầy mặt khiến hắn không còn nhìn thấy gì, đám võ sĩ của Tề Báo cùng xông lên giơ kiếm chém xuống, giết chết Chu Bát.

Chiếc kiệu nhỏ lướt nhanh như gió trên con đường mòn nhỏ ven sông, theo sau là hơn trăm võ sĩ trung thành hộ tống, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu cắn răng hối thúc liên hồi:

- Nhanh lên, nhanh nữa lên, chỉ cần xông được ra ngoài, lão phu là đã thoát nạn, lúc đó lũ phản loạn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ tất cả đều bị xử tội chết, gia sản vợ con đều thưởng hết cho các ngươi hưởng dụng!

Công Mạnh Trập đang hứa hẹn ban thưởng, phía trước khu rừng chợt tiếng thét vang trời, vài chục người nhảy từ sau bóng cây ra chặn đường, đó đều là phục binh Khánh Kỵ mới vừa điều động trong khi tấn công phủ đệ của Công Mạnh Trập. Vì số lượng binh mã có hạn, lại chưa xác định được mức độ khó khăn khi tấn công vào phủ đệ Công Mạnh Trạch, Tề Báo không dám chia nhỏ lực lượng ra, làm suy yếu sức mạnh tấn công của mình, đội quân nhỏ này chỉ chuẩn bị dùng vào lúc ngăn cản kẻ địch, tuy nhiên tất cả họ đều là tử sĩ dưới trướng Tề Báo, quân số tuy ít nhưng không hề sợ sệt.

Lúc này đang lúc đúng chỗ hẹp nhất của con đường mòn, một bên là vực sâu, một bên là rừng rậm, ở giữa chỉ cần hai người đứng ngang nhau là chắn hết lối đi.

- Giết!

Ngao Thế Kỳ không chút do dự, cầm kiếm xông lên, thân pháp Ngao Thế Kỳ cực nhanh, nhưng mũi tên bắn từ sau lưng hắn còn nhanh hơn, hắn mới tiến được ba bước, một mũi tên đã xẹt qua vai từ sau lưng, cắm vào cổ họng một tên võ sĩ chặn đường. Tên võ sĩ không kịp kêu lên một tiếng, lăn ra chết tươi, Ngao Thế Kỳ lại tiến thêm hai bước, vừa giơ kiếm định đâm, lại một mũi tên bắn xẹt qua vai, giết chết thêm một tên võ sĩ nữa. Ngao Thế Kỳ như sớm biết ai là người bắn tên, cũng không hốt hoảng, lập tức vung kiếm đâm về phía các võ sĩ sau lưng hai tên vừa bị bắn hạ.

Đám võ sĩ này vốn định chặn ngay nơi chật hẹp này để đối phương không phát huy được ưu thế người đông, ai ngờ đối phương lại có một thần tiễn thủ bách phát bách trúng, trong lúc hai bên hỗn chiến lại dám bắn tên trợ giúp, Ngao Thế Kỳ vung kiếm gạt nhát kiếm của kẻ địch đâm tới, lại một mũi tên bay tới cắm phập vào tên đó, Ngao Thế Kỳ không cần suy nghĩ, lại lao vào một tên khác.

Hai người phối hợp chặt chẽ, trong một lúc đã giết được mấy tên địch, mở ra con đường máu, đám gia tướng sau lưng ùa lên, tên mới ngưng bắn ra. Đám phục binh của Tề Báo này tuy ít ỏi nhưng lòng can đảm không sợ chết lại không hề thua kém bất kì một ai, chỉ thấy chúng vung gươm múa giáo, biết là chết chắc cũng không lùi bước, cho đến khi người cuối cùng ngã xuống, trên tay vẫn nắm chặt vũ khí chắn ngang đường.

- Mau đưa chúa công đi qua!

Ngao Thế Kỳ khắp người dính máu, vừa mới ra lệnh xong, phía sau lại văng vẳng tiếng hét, Công Mạnh Trập quay đầu lại thấy xa xa một đám người giơ binh khí đuổi theo đến nơi, sợ sệt kêu lên:

- Sao lại đến nhanh như vậy, Chu Bát chắc đã chết mất rồi…

Hắn vốn định mắng chửi Chu Bát vô dụng, nhưng lúc nguy nan này là lúc dùng người, nên nói đến đó thì ngưng không nói tiếp nữa, nhằm che giấu vẻ thất vọng, hắn mở miệng khóc to, làm ra vẻ đau thương tột cùng.

Các gia tướng xung quanh không nghe ra ý đồ thật sự của câu nói, Ngao Thế Kỳ nghiến răng, nắm chặt thanh kiếm trên tay, nói:

- Trường Sinh, chúa công gi­ao cho đệ, nhất định phải hộ tống chúa công đến cung thành an toàn.

Liễu Trường Sinh là tên võ sĩ theo sát Công Mạnh Trập, mặc áo bào màu trắng, trên tay cầm cây cung lớn, sau lưng đeo một bao tên, mắt thanh mày tú, tướng mạo như một sĩ tử. Hắn chính là người hồi nãy bắn hạ các tên chặn đường, người này vốn xuất thân một gia tộc suy tàn, đầu quân môn hạ Công Tôn Trập, cùng với Ngao Thế Kỳ, Chu Bát được xưng danh “Mạnh Trập tam kiệt”. Giữa ba người tình như anh em, trong số ba người, Chu Bát dũng mãnh can trường, Ngao Thế Kỳ kiếm thuật tuyệt diệu, còn Liễu Trường Sinh lại giỏi về bắn cung.

- Nhị ca.

Gi­ao tình của Liễu Trường Sinh và Ngao Thế Kỳ sâu nặng, ánh mắt chạm nhau đã hiểu tâm ý của Ngao Thế Kỳ, Liễu Trường Sinh gật đầu:

- Nhị ca yên tâm, chỉ cần Liễu Trường Sinh này còn một hơi thở, quyết không để chúa công gặp nguy hiểm.

- Ha ha, tốt!

Ngao Thế Kỳ hét lớn:

- Mau đưa chúa công đi trước, ta ở lại chặn kẻ địch.

Đám võ sĩ không dám dừng bước, khiêng kiệu lướt nhanh như cơn gió, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu làm bộ kêu lên:

- Thế Kỳ, đừng lao vào chốn nguy hiềm, cứ đi cùng lão phu.

Ngao Thế Kỳ cầm kiếm trên tay, cũng không đáp lại, vái chào hắn một cái, từ từ quay người lại.

Khánh Kỵ, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ công phá xong cánh cửa cuối cùng của phủ đệ Công Mạnh Trập, lục xét khắp nơi một lượt, quả nhiên không thấy tung tích Công Mạnh Trập đâu cả, thấy một cánh cửa nhỏ được khóa lại, lấy búa đập cửa ra, dẫn đến con đường mòn nhỏ ven sông, lập tức đưa người đuổi theo ngay.

Men theo đường mòn truy đuổi được một lúc, đã thấy bóng dáng đoàn người của Công Mạnh Trập phía trước, họ gia tăng tốc đuổi đuổi theo đến nơi, chỉ thấy xác chết la liệt, con đường trước mặt có Ngao Thế Kỳ cầm kiếm đứng một mình chặn lối, kiếm đặt ngang ngực, nghiêm giọng hét lớn:

- Ngao Thế Kỳ ở đây, ai dám đánh với Ngao mỗ một trận?

Tề Báo dừng bước, ánh mắt giận dữ, lúc này truy đuổi Công Mạnh Trập mới là việc quan trọng nhất, ai mà còn tâm trí gi­ao đấu với tên võ sĩ này chứ. Chỉ là thời Xuân Thu dù cho áp dụng vào trận chiến nào, cũng còn mang phong độ người quân tử, lấy thí dụ, một nước đang dốc toàn lực tấn công nước khác, quốc vương nước đó đột nhiên bệnh nặng qua đời, trong phần lớn trường hợp, phe tấn công sẽ dừng lại, cho đối phương thời gi­an ba ngày lo liệu việc tang lễ, thông thường còn đến bái tế quốc vương đó nữa.

Mà cũng là đội quân đó, nếu quả thực chiếm được kinh đô của đối phương rồi, giết người cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, có thể chuyện gì cũng làm ra được. Hành vi mâu thuẫn này nghĩ ra có vẻ tức cười, thậm chí nói là giả tạo, nhưng lại là lễ tiết người thời đó tuân thủ. Ngao Thế Kỳ đơn thương độc mã khiêu chiến với họ, nếu lấy số đông xông lên giành chiến thắng, là một chuyện rất mất phong độ quân tử. Người nước Vệ chính vì thủ cựu, kiên quyết giữ lấy truyền thống Chu lễ, nhiều người nhìn vào thế này, sao làm chuyện ỷ đông hiếp yếu được? Hơn nữa nơi hắn đứng chật hẹp một bên là vực sâu, một bên là rừng cây rậm rạp, có muốn xông lên bao vây cũng không thể nào.

- Chúa công, Dịch Tuyên xin ứng chiến!

Kiếm khách môn hạ của Tề Báo là Dịch Tuyên rút kiếm ra, xin phép Tề Báo.

Tề Báo không muốn kéo dài thời gi­an, lập tức xua tay:

- Đi, giải quyết hắn cho nhanh vào!

Dịch Tuyên vâng một tiếng bước lên đối mặt Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ hướng mũi kiếm về phía trước, hai bên vừa thu gần khoảng cách, lập tức lướt tới đâm, Dịch Tuyên nhảy vút lên cao, như một con đại bàng lao về phía Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ chỉ chuyển động đôi chân, theo thế lao xuống của Dịch Tuyên cúi xuống tránh né, như một chú thỏ con khiếp vía dưới nanh vuốt đại bàng.

- Không hay rồi!

Khánh Kỵ kinh hãi kêu lên, Dịch Tuyên quá chủ quan khinh địch, kĩ năng chiến đấu ít có ai nhảy lên không trung như thế, trừ khi thực lực hai bên chênh lệch quá rõ ràng mới dám làm vậy, nếu không thân ở trên không trung, không cách gì xoay chuyển né tránh nữa, nếu thực lực đối phương tương đương, như thế người đứng dưới đất sẽ chiếm trọn ưu thế. Ngao Thế Kỳ nhìn có vẻ như bị Dịch Tuyên dồn ép, nhưng đôi chân di chuyển có bài bản, đôi mắt điềm tĩnh ứng phó, chưa có vẻ gì thua kém đối phương.

“Keng!” Hai thanh kiếm chạm nhau tóe lửa, Dịch Tuyên đã phóng qua bên kia, Ngao Thế Kỳ từ từ đứng thẳng lưng, phía sau Dịch Tuyên lảo đảo, rồi ngã vật xuống đất, vừa nãy hai thanh kiếm chạm nhau, Ngao Thế Kỳ lập tức nhanh chóng thay đổi thế kiếm, đưa kiếm lên kéo lê một phát, nhát kiếm đó đã rạch ngang ngực Dịch Tuyên.

Đám người Tề Báo thấy vậy huyên náo cả lên, vừa rồi hai người tiếp chiến như đại bàng vồ thỏ, nhanh như tia chớp, chỉ trong chớp mắt Dịch Tuyên đã lăn ra chết dưới kiếm của Ngao Thế Kỳ. Phía Tề Báo ồn ào tức giận, lập tức lại có một kiếm khách dưới trướng Bắc Cung Hỉ đứng ra xin ứng chiến:

- Chúa công, Cát Anh xin ứng chiến!

Đến bước đường này, đám người Tề Báo như cưỡi trên lưng cọp, không thể vừa thua một trận là tất cả cùng xông lên cho người khác chê cười, Bắc Cung Hỉ gật đầu đồng ý:

- Hãy cẩn thận, không được khinh địch.

Vừa nãy chứng kiến kiếm pháp của Ngao Thế Kỳ, Bắc Cung Hỉ và Tề Báo đều e ngại trong lòng, hắn và Tề Báo đều dùng binh khí nặng cồng kềnh, giết giặc trên chiến trường uy lực vô cùng, nhưng trên lối nhỏ chật hẹp một chọi một đánh nhau, binh khí nặng không linh hoạt khi thi triển quả là lép vế, hai người đều không có lòng tin sẽ chiến thắng thanh kiếm của Ngao Thế Kỳ, với thân phận hai người họ, tất nhiên không cần thiết đích thân ra tay. Tên Cát Anh này cũng luyện kiếm, thích hợp đối phó với kiếm thuật của Ngạo Thế Kỳ.

Cát Anh cúi người:

- Dạ!

Chỉ thấy hắn nắm chặt kiếm trong tay, từng bước từng bước áp sát Ngao Thế Kỳ, khi hai người còn cách nhau một trượng, Cát Anh đột nhiên hét lớn, tuốt kiếm lao nhanh về phía Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ lần này không thèm né tránh, lúc Cát Anh vung kiếm lao tới, hắn cũng múa kiếm xông theo.

Hai người múa kiếm gi­ao đấu, hư hư thực thực, vừa thật vừa ảo, động tác chiêu thức vừa nhanh vừa mạnh. Hai người đâm qua đỡ lại, phút chốc đã gi­ao đấu mười mấy hiệp, trong khu vực chật hẹp này né tránh, xoay người, nhảy lên, đâm tới, kiếm ảnh sáng choang nhưng chỉ nghe vài ba tiếng leng keng chạm khẽ, nhìn có vẻ hung hiểm vô cùng, thanh kiếm trên tay hai người chạm nhau không nhiều, cứ đâm không trúng lập tức thu về, chiêu thức cả hai đều cực nhanh.

“Keng keng keng!” ba tiếng lảnh lót vang lên, Cát Anh vội vàng lùi bước, dồn hết sức nhảy ngược ra sau, lui ra hơn một trượng, lảo đảo quay về đám đông, được hai võ sĩ tay chân lanh lẹ đỡ lấy, một vết thương chạy dài từ cằm trái xuống đến vai, máu tuôn như suối, vết thương tuy không đủ lấy mạng hắn, nhưng ai nhìn vào cũng ghê tởm.

Tất cả nói ra phức tạp, nhưng chỉ diễn ra trong giây lát, Khánh Kỵ đưa mắt dõi theo, lúc này Công Mạnh Trạch đã chạy xa tầm bắn cung tên, hắn không biết Công Tử Triều đã chiếm giữ cung thành được chưa, sao chịu hành động ngu ngốc lãng phí thời gi­an đấu kiếm ở đây chứ. Hai tên võ sĩ vừa đỡ lấy Cát Anh, ấn mạnh vết thương giùm hắn định băng bó, Khánh Kỵ đã giơ trường mâu trong tay lên, hét lớn:

- Để ta!

Môn hạ của Tề Báo và Bắc Môn Hỉ phần lớn không biết thân phận thực sự của Khánh Kỵ, nhưng bản lĩnh của hắn lúc tấn công vào phủ đệ Công Mạnh Trập vừa nãy thì ai cũng nhìn thấy, không ai là không khâm phục thân thủ của hắn. Bây giờ phe mình liên tiếp thua hai trận, ai nấy ngỡ ngàng, thấy hắn xung phong ra trận ứng chiến, mọi người lập tức tung hô ủng hộ.

Hai mươi mấy tên võ sĩ đang đứng phía trước lập tức tránh sang hai bên, mở ra một lối đi. Khánh Kỵ nắm chặt trường mâu, đi xuyên qua hai hàng võ sĩ oai vệ tiến về phía trước.

Khánh Kỵ bước nhanh, càng lúc càng nhanh về phía trước, thanh trường mâu trong tay hắn cũng từ từ hướng lên sắc nhọn, làm ra thế sẵn sàng đâm tới trước mặt, các tư thế khá uyển chuyển đẹp mắt, đến khi trường mâu trong tay lấy thế đâm ra, dưới chân vẫn không ngừng di chuyển. “Hây!” thét to một tiếng, trường mâu đâm thẳng về phía Ngao Thế Kỳ.

Nhát đâm này nhắm vào vị trí ngang hông của Ngao Thế Kỳ, sức mạnh kinh hồn, nhanh tựa tia chớp, hoàn toàn không cần kĩ xảo nào, thứ Khánh Kỵ dựa vào duy nhất chính là thần lực trời phú và cảnh giới cao nhất đạt được trong tập luyện sau này.

Nhát này đâm ra, Ngao Thế Kỳ lấy làm kinh hãi, lập tức nhận ra đối thủ đáng sợ trước mặt, điểm đáng sợ là nhát mâu của hắn không biến hóa màu mè mà chỉ cần một sức mạnh to lớn, mà nguồn sức mạnh này được hòa hợp tuyệt hảo với thế đâm, nhát đâm quá nhanh Ngao Thế Kỳ không thể né tránh kịp, chỉ còn cách hai tay nắm chặt kiếm, phán đoán góc độ vị trí thời gi­an cây mâu đâm tới, chém một nhát mạnh vào mũi nhọn cây trường mâu.

“Bột!” Kiếm của Ngao Thế Kỳ chém vào chỗ cán mâu cách mũi nhọn hai thước, cán mâu làm bằng gỗ cứng, được sơn đen, vừa cứng vừa dai, với tốc độ và sức mạnh kinh người của Khánh Kỵ đâm tới, càng khó chém đứt được.

Nhất là Ngao Thế Kỳ vốn dựa vào phán đoán góc độ và tốc độ đâm tới xuất kiếm chém xuống, muốn gạt nhát đâm mạnh mẽ của Khánh Kỵ ra, nhưng Khánh Kỵ cầm mâu chỉ với một tay, cây mâu vẫn còn độ dài hai thước được kẹp dưới nách, dồn sức đâm về phía trước trường mâu theo thế lướt tới, lúc này tay đang nắm phần đuôi cán trường mâu, Ngao Thế Kỳ bị trường mâu đâm xuyên bụng, nhát kiếm mới chém được vào cán mâu, “Keng” một tiếng vang lên, thanh kiếm đã gãy.

Khánh Kỵ buông tay ra, bước lùi ba bước, ôm quyền nói:

- Các hạ quả là một dũng sĩ đáng kính trọng, gi­ao đấu trên chiến trường, không sống thì chết, thật là đáng tiếc.

Ngao Thế Kỳ sắc mặt trắng bệch, đôi môi run run, không còn sức lên tiếng hỏi danh tánh Khánh Kỵ, Ngao Thế Kỵ buông thanh kiếm gãy ra, hai tay nắm lấy cán trường mâu như muốn nhổ ra, nhưng chỉ nhổ được một nửa, máu nóng tuôn trào như suối, hơi thở hổn hển một hồi, sau đó nằm ngửa ra tắt thở.

- Mau đuổi theo Công Mạnh Trập!

Khánh Kỵ lớn tiếng ra lệnh, chạy nhanh đuổi về phía trước, đám người Tề Báo hãy còn ngớ người ra theo dõi trận chiến không kịp tung hô, được Khánh Kỵ nhắc nhở, vội vàng theo sau đuổi đến, lúc đi ngang xác chết của Ngao Thế Kỳ, vì kính trọng hắn anh dũng, không một ai dẫm đạp lên xác hắn.

Khánh Kỵ và mọi người tăng tốc đuổi theo sau Công Mạnh Trập, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu, tốc độ không kém người dồn sức chạy nhanh, bốn võ sĩ khiêng kiệu lúc mệt lập tức có người thay vào, Liễu Trường Sinh một tay cầm cung, một tay nâng kiệu, liên tục hối thúc tất cả tăng tốc. Đi dọc theo bờ hồ, phía trước cửa Tây cung thành đã đập vào tầm mắt, Liễu Trường Sinh mừng rơn.

Các võ sĩ càng đi nhanh hơn, điên cuồng lao đến dưới tường thành, đám người Khánh Kỵ vẫn còn một khoảng cách khá xa. Liễu Trường Sinh cất cao giọng:

- Mau mau đưa cầu treo xuống, mau đưa cầu treo xuống, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ làm loạn, Công Mạnh Trập đại nhân phải vào cung gặp quốc vương.

Ai ngờ bên kia con hào ngăn cách, bốn tên lính cầm mâu đứng canh gác cứ như bỏ ngoài tai không thèm lên tiếng. Công Mạnh Trập thấy vậy tức giận, bước xuống kiệu hét lớn:

- Mấy tên khốn này, không nhìn thấy bổn đại phu sao hả?

Hắn giơ cao ấn soái đại tướng quân ra trước mặt, tiếp lời:

- Ta là huynh trưởng của quốc vương Công Mạnh Trập, sao các ngươi còn chưa thả cầu treo xuống.

“Ha ha ha ha…” trên tường thành chợt một giọng cười vang đến, Công Mạnh Trập ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy một kẻ đang đứng trên tường thành ung dung ngước nhìn xuống dưới, chính là Công Tử Triều. Trong lòng Công Mạnh Trập chợt cảm thấy một niềm bất an, cung thành là nơi ở của quốc vương, Công Tử Triều nếu đoạt được đại quyền chỉ huy đám vệ sĩ trong cung, trừ khi khống chế được Vệ hầu Cơ Nguyên trước, Công Mạnh Trập không tin hắn có bản lĩnh đó, vẫn ôm hy vọng hỏi lớn:

- Tử Triều sao ngươi dám leo lên tường thành hoàng cung? Mau thả cầu treo xuống, lão phu phải vào cung kiến giá.

- Kiến giá thì không cần đâu, đại nhân đã đến đây, xin để lại một món đồ rồi hãy đi.

- Món đồ gì?

Công Mạnh Trập biết có gì không ổn, thu ấn soái lại.

- Tất nhiên là…cái đầu trên cổ lão tặc nhà ngươi.

Vừa dứt lời, thân hình Công Tử Triều lui lại một chút, sao đó một mũi tên lộ ra ngoài, bắn về phía Công Mạnh Trập.

- Chúa công cẩn thận!

Liễu Trường Sinh không cứu viện kịp, trong lúc nguy cấp dùng hết sức nâng kiệu ném qua, mũi tên cắm phập xuyên qua ghế ngồi, hãy còn lắc lư không dừng. Công Mạnh Trập lồm cồm bò dậy, sắc mặt sợ hãi, hắn một chân tàn phế, ghét nhất bị người ta nhìn thấy bộ dạng đó, giờ dáng đi khập khiễng bị tất cả mọi người nhìn thấy hết, lại còn bị hất ngã ra đất nữa, thật không còn mặt mũi nào. Tức giận hét lớn:

- Giết tên tiểu tặc Công Tử Triều cho ta!

Sự thể đến nước này, dù cho là hắn hay các gia tướng dưới trướng đều biết là phen này chết chắc, nhưng trước lúc chết, Công Mạnh Trập muốn bắn chết Công Tử Triều để hả cơn oán giận này.

Đến bước đường này, Liễu Trường Sinh cũng bình tĩnh lại, với sức của hắn, đã không còn cách nào bảo vệ an toàn cho chúa công, giờ đây hắn chỉ còn cách giữ lời hứa chết cùng chúa công thôi. Nghe chúa công ra lệnh, Liễu Trường Sinh bình tĩnh giương cung lắp tên, động tác vô cùng nhanh chóng, giơ tay đã bắn mũi tên ra, Công Tử Triều thấy hắn giương cung vội bước lùi lại, nhưng Liễu Trường Sinh bắn tên rất nhanh, mũi tên xuyên qua giáp trụ trên đầu, bắn bật giáp trụ xuống đất, Công Tử Triều thất kinh hồn vía.

Công Tử Triều tức giận giương cung lắp tên, nhưng không ngờ Liễu Trường Sinh bên dưới đã lắp tên trước hắn, tốc độ nhanh hơn hắn ba phần. Công Tử Triều thấy thế lớn tiếng chửi rủa:

- Tên vô sỉ, không cho người ta bắn trả sao?

Liễu Trường Sinh nghe vậy, dừng lại không bắn mũi tên ra, thần sắc lạnh lùng:

- Mời bắn!

Công Tử Triều cười lớn, ra lệnh:

- Phóng tiễn!

Trên tường thành hàng trăm cung thủ giương cung ra, mưa tên vù vù bắn về phía dưới.

- Thật vô sỉ!

Liễu Trường Sinh tức giận hét lên, vội lao về phía Công Mạnh Trập lấy thân mình che chắn cho hắn, mưa tên qua đi, đám gia tướng của Công Mạnh Trập dưới thành đã chết hết hơn một nửa. Tề Báo, Khánh Kỵ đuổi đến nơi, chỉ thấy xác nằm la liệt, Liễu Trường Sinh nằm sấp trước kiệu, trên người bị năm sáu mũi tên bắn trúng, đã tắt thở từ lâu.

Công Mạnh Trập định thần lại mở mắt ra, thấy mình không bị suy suyễn gì, lập tức đẩy cái xác Liễu Trường Sinh che chắn cho mình ra, khập khiễng bước cao bước thấp men theo ngự hà chạy trốn. Đến lúc này rồi, hắn còn trốn được đi đâu nữa chứ, chỉ là Công Mạnh Trập nắm binh quyền trong tay bao lâu nay, nhưng lại là tên công tử sống trong nhung lụa, trước giờ chỉ có hắn giết người, chưa từng bị người khác đuổi giết. Hôm nay huyết chiến, chỉ là tinh thần cảm tử của đám thuộc hạ trung thành, còn hắn đã sớm hồn siêu phách lạc, trong lúc nguy nan, giờ chỉ mong một mình trốn đi giữ lấy tính mạng, không quan tâm mạng sống của đám thuộc hạ trung thành nữa, cũng mặc kệ bộ dạng lủi thủi ấy bị người khác nhìn thấy.

Lại một trận mưa tên bắn xuống, thấy truy binh của Tề Báo đến nơi, Công Tử Triều lập tức xuống thành, dặn dò mở cửa thành ra đón tiếp, bản thân đeo cung tên đi trước bước ra ngoài. Công Mạnh Trập đi được mười mấy bước chân, thấy một người chắn ngang trước mặt, người này ánh mắt căm giận, khinh bỉ pha chút thương hại đang lạnh lùng nhìn vào hắn, chính là tên thần bí bị nhốt vào thủy lao, Công Mạnh Trập bước lùi hai bước, giọng run rẩy:

- Lão phu…lão phu là anh của quốc vương, các ngươi không được giết ta.

- Anh của quốc vương không phải chết, người khác thì phải chết à?

Khánh Kỵ lạnh lùng cất tiếng:

- Công Mạnh Trập đại nhân, chết sớm chết trễ, đời người ai cũng phải chết, chết có chút khí tiết lên, đừng để các tráng sĩ trung thành của ngươi chết không nhắm mắt.

- Các ngươi muốn gì cứ lấy đi hết, xin đừng giết ta, xin đừng giết ta!

Công Mạnh Trập lại lao về phía cửa thành hoàng cung, hắn nghĩ thân mình tôn quý, không rẻ mạt như đám gia tướng kia, nhiều đôi mắt nhìn vào chắc chúng cũng nể nang không dám ra tay sát hại, chỉ cần bọn họ không phản cả vua, hắn vẫn còn cơ hội giữ được mạng sống.

Khánh Kỵ nhìn dáng vẻ khập khiễng của hắn, lạnh lùng lắc đầu, Công Tử Triều thả cầu treo xuống bước ra, giương cung lắp tên, hét to với Công Mạnh Trập:

- Mạnh Trập đại nhân, ngươi cậy quyền ỷ thế, định đuổi cùng giết tận người khác, có từng nghĩ đến bản thân cũng có kết cục như hôm nay.

Công Mạnh Trập cúi đầu bỏ chạy, thấy có người lên tiếng hỏi ngước mặt lên, thấy Công Tử Triều chặn ngay trước mặt, một tay cầm cung, tay kia kéo mạnh dây cung.

“Hự!” Công Mạnh Trập hai mắt lòi ra, giơ tay nắm lấy cổ họng, mũi tên đã bắn xuyên qua cổ họng hắn, trong lòng Công Mạnh Trập đã tắt hy vọng sống sót, hắn quỳ mọp dưới đất, đầu rũ xuống, tắt thở.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Phần thứ 240 241 242

Chương 173: Mưu toan (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Công Mạnh Trập vừa chết, đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ như trút được tảng đá lớn trong lòng, nhưng một vấn đề khác lại lập tức nổi lên, là phải làm thế nào đi ăn nói với Vệ hầu Cơ Nguyên.

Công Tử Triều vừa quay qua định hỏi Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đã chắp tay nói:

- Tử Triều huynh, Tề đại phu, Bắc Cung đại phu, mời phái một viên Đại tướng, mang theo ấn tín Công Mạnh Trập, theo Khánh Kỵ đi Thanh Ngõa Quan một chuyến, nếu hai bên vẫn đang gi­ao chiến khốc liệt, có thể ngăn lại tức thì.

- Công tử nói phải lắm, Mạnh Trập đã chết, chiến sự Thanh Ngõa Quan nên lập tức bình ổn! Để lão phu phái người đi với công tử vậy.

Tề Báo dứt lời, cúi xuống nhặt ấn tín của Công Mạnh Trập lên, quay đầu lại nói:

- A Bố, ngươi cầm ấn tín đại tướng quân này, theo Khánh Kỵ công tử đến Thanh Ngõa Quan, quản thúc quân đội, chấm dứt cuộc chiến.

Tề Báo ra lệnh như thế, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cả hai đều không vui, nhưng lần này phản kích thành công Công Mạnh Trập, Tề Báo góp sức nhiều nhất, hơn nữa bây giờ chỉ là giết được Công Mạnh Trập, vẫn còn một đống chuyện rắc rối cần xử lí tiếp theo, cần ba người hết sức hợp tác với nhau, nên hai người đều nín nhịn cơn giận trong lòng, không biểu lộ ra ngoài.

A Bố là tâm phúc của Tề Báo, Tề Báo kéo hắn sang một bên, âm thầm ặn dò, A Bố đón lấy ấn tín cầm trước ngực, chắp tay nhận lệnh. Công Tử Triều thầm cảm thấy tiếc nuối, hắn đã tiếp quản vệ sĩ trong cung và trên thành, nếu như sớm ra tay giựt lấy ấn tín của Công Mạnh Trập trước, nói không chừng năm ngàn người ngựa được Công Mạnh Trập điều động tới đã được thuộc về hắn rồi, lúc đó thực lực của hắn tăng lên nhiều, giờ đây để Tề Báo đoạt lấy trước, hắn chỉ có thể làm ra vẻ không có gì mà thôi, bèn cười với Khánh Kỵ nói:

- Công tử lo cho thuộc hạ, giờ hãy đi mau. Chúng ta đón quốc quân hồi cung xong, đợi công tử về thành mới mở tiệc mừng công.

- Như thế rất tốt, Khánh Kỵ đi đây.

Khánh Kỵ thờ ơ đứng trông thái độ đó đã nhìn ra tâm ý của họ, lúc này hắn đang lo lắng cho thuộc hạ của mình ở Thanh Ngõa Quan, nên làm như không biết gì. Công Tử Triều ra lệnh xuống dưới, không lâu sau trong thành chạy ra một chiếc chiến xa do bốn con ngựa tốt kéo, Khánh Kỵ và A Bố thêm hai thị vệ nữa nhảy lên xe, phóng như bay về phía thành Đông.

Khánh Kỵ vừa đi khỏi, ba người Tế Báo túm tụm bàn bạc làm sao ăn nói khi tiếp đón Vệ hầu hồi cung. Công Tử Triều chớp chớp đôi mắt, mỉm cười nói:

- Công Mạnh Trập đã chết, mối đe dọa của chúng ta tiêu tan, đón quốc quân hồi cung, phải ăn nói ra sao còn phải bàn bạc kĩ lưỡng, như vậy đi, chúng ta chi bằng cùng vào cung một chuyến, đi gặp quân phu nhân trước, xin ý kiến của quân phu nhân, thế nào?

Tề Báo cười cười, đáp:

- Quân phu nhân là em gái Tử Triều, Tử Triều cứ đi một mình, có những chuyện nói ra thỏa đáng hơn. Giờ đuổi giết Công Mạnh Trập gấp gáp, trong phủ hắn còn chưa thu dọn, lão phu xin đi lo liệu, tránh xảy ra chuyện gì rắc rối khác nữa.

Bắc Cung Hỉ vốn muốn vào cung, nhưng giờ được Tề Báo nhắc nhở, vội nói:

- Đúng vậy, Tử Triều cứ hỏi ý kiến quân phu nhân trước coi sao, rồi chúng ta mới bàn bạc cách làm thế nào đón tiếp quốc quân khi quay về. Mão và Tề đại phu, xin đi thu dọn bên phủ Công Mạnh Trập trước là hay nhất.

Công Tử Triều như sớm biết bọn họ sẽ trả lời như vậy, tươi cười hớn hở thần sắc bình thường nói:

- Cũng được, vậy Tử Triều xin phép vào cung hỏi ý kiến của quân phu nhân đây, hai vị đại nhân, mời.

Tề Báo và Bắc Cung Hỉ cùng chắp tay, tự dẫn theo người của mình quay về hướng phủ đệ của Công Mạnh Trập. Công Tử Triều quay lại nhìn đám gia tướng của Công Mạnh Trập bị người của mình bắt giữ, thở dài ngao ngán:

- Thu dọn xác chết đi, những người khác hãy tạm thời gi­am giữ lại, băng bó cho người bị thương, còn nữa, không được nhục mạ di thể của Mạnh Trập đại phu, cứ đặt yên đó đã, đợi sau này hẵng xử lí.

Đám thuộc hạ vâng dạ lo liệu ngay, Công Tử Triều phất tay áo một cái, liền đi vào cung đến gặp Nam Tử.

Nam Tử đang đi qua đi lại một mình trong tẩm cung của mình, tâm thần không yên, cuộc tranh đấu ngoài cung, không phải một cô gái như nàng có thể can dự vào được, tuy sai người không ngừng thông báo tin tức, nhưng đi lại phải mất thời gi­an, hơn nữa chưa chắc lên được tường thành, lấy được thông tin sát thực nhất, nàng cũng không biết Công Tử Triều giờ thắng hay thua, trong lúc lo lắng, tâm thần bất định là lẽ đương nhiên.

Chính vào lúc này, thái giám bên ngoài cao giọng thông báo:

- Tử Triều cầu kiến!

- Mau, mau gọi vào đây!

Nam Tử phấn chấn tinh thần, vừa định chạy ra tiếp đón, đi được vài bước lại do dự, quay về ghế ngồi, còn thả tấm rèm che xuống nữa.

Công Tử Triều đi vội vào điện, vừa thấy Nam Tử ngồi ngay ngắn bên trong, tấm rèm vừa được buông xuống, bất chợt hiểu ý mỉm cười. Hắn xua tay cho các thái giám cung nữ lui ra, vui mừng thông báo:

- Nam Tử, Công Mạnh Trập đã chịu chết, chúng ta thành công rồi.

Nam Tử ở phía sau tấm rèm im lặng không lên tiếng, một lúc sau mới thổn thức:

- Tranh đoạt chính trị làm nảy sinh binh đao, từ nay nước Vệ không còn ngày tháng yên ổn.

Công Tử Triều ha hả cười to:

- Thiên hạ chỗ nào cũng vậy, nước Vệ cũng không ngoại lệ đâu? Nam Tử, muội yên tâm, chỉ cần quyền lớn nằm trong tay chúng ta, mặc cho phong ba bão táp lớn thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng vững vàng như núi. Giờ huynh đến gặp muội, có chuyện này muốn bàn bạc với muội, hôm nay khởi binh phản kích Công Mạnh Trập, chỉ là hành động nhất thời lúc ngay ngập, rất nhiều chuyện cũng chưa suy nghĩ chu đáo chuẩn bị tỉ mỉ, Giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, nhưng quốc quân còn đang ở phủ Chử Sư Phổ, bước tiếp theo chúng ta nên làm thế nào?

Nam Tử lạnh nhạt nói:

- Huynh xưa nay túc trí đa mưu, sao mà không nghĩ ra cách gì? Ây, chỉ là cho dù huynh làm tốt đến mấy, phen này cũng đều bị quốc quân ôm hận trong lòng rồi đó.

Công Tử Triều cười ngạo mạn:

- Nay đã khác xưa rồi, hắn cũng chỉ dám ôm hận mà thôi, còn làm được gì nào?

Nam Tử im lặng giây lát, lên tiếng:

- Công Mạnh Trập là anh ruột của quốc quân, địa vị tôn quý, giờ đây huynh chưa được lệnh vua mà giết chết, phải nói ra lí do nghe sao cho hợp lí mới được.

Công Tử Triều chăm chú lắng nghe, nói:

- Huynh hiểu rõ mà, muội không có ý kiến gì khác, huynh đi bàn bạc cách vẹn toàn với đám người Tề Báo đây, rồi mới cung thỉnh quốc quân hồi cung.

Nam Tử rầu rĩ thở dài:

- Cách vẹn toàn ư? Ở đâu ra cách vẹn toàn chứ?

Công Mạnh Triều quay lưng định bước ra ngoài, Nam Tử chợt gọi lại:

- Khoan đã, hãy còn một việc.

Công Tử Triều ngoảnh mặt lại nói:

- Muội nói đi, còn việc gì nữa?

Nam Tử cắn răng, trừng đôi mắt đen láy, hỏi:

- Giờ Công Mạnh Trập đã chết, huynh có định theo thỏa thuận giúp đỡ cho Khánh Kỵ?

Công Mạnh Triều chớp mắt, không đáp mà hỏi ngược lại:

- Muội nói như vậy là có ý gì?

- Khánh Kỵ ở Vệ quốc, một mình chiếm một thành, dẫn đội quân riêng của mình, như con hổ dữ.

Công Tử Triều cười khoan thai:

- Vậy thì đã sao? Muội và ta đang ở Vệ quốc, trên có Vệ quân, các triều thần cũng chưa chắc một lòng với chúng ta, Khánh Kỵ dũng mãnh có một không hai trên đời, hắn nếu như phục quốc, chúng ta có ơn lớn với hắn, lúc đó nước Ngô chẳng trở thành hậu thuẫn lớn cho ta sao, có gì là không tốt chứ?

Nam Tử cười lạnh lùng:

- Nếu cuộc chiến phục quốc của hắn lại thất bại lần nữa thì sao? Con người này mang nặng dã tâm, chịu suốt đời làm chức quan nhỏ ở Ngải Thành của nước Vệ ta sao? Huynh sao biết được hắn thua trận sẽ không toan tính âm mưu khác, làm chuyện gì bất lợi cho huynh?

Ánh mắt Công Tử Triều đột nhiên sắc lạnh, sắc mặt đanh lại, lấy tay che miệng, ho nhẹ vài tiếng, cười nói:

- Nam Tử, muội lo lắng thái quá rồi, nếu có ngày đó, đất trời rộng lớn không còn chỗ cho hắn dung thân, lúc đó hắn không thần phục chúng ta, còn nhờ cậy ai được? Khánh Kỵ nếu đánh thua, con mãnh hổ này sẽ thuộc về chúng ta sử dụng, lúc đó ai muốn chống lại, cũng e sợ Khánh Kỵ mấy phần. Đó là cơ hội tốt mà, muội đâu cần lo nghĩ đến vậy.

- Hây, huynh không bao giờ chịu nghe lời khuyên của muội…

Nam Tử than thở, lại nói tiếp:

- Nếu theo ý muội, giờ đại cuộc đã định, không cần dùng đến hắn nữa, chúng ta đâu cần thiết mạo hiểm, chi bằng huynh dụ hắn vào cung, mai phục binh lính giết chết hắn, làm như vậy lại đẩy hết tất cả tội danh giết Công Mạnh Trập lên người hắn, huynh lại được Vệ hầu tin tưởng trọng dụng, lúc đó thay thế vị trí của Công Mạnh Trập thì dễ dàng hơn nhiều.

Công Tử Triều nghe nói vậy không khỏi động lòng, nhưng suy nghĩ kĩ lại, liền lập tức dẹp bỏ ý định này. Giờ đây tuy Công Mạnh Trập đã chết nhưng xét về thực lực, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ vẫn mạnh hơn hắn nhiều, hắn có gì chứ? Ngoài quan hệ với một bằng hữu liên minh và được sự chiếu cố của quân phu nhân trong cung ra, hắn không còn gì cả, vừa không có binh mã, lại không có đất đai, trước mắt tuy là nắm được vệ binh trong cung và trên thành, nhưng lực lượng trong tay quá yếu, thực sự nắm giữ đội quân này bắt chúng phục vụ còn phải mất một thời gi­an dài. Nếu làm theo lời Nam Tử, hắn mất đi một trợ thủ, đến lúc đó, hắn chỉ làm một tên nô lệ trước mặt Vệ hầu, đâu có con đường nào chọn lựa nữa? Chi bằng cứ theo kế hoạch riêng của mình thì hơn…

Nghĩ đến đó, Công Tử Triều bèn chắc nịch:

- Đại trượng phu đã nói ra, sao lại không giữ lời hứa được? Nam Tử, muội muốn huynh làm người bất nghĩa ư? Hơn nữa trợ giúp Khánh Kỵ, lúc huynh và Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phổ lập ước, đã từng thề trước quỷ thần, giờ mà bội ước, chẳng phải bị ông trời trách phạt sao?

Người thời đó rất là tin vào quỷ thần, lấy chuyện thề thốt ra nói bừa chẳng có mấy ai dám, Nam Tử nghe hắn nói đã thề trước quỷ thần thì không tiện khuyên nhủ nữa, hơn nữa nghe hắn nói trọng chữ tín như vậy trong lòng cũng thấy vui vui. Đối với tên đàn ông vừa yêu vừa hận này, cho dù là Nam Tử túc trí đa mưu, cũng đành chịu đầu hàng, bèn nói:

- Thôi vậy, nhưng lòng hãm hại người khác có thể không có nhưng lòng đề phòng người khác không được buông lơi. Công Mạnh Trập chính là tấm gương đó, huynh không được dung túng cho con mãnh hổ nhe nanh sắc nhọn bên cạnh mình được. Huynh muốn giúp hắn, cũng không phải không được, thế nhưng chuyện lương thảo trang bị huynh phải nắm lấy, không được tùy ý là cho người ta. Khánh Kỵ chiêu binh không phải không được, nhưng phải lấy lí do tránh thanh niên trai tráng nước Vệ tòng quân bỏ bê đồng áng, hạn chế quân số của hắn, làm vậy kiềm chế về binh lực lương thảo của hắn, thế mới an toàn.

Công tử Triều nghe xong vui mừng ra mặt, vội khen:

- Nam Tử quả nhiên thông minh, chủ ý này của muội rất hay, chỉ là…huynh lại không tiện ra mặt chủ động xin nhận lệnh này, đến lúc đó xin quân phu nhân ra mặt ủy thác mệnh lệnh thì tốt hơn.

Nam Tử hứ nhẹ một tiếng:

- Đã đến nước này, muội không giúp huynh có được không?

Công Tử Triều cười ha hả:

- Việc này không nên chậm trễ, huynh đi đến phủ Công Mạnh Trập gặp Tề Báo, Bắc Cung Hỉ bàn chuyện đón tiếp quốc quân hồi cung đây, Nam Tử…, Ây! Thật hy vọng muội và ta cứ như trước đây còn ở Tống quốc, ngắm hoa dưới ánh trăng… Hãy chờ đó, giờ đây huynh đã khống chế cung vệ, thành vệ, đợi huynh gầy dựng quyền lực vững vàng xong, cung thành này có cao đến mấy cũng không ngăn cách được chúng ta đâu.

Nam Tử ngồi trên cao, hai tay nắm chặt xúc động, bên ngoài tấm rèm tiếng bước chân từ từ đi xa, qua giây lát, Nam Tử vén nhẹ tấm rèm lên, để lộ khuôn mặt xinh xắn mịn màng, như đóa hồng hạnh thẹn thùng trước gió, lay động trên cành giữa nắng mùa xuân, đôi mắt tình tứ ngước trông theo bóng người đã đi xa.

Khánh Kỵ vội đến Thanh Ngõa Quan, cùng A Bố cầm ấn tín đại tướng quân xông vào, tiếp quản mọi thứ quân vụ, sau đó dẫn một đội quân ra khỏi quan, Lương Hổ Tử đã sắp xếp người theo dõi quan binh trong quan tiếp ứng Vương Bình, cửa quan vừa mở họ đã nhìn thấy, may là Khánh Kỵ đi ở phía trước, tướng lĩnh dẫn quân trên núi tất nhiên nhận ra công tử nhà mình, vừa thấy Khánh Kỵ, lập tức xuống núi tiếp đón, hai bên gặp mặt, Khánh Kỵ nói rõ đầu đuôi sự tình, mời A Bố tiến lên nói chuyện.

A Bố trước lúc lên đường đã nhận mật lệnh của Tề Báo, vừa có ý định tiếp quản đội quân này, nghe vậy không chút do dự, lập tức dẫn dắt quân trấn giữ trong quan tiến ra, một tay cầm kiếm, tay kia nâng cao ấn tín đại tướng quân lớn tiếng ra lệnh. Quân của Vương Bình không phát huy được sức chiến đấu, lại bị Lương Hổ Tử chiếm ưu thế địa lí, lúc này bị đẩy lùi về cốc khẩu.

Các binh sĩ mặc quân phục Vệ quốc đồng thanh hét lớn mệnh lệnh đại tướng quân, lập tức tạo cơn huyên náo trong quân của Vương Bình, rất nhiều binh sĩ nhìn mặt nhau, hoàn toàn không còn tinh thần chiến đấu, Vương Bình thấy tình thế này, biết tất cả đã được sắp đặt, ấn tín đại tướng quân rơi vào đám người này, nói rõ Công Mạnh Trập đã tiêu đời, lúc này đánh tiếp cũng không còn ý nghĩa, Vương Bình thở dài, chỉ còn cách hạ lệnh ngưng chiến.

Tên A Bố kia được Tề Báo gi­ao phó nhiệm vụ quan trọng như vậy, quả nhiên hắn cũng là một dũng sĩ, hắn quát bảo quân sĩ bên mình ngưng lại, một mình một ngựa đi về phía đại quân của Vương Bình, trên tay cầm chặt ấn tín thanh đồng, quân của Vương Bình thấy hắn chỉ đến một mình, không ai ngăn cản, A Bố để lính dẫn đến trước mặt Vương Bình, đối mặt với vị tướng quân chức vụ lớn hơn hắn không biết bao nhiêu bậc này, cất tiếng lanh lảnh:

- Công Mạnh Trập muốn làm phản, lệnh cho tướng quân dẫn quân về Đế Khâu. Nay Công Mạnh Trập đã bị tiêu diệt, tề Báo đại phu lệnh ta đến đây thông báo tướng quân, cứ đóng quân ở đây, đợi mệnh lệnh sau!

Quân đội của Vương Bình im lặng, ánh mắt của tất cả binh lính đều nhìn về phái Vương Bình, sống hay là chết, chết để báo đền ân đức tri ngộ của Công Mạnh Trập, hay là nương theo thời thế, đầu hàng môn hạ Tề Báo, Vương Bình nhất thời phân vân không biết quyết định thế nào.

Các tướng lĩnh dưới trướng Vương Bình sắc mặt thay đổi, A Bố đang đứng giữa lòng quân Vương Bình, giờ chỉ cần Vương Bình hạ lệnh một tiếng, các thân binh lập tức ùa lên phanh thây A Bố, nhưng thấy A Bố vẻ mặt ung dung, tay cầm ấn tín không hề cử động.

Sau một lúc lâu, Vương Bình thần sắc chuyển động, từ từ thở ra một hơi dài, buông lơi thanh kiếm dưới lưng, bước về phía trước, đến trước mặt A Bố, gập người quỳ xuống, chắp tay theo nghi lễ quân đội một cách trang trọng:

- Vương Bình xin tuân lệnh Tề đại phu.

Các tướng lĩnh dưới trướng Vương Bình đều thở phào nhẹ nhỏm, vẻ mặt nghiêm nghị của A Bố giờ cũng giãn ra để lộ nụ cười:

- Tốt, A Bố sẽ bẩm báo lại đúng sự thật, Vương tướng quân cứ hạ trại gần đây, lương thảo Tề đại phu đã dặn dò phía Thanh Ngõa Quan cung cấp, tướng quân cứ phái người đến lấy, tin là chỉ hai ba ngày sau, Đế Khâu sẽ có quân lệnh ban ra đưa tới đây.

- Vương Bình tuân lệnh!

Lúc này Khánh Kỵ đã hội hợp với đám người Lương Hổ Tử, A Cừu, Tái Cừu. Vừa nhìn thấy Khánh Kỵ, Lương Hổ Tử đã tiến tới trước mặt hành lễ, Khánh Kỵ đỡ lấy vai hắn, thấy hắn mình đầy máu me, vội vàng hỏi thăm:

- Quân ta thương vong thế nào rồi?

Lương Hổ Tử cũng cùng lúc cất tiếng hỏi:

- Công tử, đại sự ở Đế Khâu thế nào?

- Công tử!

Hai anh em A Cừu, Tái Cừu tinh thần phấn chấn, sau trận đại chiến hãy còn sung sức, chạy đến bên Khánh Kỵ lớn tiếng kêu lên.

Khánh Kỵ gật đầu cười đáp lễ với họ, lại nói với Lương Hổ Tử:

- Bên Đế Khâu mọi việc đều như ý, Công Mạnh Trập đã chịu chết, ở đây thế nào rồi?

Lương Hổ Tử nghe vậy ha hả cười to:

- Ha ha, công tử yên tâm, người Vệ giỏi xa chiến, chiến đấu trong rừng không phải thế mạnh của họ, chúng ta lại chiếm lấy ưu thế địa lí, ung dung đợi quân địch đến đánh, đánh cho chúng thua chạy tan tác. Về phía chúng ta, tình hình cụ thể chưa được báo cáo, nhưng người của chúng ta tổn thất không nhiều.

Khánh Kỵ vui mừng:

- Thế thì tốt, chỗ này không phải là chỗ để nói chuyện, nào nào, mau khiêng hết các huynh đệ bị thương của chúng ta vào trong quan băng bó trị thương, tất cả huynh đệ đều nghỉ ngơi trong quan.

- Dạ! Không nghe thấy mệnh lệnh của công tử sao? Mau đi tập hợp người ngựa, tất cả vào quan nghỉ ngơi.

Lương Hổ Tử quay đầu hét lên với A Cừu, Tái Cừu, hai anh em họ nhận lệnh lui xuống. Lương Hổ Tử đứng cạnh Khánh Kỵ bên đường, nhìn người ngựa của mình đi ngang, các huynh đệ bị thương đều được khiêng vào trong quan trước, các quân sĩ tử trận thì được chôn cất ngay trong rừng.

- Ôi! Vẫn biết là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (để làm nên chiến công của một vị tướng có hàng vạn binh sĩ hy sinh), nhưng mỗi khi nhìn thấy các huynh đệ tốt vẫn nói cười ngày nào nay đã biến thành cái xác vô tri vô giác, trong lòng không khỏi nhói đau.

Khánh Kỵ nức nở.

Bên ngoài cốc gió mạnh thổi vù vù, làm mái tóc dài phía sau lưng của Khánh Kỵ bù xù cả lên.

Lương Hổ Tử khắp người hào khí, khẳng khái:

- Công tử không cần sầu cảm, sống trên đời ai mà không phải chết? Chết oanh liệt như thế còn mong gì hơn. Chỉ cần công tử quang phục Ngô quốc, bước lên ngôi vua, thì máu các huynh đệ đây không uổng phí. Bên Đế Khâu Công Mạnh Trập chết là tốt rồi, không uổng công các huynh đệ chiến đấu ở đây, sau này chuyện chúng ta khỏi vướng tay vướng chân rồi.

Khánh Kỵ mỉm cười:

- Vậy thì chưa chắc, nói không chừng còn phát sinh sóng gió khác.

Lương Hổ Tử ngớ mặt ra:

- Sao? Chẳng lẽ…Bọn họ nuốt lời à?

Khánh Kỵ nói:

- Nuốt lời thì chưa chắc, thế nhưng muốn họ thật lòng ra sức giúp đỡ chúng ta, thì không dễ dàng thoải mái thực hiện được đâu.

Khánh Kỵ vỗ vai Lương Hổ Tử:

- Đi nào, chúng ta vào quan trước, mua chút rượu thịt uống say thỏa thích cùng các huynh đệ, sau đó các ngươi cứ nghỉ ngơi trong đó, đợi khi ta có lệnh mới về Ngải Thành, ta còn phải quay về Đế Khâu có việc.

Khánh Kỵ hít một hơi dài, đôi mắt oai phong lẫm liệt, nói:

- Lúc này chính là lúc bọn Công Tử Triều, Tề Báo phân chia quyền lợi đây, chúng ta bỏ ra đáng nhận vào cũng phải bắt họ chi trả đầy đủ, thế mới không uổng công các huynh đệ đã hy sinh.

Khánh Kỵ nghỉ lại một đêm ở Thanh Ngõa Quan, sắp xếp yên ổn quân sĩ xong, trước mặt Lương Hổ Tử hắn lộ vẻ yếu đuối, trước mặt các quân sĩ hắn không hề bộc lộ vẻ nhân từ. Thân làm tướng lĩnh, có thể quan tâm binh lính nhưng không được mất đi vẻ nghiêm nghị, càng không được rơi nước mắt. Có câu nhân từ không thích hợp việc binh đao, một tướng lĩnh quá nhân từ trong việc dùng binh, có thề các binh sĩ tướng lĩnh dưới trướng cảm thấy hắn lương thiện, nhưng oai phong uy tín của hắn cũng theo đó tan biến, làm như vậy là một hành động nguy hiểm.

A Bố cả ngày bám theo Vương Bình nhìn hắn chỉnh đốn binh mã, hắn đương nhiên không thể vì vài câu nói phục tùng của Vương Bình mà tin theo. Vương Bình không nhận thêm lệnh mới, e cũng không chịu nán lại đợi lệnh ở Thanh Ngõa Quan lâu hơn. Đợi sau khi Vương Bình thu dọn tàn quân đến hạ trại bên bờ sông ngoài sơn cốc xong, A Bố mời Vương Bình vào trong lều nói chuyện, hai người nói hết ba nén nhang, Vương Bình vẻ mặt vốn âm u nay hớn hở bước ra, lại triệu tập các tướng cùng vào nói chuyện với A Bố. Đội quân nhận lệnh đến Đế Khâu truy sát Tề Báo, Bắc Cung Hỉ nay lại trở thành đội quân tận trung với Tề Báo. Đến hoàng hôn, hai bên đã cụng ly thân thiết như người một nhà, nói cười vui vẻ với nhau.

Hôm sau, A Bố hớn hở sau khi hoàn thành sứ mệnh cùng Khánh Kỵ đi xe về thành. Lúc này chính trị trong thành Đế Khâu chưa ổn định, vẫn còn canh phòng nghiêm ngặt, cầu treo đưa cao, tường thành lính canh qua lại không ngớt, A Bố hét to thông báo, lại treo tín vật của mình đưa lên, độ khoảng một nén nhang trôi qua, cầu treo mới từ từ hạ xuống, cổng thành rộng mở, đón hai người vào trong.

Chiến xa tiến vào trong thành, đập vào mắt là cả trăm tên lính cầm giáo mác xếp hàng chỉnh tề đứng đó, khí thế dũng mãnh như ngọn núi chắn trước mặt, A Bố hãy còn nghi hoặc, đám lính bỗng cùng lúc tách ra hai bên nhường đường, phía xa Công Tử Triều đang bước xuống từ trên tường thành, tay cầm bảo kiếm, mặt mày hớn hở.

Khánh Kỵ lần này về thành, không mang theo một binh một tốt của mình, thấy Công Tử Triều từ xa, cũng mỉm cười đáp lại rồi nhảy xuống xe, ngang nhiên bước đi giữa hai hàng lính giơ cao ngọn giáo.

- Công tử, mọi việc bên Thanh Ngõa Quan đều tốt đẹp chứ?

- Rất tốt!

Khánh Kỵ cười hô hố:

- Tướng lệnh của Tề Báo đại nhân vừa đến, tướng lĩnh Hoàng Hà Vương Bình biết mọi chuyện đã hết, ngoan ngoãn đầu hàng, giờ đã theo ý Tề đại nhân, hạ trại tại chỗ, đợi Đế Khâu sắp xếp coi sao.

- Ồ, thế thì tốt, ha ha, thế thì tốt.

Công Tử Triều thoáng chút khó chịu nhưng trở lại bình thường ngay lập tức, tay nắm kiếm lướt lên tháo dây đeo ra, hai tay nâng thanh kiếm lên nói:

- Phấn hồng tặng gi­ai nhân, bảo kiếm dâng anh hùng, thanh bảo kiếm này là tịch thu từ phủ đệ Công Mạnh Trập, sắc bén vô cùng, là danh kiếm của Vệ quốc ta, anh hùng trên thế gi­an, chỉ có công tử Khánh Kỵ là xứng với thanh kiếm này, nay Tử Triều hai tay dâng tặng.

Nói xong Công Tử Triều hai tay dâng thanh bảo kiếm đến trước mặt Khánh Kỵ, Khánh Kỵ mỉm cười:

- Tử Triều đứng đợi ở đây, chỉ vì muốn tặng kiếm cho ta thôi ư?

Tử Triều cười ha hả, ánh mắt quét qua vai Khánh Kỵ, thấy A Bố đang bước tới gần, bèn nhét thanh bảo kiếm vào tay Khánh Kỵ, khoát lấy tay hắn nói:

- Công tử vừa về đến, lát nửa chúng ta lên xe nói chuyện.

Nói xong bỏ tay ra đi về phía A Bố, thăm hỏi qua loa vài câu, A Bố cám ơn xong tự đi gặp Tề Báo phục mệnh.

Hắn mới quay lưng, nét mặt hớn hở của Công Tử Triều lập tức đanh lại, hắn mời Khánh Kỵ lên xe, hai người cùng ngồi một xe quay về. Khánh Kỵ vừa nhảy vào xe đã hỏi ngay:

- Công tử, giờ làm sao giải quyết tốt tình hình Đế Khâu đây?

Công Tử Triều đáp:

- Tử Triều và Tề đại phu, Bắc Cung đại phu, Chử đại phu đã bàn xong kế sách, sáng ngày mai chúng ta sẽ đi gặp quốc quân, tâu rõ tội trạng đáng chết của Công Mạnh Trập, cung thỉnh quốc quân hồi cung chấp chính.

Khánh Kỵ biết ba người đã bước đầu thỏa thuận xong cách phân chia quyền lực, hành động này chỉ là thúc ép vua, để lấy lí do danh chính ngôn thuận cho mình, lại lên tiếng hỏi:

- Giết chết gi­an thần Công Mạnh Trập, Tử Triều và Tề Báo, Bắc Cung Hỉ ba vị đại nhân có công lao lớn nhất, Vệ hầu hồi cung, chắc sẽ trọng dụng, đến lúc đó, việc của Khánh Kỵ…

Công Tử Triều hiểu ý, cười hi hí đáp:

- Công tử yên tâm, quân tử đã nói ra, sao dám nuốt lời. Tử Triều và Tề đại phu cũng đã bàn bạc chuyện này, hơn nữa còn hết lời thuyết phục, cuối cùng quân phu nhân đã đồng ý, điều kiện chúng ta thỏa thuận trước đây, chắc chắn làm theo đầy đủ, tuyệt đối không đổi ý.

Khánh Kỵ vui mừng:

- Như thế rất tốt.

Công Tử Triều hơi chút do dự, sắc mặt lộ vẻ khó xử:

- Có điều…có chút thay đổi nho nhỏ, rất mong công tử đừng trách.

Trong lòng Khánh Kỵ hơi ngỡ ngàng, nhưng vẫn không để lộ ra, cười mỉm:

- Quốc gia đại sự, vốn phải tùy thời điểm điều chỉnh cho phù hợp, Khánh Kỵ đương nhiên hiểu đạo lí này, không biết có thay đổi gì, Tử Triều cứ nói ra nghe xem.

Công Tử Triều ha ha cười lớn, làm ra vẻ thoải mái nói:

- Thật ra cũng không có gì, công tử binh hùng tướng mạnh, đóng ở nước Vệ ta, quân phu nhân dù sao cũng là nữ nhân, trong lòng khó tránh không yên, ngờ vực lung tung. Tuy Tử Triều đã lựa lời nói giúp, quân phu nhân vẫn không yên lòng được, thế nên…Nàng ta đối với điều kiện của công tử đưa ra, phải thêm chút bảo đảm nho nhỏ, nàng ta mới đồng ý thực hiện.

Công Tử Triều đem chuyện viện trợ lương thảo trang bị, cần phải chia ra cung cấp, còn phái quan viên chuyên trách quản lí, Khánh Kỵ chiêu binh không được tuyển chọn số lượng lớn thanh niên trai tráng của nước Vệ để tránh bỏ hoang ruộng đồng, và các binh lính đầu quân Khánh Kỵ cũng phải được quan viên chuyên trách phê chuẩn mới được từng chuyện từng chuyện nói rõ với Khánh Kỵ.

Vừa nói hắn vừa quan sát vẻ mặt của Khánh Kỵ, ai ngờ Khánh Kỵ không lộ vẻ gì là không vui, nghe đến đâu lại gật gù đến đấy, đợi khi Công Tử Triều nói xong xuôi, Khánh Kỵ mới mỉm cười:

- Thì ra là vậy, cái này ta có thể hiểu được, nếu đổi lại Khánh Kỵ là vua của một nước, cũng không thể phó mặc hoàn toàn cho một đội quân không thuộc quản lí của ta tự do hoạt động trong lãnh thổ của ta được.

Công Tử Triều không nhìn ra thái độ thật sự của Khánh Kỵ, đành cười gượng nói:

- Công tử nói phải lắm, nhưng mà…Công tử có thể yên tâm, Tử Triều nghe sắp xếp của quân phu nhân xong đã đứng ra xin nhận trách nhiệm phụ trách hai việc này. Quân phu nhân không biết ta và công tử gi­ao tình sâu nặng, ta là huynh trưởng nàng ta, có gì mà không tin tưởng chứ, nên đã gi­ao hai việc này cho Tử Triều lo liệu rồi. Tử Triều đã quản lí hai việc này thì, chắc chắn tạo mọi thuận lợi cho công tử hành sự, hai điều kiện kèm theo này, có cũng như không, công tử không cần quá để tâm.

Khánh Kỵ khẽ nhướng mày lên, cười đáp:

- Như thế rất tốt, có Tử Triều huynh đứng ra lo liệu giúp, Khánh Kỵ còn lo lắng gì nữa.

Phân chia lợi ích, vốn cần công bằng, nhưng được nhiều được ít, lại phải xem thực lực. Làm thế nào lấy được phần mình đáng nhận còn phải xem thủ đoạn mỗi bên, chứ không cần nói nhiều làm chi, chỉ trong giây lát đó, trong lòng Khánh Kỵ đã nảy ra một kế hoạch.

Khánh Kỵ cười vẻ uy nghi, câu nói này bề mặt nghe có vẻ khách sáo, Công Tử Triều nghe xong lại run bật trong lòng, có hơi chút lo lắng không yên, cũng không biết tại sao lại như vậy, tuy hắn không biết nói thế nào nhưng cứ có một cảm giác hối hận mất nhiều hơn được sao sao ấy.

Khánh Kỵ nhận lời mời của Công Tử Triều, đến gặp mặt Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phổ, tất cả nâng ly uống thỏa thích, chắc là vì bốn người bọn họ đã thỏa thuận phân chia quyền lực xong, những chuyện không vui được bỏ lại phía sau hết, lại khôi phục không khí hòa thuận lúc mới liên minh, tiệc rượu vui vẻ kết thúc, đám người Tề Báo ngày mai còn phải đến thúc ép Vệ hầu hiện đang bị gi­am giữ ở phủ Chử Sư Phổ, do đó tiệc tàn khá sớm, Khánh Kỵ cũng được Công Tử Triều đưa lên xe chở về phủ Di Tử Hạ nghỉ ngơi.

Vừa bước vào cửa, Khánh Kỵ đã hỏi lão quản sự:

- Tử Hạ có trong phủ không? Vị cô nương ta dẫn về hôm trước thế nào rồi?

Hôm đó hắn để Di Tử Hạ về phủ trước, đã nói chuyện của Quý Tôn Tiểu Man cho Tử Hạ nghe qua, nhờ Tử Hạ chăm sóc cẩn thận Tiểu Man, chỉ là đừng cho nàng ta bỏ trốn, nhưng cô nương này ranh ma như cáo, hắn sợ Di Tử Hạ tính tình bộc trực không đối phó được nàng ta.

Lão quản sự giờ đây đã biết thân phận thật của hắn, vội khúm núm:

- Chủ nhân đang ở trong phủ, công tử quay về đi uống rượu với Tề đại phu, chủ nhân cũng đã biết, vừa nãy mới đến gặp Tiểu Ngải cô nương báo tin này ấy, lúc này chắc vẫn còn ở đó.

- Ờ, Tiểu Ngải cô nương…nàng ta không gây ra chuyện gì chứ, hay là vẫn còn trói nàng ta lại?

Lão quản sự theo sát sau lưng Khánh Kỵ, tươi cười trả lời:

- Đã là khách quý của công tử dẫn theo, sao dám trói lại ạ, đã trói hai ngày rồi, trói nữa sẽ tiêu đó. Chủ nhân vừa về đến đã cởi trói cho nàng ta rồi ạ, Tiểu Ngải cô nương thấu tình đạt lí, lại dịu dàng biết lễ nghĩa, là một cô nương hiền thục, chưa hề gây ra chuyện ạ.

- Nàng ta..thấu tình đạt lí, dịu dàng biết lễ nghĩa, là một cô nương hiền thục ư?

Khánh Kỵ sém chút cắn phải lưỡi, Quý Tôn Tiểu Man thay đổi tính tình rồi ư? Hay là…Nàng ta thấy Di Tử Hạ khôi ngô tuấn tú, động lòng yêu mến rồi, nên mới giả làm thục nữ trước mặt hắn? Tuổi tác hai người tương đương, đó cũng không phải là việc không thể xảy ra.

Khánh Kỵ suy nghĩ lung tung, đi nhanh về phòng mình, lúc đi qua khu vườn quay đầu lại nhìn thấy lão quản sự thở hổn hển theo phía sau, vội nói:

- Lão quản sự ông đi lo việc của ông đi, bổn công tử giờ không cần ai hầu hạ đâu.

- Dạ, vâng ạ.

Lão quản sự thế mới dừng bước, gật đầu lia lịa.

Khánh Kỵ bước vào đầy cửa phòng ra, gọi to:

- Tử Hạ?

Trong phòng không ai lên tiếng, Khánh Kỵ lập tức đi qua bức bình phong, chỉ thấy trên ghế một người nằm đó, tấm mền che mặt, chỉ lòi đôi chân ra, ngoài ra trong phòng không còn ai khác, đinh ninh rằng:

- Di Tử Hạ lại trói Tiểu Man lại rồi.

Hắn bước về phía ghế nằm, vén mền ra xem chợt giật mình, chỉ thấy Di Tử Hạ mặt mũi sưng vù, hai tay bị trói ngược sau lưng nằm ngây đơ, miệng thì bị nhét một nùi vải, hai mắt mở to nhìn hắn, trông rất thảm hại. Mái tóc bù xù nhìn cũng rất giống một tiểu cô nương.

Khánh Kỵ thấy vậy vừa tức giận vừa tức cười, dậm chân nói:

- Đã bảo huynh phải mang theo võ sĩ bên mình rồi, Ây, rốt cuộc cũng bị nàng ta chơi cho một vố, giờ đây khắp Đế Khâu binh hoang mã loạn, một cô nương nhỏ tuổi như nàng ta lại chạy đi đâu chứ, thật là làm người khác lo lắng.

Vừa nói, Khánh Kỵ vừa lấy nùi vải nhét trong miệng Di Tử Hạ ra, Di Tử Hạ hổn hển hít thở một hồi, la to thất thanh:

- Trên đầu!

- Cái gì?

Khánh Kỵ ngớ người, lập tức tỉnh ngộ, bước chân lùi lại, đưa tay rút kiếm, đồng thời ngước nhìn lên trần nhà, thấy một bóng đen lướt nhanh tới, chợt cảm thấy gió lạnh sau gáy, Khánh Kỵ thúc cùi trỏ về phía sau, cú đánh này không trúng ai, Khánh Kỵ vốn đang đeo hai thanh kiếm, một thanh là Hàm Quang, thanh kia là Thừa Ảnh, hắn vừa nắm được chuôi một thanh kiếm, kiếm kia đã bị bóng đen cướp lấy, tiếp sau đó thanh kiếm kề ngang ngay cổ họng Khánh Kỵ, bên tai tiếng nói đắc ý của Quý Tôn Tiểu Man vang lên:

- Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, cuối cùng ngươi cũng rơi vào tay ta, ân hộ tống Tiểu Ngải đã đền đáp, mối nhục trói ta, hôm nay phải trả, thế nào?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Phần thứ 243 244 245

Chương 174: Lật lọng (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Nghe Quý Tôn Tiểu Man nói vậy, Khánh Kỵ không biết nên khóc hay nên cười nữa, lên tiếng:

- Nha đầu thối, vì biết là ngươi nên ta mới không xuất kiếm đả thương ngươi, nếu không ngươi cho là có thể khống chế ta dễ dàng thế ư? Còn không mau bỏ kiếm xuống.

Quý Tôn Tiểu Man dương dương đắc ý:

- Ít huênh hoang lại đi, ngươi rơi vào tay ta đó là sự thật, ai biết là có phải ngươi thật lòng nương tay không chứ?

Khánh Kỵ gầm gừ:

- Thế Tiểu Ngải cô nương muốn trả thù thế nào đây?

- Ngươi đã làm gì ta, giờ ta trả lại thế nấy.

- Ồ?

Khánh Kỵ cười ha hả, vẻ mặt gi­an trá:

- Giờ đã rơi vào tay nàng, tùy nàng muốn làm gì thì làm vậy, mông ta ở đây, cô nương cứ ra tay đi.

- Hứ! Ai mà thèm đánh mông của ngươi chứ!

Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt tía tai: “Ta muốn…ta muốn…”. Nghĩ kĩ lại, tuy là đã khống chế Khánh Kỵ, nhưng lại chưa nghĩ ra nên trừng trị tội hắn sỉ nhục mình thế nào cho phải.

Di Tử Hạ vẫn nằm trên giường, hai con mắt láo liên qua lại, trong lòng tò mò muốn biết đầu đuôi chuyện ân oán của hai người này sao lại liên quan đến mông đít, chỉ là hắn đã được lãnh giáo tính tình ngang bướng của tiểu mỹ nhân nhìn vẻ nhu mì này rồi, nên tự biết thông minh ngậm miệng không dám lên tiếng nói chen vào.

Khánh Kỵ cười ha hả:

- Nếu như nàng chưa nghĩ ra cách gì, hay là để ta trừng phạt nàng vậy nha.

Khánh Kỵ vừa dứt lời đưa tay ra sau tấn công, nắm lấy cổ tay Quý Tôn Tiểu Man một cách chuẩn xác, đoạn xoay người, tay nắm lại mạnh hơn, Quý Tôn Tiểu Man bị nắm đau, không tự chủ được ngả về trước, làm ra động tác cúi lưng ưỡn mông lên, cứ như là đang mời gọi hắn đánh mình. Khánh Kỵ không cần nể nang vỗ bôm bốp vào mông Tiểu Man, lại tận hưởng cảm giác mềm mại đàn hồi của cái mông đó.

“Bốp!” một tiếng giòn vang, mặt Quý Tôn Tiểu Man bị bàn tay quét qua một cái, đỏ chót từ chóp mũi đến tận mang tai, lần này không như lần trước, trong phòng lúc này đang có mặt người thứ ba, Tiểu Man xấu hổ tức giận hét lên:

- Ngươi…ngươi dám vô lễ với ta lần nữa ư?

Cổ tay Tiểu Man bị Khánh Kỵ nắm giữ, thân người hãy đang chúi về phía trước, Khánh Kỵ cười hô hố khoái trá:

- Đã có lần đầu, sợ gì không tiếp lần hai nào?

Hắn vừa chọc tức vừa đưa tay còn lại lấy lại thanh kiếm còn chưa tuốt vỏ ra trên tay Tiểu Man, nhe răng cười:

- Ai bảo nàng không tuốt kiếm ra khỏi vỏ, chẳng lẽ thanh kiếm kề trên cổ có tuốt vỏ ra chưa mà ta không nhận ra à?

Quý Tôn Tiểu Man tức anh ách nói:

- Nếu không phải ta không muốn giết ngươi, sao lại không tuốt kiếm ra?

Khánh Kỵ cười khảy trêu chọc:

- Không phải chứ? Ta thấy nàng không kịp tuốt kiếm ra thì có.

- Nói bậy, đồ không có lương tâm!

Quý Tôn Tiểu Man bị trêu tức giận dậm chân đùng đùng.

Khánh Kỵ khẽ nhấp vai nói tiếp:

- Ít huênh hoang lại đi, ngươi rơi vào tay ta đó là sự thật, ai biết là có phải ngươi thật lòng nương tay không chứ?

Câu nói này nói lại y chang lời Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy, Quý Tôn Tiểu Man nghẹn lời không biết đáp trả thế nào.

Khánh Kỵ mỉm cười buông tay ra, Quý Tôn Tiểu Man tự hiểu nếu không phải đánh lén, mình tuyệt đối không phải là đối thủ của hắn, hắn đã có phòng bị, nên không muốn ra tay tiếp bị hắn trêu chọc nữa. Tiểu Man đứng yên tại chỗ trừng mắt tức giận nhìn Khánh Kỵ, xoa xoa cổ tay đau nhức, bỗng nhìn thấy Di Tử Hạ đang nằm trên giường, vẻ mặt như đang cười nhạo mình, bèn đem tức cả bực tức trút lên người hắn:

- Tên tiểu tử thối này, nhìn cái gì mà nhìn, chuyện hôm nay ngươi mà dám nói ra ngoài nửa câu, bổn cô nương thề lấy mạng chó nhà ngươi.

Di Tử Hạ hoảng sợ, vội vàng nói:

- Không dám không dám, quân tử sao lại nói xấu sau lưng người khác được. Di Tử Hạ này tuyệt nhiên không tiết lộ nửa câu với người ngoài đâu.

Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng, lại quay qua Khánh Kỵ, ra lệnh:

- Trả bảo kiếm cho ta.

Khánh Kỵ cười, tra kiếm vào vỏ, xoay chuôi kiếm lại về phía Tiểu Man, Quý Tôn Tiểu Man hậm hực đón lấy, vừa định nhét vào ngang hông, bỗng nhìn thấy trên chuôi kiếm có ghi chữ, kêu lên:

- Đây không phải là kiếm của ta…Hử? Hàm Quang kiếm!

Khánh Kỵ “A!” lên một tiếng:

- Hai thanh kiếm giống y nhau, ta cũng không để ý.

Nói xong tháo thanh kiếm còn lại đưa qua cho Tiểu Man.

Quý Tôn Tiểu Man cảm thấy lạ, bèn lên tiếng hỏi:

- Hàm Quang kiếm sao lại ở trong tay ngươi? À, đúng rồi, chắc là ngươi lấy của Công Mạnh Trập.

Khánh Kỵ tươi tắn đáp:

- Đúng rồi, đây đúng là Hàm Quang kiếm, nhưng không phải là ta lấy, mà là Công Tử Triều tặng cho ta. Nào, trả kiếm kia cho ta.

Quý Tôn Tiểu Man xoay tròn đôi mắt, rút tay lại giấu sau lưng, điêu ngoa:

- Không trả, Hàm Quang Thừa Ảnh kiếm chia làm thư hùng, ngươi không giỏi kiếm pháp, lấy hùng kiếm làm gì, nếu muốn, thanh thư kiếm này thuộc về ngươi.

Thư hùng kiếm có hai loại, một là kiếm có thể chia ra đựng, cũng có thể làm một vỏ kiếm đặc biệt, cùng lúc tra được hai thanh kiếm vào. Còn loại thư hùng kiếm thứ hai, chuôi kiếm bằng, lưỡi kiếm một bên bằng phẳng, một bên có gờ, hai kiếm có thể hợp lại làm một.

Hai thanh kiếm Hàm Quang Thừa Ảnh thuộc loại một, chia nhau ra đựng trong hai vỏ kiếm khác nhau, tuy mang danh thư hùng kiếm, nhưng về chất liệu chế tạo không có gì khác biệt, Khánh Kỵ sao lại tranh giành không thôi hai thanh kiếm với một cô nương chứ, chỉ thấy hắn ha hả cười to:

- Thôi được, nàng đưa con mái (“thư kiếm”, ở đây Khánh Kỵ cố ý nói vậy để trêu chọc) cho ta vậy.

Di Tử Hạ nằm trên giường nghe Khánh Kỵ cố tình nói sai, không kiềm chế được bật ra tiếng cười, Quý Tôn Tiểu Man lập tức trợn mắt lên liếc về phía hắn:

- Cười gì đó? Có phải vừa nãy bổn cô nương đánh ngươi quá nhẹ không hả?

Di Tử Hạ vội ngậm miệng lại, làm ra vẻ biết lỗi, trong bụng lại thầm trách móc:”Chỉ giỏi dữ với ta thôi, người kia đánh vào mông nàng, lại không thấy nàng trợn mắt với hắn.”

Quý Tôn Tiểu Man tự nghĩ phen này đã lời to, lập tức hết giận Khánh Kỵ, vui vẻ đưa Thừa Ảnh kiếm về phía hắn, Khánh Kỵ đón lấy nhét ngang hông, cảm thấy tức cười khẽ lẩm bẩm:

- Nữ nhân thật là khiến người ta khó hiểu, hai thanh kiếm giống hệt nhau, phân biệt thư hùng gì chứ, đeo thư kiếm ta cũng là nam nhân, còn nàng đeo hùng kiếm, cũng là nữ nhân, đâu có gì thay đổi.

Quý Tôn Tiểu Man dương dương tự đắc, hứ nhẹ một tiếng đeo kiếm lên người cứ như là bảo vật trời ban vậy, cũng không thèm tranh cãi với Khánh Kỵ. Nhưng Tiểu Man chợt nhớ ra thư hùng kiếm vốn là một cặp, giờ nàng và Khánh Kỵ mỗi người giữ một thanh…Nghĩ đến đây không hiểu sao một cảm giác khó tả dâng lên trong lòng, trái tim Quý Tôn Tiểu Man bất chợp đập mạnh liên hồi.

Thanh hùng kiếm này vốn nằm trong tay Công Mạnh Trập, khi đó cũng không thấy Tiểu Man có suy nghĩ lung tung này, giờ đây nó thuộc về Khánh Kỵ, Tiểu Man lại cảm thấy ấm ức.

- Thôi được, bổn cô nương rộng lượng, nể tình ngươi đem thanh Hàm Quang kiếm này dâng lên cho ta, ân oán chúng ta coi như xóa bỏ, ta phải đi đây.

Quý Tôn Tiểu Man ra vẻ cao thượng nói một tràng xong quay lưng định bỏ đi.

- Hãy khoan, giờ nàng không về nước Lỗ được, Công Mạnh Trập thì đã chết, nàng còn định phiêu bạt khắp nơi sao? Giống như vừa nãy ta bị nàng khống chế vậy, tuy nàng thông minh lanh lợi, lại giỏi kiếm thuật, nhưng một thân một mình hành tẩu gi­ang hồ, hễ có chút sơ suất rơi vào tay người khác, với một cô nương mỹ miều như nàng, nên có kết cục nào nhỉ?

Quý Tôn Tiểu Man vốn định cất bước ra đi, không thèm để ý hắn có ngăn cản hay không, nhưng nghe hắn nói những lời này, đôi chân không tự chủ được dừng ngay lại, nhớ lại vừa rồi khi đang giấu mình trên trần nhà, Khánh Kỵ cũng có nói ra những lời quan tâm nàng với Di Tử Hạ, nếu là vậy thì tên Khánh Kỵ này cũng thật lòng quan tâm đến nàng, nghĩ thế Quý Tôn Tiểu Man chợt thấy ấm áp trong lòng, giọng điệu cũng theo đó mềm mỏng xuống, làm bộ trách cứ:

- Ta vốn đang yên đang lành ở phủ Công Mạnh Trập, chỉ tại ngươi đến hại hắn…

Nói đến đây, Tiểu Man chợt phát hiện ra mình đang dịu giọng, bèn ưỡn ngực ra, ra vẻ tức tối bất cần:

- Ngươi không cần lo cho ta, bổn cô nương một mình phiêu bạt gi­ang hồ cũng không phải mới ngày đầu, cũng chưa thấy ai dám làm gì ta cả.

Khánh Kỵ ho nhẹ vài tiếng, vẫn không yên tâm cho nàng ta tự ý phiêu bạt một mình. Mấy lần tiếp xúc, hắn nhận ra Tiểu Man là một cô bé ngang bướng, nhưng lại ngây thơ đáng yêu, lại nghĩ tới nàng ta từ nhỏ đã mất mẹ, thiếu thốn tình cảm, nhỡ như nàng ta gặp phải bất trắc gì, hoặc bị giết chết hoặc bị rơi vào tay kẻ xấu hủy hoại danh tiết, lương tâm Khánh Kỵ khó tránh khỏi ray rứt. Hắn suy nghĩ chu đáo, nhớ ra Quý Tôn Tiểu Man giỏi về kiếm thuật, bỗng đấm mạnh tay một cái, mở lời:

- Có rồi, ta có ý này, cô nương kiếm thuật siêu phàm, nàng đã làm một kiếm khách trong phủ Công Mạnh Trập được, sao lại không đảm nhận chức tướng quân trong quân đội của ta được chứ?

- Hử?

Quý Tôn Tiểu Man ngạc nhiên mở to miệng, ngập ngừng hỏi lại:

- Làm…làm tướng quân? Ta hả?

- Thế nào, cô nương tự cảm thấy mình không đủ sức đảm nhận à?

- Sao lại không?

Quý Tôn Tiểu Man nảy tính hiếu thắng, lập tức vỗ ngực kiêu ngạo nói:

- Trên đời này có việc gì là ta không làm được chứ? Cho dù ngươi mời ta đến nước Ngô làm vua, ta vẫn cứ ung dung làm tốt hết.

Đôi ngực mới lớn của Tiểu Man hãy chưa nhô cao, nhưng lại tràn đầy sức sống và vẻ quyến rũ lạ thường. Khánh Kỵ nhìn không chớp mắt, quả thật muốn vỗ một cái vào ngực vị nữ binh này coi sao, bông đùa:

- Tiểu quỷ này, cơ ngực luyện săn chắc nhỉ.

Khánh Kỵ khoái chí cười to:

- Thế là tốt, nàng dù sao giờ cũng không có chỗ nào để đi, chi bằng cứ giữ một chức tướng quân trong quân ta, giúp ta truyền dạy kiếm thuật cho binh sĩ, nhưng nàng yên tâm, ta không để một cô nương ra chiến trường đâu, nàng chỉ phụ trách dạy kiếm thôi, sau này khôi phục Ngô quốc, ta sẽ ghi một công lớn cho nàng.

Thu nạp được giáo đầu võ nghệ cao cường như Quý Tôn Tiểu Man, Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, lúc này vội đến cởi trói cho Di Tử Hạ vẫn đang bị trói gô nằm chết cứng trên giường, tạ lỗi:

- Tiểu tướng dưới trướng Khánh Kỵ vô lễ, cúi xin Tử Hạ đại phu rộng lượng bỏ qua cho.

Quý Tôn Tiểu Man mở miệng định cãi lại, nhưng nghĩ đến mình đã đồng ý ở lại, thế tức là chấp nhận làm tướng lĩnh của hắn rồi, nên cũng không lên tiếng nữa, chỉ hậm hực liếc nhìn Di Tử Hạ, Di Tử Hạ thấy Tiểu Man trừng mắt đe dọa, sao dám nói nửa câu không chịu bỏ qua, chỉ còn cách gật gù chấp nhận.

Di Tử Hạ vươn vai đứng dậy, vừa chỉnh sửa lại áo mũ vừa hỏi:

- Hôm qua các đại phu trong thành đều đóng cửa không ai dám ra khỏi nhà, Di Tử Hạ mạo hiểm phái người dò la tin tức của công tử, nghe nói Công Mạnh Trập đã chết dưới tay Công Tử Triều, còn công tử thì đã đi Thanh Ngõa Quan, bây giờ tình hình thế nào rồi?

Về chuyện này, Quý Tôn Tiểu Man cũng tò mò muốn biết, ngước tai định nghe xem Khánh Kỵ nói gì, lại nghe Khánh Kỵ thong dong:

- Việc này nói ra dài dòng, giờ đây chuyện ở Đế Khâu đã đâu vào đó, Khánh Kỵ sẽ sớm về Ngải Thành, đêm nay sẽ uống một bữa thỏa thích với Tử Hạ đại phu, đến lúc đó ta nói chuyện với nhau hãy còn chưa muộn.

Quý Tôn Tiểu Man nghe Khánh Kỵ nói vậy, cảm thấy không vui, thầm oán trách ba tiếng:

- Thật là chán.

- Thì ra là vậy, chà! Theo tình hình này thì, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ bọn họ muốn tự bảo vệ, chỉ còn cách nắm giữ chặt binh quyền trong tay mới được, e là mai bọn họ đến gặp Vệ hầu, sẽ lấy những điều kiện này ra thúc ép đây. Từ nay về sau, Vệ hầu phải cúi đầu trước uy hiếp của họ, há chẳng phải mặc cho họ sắp đặt sao?

Di Tử Hạ tuy đần độn về quan điểm chính trị, nhưng nghe Khánh Kỵ phân tích tình hình một hồi lâu trên bàn tiệc, hắn cũng hiểu ra quan hệ lợi và hại trong đó. Hắn ở Đế Khâu, hoàn toàn phụ thuộc vào sủng ái của Vệ hầu, Vệ hầu nếu như mất đi quyền lớn trong tay, tương lai của hắn thật đáng lo âu. Hắn chưa từng quên chuyện lần trước vừa từ nước Tề quay về sém bị người khác mưu sát, đến giờ cũng chưa biết đó là chủ ý của ai, nói không chừng là quân phu nhân hận hắn chiếm lấy sự sủng ái của Vệ hầu nên phái người ra tay độc ác, bây giờ quân phu nhân nắm quyền, Vệ hầu thất thế, hắn còn có kết cục tốt được sao?

Nghĩ đến đây, Di Tử Hạ chẳng còn tâm trí nào ăn uống tiếp nữa, khuôn mặt ủ rũ như áng mây đen, lại sầu não bế tắc, hoàn toàn không nghĩ ra một chủ ý giải quyết khó khăn nào, với thân phận và trải nghiệm của hắn, ở quan trường Đế Khâu không có mấy người bạn tốt.

Khánh Kỵ ra vẻ uống say, hai má ửng đỏ, lời nói cũng không còn rõ ràng từng tiếng. Hắn nâng ly uống một ngụm rượu, tươi cười hớn hở:

- Tử Hạ huynh không cần lo lắng, huynh xưa nay luôn tốt với ta, chỉ cần có Khánh Kỵ, sẽ không ai dám ức hiếp huynh đâu.

Di Tử Hạ cười khổ tạ ơn, trong lòng nhủ thầm: “Huynh sớm muộn phải đánh về Ngô quốc, bảo vệ được ta một lúc, không bảo vệ được cho ta cả đời. Chẳng lẽ bắt ta rời bỏ quê hương, trốn sang nước Ngô theo huynh à?”

Khánh Kỵ gắp một miếng thịt, bỏ vào miệng nhai nhóp nhép, lại nói:

- Nếu không phải ta mang thù cha sâu nặng trên người, cơ nghiệp tổ tiên hiện vẫn còn rơi vào tay kẻ tiểu nhân, Khánh Kỵ cũng không đưa ra hạ sách này. Tuy ai cũng nhìn thấy dã tâm của Công Mạnh Trập, nhưng cũng không đến lượt người ngoài như ta xen vào. Nhưng nói đi thì nói lại, giờ đây nếu binh mã quyền lực của Công Mạnh Trập được phân chia đều vào tay bốn người bọn Tề Báo, thật ra lại rất có lợi cho Vệ hầu, chỉ là trong thời gi­an ngắn, Vệ hầu phải nhẫn nhịn chịu nhục, chờ đợi cơ hội.

Di Tử Hạ nghe hắn nói câu này, lại nghĩ tình cảnh của mình hiện giờ, trong lòng càng thêm lo lắng, Khánh Kỵ uống thêm một ngụm rượu, đôi mắt lờ đờ:

- Tử Hạ…huynh nghĩ coi, Công Mạnh Trập một mình nắm hết đại quyền, mang nặng dã tâm, còn sắp xếp thân tín khắp nơi, vốn chẳng phải trung thần nghĩa sĩ gì, chỉ là Vệ quốc vẫn tồn tại tinh thần trung quân ái quốc, các nhân sĩ trung nghĩa hãy còn đông, Công Mạnh Trập chỉ dám nhân danh vua, nắm quyền lớn trong tay, chứ không dám giết vua đoạt ngôi, hơn nữa hắn vật vả gầy dựng cơ ngơi là nhằm mục đích gì? Chỉ là học theo cách làm của các gia tộc lớn bên các nước Tấn, Tề, Lỗ thôi. Thế lực của gia tộc Công Mạnh Trập nếu tiếp tục lớn mạnh, sẽ có ngày trở thành mối họa lớn của Vệ quốc, đến lúc đó Vệ hầu muốn xoay chuyển càn khôn, khó lắm thay.

Còn như hiện giờ, đám người Công Tử Triều, Tề Báo giết chết Công Mạnh Trập, chia sẻ quyền lực của hắn, khí thế có vẻ hơn cả Công Mạnh Trập, nhưng lại kém xa hơn nhiều, thực lực đã bị suy giảm không ít. Vệ hầu nếu biết khéo léo tận dụng tình hình lúc này, chí ít có thể giành lại một nửa quyền lực về tay mình, so với quá khứ huy hoàng bề ngoài trước đây, điều đó không cần phải nói nhiều. Đám người Tề Báo, Công Tử Triều là người chiến thắng trong cuộc nổi loạn này, Vệ hầu há lại không phải ư? Hắc, chỉ là không biết Vệ hầu có suy nghĩ thấu đáo được thế này không thôi.

Di Tử Hạ nghe xong rạo rực trong lòng, vội hỏi dồn:

- Công tử Khánh Kỵ nói vậy…A, mời uống, mời, không biết là theo như những lời công tử Khánh Kỵ vừa nói, Vệ hầu nên dùng diệu kế gì để xoay chuyển càn khôn ạ?

Khánh Kỵ ngáp dài, cười đáp:

- Có gì khó đâu, chỉ cần một người trung dũng, đủ rồi.

Di Tử Hạ giật mình:

- Cái gì? Chẳng lẽ phái người đi giết đám người Tề Báo?

- Không phải, những người trung quân ở nước Vệ rất nhiều, quân quyền kiên cố, đám người Tề Báo dám giết Công Mạnh Trập, nhưng lại không dám đụng đến Vệ hầu, chính là vì lí do này, lấy thí dụ, Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Văn Tử, tất cả đều là các đại thần trung nghĩa, ở nước Vệ lại có uy tín, chỉ là lúc trước Công Mạnh Trập nắm quyền, các đại thần chỉ biết trung thành với Vệ hầu, không biết nịnh bợ tên Công Mạnh Trập nên không được trọng dụng, giờ nhàn rỗi ở nhà thôi.

Ngày mai, đám người Tề Báo, Công Tử Triều chắc chắn đi gặp Vệ hầu, vừa mềm mỏng vừa cứng rắn thúc ép Vệ hầu chấp nhận điều kiện của họ, mới chịu đón Vệ hầu hồi cung. Giờ đây ấn tín binh phù đều nằm trong tay đám người Tề Báo, cho dù là Vệ hầu cũng không điều động được một binh một tốt, nhưng các đại thần này trong nhà lại có gia tướng, có thể tổ chức thành một đạo quân bí mật, đạo quân này lại chỉ nghe lệnh của một mình chủ nhân, không bị quản thúc bởi ấn tín quân phù Vệ quốc nào cả.

Vệ hầu nếu như đủ tỉnh táo, ngày mai chi bằng cứ xuôi theo đám người Tề Báo, sau đó viết một mật chiếu, sai một kẻ trung thành đem mật chiếu đến triệu tập Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Văn Tử, sai họ tập hợp các trung thần nghĩa sĩ gia tướng thân cận tiến vào Đế Khâu hộ giá, trong thành Đế Khâu lại phái người ngầm liên lạc các đại thần trung quân khác làm nội ứng.

Đến lúc đó Vệ hầu chỉ cần tìm cách kéo dài thời gi­an ba đến năm ngày với bọn Tề Báo, đợi người ngựa của Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Văn Tử đến nơi, tuy chưa chắc chiếm được ưu thế áp chế bọn Tề Báo, nhưng cũng đủ chế ngự họ, lúc đó chỉ cần đừng thúc ép quá đáng bọn Tề Báo, họ cũng không dám làm liều tạo phản, làm vậy khiến họ phải e dè, sau đó Vệ hầu lại dùng kế chia rẽ bọn họ, cứ thế…

Di Tử Hạ đang chăm chú lắng nghe, vội hỏi:

- Làm sao chia rẽ?

- Ấy! Nếu ta mà là Vệ hầu, đến lúc đó ta cứ ban thưởng hậu hỉ cho họ để họ an tâm, chỉ là phong chức ban thưởng thôi mà, không được làm họ phật ý, họ chẳng phải đã tự bàn bạc chia nhau quyền lực rồi sao? Ta cứ thưởng cho người này nhiều, người kia ít, lúc này người ngựa của bọn Công Thúc Văn Tử đã có mặt, lại không phải hạ chỉ bắt bọn họ, họ đâu có dám làm quá đáng chứ? Đám người Tề Báo chẳng phải quân tử đạo đức gì, người được ban thưởng nhiều chẳng lẽ từ chối không nhận? Không sợ ít chỉ sợ không công bằng, lúc đó…ai được chia ít chắc chắn không vui, kế chia rẽ nhờ vậy mà thành công.

Ha ha, đạo làm vua không cần bắt tất cả thần dân đều trung thành, từ xưa đến nay không một vị quân vương nào làm được thế cả. Đạo làm vua chỉ là dùng quyền lực tối cao cai trị, như ngọn núi đè lên quả trứng, bắt bên dưới buộc phải tuân theo, nếu quân quyền chưa đủ mạnh, thì phải áp dụng “chia để trị”, làm cho tất cả phải dựa dẫm vào ta, lúc đó họ đấu đá nhau, còn ta thì ngồi vững trên ngai vàng, sau đó nên lôi kéo, chia rẽ, trừng trị như thế nào tùy ý, bọn họ chia rẽ rồi khó mà hình thành sức mạnh như hôm nay được nữa.

Di Tử Hạ nghe vậy đôi mắt phát sáng, trong lòng đã hiểu ra đạo lí. Trong các chư hầu khắp thiên hạ, ba nước Vệ, Tần, Sở quyền lực của vua tập trung nhất, trong triều tuy có đại thần nắm giữ quyền lớn, nhưng khắp nơi trong nước các quan lại trung thành với vua rất nhiều, đây chính là nguyên nhân vì sao đại quyền của Vệ hầu Cơ Nguyên rơi vào tay Công Mạnh Trập từ lâu, thế mà hắn vẫn cung kính với vua, không dám nảy sinh ý định giết vua đoạt ngôi. Nay đám người Tề Báo so với Công Mạnh Trập còn kém xa, cơ sở của chúng chưa vững mạnh, trước mắt chỉ khống chế được quyền lực Đế Khâu, không bằng thế lực của Công Mạnh Trập được phân bố khắp cả nước. Giờ Công Mạnh Trập bị giết, các thế lực này mất đi chỗ dựa, theo lí sớm muộn cũng bị bọn Tề Báo thu nạp, nhưng theo cách của Khánh Kỵ thì khác, Vệ hầu cũng hưởng lợi trong đó, thu nhận nhiều đại tướng có binh quyền trong tay về phe mình, thực sự quyền lực có mạnh hơn trước đây nhiều. Nếu như Vệ hầu từ nay tỉnh ngộ, siêng năng chăm lo việc nước, đó lại là một chuyện tốt.

Tiệc tàn, hai võ sĩ dìu Khánh Kỵ đã say về phòng nghỉ ngơi, Di Tử Hạ vẫn ngồi yên trầm tư trên bàn tiệc. Tên thiếu niên ngây thơ này giờ đây vì tương lai sinh tồn buộc phải suy nghĩ thấu đáo chuyện quan trường phức tạp, cho đến khi cây nến hồng cháy hết, Di Tử Hạ mới quyết định xong kế sách, phất tay áo đứng dậy, dặn dò người hầu thu dọn bàn tiệc, còn hắn đi về phía sau nhà nghỉ ngơi.

Khánh Kỵ về đến phòng mình, sờ soạng trong bóng tối định thắp nến lên, trong bóng đêm “xoạt xoạt” hai tiếng vang lên, ánh lửa thắp sáng, chỉ thấy Quý Tôn Tiểu Man đang ngồi trên ghế, kiếm đặt trên bàn, đôi mắt giận lẫy, nhìn dáng vẻ cứ như bà vợ oán trách ông chồng dám về khuya vậy.

Khánh Kỵ không nhịn được cười, Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng nhẹ nhàng:

- Chưa thấy vị chúa công nào như ngươi, ta ở phủ Công Mạnh trập chỉ là một kiếm khách còn được sự tiếp đãi lễ độ của hắn, giờ làm tướng quân gì đó dưới trướng của ngươi, vậy cũng tốt, nhưng ngươi lại chỉ lo huyên thuyên với tên Di Tử Hạ không ra nam không ra nữ đó, bỏ mặc ta ở đây không thèm hỏi han, hứ! hai người ở đâu ra lắm chuyện để nói như vậy?

Khánh Kỵ khụt khịt mũi, không biết ở đâu một mùi chua chua xộc vào mũi, cười hô hố:

- Cũng chẳng có gì để nói, ta chỉ dạy Tử Hạ cách nuôi chim mà thôi.

Quý Tôn Tiểu Man ngớ người, ngạc nhiên hỏi:

- Nuôi chim? Hai người nói cả một đêm, chính là nói chuyện nuôi chim hả?

Khánh Kỵ cười hi hí:

- Đúng rồi, nếu không phải nuôi chim, cần cây cung làm gì?

Quý Tôn Tiểu Man dở khóc dở cười:

- Hai người thật là…, thôi bỏ đi, khi nào chúng ta đi Ngải thành?

- Vội gì chứ? Phía Ngải thành tất cả đâu vào đó, chúng ta về sớm hay muộn vài ngày không thành vấn đề, hơn nữa trải qua trận chiến Thanh Ngõa Quan, các tướng sĩ của ta có người thương nặng, cần dưỡng thương vài ngày mới được, nàng không muốn nán lại đây xem hắn nuôi chim thế nào à?

Quý Tôn Tiểu Man điên tiết:

- Xem chim gì chứ, không chịu lo việc chính đáng, ta đi ngủ đây.

Khánh Kỵ nghe thế cười to, Quý Tôn Tiểu Man nhìn hắn, đôi mắt chợt nham hiểm, nàng cắn môi, cầm kiếm lên toan đi ra ngoài, lúc đi qua chỗ Khánh Kỵ, đột nhiên đưa chân đá một phát, mũi giày đá đúng vào giữa hai chân Khánh Kỵ, Khánh Kỵ tuy mình đồng da sắt nhưng chỗ đó sao chịu được cú đá, lập tức đau đến nỗi la oai oái cả lên.

Quý Tôn Tiểu Man vuốt mũi một cái, cười khoái chí:

- Cười, cười nữa đi, tưởng ta không biết ngươi cười vì chuyện gì à?

Khánh Kỵ đau tái cả mặt:

- Biết rồi sao còn…

Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt, nói cứng:

- Vừa rồi chưa nghĩ ra.

Sáng sớm hôm sau, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều ba người ăn mặc chỉnh tề, tụ tập tại phủ Chử Sư Phổ.

Vừa thấy bọn họ đến đây, Chử Sư Phổ vội bước ra đón tiếp, vừa thấy họ đã oán trách:

- Ta nói ba vị này, cuối cùng ba vị cũng đến, hai ngày này thật khó cho lão Chử này quá, quốc quân ở trong phủ ta cứ như tù nhân, lão Chử lại không dám có gì bất kính với ngài. Hây! Sáng mỗi ngày lão Chử đều phải cùng phu nhân đi thỉnh an cho ngài, đợi lúc ngài dùng bữa, lại cùng phu nhân hầu hạ hai bên, ngài chưa ăn phu thê hai ta không dám bỏ một hạt gạo vào miệng, các vị cũng biết là lão Chử bụng bự ăn nhiều rồi, đứng nhìn quốc quân dùng bữa, ta đói cồn cào không dám lên tiếng, đến khi ngài đi ngủ, lão Chử lại phải cùng phu nhân…

- Thôi được rồi được rồi, những chuyện vặt vãnh cơm nước đi ngủ thì đừng nói nữa.

Tề Báo thấy chán những lời lải nhải xua tay cho Chử Sư Phổ im miệng, lúc này hắn đã tự cho mình là người có quyền lực nhất trong nhóm, dù cho không oai phong như Công Mạnh Trập trước đây, muốn bãi miễn ai thì tùy ý bãi miễn, nhưng về cách nói chuyện, giọng điệu cử chỉ đều đã bắt chước y chang phong thái của Công Mạnh Trập.

Tề Báo làm như hắn chính là chủ nhân của Chử gia, bước thủng thỉnh vào giữa đại sảnh, dõng dạc:

- Hôm nay chúng ta đã đến đây, một lát gặp mặt quốc quân, đừng làm ra vẻ sợ sệt, phải thúc ép quốc quân làm theo ý chúng ta mới thôi.

- Dạ dạ, tất cả chúng ta cứ nghe theo Tề đại phu là được.

Công Tử Triều cung kính chắp tay phục tùng.

Bắc Cung Hỉ trong lúc chiến đấu giết địch dũng mãnh như vậy, lúc này bảo hắn đi gặp Vệ hầu đang bị gi­am lỏng, trong lòng cũng thấy hơi chút sợ sệt, vội lên tiếng hùa theo, Chử Sư phổ càng không cần nói tới, Tề Báo nhìn bộ dạng bọn họ, vừa thấy mình oai vừa thấy tức giận, hắn hừ một tiếng, phất tay áo nói:

- Đi nào!

- Chúng thần tham kiến quốc quân!

Mấy người bước vào căn phòng gi­am lỏng Vệ hầu Cơ Nguyên, vừa vào phòng đã hành lễ quân thần trước, Vệ hầu đang nằm trên giường, mắt nhìn trần đang ngây ra suy nghĩ gì đó lập tức bật dậy, thấy là bọn họ, sắc mặt liền thay đổi:

- Các ngươi hay lắm, lại dám gi­am giữ quả nhân, giờ đến gặp quả nhân, muốn thế nào hả?

Hai hôm nay hắn hỏi đến dụng tâm của bọn Chử Sư Phổ, Chử Sư Phổ chỉ thỉnh tội, tuyệt nhiên không nói ra chữ nào, Đế Khâu xảy ra chuyện gì, Vệ hầu vẫn chưa biết gì cả. Nhưng Chử Sư Phổ gi­am lỏng hắn hai ngày, Chử phủ vẫn yên lặng như cũ, không thấy ai đến tìm hắn, Cơ Nguyên cũng đoán ra kinh thành chắc xảy ra chuyện lớn gì rồi, huynh trưởng Công Mạnh Trập của hắn e đã lành ít dữ nhiều, dù sao không biết được chi tiết sự tình, không tránh khỏi suy đoán lung tung, lúc này thấy bốn tên thần tử này, mà chúng vẫn hành lễ quân thần, Cơ Nguyên hơi yên lòng lại.

Tề Báo tiến lên ba bước, chắp tay lạy một lạy, nói:

- Xin quốc quân thứ tội, chúng thần làm vậy cũng là bất đắc dĩ, quốc quân bị gi­an thần Công Mạnh Trập lừa dối quá lâu, Công Mạnh Trập mang dã tâm tạo phản, lại nắm đại quyền binh mã Vệ quốc trong tay, dấy binh làm loạn sẽ nguy hại gi­ang sơn xã tắc nước Vệ, chúng thần cực chẳng đã nghĩ cho quốc quân, nghĩ cho nước Vệ, chỉ còn cách tạm mời ngài chịu khó tránh mặt ở đây, chúng thần liều chết giết giặc, trời cao có mắt, Công Mạnh Trập đã phải chịu chết, trả lại yên lành cho nước Vệ.

“A!”Vệ hầu đã sớm có dự cảm không hay trong lòng, nhưng nghe những lời này xong, cũng không khỏi giật mình, trong lòng đau đớn, giọng run rẩy:

- Mạnh Trập…đã bị các ngươi giết chết?

- Dạ!

Tề Báo vừa nãy nói chuyện hãy còn chút sợ sệt, nay đã tan biến hết, ngẩng đầu lên, to tiếng:

- Bệ hạ, Công Mạnh Trập một mình nắm giữ quyền lớn trong tay, khuynh đảo triều chính, lộng quyền trong triều, các đại thần bị hắn đùa cợt như gia nô, các chức vụ quan trọng đều được gi­ao cho tâm phúc của hắn, ức hiếp trung lương, sắp xếp thân tín khắp nơi, quả thật nguy hiểm tột cùng, quần thần ai cũng sợ sệt, lê dân lo lắng, quốc quân lại bị hắn dối gạt, sớm muộn cũng bị hắn hãm hại, chúng thần lục xét thấy nhiều thứ ở phủ Công Mạnh Trập, có áo giáo binh khí nhiều vô số kể, đủ chứng minh cho dã tâm của hắn, vì thế cúi xin quốc quân công cáo thiên hạ, kể rõ tội trạng của hắn.

Công Tử Triều, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phổ cùng quỳ xuống tiến về trước vài bước, quỳ ngay sau lưng Tề Báo, đồng thanh cất tiếng:

- Chúng thần xin quốc quân công cáo thiên hạ, vạch rõ tội trạng của hắn.

- Ngươi…các ngươi dám thúc ép quả nhân ư?

Cơ Nguyên tức giận tím tái mặt mày, bờ môi run rẩy, hắn đảo mắt xung quanh, vươn người cầm lấy một cái bình bông, Bắc Cung Hỉ vừa định hành động, bị Công Tử Triều kéo ngược lại, Cơ Nguyên giơ cao bình bông, do dự một lát, “Choang!” một tiếng ném vỡ chiếc bình trước mặt bọn đại thần đang quỳ trước mặt, hét lên:

- Đừng hòng quả nhân sẽ làm theo ý các ngươi, các ngươi đã giết Công Mạnh Trập, giờ giết luôn quả nhân đi vậy.

- Quốc quân!

Tề Bắc ngẩng đầu lên, ánh mắt sắc lạnh.

- Quốc quân hà tất cố chấp như thế, chỉ cần ngài nghe theo lời khuyên của chúng thần, chúng thần lập tức nghênh đón ngài về cung, nếu không thì, chúng thần xin được đắc tội.

Cơ Nguyên lạnh lùng gằn giọng:

- Trong thiên hạ có trung thần thúc ép vua như các ngươi sao hả? Tề Báo, ngươi mở miệng ra là nói huynh trưởng của quả nhân là gi­an thần trong triều, theo ý quả nhân, Tề Báo ngươi mới là đệ nhất gi­an thần đó.

Tề Báo nghe vậy liền thay đổi sắc mặt, Công Tử Triều vội can ngăn, bước lên đỡ lời:

- Quốc quân không chỉ là huynh đệ của Công Mạnh Trập, mà còn là vua của nước Vệ, đương nhiên phải lấy gi­ang sơn xã tắc làm trọng, dã tâm của Mạnh Trập mọi người ai cũng biết, sao ngài lại vì tình riêng mà quên mất việc công? Giờ đây Mạnh Trập đã chết, muốn an lòng dân, quốc quân có thể công cáo thiên hạ tội trạng của hắn, làm thế thể hiện uy danh thiên tử, xin quốc quân nghe theo can gián của thần.

Những lời uyển chuyển của Công Tử Triều so với những lời uy hiếp của Tề Báo cao minh hơn nhiều, nhưng Cơ Nguyên tuy đam mê hưởng lạc, có phần u mê nhưng dù sao cũng có chút tính khí cao ngạo của một quân vương, đã không sợ Tề Báo uy hiếp, sao lại chịu nghe những lời ngon ngọt của Công Tử Triều. Đám người Tề Báo lại ra sức thuyết phục, Cơ Nguyên vẫn kiên quyết không nghe, hai bên càng lúc càng căng thẳng, ngoài cửa chợt có một người bước vào, vội vã đến bên Chử Sư Phổ, ghé tai nói nhỏ vài câu, Chử Sư Phổ nghe xong ngây mặt ra:

- Di Tử Hạ? Tên nhóc này đến đây làm gì?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Phần thứ 246

Chương 175: Phản kích

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

- Bệ hạ, chúng thần đều xuất phát từ công tâm, cầu xin bệ hạ lấy việc nước làm trọng, tiếp thu ý kiến của chúng thần. Bây giờ bệ hạ vẫn chưa bình tĩnh lại, chúng thần xin phép lui ra, lát sau lại đến xin chỉ thị của bệ hạ.

Chử Sư Phổ làm liều nói một hơi xong, quay đầu nháy mắt với đám người Tề Báo, bọn Tề Báo không biết dụng ý hắn là gì, bèn hành lễ xong lục đục lui ra, ra đến hành lang bên ngoài, Tề Báo liền lên tiếng hỏi:

- Chử đại phu, ông kêu tất cả chúng ta ra đây là có dụng ý gì?

Chử Sử Phố trả lời:

- Quốc quân mới biết tin dữ, tâm thần chưa ổn định lại, giờ đây thà chết không tuân theo, chúng ta sao có cách gì ép ngài nghe theo được? Chi bằng để ngài bình tâm suy nghĩ một lát lợi hại trong chuyện này, lúc đó nói không chừng ngài sẽ hồi tâm chuyển ý.

Nói đến đây Chử Sư Phố lè lưỡi liếm đôi môi béo mập của hắn, tiếp lời:

- Vừa rồi có người thông báo, Di Tử Hạ đến thăm, e là vì quốc quân mà đến.

Tề Báo cười mỉa:

- Di Tử Hạ? bây giờ các đại thần trong triều ai mà không biết quốc quân đang trong phủ của ông, nhưng ai cũng giả câm giả điếc, không một ai dám lấy trứng chọi đá. Tên Di Tử Hạ này dám ngang nhiên đến đây, hừ, lão phu đã xem thường hắn rồi, tên nhóc này xem ra có tình có nghĩa hơn đám đại thần vô dụng kia.

Bắc Cung Hỉ chen vào:

- Vậy thì chưa chắc, chỉ sợ tên Di Tử Hạ ỷ mình đã từng giúp đỡ Khánh Kỵ, cũng là gián tiếp giúp đỡ chúng ta, nghĩ là chúng ta cũng không làm khó hắn, nên mới giả đò chạy tới đóng vai trung thần nghĩa sĩ kiếm chút danh tiếng thôi.

Chử Sư Phố gật gù:

- Quốc quân luôn sủng ái tên Di Tử Hạ này, theo ta thấy, chi bằng chúng ta cho hắn vào gặp quốc quân, lời chúng ta nói có thể quốc quân không nghe lọt tai, nhưng nói ra từ miệng tên Tử Hạ này lại khác, nếu gặp được hắn, nói không chừng quốc quân lưu luyến vinh hoa phú quý chốn nhân gi­an, khi đó sẽ không kiên quyết chống đối chúng ta nữa.

Công Tử Triều khẽ thay đổi sắc mặt:

- Chử đại phu nói có lí lắm, Di Tử Hạ có gi­ao tình tốt với Khánh Kỵ, Khánh Kỵ và chúng ta là đồng mưu, chắc tên Tử Hạ này đến đây không có ác ý với chúng ta, hay là để Tử Triều đi gặp hắn, thăm dò coi ý hắn thế nào, nếu hắn chỉ muốn vào gặp quốc quân để thể hiện trách nhiệm thôi, lúc đó chúng ta sẽ nhờ hắn chuyển lời, bảo hắn làm thuyết khách giùm chúng ta, ý các đại nhân thế nào?

Tề Báo suy nghĩ giây lát, gật đầu đồng ý:

- Cũng được, vậy chúng ta qua đại sảnh bên cạnh chờ tin, để Tử Triều đi dò ý Di Tử Hạ đã rồi mới tính tiếp.

Di Tử Hạ gặp mặt Công Tử Triều, mặt đỏ tía tai ấp a ấp úng nói ra ý định muốn vào gặp quốc quân, hắn tuy cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng thần sắc vẫn rất hồi hợp, nhưng vì quan hệ của hắn và Vệ hầu vốn đã đặc biệt, nên có những điều khó nói trắng ra, Công Tử Triều chỉ nghĩ là hắn đang mắc cỡ, cũng không để ý lắm thái độ của hắn.

Công Tử Triều nói ra ý định nhờ cậy Di Tử Hạ chuyển lời thuyết phục Vệ hầu. Nói chuyện với Tử Hạ, Công Tử triều không e dè gì cả, đem những lời nếu quốc quân không đồng ý xuôi theo, sẽ chọn một người khác trong gia tộc Cơ thị thay thế ngôi vua nói cả ra. Thực ra đám người Tề Báo vẫn chưa đủ lực lượng làm được chuyện đó, những lời này chỉ là hù dọa Di Tử Hạ mà thôi, Di Tử Hạ làm sao phân biệt được thật giả, sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch, vội vàng luôn miệng nhận lời cố gắng thuyết phục quốc quân.

Công Tử Triều thấy đạt được mục đích, bèn dẫn Di Tử Hạ đi gặp Vệ hầu, cặp đôi đồng tính này vừa gặp đã ôm nhau khóc to, còn kể lể tâm tình ra sao thì người ngoài không ai biết. Chỉ là sau khi Di Tử Hạ rời khỏi, thái độ của Vệ hầu Cơ Nguyên lập tức thay đổi, một mình hắn ở trong phòng nửa ngày trời không thấy động tĩnh gì, đám Chử Sư Phố mượn cớ hỏi thăm mấy lần cũng chỉ thấy hắn nằm im nhìn lên trần suy nghĩ gì đó, ngay cả có người đi vào cũng không nhận ra.

Chử Sư Phố đem hành vi khác lạ của Vệ hầu nói với bọn Tề Báo, bọn Tề Báo nghe xong đều cảm thấy sự việc tràn trề hy vọng, đợi đến quá trưa, bốn người lại xin vào yết kiến, lặp lại lời cũ, Vệ hầu Cơ Nguyên rơi nước mắt một hồi, cuối cùng gật đầu đồng ý, bốn người mừng rơn, lập tức chuẩn bị mọi việc đưa Vệ hầu Cơ Nguyên hồi cung.

Hôm sau, Vệ hầu Cơ Nguyên được bốn người Tề Báo cung kính đưa về hoàng cung, sau đó lập tức hạ chiếu chỉ, công bố thiên hạ mười tám tội lớn đáng phải chết của Công Mạnh Trập, trong chiếu chỉ nêu rõ các đại trung thần có công dẹp loạn là Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều, Chử Sư Phố, còn về Khánh Kỵ của Ngải thành lại tuyệt nhiên không nhắc tới.

Vệ hầu triệu tập quần thần, bàn bạc công tác sắp xếp việc triều chính sau khi Công Mạnh Trập bị giết chết, còn vấn đề ban thưởng cho các công thần đứng đầu là Tề Báo nữa. Các đại thần trong triều có ai mà không biết chuyện bọn Tề Báo gi­am lỏng Vệ hầu, đuổi giết Công Mạnh Trập chứ? Chỉ là nghe quốc quân ban chiếu chỉ như thế, họ cũng chỉ còn cách giả câm giả điếc, đồng thanh tán thành.

Tề Báo vì muốn ra vẻ là một trung thần diệt trừ phản loạn, đã bỏ lệnh giới nghiêm trong thành, thương lái khắp nơi lại được tự do buôn bán, dân chúng được khôi phục sinh hoạt như trước đây trong thành Đế Khâu. Cái chết của Công Mạnh Trập như cơn động đất trong triều đình, nhưng đối với dân chúng lại chẳng ai quan tâm, khắp Đế Khâu như hồi phục vẻ thanh bình thường ngày, còn trong triều sóng gió lại sắp nổi lên.

Sau khi Công Mạnh Trập chết xuất hiện khoảng trống quyền lực cần trám vào, theo lẽ thường thì sẽ do bốn người bọn Tề Báo chia nhau quyền lực, nhưng phân chia thế nào giờ lại trở thành đề tài bàn tán giữa các đại thần trong triều. Vệ hầu công bố quyết định thỏa thuận ngầm với bọn Tề Báo trên triều đình xong, Tề Báo cứ nghĩ mọi người không ai dám dị nghị, ai ngời các đại thần chức cao quyền trọng thuộc phe Công Tử Kinh, Công Thúc Phát lại đứng ra bàn cãi sôi nổi về quyết định ban thưởng.

Đám đại thần này không phải phủ nhận công lao bọn Tề Báo, mà chỉ là cãi nhau công lao của ai lớn hơn, ai nên được thưởng chức quan to hơn, được chia nhiều đất hơn mà thôi. Bọn quan lại ủng hộ khác nhau, có người đứng về phía Tề Báo, có người đứng về phía Công Tử Triều, ai nấy cãi nhau đỏ mặt tía tai, nước bọt phun phì phì cả lên.

Bọn Tề Báo đang đóng vai trung thần nghĩa sĩ, tất nhiên không thể thấy người khác có chút ý kiến thì cậy quyền trấn áp, hơn nữa đám đại thần này đâu có chống đối gì, bọn Tề Báo cũng muốn nhân cơ hội này xem xem ai đứng về phía mình nên đều mặc kệ, cứ dung túng cho đám đại thần ủng hộ mình đi cãi nhau với phe khác. Hai ngày sau, bọn Tề Báo đã mất hết kiên nhẫn, đêm đó vào hoàng hôn chợt cổng thành Đế Khâu rộng mở, đột nhiên có mấy ngàn người ngựa xông vào thành, tin tức lập tức được truyền đến phủ bọn Tề Báo, mấy người thất kinh hồn vía, vội mặc giáp đeo gươm, triệu tập thân tín phòng hờ bất trắc.

Tướng trấn giữ thành Nam Trần Long là thân tín của Công Mạnh, Công Mạnh từ sau khi Công Mạnh Trập chết luôn cung kính bọn Tề Báo, ra vẻ ngoan ngoãn phục tùng, lần này trên triều lại là người ra sức tán thành phong thưởng cho Tề Báo nhiều nhất, nên các cung vệ, thành vệ khắp nơi đều bị bọn Tề Báo đưa thân tín của mình vào giữ chức quan trọng, chỉ có tướng trấn giữ thành Nam là Trần Long, vì là thân tín của Công Mạnh, Tề Báo muốn ban ơn cho Công Mạnh lôi kéo hắn về phe mình nên chưa thay thân tín của hắn đi, ai ngờ chính tên Trần Long giờ lại mở cửa cho mấy ngàn người ngựa ùa vào thành.

Nghe tin, bọn Tề Báo lo sợ mình sẽ bị như Công Mạnh Trập, lập tức triệu tập người ngựa bày binh bố trận, nhưng mặc cho chúng cầm binh khí ngồi chờ đến sáng, cũng không thấy ai đến tấn công, mấy tên lính phái đi dò la tin tức về bẩm báo lại, đám người ngựa này là gia tướng của đại phu Công Thúc Bạt và con trai Công Thúc Tuất, còn của Cừ Viện đại phu nữa.

Bọn Tề Báo dẫn quân đột nhiên tấn công phủ Công Mạnh Trập, chỉ một số thương lái thấy xảy ra chiến sự đã nhanh chân trốn khỏi thành, do đó tin tức bị tiết lộ ra ngoài. Công Thúc Bạt và Cừ Viện chính là nghe được tin tức Đế Khâu có binh biến từ những thương nhân này, vội triệu tập người ngựa tiến vào thành hộ giá, đợi sau khi vào thành, nghe nói là quốc quân đã hạ lệnh giết Công Mạnh Trập, vì đã khuya không chỗ nghỉ chân nên cứ ở tạm xung quanh phủ Công Mạnh, đợi ngày mai vào triều yết kiến Vệ hầu tính sau.

Tề Báo nghe vậy thở phào nhẹ nhõm, hồi đó gi­ao thông khó khăn, tin tức qua lại rất mất thời gi­an, xảy ra những chuyện nhầm lẫn này cũng là bình thường, nhưng nghĩ lại cảm thấy với thái độ phục tùng của bọn Công Mạnh, Trần Long mấy hôm nay, không lí nào lại tự ý mở cửa thả mấy ngàn người ngựa vào thành, sau khi vào thành lại không báo một tiếng với hắn, sự tình thật giả thế nào, quả là nghi vấn trùng trùng.

Tề Báo càng nghĩ càng thấy bất an, vội bàn bạc với Công Tử Triều và Bắc Cung Hỉ, ai cũng không đoán ra được ý định của đám người Công Thúc Bạt. May mà cung vệ giờ đây do Công Tử Triều nắm giữ, sáng ngày mai bọn Công Thúc Bạt, Cừ Viện vào cung không được mang theo quân lính, khi đó bọn Tề Báo nắm giữ phần thắng, nên thấy cũng không có gì đáng phải e sợ.

Đợi khi mặt trời lên cao, bọn Tề Báo vào cung kiến giá, tất cả đều mặc áo giáp bên trong, ngoài mới khoát áo bào, lại lén giấu binh khí trong người, được mấy trăm vệ sĩ hộ tống vào cung. Đến trước cổng hoàng cung, thấy các đại thần tất cả đều mang theo các gia tướng dũng mãnh, bên ngoài cung người ngựa chen chúc, cờ bay rợp trời, cứ như cảnh mười năm trước nước Tấn tiến đánh nước Vệ quốc, quốc quân đích thân dẫn quân xuất chinh vậy, cảnh tượng khá là náo nhiệt.

Bọn Tề Báo và Công Thúc Bạt, Cừ Viện là chỗ quen biết cũ, lúc trước khi Công Mạnh Trập còn nắm quyền, cả bọn còn hay uống rượu với nhau, thầm rủa Công Mạnh Trập lộng quyền, giờ đây gặp mặt, lại là ai nấy mang lòng riêng, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ nháy mắt ra hiệu với nhau, cẩn thận tiến lên phía trước, còn Công Tử Triều lén chuồn ra phía sau sắp xếp binh lính phòng ngừa bất trắc.

Công Thúc Bạt đã ngoài sáu mươi, khuôn mặt vuông vức, trán nhô cao, hai mắt sáng loáng, thân hình to cao, oai phong bệ vệ, hắn đeo thanh kiếm to gấp hai lần người thường, khi bước đi hùng dũng mang dáng vẻ một đại tướng quân. Cừ Viện trẻ tuổi hơn, khuôn mặt thanh tao, thân hình cao ráo, ra vẻ quân tử nhu nhược, cũng đeo một thanh kiếm ngang lưng.

Lúc bấy giờ được phép đeo kiếm trước mặt vua, nhưng thanh kiếm phải là vật bất ly thân của người đó. Phần lớn đại thần khi yết kiến Vệ hầu đều không mang kiếm theo, hôm nay không ai bảo ai lại hầu hết đeo kiếm vào chầu, một số ít đại thần trung lập thấy cảnh này tim đập thình thịch, không biết hôm nay sẽ xảy ra chuyện xấu gì đây.

Công Thúc Bạt là cháu của Vệ Hiến Công, thuộc dòng dõi hoàng tộc, địa vị cao quý, bọn Tề Báo tươi cười bước tới hành lễ, Công Thúc Bạt mỉm cười đáp lại, không ngớt lời khen ngợi bọn họ có công dẹp yên phản loạn, con trai hắn Công Thúc Tuất đứng kế bên lại ngạo nghễ không thèm lên tiếng, có vẻ không coi ai ra gì. Bọn Tề Báo quan sát tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ, không phát hiện có gì bất thường.

Một lúc sau, Công Tử Triều lo liệu xong mọi việc quay lại, hắn ho nhẹ một tiếng, khẽ gật đầu với bọn Tề Báo, rồi mới tiến tới hành lễ với hai cha con Công Thúc Bạt và Cừ Viện. Tề Báo biết đã sắp xếp đâu vào đó, cảm thấy an tâm, lúc này mới cung kính tươi cười mời Công Thúc Bạt và Cừ Viện:

- Bạt công, Bá Ngọc huynh, quốc quân đã thượng triều, xin mời vào cung.

- Ha ha, Tề Báo à, ngài giờ đây đã là đại công thần của Vệ quốc, sao lại khiêm tốn như thế, nào nào, ngài và lão phu cùng sánh bước vào triều.

Công Thúc Bạt cười to, đưa tay nắm lấy cổ tay Tề Báo, hướng về phía cổng hoàng cung bước tới.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 176: Trở về Ngải thành (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Khánh Kỵ công tử, ngày mai người trở về Ngải thành ?”

“Vâng, Vệ Hầu có thể ân chuẩn cho Khánh Kỵ chiêu binh, Khánh Kỵ cảm kích vô cùng, lần này về Ngải thành, Khánh Kỵ chiêu binh mãi mã, gấp rút chuẩn bị cho việc chinh phạt nước Ngô, tháng ba năm sau, Khánh Kỵ phải xuất binh chinh phạt nước Ngô lần nữa.”

Khánh Kỵ khuôn mặt rạng rỡ vừa nâng ly vừa nói: “Hiện nay tình hình ở Đế Khâu phức tạp, Khánh Kỵ không tiện lộ diện, đành nhờ Tử Hạ hầu hạ Vệ Hầu, được Vệ Hầu trợ giúp, Khánh Kỵ suốt đời không quên, lần này nếu có thể chinh phạt nước Ngô thành công, thì Vệ Hầu sẽ là đại ân nhân của Khánh Kỵ Khánh Kỵ nguyện kết tình gi­ao hảo với nước Vệ, hai nước hỗ trợ lẫn nhau.”

Những lời này Khánh Kỵ nói một cách rất chân thành, đích thực là xuất phát từ trong tâm hắn, dù cho trước đây vì lợi ích của mỗi người mà ngươi gi­an ta trá thế nào đi nữa, nhưng trên quan trường, tình hữu nghị và hợp tác giữa chính trị và cá nhân, vốn được xuất phát từ lợi ích căn bản của mỗi người. Dẫu cho ngày hôm qua giữa hai bên còn đấu đến chết đi sống lại, nhưng một khi cùng chung lợi ích, thì có thể bắt tay làm hòa, trở thành đồng minh chính trị thân thiết, mấy trăm năm nay, vào cái thời Xuân Thu này những chuyện đại loại như thế đã được tái diễn không biết bao nhiêu lần rồi.

Huống hồ những gì hắn làm không phải đối phó với Vệ Hầu Cơ Nguyên. Là một người bình thường, Cơ Nguyên có thể căm hận hắn đã ngấm ngầm chỉ đạo, nhúng tay vào việc của nước Vệ, nhưng là Vua một nước, một lãnh tụ chính trị, dù cho Cơ Nguyên có hận hắn đến nỗi muốn ăn tươi nuốt sống, nhưng với tình hình trước mắt, Cơ Nguyên cũng không dại gì chuốc họa vào thân, tự tạo kẻ thù cho mình.

Cơ Nguyên hiểu rằng, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, hắn sẽ trở thành vua một nước. Lúc đó cho dù Khánh Kỵ xuất phát từ cảm ơn hoặc trên đạo nghĩa hoặc sự cần thiết về mặt lợi ích, hắn chỉ có thể trở thành liên minh chính trị với một nước Vệ, hoàn toàn không có sự xung đột về lợi và hại, và không thể là đối thủ chính trị với nhau, vì vậy khi mọi việc đều trở thành hiện thực, Vệ Hầu Cơ Nguyên đành bỏ mặc sự căm ghét của mình, mà lựa chọn ủng hộ hắn.

Sự ràng buộc và liên minh ở phương diện chính trị, không hề đơn giản như gi­ao kết bằng hữu bình thường. Chỉ đơn thuần dựa vào lời nói và sự chân thành thì đúng là một biểu hiện rất ngây thơ và ấu trĩ. Bất luận là Vệ Hầu Cơ Nguyên hay là công tử Khánh Kỵ, đều không phải là dạng người đó.

Di Tử Hạ đột nhiên vui vẻ cười và nói: “Khánh Kỵ công tử xin yên tâm, ta tin rằng Vệ hầu nhất định sẽ rất vui mừng khi nghe được những lời này của công tử.”

Hắn rất vui mừng, vì chỗ dựa của hắn là Vệ Hầu, Vệ Hầu không những không bị sụp đổ, mà quân quyền tập trung còn tăng gấp bội phần so với thời Công Mạnh Trập vẫn còn. Lúc trước Vệ Hầu cần làm gì, ở giữa đều có Công Mạnh Trập trên dưới truyền đạt, khiến Cơ Nguyên và các vị đại phu công khanh trong triều, mục thủ và thái ấp của cả nước bị chia cắt, nhưng bây giờ, có một số quyền lực đã nằm trong tay của Cơ Nguyên.

Theo những lời nói đùa của Khánh Kỵ hôm “sau khi say rượu”, Vệ hầu Cơ Nguyên đối với những quyền lực thật giả xuất hiện sau khi Công Mạnh Trập chết tiến hành điều chỉnh một cách khéo léo. Nắm được thế chủ động trong việc triều chính, hiện nay thế cục của nước Vệ đã đạt được một sự cân bằng huyền bí, sự cân bằng này theo tổng thể mà nhận xét, đối với Vệ Hầu càng thêm có lợi.

Công Thúc Bạt, Cừ Bá Ngọc và Công Mạnh nội ứng ngoại hợp, họ đột nhiên cử một toán binh lính trung thành với công thất vào Đế Khâu, như vậy, về phía Vệ Hầu vốn dĩ đã hoàn toàn rơi vào sự khống chế của loại người như Tề Báo bỗng chốc thực lực được gia tăng. Khi chỗ dựa đã vững chắc, thì có thể theo cách của Cơ Nguyên mà tiến hành những điều chỉnh thích hợp. Do cách dùng người của Vệ Hầu Cơ Nguyên đối với đám người như công tử Triều, Tề Báo là vừa đánh vừa xoa, không hề dồn họ vào đường cùng, với tình hình như thế, họ không có dũng khí để liều chết phản kháng, chỉ đành chấp nhận sự an bài của Vệ Hầu.

Vệ Hầu Cơ Nguyên vẫn thừa nhận công lao của họ, thừa nhận tội danh của Công Mạnh Trập, để vỗ về đám người đã từng nắm giữ binh mã trong thành như Tề Báo. Nhưng với sự phân chia quyền lực mới này. Vệ Hầu lại không tiến hành theo những thỏa hiệp riêng với đám người công tử Triều, mà đã giở một số thủ đoạn.

Về phía thị vệ trong cung. Từ một đội thị vệ biến thành 2 đội, thuộc quyền thống lĩnh của hai vị tướng quân, trực tiếp nhận lệnh từ Vệ Hầu, trong đó một đội sẽ do lực lượng thị vệ trong cung khống chế, đội quân này hiện do công tử Triều thống lĩnh, công tử Triều đã sắp xếp hơn mười vị tử sĩ mà chính hắn đã mang từ nước Tống sang trà trộn vào đội thị vệ trong cung làm thống lãnh, nên gần như đã nắm trọn đội quân này trong lòng bàn tay, miếng mồi ngon đã đưa đến tận miệng hắn tuyệt sẽ không nhả ra lại, Vệ Hầu Cơ Nguyên bèn lấy cớ rằng thị vệ trong cung đã bị Công Mạnh Trập khống chế, trong lúc bình loạn không phát huy được tác dụng gì, để tránh việc này, nên đã lập thêm một đội quân, để hỗ trợ và giám sát nhau.

Đội quân còn lại gồm những binh sĩ được chiêu mộ từ đội quân riêng của Công Tôn Bạt và Cừ Bá Ngọc, do con trai của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu thống lĩnh. Đồng thời, đối với thị vệ trong thành, tăng cường thêm quyền thống binh vốn có của Công Mạnh đại tướng quân, như vậy hai lực lượng phòng ngự trong cung và trong thành, hình thành lực lượng cân bằng và khống chế lẫn nhau.

Đề phòng Tề Báo và Công Tử Triều nảy sinh nghi ngờ là Cơ Nguyên đang âm mưu đối phó với họ, Cơ Nguyên đồng thời vừa tiến hành ban thưởng vừa vỗ về. Đối với công tử Triều, người đang nắm giữ một nửa lực lượng thị vệ trong cung, Vệ Hầu Cơ Nguyên đã cắt ra một tòa thành và ba nghìn mẩu đất từ đất phong vốn dĩ thuộc về Công Mạnh Trập, phong cho công tử Triều làm thái ấp, và đề bạt hắn lên làm thượng khanh.

Đại quyền trong triều vốn dĩ do Công Mạnh Trập độc bá, nay được phân chia cho các vị Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Trử Sư Phố, Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc năm vị, đảm nhận những chức vụ quan trọng khác nhau. Bề ngoài, Công Tôn Bạt và Cừ Bá Ngọc chỉ có hai người, yếu thế hơn so với thế lực của ba vị đại thần Tề báo, Bắc Cung Hỉ và Trử Sư Phố, nhưng cũng không đến nỗi tạo thành uy hiếp quá lớn đối với họ.

Tề Báo được phong làm Thái Sư và Thái Bảo, hai chức vị trong Tam Công đã thuộc về Tề Báo, đây là hai chức vị vô cùng cao quý và vinh dự, và là việc chưa từng xảy ra trong lịch sử nước Vệ. Là người lập công đầu trong việc “trừng trị nghịch tặc”, hắn còn được phong tặng trước tên thụy là “Văn Tự”, vả lại còn được phân mảnh đất lớn nhất, màu mỡ nhất của Công Mạnh Trập làm Thái Ấp, trông bề ngoài thì rất vinh quang, không ai sánh bằng, nhưng trên thực tế quyền lực để hắn có thể nhúng tay vào chính trị thì rất ít.

Bắc Cung Hỉ là người có công thứ hai trong lần chu sát Công Mạnh Trập này, hắn từ chức quan Đại Tư Khấu được tấn phong lên chức Đại Tư Đồ, đây vốn là chức quan mà Tề Báo thèm muốn, Tư Đồ chấp chưởng dân chính lao dịch, đồng chức vị với Thừa Tướng, thực quyền lớn nhất trong số các cửu khanh, tuy rằng luận về quan chức và địa vị, hắn vẫn dưới Tề Báo một bậc, vinh quang không bằng người kiêm nhiệm Thái Sư, Thái Bảo như Tề Báo, nhưng lợi ích mà hắn thu được thì nhiều hơn Tề Báo gấp bội.

Bắc Cung Hỉ được phong chức vị cao, quả là tin vui bất ngờ, hắn biết Vệ Hầu phong chức như thế là muốn gây chia rẽ và nghi ngờ, nhưng vấn đề là sự nghi hoặc này thật khiến hắn hoàn toàn không có cách gì cự tuyệt. Thái độ của Tề Báo khi gặp Bắc Cung Hỉ là căm hận tới tận xương tủy, về phần Công Tôn Bạt và Cừ Bá Ngọc, khi đã vào trong thành, thì gần như mất hết ưu thế, cũng chẳng thể nào khống chế được Vệ Hầu Cơ Nguyên nữa, vào lúc này họ tuyệt không thể trở mặt với Bắc Cung Hỉ, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay, miễn cưỡng tươi cười mà chúc mừng Bắc Cung Hỉ.

Bắc Cung Hỉ cũng được sớm phong tên thụy là: “Trinh Tử”. Nghĩa là trung thành kiên định, Bắc Cung Hỉ được phong tên thụy này, cũng giống như đã tự khoác lên mình một chiếc vòng kim cô đạo đức, tuy chỉ là hư danh cũng không hề ràng buộc được gì, nhưng vào cái thời Xuân Thu rất chú trọng vào tiếng thơm sau khi trăm tuổi này, trừ phi nguy cập đến sinh tử tồn vong của bản thân. Nếu không, từ nay về sau Bắc Cung Hỉ trước khi muốn gây bất lợi với Vệ Hầu, cũng phải suy nghĩ kỹ về cái giá phải trả sau này, càng không thể không nghĩ đến việc sau khi trăm tuổi có trở thành trò cười cho thiên hạ hay không.

Nâng đỡ Bắc Cung Hỉ để kiềm chế Tề Báo. Khiến Vệ Hầu Cơ Nguyên không tốn một công một sức nào, trở thành kẻ có lợi nhất trong màn tranh chấp này. Khánh Kỵ hiểu, sau khi các phương diện chính trị đã tạm thời được cân bằng, cái Cơ Nguyên cần là cục diện ổn định, nên vào lúc này hắn chỉ đành nhẫn nhịn sự tồn tại của bản thân, tiếp nhận điều kiện của Cơ Nguyên.

Cái mà Khánh Kỵ cần, cũng chỉ là trong mấy tháng này, nếu hắn không thể chinh phạt nước Ngô thành công. Bỏ mạng nơi chiến trường thì thôi. Còn nếu thành công, thì hắn sẽ là Vua nước Ngô, lúc đó Vệ Hầu càng phải chấp nhận hiện thực, gi­ao kết liên minh với hắn. Tuy công tử Triều kiêm nhiệm việc hỗ trợ lương thực và sơ thẩm những người tham gia đầu quân cho Khánh Kỵ, nhưng với tình hình này, liệu công tử Triều có dám gây khó dễ cho người mà chỉ tùy tiện đứng nép một bên đã có thể thay đổi cả thế cục? Với sự kềm chế của đội thị vệ mới, hắn dám rời khỏi cung để mà cứu vãn việc của hắn à? Tất cả mọi việc đều đang xảy ra rất thuận lợi theo kết quả mà Khánh Kỵ mong muốn, nên khi hắn rời khỏi Đế Khâu, tâm trạng rất ư vui vẻ.

Khánh Kỵ đã suy nghĩ thấu đáo về lợi và hại giữa các mối quan hệ, vui sướng vén bức rèm ở cửa kiệu nhìn ra bên ngoài, hai bên đều toàn những binh sĩ tay cầm binh khí, xếp thành đội hình ngay ngắn thẳng tiến về phía trước, vì có Khánh Kỵ, nên binh sĩ hai bên không ai dám cười nói ồn ào, chỉ có tiếng bước chân lạo xạo.

Họ đều khoác trên mình hai lớp áo bào, trông thì cồng kềnh. Nhưng giữ ấm rất tốt. Chân mang giầy được làm từ da chó. Tất cả đều do Khánh Kỵ dùng hết ngân lượng mua từ Thanh Ngõa Quan về. Ngoài ra, những thứ còn lại đều do đám người Vệ Hầu Cơ Nguyên, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ, xuất phát từ những mục đích khác nhau mà đem tặng cho Khánh Kỵ.

Đôi mắt Khánh Kỵ hơi trĩu xuống, đội quân này trải qua mấy tháng khổ luyện, kinh qua thử thách trong trận chinh phạt nước Ngô vào mùa xuân này, tinh thần và vẻ mặt so với trước đây đã có nhiều biến đổi. Trong trận chiến Thanh Ngõa Quan, sức chiến đấu và tính kỷ luật mà đội quân của hắn thể hiện, so với trước đây đã thêm phần nhuệ khí và vững vàng.

Khánh Kỵ bất giác cầm lên một quyển trúc giản, đó là danh sách công trạng của Lương Hổ Tử, khi còn ở nước Lỗ, hắn từng nói, phàm những ai lập được quân công, đều được ban thưởng, giờ là lúc hắn thực hiện lời hứa. Người không giữ chữ tín còn khó sống, hắn là thống soái , thì càng phải giữ chữ tín, thưởng phạt phân minh, như vậy mới có thể khiến sĩ khí tăng cao. Còn Đậu Kiêu Kính, và rất nhiều vị dũng sĩ đã hy sinh, Khánh Kỵ không hề quên họ, hắn sẽ lập bia để lưu danh họ. Đây không chỉ đơn thuần là tưởng niệm những dũng sĩ đã khuất, thiên hạ dũng sĩ nghe tiếng cũng sẽ đến phò trợ, tin rằng chỉ trong vòng ba đến bốn tháng, hắn có thể chiêu mộ thêm những dũng sĩ từ các nước đến đầu quân, những người này đều là những võ sĩ có tố chất cao, không cần trải qua luyện tập cũng có thể trở thành một chiến sĩ thực thụ.

Lần trở về Ngải thành này, tin rằng các sứ giả được phái đi liên lạc với Tôn Vũ, Anh Đào, Yểm Dư và Chúc Dung đều đã quay về, đại kế phản công nước Ngô cũng đã vào gi­ai đoạn gấp rút chuẩn bị. Đội quân chinh phạt nước Ngô của Khánh Kỵ được chia ra ba nơi, vào cái thời đại chưa có vô tuyến điện này, đội quân chia nhau đóng ở ba nước rất khó liên hệ và phối hợp chặt chẽ với nhau, thế nên Khánh Kỵ đã dùng thủ đoạn cho các thương gia buôn muối ở các nơi được lợi, biến các cửa hiệu buôn muối trên hai tuyến đường trọng yếu này thành dịch trạm của hắn, như vậy tốc độ truyền tin ít nhất cũng nhanh gấp ba lần, đối với hành động thống nhất vào tháng ba năm sau rất ư có lợi.

Hắn thở dài, đôi mắt hắn hướng về Quý Tôn Tiểu Man đang đứng dựa vào chiến xa, nàng mặc võ phục, áo giáp bên ngoài, đầu đội nón da, bên hông một thanh bảo kiếm, bao kiếm dài qua đầu gối, nhìn thân hình nhỏ bé của Quý Tôn Tiểu Man trong bộ trang phục đàn ông, trông như một đứa trẻ mười ba hay mười bốn tuổi, nhưng nhìn thần sắc thì rất là nghiêm túc.

Gió thu càng thổi càng lạnh, chung quanh chiến xa không có chắn gió, khuôn mặt của Quý Tôn Tiểu Man có vẻ xanh xao, tay nàng dựa vào thanh vịn của chiến xa, các ngón tay nắm chặt vào thanh vịn, nhìn ngón tay nàng có phần trắng bệch.

“Ngải tướng quân, xin mời lên xe.”

Khánh Kỵ thấy vậy trong lòng không nỡ, bèn lên tiếng.

Quý Tôn Tiểu Man liếc hắn, chóp mũi nàng lạnh đến nỗi đỏ cả lên, không thèm lên tiếng, nàng nhảy tung lên, như một mũi tên được bắn từ chiến xa đến chiếc xe cách đó hơn một trượng. Thân thủ của nàng nhẹ như chim Yến, sau đó nàng đáp xuống càng xe, một vài binh sĩ nhìn thấy thân thủ của nàng, bất giác thốt lên kinh ngạc.

“Khinh công thật đáng nể!”, trong lòng Khánh Kỵ cũng thầm khen ngợi, ánh mắt hắn nhìn lướt qua đôi chân và mông của nàng.

Quý Tôn Tiểu Man đứng trên càng xe chắp tay cung kính, vẻ mặt nghiêm túc nói: “Công tử.”

Khánh Kỵ khẽ cười: “Mời vào!” vừa nói hắn vừa nép người qua một bên.

Quý Tôn Tiểu Man có chút do dự, sau đó xoay người bước vào trong. Khánh Kỵ buông rèm xuống. Khi đã yên vị bên trong xe. Quý Tôn Tiểu Man lập tức có chút không tự nhiên, hai má ửng hồng: “Công tử …… xin hỏi có điều chi căn dặn?”

Khánh Kỵ cười ha ha, nói: “Nàng thật hiểu phép tắc, nhưng vào lúc này tuy nàng đang trong quân ngũ, nhưng không phải là lúc có chiến sự, hà tất phải theo phép tắc lễ nghĩa, nào. Mời ngồi.”

Ngồi trong xe mà cứ khom lưng như thế thì thật là khó chịu, Quý Tôn Tiểu Man không chút do dự là theo lời của Khánh Kỵ, nàng ngồi bên phần cửa sổ còn lại. Khánh Kỵ lấy tay ôm lấy cổ áo, khẽ cười nói: “Thật ra cũng chẳng có việc gì, chỉ là thấy nàng mặc không đủ ấm, đứng trên xe hứng chịu cái lạnh của gió thu. Chi bằng ở trên xe cùng ta. Chúng ta có thể nói chuyện phiếm để không nhàm chán.

Quý Tôn Tiểu Man liếc hắn, nói: “ Công tử đối với thuộc hạ đều quan tâm như thế sao?”

Khánh Kỵ cười đáp: “Đúng, bổn công tử xem các thuộc hạ như huynh đệ vậy, huống chi lại là Quý Tôn giáo luyện do đích thân ta mời về, ha ha, ta càng phải đối đãi như thượng khách.”

Quý Tôn Tiểu Man chau mày. Nói: “Ta không phải huynh đệ của ngài. Sở dĩ tham gia quân ngũ của ngài, chỉ là muốn có thêm những trải nghiệm mới, khi nào tình hình nước Lỗ ổn định , ta sẽ rời khỏi.”

“Đương nhiên, Quý Tôn tiểu thư muốn đến muốn đi, đều tùy ý nàng, Khánh Kỵ tuyệt đối không ngăn cản.”

Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng, mím môi, đôi mắt nhìn về phía rèm kiệu, ánh mắt nhấp nháy, như đang suy nghĩ điều gì đó.

“Nàng đang nghĩ gì thế?”

“Ngài đóng quân ở các thành, có phải là ý của gia chủ?”

“Thế nàng nghĩ sao?” Khánh Kỵ nhất thời chưa rõ nàng ấy đang suy nghĩ cái gì, cố ý vừa cười vừa ko đáp lại.

“Ngài ở đây bí mật chiêu binh mãi mã, đương nhiên là đang tính việc đại sự, tại sao ngài cứ phải… cứ phải…” khi nói những câu này vẻ mặt Quý Tôn Tiểu Man còn đầy chính khí, nhưng khi nói đến đoạn khúc mắc trong lòng, thì lại thấy khó mở miệng, thế nên rụt rè.

“Cứ phải thế nào”

Khánh Kỵ tươi cười nhìn Quý Tôn Tiểu Man, khiến Quý Tôn Tiểu Man càng cảm thấy quẫn bách, càng không dám hỏi tiếp.

“Sao nàng lại không nói?”

Quý Tôn Tiểu Man nghiến răng, …..: “Ngài và Thành Bích rốt cuộc là có quan hệ gì?”

Khánh Kỵ giật mình, có đôi chút do dự, hắn nói: “Ta đã nói rồi, không lẽ nàng… không hiểu ta và nàng ấy rốt cuộc là quan hệ như thế nào sao?”

Hai má của Quý Tôn Tiểu Man ứng đỏ cả lên, rụt rè nói: “Ngài chỉ là… hay là muốn… muốn…”

Khánh Kỵ nghiêm chỉnh đáp: “Đương nhiên ta không phải trêu hoa ghẹo nguyệt. Người con gái mà ta thích, ta tin rằng không có nam nhân nào lại không thích, ta không có thói quen đùa giỡn tình cảm, với Thành Bích, cho dù nàng xem thường nàng ấy, thậm chí không thừa nhận những việc nàng ấy đã làm cho dòng họ Quý Tôn, trong mắt nàng, nàng ấy chỉ là một nô tì, trên danh nghĩa mà nói thì đúng là như thế, thế nhưng ta rất tôn trọng nàng ấy, nàng ấy là một cô nương thật lòng thật dạ, chứ không phải người lẳng lơ chỉ thích chuyện chăn gối, khi ta chấp nhận đến với nàng ấy, ta đã quyết định, chỉ cần ta còn sống, chỉ cần ta giành lại nước Ngô, ta sẽ về đón nàng ấy, khiến nàng ấy danh chính ngôn thuận trở thành phu nhân bên cạnh ta.”

Quý Tôn Tiểu Man thở dài, vẻ mặt như giãn ra, nhưng trong ánh mắt nàng như có thêm một cảm giác phức tạp khó tả, là thất vọng, ngao ngán, hay là đố kỵ? Hoặc giả nàng ấy chưa từng có những tình cảm này, tóm lại, nàng ấy cũng có phần không thoải mái, và dường như có chút trống rỗng.

“Tại sao nàng lại hỏi vậy?”

Quý Tôn Tiểu Man lắc đầu, sau đó nhìn hắn, trên gương mặt thơ ngây có thêm nét nghiêm túc và trịnh trọng: “ Từ khi ta biết.. những gì mà mẫu thân đã làm với nàng ấy, ta đã không còn hận nàng ấy. Nhưng… trong ta đang chảy dòng máu của dòng họ Quý Tôn, đệ đệ còn nhỏ, ta phải gánh vác dòng họ này. Vốn dĩ, ta lo nàng ấy sẽ kết cấu với gia nô làm loạn, bán đứng Quý Tôn thị. Đến khi biết mẫu thân có lỗi với nàng ấy…”

Quý Tôn Tiểu Man ngập ngừng, nói: “Ta về Khúc Phụ, là muốn tìm một cơ hội thích hợp, lấy danh nghĩa là đại tiểu thư của Quý Tôn Tử Phi nói rõ sự việc với gia chủ, trả lại sự trong sạch cho nàng ấy, rời khỏi gia môn. Nếu người đó là ngài, nếu ngài không phải hạng trêu hoa ghẹo nguyệt, không phải tiếp cận nàng ấy vì tham số gia sản của nàng ấy, được! Ta hứa với ngài, gả nàng ấy cho Ngài!”

Quý Tôn Tiểu Man là con gái chính thất của Quý Tôn Tử Phi, thân phận cao quý, còn Thành Bích chỉ là một phần tài sản của Quý Gia. Nếu Thành Bích phu nhân không có người nối dõi, thì một khi Quý Tôn Tử Phi mất, Quý Tôn Tiểu Man sẽ là đương gia, Thành Bích chỉ là một tì thiếp, Quý Tôn Tiểu Man được quyền bán cho người khác, hoặc tặng cho người khác làm thiếp hoặc nô tì. Nếu Quý Tôn Tiểu Man là nam nhân, chỉ cần nàng ấy thích, nàng ấy thậm chí có thể giữ tì thiếp của phụ thân lại cho bản thân dùng, điều này cũng hoàn toàn hợp với lễ pháp.

Dù cho Thành Bích sinh được người nối dõi cho Quý Tôn Tử Phi, nhưng đứa con này cũng không được xem là con của nàng ấy. Trên danh nghĩa, Quý Tôn Sanh vẫn là con của Ngải thị Chánh phu nhân. Chỉ là có quan hệ huyết thống với nàng ấy, do vậy địa vị của nàng ấy ở Quý Gia có phần khác biệt, xét cho cùng, nàng ấy vẫn là một phần tài sản có thể tùy ý xử lý của Quý gia, Khi đó Quý Tôn muốn lôi kéo Khánh Kỵ tùy tiện ra chủ ý nhường Thành Bích cho hắn, là vì trong mắt Quý Tôn, ko hề xem nàng ấy là người đàn bà của Quý Tôn thị.

Tuy trong tương lai hài nhi thân sinh của nàng ấy sẽ là Quý gia gia chủ, nhưng hiện giờ trái tim nàng ấy đã thuộc về nơi khác, thì bùa hộ mệnh này cũng mất đi tác dụng, trước khi đệ đệ đến tuổi trưởng thành để đảm nhận vai trò gia chủ, thì Quý Tôn Tiểu Man có quyền xử lý nàng ấy. Quý Tôn Tiểu Man nói như vậy, trên thực tế là một biểu hiện tốt đối với Khánh Kỵ, đồng thời cũng xem như là bù đắp cho những gì mà năm xưa mẫu thân đã gây ra cho Thành Bích.

Khẩu khí của nàng, và việc xem Thành Bích như là một món hàng không có nhân cách và tôn nghiêm, khiến Khánh Kỵ nghe qua có chút không hài lòng. Nhưng hắn có thể hiểu ý tốt của Quý Tôn Tiểu Man, cũng hiểu rõ rằng những người như Quý Tôn Tiểu Man sinh trưởng vào thời đại này, muốn thay đổi cách nhìn của họ, xem Thành Bích bình đẳng với nàng ấy, thì thật khó gấp vạn lần, nàng ấy có thể có thái độ như thế, đã là đáng quý rồi.

“Hình như người… không được vui?” Quý Tôn Tiểu Man vốn cho rằng hắn sẽ vui mừng hớn hở mà cám ơn nàng, nhưng không ngờ hắn lại lặng đi, không kềm được hiếu kỳ nên hỏi.

Khánh Kỵ lắc đầu: “Không có gì, việc này… hãy để đến khi ta chinh phạt nước Ngô rồi hẵng tính, bây giờ, toàn bộ tâm ý của ta đều để ở trận chiến vào tháng ba năm sau, trận chiến này nếu thất bại, thì chẳng phải bàn gì nữa cả.”

Hắn quay mặt về phía Quý Tôn Tiểu Man, nhẹ nhàng nói: “Nàng là một cô nương tốt, tâm địa lương thiện, trông bề ngoài đanh đá chua ngoa, nhưng đó là cách mà nàng tự bảo vệ mình, nhưng bên trong nàng không kiêu ngạo, không nói lý lẽ như những tiểu thư đài các khác, Tiểu Ngải, nếu Khánh Kỵ chẳng may bỏ mạng trong trận chiến với nước Ngô, xin nàng hãy niệm tình của Khánh Kỵ, mà thiện đãi Thành Bích.”

Quý Tôn Tiểu Man mặt ửng đỏ, đôi mắt ngấn lệ, nàng cũng ko biết là do Khánh Kỵ đã nhìn thấu được bản chất của nàng, hay là vì việc Khánh Kỵ nói về những nguy hiểm của trận chiến với nước Ngô. Nghe hắn nói cứ như đang dặn dò hậu sự vậy, nhìn sự mềm yếu hiếm khi thấy trên mặt hắn…. tóm lại, trong lòng nàng ấy thấy khó chịu, chỉ muốn khóc mà thôi.

“Đừng quá lo lắng, bằng sự dũng mãnh của ngài, và sức mạnh của ba quân Lỗ, Vệ, Sở, thêm nữa ngài danh chính ngôn thuận mang thân phận thế tử, chinh phạt nước Ngô chưa chắc đã không thành. Viên Công là đệ nhất kiếm khách của nước Lỗ, cái danh đệ nhất kiếm khách này, hắn có được là do chinh chiến trên sa trường, Ta là thân nữ nhi, tuy từ nhỏ đã luyện tập võ nghệ, nhưng vì thể chất yếu ớt, nên cũng khó mà tinh thông như hắn, chứ chẳng phải ta không thường xuyên luyện tập kiếm pháp của Viên Công. Khi đã đến Ngải thành, ta sẽ truyền lại toàn bộ bí quyết kiếm thuật cho binh sĩ của ngài, giúp ngài như hổ thêm cánh.”

Quý Tôn Tiểu Man giọng nói nhỏ nhẹ, với bản năng của một cô nương, khiến nàng ấy muốn dốc hết toàn tâm toàn ý để giúp đỡ Khánh Kỵ.

“Ừm!” Khánh Kỵ liếc nhìn nàng ấy, ánh mắt dường như có vẻ đùa cợt.

Quý Tôn Tiểu Man nhìn bộ dạng nửa đùa nửa thật của hắn, toàn thân nàng lại cảm thấy không tự nhiên, Nàng nép về phía bên cửa sổ, mở to mắt nói: “Sao ngài lại nhìn ta như thế?”

Khánh Kỵ bỗng nhiên phát ra tiếng ừm vô nghĩa, vừa xoa cằm vừa nói: “Ta đang nghĩ… vậy ta nên cảm ơn nàng như thế nào đây.”

“Thật là ngốc, còn cảm ơn ta như thế nào à? Đây là do ta tự nguyện, nói không chừng, ngài sẽ cho ta bái tướng phong hầu? Thiên hạ này không có nữ nhi làm quan.” Quý Tôn Tiểu Man cười lớn, bỗng chốc tâm trạng thoải mái hơn nhiều.

Khánh Kỵ ra vẻ sầu não nói: “Đúng vậy, nếu ta có thật bái nàng làm tướng, phong nàng làm Thượng Khanh, chỉ e mọi người đều đồng ý, nàng cũng không màng.”

Quý Tôn Tiểu Man cười lớn đến híp cả mắt lại: “Người như ngài, sao lại trở nên khách sáo thế? Ta chỉ muốn giúp ngài, chứ chẳng ham gì của ngài cả.” Nàng ưỡn ngực, vui vẻ nói: “Ừm… nghĩ lại thì, Khánh Kỵ chinh phạt nước Ngô, một phần nhờ đại công của ta, vậy cũng đã mãn nguyện rồi.

Khánh Kỵ cười, nụ cười có vẻ ác ý: “Ta đang nghĩ. Nếu ta trở thành Ngô Vương, với thân phận Ngô Vương, là chư hầu một nước, ta muốn cưới Tư Không đại tiểu thư của nước Lỗ, một mình nàng ấy gả về đây thì không đúng về mặt lễ nghĩa, không biết Tam Hoàn nước Lỗ… có thể gả cả em dâu, để biểu thị tình hảo hữu không?”

Vào thời Xuân Thu. Chư hầu lập phu nhân đa số đều được tiến hành giữa các nước chư hầu có tình gi­ao hảo với nhau, tỉ như Tề Hoàn Công từng lập tiểu nữ của Châu Thiên Tử là Vương Cơ, tiểu nữ của Từ Quốc là Từ Doanh và tiểu nữ của Thái Quốc là Thái Cơ làm phu nhân, ngoài ra còn nạp thêm tiểu nữ của các nước Vệ, Đặng, Cát, Mật và Tống làm chuẩn phu nhân. Tấn Hiến Công từng lập tiểu nữ của Giả Quốc là Giả Cơ, tiểu nữ của Tề quốc là Tề Khương, các tiểu nữ của Nhung Địch là Hồ Cơ, tiểu Nhung Tử và Ly Cơ làm Phu Nhân. Sở Thành Vương cũng từng lập tiểu nữ của Nước Tần và nước Đặng làm phu nhân, Sở Trang Vương lập tiểu nữ của nước Đặng và nước Việt làm phu nhân. Các vị phu nhân này địa vị như nhau, mỗi vị phu nhân khi xuất giá đều mang theo vài nữ nhi tôn thất cùng họ làm chuẩn phu nhân, những gì Khánh Kỵ nói có vẻ thẳng thắn, nhưng kỳ thật là rất có khả năng.

Thúc Tôn Diêu Quang không có tỷ muội, chỉ có một đứa cháu gái nhỏ hơn nàng ba tuổi. Chư Hầu lập phi tần, đối với các chư hầu mà nói, việc nước Lỗ gả tiểu nữ, đối phương là đại vương nước Ngô, mà chỉ đem theo một cháu gái thì thật thất lễ, đây là một sai lầm mà một nước trọng lễ giáo như nước Lỗ không cho phép phạm phải, vậy thì… Tam Hoàn nước Lỗ liệu có…

Quý Tôn Tiểu Man giật thót người, tim nàng bắt đầu đập “thình thịch” loạn cả lên, gần như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực nàng, nàng đỏ cả mặt, mở to mắt nói: “Ngài có ý gì?”

Khánh Kỵ khẽ cười: “Không có gì, ta chỉ là đang nghĩ, hiện giờ có người không tôn trọng Thành Bích, xem nàng ấy như là một món hàng của Quý Tôn Tử Phi có thể tùy ý xử trí, nếu sau này họ cùng chung một phu quân, có thể nào sẽ cảm thấy khó xử không nhỉ?”

Quý Tôn Tiểu Man kêu lên thất thanh: “Ngài mơ à, Quý Tôn Tiểu Man ta ngay cả ngôi vị phu nhân nước Lỗ ta cũng không màng, ta thèm gả cho ngươi sao?”

Khánh Kỵ ưỡn ngực, cười nói: “Chư Hầu lập phi tần, là truyền thống thiên hạ, có gì mà không thể chứ? Còn về việc làm phu nhân nước Lỗ, hay làm phu nhân nước Ngô, ha ha, nàng thấy Khánh Kỵ so với Cơ Tống thì thế nào?”

Khánh Kỵ nhếch nhẹ chân mày đầy mê hoặc, răng trắng môi đỏ, mắt sáng mày ngài, khôi ngô tuấn tú như Khánh Kỵ mà so sánh với tên Cơ Tống nát rượu, quả đúng là một trời một vực. Huống hồ trong lòng nàng luôn ngưỡng mộ một đại anh hùng như Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man vốn muốn trêu đùa với hắn vài câu, nhưng khi thấy đôi mắt trong sáng của hắn, nàng bỗng cảm thấy xấu hổ. Nàng ngại ngùng quay mặt đi, tức tối nói: “Đúng là dở hơi, chưa giành lại được nước Ngô, mà đã nằm mộng giữa ban ngày.”

Khánh Kỵ cười nói: “Kỳ thực nếu nàng không thích, ta có ý này rất hay có thể giúp nàng ứng phó.”

“Sao?” Lý Tôn Tiểu Man quay về phía hắn, nhìn hắn với ánh mắt hiếu kỳ.

Khánh Kỵ nghiêm túc nói: “Kỳ thực những điều ta vừa nói rất có khả năng xảy ra, nếu một ngày nào đó gia chủ Quý Tôn thật muốn gả nàng để làm hoàng hậu nước Ngô, nếu nàng không đồng ý, nàng có thể làm như bây giờ, bỏ đi lần nữa.”

Trên mặt Quý Tôn Tiểu Man lộ nụ cười, Khánh Kỵ đang bàn việc hôn nhân đại sự của nàng ấy, nhưng dường như nàng chỉ xem việc này giống như một trò chơi thú vị, Quý Tôn Tiểu Man cười nói: “Chủ ý hay, ngài dám cưới ta, ta sẽ bỏ trốn, làm cho ngài mất hết thể diện. Ừm… nên trốn đến đâu thì được nhỉ?”

Khánh Kỵ nghiêm túc nói: “Đương nhiên là nước Ngô.”

“Hả?” Quý Tôn Tiểu Man mở to mắt há hốc mồm : “Vậy chẳng phải ta tự sa vào lưới sao?”

Khánh Kỵ thở dài, ra vẻ tự ái: “Ôi, một nam nhi anh hùng như Khánh Kỵ ta đây, thử hỏi trong thiên hạ có nữ nhi nào không muốn gả cho ta? Nàng đã không có ý gả cho ta, thì ta phải đích thân bắt nàng về cung bái đường, để cả thiên hạ đều biết nàng không phải tình nguyện gả cho ta, vậy chẳng phải là nàng rất có thể diện sao?”

“Ngài…” Quý Tôn Tiểu Man vừa tức vừa buồn cười: “ Sao ngài da mặt dày thế?”

“Lòng tự tôn của Quý Tôn Tiểu Thư sao mà dễ bị tổn thương thế”, Khánh Kỵ cười nói: “Nàng phải nhớ rằng, nếu nàng là do ta bắt về, vậy thì nhất định sẽ bị đánh một trận đòn đấy.”

Quý Tôn Tiểu Man toàn thân nóng lên, tay nắm chặt bao kiếm, giận dữ liếc nhìn hắn nói: “Ngài còn dám lấy ta ra trêu đùa nữa, ta sẽ một kiếm đâm chết ngài!”

“À…, đúng rồi,” Khánh Kỵ lập tức nói tiếp: “Ta nghe Di Hạ nói, Vệ Hầu về cung, sau khi ổn định chính sự, lập tức hạ lệnh cho những người ở phủ Công Mạnh Trập tìm kiếm một kiếm khách có tên Ngải Tử Man. Việc này đã gây nên nhiều tranh cãi, không biết diện mạo của Ngải Tử Man như thế nào, mà có thể khiến cho Vệ Hầu trong lúc đầy nguy cấp vẫn không quên được nàng ta.

Quý Tôn Tiểu Man chột dạ: “Ơ kìa… ta đến Phủ của Công Mạnh Trập không được mấy ngày, ta không hề quen người này?”

“Vậy sao?” Khánh Kỵ cười hi hi nhìn nàng ấy: “Tiểu Man cô nương nữ cải nam trang quả thực là ngọc thụ lâm phong, ngay cả ta cũng phải động lòng, thật tội cho Vệ Hầu, không tìm được ý trung nhân, chắc là đau lòng lắm, ôi! Hoạ thuỷ, đúng là hoạ thuỷ.”

Quý Tôn Tiểu Man từ e ngại chuyển sang tức giận, nói: “Ngài còn trêu đùa ta, thì khi đến Ngải thành, ta sẽ dạy cho binh sĩ của ngài mấy chiêu võ mèo quào, khiến ngài vỡ mộng phục Ngô, muốn khóc mà chẳng có nước mắt để khóc.”

Khánh Kỵ vui vẻ cười lớn: “Ha ha, được, đến Ngải thành, ta phải xem mấy chiêu võ mèo quào của Quý Tôn tướng quân đã đạt đến trình độ nào rồi.”

Quý Tôn Tiểu Man giận đến nghiến răng nghiến lợi, đột nhiên nàng giơ tay vỗ vào mông Khánh Kỵ, Khánh Kỵ vốn đã đoán trước nên nắm được cổ tay trắng trẻo của nàng, cười ha ha nói: “Quý Tôn Tiểu Man sao lại đối xử với ta vô lễ thế, bây giờ thì nàng vẫn chưa vỗ được?”

Quý Tôn Tiểu Man tức giận nói: “Thế đến khi nào ta mới được vỗ?”

Khánh Kỵ cười: “Đợi đến khi ta làm đại vương nước Ngô thì thế nào? Đến lúc đó nàng vỗ ta, ta vỗ nàng, nàng muốn vỗ bao lâu, vỗ…”

Tấm rèm cửa kiệu vừa được vén lên, Quý Tôn Tiểu Man ngại ngùng đến nỗi không dám ngửng mặt lên bèn lách mình ra khỏi kiệu, Khánh Kỵ cười lớn, trêu đùa vị tiểu cô nương này, khiến hắn cảm thấy vừa thư giãn vừa thú vị. Trên môi vẫn còn nụ cười, hắn lấy áo bào vẫn luôn để kế bên.

“Ê!” Khánh Kỵ vén tấm rèm cửa kiệu, đặt lên tay nàng ấy tấm áo bào nặng trịch của hắn: “Khoác lên đi, không thôi lạnh cóng mất.”

Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng không thèm để mắt tới hắn, Khánh Kỵ cười, buông tấm rèm cửa kiệu xuống. Quý Tôn Tiểu Man nhảy phắt sang chiếc xe của nàng, liền đó, nàng tung chiếc áo bào ra và khoác lên mình, từ trên xuống dưới đều nằm trọn trong chiếc áo bào của Khánh Kỵ, một luồng hơi ấm tràn vào trong tim nàng, trên khuôn mặt nàng bỗng chốc nở ra một nụ cười ngọt ngào mà đến ngay bản thân nàng cũng chưa nhận ra. Dường như, nàng đã bắt đầu quen cái cảm giác bông đùa, mập mờ, nhưng sau đó là quan tâm chăm sóc của Khánh Kỵ….

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 177: Mật đàm (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Các ngươi nhớ kỹ cho ta, hiện tại phải chịu khó chịu khổ một chút, đổ mồ hôi một chút, lên chiến trường cơ hội sống của các ngươi cũng sẽ lớn hơn một chút. Không cần phải nhìn ta, một ngày nào đó các ngươi sẽ chạy tới cám ơn ta đó! Tất cả đều dốc hết khí lực cho ta, đừng có giở trò mèo lúc đang luyện tập!”

Quý Tôn Tiểu Man hai tay chắp sau lưng, bước từng bước một, đi ở trong bãi luyện binh, học theo bộ dáng lớn tiếng nói chuyện của sư phó nàng khi khuyên bảo đồ đệ. Nàng mặc một thân võ phục màu trắng, tóc buộc sau lưng thành đuôi ngựa, oai hùng hiên ngang, vô cùng tuấn tú. Bộ võ phục màu trắng thuần làm nổi bật lên vẻ đẹp thanh tú duyên dáng của nàng, không biết có bao nhiêu người nhìn thấy cô nương này mà sẽ mắc phải bệnh tương tư.

Các sĩ tốt trên bãi luyện võ đều biết nàng là nữ nhi, nhưng không có ai vì nàng chỉ là một thiếu nữ tuổi bé người như hạt đậu mà khinh thị. Thân thủ kiếm kỹ cao minh của nàng cùng với phương pháp giáo huấn đồ đệ nghiêm khắc đã khiến cho những nam nhi bảy thước cũng phải có một loại kính sợ khó nói thành lời với nàng. Huống chi, một nữ hài tử xinh đẹp đáng yêu lại có thể làm giáo đầu trong quân đội, rất nhiều người cũng đã xem nàng như là nữ nhân của công tử Khánh Kỵ, càng thêm không dám đắc tội.

Ở trước mặt nàng là một đội kiếm thủ đang chia nhóm để diễn luyện, bên trái có một đội đang đổ mồ hôi như mưa luyện tập “không huy” (múa kiếm trên không). Dưới chân bọn họ là hai đốt tre, hai chân đạp lên thân tre trơn trượt, chân trước cong, chân sau thẳng, eo lưng phải thẳng tắp như núi, đã làm động tác múa kiếm cơ hồ hơn ngàn lần, một đám mệt đến nỗi lưng đều mỏi nhừ, nhưng mà giáo đầu ma quỷ đáng sợ Quý Tôn Tiểu Man này lại chưa cho phép bọn họ được dừng lại. Có người thể lực đã không chống đỡ nổi, ngồi xuống cũng không xong, đốt tre phía dưới đã bắt đầu theo động tác lóng ngóng của họ mà hơi hơi lăn qua lăn lại, một chút vô ý, chân sẽ bị trượt mà ngã xuống.

“Thẳng gối, thẳng mông, thẳng lưng, ngẩng đầu nhìn thẳng, không cúi cằm. Chú ý hô hấp, ngươi… bả vai thả lỏng, được rồi! Sau khi thu kiếm về mũi kiếm không được rủ xuống, một kiếm đánh ra xong mũi kiếm phải cách phía trước đan điền khoảng cách nửa nắm tay. Đừng có giả chết! Mỗi ngày buổi sáng ‘không huy’ ba ngàn kiếm, ít hơn một kiếm cũng không được nghỉ ngơi!”

Quý Tôn Tiểu Man lớn tiếng quát lớn, căn bản là không để ý tới ánh mắt cầu xin của những sĩ tốt này. Chuyển thân đi, nàng lại đi tới một đội hình ở giữa. Những người ở đội hình này đang luyện tập ‘đi kiếm’, một vài giáo đầu Quý Tôn Tiểu Man đã huấn luyện trước đó đang cẩn thận tỉ mỉ chỉ huy mọi người luyện tập hít thở tuần hoàn. Mỗi một binh lính ôm ở trong ngực một tảng đá lớn, trên đùi cột một bao cát, đầu gối dùng gậy trúc cố định không thể cong lại. Mấy bước hít vào, mấy bước thở ra, đều đã có quy định nghiêm ngặt. Vừa thấy vị thiếu niên tuấn tú này đi tới trước mặt bọn họ, người trong đội này vội vàng đề cao tinh thần, không có một ai dám biểu lộ ra bộ dáng mệt mỏi.

Dựa theo quy luật do Quý Tôn Tiểu Man đề ra, mệt mỏi, đại biểu rằng ngươi luyện còn chưa tới nơi, thuyết minh rằng thể lực của ngươi còn chưa được đề cao, sẽ chỉ khiến nàng đưa tới cường độ huấn luyện lớn hơn, chứ không có chuyện thương hại. Biện pháp trừng phạt của Quý Tôn Tiểu Man đúng thực là đáng sợ, những người không phục theo quân lệnh đều có chế tài nghiêm khắc. Có vài người ỷ rằng mình là lão binh vẫn đi theo Khánh Kỵ, có chút thâm niên, liền chạy tới tố khổ với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ rất kiên nhẫn lắng nghe bọn họ kể khổ, đồng tình an ủi một phen, sau đó lại phái bọn họ trở về.

Tới khi trở về, Quý Tôn Tiểu Man cô nương chính là đang trừng mắt hạnh, thần tình cười lạnh đứng ở trong bãi luyện binh chờ bọn họ. Ở phía sau nàng, là một nhánh đại quân sắp xếp chỉnh tề, khí thế ngất trời. Kết quả là, những binh lính đi tố cáo này đều bị làm thêm gấp đôi, sau khi thực hiện hình phạt xong, nhưng binh lính này phải được những huynh đệ khác nâng đỡ về doanh trại, một đám mệt mỏi cơ hồ muốn nát xương.

Tên hiệu “Tiểu Ngải ma quỷ” được lan truyền nhanh chóng, những đại hán ôm nỗi hận nằm úp sấp trên giường, một bên oán giận kêu khổ thấu trời, một bên nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa nữ nhân của Khánh Kỵ này tốt nhất là ban đêm sẽ bị hắn “khi dễ” thật độc ác, để buổi sáng không rời nổi giường, khiến bọn họ có thể thoát khỏi khổ ải. Ai ngờ vị tiểu cô nương thích mặc nam trang này lại có thể lực tốt phi thường, mỗi ngày trời còn chưa sáng, nàng đã tinh thần dồi dào đứng ở một chỗ trong doanh trại, dùng thanh âm thanh thúy dễ nghe của nàng gọi mọi người rời giường luyện kiếm, ở phía sau nàng, chính là hai đại hán vung vẩy cây roi. Những binh lính bưu hãn dũng mãnh dưới tiếng quát của Quý Tôn Tiểu Man cùng với tiếng roi da uy hiếp đành phải ngoan ngoãn đứng lên chạy ra bãi luyện binh, ngoan như một bầy cừu non vậy.

Đội binh lính số ba cũng đã sống sót qua gi­ai đoạn ‘ Đi kiếm’ cùng ‘Không huy’, đang cầm trường kiếm trong tay chiến đấu lẫn nhau, tiến hành luyện tập thực chiến. Quý Tôn Tiểu Man chắp tay sau lưng đứng ở một bên, rất nghiêm túc nhìn những binh sĩ cao hơn nàng cả cái đầu vung kiếm đối chiến, một bên cao giọng chỉ điểm cho họ: “Tốt! Cứ như vậy, một chém một đâm, dùng lực cả người; chân bước liên tục, thân mình tiến lui theo kiếm; từng bước tiến lên, lúc nào cũng phải thủ thắng; địch vội vàng thì ta đợi, chờ cho lực cũ của hắn vừa phát ra, lực mới còn chưa phát kịp thì toàn lực đánh tới. Địch muốn lui, chớ mau chóng đuổi theo; địch gấp rút tiến lên, chớ hoảng loạn mất cự ly…”

Trên bãi thao luyện truyền ra từng đợt “keng keng keng” của kiếm kích. Kiếm thuật của Trung Quốc cổ là cầm kiếm bằng cả hai tay, hơi giống như kiếm đạo hậu thế của Nhật Bản. Kiếm chiêu hoa mỹ không nhiều lắm, kiếm thức sắc bén, chiêu chiêu tàn nhẫn, đó là những chiêu thức giết người không hề màu mè, động tác nhìn cũng không đẹp, nhưng mà sát khí lăng nhân, đúng là kiếm thuật thực chiến chiêu chiêu thấy huyết.

“Đúng thực là không tồi, kiếm thuật thực chiến của nàng rất mạnh mẽ, chỉ trong thời gi­an ngắn ngủi, khả năng đánh giáp lá cà của binh sĩ đã được đề cao lên rất nhiều!” Khánh Kỵ khoanh tay đứng ở xa xa, nhìn những binh sĩ như đất rừng đang vung kiếm trong diễn võ trường, vui vẻ nói. Đứng phía sau hắn là Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, A Cừu, Tái Cừu và vài vị tướng lãnh.

Kiếm thuật của chính Khánh Kỵ cũng không phải cao minh, nhưng hắn lấy chính mình làm một quân địch giả tưởng (quân xanh) cầm kiếm, so sánh lúc trước và bây giờ, đương nhiên có thể thấy được chiến lực của bọn họ có tăng lên hay không.

“Đúng vậy, đáng tiếc thời gi­an lại hơi ngắn, nếu để cho nàng dốc lòng truyền thụ ba năm, kiếm sĩ dưới trướng công tử, chiến đấu trên bộ sẽ là vô đối thủ.” Lương Hổ Tử tiếc nuối nói.

“Ừm!” Khánh Kỵ gật gật đầu: “Đó chính là chỗ mâu thuẫn. Thời hạn phạt Ngô càng sớm, đối với quân tâm sĩ khí của chúng ta càng có lợi, lại càng bất lợi đối với Cơ Quang vừa mới khống chế được toàn cảnh Ngô quốc, còn chưa thể dễ dàng sai khiến. Nhưng mà cùng lúc đó, đối với chúng ta cũng chứa nhiều bất lợi, một là hữu hạn trong việc thu nạp binh lính, hai là hữu hạn trong việc thao luyện tân binh. Ưu khuyết là thế, chỉ có chính chúng ta mới có thể lựa chọn.”

Hắn ngừng lại một, bỗng cười nói: “Có điều đối với lợi hại trong đó, kỳ thật phạt Ngô lúc này nên càng sớm càng tốt. Sau khi phạt Ngô thành công, chúng ta cũng sẽ không phải giấu kiếm trong kho, ngựa thả trong núi nữa, hôm nay để cho bọn họ học một chút kiếm kỹ, sớm muộn gì cũng sẽ có lúc phải dùng đến.”

Kinh Lâm hiểu ý cười nói: “Công tử nói đúng. Công tử nhà ta là anh hùng thiên hạ, sao có thể chịu giới hạn ở một cái xó ở Đông Nam mà làm đại vương. Đợi công tử phục quốc thành công, chúng ta còn có cả thiên hạ rộng lớn để đánh mà.”

Khánh Kỵ cười cười: “Những lời này phải lén nói một chút, không thể nói ra ngoài được. Không nên nói, toàn bộ lực chú ý trước mắt của chúng ta còn phải đặt lên việc phạt Ngô phục quốc, không thể tính toán xa xôi.”

Hắn bước lên một gò đất cao, phóng mắt nhìn quanh toàn bộ bãi luyện binh, hỏi: “Tin tức của Ngải thành, Phi Hồ cốc cùng với Sở quốc còn chưa được truyền về, tiếp tục phái người tăng cường liên lạc, một khi có tin tức phải lập tức nói cho ta biết.”

Kinh Lâm nói: “Vâng, công tử xin yên tâm, về phương diện này kẻ hèn đã an bài những người chuyên trách chịu trách nhiệm.”

“Báo công tử, có một nhóm dũng sĩ Tấn quốc xin đầu nhập.” Xa xa một gã chiến sĩ chạy tới, đứng ở dưới gò đất bẩm báo với Khánh Kỵ.

Lương Hổ Tử vui vẻ cười nói: “Ha ha, hay lắm. Công tử, trận chiến Thanh Ngõa Quan của chúng ta quả là không uổng phí công phu, Tề Báo lão tiểu tử này quả thực là ‘ bánh ít đi, bánh quy lại’, hiện giờ Vệ quốc quả nhiên không hạn chế dũng sĩ các nước khác tới đầu nhập. Đây đã là nhóm thứ sáu… Không đúng, là nhóm tráng sĩ thứ bảy từ Tần Tấn mấy nước tới đầu nhập phải không?”

Kinh Lâm mỉm cười: “Là nhóm thứ chín. Những người trong vùng của Vệ quốc tới đầu nhập cũng nối liền không dứt, có điều phải nói là những dũng sĩ tới từ nước khác, vô luận là tài nghệ hay là khí lực đều lợi hại hơn một chút, chỉ cần huấn luyện một ít là có thể tham gia chiến đấu. Kẻ hèn đi nghênh đón bọn họ.”

Khánh Kỵ mỉm cười nói: “Được, ngươi đi đi, tối muộn, ta sẽ đích thân tiếp kiến hai nhóm dũng sĩ mới tới này.”

“Ta cũng đi, ta cũng đi. Binh ở dưới trướng của ta phần lớn đều là nông phu hạ cuốc, ta phải chọn lấy vài người đắc lực để đảm nhiệm ngũ trưởng, thập trưởng (quản lí nhóm 5 hay 10 người).” A Cừu vừa mới tấn chức lên làm thiên tướng vội vàng reo lên.

Khánh Kỵ mỉm cười: “Các ngươi đều đi đi, nên tiếp đãi thì tiếp đãi, muốn chọn người thì chọn người, tất cả mọi người vội chuyện của mình đi, ta tùy ý đi một chút.”

“Rõ!” Chúng tướng nhất tề chắp tay, đều tự tản đi.

Khánh Kỵ bước đi về phía bãi luyện binh.

“Công tử! Công tử!” Rất nhiều người tới tấp dừng chân, hạ trường kiếm thi lễ với Khánh Kỵ. Kỳ thật trên bãi luyện binh cũng không có nhiều quy củ như vậy, bọn họ phần lớn chỉ là kiếm cớ để được nghỉ ngơi một chút mà thôi. Khánh Kỵ trong lòng biết rõ ràng, cũng không nói ra.

“Này! Ta đang luyện binh, ngài tới đây làm loạn cái gì đấy?” Quý Tôn Tiểu Man oán hận đi tới, những binh lính này ngưng kiếm thi lễ với chủ soái, cũng không tính là lỗi, nàng không tiện trừng phạt, đành phải giận cá chém thớt sang Khánh Kỵ.

“Tiếp tục luyện, luyện binh trường, như chiến trường. Ở trên chiến trường, không phải ngươi chết, thì là ta sống, ai cho ngươi có thời gi­an mà cúi chào chủ soái? Tiếp tục luyện cho ta, ai dám giờ trò mèo, buổi tối múa kiếm sáu ngàn lần!” Quý Tôn Tiểu Man răn đe xong Khánh Kỵ, quay đầu hét lớn một tiếng, y như sư tử Hà Đông.

Những binh lính này thấy bị nàng nhìn xuyên chân tướng, lập tức lè lưỡi, cầm lấy kiếm tiếp tục khoa tay múa chân, vung kiếm thì vung kiếm, ôm đá thì ôm đá, đối luyện thì đối luyện, một đám nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa ở trong lòng một nguyện vọng vẫn chưa được thực hiện: “Ông trời phù hộ, để cho ả ngày mai bị công tử làm cho không rời nổi giường…”

“Ha ha, tốt lắm, thực có vài phần phong phạm Đại tướng quân.” Khánh Kỵ mỉm cười, ánh mắt đảo qua khắp nơi, vui vẻ nói: “Như vậy là ta an tâm, vốn còn lo lắng nàng giấu bí mật không truyền dạy, thực sự chỉ dạy cho người của ta mấy kiếm pháp sứt sẹo, nhưng hiện giờ nhìn thấy Tiểu Ngải tướng quân tận tâm tận lực như vậy, Khánh Kỵ thực đúng là vô cùng cảm kích.”

Khánh Kỵ cười đến mức bộ dáng có chút hơi quỷ dị, Quý Tôn Tiểu Man tâm tư mẫn cảm nhất thời cảm thấy vô cùng xấu hổ: “Lời này là có ý tứ gì? Bảo bổn cô nương tận tâm hết sức, có vẻ bất thường, hắn ý là bảo ta nhanh chóng gả cho hắn à?” Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt sẵng giọng : “Ai bảo ta ra sức dạy cho bọn hắn, cái ta hiện giờ đang dạy, chính là kiếm pháp sứt sẹo nhất!”

“Chậc chậc chậc, kiếm pháp sứt sẹo nhất mà đã là kiếm pháp giết người hữu hiệu như vậy? Ta hẳn là nên sớm cưới nàng… A, không phải, mời nàng về mới đúng.”

Khánh Kỵ cố ý nói sai, sau đó hài lòng nhìn Quý Tôn Tiểu Man, quả nhiên là đỏ mặt, ngay cả cổ trắng nõn cũng nổi lên ráng đỏ, cặp mắt hạnh quyến rũ tận lực mở lớn ra trừng hắn, nhưng mà phối hợp với dung nhan của nàng, lại hoàn toàn chẳng sinh ra được chút lực uy hiếp nào.

“Công tử, công tử..” Xa xa có một người chạy tới, khi tới trước mặt thở không ra hơi nói: “Công tử, tín sứ từ nước Sở đưa tin tới rồi.”

“Ồ?” Khánh Kỵ mừng rỡ, không đùa với Tiểu Ngải nữa, bước nhanh vài bước theo sĩ tốt kia, bỗng nhiên ngừng lại, quay đầu cười nói: “Đêm nay bản công tử thiết yến, là đón gió tẩy trần cho hai nhóm huynh đệ mới đầu nhập, nàng cũng tới đi.”

“Không đi có được không?”

“Đây là quân lệnh!”

“Ta khinh!”

“Ách…, Khánh Kỵ thành tâm mời Ngải tướng quân dự tiệc, không biết tướng quân có chịu vui lòng đến dự không?”

“Hừ, nếu như vậy, bổn cô nương còn xem xét một chút.”

Quý Tôn Tiểu Man chắp tay sau lưng, nhìn thân ảnh nhanh chóng rời đi của hắn, bỗng nhiên ‘phì’ một tiếng nở nụ cười.

“Chỉ cần dũng cảm tác chiến, lập nhiều chiến công, bản công tử không hỏi xuất thân, mỗi người đều có cơ hội lên chức tướng quân. Khánh Kỵ một khi phục quốc, khi đó các huynh đệ sẽ được phong thê ấm tử (công thần thời phong kiến, vợ được ban tước hiệu, con được tập ấm làm quan), tiền đồ vô lượng. Có điều, đây đều là chuyện để sau nói, hiển nhiên những ngày tới, các vị huynh đệ sẽ là sĩ tốt trong quân, phải chịu sự ước thúc của quân pháp quân kỷ. Mọi người phải quý trọng cơ hội, đêm nay hãy tận tình uống cho thống khoái, nếu muốn sảng khoái một chút, đêm nay nữ lư trong quân cũng sẽ miễn phí cho các vị, nhưng chỉ giới hạn đến tối muộn! Tới, chúng ta cạn chén này.”

Khánh Kỵ nói xong, giơ cao một bát rượu, uống một hơi cạn sạch thứ rượu cao lương mà quân phòng thủ Ngải thành tự ủ, chùi chùi miệng, rồi chắp tay với những dũng sĩ mới đầu nhập đang ngả ngốn hướng về phía hắn kính rượu, nói: “Mọi người hãy tận tình uống cho thống khoái, bản công tử kém tửu lực, xin về phòng nghỉ tạm…” Khánh Kỵ làm ra bộ dáng say rượu, rung rung lắc lắc tiến vào đại sảnh, xuyên qua phòng lớn, tiến vào một cái phòng khách riêng, cước bộ lập tức trở nên vững vàng. Đã ở sẵn trong phòng, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, A Cừu hai huynh đệ, cùng một vài thân tín gần đây nhờ tác chiến dũng cảm được tấn chức làm tướng lĩnh vừa thấy hắn tới, lập tức đồng loạt đứng dậy: “Công tử!”

“Đến đến đến, ngồi xuống nói chuyện.” Khánh Kỵ đi tới ngồi xuống cái chiếu phía trước, mọi người lần lượt ngồi xuống theo hình vuông.

Khánh Kỵ thần sắc trang nghiêm, nói: “Buổi chiều nay nghe ngóng được một chút tin tức từ Sở quốc đưa tới, ta đã nghiêm túc suy xét hồi lâu, có một số việc, quyết định cùng mọi người thương nghị một chút.”

Lần này phạt Ngô sắp đến, có một số việc phải làm cho trong lòng các tướng lĩnh thủ hạ được biết rõ ràng. Khánh Kỵ buổi chiều từ tín sứ do Yểm Dư, Chúc Dung phái tới biết được một ít tình hình hiện giờ ở Sở quốc, cảm giác rất rõ tình thế gấp gáp. Hắn mặc dù muốn ở lại Ngải thành, thẳng tới khi phát binh phạt Ngô, nhưng mà giờ phút này xem ra, hắn phải rời khỏi Ngải thành tự mình đi tới Sở quốc một chuyến, nói như vậy, hắn vẫn phải để cho các tướng lĩnh hoàn toàn hiểu được phương hướng của hắn, để tránh ảnh hưởng đến quân tâm sĩ khí.

Trong những người đang ngồi, Kinh Lâm chính là phụ trách công việc chiêu binh. Đêm nay khoản đãi những dũng sĩ mới đầu nhập, hắn cũng đã uống được vài chén. Kinh Lâm vốn không giỏi uống rượu, lúc này khuôn mặt đỏ bừng cả lên, hai mắt có chút cụp xuống, ngồi ở một chỗ thân mình lay động. Khánh Kỵ thấy vậy cười nói: “Đều là huynh đệ một nhà, chúng ta bí mật thương nghị sự tình, không cần phải giữ lễ tiết. Kinh Lâm, nước trà này có thể giải rượu, ngươi uống đi, cho hết mệt mỏi.”

Kinh Lâm ngại ngùng nói: “Đa tạ công tử, Kinh Lâm vốn không giỏi uống rượu, mà mấy dũng sĩ Tấn Tần kia lại giỏi uống, Kinh Lâm kiên trì uống được mấy chén, thực có chút không chống đỡ được.”

Khánh Kỵ cười, nghiêm nghị nói: “Chư vị, hôm nay Khánh Kỵ thu được tin tức từ nước Sở, Cơ Quang sai Bá lãnh binh, đuổi giết không ngừng hai vị Vương thúc Yểm Dư, Chúc Dung. Mà Sở Vương lại cố ý lợi dụng Yểm Dư, Chúc Dung hai vị Vương thúc làm tiêu hao binh lực Cơ Quang, cho nên luôn đặt họ vào những địa phương tiếp xúc chính diện với binh mã của Cơ Quang, hiện giờ binh mã của Yểm Dư, Chúc Dung hai vị Vương thúc đã tiêu hao gần như không còn.”

Mọi người vừa nghe thấy vậy, tất cả đều nghiêm nghị. Khánh Kỵ phạt Ngô, sớm đã định ra kế hoạch, phải nhờ Sở quốc Yểm Dư, Chúc Dung hấp dẫn sự chú ý của Ngô quân, tác dụng là để phân rã làm suy yếu binh lực Ngô quân. Nếu binh lực của bọn họ tiêu hao gần như không còn, không khác nào thuyết minh tháng ba năm sau cuộc chiến phạt Ngô, Khánh Kỵ chỉ có thể một mình chiến đấu, hắn không thể đạt được mục đích chia thành ba đường, đồng loạt xuất kích. Lương Hổ Tử đám người là những tướng lãnh tâm phúc của hắn, đối với toàn bộ kế hoạch của hắn thì biết rất rõ, vừa nghe thấy lời này, nhất thời kinh sợ xúc động, ngay cả Kinh Lâm say rượu cũng có vài phần tỉnh táo trở lại.

“Công tử không nên lo lắng quá, tháng ba năm nay khi phạt Ngô, không có sự tương trợ của Yểm Dư Chúc Dung hai vị công tử, chúng ta không phải là vẫn công đâu thắng đó, bách chiến bách thắng sao? Nếu không phải Cơ Quang sai Yêu Ly ám sát, chúng ta hiện giờ sớm đã đóng quân ở đô thành Ngô quốc. Cho dù hiện tại không có sự tương trợ của hai vị công tử Yểm Dư, Chúc Dung ở Sở quốc, chúng ta vẫn có thể đánh trở lại Ngô quốc!”

Lương Hổ Tử hiện giờ tuy là bị cụt một tay, nhưng sự vũ dũng hung hãn không giảm đi chút nào, mắt thấy mọi người trầm mặc, sĩ khí có chút giảm xuống, lập tức chau mày nói. Khánh Kỵ cười cười: “Đương nhiên, Ngô quốc đúng là vô luận thế nào cũng phải đánh, hơn nữa còn phải càng sớm càng tốt. Nhưng mà bây giờ với ngày xưa khác nhau, Cơ Quang ngày trước quân tâm chưa ổn định, hơn nữa lúc ấy hắn còn chưa hoàn toàn nắm giữ Ngô quốc, còn phải dùng nhiều lực để phòng bị phản loạn bên trong, cho nên chúng ta mới có thể có thế thắng như chẻ tre. Hiện giờ đã qua hơn một năm khổ công chuẩn bị, chúng ta gi­ao thủ cùng với Ngô quân, cho dù binh lực của đối phương vẫn chưa gia tăng, cũng tuyệt đối không có dễ dàng như lần trước.”

Hắn im lặng một lát, rồi lại từ từ nói: “Tháng ba năm sau, là thời điểm chúng ta phạt Ngô. Nếu lần này lại bại, thế lực của Cơ Quang tại Ngô quốc sẽ ổn định như Thái sơn, không bao giờ chúng ta có thể lay động được nữa. Có lẽ, ta phải chờ tới vài thập niên sau, tới khi trong lòng Ngô quốc xuất hiện rung chuyển kịch liệt, khi đó mới có thể lại có cơ hội. Nhưng mà, cơ hội đó thực rất xa vời, vài thập niên sau… Ai còn nhớ tới Khánh Kỵ công tử nữa?”

Ánh mắt của hắn lướt qua khuôn mặt các tướng lĩnh, trầm giọng nói: “Ta đã cẩn thận suy xét tình hình địch ta khi phạt Ngô, cùng với tất cả các điều kiện mà chúng ta có thể lợi dụng, hiện tại sẽ mang những gì ta đã phân tích ra để bàn bạc với mọi người.”

Chúng tướng yên lặng lắng nghe, ngọn đèn chiếu lên khuôn mặt Khánh Kỵ, một bên rõ ràng, một bên lại trong bóng tối: “Về phương diện chúng ta mà nói, mấu chốt của việc phạt Ngô, một bên là binh lực, một bên là thời cơ. Chúng ta muốn phạt Ngô phục quốc, binh lực đương nhiên là càng nhiều càng tốt. Nhưng mà thời gi­an phạt Ngô lại phải càng sớm càng tốt, phạt Ngô càng chậm thì toàn bộ thế cục càng biến hóa có lợi cho Cơ Quang, lại càng bất lợi cho chúng ta. Nhưng mà muốn nhanh chóng phạt Ngô, lại mâu thuẫn với việc phát triển binh lực cường đại. Chúng ta chiêu binh cần rất nhiều thời gi­an, luyện binh cũng giống vậy cần thời gi­an rất lâu, cơ hội phạt Ngô lại là càng sớm càng tốt, mâu thuẫn bên trong như vậy thì phải giải quyết thế nào?”

Các tướng lĩnh hai mặt nhìn nhau, không biết nói sao cho phải.

Khánh Kỵ cười: “Bởi vậy, sự thật là chúng ta không có khả năng chỉ dựa vào lực lượng của chính mình mà quyết chiến với Cơ Quang. Cơ Quang hiện giờ đã có toàn bộ tài lực của Ngô quốc để chống đỡ cho chiến tranh, đã có toàn bộ dân cư Ngô quốc để bổ sung làm binh lính. Nếu ta chỉ tăng cường mở rộng và lớn mạnh quân bị của mình, chỉ dựa vào lực lượng của chúng ta muốn tới tháng ba năm sau khởi binh phạt Ngô, tỉ lệ thành công là hết sức nhỏ bé. Chính xác mà nói, đó là chuyện căn bản không có khả năng!”

Kinh Lâm tuy rằng say rượu, nhưng mà trong mọi người vẫn là người có suy nghĩ linh hoạt nhất, ánh mắt hắn chợt lóe, hỏi: “Ý tứ của công tử, chẳng lẽ là… mượn binh?”

Khánh Kỵ bước đi về phía bãi luyện binh.

Khánh Kỵ thản nhiên nói: “Chim đại bàng nhờ gió mới có thể bay lên, trời đất tương hợp mới có mưa rơi, vì lẽ đó kẻ thiện chiến, phải biết dựa vào tình thế, không phụ thuộc vào số đông, biết chọn người thích hợp gi­ao phó trách nhiệm, tay trắng gầy dựng cơ đồ, lấy ít thắng nhiều, lấy tứ lạng đấu thiên cân. Nếu tự cao tự đại, không hiểu cách sử dụng những lực lượng bên ngoài, chỉ khoe khoang cái gì mà ‘tay không tấc sắt’, dùng tự lực để đối đầu thiên hạ, nhất định sẽ thất bại. Con đường tắt để thành công trong đời người, chính là lấy sở trường của người khác để cho mình dùng. Kẻ trí giả phải biết mượn lực mà đi, đó chính là tinh túy của mượn lực phát lực.

Ta vốn chính là Ngô quốc công tử, nếu không phải do Đại ca Nhị ca bị Cơ Quang giết chết, còn không tới phiên ta có thể nhận danh phận thế tử này, trong chính trường Ngô quốc, căn cơ của ta vô cùng nông cạn, có thể nói căn bản là không có căn cơ, đây là một trong những nhược điểm của ta. Trong lòng quân Ngô, Khánh Kỵ thật ra cũng có một chút uy vọng, nhưng mà đã hơn một năm rồi, Cơ Quang cũng không phải là kẻ ngu, chỉ sợ tất cả những tướng lãnh không đáng tin, sớm đã bị hắn bỏ cũ thay mới mà cải biến. Bởi vậy quân đội Ngô quốc đã không còn là lực lượng mà ta có thể cậy vào. Nếu không có thế lực bên ngoài trợ giúp, dựa vào chính chúng ta, căn bản không có khả năng đánh lại để phục quốc. Tuy rằng, mượn dùng ngoại lực, không phải là trợ lực số một để ta có thể phục quốc, nhưng trong điều kiện trước mắt, chính là là lực lượng chính yếu nếu ta muốn phục quốc thành công. Mấy ngày vừa qua, ta hối hả ngược xuôi, vòng qua các nước chính là vì nguyên nhân như vậy.”

Mọi người trầm mặc một lát, Lương Hổ Tử khẽ thở dài: “Chỉ có điều… công tử chuẩn bị mượn binh của ai? Tấn quốc lục khanh đang nội loạn, Tề quốc ngũ tộc với Yến Anh quản chế lẫn nhau, người Tần đóng cửa tự thủ, người Sở thể hiện là muốn tọa sơn quan hổ đấu, những chư quốc khác cũng không có dã tâm bá chủ, cũng không có đủ lực lượng để trợ giúp chúng ta.”

Khánh Kỵ cười nói: “Vì cái gì phải giúp chúng ta ư? Nếu địch nhân của mọi người đều giống nhau, như vậy bọn họ chỉ cần giúp chính mình, cũng chính là trợ giúp cho chúng ta.”

Mọi người vẫn mơ hồ không hiểu, Khánh Kỵ liền giải thích: “Hiện giờ do lợi hại của chính mình mà phải tác chiến với Ngô, chỉ có hai nước Sở Việt. Bởi vậy, ta phải mau chóng đến Sở Việt, gặp hai vị quốc quân, thuyết phục bọn họ phát binh, sau đó trước tháng ba năm sau sẽ gấp rút trở về, chủ trì đại kế phạt Ngô.”

Kinh Lâm lắp bắp kinh hãi: “Công tử, ngài là chủ tướng quân ta, phạt Ngô ai không có cũng được, duy chỉ không thiếu được công tử . Nếu không có công tử chủ trì đại cục, quân tâm Ngải thành tất sẽ loạn đó. Huống chi, Sở Việt không thể so với Lỗ Vệ, ngày xưa Sở Việt tác chiến với Ngô, công tử từng tiêu diệt không ít nhân mã của bọn họ, những công khanh hai nước này mang ác ý với công tử không phải là ít. Người Sở không giết Yểm Dư, Chúc Dung hai vị công tử, là bởi vì bọn họ cảm thấy hai vị công tử đó còn có chỗ lợi dụng, mà công tử ngài…, trong lòng người nước Sở, uy hiếp từ phía ngài cũng không nhỏ hơn so với Cơ Quang đâu.”

“Muốn làm đại sự, há có thể không mạo hiểm phiêu lưu?”

Khánh Kỵ trầm giọng nói: “Ta vừa nói qua rồi, phạt Ngô, cuối cùng vẫn phải do chính chúng ta thực hiện, nhưng mà trong quá trình đó, lại cần phải có ngoại lực thúc đẩy, hơn nữa ngoại lực này, chắc chắn phải có tác dụng. Dựa vào chính chúng ta một đám người phải đi ăn nhờ ở đậu, một mình đối đầu với Cơ Quang đã dần ổn định được Ngô quốc, đó là chuyện không có khả năng thành công. Chúng ta phải mượn dùng lực lượng hai nước Sở Việt, mới có thể cam đoan phạt Ngô thành công. Đợi tín sứ bên phía Phí thành tới nơi, ta cùng Tôn Vũ, Anh Đào ước định cụ thể kế hoạch và ngày lên đường xong, sẽ lập tức khởi hành sang Sở Việt.

Kinh Lâm đứng bật lên, nói: “Nếu như vậy, kẻ hèn sẽ thay công tử đi tới Sở Việt một chuyến, công tử vẫn nên ở Ngải thành đi.”

“Ngươi không được.” Khánh Kỵ quả quyết nói: “Sở Việt, không phải ta tự mình tới thì không được. Nguyên nhân có ba, thứ nhất, ta lúc trước từ trong quân Ngô sang nước Sở dẫn theo một nhánh quân đội, mấy ngày nay, chiêu binh mãi mã, tất cả cũng đều là quân nhân, trong quân của ta không có những sĩ tử có tài ăn nói dùng được. Ngươi có thể lĩnh quân, lại không giỏi gi­ao thiệp. Tục ngữ bảo: nói có ba cách, khéo nói là tuyệt vời nhất, một câu nói có thể khiến cho người khác cười, một câu khác lại khiến người ta nhảy lên. Muốn thuyết phục người khác, không phải là chuyện dễ dàng; thứ hai, lần này đi Sở Việt, đường xá xa xôi, thời gi­an cấp bách, ngươi không có khả năng hoàn toàn đại biểu cho ta. Quân chủ hai nước Sở Việt nếu đưa ra điều kiện gì, ta căn bản là không thể chờ ngươi chậm chạp truyền tin tức về, hơn nữa đàm phán với hai nước Sở Việt, cuối cùng cũng phải kí kết hiệp ước; ba là, với địa vị và thực lực hiện giờ của ta, căn bản không có khả năng chỉ phái đi một sứ giả là có thể thuyết phục hai quốc quân Sở Việt liên thủ tấn công Cơ Quang. Nếu không phải tự mình ta đi, chỉ sợ sẽ khó sinh ra hiệu quả.”

Hắn thở dài, bất đắc dĩ cười khổ, nói: “Từ khi phạt Ngô gặp chuyện, binh bại trở về, ta đã biết, thời cơ tốt nhất lấy vũ lực của chính mình để phạt Ngô đã mất đi. Muốn lại phạt Ngô, muốn phạt Ngô được thành công, phải mượn được ngoại lực cường đại. Hiện giờ ta ở Lỗ quốc đã mượn Phí thành Phi Hồ cốc bí mật chiêu mộ một nhánh kì binh. Ở Vệ quốc, lớn mạnh thực lực quân ta, tạo ra một trụ cột cho việc phục quốc. Kế tiếp, điều chúng ta cần chính là một lực lượng có thể trực tiếp xuất chiến để trợ giúp chúng ta.

Ta cũng hy vọng chính ta có thể ở lại Ngải thành, tự mình thao luyện đội quân này. Nhưng biết làm sao được, khi không có ta, các ngươi vẫn làm rất thành công. Tất cả sự tình nơi này, chiêu binh, luyện binh, tích trữ lương thảo, chế tạo quân bị, đủ loại sự tình đều được làm đâu ra đấy, cho nên ta mới có thể yên tâm rời đi.

Ta đi Sở Việt lần này, cũng không phải là chỉ động mồm động mép, mưu cầu một sự trợ giúp cho chính nghĩa, mà là muốn tìm kiếm một đại quân được huấn luyện có kinh nghiệm tham gia cùng, ý nghĩa vô cùng trọng đại. Hiện giờ sắp tới tháng mười một, cách lần phạt Ngô tiếp theo của chúng ta bốn tháng thời gi­an. Bốn tháng này, chúng ta có thể chiêu được bao nhiêu binh? Có thể luyện ra được bao nhiêu binh có thể chiến đấu? Mà hành trình Sở Việt của ta một khi thành công, lập tức chẳng khác nào có thêm ít nhất hơn mười vạn đại quân đã được huấn luyện sẵn, làm sao để bọn họ có thể tham gia vào cuộc chiến phạt Ngô. Các ngươi nói xem, sự kiện nào quan trọng hơn?”

Mọi người nghe vậy, thấy khó mà ngăn cản được. Kinh Lâm xấu hổ nói: “Công tử, là do kẻ hèn vô năng, không thể khiến công tử vô lo (không phải lo nghĩ gì cả). Lỗ Vệ mượn thành chiêu binh, Sở Việt mượn binh phạt Ngô, đều phải để công tử lấy thân vào chỗ hiểm, tự mình bôn ba.”

Khánh Kỵ vỗ vỗ vai hắn, mỉm cười nói: “Các ngươi cũng đã làm rất khá, nếu không có các ngươi làm hậu thuẫn cho ta, ta ở Lỗ Vệ hai nước, đúng là không có khả năng thể hiện bản lĩnh, có thể mượn thành để chiêu binh. Nếu không phải có các ngươi ở chỗ này khổ tâm gầy dựng, thậm chí còn làm tốt hơn cả ta, thì ta làm sao có thể yên tâm đặt căn cơ ở mình phía sau, hợp tung liên hoành các nước khác? (hợp tung liên hoành - tung hoành ngang dọc - chính là tên quyển 3 file:///C:/Users/pc/Doc­uments/My%20Drop­box/Truyen%20VVD/1.Nhan%20Van%20Thien/Dai%20Tranh%20CHi%20The/51_files/big­grin.gif.) Ta, Khánh Kỵ, một công tử mất nước, có thể có khả năng kết minh với chư hầu, chính là phải dựa vào các ngươi.”

” Công tử…” Khánh Kỵ nói một hồi thành thật như vậy, làm cho những tướng lĩnh này đều trở nên kích động, Kinh Lâm nói: “Công tử, ngài là anh hùng đương thời, chúng ta cam tâm tình nguyện đi theo dốc sức, mong chờ đi theo công tử phạt Ngô phục quốc, kiến công lập nghiệp. Cái chúng ta có thể đền đáp cho công tử, chỉ có một bầu nhiệt huyết, chỉ cần có thể phạt Ngô phục quốc, giúp công tử hoàn thành nghiệp lớn thiên thu, cho dù có thịt nát xương tan, chúng ta cũng không luyến tiếc thân này.”

Khánh Kỵ nghe thấy lời ấy, nhiệt huyết trong lòng cũng sôi trào lên. Hắn biết tiền đồ phía trước như bụi cây có gai, rất nhiều khó khăn; hắn biết, hiện giờ không giống như cái thời đại mơ mộng năm đó khi Tấn công tử Trùng Nhĩ lưu vong các nước, hiện giờ cũng chẳng có ai nguyện ý làm một bá chủ trượng nghĩa đi giúp hắn phục quốc. Lúc này tất cả chỉ nói ích lợi, là thời đại cá lớn nuốt cá bé, bước đi vô cùng khó khăn. Các bộ hạ của hắn đem hắn trở thành trụ cột tinh thần, với hắn mà nói, phải làm sao để luôn có được sự hỗ trợ của những nam nhi tâm huyết này, mới có thể tiếp tục giữ vững niềm tin.

“Chư vị tướng quân, Khánh Kỵ lần này đi Sở Việt, vô luận là sứ mệnh thành công hay là thất bại, cũng sẽ trước tháng ba băng tan hoa nở quay trở về nơi này, chủ trì đại kế phạt Ngô. Khi ta đi tới Sở Việt, nơi này, đành kính nhờ chư vị tướng quân. Chư vị tướng quân dành cho Khánh Kỵ một bầu nhiệt huyết, không tiếc sinh tử, Khánh Kỵ không có cách nào báo đáp, xin nhận một bái của Khánh Kỵ.”

Khánh Kỵ dứt lời, đứng dậy lui về phía sau, sau đó vén ống tay áo, trịnh trọng bái một lần.

“Công tử không thể!” Lương Hổ Tử, Kinh Lâm đám người thấy thế, sợ hãi bước lên phía trước nâng, vừa thấy hai đầu gối của Khánh Kỵ đã quỳ xuống đất, khấu đầu bái lễ với bọn họ, vội cũng xoay mình quỳ xuống, bái trở lại Khánh Kỵ.

“Chúng tướng quân xin đứng lên, lộ tuyến cùng kế hoạch phạt Ngô, ngày mai ta sẽ thương nghị tỉ mỉ với chư vị tướng quân, sau đó đưa ra quyết định. Hiện tại ta sẽ nói trước tính toán của ta đối với Sở quốc, về phía Sở quốc, ta đã viết một phong mật tín, để Yểm Dư, Chúc Dung hai vị Vương thúc dẫn tai họa vào bên trong, bức cho Sở phải tác chiến. Như vậy, trước khi ta tới Sở quốc, cũng đã xây dựng cho ta được một cục diện có lợi, phương pháp cụ thể là…”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 178: Trước lúc lên đường (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Khánh Kỵ lặng lẽ bước ra ngoài, đứng vào góc khuất hành lang. Trong vườn, các dũng sĩ mới đến đầu quân vẫn to tiếng cười đùa với nhau, uống rượu chén lớn. Trong số họ rất nhiều người vốn chẳng hề quen biết, nay lại dường như đã trở thành bạn bè thân thiết từ lâu, nói cười vui vẻ. Khánh Kỵ đứng yên lặng ở hành lang ngắm nhìn giây lát, máu nóng dâng trào trong tim, đám nam nhi nhiệt huyết này tập hợp lại vì hắn, chiến đấu vì hắn, đấy chính là vốn liếng của hắn, con người sống trên đời không cần biết kết quả cuối cùng sẽ như thế nào, có được nhiều dũng sĩ đi theo như vậy, được hiên ngang chiến đấu một phen, đó đã là một chuyện xứng đáng thỏa chí nam nhi trên cõi đời này rồi.

Một cơn gió thoảng qua, Khánh Kỵ hít một hơi dài, đi dọc theo hành lang bước đến một căn phòng nằm sau cùng bên trái.

“Công tử!” Cửa bật mở ra, một đại hán ngoài ba mươi tuổi có vết sẹo trên mặt lập tức đứng dậy cung kính hành lễ.

Khánh Kỵ vội tiến lên hai bước đỡ lấy tay hắn: “Miễn lễ miễn lễ, Mục tướng quân, ta có một lá thư, vì thời gi­an cấp bách, làm phiền ngài lập tức quay về Sở quốc, đích thân gi­ao cho hai vị hoàng thúc Yểm Dư, Chúc Dung.”

“Thuộc hạ tuân lệnh!”

Lá thư đó là một bức bạch thư (thư viết trên mảnh vải lụa), chữ viết trong thư là chữ Điểu Toản chuyên dùng của Ngô quốc, cho dù là người biết đọc loại chữ này, nhìn vào cũng chỉ thấy đây đơn thuần là một bức thư thăm hỏi bình thường thôi, nhưng nội dung trong thư lại ghi theo một loại mật mã được hẹn trước giữa Khánh Kỵ và Yểm Dư, Chúc Dung lúc đánh Sở, Khánh Kỵ tin chắc Yểm Dư, Chúc Dung không thể nào quên cách thức đọc bức thư này.

Khánh Kỵ đích thân đưa tiễn Mục tướng quân dưới trướng Yểm Dư rời khỏi phủ đệ trong đêm, trong lúc phủ đệ vẫn ngập tràn tiếng cười đùa, Mục tướng quân đã cưỡi chiến mã do Khánh Kỵ chuẩn bị sẵn, phi ngựa như bay dưới ánh trăng rời khỏi.

Khánh Kỵ lặng lẽ quay vào trong vườn, phát hiện Quý Tôn Tiểu Man đang ngồi cô đơn một mình sau chiếc bàn đá dưới bóng cây cổ thụ sát chân tường phía bên phải, mắt nhìn vào các dũng sĩ đang quây quần uống rượu ở giữa khu vườn. Tiểu Man rót rượu chầm chậm vào cái ly trước mặt, giữa khu vườn có một nhóm lửa to, ánh lửa lúc mờ lúc tỏ, chiếu lên khuôn mặt Tiểu Man làm ánh lên đôi mắt long lanh rực sáng.

Khánh Kỵ không gây ra tiếng động nào, bước nhẹ nhàng về phía Tiểu Man.

“Sao không uống cùng bọn họ?” Khánh Kỵ đến bên Tiểu Man, mỉm cười lên tiếng.

Quý Tôn Tiểu Man bĩu môi, hờ hững trả lời: “Một bọn đàn ông thối, ai mà thèm uống rượu với họ chứ.”

Tiểu Man tuy làm ra vẻ cao ngạo bất cần, nhưng Khánh Kỵ nhìn vào khuôn mặt không biết cách nói dối của nàng ta, thấy toát lên vẻ thèm thuồng ngưỡng mộ. Khánh Kỵ nghĩ đến thân thế và trải nghiệm của Tiểu Man, thoáng chốc đã thấu hiểu tâm lí phức tạp của cô nương Tiểu Man này, hắn nhẹ nhàng mỉm cười, ngồi xuống bên cạnh Quý Tôn Tiểu Man, đề nghị: “Được, vậy để ta uống với nàng.”

Chiếc bàn đá chỉ có một chiếc ghế dài để ngồi, Khánh Kỵ vừa ngồi xuống kế bên, Quý Tôn Tiểu Man cảm thấy không được tự nhiên lắm muốn tránh xa ra nhưng lại không muốn tỏ ra yếu thế, một chút do dự qua đi, Khánh Kỵ lúc này đã ngồi yên, Tiểu Man cũng không tiện có phản ứng gì nữa.

Trên bàn đá đặt một cái khay, trong khay có ly, Khánh Kỵ tự rót cho mình một ly rượu, xong quay qua rót đầy vào ly của Tiểu Man, tươi cười hớn hở: “Nào, ta kính nàng một ly.”

“Sao vậy? Cảm ơn ta luyện binh giúp ngài?”

“Không, là chúc mừng chúng ta giờ đây trở thành bằng hữu.”

Quý Tôn Tiểu Man nâng ly uống cạn, ánh mắt Khánh Kỵ lộ vẻ vui mừng: “Tiểu nha đầu bị mất nơi nương tựa từ nhỏ này thật ra rất dễ kết gi­ao, cái nàng ta cần chẳng qua là tình thân, tình bạn, chỉ cần tạo cho nàng ta cảm giác thân thiết như người nhà, nàng ta cũng sẽ xem mình như thân thích ruột thịt vậy.”

Khánh Kỵ ngồi đó, vừa uống rượu vừa kể chuyện phiếm cho Quý Tôn Tiểu Man nghe, nào là chuyện Ngưu Lang Chức Nữ trên trời, nào là chuyện tình yêu thắm thiết của các tài tử gi­ai nhân xưa kia, lúc cao hứng lại ngân nga vài câu thơ lãng mạn, chỉ thấy Quý Tôn Tiểu Man ngồi yên lặng say sưa lắng nghe, đôi mắt đen láy mở to, long lanh như các ngôi sao đang lấp lánh trên bầu trời đêm nay vậy.

Đêm khuya vắng lặng, ngay cả côn trùng cũng ngưng tiếng gáy đi vào giấc ngủ, nhóm lửa giữa vườn tắt ngúm, một số người dìu nhau về phòng nghỉ ngơi, số khác không sợ sương đêm gió lạnh, nằm ngay ra ngáy khò khò tại chỗ.

Khánh Kỵ dịu giọng: “Thôi, khuya lắm rồi, mau đi ngủ thôi. Những ngày này phải đốc thúc toàn quân luyện kiếm, nàng cũng vất vả rồi, đi ngủ sớm đi.”

“Không, ngồi thêm một lúc đi có được không!” Quý Tôn Tiểu Man ngà ngà say, nũng nịu kéo áo Khánh Kỵ: “Ta chưa từng được nghe kể chuyện thú vị như thế này, chúng ta uống thêm một lát nữa đi.”

Khánh Kỵ không nỡ từ chối, chỉ còn cách dỗ dành Tiểu Man: “Thôi được, chúng ta uống thêm ba ly, sau đó ta đưa nàng về phòng.”

Trăng đã lên cao, ánh trăng mờ ảo tỏa khắp khu vườn, gió thu thoang thoảng mát dịu, mái tóc dài bóng mượt của Tiểu Man như trôi bồng bềnh theo gió, đôi mắt xinh xắn đang say đắm ngắm nhìn Khánh Kỵ rót rượu, lúc rực sáng lúc lung linh, cứ như các ngôi sao lấp lánh trên bầu trời.

“Ta…chỉ muốn nghe kể chuyện, không muốn…không muốn uống rượu nữa.” Quý Tôn Tiểu Man đột nhiên đặt tay lên tay Khánh Kỵ ngăn cản hắn tiếp tục rót rượu vào ly: “Người ta…người ta chưa từng uống nhiều rượu như hôm nay, đã say lắm rồi.”

“Hử?” Khánh Kỵ trông vẻ mặt Tiểu Man, bóng trăng mờ ảo, hắn đưa mặt vào gần hơn, Tiểu Man đúng là đã say, hai má ửng hồng xinh xắn.

Quý Tôn Tiểu Man cảm nhận được hơi thở của Khánh Kỵ phà vào mặt, thoáng chốc thấy khuôn mặt nóng bừng, tim đập thình thịch: “Ư…say mất rồi, thấy toàn thân như đang bay bổng, bồng bềnh trên mây, tim đập nhanh, đầu óc quay cuồng, hư…ư…ư…”

Khánh Kỵ cười ha hả: “Chưa say đâu, đó là cảm giác như lần đầu ta gặp được người con gái ta thích vậy đó mà.”

Câu nói này của Khánh Kỵ như ném hòn đá vào mặt nước đang phẳng lặng, bóng trăng trên đó lập tức bị đánh tan thành trăm ngàn mảnh, hai người đột nhiên im lặng. Khánh Kỵ ngẩng đầu lên, nhìn về ánh trăng vành vạnh trên đầu, nhớ về kí ức thời niên thiếu xa xưa, nàng thướt tha đi ngang qua người hắn, khăn choàng đỏ trên cổ và khuôn mặt hồng hào, nàng khẽ mỉm cười, cái cảm giác lâng lâng vui sướng ấy trong một lúc ập đến làm hắn ngất ngây, đợi khi hắn bình tĩnh trở lại, nàng đã khuất bóng nơi cuối đường.

Khánh Kỵ cảm thấy chua chát trong lòng, hai dòng lệ từ từ buông rơi, quá khứ của hắn, giờ đây đã trôi về chốn xa xăm, con người hắn thuở trước, đã được chôn chặt vào góc khuất tối tăm trong miền kí ức, giờ đây mọi cảm xúc bất chợt ùa về, Khánh Kỵ không sao thoát khỏi nỗi chua xót đang dậy sóng trong tim.

“Tình yêu đầu tiên đáng quý là thế, chính vì nó có tác dụng khiến con người ta không thể nào quên được, nó nằm sâu trong kí ức, khi người ta nhớ lại, nó hoàn hảo biết bao. Chính vì không có kết cục, nên mới suy diễn ra rất nhiều khả năng xảy đến trong tương lai.”

Khánh Kỵ nói những lời mông lung, Quý Tôn Tiểu Man ngớ mặt ra không hiểu hắn đang lảm nhảm gì, hồi lâu sau Khánh Kỵ thở dài: “Nàng say rồi, để ta đưa nàng về phòng nghỉ ngơi!”

Nến trong phòng được thắp sáng, Quý Tôn Tiểu Man uống một ngụm trà nóng, ngước mặt nhìn Khánh Kỵ: “Sao ngài còn chưa đi?”

“Nàng không sao chứ? Tiếc là…trong phủ của ta không có tì nữ, không có ai hầu hạ nàng…”

Quý Tôn Tiểu Man nghe vậy mỉm cười: “Ta trước giờ không cần ai hầu hạ, chỉ là uống quá chén thôi mà, không việc gì đâu.”

Tiểu Man nói chuyện nhạt nhẽo, Khánh Kỵ nghe xong có vẻ không vui, hắn ngập ngừng giây lát, khẽ gật đầu: “Ừ, nàng nghỉ ngơi sớm đi, ta ra ngoài đây.”

Khánh Kỵ bước ra đến cửa, Tiểu Man đột nhiên lên tiếng hỏi: “Nàng ta…là ai vậy? Thúc Tôn Diêu Quang?”

Khánh Kỵ quay người lại, lắc đầu.

Tiểu Man lại dò thám: “Vậy…là Thành Bích?”

Tiểu Man lại dò thám: “Vậy…là Thành Bích?”

Khánh Kỵ hiểu ý cười to: “Đã là tình yêu đầu tiên, chỉ là cảm giác xao xuyến giữa nam và nữ mới gặp nhau, nó không chứng minh được gì cả, cũng không mang ý nghĩa nào hết, càng không cần đem lại kết quả, nên không nhất thiết phải khắc cốt ghi tâm. Bây giờ ta phải rất cố gắng nhớ lại mới nghĩ ra cô gái đó tên là gì, từng gặp nàng ta một lần thôi, cái cảm giác ngất ngây như say rượu khi đó giờ đây nhớ lại thấy đã phai nhạt, chỉ là chút vấn vương còn sót lại. Hoài niệm quá khứ chi bằng đấu tranh cho tương lai.”

Khánh Kỵ bước ra khỏi phòng, Tiểu Man vịn bàn từ từ ngồi xuống, ánh nến kế bên lay lắt theo cơn gió nhẹ. Đầu óc quay cuồng của Tiểu Man vẫn đang cố suy ngẫm những lời Khánh Kỵ vừa nói: “Tình yêu đầu tiên, chính là cái cảm giác như hắn nói sao? Chỉ đơn giản là lần đầu tiên cảm thấy yêu thích một người, ngoài ra không còn ý nghĩa nào nữa?”

————————–

“Hắn là người đầu tiên ta yêu, cũng là người duy nhất ta yêu, trong trái tim ta chỉ từng mang hình bóng hắn, ta không chút nghi ngờ về một tình yêu thiên trường địa cửu, nhưng giờ đây, khi phát hiện tất cả đã đổi thay, mới nhận ra vết nứt này đã sớm tồn tại, trên đời này…rốt cuộc là có tình yêu vĩnh hằng hay không?…”

Nam Tử đứng ngây ra trong vườn, xung quanh cây lá um tùm, một cơn gió thoảng qua, những chiếc lá khô rơi xào xạc khắp mặt đất, vài chiếc lá bám lại trên vai nàng. Nam Tử thở dài ngao ngán, nỗi niềm chất chứa bấy lâu nay không biết bày tỏ cùng ai.

Thời gi­an Công Tử Triều đến Vệ quốc quá ngắn, đám người Tề Báo và Bắc Cung Hỉ đã bị Công Mạnh Trập ức hiếp hai nươi năm, bọn họ dưới sự giúp sức của Khánh Kỵ quả nhiên đã dẹp yên thế lực thống trị của Công Mạnh Trập một cách khó tin, thế nhưng bọn họ muốn tiếp nhận trọn vẹn thế lực này, chỉ với căn cơ và sức người của họ chắc chắn không thể nào làm được.

Hơn nữa, Vệ hầu Cơ Nguyên lợi dụng ưu thế tuyệt đối về thân phận quốc quân Vệ quốc, dưới sự ủng hộ của các công khanh trung thành với quốc quân như Công Tôn Bạt, Công Mạnh, Cừ Bá Ngọc, đang là người hưởng lợi lớn nhất từ sau cái chết của Công Mạnh Trập. Đám người Tề Báo vì thế suốt ngày không yên, lo lắng quốc quân sau này sẽ tính sổ với họ. Còn Công Tử Triều, ngày nào cũng như bước đi trên tấm băng mỏng, trước khi tai họa lớn giáng xuống phải suy tính mưu lược làm sao nắm giữ sức mạnh cung vệ trong tay, lôi kéo tướng sĩ, sắp xếp thân tín, còn những chuyện yêu đương chắc không có thời gi­an nghĩ đến đâu.

Nam Tử đang tìm lí do giải thích thay cho thái độ của Công Tử Triều, cũng là để tự an ủi bản thân. Khi Nam Tử được gả đến Vệ quốc, nàng ta cứ nghĩ từ nay xa cách với Công Tử Triều, hai người không còn cơ hội gặp mặt nhau nữa, khi Công Tử Triều tranh quyền thất bại ở Tống quốc phải chạy sang Vệ quốc lánh nạn, nàng chỉ nghĩ với khả năng của mình sẽ cố hết sức giúp đỡ Công Tử Triều, giúp người tình cũ tìm lại vẻ tôn nghiêm của nam nhi. Chính Công Tử Triều dùng tình xưa nghĩa cũ đánh động lòng nàng, khiến trái tim nàng đang héo úa như được sống lại dưới ánh mặt trời, ngờ đâu Công Tử Triều đem tất cả tâm tư bỏ vào chuyện tranh quyền đoạt lợi, có bao giờ yêu nàng thật lòng đâu chứ?

Nam Tử thông minh như vậy, trước kia cũng đã nhận ra ý đồ thật sự của Công Tử Triều khi tiếp cận mình rồi, thế nhưng nàng không muốn tin vào phán đoán của mình, cho dù nghi ngờ nhưng cuối cùng vẫn lựa chọn đứng về phía Công Tử Triều, giúp hắn đoạt lấy hổ phù khống chế cung vệ, nhờ vậy mới dễ dàng giết chết được Công Mạnh Trập. Chính vì chuyện này, nay Vệ hầu Cơ Nguyên xem nàng như kẻ thù, trước kia không có tình yêu thì hãy còn lòng tôn trọng, giờ thì không còn gì cả. Công Tử Triều thì mỗi khi gặp mặt chỉ nhắc chuyện ban thưởng, vệ sĩ của hắn, sau đó lại hối thúc Nam Tử dùng thân phận quân phu nhân của nàng giúp hắn chiếm lấy quyền lực to hơn. Một lần, hai lần, lần nào cũng như lần nào, trái tim Nam Tử mong mỏi Công Tử Triều biết bao, chỉ muốn nhìn thấy hắn, nghe giọng nói của hắn, thế mà…

Công Tử Triều hôm nay hẹn gặp, lại không biết đưa ra yêu cầu gì đây?

Nam Tử nhíu mày suy tư, ánh mắt vô hồn hướng về phía các nhánh cây trơ trụi lá vàng khô, phút chốc lại thở dài ngao ngán, trong một lúc nàng cảm thấy hối hận, Công Tử Triều là một người mang nặng dã tâm mưu cầu quyền lợi, muốn giữ hắn ở bên mình, không phải là ban cho hắn quyền lực, mà là tước đi quyền lực của hắn, nếu không làm vậy, một con đại bàng khi đã khôi phục lông cánh, nó sẽ tìm đến tự do, chứ sao chịu an phận sống trong chiếc lồng chứ? Mình đã sai, mình đã làm sai rồi…

————————

Vệ hầu Cơ Nguyên được Tả quân vệ trong cung Công Tôn Tuất tháp tùng bảo vệ đang đi dạo trong vườn thượng uyển. Công Tôn Tuất năm nay mới ba mươi, cao lớn lực lưỡng, ba lọn râu bệ vệ dưới cằm, người này văn võ song toàn, từ sau khi phân chia quyền lực với Công Tử Triều giữ chức Tả quân vệ quản lí một phần cấm vệ trong cung, nhanh chóng trở thành nhân vật nắm quyền lực quan trọng trong hoàng cung, do hắn là con trai của Hiền đại phu Công Tôn Bạt, cũng là danh gia vọng tộc ở Vệ quốc, về thân phận địa vị được các binh lính chấp nhận hơn Công Tử Triều nên ngả về hắn nhiều hơn, vì thế hắn không chỉ xây dựng được thế lực từ các cấm quân do một tay mình tuyển chọn, thậm chí còn qua lại mật thiết lôi kéo được một số tướng sĩ thuộc phe Công Tử Triều về phía mình.

“Tham kiến bệ hạ!”

Ba tên đội trưởng quỳ mọp xuống hành đại lễ với Vệ hầu Cơ Nguyên. Cơ Nguyên liếc mắt nhìn về phía họ, làm bộ hiền từ: “Ba vị mời đứng lên, ba vị ái khanh đây tên là gì vậy?”

“Hồi bẩm bệ hạ, tiểu nhân là Huyền Cao - tiểu nhân là Vô Khuy - tiểu nhân là Thải Tiêu” Ba tên đội trưởng lần lượt cung kính bẩm báo.

Vệ hầu Cơ Nguyên nghe thế biết là ba người này có tên mà không có họ, bèn vuốt râu cười khảy: “Ba vị tráng sĩ đây trung quân báo quốc, quả nhân trong lòng rất biết ơn, các ngươi nếu đã không có họ, giờ quả nhân ban họ cho các ngươi, ba người đều là tráng sĩ trong cấm vệ của quả nhân, lại tình như thủ túc, kể từ hôm nay, tất cả đều họ Vệ đi, lấy quốc hiệu của ta làm họ, thế nào?”

Ba tên đội trưởng ngớ mặt ra, Công Tôn Tuất đứng cạnh Cơ Nguyên vội nở nụ cười hối thúc: “Vệ Huyền Cao, Vệ Vô Khuy, Vệ Thải Tiêu, được lấy quốc hiệu làm họ, vinh quang biết bao, các ngươi còn không mau tạ ơn bệ hạ đi!”

Ba người kia thế mới tin đây là sự thật, vội vui mừng ra mặt khấu đầu tạ ơn: “Chúng tiểu nhân đội ơn bệ hạ.”

Công Tôn Tuất tiếp lời: “Các ngươi đứng dậy đi, hôm nay bệ hạ lo xong quốc sự, muốn đi dạo chơi vườn thượng uyển, ta tiện thể gọi các ngươi ra đây gặp mặt bệ hạ, để ngài thấy rõ lòng trung thành của các ngươi, sau này một lòng một dạ làm việc cho bệ hạ, vinh hoa phú quý không thiếu phần các ngươi đâu. Các ngươi đều là tướng lĩnh thống lãnh cấm vệ dưới trướng Công Tử Triều, không nên dây dưa ở đây nữa, mau quay về vị trí đi, tránh làm hỏng việc lớn.”

“Dạ, chúng tiểu nhân nhận ơn vua, vốn phải tận trung đền đáp ân đức của bệ hạ, đó là niềm vinh hạnh lớn lao của tiểu nhân ạ.” Ba tên đội trưởng lại bày tỏ lòng trung thành một lần nữa, Vệ hầu Cơ Nguyên hớn hở khen thưởng đôi lời, lại hứa hẹn phong chức ban thưởng gì đó, ba người cảm tạ xong lui ra.

“Công Tôn Tuất, ngươi làm tốt lắm, sau này phải ra sức lôi kéo đám người nhất thời hồ đồ đi theo Công Tử Triều này về phía quả nhân. Hừ! Giờ quả nhân muốn ra tay ngay phần thắng cũng nắm chắc rồi, nhưng Tấn quốc luôn lăm le xâm lược Vệ quốc của ta, đấy mới là lí do quả nhân chưa muốn hấp tấp ra tay vội vàng, chứ không phải quả nhân e sợ đám người Tề Báo, Vệ quốc…lúc này không được xảy ra nội loạn, nếu không sẽ bị kẻ địch bên ngoài lợi dụng cơ hội, nhưng mà…”

Ánh mắt Cơ Nguyên trở nên sắc lạnh: “Chỉ cần quả nhân sắp xếp đâu vào đó, mấy tên loạn thần tặc tử này, quả nhân nhất định trừng trị bọn chúng.”

“Dạ, nhưng trước mắt xin bệ hạ vẫn phải cố nhẫn nhịn, Công Tử Triều cơ trí hơn người, nếu không chắc chắn vi thần cũng không dám nói rõ ý định ra với thuộc hạ dưới trướng của hắn, tránh đánh rắn động cỏ, lúc đó chúng sẽ đề phòng trước. Nhưng bệ hạ cứ yên tâm, có vi thần trong cung bảo vệ, Công Tử Triều không dám ngông cuồng đâu ạ, còn trong triều thì có hơi rắc rối, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố hiện giờ khí thế đang thịnh…”

“Quả nhân hiểu!” Cơ Nguyên ngắt lời Công Tôn Tuất, đưa tay vạch cành cây giăng ngang trước mặt, sải bước đi về phía ngọn đồi trong vườn, một con hươu đang chạy nhảy quanh đó bị tiếng bước chân làm kinh động, phóng nhanh vào lùm cây biến mất.

Cơ Nguyên vừa đi vừa nói: “Đây chính là lí do quả nhân trọng dụng Bắc Cung Hỉ, hạ bệ Tề Báo. Thực lực của Tề Báo mạnh hơn Bắc Cung Hỉ, bây giờ lại bị Bắc Cung Hỉ nắm giữ quyền lực lớn hơn, nếu Tề Báo cam lòng khuất phục đứng dưới Bắc Cung Hỉ, bọn họ liên kết lại quả nhân còn có chút e ngại, giờ quả nhân cố tình làm ra vẻ yếu thế, không động đến bọn họ, Tề Báo đã không chịu đựng được nữa, bắt đầu từng bước tranh quyền với Bắc Cung Hỉ. Ha! Đợi đến khi Bắc Cung Hỉ không chịu nhường bước, đó là ngày bọn họ trở mặt với nhau, lúc đó…quả nhân sẽ nhân cơ hội này…”

“A, bệ hạ dạo gần đây cứ hay ban thưởng cho Bắc Cung Hỉ, thì ra là…bệ hạ muốn Tề Báo nổi lòng đố kị?”

“Đúng vậy!” Cơ Nguyên đứng trên ngọn đồi dõi mắt khắp nơi, Công Tôn Tuất xua tay lệnh cho đám thị vệ lui hết ra xa, mình thì bám sát ngay sau lưng Cơ Nguyên.

“Đúng vậy!” Cơ Nguyên đứng trên ngọn đồi dõi mắt khắp nơi, Công Tôn Tuất xua tay lệnh cho đám thị vệ lui hết ra xa, mình thì bám sát ngay sau lưng Cơ Nguyên.

Cơ Nguyên ngước nhìn cây sam xanh tươi cao chót vót đằng xa, thở dài mệt nhọc, hai mắt ngấn lệ, hai nắm tay từ từ nắm chặt lại, uất hận lên tiếng: “Huynh ấy…huynh ấy thật là tội nghiệp, đám nghịch tặc này dám nhẫn tâm giết chết huynh ấy, tên Tề Báo này là tên cầm đầu, dù bất cứ giá nào quả nhân cũng phải chặt đầu Tề Báo trả thù cho huynh trưởng.”

Ánh mắt ngấn lệ, cây sam lắc lư theo gió, tiếng lá cây xào xạc, bóng cây in bóng trên mặt đất như vẽ nên một hình bóng trong tâm trí Cơ Nguyên, hình ảnh chàng võ sĩ mặc áo bào trắng toát, hai má hồng hào, thân hình yểu điệu, đôi mắt long lanh, thanh tu mỹ miều, lưỡi kiếm vun vút như rồng bay phượng múa, ánh sáng lấp lánh từ lưỡi kiếm phản chiếu lên khuôn mặt nõn nà mềm mại. Ôi, kiếm đồng Ngải Tử Man khắp người không một nơi không khiến người khác động lòng nay đang ở đâu… (Thế là thương huynh hay thương ai?)

Cơ Nguyên thổn thức đưa tay áo lên lau nước mắt, Công Tôn Tuất khẳng khái an ủi: “Tình nghĩa huynh đệ của bệ hạ và Công Mạnh Trập đại nhân khiến vi thần cảm động muôn phần, chỉ là hiện giờ bệ hạ vẫn phải cố gắng chịu đựng, đợi khi Tề Báo và Bắc Cung Hỉ trở mặt đấu đá với nhau, lúc đó mới là thời cơ tốt nhất cho bệ hạ hành động.”

“Ờ…đúng vậy, đúng vậy, ngươi nói phải lắm.” Sắc mặt Cơ Nguyên hơi chút khác lạ, hắn không muốn để Công Tôn Tuất nhìn thấu hắn thật sự đang suy ngẫm chuyện gì, vội vàng quay mặt đi nơi khác, ánh mắt đột nhiên nhìn thấy một nam một nữ đang đứng đối mặt với nhau, dường như đang to nhỏ với nhau gì đó, tên nam nhân đó trong lúc nói chuyện lại còn đặt tay lên bờ vai thon thả của nữ nhân kia, cứ như muốn kéo nàng vào vòng tay của hắn.

Cơ Nguyên giật nảy mình, ánh mắt tức giận đỏ rực, nghiến răng: “Gi­an phu dâm phụ! Gặp mặt nhau ở đâu không được, lại chạy đến chỗ này dan díu với nhau, thì ra lời đồn không sai, bọn họ quả nhiên có gi­an tình.”

Công Tôn Tuất nhìn theo hướng Vệ hầu Cơ Nguyên, phút chốc cũng giật nảy mình, với ánh mắt tinh tường, hắn đã trông thấy từ xa hai người kia chính là quân phu nhân Nam Tử và Hữu quân vệ Công Tử Triều.

Cơ Nguyên nghiến răng răng rắc, đưa mắt về phía một tên vệ sĩ đang đứng gần đó ra lệnh: “Ngươi, đưa cung tên đây cho quả nhân.”

Công Tôn Tuất thất kinh hồn vía, vội bước lên ngăn cản: “Không được đâu bệ hạ, nếu giết chết Công Tử Triều vào lúc này, đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ sẽ cho rằng bệ hạ trả thù, bắt đầu ra tay với bọn họ, chắc chắn sẽ liều chết nổi loạn. Bệ hạ, chúng ta vẫn chưa có được sự chuẩn bị kĩ lưỡng cần thiết, không nên mạo hiểm, bệ hạ, lúc này vẫn là lúc nên nhẫn nhịn, không thì hỏng việc lớn đó.”

Lúc này Cơ Nguyên đã đoạt lấy cung tên của tên vệ sĩ, giương cung lắp tên hướng về phía Công Tử Triều, nghe Công Tôn Tuất khuyên can, mũi tên sắp bắn ra chợt ngưng lại, hai tay tức giận đến nỗi run bần bật, cứ giữ lấy tư thế bắn tên không chịu bỏ xuống, Công Tôn Tuất tim đập thình thịch đứng đó, hắn không dám bước tới đoạt lấy cung tên, lại sợ Cơ Nguyên trong lúc tức giận bất chấp tất cả bắn chết Công Tử Triều, lúc đó nội loạn ắt sẽ lập tức xảy ra.

Sắc mặt Cơ Nguyên từ từ dịu lại, từ trắng bệch chuyển dần sang hồng hào, giây lát sau bỗng nhiên cười to buông cung tên xuống, Công Tôn Tuất thở phào nhẹ nhõm, vội bước tới đón lấy cung tên từ tay Cơ Nguyên, mở lời khuyên nhủ: “Bệ hạ tạm thời cố nén cơn giận, sau này chúng ta thiếu gì cơ hội trừng trị họ.”

Cơ Nguyên vẫn nắm lấy mũi tên chưa chịu thả ra, đôi mắt uất hận hướng về phía Nam Tử và Công Tử Triều đang đứng nói chuyện, càng nghĩ càng thấy giận, Cơ Nguyên đột nhiên rút kiếm ra, đặt mũi tên xuống đất, chém gãy đầu nhọn, sau đó lại cầm tên lên, giựt lấy cây cung trên tay Công Tôn Tuất, giương cung ngắm bắn Công Tử Triều, lạnh lùng nói: “Giờ ta không giết được hắn, cũng không để cho đôi cẩu nam nữ này tưởng rằng quả nhân là một tên câm điếc, hừ!”

Cơ Nguyên sải bước đi nhanh xuống đồi, Công Tôn Tuất không biết phải làm sao đành vội vàng theo sát sau lưng bảo vệ…

Khánh Kỵ chuẩn bị chu đáo xong xuôi cho chuyến đi Sở, còn chọn ra bốn dũng sĩ hiểu rõ tình hình Sở quốc, biết nói thổ ngữ bản địa làm tùy tùng, giờ chỉ còn đợi tin tức từ Lỗ quốc và Phi Hồ cốc truyền về, mọi thứ sắp xếp thỏa đáng xong sẽ lên đường đi Sở. Những ngày này Khánh Kỵ ngày nào cũng triệu tập tướng lĩnh thuộc hạ bàn bạc kĩ lưỡng kế hoạch phạt Ngô sắp tới.

Không có bản đồ chi tiết, không cách nào tiến hành đưa tin kịp lúc, tình hình chiến sự thay đổi liên tục, tất cả đều không được quy định cứng nhắc, theo bản vẽ sơ sài thì chỉ có vài ngọn núi lớn, vài tòa thành và mấy con sông tương đối lớn, Khánh Kỵ và đám tướng lĩnh thuộc hạ chỉ dựa vào đó quyết định một số kế hoạch tác chiến chung mà thôi.

Căn cứ theo lộ trình và thời gi­an hành quân, Khánh Kỵ định ngày khởi binh vào mười lăm tháng hai năm sau, đại khái đầu tháng ba sẽ vào biên giới Ngô quốc gi­ao tranh với quân Ngô, đường tiến công của quân đội Ngải thành chia làm hai ngả, một ngả men theo Hoàng Hà đi vào Trịnh quốc, mượn đường vượt sông Trường Gi­ang, sau đó xuôi theo Trường Gi­ang đánh vào Ngô quốc, con đường hành quân này là chuẩn bị phòng khi kế hoạch liên kết Sở, Việt thất bại. Ngũ Tử Tư từng ý đồ mưu sát quốc quân Trịnh quốc, giờ đây hắn giữ chức tướng quốc của Ngô, Khánh Kỵ muốn đánh Ngô, mượn đường ngang qua Trịnh quốc, chắc chắn sẽ được chấp thuận.

Con đường hành quân thứ hai tức là trường hợp kế hoạch liên kết Sở, Việt thành công, lúc đó phải sát cánh chiến đấu bên quân Sở, vậy con đường hành quân này chính là đi trực tiếp vào lãnh thổ Sở quốc, tấn công theo đường bộ với quân Ngô, từ núi Trì Ki vượt Trường Gi­ang tiến vào biên giới Ngô quốc, con đường này vừa có thể đi đường bộ vừa có thể đi đường thủy, thuận lợi tác chiến biến hóa tùy theo địa hình. Mặt khác, lại khá gần với Việt quốc nên dễ dàng phối hợp với quân Việt, lại còn thu hút phần lớn lực lượng quân Ngô về phía Nam, lúc đó phía Bắc Ngô quốc bố trí ít quân canh giữ, tạo điều kiện cho Tôn Vũ, Anh Đào từ Lỗ quốc tập kích bất ngờ vào kinh đô Ngô quốc.

Đội quân mới huấn luyện ở Phi Hồ cốc sẽ theo đường bộ xuôi về phía Nam, qua Trường Gi­ang, lên bờ tập kết tại Hàn Ấp, tiến đánh Cô Tô thành, cũng có thể mượn nhiều thuyền lớn của Thành Bích lấy danh nghĩa vận chuyển muối ngụy trang, đi đường thủy vòng qua Nam Vũ thành gần đó tiến sát Cô Tô thành, tập kích bất ngờ đoạt lấy kinh đô Ngô quốc. Do lộ trình hành quân khác nhau, đội quân Phí thành phải khởi hành vào ngày hai mươi tháng hai, còn về đường tiến quân và kế hoạch tác chiến cụ thể tất cả gi­ao cho Tôn Vũ và Anh Đào toàn quyền quyết định. Lúc ấy Khánh Kỵ đang tác chiến ở mặt trận phía Nam, với lại cũng không muốn can thiệp vào cách chỉ huy chiến đấu của vị đại tướng tài ba Tôn Vũ làm gì.

Còn hai vị công tử Yểm Dư, Chúc Dung nếu thuận lợi đến được Vệ quốc, lúc đó sẽ bố trí hai người ở lại trấn giữ Ngải thành và Phí thành, đảm bảo tiếp viện từ hậu phương. Kế hoạch này do thiếu thốn thông tin chi tiết nên Khánh Kỵ phải vắt óc ra suy tính, ba ngày sau mới xác định xong, khi đó tín sứ của Tôn Vũ cũng vừa đến nơi, báo cáo tình hình bên Lỗ quốc tiến hành rất thuận lợi, đến giờ đã chiêu nạp được hơn một vạn quân. Thời hạn phạt Ngô đến gần, đội quân của Tôn Vũ lại dùng vào việc tập kích, vì muốn giữ tính bất ngờ nên đã ngưng thu nhận thêm quân mới, nay phong tỏa sơn cốc, ra sức thao luyện binh lính ngày đêm, hy vọng tạo ra đội quân thiện chiến trong thời gi­an ngắn nhất.

Khánh Kỵ rất tán đồng cách làm này của Tôn Vũ, hắn ghi rõ ràng tỉ mỉ từng chi tiết về lộ trình hành quân và thời gi­an hành động trong lá thư gửi Tôn Vũ, sau khi suy ngẫm kĩ càng, lại ghi thêm một dòng chữ lớn cuối lá thư: “Tình hình chiến sự thay đổi không lường trước được, tướng tại ngoại quân lệnh có thể không theo, Trưởng Khanh có quyền tùy cơ ứng biến mà hành động.”

Khánh Kỵ dùng nến niêm phong bức bạch thư xong gi­ao cho tên tín sứ của Tôn Vũ, lại cẩn thận phái thêm vài tên võ sĩ hộ tống đưa thư về Phí thành, sau đó lập tức sửa soạn cho chuyến đi Sở. Khánh Kỵ ăn mặc chỉnh tề, được các gia tướng thuộc hạ đưa tiễn ra cổng, đang định rời đi, đột nhiên có mấy tên lính đang kéo theo một người bị trói đưa đến trước mặt Khánh Kỵ

Khánh Kỵ dừng bước, chau mày hỏi: “Xảy ra chuyện gì?” Ánh mắt quét qua người bị trói đó, lúc đầu Khánh Kỵ nghĩ rằng chắc người này vi phạm quân luật gì đó, nhưng nhìn kĩ thấy hắn không giống binh lính của mình, ba mươi mấy tuổi, nước da trắng nõn, nhìn cứ như là một thương nhân.

“Đứng ngay ngắn vào, đây chính là công tử Khánh Kỵ.” Tên lính đi đầu quát vào mặt hắn, bước lên phía trước chắp tay bẩm báo: “Bẩm công tử, người này lén la lén lút trà trộn vào thành, bị chúng thuộc hạ bắt được, hắn nói chỉ khi nào gặp mặt công tử mới nói rõ thân phận.”

“Hử?” Khánh Kỵ kinh ngạc nhìn vào người này, đoạn chầm chậm bước lại gần hắn, hỏi: “Ngươi là ai?”

Người này đang bị trói hai tay sau lưng, cúi người hành lễ xong khúm núm trả lời: “Công tử Khánh Kỵ, ngài có thể cho các thuộc hạ lui ra không ạ?”

Khánh Kỵ xua tay, các thị vệ hai bên lập tức lui xuống, người đó tiến lên một bước, hạ giọng: “Công tử, tiểu nhân phụng mệnh của…đến mời…”

Giọng hắn càng lúc càng nhỏ, Khánh Kỵ nghe xong thoáng biến sắc, lộ vẻ ngạc nhiên: “Ngươi nói gì? Nàng ta…mời ta đến để làm gì?”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 179: Gi­ao dịch (1–>5)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Khánh Kỵ sau khi rời khỏi hơn nửa tháng nay lại về đến Đế Khâu. Chỉ mới nửa tháng trôi qua, dưới cơn gió thu buồn tẻ, dung mạo Đế Khâu đã thay đổi lớn, diện mạo cứ như trong triều đường Vệ quốc hiện nay vậy, khắp Đế Khâu đều bao phủ một không khí u ám lạ thường. Xe ngựa của Khánh Kỵ đơn độc lăn bánh trên con đường thưa thớt bóng người qua lại, gió cuốn bay vài chiếc lá khô ven đường vào bánh xe ngựa, xe ngựa vẫn vô tình lướt đi cán nát những chiếc lá.

Khánh Kỵ đưa tay kéo rèm cửa sổ lại chặt hơn, gió lạnh không lùa vào trong xe được. Hắn bắt đầu chau mày suy nghĩ, Vệ phu nhân Nam Tử bí mật hẹn hắn đến Đế Khâu gặp mặt, rốt cuộc là có dụng ý gì? Khi hắn đang định khởi hành đi Sở quốc, tín sứ của Nam Tử đột nhiên mang đến một câu nói của Vệ quốc phu nhân Nam Tử: “Nam Tử muốn gặp mặt công tử một lần, thiếp thân tại cung cấm, không tiện ra ngoài, phiền công tử đến Đế Khâu một chuyến, đến gấp!”

Những lời này nghe qua có vẻ như là một cô nương đang hẹn hò với tình lang, nhưng Khánh Kỵ đâu có ngốc đến nỗi cho rằng chỉ với một lần gặp gỡ, vị Vệ quốc phu nhân cao ngạo như chim công ấy lại thầm thương trộm nhớ hắn, ngày đêm ăn không ngon ngủ không yên, để rồi cuối cùng không chế ngự được tình cảm phải phái người đến mời hắn đến gặp mặt cho thỏa niềm nhớ mong.

Phân tích kĩ tình hình chính trị Vệ quốc hiện nay, Khánh Kỵ đoan chắc không có lí do gì khiến Nam Tử gây bất lợi cho hắn, ít ra tình hình bây giờ không thể tìm ra lí do phải gây bất lợi cho hắn, Vệ hầu Cơ Nguyên cũng không lí do gì làm vậy, mọi thế lực khắp Vệ quốc, giờ đây đều mang thái độ phức tạp vừa kính nể vừa khiếp sợ, vừa muốn lôi kéo vừa có chút chán ghét với hắn, nhưng cũng không ai có ý đồ gây bất lợi cho hắn cả. Không có một nhân vật quyền thế nào đang bận đối phó với đối thủ hung hăng lăm le trước mắt mà đột nhiên điên tiết lên đi gây hấn với một thế lực thứ ba không liên can với quyền lợi của họ là Khánh Kỵ vào lúc này. Do đó, chuyến đi Đế Khâu này không phải là một cái bẫy, nghĩ vậy nên Khánh Kỵ mới nhận lời gặp mặt Nam Tử.

Thế nhưng Khánh Kỵ không hỏi thêm được chút tin tức gì từ tên tín sứ đó cả, điều này khiến hắn không sao đoán ra ý đồ thật sự của Nam Tử muốn gặp mặt hắn là gì, trên suốt chặng đường quay về Đế Khâu hắn luôn giữ lấy tâm trạng hiếu kì, dù với bất cứ lí do gì đi chăng nữa, có thể là thỏa thuận quan hệ hợp tác nào đó với hắn, Nam Tử cũng đâu cần thiết phải giấu giếm đám người Tề Báo và Công Tử Triều bí mật hẹn gặp một người ngoài như hắn. Tên tín sứ kia dặn dò cẩn thận đến mấy lần là hành tung lần này của Khánh Kỵ phải tuyệt đối giữ bí mật, không được cho bất cứ ai phát hiện kể cả Công Tử Triều và Tề Báo, nói như vậy có nghĩa là lần gặp mặt này ngay cả các nhân vật chủ chốt Công Tử Triều và Tề Báo thuộc phe thế lực Nam Tử cũng không được thông báo.

“Nữ nhân này, rốt cuộc đang tính toán chuyện gì?” Khánh Kỵ vuốt cằm suy tư, nghĩ mãi không ra dụng ý của Nam Tử.

Theo tính toán lộ trình và thời gi­an đi lại của Khánh Kỵ, tín sứ của Yểm Dư là Mục tướng quân phi ngựa ngày đêm không nghỉ quay về Sở quốc, sau đó Yểm Dư, Chúc Dung theo kế hoạch của hắn hành động thì cũng cần mất một khoảng thời gi­an, trước khi họ cố ý thua trận, dụ quân địch tiến sâu, bắt quân Sở và quân Ngô buộc phải gi­ao chiến với nhau, Khánh Kỵ cũng không vội gì phải đến Sở, vả lại chuyến đi Đế Khâu này cũng không mất bao nhiêu thời gi­an, mặc kệ Nam Tử đang tính toán chuyện gì, hắn dự định cứ đi gặp mặt Nam Tử trước, xong mới lên đường đến Sở quốc hãy còn chưa muộn.

“Đây là đâu?” Xe ngựa rẽ vào một khu vườn trống, bốn thị vệ thân tín của Khánh Kỵ cảnh giác nhảy xuống xe, tuốt kiếm canh giữ bốn góc xe ngựa. Khánh Kỵ vén rèm cửa sổ nhìn ra ngoài, khu vườn này không lớn lắm, khắp mặt sân phủ đầy lá vàng khô, chỉ có một bà lão mặc áo bào đen đang cầm chổi quét nhè nhẹ xác lá dưới gió thu lạnh lẽo.

Bà lão này tuổi tác đã cao, đầu tóc bạc râm, nếp nhăn hằn cả lên khuôn mặt. Khi xe ngựa dừng lại giữa vườn, bà ta còn phải dụi dụi mắt mới nhìn thấy rõ, lúc này Khánh Kỵ đã bước xuống xe, bà lão quay mặt đi không thèm nhìn đám người mới xuất hiện này nữa, cũng đúng, sống bao nhiêu năm trên cõi đời rồi, đã không còn gì có thể khơi dậy tính hiếu kì và niềm hứng thú của bà lão quét lá khô đơn độc này nữa.

Tên tín sứ kia vội bước đến trước mặt Khánh Kỵ, cung kính thưa chuyện: “Mời công tử, nơi đây…là hậu hoa viên của phủ đệ một vị đại phu, ở đây rất yên tĩnh, công tử ở đây sẽ rất an toàn.”

Khánh Kỵ thầm suy ngẫm: “Hậu hoa viên của phủ đệ một vị đại phu, không phải là đám người Công Tử Triều, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ, cô nương Nam Tử này quả không đơn giản, thì ra nàng ta còn xây dựng thế lực ngầm cho riêng mình ở Vệ quốc nữa.”

Khánh Kỵ mỉm cười gật đầu, quay qua tên tín sứ hỏi: “Ừ, ta đã đến đây rồi, tiếp theo làm gì nữa?”

Tên tín sứ khúm núm thưa chuyện: “Công tử cứ thong thả nghỉ lại nơi đây, tiểu nhân sẽ đi bẩm báo quân phu nhân, quân phu nhân sẽ tìm cơ hội đến đây gặp mặt công tử.”

Khánh Kỵ đã sớm nhận ra tên tín sứ này là một tên thái giám, giọng nói của hắn nghe không giống người nước Vệ, Khánh Kỵ suy đoán chắc hắn là thân tín Nam Tử mang theo từ Tống quốc khi được gả sang đây, Nam Tử che giấu bọn người Công Tử Triều, Tề Báo phái tên tín sứ này bí mật hẹn gặp Khánh Kỵ, ẩn tình bên trong chuyện này thế nào làm cho Khánh Kỵ ngày càng cảm thấy hiếu kì hơn.

“Hử? Quân phu nhân ra ngoài cấm cung được sao?”

Tên tín sứ do dự một lát mới trả lời: “Công tử cứ yên tâm, trong tẩm cung của quân phu nhân đều có thân tín đáng tin cậy, Vệ hầu lại không bao giờ ngủ lại trong tẩm cung của quân phu nhân, phu nhân muốn ra ngoài cung cấm cũng không phải là chuyện không làm được.”

Dứt lời, tên tín sứ tươi cười cung kính: “Dạ, mời công tử.”

“Nếu đã đến đây thì đành chịu vậy, cứ nán ở đây chờ mỹ nhân tự tìm đến thôi…” Khánh Kỵ hít một hơi dài, sải bước đi vào căn phòng nằm bên trong khu vườn yên tĩnh.

Dưới ánh nến, Khánh Kỵ đang chăm chú ngắm nhìn cô nương Nam Tử từng mắng chửi hắn té tát trong cấm cung Vệ quốc đang đứng trước mặt. Nam Tử khi đó, tuy trong cơn tức giận cùng cực nhưng thần sắc vẫn ung dung, đôi mắt chớp chớp quyến rũ, dù đang lúc nóng giận cũng toát lên vẻ đẹp kiêu sa của nàng, lúc đó Nam Tử như một cành hoa hồng đang khoe sắc, xung quanh lại tua tủa gai nhọn, kiều diễm mê hoặc đầy nguy hiểm.

Nhưng giờ đây, Nam Tử đang mặc áo đen đứng đó, mặc đồ đen có lẽ để tiện cho trốn ra khỏi cung cấm, nhưng nhìn kĩ trên khuôn mặt nàng lúc này trắng bệch, không có chút khí sắc nào cả, đôi mắt cũng không mang cơn giận, thay vào đó là một nỗi buồn thăm thẳm, sắc lạnh như băng, khiến ai nhìn vào đó đều nổi cơn ớn lạnh.

“Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với nàng ta?” Khánh Kỵ nổi lòng hiếu kì, nhưng hắn lập tức ho lên một tiếng, câu hỏi sắp bật ra miệng được giữ lại, lên tiếng thăm dò: “Quân phu nhân, người bí mật sai thân tín triệu kiến, không biết có việc gì quan trọng cần bàn bạc?”

Đôi tay mềm mại của Nam Tử đan chặt lại với nhau, Khánh Kỵ nhìn vào đôi tay ấy, làn da trắng mịn, lấp lánh dưới ánh nến mờ ảo, Khánh Kỵ lo lắng Nam Tử siết chặt hơn chút nữa, các ngón tay búp măng nõn nà ấy sẽ bị nàng ta bẻ gãy mất.

“Ta…mời công tử đến đây là muốn công tử giết một người giúp ta.”

Khi nói ra câu này giọng nói của Nam Tử có hơi run rẩy, nhưng khi nói xong lại thấy nàng bình tĩnh trở lại, đôi tay đang đan chặt vào nhau được buông xuống, ngực từ từ ưỡn ra phía trước.

Khánh Kỵ chú ý thấy trên khuôn mặt xinh xắn của Nam Tử sau khi nói ra chuyện giết người xong, lập tức từ trắng bệch chuyển sang hồng hào, cộng thêm đôi mắt sắc lạnh ấy, kiều diễm mê hoặc, lại mang chút tà ác, đủ sức khơi dậy cảm xúc ham muốn nằm sâu tận đáy lòng người khác.

“Giết người?” Khánh Kỵ chau mày ngạc nhiên.

“Đúng vậy, giết người! Muốn nhờ công tử giết một người giúp ta, Nam Tử không nghĩ ra người nào khác thích hợp hơn để làm việc này.”

Khánh Kỵ vê vê mũi, cười to: “Hình như Khánh Kỵ này…không phải là một thích khách…”

Ánh mắt của Nam Tử từ đầu đến giờ chưa rời khỏi khuôn mặt Khánh Kỵ: “Ngao Thế Kỳ là một trong tam kiệt dưới trướng Công Mạnh Trập, có tiếng là kiếm thuật cao siêu, ta nghe nói…nghe nói công tử chỉ với một chiêu đã giết chết hắn. Người mà ta muốn giết, kiếm thuật cũng rất cao siêu, chắc cũng…tương đương với Ngao Thế Kỳ, ra vào cũng phòng vệ kĩ lưỡng, muốn giết hắn không phải chuyện dễ, nhưng nếu người ra tay là công tử, ta nghĩ chắc không khó khăn gì, nên ta mới đến cầu xin công tử giúp ta.”

Khánh Kỵ cười khổ: “Nếu trong thành Đế Khâu này có một người mà quân phu nhân Nam Tử đây không giết được mà phải nhờ cậy người khác, ta nghĩ…người này chắc mang lại rắc rối lớn, đúng vậy không?”

Nam Tử tươi cười ủy mị, dịu giọng thuyết phục: “Chuyện đó thì có quan hệ gì chứ, vả lại cũng sẽ không ai biết là công tử ra tay.”

Khánh Kỵ lè lưỡi liếm môi, ngập ngừng: “Ta có thể biết…người đó là ai không?”

“Công tử nhận lời ta trước đã.”

Khánh Kỵ nghiêm mặt: “Quân phu nhân, yêu cầu này của phu nhân xem ra…không hợp lí cho lắm.”

“Đúng là không được hợp lí, nhưng ta sẽ trả giá xứng đáng cho việc này.”

“Giá gì nào?”

Nam Tử từ từ đứng thẳng người lên, ưỡn ngực ra đầy khêu gợi, dưới mái tóc đen bóng mượt là khuôn mặt hồng hào toát ra vẻ đầy tự tin: “Cho dù công tử muốn thứ gì, chỉ cần ta có đều sẽ dâng lên công tử, ngay cả…ta cũng có thể thuộc về công tử.”

Khánh Kỵ lộ vẻ kinh ngạc: Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với nàng ta rồi? Vì muốn giết ai mà cô nương cao ngạo không xem ai ra gì này nay không tiếc đem thân mình ra làm vật trao đổi nhờ cậy mình ra tay, nàng ta…rốt cuộc muốn giết ai?

“Thế nào? Công tử chấp nhận chứ?” Nam Tử cười say đắm, nụ cười như một bông hoa nở rộ dưới ánh ban mai, thân thể nàng mềm mại, đường cong quyến rũ, tuy là mặc chiếc áo đen không được nổi bật, nhưng khắp thân thể toát ra một luồng sức mạnh mê hoặc thần bí, tựa như đóa hoa quỳnh lặng lẽ trổ bông trong đêm trăng thanh vắng tĩnh mịch vậy.

Khánh Kỵ không ngừng quan sát mọi cử chỉ của Nam Tử, ánh mắt lướt từ hàng mi cong vút, đôi mắt đen láy, bờ môi đỏ thắm đến làn da nõn nà sau lớp vải đen nơi cổ Nam Tử, cất tiếng khe khẽ: “Thế này…thế này đúng là một cái giá rất lớn…”

Lúc này Nam Tử cũng đang quan sát Khánh Kỵ, cô nam quả nữ trong phòng kín giữa đêm khuya thế này đúng là khó kiềm chế nổi dục vọng, tất cả phản ứng của Khánh Kỵ đều không thoát khỏi tầm mắt Nam Tử, giọng nói dịu dàng mê hoặc ấy lại cất lên: “Khánh Kỵ, chỉ cần công tử giết chết hắn, tất cả mọi thứ đều thuộc về công tử, thân thể của ta, mọi thứ của ta…”

Khánh Kỵ thèm thuồng nhìn không chớp mắt vào tuyệt sắc gi­ai nhân trước mặt, hồi lâu sau hắn mỉm cười lắc đầu: “Không, ta từ chối, chuyện nam nữ yêu đương phải là hai bên thật lòng đến với nhau, nếu biến thành một cuộc gi­ao dịch, như thế đâu còn gì là thú vị, Khánh Kỵ yêu thích mỹ nhân, nhưng cũng không đến nỗi phải làm vậy. Rất xin lỗi, quân phu nhân, nếu phu nhân muốn giết Vệ hầu, điều duy nhất Khánh Kỵ làm được là xem như không biết gì cả, phu nhân…cứ xem như ta chưa từng đến đây gặp mặt. Khánh Kỵ thề với trời đất, tuyệt đối không tiết lộ bí mật này ra ngoài, cũng xin phu nhân đừng nảy sinh ý định gây bất lợi cho ta.”

Nói xong Khánh Kỵ từ từ đứng dậy, nắm chặt kiếm trong tay, cảnh giác lui từng bước về phía cánh cửa.

“Sao công tử lại cho là ta muốn giết Vệ hầu? Người mà ta nhờ công tử giết không phải là hắn.”

Khánh Kỵ ngớ người dừng bước, nhưng không dám buông lơi cảnh giác: “Vệ quốc ngoài Vệ hầu ra, còn có ai mà cả phu nhân, Công Tử Triều, Tề Báo không giết được? Còn có ai, khiến cho phu nhân phải lấy thân mình ra mặc cả nhờ cậy ta ra tay.”

“Còn một người chứ.” Đôi mắt Nam Tử lúc này đã ngấn lệ, nức nở từng tiếng một: “Người đó chính là… Công - Tử - Triều.”

Khánh Kỵ trong một lúc ngây ra không biết phản ứng gì nữa, hắn vốn đang cảnh giác Nam Tử vì không thỏa thuận được sẽ mai phục sát thủ giết hắn, nhưng nay nghe thấy người mà Nam Tử muốn giết chính là Công Tử Triều, Khánh Kỵ bất ngờ đến nỗi đứng chôn chân tại chỗ, miệng há hốc kinh ngạc, nếu lúc này mà có sát thủ mai phục sẵn nhảy ra đánh lén chắc Khánh Kỵ không thoát khỏi số phận phải bỏ mạng nơi đây.

“Phu nhân…phu nhân muốn giết Công Tử Triều sao?” Khánh Kỵ cứ ngỡ là mình nghe nhầm, hắn biết rõ quan hệ của Công Tử Triều và nàng ta, sao giờ hai người này lại…?

Nam Tử lại nở nụ cười quyến rũ, đôi mắt toát ra vẻ ưu sầu tội nghiệp, nàng khẽ nhắm mắt lại, đợi khi mở ra, từ đôi mắt đen láy ấy nước mắt tuôn ra như suối…

Nam Tử nhớ lại. Hôm đó trong vườn thượng uyển, nàng và Công Tử Triều đang đứng giữa hai cây sâm to lớn tranh cãi kịch liệt với nhau.

“Tử Triều, huynh bình tĩnh lại đi có được không? Chúng ta đã mất thời cơ, bây giờ là lúc nên nhẫn nhịn chờ đợi cơ hội, huynh bắt muội giả bộ bị Công Tôn Tuất cưỡng bức, sau đó huynh xông vào ra tay giết hắn, làm vậy chẳng khác nào đối đầu trực tiếp với Vệ hầu. Không sai, lấy cớ này huynh đúng là giết được Công Tôn Tuất, Vệ hầu cũng không làm gì huynh được, nhưng sau đó thì sao? Cái huynh cần là quyền lực, chứ không phải là gây hấn với Vệ hầu, một khi Vệ hầu tức giận lên, với sức của huynh và mấy người Tề Báo hiện nay cũng không chiếm được ưu thế gì. Tử Triều, huynh ở Tống quốc sao lại thất bại thê thảm? Chỉ vì huynh làm chuyện gì cũng nôn nóng, tính khí này của huynh sẽ hại huynh đó, huynh không thể sửa đổi được ư?”

Công Tử Triều lạnh lùng: “Muội biết cái gì? Nhẫn nhịn? Nhịn đến lúc Cơ Nguyên từng chút từng chút thu lại hết quyền lực vào trong tay hắn, lúc đó chúng ta muốn chống lại cũng không còn khả năng nữa à? Nam Tử, giờ huynh ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc, không biết đến bao giờ lại như Công Mạnh Trập bị một đội quân ập đến phanh thây xẻ thịt, sống những ngày tháng lo sợ như thế huynh không chịu được. Không sai, Cơ Nguyên nắm quyền cả Vệ quốc, nhưng hắn lại ở trong cung cấm, chỉ cần huynh tiếp quản toàn bộ lực lượng thị vệ trong cung, cũng đồng nghĩa với việc Cơ Nguyên chịu sự khống chế của huynh, mặc cho hắn cai quản thiên hạ, huynh thì cai quản hắn, lúc đó sợ gì hắn mưu toan làm hại huynh được nữa?”

Nam Tử cười khẩy: “E là làm vậy không chỉ vì muốn tự bảo vệ đâu, huynh muốn khống chế Vệ hầu, từ đó có được quyền lực lớn hơn, phải vậy không?”

Công Tử Triều bị Nam Tử nhìn thấu ý đồ, nổi giận gầm lên: “Thế thì có gì là không được nào?”

Chính vào lúc này, tiếng thét của Vệ hầu Cơ Nguyên vang lên bên tai: “Tử Triều!”

Công Tử Triều giật nảy mình hốt hoảng, vội đưa mắt về phía phát ra tiếng thét, chỉ thấy Vệ hầu Cơ Nguyên đang hầm hầm tiến ra từ bóng cây, tay lăm lăm cung tên, hét to một tiếng: “Đỡ lấy!” Dây cung được Cơ Nguyên kéo căng, một mũi tên bay vù vù hướng về phía hắn.

Công Tử Triều hồn xiêu phách lạc, hắn không biết là chuyện hắn và Nam Tử lén lút gặp nhau ở đây làm Vệ hầu nổi cơn ghen tuông, hay là Vệ hầu đã nghe thấy những gì hắn vừa nói với Nam Tử, lúc này cũng chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ đến nữa. Hai bên là hai cây sam to cao sừng sững, không còn chỗ trống nào để né tránh, mũi tên bắn đến trước mặt, chỉ trong khoảnh khắc mong manh ấy, Công Tử Triều không thèm nghĩ ngợi nhiều nữa, một tay tóm lấy Nam Tử theo bản năng, đẩy nàng ta che chắn trước thân mình.

Mũi tên chạm ngay giữa ngực, cảm thấy nhói đau, Nam Tử tuyệt vọng nhắm nghiền đôi mắt chờ chết, khoảnh khắc ấy, một nỗi đau xót xa lan tỏa trong tim nàng, nỗi đau đó không đến từ vết thương, mà là niềm chua xót tận đáy lòng Nam Tử, nàng không bao giờ nghĩ rằng trong thời khắc nguy nan, Công Tử Triều luôn miệng hứa hẹn yêu nàng còn hơn cả sinh mạng của hắn lại không chút do dự đem nàng ra làm lá chắn cản tên như bây giờ.

Cũng trong khoảnh khắc ấy, những lời Khánh Kỵ đã từng nói với nàng hiện ra rõ ràng trong kí ức: “Ai mà uy hiếp tới sinh mạng và lợi ích của ta, ta sẽ không ngồi yên chờ chết. Bây giờ có ai đó bắn mũi tên qua đây, ta không kịp né tránh, nếu người đứng kế bên ta là thân nhân bằng hữu ta kính trọng yêu mến nhất, ta thà chịu mũi tên đó cắm phập vào tim, cũng không bắt người kia đỡ tên cho ta, nhưng nếu đó là người dưng không hề thân thiết, ta sẽ không do dự kéo hắn qua cản giùm ta mũi tên, nếu người đó vốn không có ý tốt gì với ta thì lúc đó ta càng không cần thiết do dự, nếu kế bên là người già trẻ nhỏ vô tội, có lẽ ta cũng động lòng từ bi nhưng làm vậy là cho lương tâm được thanh thản chứ không vì nhân nghĩa lớn lao gì…”

Nam Tử chợt cười đau khổ, tim nàng đang bị tổn thương: “Thì ra, trong tim huynh ấy, ta chỉ là một người dưng không hề thân thiết, thứ huynh ấy theo đuổi chỉ có quyền lực, người huynh ấy yêu chỉ là bản thân huynh ấy mà thôi…”

Công Tử Triều cũng ngạc nhiên ngớ người ra, khi mũi tên của Cơ Nguyên bắn trúng Nam Tử, hắn đã muốn đẩy xác của Nam Tử ra, xông lên giết chết Cơ Nguyên hòng tìm đường sống, nhưng vừa thấy sau lưng Cơ Nguyên có thêm Công Tôn Tuất cầm kiếm theo sau bảo vệ, xa xa lại có mấy tên thị vệ đang chạy tới, hắn nghĩ lần này thế là tiêu đời, lúc này Công Tử Triều nảy ý định bỏ chạy, mũi tên trên ngực Nam Tử bỗng nhiên “Bạch!” một tiếng rơi xuống đất, đầu mũi tên không hề dính máu, Công Tử Triều kinh ngạc đứng chôn chân tại chỗ, nhất thời không biết nên phản ứng thế nào.

Cơ Nguyên được Công Tôn Tuất nhắc nhở, hiểu ra hôm nay không thể nào giết chết Công Tử Triều, bằng không đám người Tề Báo lập tức cảm thấy bị dồn vào đường cùng, lúc đó dấy binh làm phản thì nguy, do vậy mũi tên Cơ Nguyên bắn ra đã được chặt đi đầu nhọn, làm như vậy chỉ là cảnh cáo bọn họ mà thôi. Không ngờ mũi tên bắn tới, Công Tử Triều lại kéo Nam Tử làm vật thế mạng che tên, Cơ Nguyên ngớ ra một hồi liền thấy mừng rơn: Đôi cẩu nam nữ này, sau này hậu cung và đại thần khó mà cấu kết với nhau đối địch với ta nữa rồi.

Cơ Nguyên ha hả cười to, ném cung tên đi, bước tới giả đò ung dung: “Tử Triều, quả nhân đang đi dạo trong vườn, thấy ngươi đang đứng đây, vốn chỉ định đùa cợt với ngươi một chút, sao ngươi lại dám đem phu nhân ra cản tên hả?”

Công Tử Triều “rầm!” một tiếng quỳ xuống, cũng không cần phí thời gi­an suy nghĩ, vừa dập đầu xuống đất lia lịa vừa sợ hãi không thốt nên lời: “Bệ hạ, vi thần…vi thần…”

Hắn thấy Cơ Nguyên bước lại gần cúi xuống nhìn hắn, trên khuôn mặt Cơ Nguyên lúc đó nở nụ cười khoái chí, ánh mắt lộ vẻ khinh miệt pha chút đắc ý, Cơ Nguyên mở miệng ra đang nói gì đó, nhưng hắn chỉ nghe tiếng ong ong bên tai, dù cố gắng lắng nghe cũng không sao nghe rõ được. Công Tử Triều đang run lên bần bật, đắc tội với Vệ hầu, nay lại đắc tội với cả Nam Tử, thiên hạ rộng lớn, nhưng hắn còn trốn đi đâu được đây?

Nam Tử đứng thất thần sang một bên, khuôn mặt lạnh tanh không cười cũng không khóc, nàng lui lại vài bước tựa vào gốc cây, có như vậy thân nàng mới không bị ngã quỵ xuống, giây phút ấy nàng cảm thấy mình như đã chết, giờ trong tim nàng không còn chút cảm xúc nào nữa.

Hai ngày đã trôi qua, Nam Tử nhốt mình trong tẩm cung từ từ khôi phục lại ý thức, nàng bắt đầu suy nghĩ lí do giải thích giùm cho Công Tử Triều: Trong lúc nguy nan, ai cũng làm theo bản năng cả, huynh ấy không phải không yêu mình, chỉ là huynh ấy yêu bản thân hơn thôi, nhưng ngoài bản thân ra, mình vẫn là người quan trọng nhất trong lòng huynh ấy, huynh ấy sẽ đến gặp mình, chỉ cần huynh ấy thành tâm nhận lỗi, chỉ cần huynh ấy chịu cúi đầu nhận lỗi với mình…, mình…mình sẽ tha thứ cho huynh ấy phen này vậy…

Thế nhưng Nam Tử không đợi được Công Tử Triều đến thành tâm nhận lỗi, nàng một lòng nghĩ cho hắn, nhưng Công Tử Triều lại nghĩ khác, hắn ích kỉ kéo Nam Tử đỡ tên giùm hắn, giờ sao dám tin Nam Tử xưa nay cao ngạo lại vì tình yêu mà tự dối lòng tìm lí do tha thứ cho hắn? Hắn sao có thể tin Nam Tử bị hắn đưa ra thế mạng nay lại tha thứ cho hắn? Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố đều có thực lực hơn hắn, hắn đến Vệ quốc được bao lâu rồi chứ? Căn cơ của hắn như được xây dựng trên đống cát, chỉ dựa vào Nam Tử ở chốn hậu cung chống lưng nên hắn mới có chỗ đứng trong triều đình Vệ quốc. Nếu Nam Tử trở mặt với hắn, Vệ hầu Cơ Nguyên muốn giết chết hắn thì dễ dàng như dẫm chết một con kiến vậy, còn ba người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố được Nam Tử gợi ý chỉ lăm le chia sẻ quyền lực của hắn mà thôi, chứ không hành động bảo vệ hắn đâu.

Nam Tử càng giữ im lặng, Công Tử Triều càng lo lắng, cứ nghĩ nàng ta đang toan tính âm mưu thâm độc gì để hãm hại hắn, Công Tử Triều càng nghĩ càng sợ, trong lúc không còn cách nào khác, hắn đã chọn một con đường hắn cho là khôn ngoan nhất vào lúc này: Thỉnh tội với Vệ hầu Cơ Nguyên.

Công Tử Triều tâm ý đã quyết, bèn vào điện thỉnh tội với Cơ Nguyên. Nam Tử tuy không hề ra khỏi tẩm cung, nhưng nàng cai quản khắp chốn hậu cung, với quyền lực và cơ trí của nàng, đã sớm mua chuộc hầu hết tì nữ và thái giám trong cung làm tai mắt, ngay cả người hầu kề cận Cơ Nguyên cũng bị nàng mua chuộc, hành động này của Công Tử Triều đương nhiên được báo cáo về cho Nam Tử biết.

Nam Tử nghe xong tin này chết lặng trong lòng, lúc nguy nan bán đứng nàng, lúc khốn khó không tin tưởng nàng, người này có còn là Công Tử Triều nàng từng yêu không? Tên thái giám ngập ngừng kể lại lúc đó Vệ hầu Cơ Nguyên đang uống rượu giải sầu, Công Tử Triều bước vào dập đầu thỉnh tội, Cơ Nguyên hù dọa hắn một hồi lại mở lời an ủi, xong thu nạp hắn dưới trướng. Tiếp đó Cơ Nguyên thấy Công Tử Triều mắt thanh mày tú, lại dẫn hắn vào tẩm cung tâm sự, hơn nửa ngày trời mới cùng nhau dắt tay bước ra. Nam Tử nghe đến đó ngửa mặt lên trời cười to điên dại, cười đến nỗi nước mắt giàn giụa.

Đó chính là nam nhân nàng một lòng yêu mến, một đại anh hùng chí khí ngút trời, một nam tử hán đại trượng phu? Chỉ vì muốn giữ lấy mạng sống, lại bằng lòng bắt chước phận nữ nhi, dâng hiến cơ thể cho người khác, chấp nhận làm man đồng cho Cơ Nguyên giải trí. Nực cười, ghê tởm! Đúng là Vệ hầu thích nam nhân, nhưng dắt Công Tử Triều vào tẩm cung có thật là thích nhan sắc của hắn? Hay chỉ là dùng cách đó sỉ nhục Công Tử Triều một phen, từ nay về sau, Công Tử Triều còn ra thứ gì đây?

Yêu quá hóa hận, Nam Tử đã quá thất vọng về tên nam nhân này, trong tim nàng giờ chỉ nung nấu thù hận, nàng chỉ muốn làm một việc duy nhất: Giết chết Công Tử Triều.

Nam Tử bất chấp tất cả muốn giết chết Công Tử Triều, nàng giết hắn không chỉ vì uất hận, nàng muốn giết cả Công Tử Triều và quá khứ của hắn, cái quá khứ bỉ ổi đó làm nàng chán ghét, chỉ khi nào giết chết được hắn, nàng mới xóa bỏ được quá khứ mà tiếp tục sống.

“Đúng, là Công Tử Triều, là tên Công Tử Triều không bằng một con chó đó, bây giờ công tử chấp nhận rồi chứ? Khánh Kỵ công tử.”

“Rất tiếc, quân phu nhân, việc phạt Ngô sắp phải tiến hành, Khánh Kỵ không muốn sinh ra nhiều chuyện phiền toái. Ta…”

Hắn đột nhiên ngưng bặt, đôi mắt mở to, chỉ thấy Nam Tử tươi cười quyến rũ, kéo nhẹ dây lưng, dây lưng rơi nhẹ xuống đất, sau đó nàng dùng đôi bàn tay ngọc ngà từ từ cởi áo ra, bờ vai thon thả khẽ run run, tấm áo bào đen rơi phịch xuống đất, nàng không còn mặc gì nữa, tấm thân trần truồng ấy đang đứng trước mặt Khánh Kỵ, tấm thân như hoa như ngọc, Khánh Kỵ cứ như lạc vào tiên giới, đầu óc quay cuồng.

Nam Tử không hẳn đã cởi đồ ra hết, đôi chân nàng vẫn mang đôi ủng da hươu xinh xắn, làn da trắng nõn, Khánh Kỵ không dám nhìn vào chỗ kín của nàng, dù là vậy nhưng lúc này hắn cảm thấy tim đập thình thịch, hơi thở gấp gáp, Nam Tử khẽ cử động, bầu ngực căng tròn tràn đầy sức sống đưa ra trước như mời gọi, Nam Tử lại cúi người xuống để lộ vòng eo thon thả, cặp mông vút cao trông càng khêu gợi…

“Đối với công tử chỉ là chuyện dễ như trở bàn tay, công tử sẽ có được ta, công tử quả thật muốn từ chối sao?”

Khánh Kỵ mở to đôi mắt, nhìn một hồi lâu, từ từ bước lại gần Nam Tử. Nam Tử để lộ nụ cười đắc ý, bờ môi xinh xắn của nàng khẽ kéo giãn ra đôi chút, cặp mắt mê hồn ấy từ từ nhắm lại, nàng đang cố gắng nén giữ cho cơ thể không run bật lên, chiếc cổ dài của nàng ngước lên, thân người hơi ưỡn về phía trước, nàng đang làm ra tư thế mời gọi Khánh Kỵ…

Nam Tử nghe thấy tiếng bước chân của Khánh Kỵ dừng lại kế bên nàng, nàng không biết lúc này Khánh Kỵ đang ngắm nhìn bộ phận nào trên cơ thể nàng nữa, nàng cảm thấy nhột nhạt nóng ran khắp người, Nam Tử không biết rằng dù cố gắng chế ngự cảm xúc, nàng cũng không ngăn được cơn e thẹn thoáng qua, làn da trắng mềm mại của nàng giờ đây chuyển sang hồng hào, đôi chân dài thon thả của nàng đang run lên, tiếp đó…

Nam Tử cảm thấy một vật gì đó khoác lên trên vai mình, là một chiếc áo, nàng ngạc nhiên mở mắt ra, chỉ thấy Khánh Kỵ đang đứng kế bên, thân hình hắn cao lớn vạm vỡ, nàng thì chiều cao cũng không thua kém bao nhiêu, nhưng vì lúc này đang không một mảnh vải che thân, đứng bên Khánh Kỵ cứ như đứa trẻ đứng trước mặt người lớn vậy.

“Nào, dang tay ra…”

Nam Tử ngờ nghệch làm theo, đưa một tay ra, Khánh Kỵ luồn tay áo vào tay nàng.

“Tay kia.”

Nam Tử lại đưa tay kia ra, tay áo còn lại được luồn vào.

Sau đó áo của Nam Tử được kéo lại che lấy tấm thân yểu điệu mỹ miều, Khánh Kỵ đưa tay ra sau lưng nàng, lại luồn tay ra trước, cột chặt dây lưng trước bụng, khi tay Khánh Kỵ chạm vào tấm bụng phẳng lì mềm mại sau lớp vải áo mỏng tang, mùi hương thoang thoảng tỏa ra đầy mê hoặc.

“Trời đã sang thu rồi, nói không chừng mấy ngày nữa sẽ có một trận bão tuyết lớn, trời lạnh thế này, trong phòng lại không nhóm lửa, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh…”

Nam Tử chợt thấy tức giận, thế nghĩa là sao? Hắn xem nàng như một đứa trẻ chưa trưởng thành ư? Nàng đã để lộ thân thể chưa từng cho người khác thấy trước mặt hắn, thế mà hắn…hắn xem như không có chuyện gì xảy ra, lại còn lên giọng bề trên như một bà lão lẩm cẩm dạy dỗ nàng nữa chứ.

Nam Tử tức giận đến nỗi toàn thân run lên bần bật, không nhận ra Khánh Kỵ phải cố gắng thế nào mới ức chế được dục vọng dưới ma lực cuốn hút của nàng, hắn lảm nhảm nói chuyện này chuyện kia không phải là nói cho nàng nghe, mà chỉ nhằm phân tán sự chú ý của hắn, từ đó che giấu đi phản ứng thèm thuồng.

Chính vì Khánh Kỵ, Công Tử Triều mới có được quyền lực hắn ngày đêm mong mỏi, cũng chỉ vì quyền lực mà Công Tử Triều sa đọa đến bước đường ngày hôm nay, thành một kẻ bỉ ổi vô liêm sỉ chấp nhận làm man đồng của Cơ Nguyên. Nam Tử hận hai tên nam nhân này, nàng vốn định dùng nhan sắc mê hoặc Khánh Kỵ, dụ hắn đi giết chết Công Tử Triều, sau đó lại tiết lộ thân phận thích khách của hắn, giết luôn tên tiểu nhân này, dù cho lúc đó nàng có thân bại danh liệt, mất luôn mạng sống vào kế hoạch này cũng mặc kệ.

Nàng không tiếc hy sinh thân mình, đích thân đến đây quyến rũ Khánh Kỵ, đã mang theo ý niệm tất cả cùng ôm nhau chết chung. Ai biết nay lại xảy ra một tình huống nàng không ngờ tới, dù cho Nam Tử thông minh mưu trí, lúc này đây cũng không biết phải làm sao. Một cô nương chưa từng cởi áo trước mặt nam nhân nay trần như nhộng lại còn bị từ chối, nàng còn nghĩ ra được mưu kế nào nữa.

Một lát sau, Nam Tử đã mặc xong chiếc áo, nàng định thần lại, tức giận đẩy Khánh Kỵ ra, đôi mắt đen láy của nàng như đang bùng cháy: “Công tử từ chối, có đúng không?”

“Ta không từ chối sắc đẹp, nhưng trong trái tim nam tử hán, nữ nhân mãi mãi không bao giờ nằm ở vị trí số một, có người mưu cầu quyền lợi, có người mưu cầu danh tiếng, Khánh Kỵ ta không phải là quân tử đạo mạo gì, nhưng ta cũng có niềm kiêu hãnh của ta, ta đúng là một nam nhi, nhưng ta không vì sắc đẹp mà khuất phục một nữ nhân, biến mình thành công cụ phục vụ cho nàng ta.”

“Ta không từ chối sắc đẹp, nhưng trong trái tim nam tử hán, nữ nhân mãi mãi không bao giờ nằm ở vị trí số một, có người mưu cầu quyền lợi, có người mưu cầu danh tiếng, Khánh Kỵ ta không phải là quân tử đạo mạo gì, nhưng ta cũng có niềm kiêu hãnh của ta, ta đúng là một nam nhi, nhưng ta không vì sắc đẹp mà khuất phục một nữ nhân, biến mình thành công cụ phục vụ cho nàng ta.”

Khánh Kỵ nói giọng đều đều chắc nịch, khi nói đến đoạn ta đúng là một nam nhi, lông mày cong lên lộ vẻ tự tin ngạo mạn. Nam Tử chua chát trong lòng, đột nhiên nhớ đến tên Công Tử Triều cũng từng vỗ ngực tự tin cao ngạo như hắn nay lại chấp nhận làm man đồng mua vui cho Cơ Nguyên, cái tư thế nằm xuống cho Cơ Nguyên đè lên đáng kinh tởm đó.

Nam Tử bình tĩnh lại, nói: “Ta từng coi thường công tử, cũng từng hận công tử, nhưng không biết tại sao, giờ công tử từ chối yêu cầu của ta, tất cả cảm giác hổ thẹn khi bị từ chối của ta lại tan biến hết, là bản thân ta bị thù hận làm mờ mắt mất rồi. Công tử đi đi, lập tức rời khỏi đây, ta xem như công tử chưa từng đến đây bao giờ.”

Nam Tử từ từ ngẩng đầu lên, ngước nhìn cây đà ngang trên nóc căn phòng, bàn tay xoa nhè nhẹ vào nút thắt của chiếc dây lưng Khánh Kỵ vừa cột lại giúp nàng, Khánh Kỵ vì e dè nên cột không chặt lắm, lại còn lệch sang một bên nữa chứ.

“Nàng muốn tự sát?”

Khánh Kỵ quan sát thái độ của Nam Tử đã đọc được ý định của nàng. Nam Tử chau mày, ánh mắt sắc lạnh quét vào Khánh Kỵ: “Liên quan gì đến ngươi?”

Khánh Kỵ cười khổ xòe tay ra: “Sao lại không liên quan? Nàng lén trốn ra khỏi cung cấm đến gặp ta, sau đó thì treo cổ tự sát, ai biết được là nàng vì cởi đồ quyến rũ bị cự tuyệt nên xấu hổ tự sát? Người khác không biết sự tình còn tưởng là bổn công tử đây trêu hoa ghẹo nguyệt, nàng tự sát vì tình ấy chứ.”

“Vì tình cái đầu ngươi!” Nam Tử tức tối sôi gan, ý định tự sát chợt tan biến hết, nàng uất hận đến nỗi muốn lao lên cấu xé tên Khánh Kỵ đáng ghét đứng trước mặt: “Cút, mau cút đi, đừng để quả nhân nhìn thấy mặt ngươi nữa!”

“Trước mặt nam nhân, nữ nhân nên tự xưng là thiếp mới phải, thế mới đáng yêu, dù nàng có đẹp như tiên nữ giáng trần, nếu suốt ngày cứ nói những lời cay độc thì cũng không một nam nhân nào thấy thích nàng đâu.” Khánh Kỵ không chịu rời khỏi, cười mím chi khoái trá, lại quay về ngồi vào bàn, lát sau lại thích thú buông ra một câu: “Thật ra…ta rất tôn trọng nữ nhân, nhưng đã là nữ nhân, thì nên ra dáng nữ nhân đúng không nào?”

Nam Tử hậm hực nhìn vào Khánh Kỵ: “Ngươi còn muốn gì nữa đây? Còn không biến đi là ta thay đổi ý định đó, ngươi chỉ mang theo bốn người, ở trong thành Đế Khâu này ta muốn ra tay giết ngươi thật dễ như trở bàn tay.”

Khánh Kỵ đanh mặt lại, lên tiếng: “Ta không hỏi nàng lí do vì sao trở mặt muốn giết Công Tử Triều, đó là chuyện riêng của nàng. Nhưng…nàng lén lút đến gặp ta mà không thông qua triều đường, cũng không thông qua đám người Tề Báo, Công Tử Triều, xem ra tình cảnh của nàng rất không ổn.”

Nam Tử lạnh lùng: “Thế thì đã sao? Cho dù Nam Tử này trở thành cô gia quả nhân, thì liên quan gì đến Khánh Kỵ nhà ngươi chứ?”

“Nàng không phải là cô gia quả nhân.” Khánh Kỵ vừa cười vừa phân tích: “Nàng là công chúa Tống quốc, Vệ quốc phu nhân, thật ra nàng có rất nhiều nguồn lực có thể lợi dụng, chỉ là nàng chưa bao giờ nghĩ tới mà thôi, dùng thân thể của mình ra để trao đổi, đó mới là cách ngu ngốc nhất.”

Nam Tử xấu hổ đỏ chót cả khuôn mặt, khi một nữ nhân trần như nhộng trước mặt một nam nhân, nếu nam nhân này lao tới “ức hiếp” nàng ta, vậy kẻ chiến thắng chính là nữ nhân đó, nhưng nếu nam nhân kia không thèm đếm xỉa tới nữ nhân trước mặt, như vậy dù cho đối phương có khinh miệt thế nào, nàng cũng không cách gì mở lời phản bác được.

Khánh Kỵ thấy mỹ nhân Nam Tử vì xấu hổ tức giận đến tím tái mặt mày, xem ra sắp nổi cơn thịnh nộ đến nơi, lập tức ngưng trêu chọc đi vào vấn đề chính: “Ta có một kiến nghị, có thể giúp nàng tận dụng nguồn lực của mình làm những chuyện nàng muốn, thế nào, có muốn nghe không?”

Nam Tử lấy lại bình tĩnh, ánh mắt nghi hoặc quan sát Khánh Kỵ giây lát, nàng cất tiếng êm ái: “Sao ngươi lại có lòng tốt muốn giúp ta? Ngươi sẽ có được lợi ích gì từ chuyện này?”

Khánh Kỵ cười toe toét, đưa tay vỗ vỗ chiếc ghế kế bên, nói: “Nào, lại đây ngồi xuống hẵng nói, thật ra thứ ta muốn không nhiều lắm. Con người ta xưa nay luôn công bằng, cho dù làm bất cứ chuyện gì, đều phải hai bên cùng đạt được lợi ích mới được. Vì chỉ khi nào làm được điều này quan hệ hợp tác của đôi bên mới duy trì lâu dài được, nàng nói đúng không?”

Nam Tử ngơ ngác dán mắt vào Khánh Kỵ, nàng đã không phân biệt được tên nam nhân kia có còn là công tử quý tộc Ngô quốc từ nhỏ được giáo dục tốt không nữa, Vệ quốc có rất nhiều thương buôn, Nam Tử thấy dáng vẻ của bọn thương buôn rất giống với vẻ mặt Khánh Kỵ lúc này, phải nói là Khánh Kỵ giờ đã trở thành một tên thương buôn gi­an xảo biết ngả giá chốn chợ trời mới đúng.

Nam Tử đột nhiên cảm thấy ớn lạnh, nàng vốn định đem thân mình ra trả giá với tên khốn Khánh Kỵ này, nhưng bây giờ…nàng lại có cảm giác như món hàng bị hắn bán đi. Nhưng…nàng vẫn bước về phía hắn ngồi xuống kế bên. Khi Công Tử Triều bị dồn vào đường cùng, hắn đã chọn một con đường sống nhục nhã nhơ nhuốc cho mình, còn nàng thì sao? Chẳng phải nàng cũng như hắn đó ư?

Tiềm Sơn Sở quốc, trong doanh trại quân đội.

Vài túp lều lưa thưa, vài tốp binh sĩ ủ rũ đang cầm kích đi tuần tra dưới gió thu lạnh lẽo, cúi đầu uể oải bước đi, vài tên lính đang bị thương vẫn phải đi xiên vẹo tuần tra, dáng vẻ của kẻ bại trận thật là thê thảm.

Phía sau những túp lều là dãy núi đồ sộ, nơi đây chính là Đại Biệt sơn nổi tiếng sau này, chính vì dựa vào địa hình hiểm trở ở đây, số quân ít ỏi tàn tạ của Yểm Dư mới thoát được truy kích của Bá, hiện đang lánh nạn tạm vào hẻm núi heo hút này.

“Hí…” mấy tiếng ngựa hí vang lên trong đêm tối, một chiếc chiến xa đang lao như bay men theo khe núi tiến vào quân doanh, tiếng xe chạy làm kinh động chim chóc đang say ngủ trong rừng làm chúng hoảng hốt bay tứ tung. Trên xe ngựa hai ngọn đuốc rực sáng lên hai bên trái phải, ở giữa một người đứng đó nắm chặt dây cương, tay kia cầm kiếm dáng vẻ oai vệ, bóng đêm bao phủ không nhìn rõ được khuôn mặt hắn ta. Xe chạy đến trước cửa quân doanh dừng lại, đám binh sĩ canh gác chạy lại hỏi han một hồi sau đó mở cổng nhường lối, chiếc xe ngựa lại phi nhanh vào doanh trại, hướng về túp lều to nhất còn đốt đuốc sáng rực đằng xa. Xe dừng lại trước túp lều, người trên xe nhảy phóc xuống đất, tà áo sau lưng bay phấp phới cứ như một con chim ưng sà xuống vồ mồi.

“Tứ ca!” Người này gọi to, sải bước về hướng túp lều, đưa tay vén màn cửa lên bước vào trong: “Tứ ca, huynh gọi đệ đến đây gấp vậy có việc gì quan trọng thế?”

Ở giữa lều đang trải một tấm thảm dơ bẩn dưới đất, một nam tử tầm hai mươi bảy hai mươi tám tuổi đang ngồi bó gối trên đó. Dáng vẻ hắn không được cao lắm nhưng cũng khá là oai vệ, giờ đã cởi bỏ áo giáp, bên trong là chiếc áo bào dành cho công tử, búi tóc bằng tấm vải trắng, hai mắt nhắm nghiền, không chút động đậy, xem mặt mũi hắn lông mày sắc nhọn, mũi cao miệng rộng, thêm ba lọn râu dưới cằm, thần sắc uy nghi.

Người gọi hắn là tứ ca mới bước vào nhỏ tuổi hơn, chắc chỉ hai mươi mốt hai mươi hai tuổi, dưới cằm cũng đang bắt đầu để râu, dung mạo trông giống người kia đến bảy tám phần, đang mặc một bộ giáp trụ, trên bộ giáp cũ nát này chi chít vết chém đao kiếm, cũng không biết là đã cùng hắn trải qua bao nhiêu trận huyết chiến sinh tử, khắp thân hình rắn chắc của hắn toát ra sát khí ngùn ngụt.

“Ngồi đi!” Người đang ngồi không hề ngẩng đầu mở mắt ra, chỉ cất tiếng ngắn gọn.

Người kia nghi hoặc nhìn vào mặt hắn một hồi, y lời bước tới ngồi xuống trước mặt hắn.

Người nam tử ngồi bó gối im lặng hồi lâu, đợi khi chàng thanh niên mới bước vào không còn kiên nhẫn nữa, lại cất tiếng lên hỏi có việc gì quan trọng, hắn mới từ từ mở mắt ra, thở dài ngao ngán, ảm đạm nói: “Chúc Dung, đêm nay, ta suy nghĩ rất lâu rồi, từ lúc tin tức Cơ Quang giết chết hoàng huynh, chiếm đoạt vương vị truyền đến quân Ngô quân Sở, ba quân hỗn loạn, cho đến ngày hôm nay, hây…, chúng ta đã sai mất rồi.”

Thì ra người này chính là vương tử Ngô quốc Yểm Dư, chàng thanh niên trẻ ngồi đối diện chính là huynh đệ của hắn Chúc Dung. Nghe Yểm Dư nói ra những lời này, Chúc Dung ngạc nhiên hỏi: “Tứ ca, huynh nói chúng ta sai rồi, rốt cuộc là sai chuyện gì?”

Yểm Dư lắc đầu ngao ngán, cười khổ tiếp lời: “Khi tin tức Cơ Quang soán ngôi được truyền đến, lòng quân đại loạn, đệ và ta đều biết thế cuộc đã được an bài, lúc đó quả quyết dẫn quân mở con đường máu xông ra ngoài, trốn vào núi non gần đó. Khi ấy đệ và ta từng phái người liên lạc với Khánh Kỵ, muốn tập hợp binh lực lại, lợi dụng thù oán của Sở quốc với Ngô quốc ta, mượn tay quân Sở đối phó với Cơ Quang, nhưng Khánh Kỵ không tin tưởng Sở vương, quyết chí chạy sang Vệ quốc chiêu binh mãi mã, tính kế lâu dài. Bây giờ nghĩ lại, chọn lựa của hắn mới là khôn ngoan, còn đệ và ta thì đã sai mất rồi.”

Chúc Dung nghe vậy cũng không thốt nên lời, lát sau mới lên tiếng: “Đúng, Sở vương tính khí hẹp hòi, muốn thâu tóm tất cả quyền lực trong tay, cho dù là các công khanh đại phu Sở quốc, hễ ai có sức mạnh lăm le đủ uy hiếp đến vương quyền của hắn đều bị hắn tìm đủ lí do tiêu diệt từng người một, Bá gia, Ngũ gia, bao nhiêu trung thần cũng không thoát khỏi số phận, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta? Hắn chỉ lợi dụng huynh đệ chúng ta mà thôi, không bao giờ muốn thật lòng giúp đỡ. Việc này…trước kia chúng ta cũng có nghĩ đến, kẻ thù hôm qua, sao hôm nay lại trở thành bằng hữu được chứ? Đương nhiên là không thể, chỉ là…ta không nghĩ đến Sở vương lại tàn ác nhưng vậy, chỉ cung cấp lương thảo, không phái một binh một tốt chi viện, cứ tận dụng quân chủ lực của chúng ta, cộng thêm binh lực của vài nước nhỏ phụ thuộc Sở quốc đối kháng với Cơ Quang, giờ đây…giờ đây binh mã của chúng ta chỉ còn sót lại không quá ba ngàn, lại bị vây khốn ở Đại Biệt sơn này…”

Hắn ngẩng đầu nhìn về phía cửa sổ nhỏ của túp lều, sầu não lo lắng: “Cho dù Bá không xua quân tấn công, chỉ bao vây chúng ta ở đây, e rằng mùa đông lạnh giá này chúng ta cũng khó chống đỡ.”

Yểm Dư càng sầu não hơn: “Chúng ta có mấy vạn đại quân, nay chỉ còn sót lại không quá ba ngàn tàn quân bại tướng, chẳng lẽ tất cả đều phải bỏ mạng ở đây sao? Dù cho tất cả chúng ta liều mạng chiến đấu chết ở đây thì có ý nghĩa gì chứ?”

Yểm Dư thở dài, ngoài kia gió rít qua khe núi, phát ra tiếng u u buồn thảm, như tiếc thương cho kẻ anh hùng sa cơ.

Chúc Dung nhíu mày, lại một tiếng thở dài phát ra, vỗ đùi cái đét, hạ giọng: “Tứ ca, vậy huynh kêu đệ đến đây là có dự tính gì?”

“Khánh Kỵ đưa thư đến rồi.”

“Hử?”

Yểm Dư thò tay vào giữa ngực, lấy ra một cuộn vải lụa, nhét vào tay Chúc Dung, Chúc Dung trải tấm bạch thư ra, nghiêng người cho ánh nến rọi vào, xem tỉ mỉ một hồi, hắn thất thanh kêu lên: “Khánh Kỵ đã biết huynh đệ ta thua trận, mời chúng ta đến Vệ quốc?”

“Ừ!” Yểm Dư vuốt râu, tiếp: “Trong lá thư ta viết cho Khánh Kỵ, đã nói rõ tình cảnh của chúng ta cho hắn biết.”

“Tứ ca, một khi đã cậy nhờ Khánh Kỵ, vậy huynh sẽ…”

Yểm Dư cười nhạt nhẽo: “Bây giờ có giữ được tính mạng hay không còn là vấn đề, còn nghĩ gì đến chuyện tranh đoạt vương vị nữa? Vương vị đã không còn hy vọng rồi, ta chỉ theo đuổi mục tiêu thứ hai thôi, đó là đánh về Ngô quốc, chặt cái đầu chó của tên Cơ Quang, tế vong hồn của già trẻ lớn bé gia tộc ta…, được vậy Yểm Dư này đã mãn nguyện.”

Ánh mắt Chúc Dung dán chặt vào Yểm Dư, rồi lại cúi xuống tiếp tục đọc thư, đột nhiên hắn giật nảy người, lại thất thanh kêu lên: “Hắn muốn chúng ta chia nhau ra trấn giữ Ngải thành Vệ quốc, Phí thành Lỗ quốc, tháng ba năm sau khởi binh phạt Ngô sao? Ở Phí thành Lỗ quốc hắn đã xây dựng được một đội quân ở đó ư?”

Yểm Dư nở một nụ cười khâm phục, nói: “Đúng vậy, tên tiểu tử Khánh Kỵ này, thật làm ta khâm phục sát đất. Hắn tuy là điệt nhi (cháu họ) của huynh đệ ta, nhưng xét về tuổi tác chúng ta cũng không lớn hơn hắn bao nhiêu, từ nhỏ đã chơi chung với nhau, tới khi trưởng thành danh tiếng của hắn vang khắp bốn bể, còn đệ và ta thì không ai biết đến, không chỉ có đệ, trong lòng ta có lúc cũng không phục, giờ nghĩ lại hắn quả thật tài giỏi hơn huynh đệ chúng ta nhiều.”

Yểm Dư ngưng một hồi lại nói tiếp: “Sức mạnh kinh người, sánh với ba quân, với công phu sức mạnh cá nhân, đi lại trên gi­ang hồ còn được ai nấy khâm phục, nhưng trước thiên binh vạn mã, có ai đủ sức địch lại vạn người chứ, sức mạnh cá nhân lúc đó không có tác dụng gì cả. Nhưng Khánh Kỵ nhỏ tuổi là thế, lại cơ mưu túc trí suy tính sâu xa, không chỉ tạo dựng được cơ sở vững chắc ở Vệ quốc, mà mới trải qua trận thua phạt Ngô lần trước, giờ chỉ trong thời gi­an ngắn lại xây dựng được đội quân đông đảo mấy vạn người, hơn nữa…lại có thể thần không biết quỷ không hay bí mật chiêu mộ một cánh quân ở Lỗ quốc, Yểm Dư này hôm nay đúng là tâm phục khẩu phục hắn rồi đó.”

“Tứ ca…”

“Hử?”

“Huynh đã thay đổi nhiều.”

Yểm Dư im lặng giây lát, cười cười: “Mỗi một người, đều như một miếng đá sắc cạnh trong dòng suối, chỉ khi nào được dòng nước mài dũa mới trở nên bóng loáng. Ta cũng có chí hướng của riêng mình, nhưng trải qua nhiều thất bại, ta nhận ra ta chỉ có hùng tâm tráng chí, chứ không có khả năng mưu lược làm chuyện lớn. Xét về mưu trí, tầm nhìn, sức mạnh, hết thảy mọi thứ Khánh Kỵ đều giỏi hơn ta, người làm thúc thúc này thua một cách tâm phục khẩu phục, nếu đã là vận mệnh an bài ta không làm vua một nước được, vậy ta sẽ làm một công thần tướng tài phò trợ vị vua hùng tài thao lược vậy.”

Nói đến đây Yểm Dư vênh mặt, ngạo mạn: “Yểm Dư tin là với chút bản lĩnh này ta còn làm nên chuyện. Huynh đệ chúng ta, có ai là vô dụng không nào?”

Chúc Dung quan sát huynh trưởng hồi lâu, thở dài: “Tứ ca nếu đã nghĩ vậy, Chúc Dung còn gì để nói nữa? Được, chúng ta sẽ đến Ngải thành nhờ cậy Khánh Kỵ điệt nhi, xua quân phạt Ngô giết chết Cơ Quang trả mối thù gia tộc.”

Hai người tay nắm chặt tay, nhìn nhau hạ quyết tâm lần nữa, Yểm Dư lên tiếng hỏi: “Thư của Khánh Kỵ điệt nhi đệ đã xem xong rồi đúng không? Chúng ta phải nhanh chóng lên đường đến Vệ quốc, còn hắn sẽ khởi hành sang Sở, hối thúc Sở vương khởi binh, hẹn tháng ba năm sau cùng nhau phạt Ngô, nếu lần này thành công thì cơ hội phục quốc của chúng ta có hy vọng rồi. Việc này nhất định chúng ta phải làm cho tốt, khi xưa mấy vạn hùng binh, thực lực chúng ta mạnh hơn điệt nhi, nay như chó nhà có tang đến nhờ cậy ngược lại, nếu ngay cả việc này cũng làm không xong, còn mặt mũi nào gặp anh hùng trong thiên hạ nữa đây?”

“Tứ ca nói phải lắm, chỉ là dụ quân của Bá tấn công quân Sở, ép quân Sở buộc phải gi­ao chiến với Bá thôi mà.”

Chúc Dung vừa nói vừa nghiến răng ken két, cố gắng chế ngự cơn giận nổi lên trong lòng, hậm hực nói: “Tên Sở vương tầm nhìn thiển cận, tâm địa hẹp hòi, không biết lợi dụng thời cơ liên kết với chúng ta đánh trả Cơ Quang, lại ngồi yên định tọa sơn quan hổ đấu, nhìn chúng ta gi­ao chiến với binh mã của Cơ Quang, mong cho chúng ta lưỡng bại câu thương, thật là ngu dốt hết chỗ nói. Trên dưới Sở quốc chẳng lẽ không ai nhìn rõ tình thế hiện giờ sao? Sở quốc ngoài mạnh trong yếu, tuy có hai mươi mấy vạn đại quân, nhưng lại bố trí rải rác trên khắp lãnh thổ rộng lớn, Cơ Quang xua quân đến đánh, như lấy mũi dùi sắt đâm xuyên tấm vải, Sở quốc nhìn vào hùng mạnh là thế nhưng không chịu nổi một trận đánh, đợi khi huynh đệ ta bại trận bỏ mạng, khi đó quân đội của Cơ Quang sẽ nhằm vào hắn.”

Yểm Dư tán đồng: “Bởi vậy mới nói, khi lòng riêng làm người ta mờ mắt, ai còn thần trí nào mà nghĩ đến lợi hại sâu xa nữa đâu, chúng ta chẳng phải cũng như thế ư? Trước kia nếu không phải ta rắp tâm tự lập môn hộ, tranh giành với Khánh Kỵ, thì sao lại bị người Sở lợi dụng, để rồi hôm nay rơi vào tình cảnh thê thảm này? Nếu khi xưa chúng ta hợp sức với Khánh Kỵ, với thực lực lúc đó đâu cần Khánh Kỵ điệt nhi phải bôn ba đến khắp nơi nhờ cậy giúp đỡ của các nước. Thôi, không nói nữa, đều là chuyện đã qua, không cần nhắc lại làm gì. Đệ và ta bàn bạc kế hoạch làm sao dẫn dụ quân Ngô đến đánh Sở vương mới là việc chính nên làm lúc này.”

Hắn vuốt vuốt mũi, trầm ngâm: “Vừa nãy ta đã suy nghĩ kĩ càng rồi, hiện giờ Bá đóng quân tại vùng đất Sào, Thư, mỗi lần xua quân tấn công, chúng ta đều lui vào cố thủ ở Đại Biệt sơn, bọn chúng không dám mạo hiểm tấn công, sợ quân Sở đánh lén chặn đường rút lui. Ta cho rằng lần này ta có thể tập hợp tất cả tàn quân, liều chết mở đường máu xông ra, rồi giả vờ thua trận không lui về Đại Biệt sơn, mà chạy sang các thành trì phía Tây và phía Bắc của Sở quốc.

Giờ sắp bước vào mùa đông, chúng ta không chịu lui vào hẻm núi cũng là lí do chính đáng, Bá sẽ không nghi ngờ, mục đích của Bá là lấy đầu của huynh đệ ta, thấy chúng ta bại trận rút lui, hắn chắc chắn xua quân đuổi theo, chúng ta dẫn dụ chúng đến Đồng Thành, Hoang Phổ, Long Thư, Nam Cang, những nơi này có rất ít quân Sở trú đóng, Bá sẽ không e ngại, chúng ta dụ Bá đến đó chiếm thành đoạt đất, chém giết người Sở, sau đó chúng ta rút chạy về hướng Anh Thị, Kê Phụ, Vũ Thanh, mượn đường từ Trịnh quốc đến Ngải thành Vệ quốc.

Bá xua quân đuổi theo là tốt nhất, nếu không thèm đuổi theo, cứ chém giết cướp bóc ở mấy tòa thành trì kia, trừ khi Sở vương là người chết, bằng không hắn buộc phải hành động bảo vệ lãnh thổ chứ, chỉ cần hắn xua quân gi­ao tranh với Bá, khi đó Khánh Kỵ điệt nhi đến Sở thuyết phục Sở vương cùng khởi binh phạt Ngô, đó đã là chuyện buộc phải làm theo, không có lí do gì để từ chối.”

Chúc Dung nghe Yểm Dư nói xong nhắm mắt suy ngẫm hồi lâu, đột nhiên mở to đôi mắt, ánh nhìn toát ra một vẻ gì đó nham hiểm: “Tứ ca, chúng ta bị người Sở hại đến nỗi thê thảm thế này, bỏ đi như vậy đệ không cam lòng.”

Yểm Dư lườm hắn, nghiêm nghị: “Chúc Dung, đại sự làm trọng, không được vì thù riêng làm hỏng việc lớn, mối thù với Sở vương đợi sau khi chúng ta phạt Ngô thành công rồi hẵng tính, bây giờ tuyệt đối không được phá hỏng kế hoạch của Khánh Kỵ điệt nhi.”

“Tứ ca, đệ không phải muốn phá hỏng kế hoạch của Khánh Kỵ điệt nhi, đệ chỉ định…nếu mục đích của chúng ta là dẫn mồi lửa đến đốt cháy người Sở, tại sao không đốt cho cháy to hơn? Không đốt chết tên tiểu súc sinh Sở vương cũng cháy cho hắn trụi sạch lông, thế mới hả cơn giận của hai huynh đệ chúng ta.”

Yểm Dư ngớ người, vội hỏi: “Chúc Dung, đệ có diệu kế gì?”

Chúc Dung cười một cách nham hiểm, ghé tai Yểm Dư nói nhỏ vài câu, ánh nến phản chiếu bóng dáng hai người lên túp lều vải, như hai con sói đói nhe nanh chuẩn bị cắn xé con mồi tội nghiệp đang giãy giụa chờ chết.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 180: Dẫn hỏa thiêu thân (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

ích giữa hai người thì Bá luôn là người nhường nhịn.

Nhưng dấn thân vào chốn quan trường, cũng như câu “Nhân tại gi­ang hồ, thân bất do kỉ.”, giờ Bá đâu phải chỉ có một mình, còn có một đám đại thần và tướng lĩnh cậy nhờ vào hắn nữa, nếu cứ thế mà nhường nhịn không mưu cầu lợi ích cho người của phe hắn, thế thì ai chịu tiếp tục ủng hộ hắn đây? Thêm vào đó con người Ngũ Tử Tư cương trực ngay thẳng, công chính liêm minh, nhưng lại tính tình nóng nảy, tự cho mình là phải, khi hắn cảm thấy mình đúng, lúc đó chắc chắn kiên trì đến cùng, quyết không chịu nhường nhịn nửa bước, với lại cách hành xử của hắn cũng khá đơn giản, khi nổi giận lên thì không cần biết thân phận người ta là gì, dù là trước mặt đám đông, vẫn chỉ vào mặt người khác mắng cho một trận té tát, chính vì tính khí này mà Ngũ Tử Tư đắc tội với không ít người, không chỉ rất nhiều công khanh đại thần Ngô quốc từng bị hắn chỉ trích, ngay cả Bá vừa là chỗ thân thiết lại từng chịu ơn của hắn cũng không tránh khỏi có chút oán hận.

Bá một mặt suy đoán dụng ý đến đây của Ngũ Tử Tư, một mặt vội vàng mặc áo giáp chỉnh tề, đeo kiếm ngang hông, sau đó dưới sự hộ tống của đội thân binh bước ra ngoài doanh trại. Ngô quốc so sánh với Sở quốc đất rộng người đông thật ra chỉ là một nước nhỏ lạc hậu nghèo nàn bên cạnh, nhưng chính vì đất nước nhỏ bé này quanh năm suốt tháng chiến sự liên miên, lại khiến toàn dân đều chiến đấu được như quân sĩ, chất lượng chiến đấu của quân Ngô rất tốt, sức mạnh quân sự vượt xa quân Sở. Khi Bá bước ra ngoài doanh trại, tướng sĩ ba quân đã nghe được hồi trống triệu tập đến tập hợp đầy đủ, bày đội hình chỉnh tề đứng đó, sát khí ngùn ngụt, khí thế đủ để trấn áp bất kì đối thủ hùng mạnh nào.

Bá hài lòng cười đắc ý, dẫn theo các tướng lĩnh tiến ra ngoài Viên môn đón tiếp Ngũ Tử Tư.

“Mời tướng quốc đại nhân thượng tọa, đại vương dạo này có khỏe không ạ?”

Ngũ Tử Tư được đón vào túp lều chỉ huy, Bá và các tướng lĩnh dưới trướng lần lượt bước lên hành lễ, hỏi han tình hình của Hạp Lư.

Ngũ Tử Tư toàn thân mặc một chiếc áo màu đen u ám, trên có thêu sáu loại hoa văn Tảo, Hỏa, Phấn, Mễ, Phũ, Phất, tay áo bào còn có thêm hoa văn Vân màu vàng sậm, trên đầu đội chiếc mũ cao, đầu tóc bạc phơ, nét mặt nghiêm nghị.

“Đại vương sức khỏe rất tốt, mọi thứ ở Ngô quốc đều ổn.” Ngũ Tử Tư ngửa mặt trả lời một câu, sau đó bước tới chiếc ghế chính giữa dành cho chủ soái ngồi xuống, phất tay một cái, nói: “Mời các tướng ngồi.”

Các tướng lĩnh theo chức vụ lớn nhỏ lần lượt ngồi xếp gối trước mặt, Ngũ Tử Tư đợi mọi người yên vị xong, sắc mặt chợt đanh lại: “Bá.”

“Có mạc tướng!” Bá vừa mới ngồi yên lập tức đứng bật dậy, chắp tay đợi lệnh.

“Bá, đại vương lệnh cho ông thống lĩnh toàn quân truy quét hai tên phản đồ Yểm Dư, Chúc Dung, chiến sự liên miên, đến nay đã nửa năm trôi qua, tiêu tốn lương thảo nhân lực không ít, người Sở rõ ràng là giữ thái độ tọa sơn quan hổ đấu, không chịu xuất quân giúp đỡ bọn chúng, sao ông còn chưa chịu xuất quân tiêu diệt bọn phản nghịch hả?”

Bá cười khổ giải thích: “Xin tướng quốc minh giám, không phải là mạc tướng không nghe theo lệnh, chỉ là muốn đánh bại bọn Yểm Dư, Chúc Dung thì dễ, muốn giết được bọn chúng thì khó, Sở quốc bao la rộng lớn, sông ngòi kênh rạch chằng chịt, địa hình núi non hiểm trở phức tạp, Yểm Dư Chúc Dung mỗi lần chiến bại đều rút lui, dựa vào ưu thế địa hình ẩn náu cố thủ, mạc tướng hôm qua vừa mới san bằng sào huyệt ở Đại Biệt sơn của bọn chúng, nay chúng lại lui về phía Cư Sào, mạc tướng đang định tập hợp các lộ binh mã, sáng sớm ngày mai sẽ xuất quân truy đuổi bọn chúng.”

Ngũ Tử Tư nghe xong nổi giận lôi đình, đập bàn cái rầm hét lên: “Khốn kiếp, bọn Yểm Dư Chúc Dung hôm qua đã bỏ chạy, ngày mai ông mới dẫn quân đuổi theo, cứ đánh trận thế này đến bao giờ mới bắt được hai tên nghịch tặc đó hả?”

Bá nhăn mày định cãi lại nhưng kiềm chế được, nhẫn nhịn nói: “Xin tướng quốc minh giám, ở đây là lãnh thổ Sở quốc, kẻ địch của mạc tướng tuy chỉ có Yểm Dư, Chúc Dung, nhưng đại quân Sở quốc hiện đang tập trung ở vùng Bá Cử, Anh Thị, Hạ Thái, chỉ ngăn cách bởi Đại Biệt sơn và Dĩnh Thủy, vẫn lăm le dòm ngó quân ta, Bá dẫn quân viễn chinh, không thận trọng sao được? Vì thế nên một khi ba quân chưa tập hợp đầy đủ không dám mạo hiểm tiến công, bọn Yểm Dư Chúc Dung giờ chỉ còn không quá ba ngàn binh mã, đương nhiên bỏ chạy nhanh chóng, còn Bá phải thống lĩnh đại quân, buộc phải suy tính kĩ càng cẩn thận, với lại lương thảo vận chuyển tiếp tế khó khăn…”

“Hứ!” Ngũ Tử Tư bực bội ngắt lời: “Người khác thì có thể không biết tình hình Sở quốc, còn ông chẳng lẽ cũng không biết? Sở vương u mê, gi­an thần hoành hành, đám gi­an thần ấy suốt ngày chỉ biết tranh quyền đoạt lợi, mưu hại trung lương, nếu không cũng đâu ngồi đó không chịu làm gì, bỏ qua cơ hội tốt đánh lén chúng ta, giờ bọn Yểm Dư Chúc Dung bị thua tan tác phải bỏ chạy như chó mất nhà, quân Sở cũng không xuất quân cứu viện. Nếu quân Sở mà có ý đối đầu với quân ta thì đã không rút về hậu phương rồi, còn việc tiếp tế lương thảo thì…”

Ngũ Tử Tư trầm ngâm giây lát, sát khí ngùn ngụt nói tiếp: “Lần này đuổi theo đến Cư Sào, dọc đường có nhiều thành trì nhỏ, hơn nữa quân số trấn giữ không nhiều, tuyệt đối không phải là đối thủ của ông, chỉ cần ông công phá thành trì, còn không có cách kiếm cho ra lương thảo ư? Đối phó với đám tàn quân bại khấu, nên tức tốc đuổi theo đánh cho chúng không kịp thở, chứ như cách đánh e dè của ông, đúng là ngồi nhìn cơ hội trôi qua.”

Bá và Ngũ Tử Tư có cách dụng binh khác nhau, bị hắn trách mắng như vậy trước mặt bao nhiêu thuộc hạ đương nhiên Bá cảm thấy uất hận trong lòng, chỉ là Ngũ Tử Tư quyền cao chức trọng, lại là người được Hạp Lư tin cậy nhất, nếu giờ tranh cãi với hắn, e với tính khí ngang ngạnh hắn sẽ không chịu lùi bước, lúc đó há chẳng trở thành trò cười cho ba quân tướng sĩ có mặt ở đây sao?

Nghĩ vậy nên một lần nữa Bá lại nuốt trôi cơn giận, lên tiếng nhận lỗi: “Dạ, tướng quốc dạy phải lắm, mạc tướng hôm qua tập kích bất ngờ vào doanh trại của bọn Yểm Dư, Chúc Dung, bọn chúng thua chạy tan tác, rất nhiều đồ đạc còn chưa kịp lấy đi, cho nên Bá thu được một món đồ cực kì quan trọng của chúng, vừa nãy đang nghiên cứu trong doanh trại, vì sự thể trọng đại, mạc tướng không quyết định được nên làm thế nào. Vừa đúng lúc tướng quốc đến đây, đúng là trời giúp Ngô quốc ta, mạc tướng xin tướng quốc quyết định giùm cho ạ.”

Ngũ Tử Tư nghe vậy vội hỏi: “Hử? Là vật gì mà quan trọng thế?”

Ngũ Tử Tư nghe vậy vội hỏi: “Hử? Là vật gì mà quan trọng thế?”

Bá định trả lời nhưng lại thôi, Ngũ Tử Tư chợt hiểu ý, quay xuống truyền lệnh: “Các tướng về trấn giữ doanh trại, bổn tướng quốc cần nghị sự quan trọng với Bá tướng quân.”

Các tướng lĩnh đứng bật dậy, nhận lệnh lui hết cả ra, Bá đưa tay mời Ngũ Tử Tư: “Tướng quốc đại nhân, mời đến lều của mạc tướng xem thử vật này.”

Ngũ Tử Tư không biết Bá đang giữ vật gì mà quan trọng vậy, lại cẩn thận đến thế này, nổi lòng hiếu kì theo Bá bước ra khỏi lều chỉ huy, đến trước túp lều nơi Bá ở, trước lều có bốn tên lính cầm kích đứng canh gác, thấy chủ soái và tướng quốc bước đến, vội đưa tay vén cửa lều lên cho hai người bước vào trong.

Trên bàn, một tấm bản đồ da dê đang được trải rộng ra, Bá bước nhanh về phía ấy, cầm tấm bản đồ da dê lên, nói với giọng bí hiểm: “Mời tướng quốc xem qua!”

Ngủ Tử Tư đưa tay đón lấy tấm bản đồ da dê, mở ra xem sơ qua đã vui mừng ra mặt, không dám tin vào những gì mắt mình đang nhìn thấy, hắn kêu lên phấn khích: “Ông lại có được tấm bản đồ quan trọng này ư?”

Ngũ Tử Tư bước tới bên chiếc bàn ngồi xuống, trải tấm bản đồ ra, ngón tay chỉ chỉ lên trên đó, lại xem tỉ mỉ một hồi lâu. “Rầm!” một tiếng vỗ mạnh xuống mặt bàn, mạnh đến nỗi chùm râu dưới cằm cũng run lên, hớn hở: “Tốt, tốt lắm, Bá, ông đã lập được một công lớn cho Ngô quốc, có tấm bản đồ địa lí và phân bố binh lực của Sở quốc này, quân ta tiến vào Sở cứ như là vào chốn không người thôi.”

Vào thời Xuân Thu, ở một số nước lớn, dù cho là người dân bản địa cũng không thể nào nắm rõ chi tiết tình hình địa lí của đất nước, thêm vào đó thời kì này gi­ao thông không thuận tiện, tin tức truyền đi chậm, dù cho có trăm vạn đại quân, bố trí phòng thủ khắp nơi, cũng khó tránh có những lỗ hỏng, chỉ cần một đội quân nhỏ của nước này nắm được tình hình địa lí và cách phân bố binh lực của một nước khác, thì có thể đi lại tự do trên lãnh thổ nước đó, tập kích bất ngờ chiếm ưu thế quân sự, có được tấm bản đồ quý báu này thử hỏi Ngũ Tử Tư không phấn khích như điên sao được?

Con người Ngũ Tử Tư tính tình nóng nảy, hay la mắng người khác, nhưng lại không mang lòng riêng ích kỉ, thấy Bá đoạt được tấm bản đồ quan trọng thế này, lập tức quyết định ghi nhận công lớn cho Bá.

Bá chưa lộ vẻ gì vui mừng, ngược lại nhíu mày nghi hoặc: “Tướng quốc đại nhân, mạc tướng biết tấm bản đồ da dê này có ý nghĩa quan trọng, nhưng mà…vật quan trọng như thế này, tuy là lúc vội vàng rút chạy, đáng lí ra Yểm Dư Chúc Dung cũng không thể nào bỏ lại không mang theo, nghĩ vậy nên sau khi Bá có được tấm bản đồ từng suy nghĩ lí do giải thích, theo tướng quốc đại nhân, đây có phải là một cái bẫy dẫn dụ quân ta?”

Ngũ Tử Tư chớp mắt, lập tức cầm tấm bản đồ lên xem xét tỉ mỉ cẩn thận thêm một lần nữa, sau đó gật gù: “Xem nét mực lại không giống là vừa mới vẽ, thế nhưng…”

Hắn đứng thẳng, đi qua đi lại trong lều suy tư một hồi, hồi lâu sau lạnh lùng cười to: “Nếu nói tấm bản đồ quan trọng này là do Yểm Dư, Chúc Dung cố tình bỏ lại, thậm chí là cố ý vẽ tặng chúng ta, thế cũng chưa chắc… chưa chắc là giả.

Yểm Dư, Chúc Dung chạy sang nương nhờ Sở quốc, nhưng Sở vương lại xem chúng như hai con chó giữ cửa, mặc cho chúng gi­ao chiến với quân Ngô, không thèm xuất quân trợ giúp, làm cho hai người hao binh tổn tướng gần hết, giờ đây nỗi hận của Yểm Dư, Chúc Dung đối với người Sở, e là không kém mối thù Cơ Quang giết cả gia tộc họ, chúng không cách nào chống đỡ Cơ Quang, nếu người Sở xem chúng là vật hy sinh, thế thì trước khi thua chúng chơi cho bọn quân Sở một vố này, mượn tay quân Ngô đâm cho quân Sở một nhát kiếm, trả mối thù bị Sở vương bỡn cợt cũng không phải là không thể xảy ra, đó cũng là lẽ thường tình của con người thôi.”

Ngũ Tử Tư và Bá hai mắt nhìn nhau, tâm ý hai người cũng đều nghĩ đến lí do trên. Bá vuốt râu tán đồng: “Tướng quốc nói phải lắm, đám tàn quân của Yểm Dư, Chúc Dung đã không còn nguy hiểm gì với quân ta, còn quân thần Sở quốc, ai nấy đều lo toan riêng cho lợi ích của mình, nếu cách phân bố binh lực trên tấm bản đồ này là giả, chúng cũng không cách gì đoan chắc chúng ta sẽ trúng kế, cũng không biết chúng ta sẽ tiến đánh vị trí nào, thế nên không thể nào bố trí quân mai phục dụ quân ta vào bẫy được, xem ra…khả năng tấm bản đồ da dê này là thật rất lớn.”

Ngũ Tử Tư đầu tóc bạc phơ, hai má hồng hào, ánh mắt lóe lên tia sáng nham hiểm: “Ngày mai ta cứ vờ như tiếp tục truy đuổi Yểm Dư, Chúc Dung, đồng thời phái các binh sĩ lanh lợi biết nói Sở ngữ giả làm thương buôn, căn cứ theo tấm bản đồ này đi dò thám tình hình phân bố binh lực của quân Sở coi thực hư thế nào.”

“Ý của tướng quốc đại nhân là…?”

Ngũ Tử Tư quay mặt lại, đôi mắt ngấn lệ nhìn vào Bá: “Bá, mối thù mấy trăm thân nhân chết thảm của ông và ta, có lẽ…dựa vào tấm bản đồ này, giờ trả thù được rồi.”

Bá cũng biết là tác dụng của tấm bản đồ rất lớn, nhưng hắn không hề nghĩ đến là dùng nó tập kích quân Sở, nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, Bá kinh ngạc kêu lên: “Tướng quốc đại nhân, ngài định…định…”

Ngũ Tử Tư nắm chặt tấm bản đồ da dê trong tay, gằn giọng: “Không sai, đây là cơ hội ngàn năm có một, giờ đang là mùa đông, mùa này không cần canh tác, ta có thể triệu tập nhiều quân lính tham gia chiến đấu, hơn nữa nơi đây không lạnh căm như phương Bắc đến nỗi đại quân hành quân khó khăn, chúng ta phải tận dụng cơ hội trời cho này, cầu xin đại vương xuất quân, đánh thẳng vào Dĩnh Đô, giết chết Sở vương, báo mối thù gia tộc.”

Bá vẫn lo lắng: “Tướng quốc, làm vậy có chắc chắn không?”

Hai mắt Ngũ Tử Tư lúc này đỏ rực ngọn lửa thù hận, cười một cách nham hiểm, sát khí dâng cao ngùn ngụt, quả quyết: “Hành quân đánh trận là phải mạo hiểm, nếu không sao thành việc lớn được? Tuy nhìn vào có vẻ nguy hiểm, nhưng chúng ta có tấm bản đồ phân bố binh lực này, quân ta cứ như tiến vào chỗ không người, thắng thua đã rõ.”

Ngũ Tử Tư càng nói càng kích động, hắn thở hổn hển, nắm tay cầm chặt tấm bản đồ áp sát vào ngực: “Cả nhà Ngũ Viên, hết thảy là ba trăm sáu mươi lăm nhân mạng, gia phụ, gia mẫu, huynh trưởng, phu nhân…, còn có đứa con mới đầy tháng của ta…”

Nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt Ngũ Tử Tư, nước mắt đỏ rực như máu: “Bọn chúng gi­am cầm gia phụ, dụ ta quay về Dĩnh Đô nộp mạng, gia huynh biết chắc là sẽ chết, nhưng cũng quay về, chỉ có ta là trốn chạy sang Ngô. Ngũ Viên không phải là kẻ tham sống sợ chết, ta giữ lấy tính mạng, hứng chịu bao lời nhục mạ chỉ trích, chính vì muốn trả mối thù máu sâu tựa biển này. Bao năm qua ta tuy làm tướng quốc Ngô quốc, quyền cao chức trọng, trong lòng lại không hề cảm thấy vui mừng, mỗi ngày cứ nhắm mắt lại, những xác chết máu me của thân nhân luôn ẩn hiện trong đầu ta…Ta chịu dày vò bao lâu nay, chỉ có dùng máu của kẻ thù, mới là liều thuốc hữu hiệu trị được vết thương lòng của ta.”

Bá cũng nghĩ về phụ mẫu huynh đệ của mình, bao nhiêu thân nhân đã chết thảm, đôi mắt hắn cũng ngấn lệ: “Tướng quốc, Bá cũng mang mối thù lớn nặng như núi sâu tựa biển với Sở quốc, sao lại không muốn đánh về Sở trả mối thù này chứ? Nhưng giờ với thực lực của chúng ta, liệu…có thành công không?”

“Sao lại không thành công?” Ngũ Tử Tư ngẩng đầu lên, đưa tay lau sạch nước mắt, đanh mặt lại: “Nếu không có tấm bản đồ này, e là mười năm, hai mươi năm trôi qua mối thù của chúng ta cũng không trả được. Nếu tên tân quân Sở quốc này không giống với tên hôn quân hồi trước, cai trị tốt Sở quốc làm Sở quốc hùng mạnh lên, chúng ta càng không có cơ hội trả thù, vì thế nếu tấm bản đồ này là thật, chúng ta nhất định phải nắm bắt lấy cơ hội này mới được.”

Hắn hít một hơi dài, lấy lại bình tĩnh, nói tiếp: “Còn về phía đại vương, không cần lo lắng, đại vương hùng tài thao lược, quyết chí xưng bá chư hầu, Ngô quốc nằm ở nơi xa xôi hẻo lánh phương Nam, thực lực không đủ lớn mạnh, muốn xưng bá chư hầu, không có chiến công hiển hách không khiến chư hầu thiên hạ khiếp sợ phục tùng được. Sở quốc là một nước lớn, nếu đại vương công phá Dĩnh Đô thành công, lúc đó chư hầu khắp thiên hạ đều thần phục. Có được kì công cái thế này, chỉ cần chúng ta hoạch định kế hoạch chu toàn, nghĩ chắc đại vương sẽ chấp thuận làm theo.”

Bá hớn hở ra mặt: “Tướng quốc nói phải lắm, mối thù máu của chúng ta xem ra lần này phải nhờ cậy vào tấm bản đồ này đây.”

Ngũ Tử Tư khoái trá vuốt cằm, ánh mắt lộ vẻ nham hiểm: “Ngũ Viên lần này đến đây là chính xác, trước tiên chúng ta phải xác định tấm bản đồ này là thật hay giả trước đã, một khi chứng thực xong, Ngũ Tử Tư này lập tức về Cô Tô, xin đại vương xuất binh phạt Sở.”

Trong lòng Ngũ Tử Tư, mối thù gia tộc quan trọng hơn gấp vạn lần Ngô quốc mà hắn đang phục vụ, vì thù hận mà hắn khuynh đảo các quốc gia khác, giết chết các ân nhân từng cưu mang hắn, từ khi Ngũ gia bị họa diệt môn hắn chỉ biết sống trong thù hận, vì trả thù hắn có thể làm bất cứ chuyện gì, bằng bất cứ thủ đoạn gì, hắn giờ đây đã mất hết lí trí, chỉ nghĩ đến mỗi việc là trả thù mà thôi.

Ngũ Tử Tư và Bá, hai người đều hận thấu xương Sở quốc, quyền thần số một và số hai Ngô quốc giờ đây chung một lòng trả thù chuốc hận, trên họ lại có một Ngô vương Hạp Lư mang dã tâm xưng bá chư hầu. Sở quốc sắp gặp phải tai ương nào đây? …

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 181: Yêu hận tình thù

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Bên ngoài hoàng cung Vệ quốc đang dừng đậu một đội xe ngựa, tổng cổng có hơn ba mươi chiến xa, ba trăm tên võ sĩ áo giáp chỉnh tề tay lăm lăm gươm giáo đang đứng ngay ngắn ở đó. Trời nổi gió lạnh vù vù, gió cuốn bay cát bụi mù mịt, đám võ sĩ đều nhắm nghiền mắt, còn các tướng lĩnh thì đội chặt chiếc mũ giáp trên đầu hơn để tránh gió cát lùa vào, tiết trời âm u, xem ra hôm nay sẽ có một trận bão tuyết ập đến.

Cổng hoàng cung rộng mở, Vệ hầu Cơ Nguyên và Quân phu nhân Nam Tử đi đầu bước ra, theo sau là một đám công khanh đại thần và các thị vệ trong cung. Cơ Nguyên mặc một chiếc áo bào dành cho chư hầu, còn Nam Tử ăn mặc có hơi đặc biệt, bên ngoài là chiếc áo lông chồn, tráng lệ cao sang, chiếc đuôi chồn trắng phau giờ trở thành khăn choàng cổ khoác trên cổ nàng, lông chồn êm ái tô điểm thêm cho nét mặt trắng hồng như đóa sen của nàng, đôi mắt đen láy dưới gió rét căm căm vẫn kiều diễm mê hồn.

“Phu nhân đi đường cẩn thận, tiết trời lạnh lẽo, phu nhân nhớ phải giữ gìn sức khỏe.” Cơ Nguyên làm ra vẻ âu yếm quan tâm dặn dò Nam Tử.

Khi cuộc tranh quyền đoạt lợi giữa Vệ hầu và đám người Tề Báo diễn ra ngày càng gay gắt, quân phu nhân Nam Tử đứng đầu phe Tề Báo lại đột nhiên đưa ra yêu cầu về Tống quốc thăm phụ mẫu. Nàng về nước thăm thân nhân chẳng qua chỉ là một chuyện bình thường, nhưng vào lúc căng thẳng thế này mà nàng nảy ra ý định về Tống, làm không ít người đoán già đoán non.

Hai nước Vệ, Tống như môi với răng, liên kết với nhau cùng chống Tấn quốc hùng mạnh, xưa nay luôn giữ quan hệ khăng khít mật thiết. Cơ Nguyên tuy rất hận Nam Tử hợp mưu với đám người Công Tử Triều, Tề Báo, giúp chúng đoạt lấy hổ phù khống chế cung vệ giết chết Công Mạnh Trập, nhưng với thân phận đặc thù của Nam Tử, trừ khi nàng rắp tâm mưu hại mình, bằng không thì không thể nào trở mặt với nàng ta được, vì vậy lần này Nam Tử về Tống, Cơ Nguyên cũng không dồn ép thái quá bọn Tề Báo nữa. Bọn Tề Báo đúng là muốn đoạt quyền, nhưng lại không có dã tâm soán ngôi, Cơ Nguyên không thể mạo hiểm đắc tội với Tống quốc, lần này chưa nắm rõ ý đồ về nước thật sự của Nam Tử là gì, hắn vẫn cần tiếp tục nhẫn nhịn.

“Đa tạ bệ hạ, Tiểu đồng (Nam Tử tự xưng) xin phép lên đường, quốc sự bận rộn, xin bệ hạ và các vị đại thần hãy quay về, không cần đưa tiễn đâu.” Nam Tử cười dịu dàng đáp lại vị phu quân Vệ hầu đang giả lả ra vẻ quan tâm thê tử.

“Thôi được, khi nào phu nhân gặp Tống quân và quân phu nhân, hãy nói thay ta vài lời hỏi thăm.” Cơ Nguyên bước đến cạnh, nắm lấy tay Nam Tử đỡ nàng bước lên xe.

Nam Tử một tay nắm lấy Cơ Nguyên, một tay giữ chặt chiếc áo lông chồn, ung dung bước lên xe ngựa.

Một bông tuyết phất phơ rơi xuống, Nam Tử xòe bàn tay ngọc ngà ra đón lấy, bông tuyết rơi vào lòng bàn tay ấm áp của nàng, tan ra thành giọt nước long lanh.

“Tuyết rơi rồi.” Nam Tử thở nhẹ, xoay tròn đôi mắt: “Xin bệ hạ quay về, các vị đại thần cũng quay về đi, Nam Tử đi đây.”

“Phu nhân đi đường cẩn thận.”

“Quân phu nhân đi đường cẩn thận.”

Cơ Nguyên và đám công khanh đại thần dừng bước vẫy tay đưa tiễn, đoàn xe ngựa rầm rập rời đi, bất chấp gió tuyết lạnh lẽo khởi hành đi sang Tống quốc.

Trong đám đông đưa tiễn có mặt Công Tử Triều đứng đó, Nam Tử từ đầu đến cuối không hề liếc nhìn hắn, trong lòng Công Tử Triều cảm thấy hơi chút nhói đau.

Khúc Phụ Lỗ quốc, phủ Thúc Tôn thị, ngoài cửa gió lạnh thét gào, cây cối trụi lá, trong sảnh lại ấm áp như mùa xuân, ngay cả cây cỏ đặt trang trí ở đó cũng cành lá sum suê.

Thúc Tôn Ngọc đang ngồi trong sảnh uống rượu với Mạnh Tôn Tử Uyên, hai bên đặt hai chiếc bồn lửa đỏ rực để sưởi ấm.

“Hừ, ta ra sức đưa Cơ Tống lên ngôi, xem ra lại làm chuyện có lợi cho lão Quý Vũ Tử kia rồi, quốc quân Lỗ quốc của chúng ta không biết phân biệt tốt xấu, hôm trước ta tiến cử con trai vào triều làm quan, vốn là chuyện nhỏ thôi, thế mà hắn lấy lí do con ta còn trẻ, cần có thời gi­an rèn luyện thêm mà cự tuyệt, giờ nhớ lại ta còn thấy tức anh ách trong lòng.”

Mạnh Tôn Tử Uyên nghe xong, trong lòng cũng bực bội không kém, đập bàn cái rầm: “Thì đó, con ta cũng bị hắn dùng lí do tương tự khước từ, nghĩ lại lúc trước nếu không phải ông và ta ra sức ủng hộ, hắn có leo lên ngôi báu được không? Hứ, thật không ngờ hắn lại ngả về phía Quý Tôn Ý Như, lão thất phu ấy không biết đã giở thủ đoạn gì nữa. Nghe nói…quốc quân muốn nạp tiểu nữ của Quý Tôn Tử Phi là Quý Tôn Tiểu Man làm phu nhân, con nha đầu Quý Tôn Tiểu Man lại không chịu nghe theo, giờ bỏ nhà ra đi không rõ tung tích, lạ nhỉ, tiểu tử Cơ Tống này không những không nổi giận với Quý Tôn Ý Như, ngược lại càng thân thiết hơn với hắn là sao?”

Thúc Tôn Ngọc cười lạnh nhạt: “Còn không phải vì tên thất phu Khổng Khâu gây ra đó ư? Cơ Tống đâu biết suy nghĩ cơ mưu gì, tất cả đều do đại nho sĩ Khổng Trọng Ni của Lỗ quốc ta bày cho hắn. Ha ha, ông không cần lo lắng, Cơ Tống không có ý tốt gì với Quý Tôn Ý Như đâu, hắn biết rõ ta và ông liên kết với nhau, cộng thêm hắn vào mới đủ sức đối phó Quý Tôn Ý Như, sợ chúng ta gây bất lợi cho hắn nên mới có ý trấn áp chúng ta, không muốn ngay lập tức thỏa mãn tất cả yêu cầu của ta thôi, ông cứ đợi xem, chậm nhất là vào mùa xuân năm sau, con của ông và ta chắc chắn sẽ được vào triều làm quan.”

Mạnh Tôn Tử Uyên suy nghĩ sâu xa một hồi, nhíu mày hỏi: “Cơ Tống muốn Tam hoàn chúng ta chế ngự lẫn nhau, thừa cơ ngồi vững ngai vàng?”

Thúc Tôn Ngọc uống một hớp rượu, vênh mặt: “Đương nhiên, hắn có lòng ấy ta không thấy lạ, Khổng Khâu nghĩ ra cách này ta cũng không thấy lạ. Duy nhất chỉ có một mối lo…chúng ta vốn định nhân cơ hội này hạ bệ Quý Tôn Ý Như, nay nếu Cơ Tống có ý định cho Tam hoàn chế ngự lẫn nhau, e là sẽ không dễ dàng mặc cho Quý Tôn Ý Như sụp đổ, hơn nữa lão già ấy có cơ sở vững vàng, để lão ấy có thời gi­an chuẩn bị thêm, ta sợ sau này…, tiểu tử Cơ Tống, mi đang đùa với lửa đây…”

Mạnh Tôn Tử Uyên xoay xoay chum rượu trên tay, trầm ngâm: “Tử Ngọc, cứ tưởng là bắt lão ấy thôi không chấp chính nữa thì đã đạt được mục đích của chúng ta, nhưng đợi khi lão thôi không chấp chính rồi chúng ta mới phát hiện trong mấy năm qua lão đã xây dựng lực lượng lớn thế nào trong triều, giờ nếu ông và ta tiếp tục chia rẽ với quốc quân Cơ Tống, nghi kỵ lẫn nhau, sớm muộn gì Quý Tôn Ý Như cũng chớp lấy cơ hội, cưỡi lên đầu chúng ta lần nữa. Ông và ta vốn chẳng có dã tâm gì, chỉ mong trấn áp lão già Quý Tôn Ý Như, tránh gia tộc lão tiếp tục lớn mạnh, hay là chúng ta nói rõ với Cơ Tống, chỉ có liên kết với hắn mới đối chọi với lão già ấy được.”

Thúc Tôn Ngọc cười chua chát: “Nói thì dễ lắm, Cơ Tống có tấm gương tiên quân ngay ra đó, hắn coi Tam hoàn chúng ta như hổ dữ nhe nanh dòm ngó, chúng ta sao chiếm lấy niềm tin của hắn đây chứ?”

Mạnh Tôn Tử Uyên mỉm cười khoái trá, tự tin lên tiếng: “Kết thân!”

“Kết thân?” Thúc Tôn Ngọc ngạc nhiên hỏi lại: “Ông muốn gả con gái cho Cơ Tống? Ta nhớ…hai cô con gái của ông đều là con vợ lẻ, tuy nhan sắc cũng mặn mà nhưng xuất thân thấp hèn, sợ không xứng làm quân phu nhân…”

Mạnh Tôn Tử Uyên có chút tức tối kêu lên: “Còn cần ông nhắc nhở lão phu sao? Ta đâu có nói là con gái của ta, mà là con gái của ông kìa.”

Thúc Tôn Ngọc lại ngạc nhiên há hốc miệng: “Con gái ta? Ông nói Diêu Quang? Nhưng nó đã được hứa gả cho Khánh Kỵ…”

Mạnh Tôn Tử Uyên bực bội lên: “Khánh Kỵ? Bây giờ Cơ Quang nắm giữ cả Ngô quốc, ngay cả Sở quốc hùng mạnh cũng không dám tiếp chiến, quân Ngô lớn mạnh thế nào ai đều nhìn thấy, Khánh Kỵ có phục quốc thành công hay không ai cũng không nói trước được, hơn nữa dù hắn có phục quốc thành công cũng là chủ của Ngô quốc, cơ nghiệp của ông và ta thì ở Lỗ quốc, chẳng lẽ chúng ta đem cả gia tộc dọn sang Ngô à? Con gái ông làm phu nhân Ngô quốc hay làm phu nhân Lỗ quốc, cái nào có lợi cho Thúc Tôn thị của ông hơn nào?”

Thúc Tôn Ngọc hơi chút do dự, lắc đầu: “Không ổn, ta đã hứa với Khánh Kỵ, giờ sao nuốt lời được?”

Mạnh Tôn Tử Uyên gi­an xảo nói: “Chuyện ông hứa hôn với hắn chỉ có vài người biết, giờ chúng ta cho phép hắn trú quân ở Phí thành, đối với hắn đã tận nhân nghĩa lắm rồi, chỉ vì một nữ nhân, hắn không trở mặt đâu, hơn nữa…”
Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Ebook : ke­dochanh – 4vn

Giới thiệu. 20


















Hắn ngập ngừng giây lát, ánh mắt chợt trở nên sắc lạnh: “Khánh Kỵ và Quý Tôn Ý Như đang qua lại mật thiết, quân doanh của hắn nằm trên đất của lão già ấy, lại được Thành Bích của Quý Tôn thị ra sức giúp đỡ, nếu Khánh Kỵ phục quốc thành công, lợi ích từ sự giúp đỡ của Quý Tôn thị với hắn vượt xa cô con gái của ông, đến lúc đó e Khánh Kỵ cũng ngả về phía lão Quý Tôn Ý Như, nếu bây giờ ông và ta không sớm nắm chặt tiểu tử Cơ Tống trong tay, đến lúc đó thì trễ mất, có hối hận cũng không kịp nữa.”

Thúc Tôn Ngọc không ngờ tên Mạnh Tôn Tử Uyên thô lỗ này hôm nay lại đưa ra lí lẽ hợp tình hợp lí như thế, nghe xong những lời này hắn thấy dao động, Mạnh Tôn Tử Uyên lên tiếng thuyết phục tiếp: “Tử Ngọc, ông chỉ có một cô con gái, chắc không muốn nó được gả tới nơi xa xôi hẻo lánh phương Nam chứ? Hơn nữa con gái của danh gia vọng tộc trước giờ luôn phải gánh lấy trọng trách vì gia tộc hy sinh, kết thân với Cơ Tống, lúc đó ông trở thành hoàng thân quốc thích, lấy được niềm tin của Cơ Tống rồi, chúng ta liên kết lại với nhau, Thúc Tôn thị của ông lập tức thay thế vị trí của lão già Quý Tôn Ý Như ấy.”

Thúc Tôn Ngọc chỉ lo cắm cúi uống rượu, lát sau mới cất tiếng: “Việc này…, tháng ba năm sau Khánh Kỵ sẽ xua quân phạt Ngô, hay là chúng ta đợi đến lúc đó coi sao.”

Mạnh Tôn Tử Uyên gầm gừ: “Ta thì đợi được, nhưng giờ quốc quân đã có, việc chọn quân phu nhân là chuyện lớn nên làm ngay, nghe nói tên Khổng Khâu đang lựa chọn phu nhân giùm cho Cơ Tống trong các công khanh đại thần kìa, không biết hắn khi nào sẽ chọn được, hơn nữa…dù Khánh Kỵ có phục quốc thành công, dựa vào chút ân tình lão già Quý Tôn Ý Như từng giúp đỡ, cũng đủ ngang bằng với quan hệ lấy con gái ông rồi.”

Thúc Tôn Ngọc thở dài, chậm rãi nói: “Nhưng tính khí của con gái ta…Thôi vậy, chúng ta uống rượu đã, đợi ngày mai ta tìm cơ hội thăm dò nó coi sao.”

Mạnh Tôn Tử Uyên cười toe toét: “Thế mới phải chứ! Lệnh ái nhan sắc kiều diễm, đâu có thua kém gì con nha đầu Quý Tôn Tiểu Man, chỉ là Cơ Tống chưa gặp mặt nó, đợi khi nhìn thấy nhan sắc của con gái ông, sao lại không động lòng được nào? Hô hô, nếu Diêu Quang trở thành quân phu nhân của Lỗ quốc ta, lão phu đây sẽ đem luôn hai cô con gái… À, Thy Trúc năm nay mới mười hai, vẫn còn nhỏ…nhưng thôi, mặc kệ, đưa hai tỉ muội nó cùng vào cung theo hầu con ông. Ha ha ha, nào nào, uống rượu tiếp nào.”

Ngoài kia, hai tâm phúc gia tướng đang đứng đó. Lí Hàn đứng thẳng người, gió lạnh rít bên tai, gió đã lạnh, lòng càng lạnh căm, đứng yên hồi lâu, vẻ oán hận từ từ hằn lên trong đôi mắt hắn…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 182: Oan gia ngõ hẹp (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Bến thuyền Thanh Khâu ở Hoàng Hà đang bị phong tỏa, chờ đợi Vệ phu nhân Nam Tử qua sông. Các thương buôn hành khách phương xa chỉ còn cách chờ đợi quanh đó, xung quanh bến thuyền được dọn trống một khoảng đất rộng, vệ binh đứng canh gác nghiêm ngặt, các xe buôn đến đây không chỗ dừng đậu, người ngựa xe cộ chen chúc rối rắm lẫn nhau, buộc phải dừng xe xa xa hứng chịu cơn gió rét lạnh căm, ngồi tán dóc cho thời gi­an mau trôi.

Trong đám đông, một thiếu niên ngó mắt láo liên tứ phía, sau đó mỉm cười hỏi thăm một thương buôn ngoài bốn mươi đứng bên cạnh: “Đại thúc, sao bến thuyền lại bị phong tỏa vậy? Đã xảy ra chuyện gì thế?”

Tên thương buôn này đang hớn hở kể chuyện gặp được mỹ nhân trong thành Khuyển Khâu hôm qua với đám bạn đường, bị người khác chen vào làm mất hứng nên cảm thấy hơi chút bực bội, nhưng hắn cũng quay đầu qua nhìn vào chàng thiếu niên, thấy chàng ta tuy toàn thân mặc chiếc áo vải thô, nhưng mắt thanh mày tú khá là khôi ngô, khí khái bất phàm, thoáng chốc hắn thu lại vẻ mặt hậm hực, trả lời: “Tiểu huynh đệ không biết ư? Vệ quốc phu nhân Nam Tử muốn qua sông tại bến thuyền này, về Tống quốc thăm thân nhân, người ta là quý nhân mà, đợi quân phu nhân qua sông rồi chúng ta mới được đi tiếp.”

Chàng thiếu niên như mới hiểu ra: “Thì ra là vậy, đa tạ đại thúc.”

Biết không phải xảy ra chuyện gì nghiêm trọng mới phong tỏa bến thuyền, chàng thiếu niên mới hết lo lắng, hắn len lỏi vào đám đông chen chúc gần bến thuyền, nhìn vào dòng sông Hoàng Hà sóng nước cuồn cuộn đằng xa, thở một hơi dài ngao ngán. Chỉ nghe thấy bên cạnh hai tên thuyền phu đang nói chuyện với nhau: “Này, huynh nghe nói gì chưa? Quân Ngô đánh vào Sở quốc rồi đó.”

Tên còn lại hứ một tiếng rõ to: “Thế có gì lạ đâu chứ? Quân Ngô đánh Sở đã hơn nửa năm nay rồi, chiếm cứ được rất nhiều thành trì, cũng không thấy Sở đưa quân ra ứng chiến. Hừ! Tân quân mới có mười một tuổi, chẳng làm nên trò trống gì đâu, đường đường là Sở quốc có mấy mươi vạn hùng binh, bị người khác ức hiếp tới tận cửa nhà cũng không dám kháng cự, lại kêu Yểm Dư, Chúc Dung của Ngô ra chống đỡ giúp, thật là làm trò cười cho thiên hạ.”

Gã kia cười chế giễu: “Tin tức của huynh là từ lúc nào rồi? Ta mới đi thuyền từ hạ du lên đây, nghe các thương buôn dọc đường nói, Yểm Dư, Chúc Dung đã thua trận tan tác giờ không biết biến đi đâu mất, quân Ngô thừa thắng truy kích, giờ đã chiếm được Bá Cử, đang tiến quân về phía Mộng Trạch rồi.”

Chàng thiếu niên nghe vậy lộ vẻ lo lắng trên khuôn mặt thanh tú, hắn đưa mắt về bờ bên kia Hoàng Hà, bỗng khóe miệng nở ra một nụ cười vui mừng: “Chàng ấy dẫn quân từ Ngô quốc xuất chiến, đâu giống tên Cơ Quang chỉ dám dùng thích khách giành thắng lợi, Yểm Dư Chúc Dung càng không thể so sánh với chàng, lang quân của ta là anh hùng cái thế, tuy nói là Yểm Dư Chúc Dung bại trận không có lợi cho chàng, nhưng với bản lĩnh của chàng, tháng ba năm sau chắc chắn sẽ đánh về Ngô quốc.”

Bến sông gió rít lạnh căm, tấm áo bào của chàng thiếu niên bị thổi tung phấp phới, nhưng nghĩ về lang quân trong lòng, hắn lại cảm thấy ấm áp hơn bao giờ hết, như không hề cảm nhận được tiết trời đang lạnh đến nỗi cắt da cắt thịt. Ánh mắt không ngừng trông theo bờ bên kia, chốc chốc trên môi lại nở một nụ cười đắm đuối, trong lòng đang phấn khởi: “Thiếp vượt đường xa vạn dặm đến gặp chàng, cô nương nhà Quý Tôn không chịu lấy quốc quân dám bỏ nhà ra đi, Diêu Quang của chàng có lang quân yêu quý, chẳng lẽ lại không làm được như vậy, không dám bỏ đi gặp chàng sao? Sau này, thiếp cứ ở bên chàng, cùng nhau xông pha trận mạc, cùng nhau phạt Ngô phục quốc, chàng có vui khi thiếp vì chàng dám làm vậy không?”

Chàng thiếu niên đó chính là Thúc Tôn Diêu Quang đang cải nam trang lén bỏ nhà đi tìm Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ dẫn theo bốn thị vệ, cải trang làm thương buôn đi xuống phương Nam, qua Hoàng Hà, vượt Hán Thủy, Trường Gi­ang vào lãnh thổ Sở quốc. Khi hắn đi ngang lãnh thổ Vệ quốc, gió rét lạnh căm, tuyết phủ khắp nơi, nhưng càng đi về phương Nam thì thời tiết càng ấm áp, sau khi vào Sở đã không phải mặc áo lông dày cộm giữ ấm nữa. Sông nước phong cảnh nơi đây cũng khác xa với phương Bắc, sông hồ ở Vệ quốc giờ đã đóng băng nhưng nơi đây dòng nước lại trong veo róc rách, cây lá xanh tươi mơn mởn.

Sở quốc nằm ở lưu vực Trường Gi­ang khác với các nước chư hầu, dù cho là cách bố trí quan lại, đặc điểm văn hóa hay lịch sử phát triển, đã sớm bắt nguồn từ nền văn minh lưu vực Trường Gi­ang vào thời thượng cổ, thời đại của Tam hoàng Ngũ đế. Bọn họ còn là người đầu tiên phát minh ra thuật luyện kim, trong trận chiến xa xưa, Hoàng đế Diêm đế liên kết với nhau đánh bại bộ lạc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là bộ lạc Xi Vưu, kẻ bại trận buộc phải rút lui về phương Nam là vùng đất của Sở hiện nay, họ chính là Nam Man mà người Chu từng nói đến.

Tất nhiên với người Sở thì coi đám thổ dân sống phía Nam của họ mới là Nam Man. Man nhân cũng có phân biệt gi­ai cấp, người Sở tôn thờ hỏa thần Chúc Dung (Không phải là Chúc Dung của Ngô đâu, ở đây là từ hán việt đồng âm), cúng bái Đông Nghi Đại Vũ, lấy phượng hoàng làm biểu tượng, ngay cả cách ăn mặc, tập tục lễ hội cũng khác với người Chu, người Chu xem bên trái là thấp hèn, người Sở ngược lại kính trọng bề trên ngồi vào bên trái. Chức tể tướng ở Sở gọi là Lệnh doãn, các chức quan khác cũng có tên gọi khác với người Chu.

Vì thế người Sở bị người Chu coi là Nam man dị tộc, các gì mà mua viên ngọc trả lại hộp gấm, khắc lên thuyền tìm lại thanh gươm, vẽ rắn thêm chân, lấy mâu của mình đâm thuẫn mình bán, tất cả những chuyện ngu ngốc này đều gán lên trên đầu người Sở, người Sở bị người Chu khinh miệt như một bọn người chưa tiếp cận nền văn minh vậy.

Người Sở bị kì thị đủ mọi mặt, quân chủ đầu tiên khai sinh nước Sở là Hùng Dịch, khi nhận sắc phong thành một nước chư hầu lúc đó chỉ là tử tước, không như nước Tống mới lập quốc đã là nhất đẳng công tước, hơn nữa lãnh thổ được phong tặng phần lớn là vùng đất hoang sơ chưa được khai phá, khắp nơi lại là thổ dân không dễ thuần phục, địa bàn thật sự kiểm soát được trong tay chỉ có vỏn vẹn vài trăm dặm, vùng đất ấy nghèo nàn đến độ lễ vật cống nạp lên cho Chu thiên tử chỉ là vài búp măng và mấy con nhím săn bắn được. So với các chư hầu trung nguyên, Hùng Dịch chả có địa vị gì cả, mỗi khi vào triều cống yết kiến Chu thiên tử, cùng là chư hầu được sắc phong nhưng Hùng Dịch bị cho ngồi ngoài điện, phải làm tạp dịch trông lò lửa, chẳng khác nào một tên nô lệ.

Nhưng từ một vùng đất nhỏ bé bị khinh thường, Hùng Dịch không ngừng mở mang bờ cõi, lãnh thổ Sở quốc ngày càng trở nên rộng lớn, trở thành mối đe dọa cho các chư hầu trung nguyên, Sở vương đến đời Hùng Thông đã bắt đầu được xưng là Vũ Vương, từ một chức tử tước nhỏ nhoi thăng lên vương tước ngang hàng cả với Chu thiên tử, chỉ vì Sở quốc lúc đó binh mã hùng mạnh, chư hầu thiên hạ thấy tức giận nhưng chả dám làm gì cả. Thứ mà các chư hầu làm được chỉ là liên kết với nhau không công nhận chức vương tước của Sở vương, vẫn gọi Sở vương là Sở tử (cách gọi khinh miệt, “tử” mang nghĩa là thằng nhóc con).

Người Sở có rất nhiều thành tựu đáng khen ngợi, chính họ phát minh ra nỏ, kiếm đồng mà họ đúc dài hơn gấp đôi kiếm đồng của người trung nguyên, thuật luyện kim của người trung nguyên kém xa người Sở. Người Sở còn sáng lập ra bộ máy nhà nước hành chánh chia theo quận huyện mà Trung Quốc còn sử dụng đến ngày nay, đe dọa chế độ sắc phong chư hầu của người Chu, tạo ra một mô hình chính trị mới cho người đời sau tham khảo. Từ đời Sở Vũ Vương trở về sau, người Sở đã tiêu diệt ba bốn mươi nước nhỏ xung quanh, nhiều hơn cả các nước bị nước Tề phương Đông tiêu diệt, mỗi khi diệt được một nước lại thiết lập một huyện, phái một viên quan đến cai quản, đến nay đã hơn hai trăm năm trôi qua.

Sau đó, quá khứ huy hoàng của người Sở trượt dài xuống dốc vì các đời Sở vương cai trị ngu ngốc. Lúc Sở Bình Vương tại vị, vì muốn thâu tóm quyền lực, lại ra tay diệt trừ các gia tộc trung thành có thế lực đời đời làm quan ở Sở như Ngũ gia, Bá gia, đám nịnh thần Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư lại được trọng dụng, triều chính Sở quốc bị chúng làm cho rối tung cả lên, cách cai trị hủ bại của triều đình khiến nước Sở giờ đây ngày càng suy yếu.

Đợi đến khi tân quân đăng cơ, gi­an thần hoành hành, quốc vương nhỏ tuổi chưa thể làm gì, triều chính Sở quốc càng thêm phức tạp, nếu không cũng không làm ra chuyện mặc cho quân Ngô và Yểm Dư, Chúc Dung gi­ao chiến trên lãnh thổ của mình rồi. Nhưng chính vì vậy, với quốc gia hủ bại này cần cho một liều thuốc mạnh mới ép họ buộc phải hợp tác với mình, cùng nhau tác chiến được.

Khánh Kỵ dọc đường đi cứ suy ngẫm về tình hình Sở quốc hiện nay: “Thời này đưa tin qua lại khó như lên trời, không biết hai vị hoàng thúc có theo kế hoạch dẫn dụ quân Ngô đến cướp thành trì của người Sở không, nếu không gây chút đau thương cho người Sở, e khó thuyết phục được họ xuất quân phạt Ngô cùng ta.”

Phía trước người ngựa qua lại đông đúc, Khánh Kỵ buông rèm cửa xuống, không nhìn ra ngoài nữa. Hắn nhắm mắt nghỉ ngơi giây lát, nghe bên ngoài huyên náo không ngớt, đột nhiên thấy rạo rực trong lòng, hình như có gì đó không ổn. Bây giờ là mùa đông, tuy phía lưu vực Trường Gi­ang này không lạnh lắm, nhưng do phương Bắc lạnh giá, thương buôn đi lại vào mùa đông vì thế giảm đi không ít, sao bây giờ ở đây lại náo nhiệt thế này?

Khánh Kỵ vén rèm cửa lên nhìn ra bên ngoài, người ngựa qua lại tấp nập, già trẻ lớn bé, tay xách nách mang, ai nấy đều vội vội vàng vàng, Khánh Kỵ gõ vào xe ngựa, hét tên phu xe: “Dừng xe, dừng xe.”

Đợi khi xe ngựa dừng hẳn lại, Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, một ông lão vai đeo tay nải chạy khập khiểng đụng vào người hắn, Khánh Kỵ đỡ lấy ông ta hỏi: “Lão nhân gia, tại hạ là thương buôn đến từ Tấn quốc, mọi năm qua đây thấy không nhiều người thế này, sao bây giờ lại huyên náo vậy?”

Ông lão có chút nặng tai, ngửa tai lên hét lớn: “Ngươi nói gì?”

Khánh Kỵ ngao ngán, muốn tìm người khác để hỏi, nhưng cảm thấy làm vậy không hay cho lắm, chỉ còn cách gào to lên hỏi thêm một lần nữa, ông lão đó nghe xong vội xua tay lắc đầu: “Quay về đi, quay về đi, đừng đi về hướng đó nữa, bọn ta không phải là thương buôn, bọn ta đang chạy nạn đó.”

Khánh Kỵ lại phải gào to: “Chạy nạn? Sao mà phải chạy nạn? Đã xảy ra chuyện gì?”

Khánh Kỵ lại phải gào to: “Chạy nạn? Sao mà phải chạy nạn? Đã xảy ra chuyện gì?”

Ông lão to tiếng trả lời: “Quân Ngô đánh đến nơi rồi, dọc đường giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ, thật là một bọn cường tặc, Dĩnh Đô e là không giữ được rồi, các công khanh đại phu chạy còn nhanh hơn bọn ta nữa, ngươi qua đó muốn chết hay sao? Chạy đi, mau rời khỏi đây, chạy càng xa càng tốt.” Nói xong ông lão vội vàng hòa vào dòng người chạy nạn mất hút, Khánh Kỵ nghe tin chết lặng, binh mã của Cơ Quang đã tiến đánh vào tận Dĩnh Đô rồi à? Sao lại thế này được?

Một thiếu phụ đang ôm con nhỏ chạy ngang kế bên nhìn thấy Khánh Kỵ trẻ tuổi tuấn tú, trong lòng không nỡ, lên tiếng khuyên nhủ: “Tiểu huynh đệ, đừng đi về phía trước nữa, khắp nơi hoang tàn, quân Ngô sắp đánh vào Dĩnh Đô rồi, tạm thời trốn đi đâu lánh nạn đi đã.”

“Quân Ngô đánh tận Dĩnh Đô ư? Với sức của Ngô quốc, sao mà chống chọi được với mấy mươi vạn đại quân của Sở? Rốt cuộc ở đây đã xảy ra chuyện gì rồi?” Khánh Kỵ nghĩ mãi không ra, có hỏi tiếp đám dân chạy nạn này chắc cũng không hỏi thêm được gì, vì bọn dân đen chưa chắc nhìn thấy bóng dáng quân Ngô, có lẽ chỉ là đồn nhau người Ngô đánh đến tận đây, giết người cướp của hãm hiếp khắp nơi nên dắt díu nhau rời bỏ quê hương chạy nạn.

Khánh Kỵ mặc kệ đám người chạy nạn tiếp tục đi về phía trước, cho đến giữa trưa trước mặt xuất hiện một thành trì nhỏ, ngoài cửa thành đang có mười mấy tên lính đứng đó, một nam tử mặc áo bào rộng đội mũ cao đeo trường kiếm đang gào to, ra sức trấn an đám dân đen chạy nạn đang chen chúc ùa ra ngoài cổng thành: “Các hương thân phụ lão nghe đây, quân Ngô số lượng có hạn, cho dù tấn công vào Dĩnh Đô cũng không đủ sức chia quân đánh khắp Sở quốc rộng lớn, triều đình đang điều động quân đội phản công, mọi người không cần hoảng loạn lên đâu, cứ ở lại trong thành đi, một khi nhận được tin, ta sẽ dẫn mọi người trốn vào ngọn núi gần đây, quân Ngô không làm hại chúng ta được đâu.”

Tiếc là dù hắn có gào to đến mấy cũng không ai đoái hoài gì tới hắn, đám dân chạy nạn càng chạy nhanh hơn. Khánh Kỵ nhìn gã nam tử này, khoảng hai mươi bốn hai mươi năm tuổi, thân hình cân đối, mắt sáng mũi cao, khuôn mặt thanh tao, có vẻ là người có chức quan gì đấy, bèn bước xuống xe đi về phía hắn hỏi chuyện.

Người đó nghe Khánh Kỵ tự giới thiệu là thương buôn Tấn quốc, cười khổ: “Thì ra là thương buôn từ phương xa đến, tại hạ họ Phạm tên Lãi, tự Thiếu Bá, chính là huyện đại phu ở đây, quân Ngô tiến vào lãnh thổ, lòng dân hoang mang, tình hình cụ thể như thế nào thật ra bổn đại phu cũng không được rõ lắm, khách quý chi bằng cứ ở lại trong thành đã, đợi khi có tin chính xác hẵng tính tiếp.”

Dịch giả nói thêm: Thế là Phạm Lãi đã xuất hiện (âm hán việt là Lễ, nhưng thấy người Việt mình quen gọi là Phạm Lãi rồi), chỗ này tác giả đã cho Phạm Lãi sinh ra trước mấy chục năm, thật ra trong lịch sử đợi khi Hạp Lư chết, con trai hắn là Phù Sai kế vị chiếm nước Việt, lúc đó Phạm Lãi mới xuất hiện dâng kế cứu nước. Hix…nghĩ mà khâm phục cho tấm lòng hy sinh của Phạm Lãi, dám hy sinh hiến người yêu là Tây Thi cho Phù Sai để cứu quốc, gi­ai thoại này là có thật, chắc rất nhiều đọc giả cũng đã biết qua phim truyện. Chà! Không biết mấy chương tới một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa là Tây Thi (Tương truyền Tây Thi đẹp đến độ ra suối rửa mặt, mấy con cá lo ngắm nhìn nàng quên cả bơi lội bị chìm xuống đáy hồ, câu “Chim sa cá lặn” xuất phát từ đấy.) có xuất hiện không nhỉ?…

“Nếu đã vậy, xin đa tạ Phạm đại phu!” Khánh Kỵ chắp tay hành lễ, chưa kịp đứng thẳng người lên đột nhiên nhớ ra điều gì, thất thanh kêu lên: “Huynh…huynh vừa mới nói gì? Huynh tên là gì?”

Vị đại phu kia có chút kinh ngạc, vội đưa tay lên vuốt mặt xem mình có chỗ nào không ổn không. Lát sau mới trả lời: “Bổn đại phu là Phạm Lãi, gì vậy, vị khách này quen biết tại hạ sao?”

Khánh Kỵ mừng rơn: “Phạm Lãi, huynh chính là Phạm Lãi?”

“Thì là bổn đại phu đây, có gì không đúng à?”

Khánh Kỵ hít một hơi dài, cố chế ngự nỗi ngạc nhiên trong lòng, theo như lịch sử mà hắn biết, Phạm Lãi trở thành nhân vật lịch sử nổi tiếng là vì công trạng ở Việt quốc, còn về chi tiết hắn làm quan ở Sở thì không được biết, hắn cứ ngỡ giờ này Phạm Lãi đang ở Việt quốc mới phải, đâu biết rằng Phạm Lãi vì sau khi quân Ngô công phá Dĩnh Đô của Sở quốc, triều đình hủ bại, quân vương vô dụng, hắn nản lòng mới chạy sang Việt quốc. Khánh Kỵ không biết người tên là Phạm Lãi đứng trước mặt là Phạm Lãi hắn biết qua sử sách hay chỉ là trùng tên, để tránh nhận lầm người, Khánh Kỵ vội hỏi: “Nếu vậy, huynh có quen biết với Văn Chủng đại phu không?”

Phạm Lãi nghe xong, nét nghi ngờ cảnh giác trên mặt liền tan biến, hòa nhã nói: “Thì ra huynh là bằng hữu của Tử Cầm, là huynh ấy đã kể về ta đúng không? Tử Cầm là bằng hữu tốt của Phạm Lãi, hiện đang làm quan ở Dĩnh Đô…”

Nói đến đây Phạm Lãi lộ vẻ lo lắng, thở nhẹ: “Hiện giờ lời đồn khắp nơi, người của bổn đại phu phái đi vẫn chưa quay về, ta cũng không biết tình hình ở Dĩnh Đô thế nào rồi, không biết Tử Cầm có an toàn không?”

Khánh Kỵ lần này đến Sở là vì muốn gặp mặt Sở vương, nhưng giờ nước Sở hỗn loạn như thế, e không thể đi đến Dĩnh Đô được rồi. Giờ gặp được vị đại phu Sở quốc này, Khánh Kỵ không che giấu thân phận của mình nữa, Khánh Kỵ nghiêm mặt nói: “Thật không dám giấu, bổn công tử không quen biết Văn Chủng đại phu, chỉ là hai vị tuổi trẻ tài cao, danh tiếng đồn xa, bổn công tử đã ngưỡng mộ đại danh từ lâu.”

Sở quốc rộng lớn, chức quan nhỏ như Phạm Lãi, Văn Chủng ai mà biết đến chứ? Vả lại nếu nói về danh tiếng, lúc này Phạm Lãi, Văn Chủng vẫn chưa sang Việt quốc, giờ này hai người chưa có công trạng hiển hách gì cả, Khánh Kỵ nói nghe danh tiếng của họ ở Tấn quốc, vậy đó là lời nói dối. Hơn nữa hắn tự xưng là công tử, càng làm cho Phạm Lãi thêm nghi hoặc, Phạm Lãi ngập ngừng hỏi: “Không biết các hạ…các hạ rốt cuộc là có thân phận gì?”

Khánh Kỵ đảo mắt nhìn xung quanh, thấy chỉ còn vệ sĩ của mình và binh lính của Phạm Lãi đứng đó, không sợ bị người khác nghe trộm, mới nghiêm nghị đáp lời: “Bổn công tử chính là Khánh Kỵ, vương tử của tiên vương Ngô quốc, lần này đến Sở mong được gặp mặt Sở vương điện hạ, cùng bàn đại kế thảo phạt Cơ Quang.”

“Này, lễ độ với ta chút đi, đừng có xô đẩy chứ.”

“Đừng nhiều lời, Kinh tướng quân, Ngải tướng quân đã dặn dò kĩ, quân doanh trọng địa, người ngoài ai cũng không được lại gần, ngươi lén la lén lút chui vào đây làm gì, có gì cứ đợi khi gặp mặt tướng quân rồi nói.”

Thúc Tôn Diêu Quang tức tối la lên: “Cái gì mà Kinh tướng quân, Ngải tướng quân, ngươi kêu Khánh Kỵ đến gặp ta, hứ, chàng gặp ta tự khắc biết ta là ai.”

Thúc Tôn Diêu Quang ra vẻ ngạo mạn, lập tức bị tên lính thô lỗ đẩy cho một cái chúi nhủi, nàng vừa tức giận vừa thấy tức cười, nhưng thấy quân lính dưới trướng Khánh Kỵ tận trung như thế, trong lòng nàng cảm thấy vui nhiều hơn giận.

Từ khi Quý Tôn Tiểu Man bỏ nhà ra đi, Cơ Tống tức giận sôi gan, chuyện này quả thật làm hắn mất mặt trước bá quan văn võ, nhưng hắn ý thức được ngôi báu của mình không danh chính ngôn thuận, Quý Tôn Ý Như cũng tức giận không kém, định tìm một cô gái khác trong gia tộc kết thân với Cơ Tống, nhằm đảm bảo quan hệ mật thiết của hắn và quốc quân.

Khổng Khâu giờ đây là người được tin cậy nhất bên cạnh Cơ Tống, hắn tuân thủ Chu lễ, sao lại ngồi yên nhìn quốc quân kết thân cùng dòng họ, làm ra chuyện mất lễ nghi được? Nhưng Khổng Khâu cũng nhìn ra tâm địa của Tam hoàn, nên bề ngoài vẫn cứ giả bộ chọn phu nhân giùm quốc quân trong nhà các công khanh đại thần Lỗ quốc, mặt khác lại bí mật phái sứ giả đi liên lạc các nước chư hầu, hy vọng tìm được một công chúa thích hợp từ nước khác làm phu nhân của Cơ Tống, làm vậy có thể nâng cao thực lực của quốc quân, giúp Cơ Tống chiếm ưu thế trong chế ngự tam giác quyền lực của Tam hoàn.

Tam hoàn không biết được dụng ý sâu xa của Khổng Khâu, Thúc Tôn Ngọc nghe Mạnh Tôn Tử Uyên khuyên nhủ, lại cảm thấy gả con gái cho Cơ Tống làm Lỗ quốc phu nhân, dù là đối với con gái hay cả gia tộc Thúc Tôn thị đều có thích hợp hơn cả, hơn nữa việc Khánh Kỵ có phục quốc thành công hay không còn chưa biết chắc được. Điều không ngờ là Thúc Tôn Ngọc vừa trình bày ý định với con gái, Thúc Tôn Diêu Quang đã kịch liệt phản đối, hai cha con cãi nhau một trận nảy lửa, Thúc Tôn Ngọc nổi giận nhốt con gái lại định từ từ khuyên nhủ, ai ngờ Thúc Tôn Diêu Quang lại học theo Quý Tôn Tiểu Man, cũng bỏ nhà ra đi tìm Khánh Kỵ.

“Này, ngươi đừng thô lỗ thế, nói không chừng là người quen biết với công tử đó.”

Thúc Tôn Diêu Quang bước đi chậm rãi, phía sau là mấy tên lính áp giải nàng đang to nhỏ nói chuyện với nhau.

“Ta thấy giống gi­an tế hơn.”

“Hi hi, vậy thì chưa chắc, ta vừa mới để ý thấy người này không có hạch ở cổ, hắn chắc là một cô gái.”

“Ta thì nói ở đâu ra mà lắm mỹ nam tử thế này. Cô gái ư? … hay là công tử nhà ta dính món nợ phong lưu nào đó ở bên ngoài, giờ người ta tìm đến tận đây không nhỉ?”

Một tên lính khác lo lắng nói nhỏ: “Nếu để Ngải tướng quân nhìn thấy thì nguy to, hí hí, cả hai người đều quen biết với công tử, gặp nhau có mà ghen tuông đánh nhau…” Mấy tên lính nói cười sau lưng Thúc Tôn Diêu Quang bị nàng nghe thấy, trong lòng tức tối: “Nữ nhân? Mới rời khỏi có mấy tháng, chàng đã không chịu được cô đơn, tìm một nữ nhân khác rồi ư?”

Tuy sớm biết Khánh Kỵ không chỉ có một mình nàng, nhưng nghĩ lại Thúc Tôn Diêu Quang cũng cảm thấy ấm ức trong lòng. Nhất là…Ngải tướng quân gì đó? Chẳng lẽ đó là một nam nhân? Người Lỗ ít ai đồng tính như người Vệ, Thúc Tôn Diêu Quang thử tưởng tượng cảnh ân ái giữa Khánh Kỵ và một tên nam nhân, thấy ghê tởm trong đầu.

Đi dọc theo con đường lớn trong Ngải thành hồi lâu, phía trước một tướng quân đeo kiếm dẫn theo hai tên lính đang bước tới trước mặt, nhìn thấy mấy tên lính đang áp giải một thiếu niên đi qua, vị tướng quân đó dừng bước hét lên hỏi: “Hắn là ai?”

Tên lính đứng kế bên Thúc Tôn Diêu Quang vội bước lên hành lễ trả lời: “Hồi bẩm Ngải tướng quân, theo lệnh tướng quân khắp quân doanh đã được canh phòng nghiêm ngặt, người này lén la lén lút lại gần Ngải thành, bị chúng thuộc hạ phát hiện bắt giữ lại không chịu nói rõ thân phận, chỉ là luôn miệng đòi gặp công tử, thuộc hạ thấy khả nghi nên dẫn tới cho tướng quân tra hỏi.”

“Hử?” Quý Tôn Tiểu Man nhìn khắp người Thúc Tôn Diêu Quang một lượt, cảm thấy người này rất là quen thuộc, nhưng nhất thời không nhớ ra hắn là ai. Thúc Tôn Diêu Quang thì nghe nói người này chính là Ngải tướng quân, nhìn dáng vẻ đúng là nhu mì, nếu thay đồ nữ nhi lên chắc đẹp hơn rất nhiều nữ nhân, e là Khánh Kỵ đúng như lời của bọn lính đã … với hắn, nghĩ vậy Diêu Quang tức giận tím mặt.

“Hắn là nữ nhân!” Quý Tôn Tiểu Man chỉ gặp qua Thúc Tôn Diêu Quang mấy lần, vả lại chỉ nhìn thấy từ xa, lúc đó Diêu Quang mặc đồ nữ nhi, vì thế thấy quen thuộc chứ không nghĩ ra người này chính là Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng chỉ nhìn thoáng qua là Tiểu Man lập tức nhận ra Diêu Quang đang cải nam trang, hơn nữa còn là một cô nương nhan sắc mặn mà.

Một ngọn lửa ghen tuông nổi lên đốt cháy lồng ngực Tiểu Man, còn về phía Diêu Quang, nhìn thấy một tướng quân nhu mì xinh đẹp hơn cả nữ nhân, nhớ lại những lời mấy tên lính vừa nãy, ngọn lửa ghen tuông đỏ rực gấp mười lần như sắp phun trào ra từ ánh mắt nàng…

Một cơn gió thoảng qua, tên lính đứng gần nhất với hai cô nương này thấy ớn lạnh vội vàng lùi lại mấy bước.

“Có sát khí! Sát khí ngùn ngụt!” Những tên lính quanh đó đều cảm nhận được bầu không khí căng thẳng khi hai người gườm nhau, trong lòng len lỏi một cảm giác lo âu…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 183: Đồng chí hướng (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Lúc này Khánh Kỵ còn chưa biết ở hậu phương đã xảy ra chuyện lớn, hai cô nương điêu ngoa Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang đã chạm mặt, một trận chiến ghen tuông giữa hai nàng khó tránh khỏi, hắn cứ tưởng ở hậu phương có đám tướng sĩ trung thành Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, Tôn Vũ, Anh Đào là đã vững tựa Thái Sơn. Giờ đây Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, vì hắn lại gặp được một nhân vật nổi danh trong lịch sử, đó chính là Phạm Lãi.

Phạm Lãi và Văn Chủng lúc này chỉ là hai thanh niên trẻ tuổi trên quan trường Sở quốc, chức quan cũng là chức hạ đại phu nhỏ nhoi, khả năng trị quốc chắc chưa được lão luyện như sau này họ sang Việt quốc, tuy nhiên, khả năng chính trị là do trải qua ngày thánh trui rèn mà nên, tiềm năng của hai người này là không thể phủ nhận, tuyệt đối là hai nhân vật cần gi­ao du thân thiết, biết đâu chừng sau này khi họ có thành tựu huy hoàng, Khánh Kỵ lại nhờ vả được gì đó thì sao.

Khánh Kỵ giờ đang cần nhiều người tài giúp sức, thấy nhân vật kiệt xuất này xuất hiện trước mặt, sao mà không nổi lòng chiêu nạp cho được? Vì chiêu nạp được người tài chính là gia tăng thực lực của bản thân, người ta không tham vinh hoa phú quý, công danh lợi lộc, cũng mong được thỏa chí trổ tài một phen, người tài ai cũng nghĩ vậy cả, với điều kiện của Khánh Kỵ hiện giờ, vẫn chưa đủ sức lôi kéo quan viên của Sở quốc.

Nhưng nghĩ lại Khánh Kỵ lại thấy không đúng, trong lịch sử hai nhân vật Phạm Lãi và Văn Chủng bỏ chức quan đại phu ở Sở chạy sang Việt quốc, đi theo phục vụ tên vua Câu Tiễn sắp vong quốc, chắc chắn là có lí do gì đó không thể nào không rời bỏ Sở quốc. Khánh Kỵ giờ đây hân hạnh gặp được hai người này, chi bằng cứ cư xử cho tốt, xây dựng gi­ao tình với họ, sau này khi họ không làm quan ở Sở nữa muốn đến nơi khác phát triển, người bằng hữu này chắc chắn là chọn lựa đầu tiên họ nghĩ đến, nghĩ như vậy nên Khánh Kỵ càng cung kính lễ độ với Phạm Lãi hơn, Phạm Lãi được đối xử vậy thấy kinh ngạc không kém.

Nên nhớ Khánh Kỵ thân phận là vương tử, mà chức vụ của Phạm Lãi hiện nay chỉ tương đương với chức tri huyện sau này, với lại còn không phải là công khanh xuất thân quý tộc, cha truyền con nối tiếp nhận chức quan này, Khánh Kỵ tuy đang phải lưu vong, nhưng với tư cách tôn nghiêm của một vương tử lại lễ độ như thế với một huyện đại phu nhỏ nhoi Phạm Lãi, cũng đủ cho Phạm Lãi cảm thấy lạ.

Biết được mục đích chuyến đi của Khánh Kỵ, Phạm Lãi vui mừng ra mặt. Vì xung đột biên giới Ngô và Sở nên hai nước chiến sự xảy ra liên miên quanh năm suốt tháng, năm ngoái Khánh Kỵ và Yểm Dư, Chúc Dung còn dẫn đại quân chia làm ba ngả tiến đánh Sở quốc, hai bên vốn là thù địch, nhưng nay Cơ Quang khởi binh phạt Sở, chém giết cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ khắp nơi, lại trở thành kẻ thù chung của Sở và Khánh Kỵ, đôi bên có chung kẻ thù tự nhiên sẽ biến thành chiến hữu.

Khánh Kỵ là người thừa kế ngôi báu danh chính ngôn thuận ở Ngô, nếu giờ Sở khai chiến với Ngô, người thừa kế hợp tình hợp lí nhất của Ngô đứng về phía họ, vậy xét về mặt đạo nghĩa, đội quân của họ là đội quân chính nghĩa, giúp người Ngô đòi lại công bằng, còn xét về tình hình thực tế thì có thêm người giúp sức giải vây cho Sở quốc, lại hạn chế được phần lớn sức chiến đấu của quân Ngô.

Chỉ cần nhân danh giúp đỡ Khánh Kỵ phục quốc, ít nhiều ảnh hưởng đến lòng quân của quân Ngô. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, Sở quốc có ơn với hắn, hai bên còn có thể thông qua đàm phán giải quyết vấn đề biên giới bằng con đường hòa bình, như thế Sở quốc lại có thể rút phần lớn quân Sở sang đối phó với Tấn quốc hùng mạnh phương Bắc đang lăm le xâm chiếm xuống phương Nam, chí ít ngưng chiến với Ngô quốc, có lợi lớn cho Sở quốc nghỉ ngơi dưỡng sức tính kế lâu dài.

Vì thế Phạm Lãi tiếp đãi Khánh Kỵ vô cùng chu đáo, mời hắn vào ở huyện đại phu phủ, đối xử hắn như thượng khách, bảo phu nhân đích thân lo việc ăn uống thết đãi Khánh Kỵ, đồng thời phái thêm người đi dò la tin tức về Dĩnh Đô, để tiện cho việc dẫn Khánh Kỵ đi gặp Sở vương.

Ba ngày liền Khánh Kỵ ở trong phủ đệ của Phạm Lãi, ngày nào hai người cũng bàn chuyện thiên hạ đại thế, sách lược cai trị quốc gia, ai cũng đưa ra kiến giải độc đáo, ai cũng có chỗ hơn người, do đó hai người càng lúc càng khâm phục đối phương hơn. Xét về tuổi tác, vốn đã không có khoảng cách nào, Khánh Kỵ lại có lòng kết gi­ao, chỉ hai ba ngày trôi qua, hai người từ chỗ mới quen đã trở thành bằng hữu thân thiết không có gì là không dám đem ra bàn luận.

Bữa trưa hôm ấy, Phạm Lãi chạy vội vào mời Khánh Kỵ, Khánh Kỵ theo hắn đến ngoài tiền sảnh ngồi yên, chỉ thấy bên ngoài đã có hai hán tử mặc áo vải thô chờ sẵn, một tên thân hình thấp bé, khuôn mặt đen nhẻm, ánh mắt láo liên như kẻ trộm, tên kia cao lớn mặt chữ điền, thần sắc ung dung, hai người hình dáng trái ngược, ngay cả màu áo cũng là một trắng một đen, cứ như là hắc bạch vô thường, Khánh Kỵ thấy lạ nhìn chăm chăm vào họ.

“À, hai người này là ta phái đi dò la tin tức, vừa có tin tức về Dĩnh Đô, nên ta mới mời điện hạ ra đây, cùng nghe xem họ mang về tin gì.”

Phạm Lãi nhíu mày sầu não, hiển nhiên là đã nghe được chút tin gì từ thám tử này rồi, hắn mời Khánh Kỵ thượng tọa, quay qua bảo tên hán tử nhỏ con: “Ngươi mau nói tin tức ngươi dò la được với điện hạ, cố gắng nói tường tận vào.”

“Dạ, đại nhân!” Tên hán tử nhỏ con tuân lệnh, sau đó lần lượt kể với Khánh Kỵ những gì hắn đã dò la.

Hai mươi mấy ngày trước, Yểm Dư, Chúc Dung của Ngô quốc thua trận rút lui, tướng quốc Ngũ Tử Tư dẫn theo năm ngàn binh mã đến tiền tuyến hợp sức với Bá xua quân truy đuổi, dọc đường đánh phá được vài thành trì nhỏ, vì các thành trì này đều thuộc những nước nhỏ phụ thuộc Sở quốc, không phải lãnh thổ của Sở, người Sở khoanh tay đứng nhìn, không hề phái binh mã chống cự.

Mấy ngày sau, Ngô vương Cơ Quang đột nhiên dẫn theo ba vạn đại quân đến Sở quốc, hội quân với Ngũ Tử Tư và Bá, số quân tập hợp lại được năm vạn năm ngàn quân, ngoại trừ để lại một phần nhỏ trấn giữ những nơi quan trọng, đây đã là toàn bộ quân số cả Ngô quốc, đội quân này không đuổi theo Yểm Dư, Chúc Dung nữa mà tự nhiên không rõ tung tích. Khi Sở quốc nhận được tin báo, quân đội của Ngô như từ trên trời rơi xuống, đột nhiên xuất hiện ngay tại Bá Cử.

Tin quân Ngô tập kích lập tức được đưa về Dĩnh Đô, người Sở thất kinh, lập tức hạ lệnh cho sáu nước phụ thuộc là Thuấn, Hồ, Trần, Thẩm, Hứa, Thái phát binh trợ chiến, đồng thời điều động quân chủ lực của Sở tăng viện cho Bá Cử, sáu nước chưa kịp phát binh, quân Sở chưa tiến đến Bá Cử, người Ngô trải qua một ngày hai đêm huyết chiến đã chiếm được Bá Cử, liền sau đó lại tiến công Vân Mộng Trạch, đường tấn công rõ ràng là hướng về Dĩnh Đô.

Quân Ngô tiến quân thần tốc, hơn nữa như nắm rõ trong lòng bàn tay các cứ điểm đóng quân và binh lực của Sở, đánh cho quân Sở không kịp trở tay, quân Sở xưa nay luôn hung hăng ức hiếp người ngoài nay không ngờ lại bị người khác đánh vào tận cửa nhà, xuất hiện tại kinh đô của họ, trong một lúc hoảng loạn cả lên, hiệu lệnh mất linh, dù có mấy mươi vạn đại quân phòng thủ biên giới, lại bị quân Ngô đánh xộc vào kinh đô, phá một trận tưng bừng.

Đến lúc này người Sở mới phát hiện hai nước Đường và Thái xưa nay thần phục đã ngả sang phía quân Ngô, quay ngược lại giúp Ngô đánh Sở. Tất cả cũng chỉ tại Lệnh Doãn Nang Ngõa của Sở quốc, khi quốc quân hai nước Đường, Thái đến Sở triều cống, Nang Ngõa đòi quà hối lộ từ quốc quân hai nước quá nặng, hai quốc quân Đường, Thái không cách nào thỏa mãn lòng tham của Nang Ngõa, bị hắn nhốt vào ngục hết ba năm, sau khi sứ thần hai nước mang lễ vật hậu hĩ dâng lên, họ mới được thả cho về nước.

Uất hận trong lòng, bề ngoài hai nước Đường, Thái vẫn ra vẻ thần phục Sở quốc, nhưng họ lại thề với trời đất, trong khắp thiên hạ, bất kể là ai, chỉ cần xuất binh phạt Sở, họ nhất định nghe theo. Tin tức này sớm bị tướng quốc Ngô quốc Ngũ Tử Tư biết được, khi nghe nói Cơ Quang có được tấm bản đồ địa lí và cách phân bố binh lực của Sở quốc, bản thân Cơ Quang lại rất giỏi dùng binh, hai nước Đường, Thái lập tức nghe theo.

Địa lí sẽ không thay đổi, nhưng nếu để quá lâu khó bảo đảm quân đội của Sở có thay đổi vị trí bố phòng hoặc gia tăng quân số hay không. Cơ Quang quyết tâm đánh nhanh thắng nhanh, lập tức khởi binh phạt Sở, đánh thẳng vào đoạt lấy kinh đô Sở quốc, lập uy với chư hầu thiên hạ, kiến lập bá nghiệp thiên thu.

Kinh đô Ngô quốc Cô Tô thành cách quá xa Dĩnh Đô của Sở, khó khăn lớn nhất của quân Ngô chính là việc tiếp tế lương thảo, quân Ngô tuy phiêu dũng thiện chiến, nhưng quân số lại kém xa so với người Sở, do đó muốn chiếm được Dĩnh Đô, chỉ còn cách đánh úp bất ngờ vào chỗ hiểm yếu, nay được hai nước Đường, Thái quy thuận giúp đỡ, phụ trách việc cung cấp lương thảo, giải quyết được khó khăn này rồi quân Ngô không còn e dè gì nữa.

Cho dù là vậy, hai nước Đường, Thái muốn vận chuyển số lượng lương thảo lớn tiếp tế quân Ngô cũng cần có thời gi­an, quân Ngô lại tiến quân thần tốc, Cơ Quang vì muốn khích lệ lòng quân, nên lần này Cơ Quang ban ra một quân lệnh, trên đường tiến quân, quân đội Ngô quốc ăn của người Sở, mặc của người Sở, dùng đất của Sở, ngay cả nữ nhân để giải trí cũng dùng của Sở, cứ thế đánh phá cướp bóc hãm hiếp khắp nơi, thử hỏi người dân Sở quốc ai mà không hoảng sợ chạy nạn chứ?

Chỉ trừ bọn ăn mày không nhà cửa, không của cải, ngoài ra từ các công khanh đại thần đến lê dân bá tánh, hễ nghe thấy quân Ngô đánh đến nơi, ai cũng bỏ chạy lánh nạn càng xa càng tốt, thế nên Khánh Kỵ mới gặp phải cảnh chạy nạn hỗn tạp hôm đó. Trên thực tế lãnh thổ Sở quốc quá ư rộng lớn, chỉ có mấy vạn quân Ngô thật ra không đủ chia ra tiến đánh nhiều nơi, mục đích chính của quân Ngô chỉ là tiến đánh kinh đô Dĩnh Đô của Sở mà thôi.

Tất nhiên, người Sở không biết được rằng quân Ngô tiến quân thần tốc như thế là vì có được tấm bản đồ da dê mà Yểm Dư, Chúc Dung cố tình bỏ lại, họ cứ nghĩ là vì tướng quốc Ngô quốc Ngũ Tử Tư và đại tướng Bá vốn là người Sở, nên họ nắm rõ địa lí của Sở quốc cũng không có gì lạ.

Khánh Kỵ nghe xong nín thở, hồi lâu sau mới cất tiếng hỏi chuyện hắn quan tâm nhất vào lúc này: “Cơ Quang đã chiếm được Dĩnh Đô chưa?”

Tên hán tử mặc đồ trắng giờ mới lên tiếng trả lời: “Quân Ngô tiến quân thần tốc, nghe nói họ đã chiếm cứ Bá Cử, Lệnh Doãn Nang Ngõa đại nhân lập tức dẫn quân kháng cự, thiết lập phòng tuyến tại Vân Mộng Trạch, lúc này năm nước Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa cũng đã dẫn quân đến giúp, hội quân với Nang Ngõa đại nhân, binh lực nhiều hơn quân Ngô gấp bội. Quân Ngô do Ngô vương Cơ Quang đích thân làm chủ soái, Ngũ Tử Tư làm hữu tướng quân, Bá làm tả tướng quân, chia quân ba ngả, tiến đánh Vân Mộng Trạch, kết quả là…”

“Kết quả thế nào?”

Khánh Kỵ vội hỏi dồn, ánh mắt Phạm Lãi toát lên vẻ u sầu, lắc đầu ngao ngán nói: “Kết quả là…, đã đến lúc này rồi mà Nang Ngõa vẫn giữ lòng riêng, lệnh cho liên quân năm nước làm tiên phong, hắn dẫn quân tinh nhuệ chủ lực của quân Sở đứng nhìn từ xa, mong cho hai bên lưỡng bại câu thương.”

Nói đến đây Phạm Lãi tức giận đập bàn một cái, nói tiếp: “Quốc nạn ập đến, lại nhờ cậy người ngoài chiến đấu giùm, mình thì đứng nhìn từ xa, chung chiến tuyến nhưng không chung một lòng, dù cho quân số đông hơn gấp mười lần, thì làm sao mà giành được thắng lợi?”

Tên hán tử to cao cười chua chát, bậm môi: “Đại nhân nói đúng lắm, quân Ngô dùng tù nhân và tân binh làm tiên phong, giả vờ bại trận, dụ liên quân năm nước đuổi theo rơi vào bẫy mai phục, sau đó ba cánh quân chủ lực hợp lại bao vây, đánh cho liên quân một trận tơi bời. Liên quân năm nước thua trận rút chạy về phía sau, quân Ngô thừa thắng xông lên, liên quân bỏ chạy dẫm đạp lên trận địa quân Sở của ta, quân Sở rối loạn không còn chống đỡ quân Ngô được nữa, ba quân tháo chạy tán loạn, rơi vào đầm lầy dẫm đạp lên nhau chết vô số kể, tiểu nhân quay về đây báo tin, quân Ngô vẫn không ngừng tiến quân, chắc giờ đã đánh thẳng vào Dĩnh Đô rồi.”

Khánh Kỵ nghe xong toát mồ hôi lạnh, hắn chưa biết là quân Ngô hung hăng được thế này chính là do hắn viết thư bảo Yểm Dư, Chúc Dung dẫn dụ cho quân Ngô gi­ao chiến với quân Sở, hai người kia vì ôm hận trong lòng, vẽ ra một bức bản đồ da dê cố tình bỏ lại cho quân Ngô lợi dụng, Khánh Kỵ tức tối mắng chửi quân Sở sao mà vô dụng, người Sở bị thua trận, đúng là có lợi cho việc thuyết phục họ liên minh với hắn, vấn đề là…nếu Dĩnh Đô bị công phá, Sở vương bị giết thì phải làm sao đây?

Tên Ngũ Tử Tư một lòng muốn trả thù, hắn hận Sở vương đến tận xương tủy, Sở Bình Vương tuy đã mất, nhưng nếu để hắn bắt được con trai của Sở Bình Vương, tên nhóc Sở vương mới mười một tuổi đó, e là Cơ Quang có ngăn cản đi chăng nữa, hắn cũng mặc kệ tuốt kiếm ra chém bay đầu thằng nhóc xong mới thôi, nếu giờ Sở vương mà chết, người Sở như rắn mất đầu, các vương tử lo tranh đoạt vương vị, khi đó Khánh Kỵ dấy binh phạt Ngô, vừa hay giải vây cho Sở quốc, e là tân quân mới lên ngôi của Sở quốc chỉ lo gầy dựng thế lực chưa vững của hắn, tuyệt đối không phái quân trợ giúp Khánh Kỵ phạt Ngô đâu.

“Điện hạ giờ có dự tính gì?” Phạm Lãi nhìn vào Khánh Kỵ hỏi.

Khánh Kỵ hít một hơi dài, sắc mặt nghiêm nghị: “Không thể chậm trễ được nữa, Khánh Kỵ lập tức lên đường tới Dĩnh Đô, Dĩnh Đô tường cao quân nhiều, Cơ Quang chưa chắc đã công phá được, cho dù là tấn công vào được, nghĩ chắc Sở vương điện hạ có đủ thời gi­an để rời khỏi đó. Sở quốc thực lực hùng hậu, binh mã hùng mạnh, thất bại nhất thời không nói lên gì cả, ta tin việc hợp tác của chúng ta vẫn có thể tiếp tục tiến hành.”

Phạm Lãi lộ vẻ khâm phục: “Tại hạ cứ tưởng điện hạ sẽ thất vọng quay về Vệ quốc, ý chí của điện hạ quả nhiên kiên định, dám một mình dấn thân vào chốn hiểm nguy, tại hạ vô cùng khâm phục, được, bổn đại phu sẽ đi cùng điện hạ đến Dĩnh Đô.”

Khánh Kỵ ngớ người: “Đại phu cũng muốn đi?”

Phạm Lãi từ tốn nói: “Ta là đại phu Sở quốc, tất nhiên phải góp sức cho nước nhà, giờ Dĩnh Đô gặp nạn, Sở vương lâm nguy, Phạm Lãi tuy chỉ là một viên quan nhỏ, binh mã cũng chỉ vài trăm, nhưng giờ biết tin cũng phải mặc giáp ra trận cần vương, tận trung báo quốc.”

“Nếu tất cả đại thần của Sở đều trung nghĩa như Phạm đại phu, Sở quốc chắc chắn trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thiên hạ.” Khánh Kỵ gật gù khen ngợi: “Sau này nếu như Khánh Kỵ phạt Ngô phục quốc thành công, mong cho có đại thần trung nghĩa tài trí tuyệt đỉnh như Phạm đại phu đây phò trợ, nếu ta mà có được một nhân tài kiệt xuất thế này, chắc chắn sẽ mời làm tướng quốc, cùng mưu tính đại nghiệp thiên thu.”

Phạm Lãi chớp mắt, mỉm cười khiêm tốn: “Điện hạ quá khen rồi, Phạm Lãi chẳng qua chỉ là một huyện lệnh nhỏ nhoi, sao xứng để điện hạ coi trọng như vậy chứ?”

Khánh Kỵ mỉm cười xua tay: “Thiếu Bá không cần quá khiêm tốn, những kẻ quyền cao chức trọng ba nước Ngô, Lỗ, Vệ, Khánh Kỵ đã gặp nhiều, trong mắt của ta, đám công khanh đại thần ấy có hợp lại với nhau, cũng không bằng một mình Phạm Lãi.”

Phạm Lãi nghe khen, biết là gặp được tri kỉ, thần sắc xúc động thấy rõ, ánh mắt cảm kích nhìn vào Khánh Kỵ, sau đó thở một hơi dài, thế mới giữ được bình tĩnh: “Được điện hạ coi trọng như vậy, Phạm Lãi quả thực tự thấy hổ thẹn. Không còn sớm nữa, Phạm Lãi giờ lập tức đi triệu tập người ngựa, cùng điện hạ khởi hành đi Dĩnh Đô.”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 184: Binh phá Dĩnh Đô (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Dĩnh Đô, khói lửa mịt mù, cổng thành mở toang, quân lính Ngô quốc sát khí đằng đằng hộ tống ba chiếc chiến xa tiến vào thành.

Chiếc chiến xa ở giữa dừng lại, Ngô vương Hạp Lư toàn thân giáp trụ, tay cầm bảo kiếm dõi mắt xung quanh, cứ như mơ vậy, trước kia Ngõa Thích thái sư với ba vạn tinh binh đánh bại năm mươi vạn đại quân, bất ngờ bắt giữ hoàng đế chính thống đại Minh, Hạp Lư giờ cũng đang sống trong cảm giác lâng lâng vui sướng ấy, ngay cả bản thân hắn cũng không tin có kết quả như hôm nay, quân Ngô nhanh chóng chiếm được Dĩnh Đô, thì ra Sở quốc bề ngoài tưởng như hùng mạnh bên trong thật ra lại yếu đuối đến thế này.

“Sở vương giờ đang ở đâu?” Ngũ Tử Tư cũng toàn thân áo giáp, tay nắm trường mâu, hai mắt rực lửa hét lên, cái bộ dạng sát khí ngùn ngụt đáng sợ ấy làm người khác khiếp sợ.

Một tên lính giữ thành bị quân Ngô áp giải đến trước mặt, đứng yên bất động, bị Ngũ Tử Tư hét lên tra hỏi, hắn sợ hãi quỳ mọp xuống run lẩy bẩy: “Khi…khi cửa thành bị phá, thái tử thiếu phó Phí Vô Cực đại nhân đã dẫn theo đại vương trốn khỏi thành rồi ạ, giờ đây…giờ đây không biết đã chạy đi đâu.”

Lúc này đã xế chiều, bầu trời đỏ rực màu máu, khi đêm xuống không thể phái quân ra ngoài đuổi theo, Ngũ Tử Tư nghe tên lính giữ thành trả lời xong lộ vẻ thất vọng.

Bá hiểu ý, nhìn bộ dạng của Ngũ Tử Tư làm sao mà không hiểu nỗi lòng của ông ta chứ? Bản thân Bá cũng đang mang mối thù sâu tựa biển, bèn lên tiếng an ủi: “Tướng quốc đại nhân, bây giờ chúng ta đã đánh vào Dĩnh Đô, công phá hoàng cung, tên gi­an tặc Nang Ngõa đã chịu chết dưới mũi kích của đại nhân, cũng coi như là trả được mối thù gia tộc rồi. Giờ Sở vương chẳng qua chỉ là một đứa nhóc bị người khác sắp đặt, mặc kệ hắn đi, đại nghiệp của đại vương quan trọng hơn, giữ được Dĩnh Đô mới làm việc quan trọng cần làm trước mắt, chỉ cần chúng ta bám chặt Sở quốc, sau này tính sổ với tên nhóc Sở vương đang lẩn trốn, còn không dễ như trở bàn tay sao?”

“Đúng vậy, Tử Tư à, bây giờ đã chiếm cứ Dĩnh Đô, thù lớn của ông coi như đã trả được rồi, quả nhân đã thực hiện lời hứa với ông rồi nhé, ha ha ha…”

Cơ Quang đã ngoài bốn mươi tuổi, dõi mắt trông theo khắp kinh đô Sở quốc, dù là trải qua chiến tranh khói lửa vẫn nguy nga tráng lệ, trong lòng nổi lòng ham muốn, vuốt râu hí hửng: “Sở quốc trải qua mấy trăm năm tích góp, tất cả tài sản cả nước đều tập trung cất ở Dĩnh Đô, Sở vương chắc không ngờ quả nhân nhanh chóng đánh vào tận đây, các cánh quân cần vương của hắn không kịp cứu viện, trong lúc hoảng loạn trốn chạy chắc là không kịp mang theo thứ gì, bây giờ tất cả đều thuộc về quả nhân. Kể từ bây giờ, phái người lục xét toàn bộ của cải trong Dĩnh Đô, vận chuyển hết về Ngô quốc cho ta, để Ngô quốc ta sau này sử dụng.”

“Tuân lệnh đại vương!” Viên đại tướng gần đó chắp tay nhận lệnh.

Ngay lúc này, một cánh cửa nhà dân bật mở, một cô gái hấp tấp chạy ra, phía sau một gã đại hán cởi trần đuổi theo túm lấy cô gái, gã đại hán vẫn còn khoác nửa mảnh áo giáp trên mình, xem ra là binh sĩ của Ngô quốc, hắn thấy xa giá của đại vương tiến đến, ngây người ra, vội vàng hành lễ với Ngô vương Hạp Lư và hai vị trọng thần Ngũ Tử Tư, Bá.

Tên lính cúi người hành lễ, tay vẫn ôm chặt eo của cô gái kia, cô nương Sở quốc eo thon mềm mại, cô gái kia mới mười tám, nhan sắc cũng khá, tấm thân như cành liễu phất phơ trước gió, chỉ là nước mắt giàn giụa, trông có vẻ tội nghiệp.

Cơ Quang chỉ vào cô gái hỏi: “Nàng ta là con gái nhà ai, còn ngươi là binh lính thuộc bộ phận nào?”

Tên lính vội vàng cung kính đáp lời: “Bẩm đại vương, cô gái này là con gái của viên quan giữ thành, tiểu nhân là binh sĩ thuộc đội quân tiên phong, chính là đội quân đầu tiên phá cửa thành xông vào, đội của tiểu nhân thuộc quyền chỉ huy của Ngũ tướng quốc đại nhân ạ.”

Cơ Quang cười ha hả khoái trá: “Nếu đã lập công, đương nhiên phải được ban thưởng, hừm… cô gái này nhìn cũng khá đấy chứ?”

Tên lính nghe đại vương nói vậy, vội đẩy cô gái về phía trước, cô gái sém chút bị hắn đẩy ngã ra đất, to tiếng: “Còn không quỳ lạy đại vương của ta!” sau đó quay qua khúm núm nói với Cơ Quang: “Nếu đại vương thấy ưng ý, đó là vinh hạnh của nàng ta.”

Cơ Quang cười lớn: “Chỉ là con gái của một viên quan giữ thành, ngươi cứ tận hưởng đi.”

Tên lính mừng rơn, vội tạ ơn với Cơ Quang, sau đó kéo cô gái vào nhà đóng sập cửa. Vừa vào nhà cô gái toan bỏ chạy, liền bị hắn tát cho một cái ngã lăn ra, đoạn hắn vồ lên xé áo nàng, để lộ tấm thân trắng nõn hơ hớ.

Các thị vệ xung quanh Cơ Quang thấy vậy nhốn nháo cả lên, chỉ là họ đang có nhiệm vụ bảo vệ đại vương, không dám tự tiện hành động. Cơ Quang nhìn thấy đám thuộc hạ người nào người nấy vẻ mặt háo hức, cười ha hả trách mắng: “Thật là vô tích sự, một con dân nữ có gì đáng yêu chứ? Nào, các ngươi theo quả nhân vào hoàng cung, phi tần của Sở vương giờ thuộc về quả nhân, còn các cung nữ ta thưởng hết cho các ngươi khuây khỏa.”

Đám thị vệ nghe vậy vui mừng hớn hở, hoan hô hò hét vang trời.

Cơ Quang lại quay sang Ngũ Tử Tư, Bá: “Quả nhân hưởng dụng phi tần của Sở vương, tướng quốc cứ hưởng dụng Lệnh Doãn phu nhân của Sở, Bá là tư mã Ngô quốc ta, có thể vào ở trong phủ đại tư mã của Sở, hưởng dụng phu nhân tì thiếp của thượng khanh Sở quốc, ha ha, kể từ hôm nay quân thần trên dười Ngô quốc ta, tùy theo chức vụ lớn nhỏ, cứ theo thứ tự vào ở trong phủ đệ các đại thần Sở quốc, thả sức hưởng lạc.”

“Đa tạ đại vương!” Bá cúi người đáp tạ, rồi quay qua nhìn thấy Ngũ Tử Tư vẫn đang hậm hực vì Sở vương trốn thoát, đưa tay kéo áo hắn một cái, Ngũ Tử Tư không thèm cúi người, hờ hững nói: “Đa tạ đại vương!”

Cơ Quang biết tâm ý của hắn nên cũng mặc kệ thái độ đó, xua tay: “Uất đại phu đâu, dẫn quân trú đóng khắp Dĩnh Đô, giết những tên dám chống cự cho ta, ha ha, các ngươi cứ đi hưởng lạc nào, khởi giá vào hoàng cung!”

Đám thị vệ như một lũ sói đói thèm thuồng mỹ nhân và của cải trong hoàng cung Sở quốc, vội vàng đi theo Cơ Quang tiến vào hoàng cung.

Uất Bình Nhiên cảm thấy có gì đó không ổn, xưa nay phàm những ai chiếm cứ kinh thành một nước, ít khi không chiếm đóng được cả một quốc gia. Sở vương nhỏ tuổi, gi­an thần hoành hành, lê dân bá tánh Sở quốc đã mất hết niềm tin vào triều đình, hơn nữa Sở vương thâu tóm mọi quyền lực, cai trị quốc gia chia theo huyện, các công khanh đại thần nhận được rất ít lợi lộc.

Nếu Hạp Lư vào thành không xâm phạm dân chúng, ra sức lôi kéo các đại thần Sở quốc, lấy chức quan tiền tài ra chiêu dụ, chưa chắc bọn họ không nghe theo, lúc đó muốn chiếm cả Sở quốc, mở mang bờ cõi Ngô quốc ra gấp mấy lần chỉ là chuyện nhỏ, nhưng giờ đây Cơ Quang lại…

Cơ Quang ban lệnh cướp bóc hãm hiếp, đẩy dân Sở vào đường cùng buộc phải chống trả, Uất Bình Nhiên có ý khuyên can, nhưng thấy dáng vẻ đắc thắng của Cơ Quang cùng lòng ham muốn sắc dục ấy, cũng biết là với mấy lời của mình khó mà làm đại vương thay đổi ý định. Còn về phía Ngũ Tử Tư và Bá, hai nhân vật quyền lực chỉ đứng sau Hạp Lư, họ thù hận Sở quốc tận xương tủy, chỉ mong sao đốt trụi cả kinh thành Dĩnh Đô, e là cũng khó thuyết phục được họ.

Uất Bình Nhiên thở dài ngao ngán, lắc đầu vô phương, dẫn theo binh lính theo lệnh Hạp Lư chia nhau canh giữ khắp thành.

Trong thành khắp nơi đều vang lên tiếng khóc thảm thương, ngoài đường xác nằm la liệt, rất nhiều nhà dân hoang tàn mở rộng cửa, được lệnh Ngô vương ban xuống, các binh sĩ mặc sức cướp của hãm hiếp phụ nữ, Dĩnh Đô giờ chẳng khác nào chốn địa ngục trần gi­an.

Ngũ Tử Tư dẫn theo thị vệ của mình, đánh xe tiến về phủ đệ Ngũ gia trước kia của hắn, dọc đường khói lửa khắp nơi, xác chết la liệt, vô số nhà dân vọng ra tiếng kêu khóc van xin của nữ nhi bị lính Ngô lăng nhục, nỗi hận trong lòng hắn có hơi chút nguôi ngoai, đợi khi hắn đến trước phủ đệ, chỉ thấy một phủ đệ rộng lớn trước đây giờ đã bị san bằng thành đất trống, xung quanh hãy còn vết tích gạch ngói hoang tàn, nằm trơ trọi giữa đêm trăng âm u.

Cơn lửa giận trong tim Ngũ Tử Tư lại bùng cháy lên mãnh liệt, hắn nhảy xuống xe, lao về phía trước quỳ mọp xuống đất gào khóc thảm thiết: “Phụ thân…”, sau đó uất hận không kêu ra thành tiếng được nữa, hai bàn tay gân guốc của hắn nắm chặt hai nhúm đất, toàn thân run rẩy tím tái vì tức giận.

“Tên gi­an tặc Nang Ngõa, đã bị hài nhi băm nát như tương, còn tên lão tặc Sở vương…” Ngũ Tử Tư cắn răng bật máu, dưới ánh trăng mờ ảo hắn nghiêm mặt đáng sợ: “Tên lão tặc tuy đã chết, ta quyết không tha cho hắn, ngày mai…ngày mai ta sẽ đến đào mộ hắn lên, phanh thây xẻ thịt, trả mối thù máu này.”

Người xưa kính trọng quỷ thần, rất tôn trọng người đã khuất, tướng sĩ xung quanh Ngũ Tử Tư nghe nói phải đào mộ Sở vương lên sỉ nhục di hài của hắn, ai nấy nổi cơn ớn lạnh.

Ngũ Tử Tư lau nước mắt, cúng tế gia tộc của hắn xong, đứng thẳng người nghiêm giọng: “Đến Lệnh Doãn phủ cho ta!”

Lệnh Doãn Sở quốc hiện đang là đại gi­an thần Nang Ngõa, Nang Ngõa trong trận hỗn chiến ở Vân Mộng Trạch, vì dùng liên quân năm nước làm tiên phong, bị đám bại quân rút chạy về giẫm đạp trận địa quân Sở, trong lúc thua chạy tan tác xe ngựa của hắn bị mắc kẹt trong lầm lầy không kéo ra được. Vừa rồi Bá nói hắn chết dưới tay Ngũ Tử Tư chỉ là an ủi xoa dịu tướng quốc, thực tế trên chiến trường hỗn loạn, thấy kẻ địch là quân sĩ xông lên chém giết, còn ai để ý chức quan lớn nhỏ của đối thủ, để chừa cho người khác ra tay đâu? Cho nên Nang Ngõa bị quân sĩ Ngô quốc giết chết hay là bị quân Sở hận hắn chèn ép giết chết cũng không ai rõ, lúc Ngũ Tử Tư đến đó thấy xác hắn, tức giận băm nát xác hắn ra, sau đó đem bỏ ngoài rừng cho chó hoang tha đi coi như là đã trả thù rồi.

Nang Ngõa là quyền thần số một Sở quốc, phủ đệ nguy nga lộng lẫy, số mỹ nữ tuyệt sắc hắn giấu trong phủ nhiều vô số. Ngũ Tử Tư ngồi vào chiếc ghế phủ tấm lông cọp trắng của Nang Ngõa, nhìn vào dưới sảnh, vô số mỹ nhân sợ sệt đang lố nhố đứng đầy ra đó, Ngũ Tử Tư nghĩ lại mối thù khi Nang Ngõa dẫn quân sang bằng giết hại gia tộc, trong lòng giờ cảm thấy hả hê vô cùng.

Nang Ngõa là quyền thần số một Sở quốc, phủ đệ nguy nga lộng lẫy, số mỹ nữ tuyệt sắc hắn giấu trong phủ nhiều vô số. Ngũ Tử Tư ngồi vào chiếc ghế phủ tấm lông cọp trắng của Nang Ngõa, nhìn vào dưới sảnh, vô số mỹ nhân sợ sệt đang lố nhố đứng đầy ra đó, Ngũ Tử Tư nghĩ lại mối thù khi Nang Ngõa dẫn quân sang bằng giết hại gia tộc, trong lòng giờ cảm thấy hả hê vô cùng.

“Lệnh Doãn phu nhân đâu?”

Lệnh Doãn phu nhân là vợ cả của Nang Ngõa, năm nay đã ngoài bốn mươi, nhan sắc tất nhiên không bằng đám tì thiếp trẻ trung xinh đẹp, nhưng Ngũ Tử Tư chỉ vì trả thù chuốc hận, không phải ham mê nữ sắc, nên muốn sỉ nhục phu nhân của Nang Ngõa một phen, đâu cần biết bà ta xấu đẹp thế nào. Một cô tì thiếp run lẩy bẩy bước lên trả lời: “Phu nhân…phu nhân nghe nói kinh thành thất thủ, Lệnh Doãn đại nhân tử chiến trên sa trường, đã… đã thắt cổ tự vẫn rồi ạ.”

Ngũ Tử Tư lộ vẻ thất vọng, hắn trợn mắt, lại hét lên: “Vậy tắc phu nhân (vợ kế) của tên cẩu tặc đó đâu?”

Đám tì thiếp sợ hãi nhìn nhau, hướng vào một cô gái đang sợ sệt trong đám đông, cô gái này mặc một bộ đồ trắng, thân hình mảnh mai, eo thon quyến rũ say đắm lòng người. Nàng sợ đến nỗi trắng bệch cả mặt bước lên quỳ xuống, dập đầu bái kiến: “Tiện thiếp…tiện thiếp xin ra mắt Ngũ tướng quân.”

Ngũ Tử Tư sáng mắt, nhìn nàng ta chỉ ngoài hai mươi, nhan sắc tuyệt trần, cười lạnh nhạt một tiếng: “Nang Ngõa đúng là biết hưởng phúc nhỉ? Nào lại đây, nàng tên là gì?”

“Tiện thiếp là Ngọc Lạc.”

“Ngọc Lạc à? Ha ha, hay lắm, đêm nay nàng sẽ hầu hạ bổn tướng quốc…” Ngũ Tử Tư đưa tay túm lấy người đẹp ôm vào lòng, bàn tay đưa vào ngực nàng mò mẫm, mở miệng cười to khoái trá.

Bên ngoài gió lạnh vù vù, tiếng than khóc văng vẳng trong đêm…

Trong một khe núi hiểm trở, một đoàn người ngựa men theo lối nhỏ tiến từ từ vào phía trước, trong sơn cốc một thanh niên mặc áo bào trắng khoác nửa mảnh áo giáp hét lên từ xa xa: “Thiếu Bá có ở đó không?”

Nghe tiếng gọi, Phạm Lãi bước nhanh về phía trước to tiếng đáp lời: “Có phải là Tử Cầm không? Thiếu Bá đang ở đây.”

“Quả nhiên là huynh!” Chàng thanh niên áo bào trắng vội chạy đến đón, hai người vui mừng ôm lấy nhau, Khánh Kỵ quan sát người mới xuất hiện, thấy hắn tuổi tác cũng như Phạm Lãi, cao hơn Phạm Lãi nửa cái đầu, mặt mày thanh tú, tuy là đang mặc giáp đeo kiếm nhưng vẫn mang nét nho nhã thư sinh.

“Thì ra người này chính là Văn Chủng, ông trời để ta gặp được hai người họ ở đây, chẳng lẽ đó là ý trời?” Khánh Kỵ nhủ thầm trong lòng.

Lúc này Văn Chủng đã nghe Phạm Lãi giới thiệu về Khánh Kỵ, kinh ngạc bước đến trước mặt hành lễ: “Hạ tướng quân Sở quốc Văn Chủng, bái kiến Khánh Kỵ vương tử!”

Khánh Kỵ là con trai của Ngô vương, theo lí phải tự xưng là vương tử, nhưng các nước chư hầu phía Bắc Trường Gi­ang chỉ thừa nhận Chu thiên tử là chính thống, không ai được phép xưng “Vương” mà chỉ được xưng “Hầu”, nên khi gặp Khánh Kỵ đều xưng hắn là công tử, không gọi vương tử. Nhưng ba nước Sở, Ngô, Việt nằm phía Nam Trường Gi­ang, xưa nay đã quen cách xưng vương cho oai, do đó gặp Khánh Kỵ lại xưng hắn là vương tử.

“Văn tướng quân không cần đa lễ!” Khánh Kỵ vội đáp lễ, hỏi tiếp: “Văn tướng quân, dụng ý lần này Khánh Kỵ đến đây chắc là Thiếu Bá đã kể với ông, không biết tình hình Dĩnh Đô giờ thế nào rồi? Sở vương hiện nay đang ở đâu?”

“Điện hạ, Thiếu Bá, mời vào sơn động phía trước nói chuyện.” Văn Chủng lộ thần sắc ảm đạm, lắc đầu xua tay, dẫn hai người đi vào một sơn động gần đó, trong sơn động đang nhóm một đống lửa, Văn Chủng thở dài: “Văn Chủng liệu chắc sẽ có trung thần nghĩa sĩ nghe tin Dĩnh Đô gặp nạn, dẫn quân đến cần vương, nên mới phái người đón chặn ở các ngả, không ngờ…người đầu tiên đợi được đến đây, lại là Thiếu Bá.”

Hắn nhìn Phạm Lãi khẽ mỉm cười, hai người này đã là tri kỉ nên hiểu ý nhau, tiếp tục: “Không cần đi Dĩnh Đô nữa, Dĩnh Đô giờ đã…đã bị quân Ngô chiếm đóng rồi.”

Câu này vừa nói ra, Phạm Lãi và Khánh Kỵ thất kinh hồn vía, buột miệng cùng hỏi: “Vậy đại vương (Sở vương) có an toàn không?”

Văn Chủng vội trấn an: “Điện hạ và Thiếu Bá không cần lo lắng, đại vương đã rời khỏi Dĩnh Đô, theo tình hình ta biết được, chắc là được Phí Vô Cực hộ tống đi về hướng Tùy quốc rồi, lúc đó khắp thành hỗn loạn, đợi khi Văn Chủng triệu tập người ngựa đuổi theo, đường đi đã bị quân Ngô chặn mất, không còn cách nào khác đành phải rút vào khe núi này rồi tính sau.”

Phạm Lãi và Khánh Kỵ cùng thở phào nhẹ nhõm, Văn Chủng căm hận nói tiếp: “Quân Ngô chiếm đóng Dĩnh Đô ta, tên Hạp Lư hạ lệnh cho binh sĩ mặc sức chém giết, hãm hiếp phụ nữ. Đám tướng lĩnh Ngũ Tử Tư và Bá đều chiếm cứ phủ đệ của công khanh đại thần Sở quốc ta, bắt phu nhân tì thiếp của họ hầu hạ, còn vơ vét hết của cải Sở quốc vận chuyển về Ngô, thân là đại phu Sở quốc, một trang nam tử hán, Văn Chủng mỗi khi nhớ tới những điều này đều cảm thấy ô nhục.”

Tội ác này là do Cơ Quang và Ngũ Tử Tư gây ra, nhưng Khánh Kỵ cũng là người Ngô, nghe Văn Chủng nói vậy có chút bất an, Phạm Lãi hiểu ý lập tức nói sang chuyện khác: “Bây giờ quân Ngô chiếm đóng Dĩnh Đô được mấy ngày rồi?”

“Ba ngày.” Văn Chủng đau lòng trả lời: “Hạp Lư vào ở trong hoàng cung, chiếm hết phi tần trong cung cho mình hắn hưởng dụng, các cung nữ thì ban thưởng cho tướng sĩ dưới trướng, hắn còn định lăng nhục hoàng hậu, hoàng hậu khóa chặt cửa phòng, cầm kiếm tự vệ, chửi cho hắn một trận te tua, tên tặc tử này xem ra vẫn còn biết xấu hổ, không xâm phạm hoàng hậu nương nương. Hừ! Giờ trong hoàng cung Sở quốc, duy chỉ có hoàng hậu là giữ được tấm thân trong sạch.”

Hoàng hậu của Sở vương tên là Mạnh Doanh, năm nay chưa tới ba mươi tuổi, vốn là công chúa nước Tần, là em gái của Tần vương hiện giờ, trước đây vốn định gả cho thái tử Hùng Kiện của Sở, Sở vương lúc đó là Hùng Cư thấy nàng xinh đẹp, là một gi­ai nhân tuyệt sắc nên si mê, lập nàng làm phu nhân, hạ sinh được một đứa con trai, chính là đương kim Sở vương hiện giờ.

Sau này đám người Phí Vô Cực, Nang Ngõa thành công hãm hại Ngũ gia, lấy lí do là Ngũ gia cấu kết với thái tử Kiện mưu phản, Ngũ gia bị diệt vong, Ngũ Tử Tư cùng thái tử Kiện chạy sang Trịnh quốc cầu xin Trịnh quốc xuất binh trả thù, rồi lại cổ vũ quyền thần của Trịnh tạo phản, thái tử Kiện bị giết, Ngũ Tử Tư lại chạy sang Ngô, hại chết Ngô vương Cơ Liêu từng thu nhận hắn, liên minh với Cơ Quang mang nặng dã tâm giúp hắn ngồi vào ngôi báu.

Cơ Quang đã nghe tiếng mỹ nhân tuyệt sắc này, nên vừa vào hoàng cung đã muốn thưởng thức hoàng hậu Sở quốc coi sao, ai ngờ cô nương này rất trung liệt, nàng bảo người hầu đóng chặt cửa, cầm kiếm trong tay đe dọa Cơ Quang: “Thiếp nghe nói thiên tử một nước là người cao quý, ăn không chung mâm, ngủ không chung giường với người khác, nay Ngô vương định phá bỏ phép tắc, quyết xông vào đây cưỡng ép ta, ta vì giữ danh tiết chỉ còn cách tìm đến cái chết.”

Hạp Lư không vì mấy câu chửi của hoàng hậu này mà khơi dậy lương tri, chỉ có điều Mạnh Doanh là em gái của Tần vương hiện giờ, Cơ Quang không muốn ép chết nàng kết oán với nước Tần, vả lại trong cung đâu đâu cũng là mỹ nhân, đâu cần thiết vì một hoàng hậu mà gây thù chuốc oán với Tần quốc hùng mạnh làm chi, nghĩ vậy Cơ Quang mới không làm liều. Những chuyện này xảy ra trong cung cấm Dĩnh Đô, chi tiết thế nào người của Văn Chủng phái đi dò la cũng không được rõ lắm.

“Nếu đã vậy, chúng ta chỉ còn cách đi Tùy quốc gặp đại vương, Phạm Lãi thông thạo địa hình Tùy quốc, bằng lòng đi cùng Khánh Kỵ vương tử, không biết ý điện hạ thế nào?” Phạm Lãi đề nghị.

Sở vương lánh nạn chạy sang Tùy quốc, mà người hộ tống lại là Phí Vô Cực, đại gi­an thần số hai của Sở quốc, hắn nắm giữ Sở vương chiếm trọn quyền lớn, Sở vương nhỏ tuổi e không đủ sức triệu tập các đội binh mã cần vương đánh về Dĩnh Đô. Khánh Kỵ vốn chỉ qua Sở xin trợ giúp, nay Phạm Lãi lại xem Khánh Kỵ như người cứu nước Sở thoát khỏi tai họa này, hy vọng sự xuất hiện của Khánh Kỵ khơi dậy niềm tin của Sở vương, để cho tên Phí Vô Cực chết nhát có đủ dũng khí đồng ý liên minh cùng đánh về Dĩnh Đô.

Khánh Kỵ nghe xong tình hình Sở quốc hiện nay thấm thỏm mừng thầm, hắn đến Sở xin giúp đỡ, vốn định chịu hy sinh một chút, cắt một vài mảnh đất đang tranh chấp ở biên giới hai nước làm thù lao cho Sở, nay người Sở bị Cơ Quang đánh cho thê thảm, giờ có chung kẻ thù với hắn, hắn đưa ra đề nghị liên minh, chắc người Sở mừng còn không kịp, còn bàn điều kiện chia đất gì ở đây nữa, nếu có điều kiện gì chắc cũng không đến nỗi nào.

Tiếc là thời đó tin tức không cách gì truyền đi nhanh chóng, Khánh Kỵ có thể nhân lúc chủ lực của Ngô đang tập trung đánh Sở, lập tức dẫn quân đánh về nước nhanh chóng chiếm lấy Cô Tô thành Ngô quốc, nhưng cách này không ổn, hai cánh quân của Khánh Kỵ một ở Vệ quốc, một ở Lỗ quốc, truyền mệnh lệnh về rồi chọn ngày khởi binh, không biết phải tốn bao nhiêu thời gi­an, ai biết được trong khoảng thời gi­an này chiến sự ở Sở có gì thay đổi không? Nếu đại quân của Cơ Quang bất ngờ rút về thì Khánh Kỵ không những không tận dụng được thời cơ, mà kế hoạch phạt Ngô khổ tâm gầy dựng bao lâu nay sẽ tan theo mây khói.

Hơn nữa Khánh Kỵ quá hiểu con người Cơ Quang, hắn tuy đem theo cả hai trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá tiến đánh Sở quốc, như đã dốc toàn lực ở Ngô, nhưng theo Khánh Kỵ biết, phía Bắc có một Khánh Kỵ đại nạn không chết, phía Nam có một Việt quốc lăm le dòm ngó, Cơ Quang tuyệt đối không bỏ mặc Ngô quốc không ai canh giữ đâu.

Em trai của Cơ Quang là Phù Khái, võ dũng không thua gì Khánh Kỵ, lần này không theo huynh trưởng xuất chinh, mà ở lại trấn giữ biên giới Ngô, Việt, còn con trai của Cơ Quang là Phù Sai nữa, hắn chỉ nhỏ hơn Khánh Kỵ một tuổi, lần này Cơ Quang phạt Sở, thái tử Phù Sai trấn giữ Cô Tô thành, hai người này chắc giữ liên lạc mật thiết với Cơ Quang, cảnh giác cao độ về phía Vệ quốc, nếu giờ Khánh Kỵ xuất binh tập kích, mấy vạn đại quân vừa khởi hành, Cơ Quang chắc chắn nhận được tin báo rút đại quân về tiếp chiến. Vì thế việc liên minh với Sở là điều nên làm, với lại Cơ Quang gây nhiều tội ác tại Dĩnh Đô, cơ hội liên minh thành công là rất lớn.

Khánh Kỵ mỉm cười đắc ý: “Thiếu Bá, Khánh Kỵ nhất định phải đi Tùy quốc, nhưng Cơ Quang giờ chiếm đóng Dĩnh Đô, tướng sĩ Sở quốc mất hết sĩ khí chiến đấu, Sở vương nhỏ tuổi, e khó ra lệnh cho các công khanh khắp nơi cần vương hộ giá. Khánh Kỵ mạo muội cho rằng chuyến đi Tùy quốc là bắt buộc, nhưng đánh về Dĩnh Đô cần nhiều phía giúp sức, hai vị là đại phu của Sở, chẳng lẽ chỉ biết dựa vào mấy trăm binh lính bên mình thôi sao?”

Phạm Lãi và Văn Chủng đều một lòng báo quốc, nhưng thân phận thấp hèn, chức quan nhỏ bé, đâu đủ uy danh hiệu triệu lê dân, cũng không thể ra lệnh các công khanh giúp sức, ngoại trừ dẫn theo mấy trăm binh sĩ huyết chiến sa trường còn làm được gì nữa?

Hai người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu tâm ý của Khánh Kỵ, cũng là Phạm Lãi phản ứng lanh lẹ, ánh mắt chớp nhẹ, quay sang Khánh Kỵ hỏi: “Thế điện hạ có cao kiến gì? Xin được nghe chỉ giáo.”

Dịch giả nói thêm: Trong chương này các bạn đã biết quân Ngô với năm vạn năm ngàn quân công phá thành công Dĩnh Đô của Sở, họ thành công vì có được tấm bản đồ da dê mà Yểm Dư, Chúc Dung cố tình bỏ lại. Xin nói rõ chiến tích vẻ vang này của quân Ngô là có thật trong lịch sử, cả việc trả thù của Ngũ Tử Tư và Bá (Ngũ Tử Tư đào mộ Sở Bình Vương đánh xác hắn ba trăm roi). Chỉ là có vài chỗ hư cấu, người chỉ huy trận chiến này không phải là Cơ Quang mà là Tôn Vũ, cũng không hề có bản đồ da dê nào ở đây cả, số quân cũng ít hơn, chỉ với ba vạn quân Ngô, Tôn Vũ đánh bại được hai mươi vạn liên quân của Sở và các nước phụ thuộc, trận huyết chiến diễn ra ba ngày ba đêm, nói vậy để các bạn hiểu Tôn Vũ là bậc thầy quân sự tài giỏi cỡ nào.

Về tài huấn luyện binh mã của Tôn Vũ có một câu chuyện sử sách ghi chép rất thú vị. Năm xưa khắp triều thần không ai xem trọng tài năng quân sự của Tôn Vũ, Tôn Vũ tự tin bảo ngay cả nữ nhân cũng huấn luyện được thành đội quân tinh nhuệ, Hạp Lư cùng các đại thần không tin (vì thời phong kiến mà, nữ nhân chỉ để làm việc nhà, hầu hạ phục vụ giải trí cho nam nhân thôi, hí hí…), Hạp Lư gi­ao cho Tôn Vũ sáu trăm cung nữ, do hai ái phi của mình làm đội trưởng, bảo hãy huấn luyện họ coi sao, Tôn Vũ bắt đầu công tác huấn luyện, giảng giải đội hình tiến lui công thủ một cách tỉ mỉ, đám cung nữ đứng cười khúc khích không nghe theo, Tôn Vũ giảng đi giảng lại ba lần vẫn thế, bèn bảo: “Quân lệnh phải nghiêm, thuộc hạ không tuân lệnh, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.” Tôn Vũ hạ lệnh chém đầu hai ái phi của Hạp Lư ngay tại chỗ, Hạp Lư can ngăn cũng không được, đám cung nữ thấy vậy nghe theo răm rắp, chỉ hai ngày sau, một đội quân cung nữ tinh nhuệ tiến lùi công thủ đâu vào đó. Tài năng quân sự của Tôn Vũ từ đó được chứng minh, ở đây tớ còn muốn nói thêm binh pháp Tôn Tử ba mươi sáu kế nhưng nói hết chắc vài chục trang, nên thôi, sau này mình kể từ từ ở các chương truyện sau.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 185: Thuyết phục (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Nước Tùy vốn là nước chư hầu mang họ Cơ, từ ban đầu khi Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lật đổ vua Trụ diệt nhà Thương lập ra triều Tây Chu, vương triều Tây Chu vì muốn trấn thủ và mở mang ranh giới, khống chế hậu duệ của nhà Ân Thương, liền phong thân tộc đi khắp thiên hạ, lúc đó từ thượng du sông Hoài đến trung du sông Hán những nước chư hầu được phong đất mang họ Cơ có tới hơn mười nước, tạo thành một tập đoàn phong quốc khổng lồ họ Cơ, tạo thành hình tam giác, phụ trách giám thị và ngăn chặn liên minh của Kinh Sở, Hoài Di và Bách Việt.

Nước Tùy vốn đất phong rộng lớn, quốc lực cường thịnh, từng nhiều lần tranh phong với Sở quốc mà không chịu thua kém. Nhưng mà nhiều năm qua đi, những nước họ Cơ năm đó thụ phong nhận trách nhiệm giám thị Kinh Sở càng ngày càng yếu đi, những chư hầu vốn là có quyền giám thị giờ lại trở thành nước phụ thuộc vào Sở. Nước Tùy cũng không phải ngoại lệ, hiện giờ đã hoàn toàn bị Sở khống chế.

Tiểu Sở Vương chạy trốn sang nước Tùy, đang lúc hoảng sợ, bên người lại chỉ mang theo hơn hai ngàn giáp sĩ, nhưng mà nước Tùy cũng không dám có chút bất kính với hắn. Ở trong mắt người nước Tùy, quân Ngô mặc dù đánh vào Dĩnh Đô, cũng không thể chiếm lĩnh được cả lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, không bao lâu sau, bọn họ chắc chắn phải lui về Ngô quốc. Dĩnh Đô mặc dù bị phá, nhưng mà thực lực nước Sở lại căn bản chẳng bị hao tổn gì cả, đến lúc đó khống chế cả một vùng rộng lớn vẫn là Sở Vương.

Cho nên mặc kệ là trong lòng suy nghĩ thế nào, ở mặt ngoài bọn họ vẫn y theo lễ bề tôi mà đối đãi Sở Vương. Vì sự an toàn của Sở Vương, còn giúp bọn hắn trốn trong một khe cốc bí ẩn gần sông sâu núi cao. Nếu không phải Văn Chủng là một vị hạ tướng quân đóng ở Dĩnh Đô, Sở Vương cùng Phí Vô Cực lại bỏ chạy từ cổng thành nơi hắn đóng chạy về phía Tùy quốc, thì hắn cũng không thể nào biết được vị trí trú ẩn chuẩn xác của Sở Vương.

Sơn cốc ở đây tên là Cửu Phượng cốc, ở bên bờ một dòng sông lớn, núi chập trùng vây quanh, hiểm trở hùng vĩ. Nước sông xanh biếc uốn lượn theo chân núi, cây rừng trùng điệp quanh chân núi phản chiếu xuống lòng sông, phong cảnh tuyệt đẹp, hoàn toàn không nhìn thấy một chút không khí khẩn cấp nào của chiến tranh.

Khánh Kỵ cùng Phạm Lãi mang theo mấy trăm binh sĩ, tránh đi đạo nhân mã cảnh giới của quân Ngô quanh Dĩnh Đô, đi đường vòng chạy tới Tùy quốc, sau đó dưới sự dẫn đường của người Tùy đi vào Cửu Phượng cốc. Ở chân núi còn có thể nhìn thấy ba thiếu nữ Miêu ngồi dưới dòng sông trong vắt cười nói, các nàng cả đời ở đây, tựa hồ từ bé tới giờ chưa từng nhìn thấy đội quân hơn trăm người như vậy, khi thấy bọn họ đi qua, đều dùng ánh mắt kinh ngạc nhìn bọn họ.

Ánh mắt của các nàng vô cùng ngây thơ chất phác, không hề có tâm cơ, nhìn thấy một đội quân xa lạ, nhìn thấy nhiều nam nhân như vậy, lại hoàn toàn không có ý tứ đề phòng cùng sợ hãi, giống như những chú chim sống trong rừng lâu năm chưa từng nhìn thấy nhân loại, cũng không hề có tâm sợ con người, khiến cho Khánh Kỵ nhìn thấy mà dâng lên cảm xúc trong lòng, hắn không hy vọng chiến hỏa sẽ lan đến nơi này, thương tổn đến bầu không khí tinh thuần cùng những con người trong vắt như nước suối nơi đây.

Mọi người đi tới bên ngoài một khe núi sâu cỏ cây xanh ngắt, cửa khe núi liền xuất hiện những sĩ tốt thần sắc khẩn trương cảnh giác ngăn lại dò hỏi. Tuy rằng nhìn thấy đạo nhân mã này đều mặc quân phục nước Sở, nhưng mà bọn họ bây giờ như chim sợ cành cong không dám sơ suất, tới khi Phạm Lãi xuất ra ấn tín chứng minh thân phận của mình, những binh lính này mới buông lỏng cảnh giác, nhưng vẫn cưỡng chế mấy trăm sĩ tốt Phạm Lãi mang đến cần vương đứng chờ ở ngoài sơn khẩu, chỉ cho phép mấy người Phạm Lãi đi vào.

Khánh Kỵ vẫn chưa biểu lộ thân phận của mình, chỉ đi theo sau Phạm Lãi vào trong núi, trước sau bọn họ có hơn mười thị vệ Sở Vương áp giải. Tiến vào sơn khẩu, Khánh Kỵ liền phát hiện ra địa hình bên trong cốc còn hiểm trở hơn cả bên ngoài, mọi người chỉ có thể xếp thành hình rắn, dọc theo đường núi gập ghềnh mà leo lên phía trước. Ở phía sau sơn cốc lại là những dãy núi um tùm, trốn ở đây đúng là rất an toàn. Cho dù quân Ngô có nghe được tin tức phái đại quân tới công, cũng chắc gì đã công tới được, mà cho dù có công tới được, Sở Vương cũng có thể trốn vào trong rừng cây, không thể nào tìm ra được.

Thế núi dốc đứng, vách đá cao ngất, đỉnh núi trùng điệp, vách núi như gọt, ở hai bên núi đá có nhiều cây dây leo rối rắm vô cùng khó gỡ. Chim chóc hót vang, trong bụi cỏ thi thoảng có thỏ hoang, gà lôi kinh hoảng chạy xẹt qua, thỉnh thoảng còn có mấy con rắn độc quấn lấy thân cây, lè lè lưỡi ra với bọn họ.

Mọi người vô cùng cẩn thận, qua hơn nửa canh giờ mới đi qua được sơn cốc, đi tới một vùng bằng phẳng ở lưng chừng núi, phía trước có người tới chào đón, hỏi rõ thân phận lập tức chạy về báo tin. Chỉ một lát sau, một vị đại phu hông đeo trường kiếm, tuổi chừng năm mươi dẫn theo vài tên binh lính chạy tới, nhìn thấy Phạm Lãi, liền kiêu căng đứng lại, hỏi: “Bốc doãn Quan Tòng ở đây, là ai tới cần vương?”

Bốc doãn, là chức quan quản lí việc bói toán cát hung, chức vị trên Phạm Lãi, Phạm Lãi vội vàng tiến nhanh tới bái kiến: “Huyện tư mã Phạm Lãi, bái kiến Bốc doãn đại nhân. Hạ quan nghe nói quân Ngô công phá Dĩnh Đô, Đại vương phải di chuyển đi, cho nên dẫn theo ba trăm binh sĩ bản bộ tới cần vương hộ giá.”

“Chỉ có ba trăm người thôi sao?” Nghe nói chỉ là một vị Huyện tư mã, so với Huyện doãn còn kém hơn một bậc, hơn nữa chỉ dẫn theo có ba trăm người, không khỏi thất vọng, xua tay nói: “Biết rồi, Đại vương dọc đường kinh hoảng, thân thể không khỏe, không gặp ngươi được, mang theo nhân mã bản bộ của ngươi đóng cùng trong sơn khẩu, chốc nữa Tử Tây tướng quân sẽ tới tiếp kiến ngươi, an bài nhiệm vụ cho ngươi. Chúng ta đi vội, lương thực người Tùy cho lại có hạn, quân nhu của quân ngươi, nên tự mình tìm biện pháp, cũng may núi này có rau rừng quả dại, chim bay cá nhảy…”

Vẻ mặt Phạm Lãi hơi ngây ra có chút bất đắc dĩ: “Bốc Doãn đại phu không cần lo lắng, việc cấp dưỡng hạ quan sẽ tự lo liệu. Hạ quan đến lần này, còn mang theo một nhân vật trọng yếu, cần phải Đại vương tự mình tiếp kiến.”

“Ồ? Là nhân vật trọng yếu nào, còn cần Đại vương tự mình tiếp kiến nữa?” Vị quan đại phu kia kì quái hỏi, giống như lúc này hắn không phải là kẻ hoảng sợ chạy nạn tới vùng thâm sơn hoang dã này, mà dưới chân vẫn còn đang dẫm lên bậc thềm của Sở Vương cung vậy.

“Hồi bẩm Bốc doãn đại nhân, người đó là… Ngô quốc vương tử… Khánh Kỵ.”

“Cái gì?” Quan Tòng chấn động, thần sắc kiêu căng trên khuôn mặt liền trở thành hư không: “Ngô quốc Khánh Kỵ, hắn đến đây làm gì? Ách… hắn đang ở đâu?”

Khánh Kỵ thầm than trong lòng, cận thần bên người Sở Vương dù đang trong lúc chạy nạn, thế mà đối với quân đội cần vương vẫn còn kiêu căng như vậy, chẳng biết mời chào chút nào, bề tôi nước Sở há có thể không sinh oán thán? Hắn từ phía sau Phạm Lãi bước lên một bước, hơi chắp tay nói: “Quan đại phu, Khánh Kỵ ở đây.”

“A…, Khánh… Khánh Kỵ…, Quan mỗ không biết điện hạ giá lâm, thất lễ, thất lễ, điện hạ mau mau xin mời.” Quan Tòng nói năng lộn xộn, đồng thời bên dưới tay áo dùng tay ra hiệu, thị vệ thủ hạ của hắn nhanh trí thấy vậy thì quay người, vội vàng chạy về báo tin. Quan Tòng đối với vị vương tử từng là địch nhân, địch quốc, giờ lại trở thành cùng chung kẻ thù cũng không biết nên dùng thái độ nào đối đãi, cho nên khách khí vài câu, liền dẫn hắn đi tới một hang động bên trên sườn núi. Phạm Lãi chức vị thấp kém, chưa nhận mệnh lệnh cũng không tiện đi theo, đành phải đứng tại chỗ chờ. Khánh Kỵ đi theo Quan Tòng một đoạn về phía trước, còn chưa kịp tới cửa động giống như hình con dơi kia, bên trong đã có hai vị tướng quân ra nghênh đón. Hai người này đều trên dưới bốn mươi, dáng người cao gầy, khuôn mặt hẹp dài, lông mi thô ngắn, thân không mặc bì giáp, dưới sườn đeo kiếm, bộ dáng nghiêm túc vẻ mặt trang trọng.

Quan Tòng vừa thấy, vội vàng nghênh đón, nói: “Tử Tây tướng quân, Tử Kỳ tướng quân, vị này chính là Ngô quốc Khánh Kỵ vương tử.”

Hai người kia nhướng mi lên, hai mắt sáng ngời hữu thần đồng thời chú ý lên người Khánh Kỵ, hơi hơi chắp tay với hắn.

Hai vị này đều là con cháu trong Vương thất Sở quốc, vốn là tướng lãnh đảm nhiệm hai đội binh mã cung, thành. Phí Vô Cực thấy Nang Ngõa binh bại, liền về thành ép Sở Vương đi, hai vị tướng quân trung thành tận tâm này cũng dẫn thân binh theo hộ tống bọn họ một đường tới nơi này.

Khánh Kỵ đã nghe nói qua về danh tự của hai vị tướng quân này, song phương hàn huyên đôi câu, khi biết được mục đích đến của Khánh Kỵ, trên khuôn mặt hai người liền hiện lên vài phần ý cười, vẻ mặt cũng nhu hòa đi một chút. Khánh Kỵ theo hai vị tướng quân vào trong sơn động, chỉ thấy bốn vách tường cắm mấy ngọn đuốc, một phía trong động có một tảng đá nhô ra, bên trên lót vải lụa mỏng, một vị thiếu niên đầu đội vương miện ngồi ngay ngắn trên đó, đang mở to đôi mắt tò mò nhìn hắn. Đứng ở trái phải bên cạnh thiếu niên đó là hai người, người bên trái là một vị đại phu áng chừng năm mươi tuổi, đội mũ quan cao, thân hình cao lớn, sắc mặt âm trầm, bên môi là hai chòm ria ngắn, đang dùng một ánh mắt âm lãnh đánh giá hắn.

Khánh Kỵ nhìn hắn một cái, thầm nghĩ: “Người Sở xem trọng bên trái, hiện giờ Nang Ngõa đã chết, vị đứng ở bên trái Sở vương đích thị là đệ nhị đại gi­an thần nước Sở Phí Vô Cực. Về phần vị bên phải… chắc chắn là đệ tam đại gi­an thần nước Sở Yên Tương Sư không thể nghi ngờ.” Ánh mắt Khánh Kỵ đảo qua, thấy người bên phải mặc giáp trụ sáng choang, khoảng gần bốn mươi, làn da hơi tái nhợt, khuôn mặt tuấn lãng, chỉ có điều hai mắt dài nhỏ nửa đóng nửa mở, tựa hồ như một khe mắt chuyên dùng để nhìn trộm động tĩnh người khác, khiến cho người ta có chút không được thoải mái.

“Ngô quốc Khánh Kỵ tham kiến Đại vương!” Khánh Kỵ chỉ nhìn lướt qua, liền thu hồi ánh mắt, thi lễ với thiếu niên kia.

Tiểu Sở Vương tò mò nhìn hắn, trên khuôn mặt trắng hơi hơi hiện lên một chút kích động đỏ ửng: “Ngươi chính là vị lực nắm bò tót, tay bắt phi điểu Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ vương tử sao?”

“Khụ…!” Phí Vô Cực bên cạnh hơi hơi ho lên một tiếng, Sở Vương thần sắc sợ hãi, vội hỏi: “Khánh Kỵ vương tử mời bình thân.” Tuổi tác hắn dù còn nhỏ, nhưng mà cũng đã thành thục lễ pháp, có điều nhìn khí chất trên khuôn mặt, rõ ràng chỉ là bộ dáng của một hài đồng chưa rõ thế sự.

“Điện hạ từ xa tới gặp quả nhân, không biết là có dụng ý gì?” Sở Vương hỏi, không cầm lòng nổi lại liếc nhìn sang Phí Vô Cực bên cạnh vẻ mặt có vẻ thờ ơ không quan tâm, Phí Vô Cực khóe miệng nhếch lên, giống như có ý khen ngợi khẽ gật đầu.

Khánh Kỵ nói: “Ngô quốc Cơ Quang, hành thích vua rồi tự lập, đi ngược lại đạo quân thần. Khánh Kỵ ở Vệ quốc chiêu binh mãi mã, quyết chí thề giết Cơ Quang báo thù cho cha. Nay Cơ Quang phát binh đánh Sở, phá Dĩnh Đô, hủy xã tắc, bốn phía đốt giết đánh cướp, khiến cho Sở Vương điện hạ phải bỏ cung mà tị nạn đến tận đây. Đại vương cùng Khánh Kỵ chính là cùng chung mối thù, Khánh Kỵ lần này đến, là muốn cùng Sở vương điện hạ thương lượng đại kế chống Cơ Quang.”

“Ồ, Khánh Kỵ vương tử muốn cùng quả nhân chống lại quân Ngô?”

“Ồ, Khánh Kỵ vương tử muốn cùng quả nhân chống lại quân Ngô?”

Tiểu hài tử đối với nhân vật anh hùng đều có một loại sùng bái cùng tín nhiệm không giải thích được, Sở Vương nghe nói Khánh Kỵ tới là để giúp hắn đối kháng với Cơ Quang, dường như thoáng cái có người tâm phúc, không khỏi hơi quá mừng rỡ. Hắn lập tức ngẩng đầu nhìn sang Phí Vô Cực, môi mấp máy, nếu không nhìn thấy sắc mặt hắn có gì bất thường, thì sẽ lập tức đáp ứng luôn.

Ánh mắt Phí Vô Cực ép xuống, làm ngừng động tác của Sở Vương, ngoài cười nhưng trong không cười, nói: “Sở quốc ta hùng binh hơn mười vạn, đất đai mấy ngàn dặm, một Ngô quốc nho nhỏ, mặc dù dùng quỷ kế đánh vào Dĩnh Đô, lại há có thể lâu dài, sớm muộn gì cũng sẽ bị chúng ta đánh trở về Ngô quốc, vốn không cần phải mượn dùng ngoại lực. Khánh Kỵ vương tử năm trước còn từng lãnh binh phạt Sở ta, Cơ Quang hiện giờ là đại địch của nước Sở ta, điện hạ chẳng phải cũng là như thế sao? Điện hạ hiện giờ có mối thù tranh vương vị với Cơ Quang, muốn mượn lực Lỗ quốc ta để phạt Ngô phục quốc, chỉ có điều điện hạ dũng mãnh phi thường còn hơn cả Cơ Quang, ngày sau một khi phục quốc, Sở Quốc ta không phải còn tự tay tạo ra địch nhân cường đại hơn sao?

Hang động rộng rãi lạnh lẽo, thanh âm Phí Vô Cực to khác thường, hắn vừa nói, trong hang động âm thanh vang vọng khắp nơi, nghe âm vang hữu lực. Tử Tây, Tử Kỳ, Quan Tòng mấy vị đại phu bên cạnh nhe thấy vậy không khỏi hướng ánh mắt về phía Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ ung dung cười, hỏi: “Vị này, chắc hẳn chính là thái tử thiếu phó Phí Vô Cực Phí đại phu. Nước Sở thực lực hùng hậu, kiêu ngạo đóng ở Kinh Sở, các nước đều run sợ, Khánh Kỵ cũng tin rằng, với thực lực của Cơ Quang, không nuốt nổi gi­ang sơn nước Sở, hắn sớm muộn gì cũng sẽ phải lui về Ngô quốc. Nhưng mà, bằng lực lượng của chính Sở quốc, tới khi nào mới có thể bức cho Cơ Quang lui binh?

Không sai, Sở quốc có hùng binh hơn mười vạn, nhưng mà các vị có thể đem toàn bộ binh lực này vào trong chiến trận được sao? Mấy vạn đại quân giáp mặt đối chiến với quân Ngô đã thương vong thảm hại, tổn thất quá lớn. Hiện giờ không thể hợp thành quân, cần bổ sung quân số, chỉnh biên lại, muốn cho quân đầu nhập vào chiến trận sợ rằng cũng phải mất mấy tháng.

Phía Nam, có gần bảy vạn đại quân, trấn thủ các nước nhỏ Man Di phía Nam. Các quốc gia này trước nay nhanh nhẹn dũng mãnh, không cam lòng chịu phục tùng. Sở Vương tuổi nhỏ, bọn họ đã sớm rục rịch, gần đây lại nghe nói nước Sở đại bại, làm sao có thể không nảy sinh dã tâm? Nếu quân Sở rút lui để đánh đuổi quân Ngô, chỉ sợ sẽ là ‘cửa trước hổ đến, cửa sau sói vào’, các dân tộc Man Di phía nam sẽ đều dựng cờ tạo phản, ngày sau không biết phải tốn bao nhiêu binh mã, tiêu phí bao nhiêu thời gi­an mới có thể bình ổn lại.

Hơn nữa về phía Bắc, biên giới Tây Bắc nước Sở có mười vạn đại quân, lại càng không thể điều động. Man Di phía Nam, muốn tự lập, bằng lực lượng hùng hậu của Sở quốc sớm muộn gì cũng có thể chinh phục; Ngô quốc Cơ Quang, hành động này cũng chỉ là cường đạo muốn đốt giết đánh cướp, sớm muộn gì cũng phải lui về Ngô, cũng không có họa lớn như ở phương Bắc… đó là Tấn quốc dã tâm bừng bừng, thèm khát thiên hạ. Mưu đồ của Tấn quốc, chính là gi­ang sơn ngàn dặm, thống trị thiên hạ. Hơn nữa, một khi cho nó cơ hội, Tấn quốc hoàn toàn có năng lực có thể chiếm giữ Sở quốc, quân biên phòng một khi lui đi, Tấn quốc thừa dịp thành trống mà vào, thì ngay cả gi­ang sơn cũng không bảo toàn nổi. Về phần Khánh Kỵ, lúc trước chỉ là phụng mệnh mà hành sự, nay nếu kết minh cùng với nước Sở, là minh hữu với nhau, chuyện biên giới cũng không phải buông binh đao, cùng nhau bàn bạc giải quyết…”

Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, chặn lời hắn lại, nói: “Khánh Kỵ vương tử sao phải nói giật gân như vậy? Ngài cũng bảo Cơ Quang không phải là họa lớn với Sở quốc ta, Cơ Quang thân là quốc vương Ngô quốc, há có thể xa trung tâm lâu ngày? Cho dù chúng ta không phát đi người nào, Cơ Quang đương nhiên cũng sẽ phải thối lui…”

“Ha ha ha ha…” Khánh Kỵ bất ngờ cười ra tiếng, thanh âm của hắn còn vang dội hơn cả Phí Vô Cực, âm vang thật lâu trong hang động, lại bởi vì hang động khá sâu, tiếng cười của hắn như kéo dài liên tục, như tiếng sấm rền vang, Phí Vô Cực biến sắc quát to: “Ngươi cười cái gì?”

Khánh Kỵ khinh thường nói: “Ta cười các vị, co đầu rụt cổ như thế, hóa ra là có chủ ý như vậy. Không sai, Cơ Quang sớm muộn gì cũng sẽ đi, chờ cho hắn cướp sạch của cải Dĩnh Đô, chơi hết nữ nhân Dĩnh Đô, sẽ rời khỏi nơi đó, để lại một vùng phế tích cho các vị. Các vị lúc đó có thể vẻ vang trở về, tiếp tục quang vinh làm Đại vương các vị, làm công khanh đại phu các vị, thật sự là vô cùng vẻ vang!”

“Lớn mật!” Tử Tây, Tử Kỳ nghe vậy thì giận dữ, nắm lấy chuôi kiếm, trừng mắt căm tức. “Ngươi lại dám làm nhục quân thần ta như vậy!” Yên Tương Sư đôi mắt nghiêm nghị, cũng đã nổi lên sát khí.

Khánh Kỵ cười to nói: “Ta cũng chỉ là kể lại sự thực mà thôi, tại sao lại bảo là ô nhục? Ngay cả khi Khánh Kỵ có không nói, thì chẳng lẽ những nỗi nhục nhã mà Cơ Quang ném lên đầu các vị, có thể không bị người trong thiên hạ biết được sao?”

Tử Tây kinh nghi hỏi: “Ngươi rốt cuộc đang nói cái gì?”

Khánh Kỵ hừ lạnh một tiếng, lớn tiếng nói: “Các vị có biết, Cơ Quang tiến vào Dĩnh Đô, lệnh cho các tướng lãnh đại phu thủ hạ, theo đúng chức vị tôn ti, vào ở các công khanh phủ đệ Sở quốc, đem các kiều thê mỹ thiếp của chư vị công khanh đại phu làm đồ chơi cho mình? Các vị có biết, Cơ Quang đang đem tài phú tích lũy mấy trăm năm của Dĩnh Đô vận chuyển về nước Ngô? Các vị có biết, Sở quốc tông miếu, xã tắc đều đã bị hắn phá hủy, khiến cho thần linh của người Sở, tổ tông của Sở Vương không thể được hưởng cúng tế? Các vị có biết, Ngũ Tử Tư đã cho đào phần mộ của Sở quốc tiên vương, quất ba trăm roi vào xác của Bình Vương, đánh cho nát vụn, rải dưới ánh mặt trời? Các vị có biết những tướng sĩ Sở quốc chết trận, tất cả đều bị ném ra đồng hoang không được chôn cất, đều bị chó hoang cắn chim ưng mổ?

Nếu Sở Vương điện hạ dừng chân ở đây, lề mà lề mề kêu gọi các lộ binh lính trong nước cần vương để phạt Cơ Quang, thì khi nào mới có thể thành công? Thân là quân vương của một quốc gia, cũng là người che chở cho con dân của một quốc gia, chẳng lẽ Đại vương lúc này vẫn có thể nhàn nhã ở Cửu Phượng cốc, không để ý tới Cơ Quang đang hung ác bạo tàn ở Dĩnh Đô? Nếu không phát binh đánh đuổi Cơ Quang, uy phong của Sở quốc từ nay về sau sẽ bị quét sạch, ở trong thiên hạ, sẽ còn có chư hầu nào để các vị vào trong mắt? Hơn mười chư hầu phụ thuộc Sở quốc, sợ rằng đều sẽ đầu nhập vào Cơ Quang đó.”

Khánh Kỵ nói một phen, khiến cho những người nghe trong động ngây ra như phỗng, ngay cả sắc mặt Phí Vô Cực cũng đã tái nhợt, khóe mắt Tử Kỳ như muốn nứt ra, nói: “Ngươi… ngươi nói cái gì? Những điều ngươi nói, là… là thật sự?”

Những điều này, có một vài là Khánh Kỵ nghe từ Văn Chủng nói cho khi ẩn thân ở trong sơn cốc kia, một vài là nghe nói trên đường tới nước Tùy tìm Sở Vương, lại kết hợp với hiểu biết về lịch sử của hắn, đương nhiên biết những lời đồn này là thật. Khánh Kỵ nặng nề gật đầu một cái, cất cao giọng, nói: “Đương nhiên, theo ta đi cùng đến đây, có một vị Huyện tư mã đại phu Phạm Lãi, hắn cũng có thể chứng thực lời đó của Khánh Kỵ.”

Tử Kỳ hai mắt đỏ sậm, run giọng kêu lên: “Hạp Lư… Hạp Lư hủy tông miếu ta, hủy xã tắc ta, nhục tiên vương ta, ức hiếp gia thất ta, thù này không báo, bất cộng đái thiên! Đại vương, Đại vương, chúng ta muốn đánh về Dĩnh Đô, báo thù nỗi nhục này, nếu không ta còn mặt mũi nào mà sống ở đây nữa?”

Tử Kỳ ‘bịch’ một tiếng quỳ rạp xuống trước mặt Sở Vương, Tử Tây, Quan Tòng mấy tướng lãnh tất cả cũng đều quỳ xuống, thần sắc bi phẫn dâng trào. Sở Vương mặc dù tuổi nhỏ, cũng biết chính mình đã bị nhục nhã đến như thế nào, mắt hắn rưng rưng, khóc lóc hỏi: “Khánh Kỵ vương tử, mẫu hậu của quả nhân… Mẫu hậu vẫn khỏe chứ?”

Khánh Kỵ chắp tay vái hắn, cung kính nói: “Mạnh Doanh vương hậu tự thủ trinh tiết, cầm kiếm đóng cửa cung lấy cái chết đe dọa, Cơ Quang ngại gây thù kết oán với Tần quốc, không ám vào cung ép buộc, cho nên vương hậu vẫn bình yên vô sự.”

Khóe mắt hắn hơi hơi nhìn thoáng qua những quần thần nước Sở đang quỳ xuống, nhẹ nhàng thở dài nói: “Trên dưới Dĩnh Đô, cũng chỉ còn một mình vương hậu là bảo vệ được trong sạch…”

Mọi người nghe thấy vậy, tim như bị đao cắt. Văn hóa nước Sở, hết lòng tin rằng người chết vì quỷ, thi hài xuống đất là bình an. Nhục nhã thi thể, chính là tội đại bất kính. Mà Cơ Quang đám người còn y theo chức vị vương hầu công khanh, vào ở trong phủ đệ Sở quốc quân thần, vào trong tận nhà, ngủ với thê thiếp. Những vị công khanh đại phu hoảng loạn bỏ trốn chưa kịp mang theo gia quyến giờ nhớ tới tình hình trong nhà ở Dĩnh Đô, đều tức giận chỉ muốn xông lên.

“Đại vương, nhanh chóng triệu đội quân cần vương, đánh về Dĩnh Đô đi, nếu cứ chờ cho quân Ngô tự thối lui, thì quân thần chúng ta còn mặt mũi nào mà trở về Dĩnh Đô?”

Sở Vương bị quần thần kêu gọi, nhất thời không có chủ ý gì, đôi mắt trông mong nhìn về phía Phí Vô Cực, Yên Tương Sư bên cạnh ho nhẹ một tiếng, chắp tay nói: “Đại vương, người nước Ngô hủy hoại xã tắc tông miếu của ta, thù này bất cộng đái thiên. Đại vương nên phái đi tín sức, triệu tập các lộ quân đội cần vương đến cùng bàn đại kế. Về phần kết minh với Khánh Kỵ vương tử, thần nghĩ Đại vương nên mệnh cho thái tử thiếu phó Phí đại phu bàn bạc chi tiết thêm với Khánh Kỵ vương tử, rồi bẩm tấu cho Đại vương định đoạt.”

Sở Vương vừa nghe thấy vội nói: “Không sai, Khánh Kỵ vương tử, Dĩnh Đô, quả nhân nhất định phải đánh trở về, không rửa sạch nỗi nhục này, quả nhân sẽ thẹn với thiên hạ. Về phần kết minh song phương giữa chúng ta, vương tử có thể thương nghị tỉ mỉ với Phí thiếu phó, rồi nói lại với quả nhân để quân thần nghị luận.”

“Khánh Kỵ tuân mệnh!” Khánh Kỵ vái chào thật sâu, chuyển mắt nhìn sang Phí Vô Cực…

Trên sườn núi, Khánh Kỵ sóng vai đứng cạnh Phí Vô Cực, trong sơn cốc ẩn hiện có lá cờ phiêu động, đó chính là địa phương mà quân Sở đóng quân.

“Phí thiếu phó, đã ở trước mặt rồi thì không nói lời giả, nơi này cũng chỉ có ta và ngài, Khánh Kỵ muốn thẳng thắn thành thật, có vài lời muốn nói cho thiếu phó biết.”

“Điện hạ mời nói.” Phí Vô Cực sắc mặt âm trầm, vui buồn không hiện lên trên mặt, nhìn không ra tâm ý đích thực của hắn.

“Phí thiếu phó, chúng ta có cùng địch nhân, trong tay Khánh Kỵ hiện tại có ba vạn tinh binh, hơn nữa nếu đối địch với quân Ngô, dựa vào thân phận của Khánh Kỵ cùng uy vọng trong quân Ngô lúc xưa, thiếu phó nên biết Khánh Kỵ sẽ có tác dụng lớn đến thế nào. Nước Sở hiện giờ thật sự không cần hợp tác với Khánh Kỵ sao?

Phí thiếu phó, Nang Ngõa nắm giữ quân sự và chính trị nước Sở hơn mười năm, gây ra rất nhiều thù oán, hiện giờ quân Ngô đánh vào Dĩnh Đô, quân Sở đại bại, ngay cả Sở Vương cũng phải chạy sang nước Tùy tị nạn. Nhìn khắp các nước lớn trong thiên hạ, còn chưa từng có quốc gia nào xảy ra chuyện thủ đô bị đánh phá, quốc quân phải bỏ chạy thảm hại như vậy. Chưa nói tới việc nước Sở sau này làm sao tìm được chỗ đứng trong thiên hạ chư hầu, bây giờ ngay cả những quần thần bên trong nước Sở phải làm sao để ổn định được sự phẫn nộ của quần chúng còn chưa biết. Hết thảy những điều này, hiện giờ còn chưa có thời gi­an để phân tích kĩ, sau khi Cơ Quang lui binh, đương nhiên sẽ phải tính toán rành mạch.

Nang Ngõa đã chết, thiếu phó nghĩ rằng có thể đổ hết mọi tội lỗi lên đầu Nang Ngõa sao? Đừng quên, thiếu phó cùng Yên Tương Sư, ngày xưa qua lại thân mật với Nang Ngõa, cùng tiến cùng lui, trên dưới nước Sở ai mà chẳng biết? Nếu như thiếu phó không lập được công trong trận chiến đuổi Ngô này, thiếu phó nghĩ rằng sau khi trở về Dĩnh Đô, địa vị của ngài sẽ còn vững chắc như thế này sao? Nhưng mà thiếu phó nếu trong trận chiến này lập công lớn, khi đó mọi người sẽ đều trọng vọng ngài, cũng thay thế vị trí Nang Ngõa, trở thành Sở quốc Lệnh Duẫn, đó là chuyện rất hợp lí lẽ. Khánh Kỵ muốn kết minh với Sở Vương, tất nhiên là cũng có tư tâm, với Sở quốc, với thiếu phó ngài, không phải cũng là một cơ hội hay sao?”

Phí Vô Cực ánh mắt chợt lóe, hồi lâu mới nói: “Nếu muốn kết minh, không phải không thể. Lão phu có năm vấn đề, nếu điện hạ có thể khiến cho lão phu hài lòng, lão phu liền sẽ dốc sức thúc đẩy nước Sở kết minh với điện hạ, cùng chiến đấu với quân Ngô!”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 186: Thiên hạ náo nhiệt (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Phí Vô Cực nói: “Cơ Quang ở Dĩnh Đô ta gây nhiều việc ác, phàm là người nước Sở, ai cũng nghiến răng thống hận, các đội quân cần vương từ các nơi đang lần lượt tới rồi, chờ đại quân tập hợp, tất sẽ thề sống chết một trận chiến, đuổi bọn giặc Ngô. Điện hạ cùng người Sở ta cùng chung mối thù, cũng có đại cừu hận với Hạp Lư, có một số việc, ta cũng không cần phải giấu diếm ngài. Thái hậu của quốc vương nước Sở ta là trưởng công chúa của nước Tần, trước khi lão phu bảo hộ Đại vương tới tránh ở Cửu Phượng cốc, đã điều đại phu Thân Bao Tư sang nước Tần cầu viện, nếu nước Tần chịu xuất binh tương trợ, hợp với lực lượng quân Sở, cũng đủ để đuổi đi quân Ngô. Nay lại kết minh với công tử, lại càng thêm nhiều viện trợ, chỉ có điều không biết đại quân của công tử khi nào thì có thể tới Sở quốc?”

Khánh Kỵ thầm nghĩ, Phí Vô Cực nói tin tức hắn sai sứ sang Tần cầu viện binh, là muốn tăng thêm cân lượng, tranh thủ thêm được nhiều lợi ích, chỉ có điều không biết hắn muốn nhiều ít bao nhiêu. Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư ba người, đều nổi danh lòng tham không đáy, nếu là đòi ưu đãi cho cá nhân thì chẳng sao cả, chỉ sợ là có thêm yêu cầu về đất đai lãnh thổ, thì đó là vô cùng khó xử.

Khánh Kỵ đề khởi tinh thần, cẩn thận nói: “Không dối gạt Phí thiếu phó, Khánh Kỵ trước khi tới đây, cũng đã có chuẩn bị, sớm ấn định cho dù có tương trợ cho nước Sở hay không, đều phải tháng ba năm sau xuất binh phạt Ngô. Nay đã kết minh với nước Sở, ngày xuất binh đương nhiên càng sớm càng tốt, chỉ cần chính thức kí kết minh ước với Sở vương, có được ấn tỷ (đóng dấu) của Sở vương, Khánh Kỵ lập tức sẽ sai người điều binh, trong vòng hai mươi ngày, đại quân tiên phong của ta sẽ tới trước mặt thiếu phó.”

” Tốt!” Phí Vô Cực ánh mắt sáng ngời, người Tần có chịu xuất binh hay không, trong lòng hắn thực không nắm chắc, hiện giờ đã có Khánh Kỵ tự mình đưa đến cửa, hắn cũng sẽ không nguyện ý cự tuyệt sự giúp đỡ cường đại này ngoài cửa, hai người đều có mưu mô, hắn lại hỏi: “Hai quân kết minh, kề vai chiến đấu, cũng cần phải có một vài hiệu lệnh thống nhất, cùng tiến cùng lui, thống nhất quản lí. Nếu không có sự chi phối, sẽ không khác gì năm bè bảy mảng. Tới khi… đại quân song phương hội hợp, ai sẽ là chủ soái thống lãnh toàn quân?”

Khánh Kỵ mỉm cười, thong dong đáp: “Khánh Kỵ mang danh vũ dũng, có điều do thân là vương tử Ngô quốc, nên những thủ hạ cứ cố tình thổi phồng ra mà thôi. Còn nữa, một kẻ vũ dũng cũng không nhất định có thể làm Thống soái ba quân, đã tác chiến ở nước Sở, đương nhiên phải lấy quân Sở làm chính. Về phần chọn người nào làm Thống soái ba quân, Khánh Kỵ nghe theo an bài của Sở Vương điện hạ.”

Phí Vô Cực âm thầm thở phào nhẹ nhõm, danh vũ dũng của Khánh Kỵ truyền khắp thiên hạ, chính mình xưa nay cũng không sở trường về chính trị, nếu để Khánh Kỵ đảm nhận Thống soái toàn quân, đó cũng là điều mọi người hướng tới, có điều công lao của mình lại vơi đi phân nửa. Hắn muốn nghe theo an bài của Sở Vương, he he… Về phía Sở Vương còn không phải do tự ta định đoạt hay sao.

Nghĩ đến đó, trên khuôn mặt Phí Vô Cực lộ ra vẻ vui vẻ, trước tiên giải quyết ích lợi cá nhân, sau đó hắn mới bắt đầu suy nghĩ chỗ tốt cho nước Sở, trầm ngâm một lát rồi nói: “Đã kết minh, đương nhiên phải cùng tiến cùng lui, trợ giúp lẫn nhau. Chỉ có điều… Một khi đuổi quân Ngô ra khỏi biên giới, quân Sở ta có còn phải nhận nghĩa vụ trợ giúp điện hạ phục quốc không?”

Khánh Kỵ xúc động nói: “Điều này cũng không nhất định, có thể đánh bại quân Ngô, khiến cho danh vọng của Cơ Quang bị đè xuống, mất đi quân uy, đối với Khánh Kỵ mà nói, đã là một sự trợ giúp rất lớn. Nếu có một đội quân nhân nghĩa của nước Sở tương trợ phục quốc, đương nhiên là chuyện tốt cầu còn không được. Có điều trong lòng Khánh Kỵ cũng hiểu được, Ngô Sở bởi vì những năm qua tranh giành đất đai, lẫn nhau có nhiều khúc mắc, trên chiến trường chém giết giữa các sĩ tốt khó tránh khỏi kết thù kết oán, nếu cưỡng ép quân Sở giúp ta phạt Ngô, chỉ sợ các tướng sĩ cũng sẽ không hết mình. Còn nữa, phía Sở nếu chịu cắt quân trợ giúp, chỉ sợ các tiểu quốc phụ thuộc cũng sẽ rục rịch, lại cần đại quân trấn áp, mượn quân Sở mà phục nước Ngô… Khánh Kỵ sẽ không đề ra yêu cầu quá mức này.”

“Ồ…” Một khi đuổi được Cơ Quang khỏi biên giới, điều Phí Vô Cực để ý chỉ là giúp Sở Vương về Dĩnh Đô, mượn danh Sở Vương phong thưởng bốn phương, khiến cho những thân tín của mình đều thay thế cho người của Nang Ngõa, từ lão Nhị nhảy lên thành lão Đại, nếm thử hương vị nở mày nở mặt. Giúp Khánh Kỵ phạt Ngô, cũng không có chỗ tốt nào, hắn cũng không muốn bị chuyện này ước thúc, nhỡ đâu chiến trận phạt Ngô kéo dài, chẳng phải cũng sẽ kéo theo mình mắc cùng một chỗ sao. Nếu Khánh Kỵ chỉ cần hắn ở trong biên giới Sở quốc mạnh mẽ đả kích lực lượng của Cơ Quang, vậy thì dễ dàng đồng ý rồi.

Khóe miệng Phí Vô Cực lộ ra một tia cười giả dối, nói: “Bốn đáp án này của điện hạ, rất hợp ý Phí mỗ, vẫn còn một chuyện cuối cùng muốn nói với điện hạ. Ngô Sở hai nước, mỗi bên chiếm cứ một phương, vốn bình an vô sự, chỉ có điều dân cư gia tăng, thành quách mở rộng, đồng ruộng rừng dâu cũng phải theo đó mà mở rộng, vốn ở giữa hai nước có những vùng hoang dã mênh mông không người ở, hiện giờ lại trở thành nơi bị tranh đoạt, thường xuyên xảy ra khiêu khích tranh chấp, chiến sự Ngô Sở hai nước, vốn là từ đó mà ra. Điện hạ nếu phục Ngô quốc, làm quân chủ Ngô quốc, sau này khi thứ dân hai nước lại nổi lên tranh chấp, thân là Ngô quốc Đại vương, điện hạ đương nhiên sẽ vì người nước Ngô mà phân xử, không thể để giữa Ngô và Sở lại nổi lên phân tranh. Hiện giờ điện hạ đã muốn kết minh với Sở quốc ta, chúng ta có nên nhân cơ hội này, phân chia rõ ràng vùng biên giới đang vướng mắc giữa hai nước hay không? Từ nay về sau hai nước hữu hảo, bình an vô sự, chẳng phải tốt sao?”

Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, hỏi: “Lời của thiếu phó rất đúng, chỉ có điều… Phân tranh biên giới hai nước đã tồn tại rất lâu, đúng đúng sai sai khó phân biệt, không biết theo thiếu phó thấy, những rừng núi ruộng đất vốn không rõ sở hữu bên nào, phải phân chia như thế nào đây?”

Phí Vô Cực cười nói: “Đang muốn thương lượng với điện hạ.”

Hắn rút kiếm ra, lưỡi kiếm chống xuống đất, hơi hơi suy tư một lát, liền nhanh chóng vẽ ra trên mặt đất một bản đồ xen kẽ, Khánh Kỵ thấy bản đồ đó, không khỏi thầm cả kinh, trong ấn tượng của hắn vẫn nghĩ rằng Phí Vô Cực đại gi­an thần này hoàn toàn là vuốt mông ngựa của Sở Vương và Lệnh Duẫn Nang Ngõa mới có thể có được quyền vị hôm nay, không thể tưởng được người này hóa ra cũng không phải chỉ là một thần tử a dua, hắn nếu không có chí lớn, quyết không thể nhớ được rõ ràng tỉ mỉ địa hình phức tạp của biên giới Ngô Sở như vậy ở trong đầu, Phí Vô Cực này, hóa ra cũng có chút bản lĩnh.

“Điện hạ mời xem, Hà Điền, Đào Hoa Trùng, Vụ Nguyên, Bình Hương…, những khu này, từ trước khi Vũ Vương điện hạ Sở quốc ta xưng vương, vào thời điểm tổ tiên họ Hùng vẫn còn là tử tước, đã có những người dân nước Sở đầu tiên của chúng ta khai hoang làm ruộng nơi đây, thành lập thành trấn, cách nay đã gần năm trăm năm lịch sử. Những địa phương đó, từ xưa đã có người Sở ta sinh sống, cư trú, là một bộ phận không thể phân tách khỏi ranh giới nước Sở, có điều nước Sở ta đối với khu vực này lại không thể tranh cãi được chủ quyền, hy vọng điện hạ sau khi phục quốc, có thể trả những lãnh thổ mà nước Ngô đang giữ lại cho quốc gia của ta, giải quyết những phân tranh nọ kia, Ngô Sở hai nước mới có thể thành hai nước huynh đệ, thiên thu muôn đời, vĩnh viễn kết tình hữu hảo.”

Chuyện khác đều có thể đáp ứng, chỉ có chuyện cắt đất chia đất, mặc kệ là lí do đường hoàng đến đâu, cũng tuyệt đối là một kẻ bại gia tử trong mắt tổ tông, kẻ bất lực trong mắt người đương thời. Khánh Kỵ nếu vừa mới phục quốc đã đem những vùng đất phì nhiêu này cho nước Sở, ở trong mắt người Ngô mình chẳng phải là một kẻ tiểu nhân vô sỉ bán đứng gi­ang sơn tổ tông để đổi lấy vinh hoa bản thân hay sao, hắn sao có thể đáp ứng yêu cầu của Phí Vô Cực.

Khánh Kỵ khi đến Sở tranh thủ kết minh, cũng không tránh khỏi có nghĩ qua phải làm một chút hi sinh nhượng bộ, bởi vì có vài nơi, vốn quả thật không thể nói rõ là ranh giới của ai, mặc kệ là khảo chứng kĩ càng đến đâu, cùng lắm cũng chỉ chiếm được một chút thanh danh đạo nghĩa, còn thực tế nắm quyền những nơi đó, vĩnh viễn đều phải dựa vào thực lực quân sự để nói chuyện.

Những khu này trong những năm gần đây song phương tranh đoạt, ngươi tới ta đi, ta tiến ngươi lui, dần dần hình thành một thế lực phân bố kiểu cài răng lược, rất nhiều khu vốn dĩ là do người Sở nắm giữ. Khánh Kỵ hiện giờ không có tấc đất nào thuộc về mình, thực lực hữu hạn, càng thêm lo lắng tình huống thực tế. Muốn trở thành một chính trị gia thành thục, phải suy xét đánh giá về thực lực chân chính của địch thủ, cân nhắc về lâu dài giữa hai bên, toàn bộ ích lợi được mất, mà sẽ không bởi vì một vài câu khẩu hiệu hay hô hào của dân chúng mà đưa ra quyết định trên chính trị. Những tiểu dân này đứng trên góc độ của bọn họ, cũng không biết chân tướng đứng sau màn, chỉ biết dựa vào một bụng khí phách mà nói ba hoa chích choè thôi, cũng chẳng có khả năng làm nên cái gì thực tế. Nhưng mà hiện giờ Sở quốc Dĩnh Đô đã bị quân Ngô chiếm lĩnh, hành động của Cơ Quang gây nên ở Dĩnh Đô, đã kết một mối thù khó giải với người nước Sở, người Sở nhất định phải có một trận chiến với Cơ Quang, dưới tình hình như vậy, Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nhượng bộ quá mức.

Khánh Kỵ lập tức chỉ vào những mảnh đất trên bản đồ mà hai bên vẫn đang đan xen nhau, nói: “Lời ấy của Phí thiếu phó sai rồi, từ cuối triều nhà Thương, Tây Kỳ Chu Thái Vương có con trai cả là Thái Bá, con thứ là Trọng Ung cùng con thứ ba Quý Lịch. Con của Quý Lịch là Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này, sớm thông minh trí tuệ, rất được Thái Vương sủng ái. Chu Thái Vương muốn truyền ngôi cho Xương, nhưng mà theo lễ pháp phải truyền ngôi cho con cả, Thái Vương bởi vậy mà buồn bực không vui. Thái Bá sau khi hiểu được ý tứ của phụ thân, liền cùng nhị đệ Trọng Ung lấy cớ đi hái thuốc cho cha cùng nhau đi vào Ngô quốc hiện nay, tự lập cơ nghiệp, thành lập nước cổ Câu Ngô. Sau khi nhà Thương diệt vong, Chu triều thành lập, Vũ Vương phong cháu thứ ba của Thái Bá là Chu Chương làm hầu, sửa quốc hiệu lại thành Ngô.

Mà Sở quốc tiên quân Hùng Dịch, lại là sau khi Chu triều thiên hạ thành lập, sau khi con của Vũ Vương lên kế vị, mới lấy thân phận tử tước tới Kinh Sở lập quốc. Lúc ban đầu lãnh thổ Sở có được không quá trăm dặm, cho đến sau này, mới dần dần lớn mạnh, có được quốc thổ rộng lớn hiện giờ. Ngô quốc ta thời gi­an thành lập còn sớm hơn Chu triều, dấu chân của người Ngô đã sớm bước qua những khu vực theo như lời Phí thiếu phó vừa nói, nếu truy theo nguồn gốc, những địa phương này toàn bộ đều vốn là của Ngô quốc ta.”

Phí Vô Cực không vui nói: “Lời đó của điện hạ không khỏi cưỡng từ đoạt lý, Ngô quốc lập quốc mặc dù sớm, nhưng lúc đó người nước Ngô còn thưa thớt, không có lấy một tòa thành lớn, cái gọi là quốc gia, vào lúc đó cũng chỉ là một vài bộ lạc lớn quần cư trên bình nguyên mà thôi.”

“Phí thiếu phó nói thế là sai rồi, nếu đã không được lấy thời gi­an làm chuẩn, vậy vì vùng đất cổ Tam Miêu này cũng là một vùng hoang dã chưa được khai phá, có phải là nếu Khánh Kỵ mang binh tới đó làm vài cái ruộng núi, chặt mấy cây đại thụ, là có thể cho rằng nó thuộc về Ngô quốc được luôn không?”

Hai người giương thương múa kiếm, tranh tới tranh đi, đều tự rút kiếm chỉ chỉ vẽ vẽ trên bản đồ, đến khi bản đồ đó bị vẽ đến mức bị phá thành mảnh nhỏ khó mà phân biệt, hai người liền đổi sang địa phương khác, Phí Vô Cực lại vẽ ra một bản đồ, hai người liền tiến hành tranh luận kịch liệt về mỗi một khoảng rừng dâu, mỗi một mảnh ruộng tốt, mỗi một tòa thành trấn.

Mặt trời chiều ngả về Tây, những đám mây đỏ hồng lơ lửng nơi chân trời, ánh tịch dương nhàn nhạt chiếu lên hai người trên sườn núi, vẽ ra hai cái bóng trên mặt đất, hai người còn đang bận tranh luận kịch liệt từng tấc đất, chỉ có điều thanh âm cả hai đã có chút khàn khàn.

Hôm sau, thời điểm mặt trời mới mọc, tiếng chim hót chào bình minh mới cất lên, Sở Vương lại tiếp kiến Khánh Kỵ, chính thức ký kết văn kiện kết minh với hắn. Văn kiện này một kiểu hai bản, viết lên lụa trắng, được hai người tự tay kí tên, đóng ấn tỉ của Sở Vương lên. Trong văn kiện viết vô cùng tường tận, những chữ nhỏ chi chít chẳng những viết rõ những quyền lợi, nghĩa vụ, lệ thuộc của song phương khi hợp binh phạt Ngô, cuối cùng còn tỉ mỉ viết rõ Khánh Kỵ một khi phục quốc, sẽ phải phân chia rõ ràng lãnh thổ với nước Sở.

Hôm qua, hai người Khánh Kỵ cùng Phí Vô Cực đối với từng khu đất mà hai nước đang tranh giành, biện luận phản bác về nguồn gốc sâu xa, văn hóa địa phương, kết cấu dân cư, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý cùng nhiều phương diện khác, nói đến mức yết hầu khô cong, cuối cùng đạt được ý kiến nhất trí. Đối với những khu này phải tiến hành rõ ràng, theo sự phân chia của hai nước thì khu vực mà hai bên nhận được trên cơ bản là chia đều. Có điều thực tế nước Sở đoạt được nhiều rừng dâu và đồng ruộng hơn, xem như là bồi thường, Phí Vô Cực cũng cắt một vùng lãnh thổ ở phía Tây Nam ráp gi­anh nước Việt cắt nhường cho nước Ngô.

Khu vực này còn chưa được khai phá, là một vùng rừng rậm nguyên thủy, mà những khu vực rừng dâu, ruộng tốt, theo cách phân chia thì phần lớn đều đem cho nước Sở. Bởi vậy mặc dù diện tích mà hai bên đoạt được là ngang nhau, nhưng mà bên phía Khánh Kỵ đoạt được không phải núi cao thì cũng là hồ nước, những mảnh núi rừng trùng trùng điệp điệp trải dài phía Tây Nam chưa được khai phá, hiển nhiên là rất thiệt thòi, cho nên Phí Vô Cực đắc ý dào dạt, đã liệt việc này vào một đại công trạng sau khi đuổi Cơ Quang đi sẽ xin Sở Vương ban thưởng.

Sau khi song phương kí kết minh ước, Khánh Kỵ lập tức phái người phi ngựa chạy về Vệ quốc điều binh, đồng thời lập ra kế hoạch quân sự tỉ mỉ với Sở Vương, sau đó trở về biên giới nước Sở tiếp ứng cho nhân mã của mình, Sở Vương cũng lập tức ban hạ hơn mười chiếu thư, phái bí sứ phân phó các nơi điều binh.

Khánh Kỵ cũng không vì có được liên hệ với thượng tầng nước Sở mà lạnh nhạt với Phạm Lãi, thậm chí hai ngày này cứ rảnh rỗi là đều ở một chỗ với hắn. Sau yến hội đơn sơ mừng minh ước song phương, Khánh Kỵ quay trở về doanh của Phạm Lãi, nói với hắn về chuyện kết minh với nước Sở hôm nay. Dẫn binh tới cần vương, cho tới nay cũng chưa được Sở Vương tuyên chiếu tiếp kiến nên Phạm Lãi cũng không có tư cách tham gia những hội nghị trọng yếu như vậy, mãi tới khi Khánh Kỵ nói ra, Phạm Lãi mới biết được Sở Vương đã kết minh với Khánh Kỵ, không khỏi vui mừng khôn xiết. Nhưng mà khi nghe Khánh Kỵ nói đến chi tiết minh ước, Phạm Lãi lại trầm xuống trong lòng, có một chút suy nghĩ nổi lên.

Đối với minh ước hợp binh ở phần trước, Phạm Lãi cũng không có ý kiến, nhưng mà đối với một đoạn cuối cùng, song phương phân chia rõ ràng biên giới, lại khiến cho Phạm Lãi âm thầm cảnh tỉnh. Những khu vực Ngô quốc tiếp nhận, đều là những cửa ải hiểm yếu thủy bộ, lại chẳng chiếm một chút tiện nghi nào về canh nông, nhưng mà trên mặt quân sự, một khi hai nước phát sinh xung đột, cũng là những khu vực hiểm yếu mà một ngàn binh có thể ngăn cản cả vạn binh.

Và mảnh đất cằn cỗi sỏi đá mà Sở quốc cắt ra cho Ngô quốc nhìn thì như hẻo lánh, cũng không có nhiều giá trị trồng trọt khai phá, nhưng đó lại là một thông đạo trọng yếu nối liền Sở Việt, về mặt quân sự có ý nghĩa trọng đại, thế lực Ngô quốc một khi mở rộng đến tận đây, sẽ có thể nắm gần như một nửa Việt quốc trong lòng bàn tay, mặc dù vẫn lưu lại cho Sở Việt một con đường eo hẹp, nhưng lúc nào cũng có thể phái binh phong kín.

Khánh Kỵ chính là bị Phí Vô Cực uy hiếp bức bách mới phải nhận, hay là còn có dụng ý gì khác? Dụng ý khác đó, là tính cho Ngô quốc hay Sở quốc? Hiện giờ hắn vẫn còn là một công tử lưu vong, Ngô quốc còn chưa nắm giữ trong tay, hắn đã tính toán lâu dài như vậy sao?

Phạm Lãi càng nghĩ càng cảm thấy kinh hãi, đến lúc Khánh Kỵ nói xong cảm giác không chịu nổi chếnh choáng, ngã luôn vào cái giường được làm bằng gỗ tùng của hắn, hơi hơi phát ra tiếng ngáy, Phạm Lãi mới khiếp hãi thanh tỉnh, bàn tay hơi nắm chặt lại, chạy ra ngoài hướng chỗ núi cao đi tới.

Tiếng ngáy của Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, con mắt nhẹ nhàng mở ra, hơi hơi lóe sáng, sau đó tiếng ngáy lại càng trở nên vang dội.

“Là Khánh Kỵ chính mồm nói cho ngươi nghe?”

“Vâng!”

“Lão phu nghe nói, Khánh Kỵ sau khi gặp được Văn Chủng, bàn về tình thế nước Sở ta hiện giờ, từng đề nghị các ngươi sang các nước khác mượn binh, Văn Chủng đã đi nước Tống mượn binh rồi à?”

“Vâng!”

“Hắc, Phạm Lãi à, Khánh Kỵ mặc dù là vương tử tôn quý, lão phu lại thấy hắn đối đãi đặc biệt với ngươi, không bởi vì chức vị ngươi thấp kém mà khinh mạn, ngươi và hắn ở một chỗ rất hòa hợp a.”

“Vâng, nhưng thần dù sao cũng là thần tử nước Sở, mặc dù quan hệ cá nhân có chút thân cận, nhưng đề cập đến đại sự nước Sở, hạ quan cũng có chút suy nghĩ, không dám không nói.”

“Ha ha ha ha…” Phí Vô Cực ngửa mặt lên trời cười to: “Phạm Lãi à Phạm Lãi, Văn Chủng lần này đi nước Tống, nếu có thể cầu được cứu binh, đó là một công lao to lớn. Ngươi vốn gặp Khánh Kỵ trước, là oán hận hắn đưa công lớn này cho Văn Chủng, không cho ngươi thu hoạch được gì sao?”

Phạm Lãi ngẩn ra, lập tức vẻ giận dữ đầy mặt: “Thiếu phó đại nhân sao lại nói thế, Phạm Lãi một mảnh công tâm, Khánh Kỵ dù rằng chưa có ý gây bất lợi cho nước Sở, nhưng vẫn phải có đề phòng.”

Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, tay vuốt chòm râu trách mắng: “Như vậy theo ý của ngươi, lão phu nên đem rừng dâu ruộng tốt cắt cho Khánh Kỵ, lưu lại cho nước Sở ta một mảnh đất hoang núi vắng phải không? Thật sự là vớ vẩn! Ngô Việt ngay cả khi có phát sinh chiến sự thì đã làm sao? Hắc, bọn họ chinh chiến lẫn nhau, tiêu hao thực lực lẫn nhau, có lợi vô cùng lớn với nước Sở ta, những nơi hiểm yếu này cắt đi, nước Ngô ngay cả có muốn dựa vào, cũng chỉ có thể dùng để phòng thủ, chứ sao gây được trở ngại cho nước Sở ta? Quân tử lòng dạ rộng rãi, người trẻ tuổi, ngươi giỏi tâm kế như vậy, sợ rằng cũng không phải là chuyện tốt.”

Phạm Lãi bị hắn nói một hồi đến mức tức giận sắc mặt tái mét đi, hắn chắp tay còn muốn nói nữa, Phí Vô Cực đã phất tay áo nói: “Tốt lắm, ngươi lui ra đi, việc này lão phu đương nhiên đã biết rồi, lão phu trong lòng đều đã lập kế hoạch, chớ nói nhiều lời nữa.”

Phạm Lãi một câu lại bị nghẹn trở lại, hắn nhẫn nại đáp ứng, chắp tay rời khỏi trướng đi ra, ở ngoài trướng ngây ngốc đứng một lúc lâu, yếu ớt thở dài, lúc này mới bước rời đi.

Lúc này, ở trong thành Dĩnh Đô tình hình của Ngô Vương Hạp Lư cũng không có dễ chịu. Cơ Quang đối với nước Sở từ đáy lòng cũng không có sinh ra dã tâm, hắn chỉ nghĩ ở Dĩnh Đô làm mưa làm gió một phen, làm cho các thiên hạ chư hầu phải kinh sợ, đặt ra nền móng vững chắc cho hắn. Nhưng mà hai đại trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá bên cạnh hắn, đều có mối thù diệt môn diệt gia với Sở Vương, Ngũ Tử Tư một lòng báo thù, cơ hồ vì báo thù mà phát cuồng, bình thường là một người rất khôn khéo, một khi nói đến báo thù, liền mất đi lí trí, như điên như cuồng. Bá lí trí hơn hắn một chút, nhưng Bá lại quá lí trí, tất cả hành vi đều lấy động cơ từ ích lợi cá nhân, chỉ biết lấy lòng, thuận theo Hạp Lư, lại càng không dám làm điều gì trái với quan điểm của hắn, cho nên ba người quân thần, những chuyện gây ra ở Dĩnh Đô có chút không hợp lòng người.

Lúc trước khi bọn họ đánh vào Dĩnh Đô, một đường thế như chẻ tre, quân đội nước Sở buông lỏng, dân chúng khoanh tay đứng nhìn, nhưng khi bọn hắn ở Dĩnh Đô gần nửa tháng, bất tri bất giác đã gây ra cho chính mình vô số địch nhân. Toàn bộ dân chúng Dĩnh Đô đều trở thành binh lính, quân Ngô rơi vào một trận chiến cuồn cuộn của nhân dân nước Sở.

Quân Ngô hành vi tàn bạo, sự phản kháng của người Sở lại càng mãnh liệt. Thậm chí có dũng sĩ nước Sở lợi dụng quen thuộc địa hình, tìm kiếm chỗ ở của Hạp Lư, muốn ám sát Hạp Lư, đến nỗi có một buổi chiều Hạp Lư tới mấy lần bị thích khách quấy rối, một đêm phải thay đổi chỗ ở an toàn tới năm lần. Sáng sớm hôm sau, Hạp Lư phái người đem tất cả những người Sở hắn cho rằng khả nghi ra xử tử cả đám, cuộc hành quyết đầy máu tanh khiến cho người nước Sở càng thêm mãnh liệt trả thù.

Người nước Sở nổi lên tranh đấu với quân Ngô, không có tướng lĩnh chỉ huy, liền tự đưa một người phụ trách thao luyện lên làm chỉ huy, ở chung quanh Dĩnh Đô thành lập một nhóm dân binh vũ trang quy mô nhỏ, công bố “Liều chết đánh lùi quân Ngô, khôi phục nước Sở.” Đến nỗi người Ngô từ lớn nhỏ đến cả con ngựa cũng không dám ra ngoài đi lại.

Đúng vào lúc này, quân Ngô bố phòng ở chỗ hiểm yếu ngoài Dĩnh Đô lại bắt được một bí sứ được Sở Vương phái đi để triệu tập đội quân cần vương, biết được hành động triệu tập đội quân cần vương của Sở Vương, cùng với việc người Sở kết minh với Khánh Kỵ, lại thêm tin tức Sở Vương phái người sang nước Tần, nước Tống mượn binh, Ngũ Tử Tư lập tức ý thức được nguy cơ trong đó, lập tức vội vàng vào cung gặp Hạp Lư.

Hạp Lư đang ở trong Sở Vương cung ôm eo nhỏ của Sở nữ thưởng thức ca múa, Sở Vương cung vốn nguy nga tráng lệ giờ thành một đống bừa bãi, trong Sở Vương cung từ vàng bạc đồng cho đến tơ lụa tinh mỹ, ngay cả tài vật của công khanh đại phu, phú thương cường hào, thậm chí cả cành gai để làm tên, có thể cướp đều cướp, có thể chặt đều chặt, đóng gói cho vào trong xe chở về nước Ngô.

Những xe vận chuyển tài phú của nước Sở nối liền không dứt, hơn mười mấy ngày gần đây không ngày nào dừng, thậm chí trưng dụng cả xa mã của những người trong Dĩnh Đô mà cho đến giờ vẫn vận chuyển chưa xong. Những thứ chưa được vận chuyển, đều được gỡ ra đóng gói lại, tất cả chất đống một chỗ cho người trông giữ, chờ đợi áp tải về Ngô.

Vừa thấy Ngũ Tử Tư vào cung, Hạp Lư cười to nói: “Tướng quốc tới thật đúng lúc, mỹ nữ nước Sở xinh đẹp muôn vẻ, cũng không xinh đẹp hơn trong Sở Vương cung. Vài mỹ nữ này kỹ thuật nhảy quá duyên dáng, quả nhân ban thưởng các nàng cho tướng quốc, lát nữa mang theo hồi phủ mà tận tình hưởng dụng.

Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: “Thần có chuyện quan trọng muốn bẩm tấu, xin Đại vương cho lui tả hữu.”

Hạp Lư nao nao, thấy thần sắc của hắn nghiêm túc, liền theo lời khoát tay, cho lui cung nữ, nhạc công, trên đại điện nhất thời trở nên yên tĩnh, trong cung điện Sở Vương đã bị cướp chẳng còn gì lập tức có một vẻ trống trải.

Ngũ Tử Tư mang những tin tức tình báo hắn nhận được vội nói cho Hạp Lư, Hạp Lư nghe thấy vậy thì cũng không khỏi biến sắc, cả kinh nói: “Không thể tưởng được người Sở phản ứng nhanh chóng như vậy, Khánh Kỵ lại thừa dịp này nhảy vào, kẻ này, đúng là họa lớn trong lòng quả nhân, Ngũ tướng quốc, theo như ngươi thấy, quả nhân hiện giờ nên làm thế nào?”

Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: “Trên đường đến đây, Ngũ Viên đã cẩn thận suy xét qua, theo như thần thấy, có hai lựa chọn.”

“Mau nói.”

“Một, quân Ngô ta lập tức lui về nước, thì Tần chắc chắn sẽ không phát binh, mà kết minh của nước Sở với Khánh Kỵ tám chín phần mười sẽ thất bại. Nước Sở bại trận, tuy hận nước Ngô ta đến tận xương tủy, nhưng cũng sẽ không tùy tiện phát binh phạt Ngô. Hai, nước Ngô ta cũng phái đi tín sứ, liên lạc với những quốc gia hữu hảo có cùng lợi ích, khắc chế viện binh của người Sở.”

Hạp Lư trầm ngâm nói: “Biện pháp thứ nhất tuy rằng ổn thỏa, tuy nhiên vừa nghe thấy người Sở cầu cứu binh, quân Ngô ta đã lập tức lui về nước, như thế sao có thể gây uy danh với các nước khác, ngày sau sao có thể tranh hùng với các chư hầu? Theo biện pháp thứ hai của ngươi… nếu người Tần, người Tống, hơn nữa còn có cả Khánh Kỵ ký kết liên minh với người Sở, làm gì còn quốc gia nào có năng lực mà chống lại nữa?”

Ngũ Tử Tư thản nhiên cười, nói: “Việc này cũng không khó, người Tần muốn xuất quan tranh đoạt thiên hạ, lại bị người Tấn cản trở lối đi, người Tấn muốn Đông tiến tranh đoạt Trung Nguyên, lại vì sợ bị người Tần đâm vào lưng mà không dám vọng động. Hiện giờ người Tần muốn giúp người Sở, một khi thành công, thì sẽ mở ra một con đường thứ hai ven lưu vực Trường Gi­ang, nếu kết minh với Sở, ký kết hữu hảo, hành động này sẽ gây ra bất lợi to lớn cho nước Tấn. Nếu cho một người có khả năng ăn nói tốt sang nước Tấn giải thích lợi hại, người Tấn đương nhiên sẽ đáp ứng xuất binh trợ chiến. Nước Tấn là nước lớn ở phương Tây, những tiểu quốc phụ thuộc có vô số, một khi tham chiến, trợ lực này không phải là nhỏ.

Ngoài ra, còn có đại quốc Tề quốc ở phương Đông, người nước Tề dã tâm bừng bừng, cũng có tâm muốn khuếch trương, tuy nhiên tiến về phía Bắc là vùng biên cương hoang vu, về phía Tây là một nước Vệ nho nhỏ làm trung gi­an, sau đó là nước Tấn, hai bên kiêng kị lẫn nhau, lấy nước Vệ làm hòa hoãn, cũng không có phát sinh xung đột. Nếu muốn tiến về phương Nam thì lại có cơ hội, phía Nam nước Tề ngoại trừ nước Ngô ta, thì còn có một bộ lạc Đông Di. Bộ lạc này vẫn chưa lập quốc, khu vực rộng lớn, vẫn là một khối thịt béo trong mắt người Tề, chỉ có điều người Tề sợ khi quân Tề đi xuống phía Nam, thì nước Lỗ, Từ, cùng nước Ngô ta sẽ kết minh phản kháng, cho nên chậm trễ không đưa ra hành động. Nếu chúng ta đáp ứng trợ giúp nước Tề thu hoạch vùng đất của Đông Di, người Tề tham lợi, cũng sẽ xuất binh. Nước Tề là nước lớn ở phương Đông, nếu như vậy, sẽ có Tề Tấn hai nước tương trợ, đủ để triệt tiêu lực lượng liên bang của người nước Sở.”

Hạp Lư hai hàng lông mày nhíu lại, nói: “Tề Tấn đều là nước lớn, đều có vô số nước nhỏ phụ thuộc, bọn họ một khi tham chiến, toàn bộ thiên hạ sợ rằng đều sẽ chiến hỏa hừng hực.”

Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: “Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới.”

Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: “Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha… Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến.”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 187: Trống trận liên hồi (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: “Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới.”

Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: “Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha… Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến.”

Ở trên vọng gác Bách Thành, Khánh Kỵ đứng hiên ngang một chỗ, nheo mắt nhìn về phía xa. Gió từ hướng Bắc tới, cuốn theo những bông tuyết bay đầy trời, cơn gió mạnh thổi chiếc áo khoác tung bay phần phật. Theo đúng như lộ trình đã dự tính thì nhân mã của hắn sẽ tới đây sau mấy ngày nữa.

- Chắc Tần quốc sẽ xuất binh…

Dù cho gió bên ngoài thổi lạnh thấu xương, nhưng Khánh Kỵ cũng không một chút bận tâm tới, hắn đứng ở trên thành, mang theo những suy nghĩ đang trôi bồng bềnh trên không. Đứng từ chỗ cao nhất quan sát sự biến động chính cục của toàn bộ Xuân Thu đại địa, đã đưa ra phán đoán này.

Từ khi Khuyển Nhung công phá Hạo Kinh, Chu U Vương Cơ Cung Tinh bị giết, Chu Bình Vương Cơ Nghi Cữu dời đô tới Lạc Ấp đến nay, cục diện thiên hạ trước đây nằm trong sự kiểm soát của Chu thiên tử đã dần dần được thay đổi, dẫn đến ngày này hai trăm năm sau - tức là hôm nay, từ từ hình thành nên hai tập đoàn thế lực: Tập đoàn Trường Gi­ang và tập đoàn Hoàng Hà.

Tập đoàn Trường Gi­ang do Sở Quốc đứng đầu, tập đoàn Hoàng Hà do Tấn quốc đứng đầu. Sở quốc tự lập vương hiệu, khinh rẻ sự thống trị của Chu thiên tử, Sở Trang Vương từng hỏi qua Chu thiên tử về Cửu Đỉnh*, thực sự dã tâm đã rõ rành rành. Còn Tấn quốc tuy có ý đồ tranh bá, là một chư hầu dòng giống họ Cơ, ngoài mặt thì vẫn duy trì Chu triều chính thống, đồng thời, do sự kỳ thị giữa các địa vực và xung đột về lợi ích với nhau, bọn họ đã nâng cao ngọn cờ bảo vệ Vương quyền, tự coi mình là những người hộ vệ cho Chu thiên tử.

(Chú thích: Cửu Đỉnh: tượng trưng cho quyền lực bá chủ)

Kỳ thực từ khi Tề Hoàn Công tạo khối liên minh chư hầu, tôn vương nhương di (tôn sùng gi­ai cấp thống trị, bài xích ngoại bang), các nước ở phương Nam do nước Sở cầm đầu đã cùng với các nước bảo vệ thiên hạ Chu thị ở phương Bắc bắt đầu tiến hành liên tiếp các cuộc chinh phạt lẫn nhau, đến nay chỉ là Tấn thay thế Tề mà thôi.

Khi thiên hạ đang dồn hết sự chú ý vào cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai tập đoàn thế lực đó, thì Tần quốc ở Quan Trung đang lớn mạnh từng ngày. Thời gi­an từ khi thành lập Tần quốc rất ngắn, vị quốc quân đương nhiệm đầu tiên của họ vốn chỉ là một thủ lĩnh của bộ lạc nhỏ, do có công trong việc hộ tống Chu Bình Vương dời đô, được thụ phong làm chư hầu, cai trị một dải đất màu mỡ ở Quan Trung mà trước đây Vương đô của Chu thất đã tọa lạc, tính cho đến nay thì thời gi­an lập quốc vẫn chưa vượt quá hai trăm năm.

Thế nhưng trong suốt hai trăm năm nay, Tần quốc với lợi thế đất đai phì nhiêu màu mỡ vốn có của mình, chiến tranh ở Trung Nguyên hầu như không hề gây tổn hại tới thực lực của Tần quốc, dần dần họ trở thành một lực lượng lớn mạnh không dễ coi thường. Chỉ có điều, lực lượng hiện tại của họ vẫn chưa đủ lớn mạnh để có thể khiêu chiến với một nước lớn như Tấn quốc, cho nên họ cần phải duy trì sự cân bằng về thế lực giữa hai miền Nam Bắc, có như vậy thì Tần quốc mới có thể thu được lợi từ tình hình như vậy, tiếp tục trau dồi tích lũy lực lượng.

Trong những kiến thức lịch sử có hạn của Khánh Kỵ, hắn không nhớ được rằng khi Ngô quốc phạt Sở thì Tần quốc có phát binh đi tương trợ hay không. Hắn chỉ là kết hợp kiến thức hiểu biết của hai con người trong hắn, dựa theo tình hình thiên hạ hiện tại để đưa ra phán đoán như vậy. Hắn tin rằng, những lợi hại được mất trong đó, người Tần không thể nào không có một kẻ sĩ có tri thức không nhận ra được điều đó. Cho nên cuối cùng người Tần xuất binh cũng là điều tất nhiên.

Tần quốc Ung thành, cửa chính cung thành, các đại phu đang nối gót nhau đi vào trong.

Khi bọn họ bước qua cửa cung, đôi mắt đều không tự chủ được mà nhìn về bức tường cung phía bên cạnh, sát bức tường là một người tầm tuổi trung niên tóc tai rối bù, quần áo rách nát, trên đầu của hắn vẫn còn đeo một chiếc mũ quan của đại biểu sĩ đại phu, thế nhưng chiếc mũ đó cũng chẳng còn nguyên vẹn.

Thân hình hắn lảo đảo như muốn ngã, sắc mặt tiều tụy, mặt mũi tím tái, đôi môi nứt nẻ, hơi rơm rớm vết máu. Cặp mắt kia của hắn tăm tối vô cùng, không chút linh hoạt, thế nhưng hắn vẫn đang dùng âm điệu khàn khàn lẩm bẩm gì đó, không ai nghe thấy rõ điều hắn nói là gì.

Trông thấy hắn như vậy, ai ai cũng không khỏi động lòng trắc ẩn, dưới bức tường cung thành của Tần quân đương nhiên không cho phép ăn mày đứng, thế nhưng tên ăn mày này có đôi chút khác biệt, thứ hắn cầu xin không phải là lúa gạo, mà là viện trợ quân sự, điều đó đương nhiên là không giống với ăn mày bình thường. Người này chính là Thân Bao Tư, người được phụng lệnh đến Tần quốc cầu xin viện binh.

Lúc đầu khi mới đến Tần quốc, hắn cứ nghĩ rằng chắc chắn sẽ xin được viện binh từ Tần quốc, lúc bước lên Tần cung đại điện, trước mặt đông đảo công khanh triều đình vội vã nói rõ lý do đến Tần lần này của hắn cho Tần quân nghe, hắn nói:

- Ngô quốc Hạp Lư công phá Dĩnh đô, Sở vương tị nạn ở Tùy quốc. Hai nước Tần Sở vốn có quan hệ tốt đẹp với nhau, đương kim Sở thái hậu là bào muội (em ruột) của Tần quân, đương kim Sở vương là cháu ngoại của Tần quân, Tần Sở vốn là người cùng một nhà, bây giờ Sở quốc gặp nạn, vội đến Tần quốc cầu xin viện binh, khấn thỉnh Tần quân cứu Sở trong lúc nguy nan.

Nào ngờ Tần quân có dã tâm của hắn, thầm nghĩ rằng với sức mạnh của Ngô quốc, cho dù diệt được Sở quốc, cũng không thể đủ binh lực chiếm lĩnh lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, đến lúc đó phát binh báo thù cho bào muội, vừa hay có thể thừa cơ bành trướng về Đông, chiếm lĩnh vùng đất Sở quốc núi cao sông dài. Một nữ tử nhỏ bé, dù là bào muội, nhưng hy sinh cho lợi ích của cả một quốc gia là Tần quốc thì cũng đáng, cho nên Tần quân không vội ra quyết định, lấy lệ bảo Thân Bao Tư tạm thời nghỉ ngơi ở dịch quán, để cho quân thần Tần quốc thương nghị một phen.

Thân Bao Tư luôn miệng khẩn cầu, Tần quốc quân chỉ đáp cho có lệ, Thân Bao Tư bất đắc dĩ, không muốn về dịch quán nghỉ ngơi, mà đứng bên ngoài dựa vào bức tường cung điện Tần quốc, không ăn không uống, tuyệt thực để tỏ rõ ý chí, từ sáng đến tối than khóc cầu xin, thời đó cung điện để cho chư hầu nghị triều không lớn lắm, Thân Bao Tư ở bên ngoài cung vừa khóc vừa la hét, ở trong đại điện nghe rõ mồn một, rên la van nài đến nỗi chẳng ai được yên ổn.

Thân Bao Tư và Ngũ Tử Tư đều là những người bạn tri gi­ao hồi còn là thần Sở, hai người đều có một loại tính cách cứng cỏi, đó là không đạt được mục đích thì quyết không bỏ cuộc. Cứ như vậy suốt ba ngày, Thân Bao Tư không ăn không uống, đã khàn cả giọng, nhưng vẫn đứng trước bức tường cung điện Tần quốc, dường như có ý muốn tuyệt thực mà chết, động thái này của hắn khiến cho rất nhiều đại phu Tần quốc động lòng trắc ẩn, thầm đồng tình với hắn.

Tần quân thấy hắn không biết điều như vậy, trong lòng cảm thấy rất bực bội, gần như đã mất hết kiên nhẫn. Vào thời đó công khanh cứ mười ngày thì được miễn thượng triều một ngày, Tần quân vì muốn tránh mặt Thân Bao Tư, cho công khanh đại thần nghỉ một mạch ba ngày liền, mong chờ đến khi Thân Bao Tư chết bên ngoài cung mới thôi. Không ngờ được rằng tính mạng của Thân Bao Tư lại dai dẳng thần kỳ như thế, hôm nay, ba ngày nghỉ phép đã qua, quần thần thượng triều, đến lúc này Thân Bao Tư đã đứng bên ngoài cung ròng rã bảy ngày bảy đêm, không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, thế mà vẫn chưa chết. Toàn bộ thần tử Tần quốc ai cũng phải cảm động, rất nhiều đại thần đã quyết định trong buổi thượng triều hôm nay sẽ nói đỡ cho Thân Bao Tư, khấn thỉnh Tần quốc xuất binh giúp Sở.

Không ngờ, chúng thần vào điện, Tần quân ngồi xuống đã mở miệng nói luôn:

- Ngô vương phạt Sở, vốn không phải là chiến tranh chính nghĩa. Tần Sở vốn là anh em, đương nhiên cần phải tương trợ lẫn nhau. Quả nhân thấy Thân Bao Tư trung nghĩa mà cảm động, quyết định phát binh cứu Sở, điều động chiến xa năm trăm chiếc, tinh binh bốn vạn người, do Tử Bồ, Tử Hổ làm tướng dẫn đầu, ra khỏi Vũ Quan, tới Sở quốc, thảo phạt quân Ngô.

Quần thần nghe vậy thì bàn tán xôn xao, sau đó nhất tề tiến lên lạy dài, cao giọng tán thán:

- Quốc quân nhân đức, chúng thần ủng hộ!

Tần quân và đại tướng Tử Bồ liếc nhìn nhau, vuốt râu mỉm cười không thôi. Tần quân cuối cùng đưa ra quyết định xuất binh, tuyệt đối không phải là do cảm động với những hành động trung nghĩa của Thân Bao Tư, mà đó là kết quả của việc cân nhắc lợi hại trong buổi thương nghị suốt mấy ngày của mấy vị quần thần tâm phúc với Tần quân.

Hơn ba mươi năm trước, hai nước Tấn Sở và một số nước chư hầu khác tiến hành “Chấm dứt binh đao, tụ hội kết minh” tại Tống quốc. Tấn Sở đại diện cho tập đoàn thế lực của hai miền Nam Bắc ký kết hiệp ước thành lập liên minh, đưa ra quyết định rằng ngoại trừ hai nước lớn là Tề, Tần ra thì toàn bộ các nước khác đều phải đồng thời triều cống cho hai nước Tấn Sở.

Từ đó đã nâng hai nước Tấn Sở lên vị trí đỉnh cao trong các chư hầu thiên hạ, trở thành bá chủ thiên hạ. Thực lực của Tần quốc và Tề quốc chỉ kém hơn đôi chút so với Tấn Sở, không bị hệ lụy bởi những hư danh kia, suốt ba mươi năm nay bế quan phát triển, quốc gia thái bình, sức mạnh đất nước ngày càng mạnh mẽ. Quân thần Tần quốc đã được nếm trải những mùi vị ngọt ngào như vậy.

Trải qua nhiều lần cân nhắc kỹ lưỡng, các vị trọng thần trong Tần triều cho rằng, quân Ngô tuy mạnh, nhưng sức mạnh tổng hợp của quốc gia suy cho cùng thì vẫn chưa đủ hùng hậu. Ngô Sở cùng tồn tại so với Ngô tồn Sở vong sẽ có lợi hơn trong việc tiết chế trục hoành ngăn không cho thế lực Tấn quốc ở phương Bắc Nam hạ (đi về phía Nam). Nếu như Sở quốc bị diệt vong mà dẫn đến việc lực lượng Bắc Nam mất hoành, như vậy thì Tấn quốc sẽ mạnh lên rất nhiều. Điều này đối với một quốc gia mong muốn lực lượng Nam Bắc cân bằng để có thêm thời gi­an và cơ hội tích lũy phát triển như Tần quốc mà nói thì cực kỳ bất lợi.

Hiện tại nếu như chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của người Sở, thì kết quả sẽ là việc đơn độc phải gánh chịu sự bức bách của cường quốc tới từ phương Bắc là Tấn quốc, như vậy đối với lợi ích lâu dài của Tần mà nói, còn lâu mới bằng việc đưa Sở quốc lên trước làm lá chắn, còn bản thân Tần quốc thì bế quan tự thủ, nghỉ ngơi lấy sức, tích lũy quốc lực. Tần quân biết nghe lời phải, nghe mấy vị đại thần phân tích một hồi thì rất hài lòng, thế là cuối cùng đã đưa ra mệnh lệnh xuất binh cứu Sở.

Thân Bao Tư lúc này còn thoi thóp chút hơi tàn được đưa vào Tần cung, nghe được tin tức đó thì vô cùng mừng rỡ, liền dùng lễ trọng, khấu đầu ba lượt, Thân Bao Tư như quên hết tất cả, vùng vẫy lăn lộn quỳ mọp xuống dưới đất, khấu đầu tiếp chín lần để tạ ơn Tần quân, sau đó cơ thể rã rời, chìm vào hôn mê, được cấp tốc đưa vào dịch quán nghỉ ngơi tĩnh dưỡng lấy lại sức.

Tần quốc Ung Thành, hai vị đại tướng quân Tử Bồ, Từ Hổ bắt đầu điều phối lương thực, chiêu mộ quân sĩ, chuẩn bị xuất binh cứu Sở. Động tĩnh lớn như vậy đương nhiên khó có thể che được tai mắt của người khác, vùng Ung Thành đang gõ trống khua chiêng để chuẩn bị, những gi­an tế của Tấn quốc được cài cắm ở kinh đô nước Tần đều đã nhận được thông tin, thám báo không quản ngày đêm chạy về Dực Thành Tấn quốc báo tin, mặc cho ngoài trời đầy mưa giông bão tuyết cũng phải đem tin tức gi­ao tới tận tay Tấn hầu Cơ Khí Tật…

Thiên hạ, lại sắp rơi vào cuộc đại loạn…

Cơn gió lạnh cuốn theo những bông hoa tuyết, thổi mạnh đến nỗi những chiếc đại kỳ trong thành đều không ngừng tung bay. Khánh Kỵ nhìn về phía Tây Bắc, từ đây nhìn về nơi đó trải dài cả vạn dặm, đang có hơn mười vạn đại quân Sở quốc đóng quân, đạo quân này dùng để phòng bị Tấn quốc xâm lược, thế nhưng người Tấn Nam hạ, chưa hẳn đã chỉ có duy nhất con đường này, chỉ có điều nếu chọn việc đi đường lớn, bắt buộc sẽ phải đi xuyên qua rất nhiều nước chư hầu, nếu vậy thì đám nước chư hầu kia sẽ đương nhiên phải đưa ra quyết định, lập trường, cuối cùng đem càng ngày càng nhiều các quốc gia bị cuốn vào trong vòng chiến loạn.

Nghĩ tới đây, khóe miệng Khánh Kỵ bỗng nở nụ cười.

Để cổ vũ sĩ khí quân tâm, Phí Vô Cực đã công bố ra bên ngoài chuyện sứ giả đi tới Tần quốc xin viện binh, còn có cả việc Văn Chủng đi Tống quốc cầu viện, chỉ có điều là hắn trơ trẽn nói rằng những việc đó đều xuất phát từ chủ ý của hắn mà ra, lấy đó để cho thấy sự sáng suốt biết rõ tiên cơ của hắn.

Điều này đem lại cơ hội cho Khánh Kỵ, một thủ hạ tâm phúc của hắn theo đuôi một vị tín sứ nước Sở, rồi giả mạo làm một tiều phu mật báo lĩnh thưởng, tố giác vị tín sứ kia, khiến hắn bị người nước Ngô bắt được, từ đó Ngũ Tử Tư đã nắm được tin tức này, làm cho Cơ Quang cũng có sự phòng bị từ trước.

Khánh Kỵ hiểu rõ tính khí của vị vương thúc đó của mình, càng hiểu rõ rằng Ngũ Tử Tư quyết không chấp nhận tỏ ra yếu thế trước mặt người Sở, lựa chọn của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư chỉ còn là lấy “gậy ông đập lưng ông”, cũng mượn binh của các nước chư hầu khác, chỉ có như vậy thì mới có thể đạt được mục đích của hắn.

Nếu không, đợi đến khi quân đội Sở quốc cần vương tụ hội, xông thẳng tới Dĩnh Đô, Cơ Quang nghe được tin bất ngờ, lại hai ba vạn tinh binh của hắn cũng tham gia vào quân Sở, thêm cả việc Tần quốc cũng phát binh tương trợ, trong lúc cấp bách không có cách nào kháng cự, chỉ còn cách lui về Ngô quốc, nếu như vậy, người Sở đương nhiên đạt được mục đích, đối với hắn mà nói thì sẽ vô cùng bất lợi. Hắn buộc phải ngăn chặn Cơ Quang và quân Ngô lại, cố sống cố chết mà ngăn chặn tại Sở quốc, như vậy, đám kỳ binh mà hắn giữ ở Tề quốc mới phát huy tác dụng được.

Ngũ Tử Tư…

Khánh Kỵ cười lạnh:

- Vị thiên cổ danh nhân này, chẳng phải cũng bị ta đùa giỡn trong lòng bàn tay đó sao.

“Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa”, từ lúc Khánh Kỵ từ một linh hồn xuyên Việt với gốc gác là một thành viên trong đoàn làm phim phổ thông, dần dần trở thành một vị lãnh tụ của một đoàn thể chính trị, càng ngày hắn càng thấm hiểu sâu sắc ý nghĩa của câu nói này. Đâu chỉ có Xuân Thu không chiến tranh chính nghĩa, tự cổ chí kim, có cuộc chiến tranh nào với cờ hiệu đẹp đẽ, đường đường chính chính mà không phải là hướng về lợi ích của một vài cá nhân?

Mặc kệ là dùng loại cờ hiệu nào, mục tiêu cuối cùng cũng là một chữ “lợi”. Giữa các nước với nhau chẳng bao giờ có tình hữu nghị mãi mãi, chỉ có quyền lợi mãi mãi mà thôi. Một lợi ích của gi­ai cấp, đoàn thể, đương nhiên sẽ phải tổn hại đến lợi ích của một đoàn thể, một gi­ai cấp khác để làm tiền đề. Cho dù là sử dụng thủ đoạn nào, chỉ cần khiến cho người của mình giảm thiểu những hy sinh đổ máu, giảm thiểu những cái giá phải trả là được, Khánh Kỵ bây giờ cũng đã bình chân như vại rồi. Hắn đã không còn nói những lời ba hoa bốc phét như ước mộng tuổi thiếu niên nữa.

Gió đã yếu bớt, tuyết lại càng thêm dày đặc. Khánh Kỵ một ngày mấy lần đi lên trên thành quan sát, chờ đợi đại quân của hắn mau đến. Lúc này đã là lần thứ ba trong buổi chiều hắn đi lên thành rồi, tuy nhiên phía xa vẫn là một màu trắng ảm đạm và lặng lẽ. Hắn vung vẫy những bông hoa tuyết trên vai, chà xát hai tay đã đông cứng vào nhau, đang định trở xuống dưới chân thành, ánh mắt bỗng tập trung vào một chỗ, nhìn về phía xa trong đám tuyết trắng xóa xuất hiện một đường đen uốn lượn.

Thần sắc Khánh Kỵ khẽ động, vội vàng nheo mắt che tay nhìn về phương xa, đường đen đang di động kia rõ ràng là một đoàn quân. Bọn họ đang tiến tới đây với vận tốc chậm rãi, làn gió tuyết khiến ngọn cờ tung cao phần phật, trên ngọn cờ xuất hiện hai chữ. Nhìn từ xa, lại thêm việc tuyết phủ trắng xóa che kín tầm mắt, chưa thể nhìn rõ chữ trên cờ hiệu là gì. Nhưng trông thấy cờ xí quen thuộc kia, Khánh Kỵ đã nhận ra đó là quân đội của mình.

Hắn mừng rỡ kêu lên một tiếng, rồi chạy một mạch xuống dưới cổng thành. Chỉ trong thoáng chốc, sĩ tốt người Sở đã đẩy cửa thành ra, Khánh Kỵ ngồi trên một chiếc chiến xa lao nhanh ra bên ngoài, bánh xe đi trên con đường đầy tuyết tạo nên hai hàng dấu vết thẳng tắp.

- Công tử!

Khi Khánh Kỵ thúc xe tới gần, thì đoàn quân kia bỗng đột nhiên dừng lại, đợi đến khi Khánh Kỵ đi tới trước mặt, trên chiếc chiến xa ở hàng trên nhất lập tức bước xuống một người, vẻ mặt vui mừng tiến tới.

Trên chiếc nón trụ của hắn tích đầy bông tuyết, thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm. Tà áo tung bay trong cơn bão tuyết, đúng là tả hữu luôn theo gót trung thành với hắn Lương Hổ Tử.

- Bái kiến công tử!

Đám sĩ tốt ở tiền phương đồng loạt thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, tin tức nhanh chóng được truyền tới trận tuyến phía sau, toàn bộ đội ngũ xôn xao rầm rĩ.

- Các tướng sĩ suốt dọc hành trình đều phải đối mặt với mưa gió bão tuyết, vất vả rồi!

Khánh Kỵ chắp tay vái chào về mọi người xung quanh, sau đó ôm một cái thân mật với Lương Hổ Tử:

- Lương tướng quân, ta đoán được tính nóng vội của tướng quân, nhất định sẽ cầm đầu đoàn quân đi tiên phong, ha ha… Tọa chấn trung quân hẳn là Kinh tướng quân rồi.

Khắp mặt Lương Hổ Tử đầy vẻ phong sương, nhưng lại lộ rõ vẻ vui mừng trông thấy. Nghe Khánh Kỵ nói như vậy, không khỏi ha hả cười nói:

- Lần này thì công tử đoán sai rồi, tọa chấn trung quân là Yểm Dư công tử, Kinh Lâm tiểu tử lần này áp hậu trận phía sau.

Khánh Kỵ nghe vậy thì sững sờ:

- Yểm Dư vương thúc? Chẳng phải ta đã bảo vương thúc tọa chấn Ngải Thành sao? Tại sao người lại tới đây?

Lương Hổ Tử gượng cười nói:

- Yểm Dư công tử là vương thúc của công tử, ngài nhất định đòi đến đây, thuộc hạ cũng chẳng biết làm sao. Thuộc hạ cũng theo quân lệnh của công tử ngăn cản Yểm Dư công tử, thế nhưng ngài đã quát mắng té tát vào mặt thuộc hạ, ngài nói: “Cái gì mà tọa chấn Ngải Thành, ba quân đều đã xuất phát đi thảo phạt Cơ Quang rồi, để ta canh giữ một tòa thành trống để làm gì? Tên tiểu tử mất nết Khánh Kỵ, chẳng qua là muốn phòng khi hắn chẳng may thất bại, thậm chí chết nơi sa trường, để ta lại phải báo thù cho hắn mà thôi. Lúc này đây hắn đã gây dựng được cơ đồ như vậy, nếu như hắn đánh không lại Cơ Quang, thì cho dù ta có dốc hết chút hơi tàn của cái mạng này cũng chẳng thể nào mà đi báo thù cho hắn được. Chi bằng đi cùng nhau, cùng lắm là chú cháu ta kề vai sát cánh chiến đấu, chết trận oanh liệt nơi sa trường thôi.”

Khánh Kỵ nghe xong dậm chân nói:

- Ài, nếu nói như vậy, Chúc Dung vương thúc lần này đi Phí Thành Phi Hồ cốc chắc cũng theo đoàn quân xuất chinh rồi.

Lương Hổ Tử cười hắc hắc:

- Công tử đoán đúng rồi, Chúc Dung công tử trước khi đi tới Lỗ quốc quả đã nói như vậy. Công tử nói, thắng bại vinh nhục đều được quyết định trong trận chiến này, đại quân của công tử là hy vọng phục quốc cuối cùng, nếu như lại bại nữa, chỉ còn con đường chết theo mà thôi. Ngài đường đường là Ngô quốc công tử, nam nhi chí lớn, làm sao chịu để cho người khác ở nơi trận tiền liều mạng, còn mình tọa thủ ở một tòa thành bỏ trống như một kẻ ham sống sợ chết.

Khánh Kỵ nghe hắn nói vậy cũng không khỏi gượng cười, Lương Hổ Tử quay lại đưa mắt nhìn những sĩ binh lặn lội suốt một hành trình dai dẳng, nhưng tinh thần ai nấy đều tươi tỉnh, ý chí chiến đấu sục sôi, liền trầm giọng nói với Khánh Kỵ:

- Công tử cũng không cần hối tiếc, hai vị công tử nghĩ vậy, đám binh lính sĩ tốt trong ba quân của chúng ta cũng nghĩ vậy, Cơ Quang đã chiếm đoạt ngôi vị Ngô quốc đại vương hơn một năm nay, nếu cứ để tiếp diễn như vậy nữa thì chúng ta sẽ không còn cơ hội hạ bệ hắn, thắng bại vinh nhục, thật sự được quyết định trong trận đánh này. Ngay cả những người đầu bếp cũng nghĩ vậy, chịu đi theo công tử, ai nấy đều mang theo vũ khí tòng quân, Ngải Thành đã trở thành một tòa thành trống, tất cả chúng thuộc hạ đều tình nguyện vào sinh ra tử cùng công tử! Công tử chính là linh hồn của anh em tướng sĩ, bất luận là nguy hiểm thế nào, bất luận là kẻ địch thế nào, anh em ba quân tướng sĩ đều sẽ kề vai sát cánh, cùng sống cùng chết với công tử, quyết không nhụt chí!

Lời nói này thật có khí phách, được phát ra một cách dõng dạc giữa cơn gió tuyết rít gào, Khánh Kỵ nghe vậy mà cảm động trong lòng, nhịn không được cầm lấy bàn tay của hắn, nam chi ý chí kiên cường, lòng dạ bất khuất, hai bên cùng nhìn nhau rồi cười, tất cả đều không bộc lộ ra được trong lời nói.

Hắn thở một hơi thật dài, đón nhận những bông tuyết đang lao tới trước mặt, nhìn về phía đội ngũ đang xếp thành hàng nghiêm chỉnh trước mắt mình. Đôi mắt quét qua những khuôn mặt thanh niên, quen thuộc có, không quen thuộc có, có vài nét mặt còn thể hiện sự rầu rĩ tang thương khi phải xa nhà, bỗng nhiên, ánh mắt của hắn dừng lại trên người một chiến sĩ thân hình thấp bé.

Hắn khoác áo giáp nửa người, bên trong giáp là một bộ võ phục, một thanh trường kiếm vác trên vai, dải tua trên thanh kiếm bị gió thổi lên, quét qua mặt của hắn, nhưng dù bị che bởi những tua kiếm kia, thì khuôn mặt thanh tú, mỹ lệ như đào hoa kia vẫn không thể che giấu được, đích thị là Quý Tôn Tiểu Man. Nàng đứng bên cạnh một chiếc chiến xa, đang mỉm cười nhìn về phía mình.

Khánh Kỵ bất giác đi về phía nàng, Lương Hổ Tử đứng phía sau bỗng gọi:

- Công tử, thuộc hạ có chuyện này…. công tử…

Khánh Kỵ bỏ mặc không để ý, đi thẳng tới chỗ Quý Tôn Tiểu Man, kinh ngạc nói:

- Nàng… chiến trường là nơi nguy hiểm, nàng đến đây làm gì, chẳng phải ta đã nói nàng phải ở lại Ngải Thành sao?

Quý Tôn Tiểu Man liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói:

- Ngải Thành đã là một tòa thành trống, ta ở lại đó làm gì? Đã không có nơi nào đi, vậy thì chỉ còn biết theo đến đây thôi.

Khánh Kỵ biết đó chỉ là lời nói biện cớ, thiên hạ lớn như vậy, nàng đi đâu chả được? Lúc trước bảo nàng ở lại bên cạnh chăm sóc thì nàng còn không chịu cơ mà. Bây giờ lại chịu kham chịu khổ theo tới Sở quốc, tấm lòng thiếu nữ lẽ nào hắn lại không biết?

Trong lúc xúc động, Khánh Kỵ vụt chốc nắm chặt lấy đôi tay nàng, đôi bàn tay nhỏ bé được ấp chặt trong bàn tay to lớn của hắn, cảm giác lành lạnh, Khánh Kỵ trông thấy khuôn mặt của nàng hơi tím tái, đôi bàn tay đông lạnh đến đỏ bừng, không khỏi có chút tức giận:

- Ngải Thành một năm nay tích lũy rất nhiều lương thực quân nhu, lẽ nào lại không thể chuẩn bị được cho nàng vài bộ quần áo dày dặn ấm áp ư? Nàng ăn mặc phong phanh như vậy, cơ thể thì lạnh cứng, nếu chẳng may sinh bệnh thì biết làm sao đây? Lương Hổ Tử!

Trong ánh mắt của Quý Tôn Tiểu Man hiện lên một ý cười ôn nhu, thanh âm cũng trở nên dịu dàng:

- Đừng trách Lương tướng quân, là do người ta không chịu mặc, những bộ quân phục đó mặc lên trông phì nộn cả người ra, khó coi chết đi được.

Khánh Kỵ nghe xong không biết nên khóc hay nên cười:

- Điều này quả đúng như câu xinh đẹp đến run người, muốn đẹp không muốn sống hay sao?

Quý Tôn Tiểu Man câng mặt lên:

- Vậy thì đã làm sao, dù sao thì càng đi về Nam càng ấm áp, đợi khi qua được sông thì đến cả bông tuyết cũng chẳng nhìn thấy nữa đâu.

Khánh Kỵ lắc lắc đầu, cởi áo khoác của mình xuống, chẳng nói chẳng rằng khoác lên trên vai nàng, buộc dây áo cho nàng, rồi nói:

- Thật chẳng thể hiểu được nàng nữa, được rồi, cứ mặc tạm áo khoác của ta đã, đợi đến Bách Thành…

Lương Hổ Tử chạy tới, vội nói:

- Công tử, thuộc hạ có…

Khánh Kỵ quay đầu sang, hừ một tiếng nói:

- Chuyện ta căn dặn ngươi, chẳng có chuyện nào là làm cho tốt cả, còn muốn… hả?

Hắn nhìn thấy Lương Hổ Tử hướng về phía mình nháy mắt ra hiệu vài cái, thần tình có chút quỷ dị, không khỏi khẽ chút giật mình, thuận theo ánh nhìn của Lương Hổ Tử nghiêng mắt ra xem, dùng khóe mắt kín đáo liếc về phía đó. Lúc này mới bị khiếp vía hồn bay phách lạc, nhìn lại lần nữa, quả nhiên là thật, người kia tuy rằng mặc một bộ giáp, chiều cao cũng chỉ tương đương với sĩ tốt bình thường, nhưng khuôn mặt rõ ràng là Thúc Tôn Diêu Quang.

Trong khoảnh khắc Khánh Kỵ dường như đang mơ hồ trong giấc mộng: “Diêu Quang… tại sao nàng ấy lại ở đây được chứ?”

Sau đó, ánh mắt của hắn khẽ chùng xuống, tâm tình cũng cụt ngủn không còn hứng thú. Hỏng rồi, hai tay của hắn vẫn đang dừng trước ngực của Quý Tôn Tiểu Man, ngón tay khẽ chạm vào chiếc cằm mỹ lệ lành lạnh của nàng, chiếc dây trên cổ áo khoác mới chỉ cài được một nửa, động tác này, nhìn thế nào cũng có chút ám muội.

Dường như gió tuyết có chút lạnh, vì Khánh Kỵ phát hiện da mặt của mình cũng hơi đanh lại. Khóe miệng của hắn hơi co lại, khẽ mấp máy, đón lấy cái nhìn từ cặp mắt trong trẻo của Quý Tôn Tiểu Man, cặp mắt to đẹp đó vẫn đang mang một sự vui vẻ hiền dịu, thế nhưng…. Khánh Kỵ bất giác cảm thấy trong đôi mắt đó hiện lên một chút gì đó của sự đắc ý.

Khánh Kỵ bỗng nhiên tự hận mình, tiểu cô nương đóng giả tiểu tử kia đã bao giờ có mùi vị nữ nhân đâu, lúc nãy làm sao nàng ta có thể vì sự quan tâm hỏi han của mình mà bộc lộ ra tình cảm như vậy? Động tác này của mình, lúc thường thì phản ứng của nàng ta phải là ngượng nghịu bất an, cảm giác không thoải mái mới phải. Nàng ta… rõ ràng là cố ý châm chọc ta.

Khánh Kỵ hung hăng trừng mắt nhìn nàng, Quý Tôn Tiểu Man đáp lại bằng ánh mắt thờ ơ, nụ cười trên vẻ mặt đóng kịch lại càng dương dương đắc ý hơn.

- Nàng đã đến đây rồi, ta cũng không thể đuổi nàng về được!

Ánh mắt của Khánh Kỵ không liếc nhìn về phía Thúc Tôn Diêu Quang nữa, cứ như thể hắn chưa từng nhìn thấy Thúc Tôn Diêu Quang vậy, giọng nói bỗng nhiên sang sảng vang vọng, thần thái nghiêm nghị, đường hoàng nghiêm trang nói với Quý Tôn Tiểu Man:

- Ta cùng Tam Hoàn thế gia quan hệ sâu sắc, Thúc Tôn Thị, Mạnh Tôn Thị, đều có cội nguồn chặt chẽ với ta, nàng là người của Quý Thị thế gia, một thân nữ tử lưu lạc bên ngoài, ta làm sao có thể nhìn mà không để ý chứ? Nên mới thu giữ nàng ở lại, nếu như nàng sinh bệnh ở chỗ của ta, há chẳng phải là do ta chăm sóc không chu đáo sao? Đợi khi vào Bách Thành, lập tức sẽ thay bằng quần áo dày ấm. Hừ, cái gì mà quân phục dày cộm phì nộn bất kham chứ, căn bản thì vẫn là một tiểu hài tử chưa trưởng thành, ai thèm để ý tới dung nhan đẹp xấu của nàng?

Quý Tôn Tiểu Man quay lưng về phía Thúc Tôn Diêu Quang, làm động tác dí dỏm thè lưỡi với hắn, mũi hơi nhăn nhăn trêu tức, đắc ý nói:

- Lêu lêu lêu, phản ứng của công tử Khánh Kỵ nhanh đấy nhỉ, lại lừa được ngay cô nương người ta rồi đấy nhỉ? Hi hi…

Khánh Kỵ toát mồ hôi, ngoài trời rất lạnh, gió thổi rất lớn, thế nhưng hắn lại cảm thấy trong người có cảm giác rất nóng rất nóng. Bản thân phải làm sao vừa tự nhiên vừa ngạc nhiên mà phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang đang ở trong đội ngũ kia đây, còn phải làm ra một bộ mặt kinh ngạc, vui mừng, nếu không thì màn kịch lúc nãy chỉ phí công vô ích thôi…

Ánh mắt sát nhân đáng sợ của nàng… chết tiệt thật, Lương Hổ Tử đâu? Lúc nãy nhìn thấy ta, tại sao hắn không nói luôn là Diêu Quang cũng có ở đây…

Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:

- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!

Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là… bỏ chạy mất dạng vậy.

Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 188: Khói lửa chiến tranh (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:

- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!

Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là… bỏ chạy mất dạng vậy.

Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì…

Hán Thủy, cứ điểm quan trọng bến sông Ngư Phản , tiếng chém giết rung trời.

Quân Ngô đang tấn công mạnh mẽ vào bến sông Ngư Phản, nơi đây, hiện tại vẫn là quân Sở chiếm giữ.

Đại tướng quân Ngô Vương Tôn Hùng chống mâu đứng trước trận tiền, hờ hững nhìn về phía doanh trại trước mặt, binh lính của hắn giống như một bầy kiến liều mạng, đang công kích về phía tòa doanh trại kia. Chòi quan sát, thành lũy trên doanh trại đều hướng ra phía ngoài để chống địch đến từ trước mặt, bây giờ kẻ địch lại đánh xốc ở phía sau lưng, thế địa lợi đã bị hạn chế. Lại thêm cả việc thành lũy doanh trại đều chủ yếu được xây dựng bằng gỗ, dưới những làn mưa tên xối xả công kích liên hồi, hiện tại đã có mấy khu vực lửa cháy phừng phừng, chuyện thất thủ đã không còn phải bàn cãi.

Cung nỏ của người Sở sắc bén lợi hại, tuy nhiên hiện tại tên đã bắn gần hết, hai bên đành phải bắt đầu áp vào nhau dùng vũ khí ngắn đánh giáp lá cà, kiếm thuẫn của người Ngô bắt đầu phát huy uy lực của mình. Kiếm quang lấp lánh, vung vẫy còn khiến người ta phải ớn rét thấu xương, vô số những thanh đoản kiếm chạm vào những chiếc thuẫn thủ, phát ra những tiếng “keng keng” ầm trời, chiến xa của người Ngô giống như một đám mây đen mù mịt, nuốt chửng trận địa của người Sở, những tiếng gầm rú háo hức rít lên đinh tai nhức óc.

Sở đại phu Khuất Vô Trần cầm kiếm đứng ở trên thành trại, lửa bốc cháy ngùn ngụt, bóng dáng cao gầy tựa cành cây khô đứng lẻ loi trong gió. Toàn thân ông khoác trên mình một bộ đồ trắng toát, đeo dây lưng bên hông, đầu quấn khăn trắng, cách ăn mặc như đang để tang vậy.

Ông mặc như vậy, chính là để tang cho mình, để tang cho thân nhân trong gia đình mình, để tang cho hàng nghìn hàng vạn binh sĩ trong doanh trại của mình. Khi quân Ngô phát binh đánh úp Ngư Phản, ông đã biết rằng tòa thành này nhất định sẽ không thể cầm cự được bao lâu. Khi ông đánh lui đợt tấn công lần thứ tư của quân địch, tận dụng thời gi­an quân sĩ đôi bên chỉnh đốn lại chiến trận, liền quay trở về nhà, cưỡng ép ra lệnh cho thê thiếp già trẻ lớn bé trong nhà, tổng cộng là mười bảy người, tất cả đều phải thắt cổ tự tử để tỏ lòng hy sinh vì tổ quốc. Sau đó mặc bộ đồ tang trở lại trận địa, ông đã quyết tâm chiến đấu tới người lính cuối cùng, cùng sống cùng chết với cứ điểm Ngư Phản.

Một dải hàng rào lay động vài cái, rồi sụp đổ ầm ầm. Doanh trại này tuy làm bằng gỗ, nhưng hàng rào đều được xây dựng bằng những khối gỗ to lớn chôn sâu xuống đất. Người Ngô khi công trại đã dùng dây thừng ngựa kéo nhưng cũng không làm cách nào đổ hàng rào cho được. Thế nhưng dưới những làn hỏa công mạnh mẽ, chẳng bao lâu sau chúng đã bị cháy rụi điêu tàn, cuối cùng những hàng rào kia cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình.

Khóe miệng Vương Tôn Hùng lộ ra một tia cười thỏa mãn, bàn tay của hắn nắm chặt dần thanh trường mâu, chậm rãi giơ nó lên không trung. Đầu mâu sắc bén lấp lánh phát ánh sáng chói lòa khi được ánh mặt trời chiếu sáng. Thanh trường mâu huơ trong không trung trong chốc lát, rồi sau đó dưới sự điều khiển của cánh tay vâm đô của Vương Tôn Hùng dũng mãnh lao lên phía trước.

- Giết!

Đội quân dự bị sau lưng Vương Tôn Hùng đồng loạt giơ trường mâu lên, giống như một rừng binh khí sắt thép, nhất tề chĩa về phía trước. Cả rừng trường mâu giống như dòng thủy triều ào ạt lao lên phía trước, toàn bộ đội ngũ xếp thành hình thế, thần tốc lao vào lỗ hổng vừa được tạo ra, tiến thẳng vào doanh trại.

Đôi mắt Khuất Vô Trần đỏ ngầu, giơ trường kiếm lên, khàn giọng hét lớn:

- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!

- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!

Những binh sĩ Sở đôi mắt cũng ngầu máu rời khỏi những lỗ châu mai phía trên doanh trại, lao xuống phía dưới vật lộn với đoàn quân Ngô. Kiếm thuẫn, trường mâu kết hợp , tạo thành một tiểu đội hoàn mỹ hợp tác tác chiến với nhau. Quân Sở còn lâu mới là đối thủ của đội quân Ngô quen dùng vũ khí ngắn này, máu tươi, chết chóc cứ không ngừng tăng lên…

Khuất Vô Trần thề sống mái với quân thù giống như kẻ điên, tay cầm trường kiếm của người Sở lao thẳng vào trong trận địa của quân Ngô, không màng sống chết đâm chém lung tung. Lưỡi kiếm gạt bỏ hết được những thanh trường mâu tạt tới, vận hết sức bình sinh, nhưng chỉ là phí công vô ích, đâm bổ mãi cũng chỉ chạm được vào những trận địa thuẫn được bố trí nghiêm mật.

- A!

Khuất Vô Trần ngửa mặt lên trời thét dài một tiếng, rồi khuỵu gối xuống vung kiếm quét một vòng, trong khoảnh khắc hàng thuẫn của quân Ngô có chút lơi lỏng, đã chặt đứt một chân của một viên binh sĩ, sau đó ông dùng chân đá bay tấm thuẫn kia, đạp ngã tên lính đã cụt một chân đang kêu rú thảm thiết ngã sóng xoài, lợi dụng lỗ hổng lao lên phía trước.

“Keng” một tiếng, một thanh trường mâu đột nhiên xuất hiện trước mặt, mũi mâu gi­ao kích với trường kiếm, thanh kiếm vốn đã sứt mẻ nhiều chỗ giờ đây lại xuất hiện một vết nứt rỗ lớn, Khuất Vô Trần loạng choạng lùi lại, trước mặt là một vị tướng quân đang đứng ngạo nghễ.

Giáp nhẹ, trường mâu, đứng sừng sững hiên ngang, sát khí hầm hầm ngưng tụ trên đôi mắt của hắn.

- Sở nhân Khuất Vô Trần ở đây, ngươi là kẻ nào?

Người kia nhẹ nhàng nhấc trường mâu lên, đạo mạo nói:

- Ngô nhân Vương Tôn Hùng.

“Được!” Khuất Vô Trần cười khó khăn, trường kiếm dựng thẳng, đôi mắt đỏ ngầu chằm chằm nhìn đối phương.

Vương Tôn Hùng đứng nghiêng người, một tay cầm mâu, tay kia khẽ phẩy, sĩ tốt quân Ngô bốn bề lập tức dạt về phía sau, hình thành một bức tường vòng tròn, trong vòng tròn là Khuất Vô Trần và Vương Tôn Hùng người cầm kiếm kẻ cầm mâu, ngoài vòng tròn, là những binh sĩ Sở quốc và những tướng sĩ Ngô quốc giống như bầy hổ lang đang ngã xuống, số lượng càng ngày càng ít dần.

- Tướng quân xin hãy xuất chiêu đi!

Vương Tôn Hùng một tay cầm mâu, hướng mũi mâu về phía trước, quát giọng lanh lảnh.

- Ya!

Khuất Vô Trần xoay người lao tới, mượn tốc độ di chuyển nhanh chóng của bước chân và sức lực của cơ vai, liên tiếp bổ xuống mười mấy kiếm, giống như cuồng phong đâm bổ về phía Vương Tôn Hùng.

Vương Tôn Hùng cầm trường mâu, vung vẫy khiêu khích, lui dần về phía sau, binh khí hai bên va đụng vào nhau, tiếng va đập vang lên không ngớt, liên tiếp mười mấy kích, “Keng” một tiếng, thanh kiếm của Khuất Vô Trần không chịu nổi những đợt phản kích dữ dội uy lực, đã bị gãy ra thành hai đoạn, trường mâu của Vương Tôn Hùng chĩa về ngực ông, mũi mâu sắc bén đã tiếp giáp với áo bào, áp sát vào trước ngực, Vương Tôn Hùng cười nhạt, quát lớn:

- Hàng hay chết?

Sau tiếng “keng”, một nửa thanh trường kiếm rơi xuống bãi cát, Khuất Vô Trần cười bi phẫn, cầm lấy nửa thanh kiếm còn lại trong tay, gọt một đường thẳng tắp trên cổ mình, máu tươi phun ra liên hồi, ứa ra chảy tràn khắp áo bào như hoa mai nở. Vương Tôn Hùng khẽ thở dài:

- Biết rõ là không địch lại được, tại sao còn cố chấp như vậy?

Hắn lắc tay, thu trường mâu lại, thân hình Khuất Vô Trần khẽ lảo đảo, thần thái trong mắt tiêu tan dần, khóe môi khẽ động đậy, dường như còn muốn nói điều gì, nhưng sau một hơi thở hắt ra, ông đã đổ người xuống đất.

Binh sĩ bốn bề quan sát trông thấy vậy thì giương cao binh khí trong tay, hoan hô hưởng ứng, có người đã cao giọng nói to:

- Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết! Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết!

Tiếng kêu truyền ra khắp doanh trại, lúc này đã là biển lửa, những tốp binh sĩ Sở tụm lại thành nhóm ba, năm người bị quân Ngô chia cách, từng hàng trường mâu và kiếm thuẫn bao bọc lấy những tướng sĩ Sở quốc còn lại, bọn họ giống như những chiếc lá héo tàn giữa phong ba bão tố, bị gió bão giày xéo, bảy nổi ba chìm. Cho dù bọn họ đã ôm lòng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, nhưng nghe được thông tin này, quyết tâm thề chết đã bị dao động, những chiếc “lá rụng” kia đã bị cuồng phong dập nát.

Vương Tôn Hùng bước qua những tử thi và máu tươi lênh láng trên đường, trong tiếng chém giết sang sảng quát lớn:

- Kẻ nào không chịu đầu hàng thì giết chết không tha, nhanh chóng thu dọn chiến trường, thu nạp toàn bộ chiến thuyền lớn nhỏ, giữ lại ba mươi chiếc dự trữ, số còn lại gom lại rồi đốt hết!

Dĩnh Đô, một đội kéo dài nhìn mãi không thấy điểm tận. Những đội xe ngựa của các công khanh, thân sĩ từ Sở quốc lập thành một đội, được binh sĩ tinh nhuệ hộ tống, hành trình thẳng tới Ngô quốc. Một đội nhân mã tạm thời được điều về Ngư Phản, đem những vật trang tư dụng cướp bóc được theo đường thủy trở về nước.

Hạp Lư dường như muốn mang theo cả toàn bộ Sở quốc vậy, tất cả vật tư quân nhu, công cụ sinh hoạt, vàng bạc châu báu, binh khí sắt thép, bất kể là dùng được hay là không đều được vận chuyển cho bằng hết. Bây giờ hắn không lo là không có xe ngựa, mà hắn lo là không đủ người đi theo hộ tống hết chỗ xe ngựa chở đồ này. Tất cả những của cải vật chất của Sở quốc tích lũy suốt hơn năm trăm năm nay sắp bị Hạp Lư vơ vét thu vào túi riêng sạch sẽ.

- Tránh ra! Tránh ra!

Hơn mười viên đại hán cưỡi khoái mã, trên vai cắm lá cờ nhỏ, hẳn là tín sứ trong quân, một tay quất roi thúc ngựa, một tay soải ra đuổi tránh những đoàn quân đang chở của cải sang hai bên, khiến cho đoàn quân ngũ xiêu vẹo méo mó phải nhường ra một con đường, đoàn người tức tốc vọt lên thoát khỏi đám đông.

Bọn họ chính là những tín sứ được Cơ Quang phái đi, Cơ Quang có ý muốn cầm cự thêm ở Dĩnh Đô một thời gi­an nữa, chống đỡ những đợt tấn công của liên quân Khánh Kỵ với người Sở. Đợi đến khi Tề Tấn có phản ứng, đại cục thiên hạ xoay vần, nhưng thực sự thì hắn vẫn chưa thể yên tâm với Ngô quốc, liền phái người cưỡi khoái mã quay về, bàn mưu tính kế hợp mưu hành động với bào đệ Phu Khái và thái tử Phù Sai.

Cơ Quang lệnh cho bào đệ Phu Khái đề phòng nghiêm ngặt Việt quốc, nước trước nay luôn câu kết với Sở quốc làm điều gi­an “nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của”, lệnh cho thái tử Phù Sai phái thám mã, cùng với những trinh sát được mình phái đi giám sát nghiêm ngặt mọi con đường yếu đạo đi tới Ngô quốc, để đề phòng Khánh Kỵ chỉ Nam đánh Bắc, giả ý liên minh với Sở quốc, kỳ thực ngấm ngầm tập kích Ngô quốc.

Cùng lúc đó, hắn phái vài lộ đại quân chia ra cát cứ chiếm đóng ở những cửa ải hiểm yếu xung quanh Dĩnh Đô, định bụng thừa lúc quân đội cần vương của người Sở chưa kịp hội quân chiếm cứ toàn bộ những vùng yếu địa chiến lược, chiếm lấy ưu thế về địa lý.

Xung quanh Dĩnh Đô, tất cả những cửa ải hiểm yếu, nơi nào cũng có quân Ngô canh giữ, chiến hỏa phừng phừng…

- Nằm giữa hai ngọn núi, tòa thành lũy kia là nơi nào vậy?

Khánh Kỵ ẩn mình trong rừng rậm, phóng mắt quan sát trận địa, hỏi một binh sĩ Sở dẫn đường.

- À, tướng quân, tòa thành nhỏ kia chính là Na Xứ (dịch sang tiếng Việt là “chỗ đó”)

- Đúng vậy, chính là tòa thành đó, nó tên là gì vậy?

- Ách… tướng quân, tòa thành nhỏ đó, tên gọi của nó chính là “Na Xứ”

- Gì cơ?

Khánh Kỵ khẽ ngẩn người ra, sau đó cười khẩy nói:

- Cái tên này thật khiến người ta cảm thấy kỳ lạ.

Hắn ngẩng đầu nhìn tiết trời, bóng tịch dương đã buông xuống, bầu trời còn hơi chút ửng đỏ, nhưng khí lạnh đã bắt đầu lan tỏa. Tuy rằng đây là vùng Gi­ang Nam, mùa đông cũng chả được coi là lạnh lẽo cắt da cắt thịt, nhưng màu sắc của bầu trời lẫn mặt đất, vẫn khiến cho người ta cảm nhận được một sự ảm đạm thê lương, sầu não đến vô cùng.

- Căn dặn ba quân tướng sĩ tất cả ẩn vào trong rừng nghỉ ngơi, không được nhóm lửa, không được gây ra tiếng động lớn, coi chừng lũ ngựa thật tốt.

- Rõ.

A Cừu chắp tay vâng lệnh, vội vã lui ra.

- Diêu Quang…

Nhìn thấy viên lính dẫn đường cũng theo đó lui ra ngoài, Khánh Kỵ liền cười ôn hòa nói với Thúc Tôn Diêu Quang đang đứng kế bên:

- Đêm nay khi phát động cuộc tập kích với tòa thành đó, nàng chỉ được ở trận địa phía sau, tuyệt đối không được xung phung lên trước, khiến ta bị phân tâm.

- Dạ! Biết rồi, đánh trận, là chuyện của đàn ông mà…

Thúc Tôn Diêu Quang cười ngọt ngào, thái độ rất hòa nhã:

- Nhưng… chàng… chàng phải cẩn thận, nếu như chàng gặp phải một chút thương tổn nào, thì lần sau thiếp nhất định phải được sát cánh chiến đấu bên cạnh chàng.

- Được!

Khánh Kỵ mỉm cười.

Hôm đó khi phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang ở trong đoàn quân, cho dù hắn cảm giác được rằng hành động “mừng rỡ bất ngờ ngoài ý muốn” của mình có chút vụng về, nhưng dường như Thúc Tôn Diêu Quang vẫn cho là thật, nàng trước sau chẳng thèm dò hỏi nghi ngờ lấy một câu, cũng không có một lời than vãn trách móc, điều này khiến cho Quý Tôn Tiểu Man vốn đang nghĩ sẽ được xem kịch hay có đôi chút thất vọng.

Còn Khánh Kỵ thì như đi guốc trong bụng với những biểu hiện của Thúc Tôn Diêu Quang, nàng không phải là không nhận ra điều gì, mà là bởi vì lúc này là lúc Khánh Kỵ đang lĩnh binh phạt Ngô phục quốc, là một thời khắc vô cùng vô cùng quan trọng, cho dù nàng chất chứa một bụng nghi ngờ, nhưng cũng không thể hiện ra ngoài, đề cập đến khiến Khánh Kỵ phân tâm trong thời khắc như vậy.

Việc khéo hiểu lòng người cùng phong độ biết rõ thời cuộc, công tư phân minh của Thúc Tôn Diêu Quang khiến cho Khánh Kỵ đã kính giờ còn càng thêm yêu nàng. Những ngày qua hai người sát cánh hành quân, bàn bạc việc quân, mặc dù đã không còn nhiều thời gi­an bàn chuyện phong hoa tuyết nguyệt như hồi ở Phí thành, nhưng tình cảm của hai người ngược lại càng thêm bền chặt keo sơn.

Chỉ là… sau trận đại chiến thì sao? Khánh Kỵ không hề quên, có một đêm hắn đưa Diêu Quang về trướng, muốn thừa cơ vui đùa với nàng một tí, không ngờ nàng nha đầu này đột nhiên nổi cơn ghen tuông nói:

- Đi đi đi, người ta bây giờ đang giúp chàng đánh trận vẫn chưa đủ sao? Muốn tìm nữ nhân à, đi mà tìm Ngải tướng quân của chàng ấy. Hứ, còn định già mồm cãi chối ư? Chàng dám nói việc cởi bào tặng áo hôm bão tuyết đó không có chút tình cảm nam nữ nào, chỉ là quân tâm thuộc hạ mà thôi sao? Hừ! Đợi khi chàng làm xong đại sự, thiếp sẽ lại tính sổ với chàng!

Đừng tưởng nàng ôn nhu hiền hòa như nước, sự đanh đá chua ngoa của nàng so với sự điêu toa giả dối của Tiểu Ngải còn trên một bậc, bây giờ nàng giấu đi nanh vuốt sắc bén, đợi khi đại cục đã định sẽ bắt đầu phát tác trở lại. E rằng sẽ khiến người ta phải kinh hãi muôn phần. “Đi một bước nhìn một bước, trước mắt hai a đầu này đang thầm tranh đấu gầm ghè lẫn nhau, toàn bộ công phu cao thấp đều dồn vào trong chiến sự, chưa hẳn đã là chuyện không tốt.” Khánh Kỵ khẽ nhìn trộm dung nhan giảo mỹ của nàng, thầm nghĩ như vậy trong lòng.

Bóng tịch dương vàng vọt, nhuốm lên trên dung mạo đẹp đẽ của Thúc Tôn Diêu Quang một đường viền vàng vọt, tựa hồ như cảm thấy Khánh Kỵ đang nhìn mình, nàng liền liếc nhìn sang phía Khánh Kỵ. Khánh Kỵ vội thu lại ánh nhìn, nhìn thẳng về phía trước, hai người chầm chậm bước xuống bãi cỏ dưới sườn núi, đang muốn vượt qua một con suối, một chân Khánh Kỵ choạng vạng, suýt tí nữa thì chạm nước.

- Địa hình của tòa thành này thật hiểm trở.

Khánh Kỵ nén giọng nói xuống rất thấp.

Yểm Dư, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, còn cả A Cừu Tái Cừu, các tướng lĩnh thân thuộc chúm chụm lại thành vòng tròn, không có đống lửa nổi lên ở giữa. Màn đêm tối tăm, ánh trăng ảm đạm, nhìn không rõ mặt mũi mọi người, chỉ có thể nhờ vào ánh trăng sao lấp lánh chiếu lờ mờ, trong giọng nói và thân hình của mỗi người để nhận ra thân phận của họ.

Trong bóng tối, ngũ quan Khánh Kỵ khó nhìn rõ được, chỉ có đôi mắt sáng lóe phát ra ánh sáng rạng rỡ.

- Theo tình hình suốt chặng đường chúng ta dò la xem xét, vị trí địa lý của tòa thành này cực kỳ có lợi cho những hành động tiếp theo của chúng ta, vì vậy, ta muốn chiếm cho bằng được tòa thành này, biến nó thành đại bản doanh của chúng ta.

Yểm Dư công tử lên tiếng nói:

- Tòa Na Xử thành này không lớn lắm, là nơi trú chân cho ba vạn đại quân của ta e rằng hơi chật chội, bức bối, còn về ưu thế địa lý…, Khánh Kỵ, cháu hãy nói cho mọi người biết lý do và dự định tại sao lại chọn tòa thành này, cho mọi người thương nghị xem sao.

- Dự định của ta, mọi người đều biết rõ. Cơ Quang phạt Sở, điều động đại bộ phận quân tinh nhuệ Ngô quốc, mục đích của chúng ta chính là dẫn dụ hắn vướng vào trong cuộc chiến tranh với Sở quốc, nhân lúc trong nước không có vua quân coi giữ, chiếm lại quyền kiểm soát Ngô quốc. Hiện tại, những tuyến đường gi­ao thông huyết mạch từ Ngô quốc sang Sở quốc đều nằm trong tay của Cơ Quang. Hàng vạn đại quân của ta hành quân, tuyệt đối không thể lọt qua được tai mắt của hắn, vì vậy, những con đường yếu đạo cả trên thủy lẫn trên bộ từ hướng Đông sang Ngô quốc chắc mẩm đã được bố phòng dày đặc mật thám của Cơ Quang, nếu chúng ta vứt bỏ Cơ Quang sang một bên, trực tiếp tập kích thẳng tới Ngô quốc, như vậy thì Cơ Quang có thể quay về nước nhanh hơn chúng ta một bước, đó là điều chắc chắn.

Cho dù chúng ta có thể tiến tới Ngô quốc đồng thời với hắn, hoặc thậm chí đi trước một bước, cũng chắc chắn phải đối mặt với sự chống cự quyết liệt từ phía quân thủ thành mà Cơ Quang để lại trong nước, bất kể chúng ta có công thành phá trại thế nào, đại quân chủ lực của Cơ Quang cũng sẽ trở về kịp, như vậy thì đại kế sách của chúng ta sẽ tan thành mây khói. Vì vậy, chúng ta phải dàn dựng như thể sẽ tạo ra một trận quyết tử với Cơ Quang tại Sở quốc, khiến hắn mơ hồ, đưa ra cái nhìn sai lầm về bố cục. Lợi dụng cơ hội đang kết minh với Sở quốc mà vây chặt hắn tại đây, nếu chuyện không thành, thì cũng phải tận lực tiêu hao binh lực của hắn, tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho chúng ta trong các cuộc đại chiến sau này trên lãnh thổ đất Ngô. Lực lượng mà ta dùng để tấn công thực sự vào Ngô quốc nằm ở Lỗ quốc, đó là đội quân hiện tại do Chúc Dung vương thúc, Tôn Vũ, cùng Anh Đào thống lĩnh, đó chính là đội kì binh phạt Ngô phục quốc của chúng ta.

Địa thế của tòa thành Na Xử kia rất hiểm yếu, là một trong ba tuyến đường bộ mà Cơ Quang lựa chọn để rút quân, hơn nữa lại là con đường ngắn, nhanh và tiện lợi nhất, là vùng đất mà trong binh gia buộc phải có được, đây chính là lý do quan trọng thứ nhất mà ta chọn nó. Thứ hai, nơi này nếu tiến về Nam, có thể công phá Dĩnh Đô, một khi đội quân cần vương của Sở quốc tề tụ đông đủ, chúng ta có thể mượn nơi này làm bàn đạp để tạo thành thế gọng kìm với Sở quân kẹp Cơ Quang lại; Nơi này nếu tiến về Bắc, chỉ hai mươi dặm xa đã đi tới Hán Thủy, chúng ta thủ tại nơi này, dựa vào địa lợi, khi thời cơ thích hợp, có thể rút lui quân đội bất cứ lúc nào, men theo dòng Hán Thủy Đông tiến, từ vùng nước Trường Gi­ang giết trở lại Ngô quốc, rồi lại đi đường bộ, đây cũng là đoạn đường ngắn nhất.

- À…,

Yểm Dư trầm ngâm trong chốc lát, rồi vuốt cằm nói:

- Không sai, suy nghĩ của cháu thật thấu đáo, ta đồng ý với quyết định của cháu, có điều ta còn có một vài ý kiến nữa. Gần ba vạn đại quân của ta, tất cả dồn tụ đồn trú tại nơi này là không hợp lý, huống hồ tuy bảo nơi này là hiểm địa, nhưng nó cũng là tuyệt địa, đội quân cần vương của người Sở hiện tại đang lục tục đi về Tùy quốc, nhất thời không thể tới đây, nếu như chúng ta chiếm đóng tòa thành đó vào thời điểm này, Cơ Quang nhất định sẽ phái trọng binh đánh ngược trở lại, chẳng may để chúng bao vây trong tòa thành đó, đội quân cô độc của chúng ta sẽ trở nên “khéo quá hóa vụng” mất thôi.

Ta chinh chiến ở Sở quốc suốt một năm, có hiểu biết nhất định về địa hình địa lý ở nơi này. Ta còn nhớ từ nơi này hướng về phía Tây Bắc, khoảng chừng ba mươi dặm, có một chiếc hồ lớn dựa vào núi, hồ tên gọi là Bách Tân. Hồ Bách Tân thông sông Hán, nối sông Chương, chu vi vài trăm dặm, dựa núi tựa hồ, dễ thủ khó công. Theo ý kiến của ta, sau khi chúng ta hạ xong tòa thành này sẽ chia binh đồn trú ở hồ Bách Tân, tạo thành thế ỷ giốc với tòa thành này, tương trợ lẫn nhau. Như vậy sẽ tránh bị rơi vào tình thế hiểm nghèo cô lập.

Kinh Lâm khen ngợi:

- Lời công tử Yểm Dư nói quả là chí lý. Chuyện binh không thể khinh suất, nên dùng kế sách vẹn toàn này. Hơn nữa, chúng ta phạt Ngô sẽ có khả năng phải dùng tới đường thủy. Con đường đó đến từ Vệ quốc, chúng ta lại không có lấy nổi một còn thuyền. Hồ Bách Tân khuôn viên mấy trăm dặm, lại thông tới Hán Thủy, nhân mã của chúng ta đồn trú tại hồ Bách Tân có thể nhân tiện thu gom thuyền bè lại phòng khi sử dụng tới, một khi đến lúc sử dụng là có thể tùy ý huy động được ngay.

Mọi người bàn tán sôi nổi, ai nấy đều phát biểu bổ sung ý kiến, cho đến khi ánh trăng đã lên cao vời vợi, chiếu sáng mọi nơi, khiến cho bóng dáng của họ in trên nền đất che lấp khuôn mặt người đối diện, đám đông mới thôi bàn tán. Mọi người thống nhất, trước tiên đoạt lấy tòa thành này, chiếm đóng con đường bộ chính yếu để lui binh của Cơ Quang. Sau đó chia binh ra hồ Bách Tân, kết hợp với nhau chặt chẽ, đồng thời thu gom thuyền bè để sử dụng lúc về Ngô tác chiến. Trong màn đêm, tòa thành kia bốn bề yên ắng, đại đội nhân mã nấp sau cánh rừng rậm rạp, Khánh Kỵ chỉ cầm ba ngàn binh sĩ già dặn có kinh nghiệm tác chiến lâu năm, trườn sấp đi về phía trước, từ từ tiếp cận tòa thành. Tại một nơi trên sườn núi, Khánh Kỵ ra lệnh quân sĩ dừng lại, ngẩng đầu xem xét tỉ mỉ động tĩnh trong thành, tòa thành kia trong bóng đêm giống như một con quái thú cô hồn dạ quỷ, lẳng lặng thủ phục ở đằng kia.

Ghé tai nghe ngóng động tĩnh trong thành, Khánh Kỵ lặng lẽ đứng lên, nắm chặt thanh trường mâu trong tay:

- Xung trận đoạt thành! Ai lên thành trước được tấn thêm một bậc, giết tên đầu sỏ được tấn hai bậc, xuất phát!

Trong màn đêm yên tĩnh, phát ra một tiếng động, đó chính là âm thanh phát ra do ma sát từ những bộ giáp trụ của binh sĩ khi nhất tề đứng dậy. Sườn núi bỗng nhiên cao thêm một đoạn, kiếm kích sắc bén dưới ánh trăng tỏa sáng phát ra những ánh quang mang ớn lạnh. Những công cụ công thành thô sơ được các võ sĩ nhấc lên, bọn họ giống như dòng thủy triều đổ xuống sườn núi, tiếng bước chân rầm rập từ từ phát lớn, như voi dữ dậm chân, đất đai rung chuyển.

- Giết!

Khi bọn họ tiến tới dưới chân thành, có người phát ra một tiếng thét gầm giận dữ, giống như thể dòng đại hồng thủy tìm được lỗ hổng để xối xả, ba nghìn sĩ binh cùng lúc hô gào, một tiếng gầm đáng sợ phát ra trong đêm đen, quây lấy tòa thành trì nhỏ bé kia.

Chiến kiếm huy vũ, những công cụ đầu nhọn thô kệch công thành va đập vào chiếc cổng thành mỏng manh, một làn hỏa tiễn trong đêm như cơn mưa sao băng rót xuống tòa thành, ánh lửa và sắc máu tóe ra không ngừng.

Dưới sự công kích không ngừng, chiếc cổng thành không được dày dặn cho lắm đã bị đánh phá cho bầm dập gãy nát, trong ngoài thành ánh lửa bốn bề, quân trên thành và quân thủ thành của Ngô quốc bắt đầu triển khai chiến trận, hơn trăm chiếc thang gỗ thô sơ được gác lên tòa thành thấp nhỏ, binh sĩ trườn bò lên như bầy kiến, không ngừng có người kêu thảm rớt xuống dưới, không ngừng có người tiếp tục leo lên, quan binh thủ thành vội vã ứng chiến rất nhanh chóng bước vào gi­ai đoạn gi­ao chiến bằng binh khí ngắn.

- Quân địch không phải người Sở!

Có người nhìn thấy qua ánh lửa lập lòe, phát ra câu nói kinh hãi.

- Ngô quốc Khánh Kỵ, thảo phạt nghịch tặc Cơ Quang, kẻ nào hàng thì sống, chống cự thì chết!

Nhân mã của Khánh Kỵ thuận đà la lớn.

Khánh Kỵ rời nước mới được hơn một năm, trong đám sĩ binh người Ngô vẫn còn uy danh là “kẻ không thể đánh bại”, vừa nghe tới đây là nhân mã của Khánh Kỵ, những quan binh Ngô quốc vốn đã trở tay không kịp nay lại càng thêm hoảng loạn.

Khánh Kỵ ngạo nghễ đứng trên trận tiền, có chút nhíu mày, Yểm Dư cầm mâu đứng kế bên, bèn hỏi:

- Đang nghĩ gì vậy?

Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, hạ giọng nói:

- Sự phản kháng của quân Ngô mạnh mẽ hơn là ta tưởng.

Yểm Dư cũng thoáng gật đầu:

- Đúng vậy, hơn một năm nay, quân Ngô với ta đã nhiều lần đại chiến ở Sở quốc, ngu thúc (chỉ Yểm Dư) bất tài, nhiều lần bại trận, sự sợ hãi trong lòng của quân Ngô đã rất nhỏ nhoi.

Khánh Kỵ lắc đầu nói:

- Vương thúc cố nhiên binh bại tại Sở quốc, Khánh Kỵ lần trước phạt Ngô không thành, bại trận trở về, cũng khiến cho sự lo sợ của đám sĩ tốt giảm đi nhiều. Huống hồ, nguyên nhân quan trọng nhất chính là, trong thời gi­an hơn một năm qua, e là Cơ Quang đã thay thế toàn bộ tướng lĩnh trong quân đội rồi.

Hắn im lặng trong chốc lát, rồi bỗng nhiên cười nói:

- Cơ Quang thay thế tướng lĩnh quân đội, nhưng mới chỉ được có một năm có lẻ, trẻ con của Ngô quốc vẫn chưa trưởng thành, hắn không thể nào thay thế toàn bộ binh sĩ tướng lĩnh trong quân được. Binh lính Ngô quốc đã quên mất võ dũng của hai ta, vậy chúng ta hãy dùng sự thực, khiến bọn chúng lại lần nữa phải sợ hãi e dè!

Câu nói của Khánh Kỵ nhen nhóm ý chí chiến đấu trong lòng Yểm Dư, hắn nắm chặt trường mâu, cao giọng cười lớn:

- Chính xác, chúng ta hãy dùng sự thực bằng máu nóng, khiến cho chúng sợ hãi lần nữa.

Hai chú cháu nhìn nhau cười ha hả, tiếng trống trận kinh động lòng người vang lên dồn dập, xóa sạch tàn vết của những âm thanh khác trên chiến trường.

- Theo bản công tử công thành, trong thời gi­an ba nén hương phải chiếm cho được tòa thành này!

Khánh Kỵ và Yểm Dư cầm mâu xung phong, tám trăm binh sĩ tay cầm kiếm mâu theo sát phía sau, bọn họ đạp mạnh từng bước về phía trước, mỗi lần đi một bước, liền dùng sống kiếm đập lên bì thuẫn thật mạnh, phát ra tiếng “Coong” thật mạnh. Tám trăm người đồng thời dùng kiếm gõ thuẫn, tiếng động này giống như tiếng rít gào, còn đáng sợ hơn cả tiếng trống trận.

- Coong! Coong! Coong!

Khánh Kỵ và Yểm Dư soái lĩnh binh lính, đích thân xông lên phía trước.

Đôi bên đã bước vào giáp chiến, điều Khánh Kỵ không ngờ tới là, binh sĩ Ngô quốc cố sống cố chết kháng cự, thề chết không lui. Hắn điên tiết lên, sát ý nảy sinh. Binh sĩ Ngô quốc chết trong trường mâu của hắn đã đếm không xuể, toàn thân chiến bào đều nhuốm đỏ sắc máu. Toàn bộ tòa thành đã không còn những tiếng chỉ huy (đúng hơn là thét gào chỉ huy thế nào cũng chả ai nghe thấy), ai ai cũng chỉ lo chiến đấu vì bản thân mình. Đám hộ binh quây kín xung quanh Khánh Kỵ chuyển vào một hẻm nhỏ, trong căn hẻm tối tăm đột nhiên vang lên một hồi thanh âm.

- Cẩn thận đề phòng!

Khánh Kỵ hét lớn, đồng thời vứt bỏ thanh trường mâu lúc này đã không còn thích hợp khi chiến đấu trong ngõ hẹp, rút ra Thừa Ảnh kiếm của hắn. Hắn đã ý thức được rằng mình đang lâm vào một trận địa phục kích của địch. Một bóng đen trước mặt mang theo một luồng sát khí lao tới, Khánh Kỵ nghiêng người xoay chuyển, Thừa Ảnh kiếm linh hoạt quét một đường nửa hình tròn, chém đứt ngọt xớt đầu lâu của đối thủ, cùng lúc mũi kiếm chỉ về phía trước, khi tên địch thứ hai còn chưa kịp phản ứng, thì lưỡi kiếm đã xuyên thẳng qua ngực hắn.

“Cạch cạch cạch”, tiếng bước chân phía sau vang lên dị thường, Khánh Kỵ không chút nghĩ ngợi, vặn người lại, kiếm quang bổ xuống, “keng” một tiếng, song kiếm gi­ao thoa, đoản kiếm của người kia bị hắn một kiếm chém đứt, lưỡi kiếm của Khánh Kỵ bổ xuống chính giữa mặt hắn, từ mũi xuống cổ, rạch một đường máu thẳng tắp, găm lại tại vùng xương đòn trước ngực, Khánh Kỵ thu kiếm, phía sau vang lên một tiếng bình bịch của thân thể đổ xuống, toán quân Ngô đó đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

“Phừng!” Một cây đuốc được thắp lên, Khánh Kỵ một tay cầm đuốc, một tay cầm Thừa Ảnh kiếm, đằng đằng sát khí soi rõ khuôn mặt tên quân Ngô vừa đánh lén hắn, tuy rằng tên đó nằm trong vũng máu, nhưng hắn vẫn chưa chết.

Ánh lửa lờ mờ, dường như có chút thân thuộc, có điều máu me khắp mặt, không dám khẳng định chính xác, Khánh Kỵ nguôi ngoai sát khí, quát rằng:

- Ta là vương tử Khánh Kỵ, ngươi là kẻ nào?

Người kia sửng sốt, sau đó cười buồn bã nói:

- Khánh Kỵ? Thì ra là ngươi…

Khánh Kỵ nghe thấy giọng nói đó, thân thể không khỏi chấn động, nghẹn ngào kêu lên:

- Sư phó?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 189: Cuộc chiến thầm lặng (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

- Cát Hoa sư phó!

Khánh Kỵ vội vàng quăng kiếm, ngồi xổm xuống đỡ ông vào trong lòng. Đám lính đứng vây quanh cầm đuốc soi sáng, để bọn họ ở chính giữa, cây đuốc vang lên tiếng rít gào trong gió lạnh, nghe mà sởn hết gai ốc.

- Vương tử…

Cát Hoa muốn cười lắm, nhưng hắn bị một kiếm của Khánh Kỵ bổ từ trên trán xuống dưới hàm, đôi môi đều nứt cả ra, nụ cười trông vô cùng kỳ dị, lại thêm khuôn mặt máu me be bét, trông giống như quỷ dạ xoa hiển linh vậy.

- Hồi vương tử còn nhỏ, Cát Hoa luôn đau đầu nghĩ cách để thua vương tử, đến khi công tử trưởng thành, Cát Hoa muốn không thua cũng chẳng được nữa. Vương tử từ nhỏ chí lớn, Cát Hoa thua giả thua thật với người, trước sau đã có cả vài nghìn lần rồi, lần này… lần này có lẽ là lần cuối cùng rồi.

- Sư phó!

Khánh Kỵ không cầm được lòng bật khóc, nước mắt chảy ròng ròng, hai người động thủ trong bóng đêm, Cát Hoa không biết rằng người mà mình đợi sẵn ở đây mai phục chính là Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không hề biết rằng người mà hắn phản kích lại là ân sư dạy võ, võ công của Cát Hoa hiện tại đã không bằng hắn, nhưng cũng không thể một chiêu hạ thủ như vậy được, trừ phi kiếm của Khánh Kỵ quá sắc bén, nếu không thì Cát Hoa đã không dễ dàng táng mạng như vậy.

Từ thuở nhỏ, Khánh Kỵ đã được cha là Ngô Vương Liêu chọn lựa cho hắn bốn vị sư phó võ nghệ cao cường truyền dạy võ công, trong bốn người đó Cát Hoa là người truyền thụ kiếm thuật cho hắn, tính tình của ông là hiền hòa nhất, cũng bởi Khánh Kỵ là con cưng của Ngô Vương, nên Cát Hoa không khỏi có phần nuông chiều hắn. Khánh Kỵ hoặc là ham chơi, hoặc là lười biếng, Cát Hoa đều cố tình che giấu hộ hắn. Ông không phải là người thầy nghiêm khắc, nhưng trong lòng Khánh Kỵ thuở còn ấu thơ, luôn cảm thấy rằng ông là người sư phó tuyệt vời nhất. Giờ đây ông chết thảm dưới lưỡi kiếm vô tình của Khánh Kỵ, khiến hắn không cầm được lòng mình, kêu khóc thống thiết.

Cát Hoa thở dốc liên hồi, giọng nói yếu ớt:

- Vương tử, xin dung thứ… xin dung thứ cho tội kháng cự tập kích của Cát Hoa. Cát Hoa… Cát Hoa cũng là do bất đắc dĩ…

- Con không trách thầy, không trách thầy, sư phó, người đừng nói gì nữa, con lập tức đi tìm y sĩ…

Đôi mắt của Cát Hoa đã được che phủ bởi một tầng máu tươi, những gì ông trông thấy chỉ là một dải dài sắc máu, không còn nhìn thấy hình hài của Khánh Kỵ nữa. Cơ thể ông khẽ run rẩy, cảm giác càng lúc càng lạnh lẽo. Biết rằng mình đã không thể qua khỏi, liền nắm chặt lấy tay của Khánh Kỵ, gắng hết sức nói:

- Vương tử, Cát Hoa… đã không trụ nổi thêm được nữa rồi. Xin đừng oán hận Cát Hoa, cũng xin đừng… oán hận những sĩ tốt kia…

Thanh âm của ông ngày càng yếu ớt, cố gắng cầm hơi nói nhỏ:

- Đại vương… đại vương nghe nói vương tử đến Sở quốc, đã… đã hạ lệnh xuống ba quân tướng sĩ: Phàm là Ngô quân, chỉ cần đụng độ Khánh Kỵ, kẻ nào không đánh, tự ý rút lui… Giết! Vứt bỏ binh khí đầu hàng, giết… giết hết cả nhà. Cát Hoa… Cát Hoa bất đắc dĩ…

Khánh Kỵ phải hơi nghiêng tai mới có thể nghe rõ những tiếng thì thào yếu ớt của ông, Cát Hoa nói tới đây bỗng nhiên ngừng lại, Khánh Kỵ từ từ nâng đầu lên, chỉ thấy đầu của ông đã rủ xuống khuỷu tay của mình, bàn tay kia vẫn nắm chặt lấy cánh tay mình, chặt tới mức mảnh giáp che tay hơi lõm xuống.

Khánh Kỵ ngồi quỳ trên mặt đất rất lâu, cho đến khi thân thể đã cứng đờ, mới dùng tay gạt từng ngón tay của ông ra, từ từ đặt ông nằm ngay ngắn trên đất, cơ thể của hắn đã nhuốm đầy những giọt máu đã khô lại của Cát Hoa, từng cơn gió thổi qua, khiến cho da thịt trên cơ thể hắn khẽ rùng mình.

Tiếng chém giết bốn bề đã ngừng lại, nhiều đội sĩ tốt thắp đuốc tuần tra lùng sục khắp thành. Có người nhìn thấy Khánh Kỵ đang ở nơi này, Lương Hổ Tử cụt tay cầm theo thanh trường kiếm đang rỏ máu ròng ròng rảo bước về phía hắn.

- Thu liễm thi thể của ông, rồi chôn cất ông cho tử tế, để ông được yên nghỉ.

Khánh Kỵ khe khẽ căn dặn cho sĩ tốt đứng bên.

- Công tử!

Lương Hổ Tử chạy tới gần, chắp tay nói:

- Tòa thành đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của chúng ta, thật kỳ lạ, lần này quân Ngô chống cự quyết liệt khác thường, biết rõ không địch nổi vậy mà có rất ít kẻ đào tẩu, gây tổn thất không ít cho các huynh đệ của chúng ta. Không biết trong thành có nhân vật quan trọng gì không, A Cừu và Tái Cừu đang thẩm vấn một số tù binh ít ỏi bắt được.

- Chẳng có nhân vật quan trọng nào ở đây hết.

Khóe môi Khánh Kỵ khẽ nhếch lên:

- Phân phó xuống dưới, thu dọn chiến trường, tiếp quản thành trì, đón đại quân vào thành. Phái hai nghìn người đêm nay phòng thủ thành trì, thám mã tỏa ra cách ngoài thành hai mươi dặm. Bố trí ổn thỏa cho những người thương vong, những người khác an bài nơi nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai tu sửa thành trì, dựa vào địa thế hiểm yếu nằm kẹp giữa hai dãy núi, biến nó thành một cứ điểm trọng yếu phong tỏa Dĩnh Đô.

- Rõ!

Lương Hổ Tử trông thấy Khánh Kỵ vẻ mặt đau thương, không khỏi nhìn xuống dưới lòng đất xem thi thể, rồi sau đó mới chắp tay bỏ đi.

- Cơ Quang…, thật là tên cáo già! Ngươi cứ cẩn thận… chơi với lửa có ngày chết cháy!

Trong mắt Khánh Kỵ ánh lên một tia nhìn dữ dằn, hai bàn tay dính máu nắm thật chặt, các khớp xương phát ra tiếng kêu răng rắc.

Trời sáng, trong thành ai nấy cũng đều tất bật, những cổng thành, tường thành bị hủy hoại đều được sửa chữa, gia cố lại. Trên thành chất đầy gỗ đá, hai đội nhân mã do A Cừu, Tái Cừu thống lĩnh, chia nhau ra đồn trú tại hai bên núi, giống như hai cái gọng kìm, hô ứng cho tòa thành Na Xử ở chính giữa.

Yểm Dư và Kinh Lâm lãnh một nửa quân, đi về vùng hồ Bách Tân ở phía Tây Bắc, đồng thời thu gom thuyền bè, rồi tận dụng các khu rừng nguyên sơ được hình thành từ hồi thượng cổ đến bây giờ để lấy gỗ xây dựng các chiến hạm to lớn.

Lương Hổ Tử ở lại cùng Khánh Kỵ coi giữ thành Na Xử, đôn đốc tu sửa thành trì, gia cố phòng ngự. Khánh Kỵ một mặt phái thám mã đi dò la tin tức Dĩnh Đô, một mặt sai người đi liên lạc với Sở vương và Phí Vô Cực, để xác định kế hoạch hành động, đồng thời nghe ngóng tin tức từ phía Lỗ quốc. Theo tính toán về lộ trình và thời gi­an, tín sứ của hắn chắc đã đến Lỗ quốc Phi Hồ cốc, Chúc Dung và Tôn Vũ chắc đã có động thái tiếp theo rồi.

Đồng thời, hắn còn điều động thêm vài đội nhân mã đi bố cáo từ trong thành Na Xử cho đến vùng dân dã xung quanh rằng “Na Xử thành” hiện đã nằm trong tay hắn, hơn nữa Khánh Kỵ đã ký kết hiệp ước đồng minh với người Sở, vì vậy nên người dân Sở quốc hãy ở nguyên tại nhà, không cần phải bôn ba tứ phía chạy nạn, đồng thời khuyên nhủ những cư dân trong thành Na Xử chui lủi trốn tránh trong rừng rậm trở lại thành trì.

Các đội quân nhận được chiếu thư cần vương của Sở vương đang lũ lượt hành quân tới Tùy quốc để hội quân cùng Sở vương, còn phía Dĩnh Đô không hề có bất cứ phản ứng nào trước việc Khánh Kỵ chiếm lĩnh được “Na Xử thành”, khiến người ta bàn tán về những tính toán của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư. Thám mã báo tin về, chỉ biết được rằng quân Ngô đã đẩy nhanh tốc độ vận chuyển của cải từ Sở quốc về, điều đáng chú ý là, đại tướng số hai thủ hạ của Cơ Quang là Bá không có động tĩnh gì trong thời gi­an này, không hề thấy bất cứ hành động nào của hắn ở Dĩnh Đô, Khánh Kỵ rất để tâm tới hành tung của hắn, chỉ tiếc là đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể tìm ra được tăm hơi nào của hắn. Đại chiến sắp nổi lên, thành Na Xử tạm thời khôi phục lại vẻ yên bình. Rất nhiều người Sở trong thành Na Xử trở về gia viên, trong đó có một vài thương nhân, còn nhận được tiền đặt cọc của Khánh Kỵ, giúp hắn thu mua lương thảo. Những người bình dân dễ thỏa mãn chỉ biết được rằng mình đang có người bảo vệ, giống như một người bạn đáng tin cậy vậy. Ngô quốc Khánh Kỵ một năm trước là nỗi khiếp sợ của họ, giờ đây trở thành vị thần hộ mệnh trong mắt họ.

Tòa thành Na Xử sau khi đã dọn dẹp vết máu và lửa xém giờ đây như được hồi sinh trở lại, mang một sức sống hoàn toàn mới, bước chân của mọi người không còn thất thểu vội vã, phụ nữ và trẻ em cũng bắt đầu xuất hiện trên phố, rảo bước trên đường. Thỉnh thoảng còn nghe thấy từng trận cười rộ lên.

Chậm bước trên con phố trong thành, trong lòng Khánh Kỵ có một cảm giác rất kỳ lạ. Gi­an khổ từ việc sát phạt mà ra, hạnh phúc cũng từ việc sát phạt mà ra. Trường mâu và lợi kiếm của hắn đã giết hại không biết bao nhiêu người, khiến cho rất nhiều gia đình bị tan nát trong chiến tranh, người vợ thành góa phụ, người con mất đi người cha, gia đình vốn đang hạnh phúc trở thành tang thương. Ngược lại, cũng là trường mâu và lợi kiếm của hắn, lại có thể bảo vệ che chở cho một số phu quân của những người khác, gia đình hạnh phúc ngập tràn, tiếng khóc xưa kia nay đã thành tiếng cười rạng rỡ.

Giữa thị với phi, đúng với sai, vốn dĩ không hề có một ranh giới rõ ràng, càng không thể đúng với tất cả mọi người.

Khánh Kỵ đưa mắt nhìn về phía Đông, tuy là Gi­ang Nam, nhưng trên đồng ruộng lại không thấy ai làm việc đồng áng, các chị em phụ nữ ngồi dưới mái hiên đan sọt, dệt vải, phía sau lưng là căn nhà được đắp bùn vừa mới xây xong còn tanh mùi bùn, mái hiên làm bằng cỏ tranh vẫn còn chút màu xanh tươi mới, bọn họ cười đùa trò chuyện, thản nhiên đón nhận những ánh mắt của nam nhân cầm giáo mác đi qua, nếu nhìn thấy một vài sĩ binh tướng mạo anh tuấn trẻ trung, họ còn mạnh bạo ngẩng đầu lên nhìn rồi cùng chị em bàn tán một phen suốt từ đầu đến chân anh chàng đó.

Trông thấy những cô nương dễ thương mạnh bạo kia, khóe môi Khánh Kỵ không giấu nổi một nụ cười vui vẻ.

- Mấy cô nương người Sở kia ngoại trừ eo ót cũng tạm được ra, còn có cái gì hấp dẫn nữa?

Quý Tôn Tiểu Man đứng ở cách đó không xa bất bình nói, nàng õng ẹo cái eo nhỏ của mình, khôi phục lại vài phần tự tin:

- Nếu không phải là mặc bộ áo giáp này, thì eo của ta cũng thon nhỏ như họ.

Thúc Tôn Diêu Quang đứng bên cạnh cũng mặc một bộ giáp y như nàng khẽ gườm nàng một cái, rồi hừ giọng:

- Nhìn cái gì mà nhìn? Ta còn chưa nổi cơn ghen đây, ngươi ngoa ngoắt như thế làm cái gì? Đợi khi chàng trở thành Ngô vương, khắp cung đều là nữ nhân, lúc đó ngươi sẽ phải ghen tức đến xịt máu mà chết mất.

- Xấc, ngươi không ghen, thế sao lông mày lại vểnh hết lên thế kia? Chẳng lẽ là vui quá hóa cuồng à?

- Ngươi…

Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy bảo kiếm bên hông:

- Quý Tôn Tiểu Man, ngươi đừng có quên ước định giữa hai chúng ta, khi nói chuyện với ta không được sấc láo.

- Hừ! Là ngươi lên mặt với ta đấy chứ.

Quý Tôn Tiểu Man cười chế giễu:

- Chàng còn chưa được làm đại vương Ngô quốc, vậy mà ngươi lại nói chuyện ngôi vị vương hậu rồi đấy.

Thúc Tôn Diêu Quang khẽ nhảy dựng lông mày lên, cố ý chọc giận nàng nói:

- Ngươi đừng có mơ hão, ta à, chắc chắn là sẽ được ngồi vào chiếc ghế Ngô quốc vương hậu, nếu ngươi còn biết khôn, thì từ bây giờ hãy bớt chọc giận ta đi, nếu không thì sau này sẽ không có tương lai tốt đẹp đâu.

Lương Hổ Tử đứng một bên mồ hôi vã ra như tắm, cười cười khuyên nhủ:

- Hai vị cô nương, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.

Quý Tôn Tiểu Man hừ lạnh một tiếng, vỗ bảo kiếm bên hông:

- Đừng có uy hiếp ta, bản cô nương ăn mềm không ăn cứng, nếu ngươi còn không phục, thì chúng ta dùng kiếm giải quyết, tìm cơ hội để múa máy tay chân. A…. đúng rồi, nói cho nhà ngươi biết, thanh Hàn Quang bảo kiếm của ta là do chàng đích thân tặng cho đấy.

Quý Tôn Tiểu Man cố ý cười e thẹn, quay người bỏ đi, cố ý bước đi như kiểu nam nhân, ưỡn ngực ưỡn bụng giống như một chú gà trống cao ngạo.

- Ngươi quay lại!

Quý Tôn Tiểu Man giả vờ không nghe thấy, Thúc Tôn Diêu Quang giận lắm, thân thể điên tiết đến phát run, Lương Hổ Từ mồ hôi mồ kê nhễ nhại khuyên bảo:

- Diêu Quang cô nương không nên tức giận, đại nghiệp của công tử quan trọng hơn, lúc này không thể để cho công tử phân tâm, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng, a… nếu như cô nương thích, mạt tướng sẽ đi nói với công tử một tiếng, đem Thừa Ảnh kiếm đến dâng tặng cho cô nương…

- Bỏ đi!

Thúc Tôn Diêu Quang giận dỗi dậm chân:

- Chàng đang chinh chiến quyết liệt ngoài sa trường, đang vào lúc cần đến vũ khí sắc bén phòng thân…

- Đúng quá đúng quá, Diêu Quang cô nương nói thật chí lý, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.

- Hừ…

Thúc Tôn Diêu Quang khẽ hừ một tiếng từ trong lỗ mũi, cố nguýt dài giọng ra:

- Đúng vậy, đại cục làm trọng. Đợi khi đại cục hoàn thành, ta sẽ lại đi tính nợ với chàng!

Thúc Tôn Diêu Quang nói xong, hất mạnh tay áo, nhấc cằm lên, như chú chim khổng tước kiêu ngạo đi theo hướng ngược lại với Quý Tôn Tiểu Man…

Tấn quốc Dực Thành, quốc vương Cơ Khí Tật nhìn sáu mỹ nữ Ngô Việt đang đứng trước mặt, mặt mày hớn hở cười nói với Ngô quốc sứ tiết Úc Bình Nhiên Úc đại phu, khen rằng:

- Ngô oa Việt diễm, thanh thủy phù dung, quả nhiên không phải nói ngoa, ha ha, được, được, được.

Úc Bình Nhiên mỉm cười, khom người nói:

- Đây là tấm tâm ý của quốc quân tệ quốc đối với đại vương, chỉ cần đại vương yêu thích là được rồi.

Nói đến đây, hắn khẽ thở dài rồi nói:

- Tấn quốc là bá chủ trong thiên hạ, Ngô quốc chúng tôi hàng năm đi sứ, đời đời tấn cống, kính sợ Tấn quốc, coi như huynh đệ. Vậy mà, người Sở lại muốn mưu đồ chiếm đoạt Ngô quốc, cấu kết với bọn phản tặc trong nước Yểm Dư, Chúc Dung chờ thời phạt Ngô. Quân thượng chúng tôi bất đắc dĩ, đành phải xuất binh truy bắt đám phản nghịch Yểm Dư, Chúc Dung, thế nhưng bây giờ người Sở lại cầu cạnh sự giúp đỡ từ phía người Tần, Ngô quốc chúng tôi đang có nguy cơ bại vong, ài… lần này e sẽ là lần cuối cùng triều cống đại vương, ngày này năm sau… quân thần Ngô quốc chúng tôi không biết thân xác đã trôi dạt về nơi nào rồi.

Tấn hầu Cơ Khí Tật nghe xong ha hả cười nói:

- Úc đại phu không cần lo lắng như thế, Tấn quốc ta chính là Bá trưởng của chư hầu trong thiên hạ, theo lý phải chủ trì chuyện bất bình trong thiên hạ. Ừ… ngươi cứ tạm về dịch quán nghỉ ngơi, đợi quả nhân… quả nhân triệu tập quần thần, bàn bạc chuyện xuất binh tương trợ quý quốc.

Úc Bình Nhiên nghe xong, mặt mày rạng rỡ, vội vàng cung kính lễ độ quỳ rạp xuống, dập trán xuống đất, dùng đại lễ yết kiến:

- Ngoại thần Úc Bình Nhiên, tạ ơn đại vương.

Tấn quốc là nước hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu, thế nhưng vị quốc quân của quốc gia lớn mạnh nhất trong thiên hạ này lại chỉ là một vị nguyên thủ trên danh nghĩa, cũng giống như Lỗ quốc quốc quân, khanh sĩ phân quyền, quốc quân không có quyền hành thực sự. Cơ Khí Tật vốn cũng muốn làm nên điều gì đó, hai năm trước, trước khi Sở quốc Thái Tử Kiến chạy trốn khỏi Trịnh quốc lập mưu làm phản với quyền thần Trịnh quốc, đã từng đến bái phỏng Tấn quốc, thăm dò thái độ của quốc quân Tấn hầu nước láng giềng, lúc đó hắn cũng thầm bày tỏ sự ủng hộ đối với hành động của Thái Tử Kiến, hy vọng Trịnh quốc đại loạn, thừa cơ xuất binh, mượn quân công gia tăng quân quyền của mình. Nào ngờ, hiền tướng Trịnh quốc Tử Sản quả thực là vô cùng lợi hại, đám Ngũ Tử Tư, Thái Tử Kiến còn chưa kịp hình thành kế sách tạo phản hoàn thiện, đã bị Tử Sản nắm được một vài tin tức hạ thủ trước, giải trừ mối họa, âm mưu tạo phản bị phá sản nhanh chóng, khiến quốc quân Tấn quốc buồn bực vô cùng.

Bây giờ lục khanh đã lớn mạnh, năm nay Triệu Giản Tử cấu kết với Tri thị, Hàn thị, Ngụy thị, Phạm thị, Trung Hành thị tiêu diệt lão công tộc Kỳ thị và Dương Thiệt thị. Thế lực của lục khanh lại càng lớn mạnh hơn nữa. Triệu Giản Tử càng được thể khí thế ngút trời, Cơ Khí Tật tự biết việc đã không thể thành được nữa, hùng tâm tráng chí thời niên thiếu đều triệt để hóa thành ảo mộng, sa đọa hoàn toàn vào tửu sắc. Người Ngô biết ý, dâng tặng những mỹ nhân Ngô oa, Bách Việt. Tấn hầu nhìn thấy mà không khỏi khấp khởi hưng phấn trong lòng.

Nơi người Tấn sinh sống nằm ở vùng đất Sơn Tây ngày nay, sát nách với Nhung Địch, dân tộc Nhung Địch nổi tiếng với việc sản sinh ra mỹ nữ, mỹ nhân trong thiên hạ nếu luận về sự gợi cảm yêu kiều, thì mỹ nhân Nhung Địch xếp hạng nhất. Những mỹ nhân vong quốc trong lịch sử, như Đát Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ đều mang dòng máu Nhung Địch.

Tấn hầu là quân chủ của Tấn quốc, trong cung tuyệt đối không thiếu tuyệt sắc gi­ai nhân, lại càng có nhiều mỹ nhân Nhung Địch, nhưng lòng tham của người này không biết bao nhiêu là đủ, mỹ nhân Ngô Việt có vẻ đẹp duyên dáng thùy mị của vùng đất quê hương mình, phong tình lại khác biệt với nữ tử Nhung Địch, hôm nay người Ngô biết ý dâng tặng, trong lòng Cơ Khí Tật mừng rỡ lắm lắm, quyết định triệu tập lục khanh, hắn lấy danh nghĩa là quân chủ một nước mà điều phái lục khanh phát binh tương trợ người Ngô.

Ban đêm, trong phủ thủ lĩnh lục khanh Tấn quốc, không miện chi vương (vị vua không đeo vương miện), Triệu Giản Tử.

Dưới ánh đèn, Triệu Giản Tử đang nâng niu thanh bảo kiếm trong tay.

Thanh kiếm có chuôi đen hoàn toàn, không một chút sứt sát, làm cho người ta cảm nhận được sự sắc bén của nó, tuy nhiên, thanh kiếm cầm trong tay, uy nghiêm tự sản sinh, nó giống như một vị trưởng giả hiền từ nhưng không mất đi vẻ uy nghiêm, khiến người ta không dám khinh thường. Ngón tay của Triệu Giản Tử khẽ mân mê thanh kiếm, một luồng lãnh ý từ đầu ngón tay xâm nhập vào trong lòng, thanh kiếm ẩn chứa thần vận mê người, giống như một đôi mắt thâm thúy, tinh thông quảng đại đang chăm chú quan sát vạn vật chúng sinh.

- Thần vật ắt có điều dạy bảo a…

Triệu Giản Tử nâng niu vuốt ve thanh bảo kiếm từng tí một, lẩm bẩm nói:

- Lấy ngũ kim chi anh, thái dương chi tinh để rèn đúc nên thanh kiếm này. Xuất ra có thần, thu vào có uy, sức mạnh vô địch, thần vận tiềm tàng, chính là Trạm Lư… Nhân đạo chi kiếm, nhân giả vô địch…

Hắn hơi nhắm hờ đôi mắt, ngón tay đặt lên trên thân kiếm, nghĩ tới lời nói của Úc Bình Nhiên khi tới gặp hắn.

- Đại phu lấy danh nghĩa sứ tiết đến Tấn quốc chúng ta, theo lý phải bái kiến quốc quân của chúng ta trước, tại sao lại đến gặp ta?

- Bởi vì người có thể cứu giúp được Ngô quốc chúng tôi, không phải Tấn hầu, dưới gầm trời này chỉ có đại phu.

- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?

- Bảo kiếm tặng anh hùng!

Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:

- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 190: Loạn thế thiên hạ (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?

- Bảo kiếm tặng anh hùng!

Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:

- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!

Yểm Dư và Kinh Lâm đóng quân tại hồ Bách Tân, đốn phạt cây rừng, tìm kiếm thợ thuyền, một mặt tích lũy quân lương, một mặt gia cố thành trì, đề phòng quân Ngô tấn công, đồng thời điều phái thám mã, liên tục giữ liên hệ với Sở vương, Phí Vô Cực, nghe ngóng tin tức quân Ngô, truyền đạt động thái các nước, thám mã đi đông như trảy hội, bên ngoài thì tòa thành giống như một vùng đất bình lặng, nhưng nhìn những chiến mã suốt cả ngày qua qua lại lại, đến cả người dân bình thường cũng có thể cảm thấy được một không khí vô cùng khẩn trương.

Mấy ngày này, vài vị khách thương mệt mỏi tới đây sau một hành trình mệt nhọc, sau khi quân thủ thành tra hỏi xong thì được cấp tốc đưa vào thành ở nhờ trong phủ đệ của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nghe nói người đến là Văn Chủng, vội vàng hạ giá nghênh đón, đón hắn vào trong phủ, mừng rỡ ra mặt gọi người lập tức đi chuẩn bị tiệc. Khánh Kỵ đối đãi với những người có địa vị thấp hèn hơn mình một cách trọng đãi như vậy khiến cho Văn Chủng vô cùng cảm kích, chỉ có điều bản tính của hắn vốn là người thâm trầm kỹ tính, trước mắt tuy Sở quốc và Khánh Kỵ hòa hợp như người một nhà, sau này là bạn là thù còn khó đoán định, là một vị đại phu Sở quốc, hắn không dám tỏ ra quá thành thật.

An tọa trên chiếc ghế dưới sảnh, Khánh Kỵ liền hỏi:

- Tử Cầm huynh, huynh vừa từ Tống quốc trở về có phải không?

Văn Chủng chắp tay nói:

- Dạ, được điện hạ nhắc nhở, Văn Chủng ngày đêm gấp rút đi tới Tống quốc, diện kiến Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử, có thư tín của điện hạ trong tay, Nam Tử phu nhân tiếp kiến tại hạ, nghe tại hạ phân tích Sở quốc một khi bị diệt vong, thế lực Tấn quốc sẽ chắc chắn xuôi xuống miền Nam, vậy thì Vệ, Tống sẽ phải đứng mũi chịu sào, gánh chịu hậu quả khôn lường, Nam Tử phu nhân biết thế nên lập tức dẫn tại hạ đi gặp Tống công.

Tống quốc tuy nhỏ, nhưng lại là công tước nhất đẳng được Chu thiên tử lệnh phong, xưng công cho Tống quốc quốc quân. Văn Chủng uống một ngụm nước, cười rồi nói:

- Kỳ thực suốt mấy năm nay Tấn quốc luôn cố gắng xâm nhập sang miền Nam, lấn chiếm Vệ Tống, Tống quốc quốc quân đương nhiên đi guốc trong bụng. Sau khi tại hạ phân tích lợi hại, Tống công liền đồng ý tương trợ cho Sở quốc. Tống Vệ máu chảy ruột mềm, như môi với răng, xưa nay cùng tiến cùng thoái, Vệ quốc chịu áp bức của Tấn quốc sâu sắc hơn, một khi Tống quốc đã đứng về bên Sở quốc chúng ta, Vệ quốc đương nhiên không còn cần bàn cãi gì thêm nữa. Khi ta trở về, Tống công liền viết một lá thư, sai người cưỡi khoái mã mang sang Vệ quốc.

Văn Chủng nói đến đây, có chút tự mãn cười nói:

- Có được sự trợ giúp của hai nước Vệ Tống, Trịnh quốc nằm giữa Vệ, Tống, Tấn, Sở ắt hẳn sẽ không nằm ngoài cuộc. Vì vậy khi Văn Chủng quay về liền thuận đường bái phỏng Trịnh quốc quốc quân và thừa tướng Tử Sản đại nhân. Hai năm trước Công Tử Kiến, Ngũ Tử Tư âm mưu sát hại Trịnh quân và Tử Sản, hai bên vốn đã có mối thù không đội trời chung, bây giờ Ngũ Tử Tư được phong làm Ngô quốc tướng quốc, lại cộng thêm dã tâm nham hiểm của Tấn quốc cũng là không nhỏ. Trịnh quân và Tử Sản đại nhân xem xét thời cục, cũng đã đồng ý liên minh với Sở, Bắc chống Tấn quốc, Nam phạt Ngô quân. Trong mấy hôm nay chắc hẳn sứ thần của ba nước đã tới nơi rồi.

Khánh Kỵ nghe xong không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, hắn vốn có ý định đưa Văn Chủng sang tấn kiến Tống quốc, là bởi vì giữa hắn và Nam Tử đã từng có một cuộc mật đàm, hắn từng đồng ý rằng nếu như có cơ hội, dưới tiền đề hai bên giúp đỡ nhau cùng có lợi, sẽ giúp đỡ Nam Tử phu nhân củng cố địa vị, khuếch trương thế lực của nàng, để nàng tự tay giết chết Công Tử Triều, xóa giải nỗi hận trong lòng.

Trong bức mật tín kia, hắn đã trình bày tỉ mỉ những điều lợi khi tận dụng thời cục đại loạn, tận dụng liên hệ với Nam Tử liên minh hai nước Vệ Tống tạo sự ràng buộc để hóa giải tình thế. Liệu đoán rằng sau khi Nam Tử gặp sẽ cố hết khả năng để giúp đỡ Văn Chủng, dựa vào trí thông minh cùng thân phận và ảnh hưởng đặc thù của nàng tại hai nước Vệ Tống thì đại sự gần như chắc chắn thành công. Chỉ không ngờ được rằng Văn Chủng, một viên tiểu tướng quân nhỏ bé, lại dám bạo gan đi tới Trịnh quốc diện kiến Trịnh quân và hiền tướng Tử Sản, cầu cạnh Trịnh quốc xuất binh.

Khánh Kỵ nghe được tin tức tốt lành như vậy không khỏi mừng ra mặt, khen tấm tắc:

- Tử Cầm huynh trong chuyến đi này đã nhìn rõ được đại cục thiên hạ, đạp gió cưỡi mây, cầu viện ba nước xuất binh cứu giúp, lập nên công lao to lớn không kể xiết, khi gặp Sở vương chắc chắn sẽ được trọng dụng, tấn phong làm thượng khanh, cấp phong thế hầu, chỉ còn là chuyện dễ như trở bàn tay thôi, chúc mừng, chúc mừng.

Văn Chủng như mở cờ trong bụng, lại khiêm tốn chắp tay nói:

- Văn Chủng có được công lao này, đều là được điện hạ ban tặng, Văn Chủng phải tạ ơn điện hạ mới đúng.

Hai người nói xong nhìn nhau cười khoái trá.

Vệ quốc Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên đang cầm thư tín do nhạc phụ Tống quốc quốc quân gửi tới, cùng các cận thần thân tín Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh, Công Tử Kinh, Công Thúc Phát đang mật bàn với nhau. Bắc Cung Hỉ cũng ngồi đó, từ sau khi hắn được Vệ hầu đưa lên địa vị cao quý, giành lấy đại quyền của Tề Báo, Tề Báo với hắn đã nảy sinh hiềm khích với nhau. Bắc Cung Hỉ cô độc đơn côi, đành phải dần dựa dẫm vào Vệ hầu.

Tuy rằng hiện tại hắn không thể hoàn toàn tin tưởng vào Cơ Nguyên, và Cơ Nguyên cũng không thể nào tin tưởng hắn giống như tin tưởng Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh được, thế nhưng quan hệ qua lại giữa đôi bên vẫn êm dịu hơn rất nhiều, hôm nay hắn có thể được ngồi ở đây đã đủ thấy rằng sự coi trọng hắn như người một nhà của Cơ Nguyên. Đương nhiên, trong đó ẩn giấu những dụng ý thử lòng tin đối với hắn, dù sao thì hắn cũng đang nắm giữ lực lượng quân đội chủ lực của Vệ quốc, chỉ là mục đích này không đủ để nói cho người ngoài biết.

- Các ái khanh, bức thư của Tống công các ngươi đều đã xem qua rồi, chư vị cảm thấy thế nào?

Cừ Bá Ngọc nghiêm nghị nói:

- Quốc quân, Vệ quốc ta tiếp giáp với Tấn quốc, vị “láng giềng” khổng lồ này luôn có dã tâm chiếm đoạt thôn tính Vệ quốc chúng ta, bây giờ Ngô Sở tranh hùng, người Tần tham chiến, Tấn quốc dấy binh xuống miền Nam tiếp viện Ngô quốc, không kể đến chuyện hắn liệu có ý định giữa đường dẫn quân tấn công ngược trở lại, thừa cơ diệt Vệ quốc chúng ta, cho dù hiện tại mục tiêu của chúng là Sở quốc, đến khi Sở quốc bại vong, người Tần mất đi lá chắn, ắt phải lui quân quay lại Quan Trung, lúc đó Vệ quốc chúng ta khó lòng bàn tay xâm lược của người Tấn. Cho nên, thần nghĩ rằng trước mắt liên thủ với Tống, liên minh với Sở, ngăn cản người Tống tiến xuống phía Nam, chỉ cần Sở quốc ổn định, Tấn Sở tạo thế cân bằng, bên nào cũng không dám tự tiện manh động, thì Vệ quốc chúng ta sẽ được an toàn.

Công Tử Kinh nhíu mày nói: “Nói là vậy, nhưng… Vệ quốc ta cận kề với Tấn quốc, Tống quốc lại nằm sau lưng chúng ta, nếu như tuyên chiến với người Tấn, Vệ quốc chúng ta sẽ rơi vào cảnh đứng mũi chịu sào. Đạo lý môi hở răng lạnh đương nhiên ai ai cũng hiểu, thế nhưng một khi gi­ao chiến với Tấn, người Tống sẽ chịu xuất ra bao nhiêu binh mã, chi ra bao nhiêu lương thực tiền bạc giúp đỡ còn chưa nói chắc được, ngộ nhỡ chiến cục Ngô Sở nảy sinh biến động, Tống quốc tính toán thế nào cũng rất khó dự liệu cho chính xác được. Chư hầu với nhau, lợi ích mới là điều kiện hợp tác duy nhất, một tờ minh ước, nói lập thì lập được, nói hủy thì cũng hủy được, chúng ta làm sao có thể dám chắc Tống quốc sẽ đồng tâm đồng lòng với Vệ quốc chứ.

Công Tôn Bạt trầm ngâm trong chốc lát rồi nói:

- Quân thượng, thần cho rằng, theo thế của Vệ quốc, việc dấy binh kháng Tấn là điều bắt buộc phải làm. Về liên minh Vệ Tống, mấy trăm năm nay hai nước luôn gi­ao hỏa với nhau, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đến thời khắc nguy hiểm này, người Tống chưa chắc đã có lòng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình. Đương nhiên, đưa cả gi­ang sơn xã tắc, nghìn vạn lê dân chỉ để trông chờ vào một lời cam kết của một kẻ quân tử quả thật là quá mạo hiểm. Thần nghĩ, tại sao quân thượng không thúc gọi quân phu nhân hồi quốc? Quân phu nhân là ái nữ của Tống công, giờ đây lại là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, thân phận khác thường. Nếu như quân phu nhân trở về, có người bên cạnh, thì có thể đẩy mạnh mối liên hệ giữa hai nước Vệ Tống. Hơn nữa, quân thượng có thể bí mật gửi thư cho quân phu nhân, mời phu nhân quay về, rồi xin Tống công điều một đội đại quân hộ tống theo nàng trở về, tin chắc rằng với mối ràng buộc từ quân phu nhân, Tống công sẽ không dễ dàng ruồng rẫy Vệ quốc đâu.

Công Mạnh tán thưởng:

- Công Tôn đại phu nói chí phải, quân phu nhân là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, vinh nhục sống còn của Vệ quốc có mối liên hệ mật thiết với quân phu nhân, Vệ Tống liên thủ cự địch, nếu như có quân phu nhân liên kết ở giữa, thì sẽ không còn gì phải lo lắng nữa.

Vệ hầu trầm ngâm nửa ngày, rồi khẽ gật đầu.

Đợi đến khi mọi người tản đi, con của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu hộ tống Vệ hầu về cung, đi tới bên hồ Thanh Thủy, Vệ hầu dừng lại, nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đóng băng, phía trên phủ một lớp tuyết trắng, phát ra ánh sáng chói lòa dưới ánh mặt trời. Những cành cây bên hồ đã héo khô, khẽ đong đưa trong gió, bốn bề tiêu điều u ám.

Vệ hầu bùi ngùi thở dài, từ từ khép đôi mắt lại, thầm nghĩ:

- Chẳng lẽ quả nhân lại phải cúi đầu trước ả tiện nhân đó sao?

Hắn suy tư thật lâu, nói khe khẽ:

- Chuyện nghị sự trong triều lúc nãy, ngươi đều đã nghe thấy cả, vậy ngươi có quan điểm thế nào?

Công Tôn Mậu khẽ phập phồng chiếc mũi, rồi nói:

- Quân thượng, người coi thần như kẻ tâm phúc, thần sẽ nói những lời của một kẻ tâm phúc cho người, nếu như có chỗ nào mạo phạm, dám mong quân thượng thứ tội. Thần cho rằng, lời của gia phụ là có lý. Tuy rằng quân phu nhân không được hòa hợp với quân thượng cho lắm, nhưng đây dù sao cũng là việc trong nhà, quân phu nhân lưu lạc tại Tống quốc, cũng không quá để ý tới chuyện tại Vệ quốc. Quân phu nhân trẻ đẹp mỹ miều, thân phận cao quý, lại không có tình ý gì với quân thượng, nếu như Vệ quốc đại bại thậm chí là vong quốc, đối với Tống quốc mà nói thì bất cứ lúc nào cũng có thể bám lấy Tề quốc hoặc Sở, Tần quốc. Đối với Nam Tử phu nhân, thì nàng có thể tái giá tùy ý, vẫn mang thân phận cao quý tôn nghiêm như cũ. Nếu như gả cho quân hầu trẻ tuổi, nói không chừng lại càng hợp ý của nàng hơn.

Vệ hầu Cơ Nguyên hừ lạnh một tiếng trong lòng, nhưng hắn biết rằng Công Tôn Mậu nói lời khó nghe như vậy thì quả đúng là một tâm phúc thành thực với hắn. Hơn nữa, tiểu tiện nhân kia chẳng có chút cảm tình nào với hắn, nếu thật sự muốn ả tái giá, nói không chừng ả lại thích quá ấy chứ.

Công Tôn Mậu thấy Vệ hầu không mở miệng trách mắng, tiếp tục nói:

- Tuy nhiên, quân phu nhân nếu như ở tại Vệ quốc, thì vinh nhục được mất của nàng lại hòa chung vào với Vệ quốc, với quân thượng. Tống công có ái nữ ở đây, cũng tuyệt đối không dám dễ dàng vứt bỏ đồng minh. Quân thượng vì gi­ang sơn xã tắc, vì lê dân trăm họ tại Vệ quốc, cung thỉnh quân phu nhân trở về, điều đó thì đã làm sao? Huống chi nội tình bên trong, có mấy ai biết rõ thực hư đâu?

Vệ hầu khẽ thở dài, nói:

- Thôi được rồi, để quả nhân viết một bức thư, ngươi phái một kẻ thân tín đi làm tín sứ, mau chóng đi tới Tống quốc, gi­ao cho phu nhân.

Tống quốc đô thành Thương Khâu, Nam Tử đứng dưới một gốc mai, khoác trên mình tấm áo lông chồn, đẹp đẽ kiêu sa, hoa nhường nguyệt thẹn.

Vị tín sứ kia vốn là gia tướng trong phủ Công Tôn Bạt, sau khi Công Tôn Bạt dẫn người vào Đế Khâu, được tuyển chọn vào cung làm thị vệ, là thân tín của con Công Tôn Bạt Công Tôn Mậu, đây là lần đầu tiên hắn được gặp quân phu nhân Nam Tử, tuy từ lâu đã biết tiếng mỹ miều của nàng, hôm nay được gặp tận mắt, không khỏi hơi hoa mắt choáng váng trước vẻ đẹp kiêu sa kia.

Hắn sợ thất lễ nên không dám nhìn nhiều, vội vã cúi thấp đầu, hai tay nâng cao bức thư tín của Vệ hầu gửi sang, đôi mắt chỉ dán xuống đất, nhưng trông thấy đôi giầy da hươu của Nam Tử thôi cũng đã thấy đẹp đẽ lạ thường, hít hà hương vị mê ly lạ thường của phụ nữ, không biết mùi vị của cặp giò kia tuyệt với tới mức độ nào, không khỏi khô rát cổ họng, nuốt nước bọt ừng ực không thôi.

Tuy rằng Nam Tử phải đi tới Tống quốc, trong khoảng thời gi­an này nàng không còn được ở bên cạnh cha mẹ, nhưng dù sao không còn phải nhìn thấy mấy bộ mặt đáng ghét của Vệ hầu và Công Tử Triều, những kẻ luôn khiến nàng phát ngán, cuộc sống trở nên tươi vui vô cùng. Dung mạo trước kia có chút tiều tụy, giờ đây đã khôi phục lại vẻ lung linh kiều diễm.

Nàng nhận lấy bức thư, bóc ra xem dưới ánh hoa mai, không khỏi bật nụ cười khanh khách.

Tiếng cười kinh động lũ chim khách trên cây, lũ chim vội bay tán loạn, khiến một vài bọt tuyết rơi xuống, những đám bọt tuyết phiêu bồng dưới ánh mắt trời, khẽ thoảng qua khuôn mặt với nụ cười hơi có phần thô lỗ của nàng, vị tín sứ kia nghe vậy ngẩng đầu nhìn cũng không khỏi sững sờ, tham lam cố níu kéo nhìn thêm chút nữa, rồi mới chịu cúi đầu xuống tiếp.

Nam Tử dứt nụ cười, rồi sau đó lại trầm ngâm trở lại:

- Cha ta mong được kết minh với Vệ, đây là chuyện quốc gia đại sự, đâu phải trò đùa trẻ con, đường đường là Tống công, nói xuất binh thì nhất định sẽ xuất binh, quốc quân lại không chịu tin, còn lén lút phái ngươi tới gặp ta? Nếu để cha ta biết được sẽ nổi trận lôi đình.

Vị tín sứ thấp thỏm không yên chắp tay nói:

- Quân phu nhân, việc này có mối liên hệ trọng đại, quốc quân không thể không cẩn thận cho được, kính mong quân phu nhân thông cảm cho.

Nam Tử hừ một tiếng, những bọt tuyết trắng xóa bám lên trên mặt lúc này đã hóa thành mấy giọt nước nho nhỏ, nàng lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn lụa, khẽ lau những bọt nước trên mặt, chậm rãi nói:

- Muốn xuất binh cần phải điều binh trước, điều binh phải có khiển tướng, rất nhiều chuyện cần phải chuẩn bị tới. Trong thời gi­an ngắn ngủi, lẽ nào người Vệ nhất định phải muốn binh mã của người Tống đến tận nơi thì mới chịu có gan đi đối địch với quân Tấn? Muốn ta trở về nước cũng không phải chuyện khó, chỉ có điều, không phải là vào lúc này, ngươi quay về đi, cứ nói với quốc quân rằng Nam Tử ở cung thành Vệ quốc toàn phải gặp mặt những kẻ đáng ghét, trong lòng không thấy thoải mái, hơn nữa, ta hiếm khi có dịp được quay về nước, bây giờ tiết trời đang rất lạnh, tuyết rơi đầy trời, làm sao có thể quay về đây? Ta phải ở Tống quốc thêm một thời gi­an nữa, đợi đến tháng ba năm sau, tết đến xuân về, trăm hoa đua nở, băng tuyết tan hẳn thì ta mới trở về.

Vị tín sứ cung kính nói:

- Quân phu nhân, tiểu nhân phụng mệnh đến đây, quốc quân có lời này muốn tiểu nhân bẩm báo cho phu nhân.

- Ồ? - Đôi mắt long lanh của Nam Tử khẽ xoay chuyển, khóe môi nhếch lên lộ ra hàm răng trắng tinh:

- Chuyện gì vậy?

- Quốc quân nói, đại địch trước mắt, lòng người lo lắng, phu nhân về nước có thể ổn định nhân tâm, dám mong phu nhân không ngại cực khổ, mau chóng về nước. Còn về điều mà phu nhân nói… quốc quân đã dặn rằng: nếu như phu nhân quay lại, quả nhân nhất định sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của nàng, để nàng vui lòng quay về.

- Vui lòng quay về?

Đôi mắt to tròn như đào hoa của Nam Tử khẽ hấp háy, ẩn chứa trong đó sát khí uy vũ:

- Rất tốt, vậy ngươi cứ về trước đi, nói với quốc quân rằng, hai ngày nữa Nam Tử sẽ dẫn binh khởi hành, quốc quân để ta vui lòng quay về, ta cũng sẽ để quốc quân vui lòng nghênh đón.

Vệ quốc, Đế Khâu, phủ đệ Tề Báo.

Bên ngoài căn phòng tuyết rơi lạnh lẽo, trong căn phòng ấm áp sắc xuân.

Tề Báo, Trử Sư Phố, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cùng một số đại thần trong triều theo phe cánh của họ đang tề tựu đông đủ trong phòng.

Ghế trên có bốn người ngồi, rất nhiều vũ kỹ mặc y phục rực rỡ hoa lệ, bộ ngực trắng trẻo nõn nà, đang ấp vào trong lòng họ, gắp thức ăn rót rượu mời, tiếng cười rộn giã.

Tuy Bắc Cung Hỉ không hợp với Tề Báo, nhưng dù sao cũng là đồng phạm tru sát Công Mạnh Trập, tuy rằng hai người họ tranh đấu quyền lực rất gay gắt, nhưng Bắc cũng lo là một khi Tề Báo bị đổ, Vệ hầu sớm muộn gì cũng sờ gáy khai đao với hắn, vì vậy cho nên tuy Vệ hầu liên tục bày thiện ý, dụ dỗ lấy lòng, nhưng đại sự lớn đến như vậy, hắn vẫn phải thương nghị cùng Tề Báo.

Công Tử Triều chẳng hề quan tâm tới mỹ nhân đang khiêu khích nghịch ngợm trong lòng, nói nhanh với Tề Báo:

- Tề đại phu, cơ hội trời ban đó, đại phu cần phải nắm chặt lấy cơ hội này, xin quốc quân được dẫn binh xuất chinh, tóm lấy binh mã của bọn Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc trong tay, bất luận kết quả liên minh với Sở, chống hoành với Tấn thế nào đi chăng nữa, có đại quân trong tay thì chúng ta cũng được bảo đảm.

Hắn lại chắp tay về phía Bắc Cung Hỉ nói:

- Bắc Cung đại phu, chúng ta đều là những kẻ ngồi chung thuyền, được cùng được, mất cùng mất. Ngài nắm giữ quân đội trong triều, quân đội ngoài triều do Tề đại phu nắm giữ, như vậy thì chúng ta có thể nói là vững như bàn thạch rồi. Tề đại phu, Bắc Cung đại phu hết đời này sang đời khác đều là đại tướng của Vệ quốc, giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, phóng tầm mắt về Vệ quốc, ngoại trừ hai vị ra thì còn có kẻ nào đủ tư cách dẫn binh xuất chinh đây? Chuyện này Bắc Cung đại phu cũng nên nói một tiếng tốt trước mặt quốc quân. Còn bản công tử cũng sẽ nói tốt cho Tề đại phu trước mặt quốc quân.

Mỹ nhân trong lòng nâng chén rượu, hồn nhiên đưa tới trước môi của hắn, bị Công Tử Triều bất nhẫn đẩy ra, tuy hắn có danh vị, nhưng rất nhiều chuyện đại sự Vệ hầu Cơ Nguyên đều không khiến hắn tham dự, sự tin tưởng còn lâu mới bằng Công Tôn Mậu. Tiềm lực của Tề Báo to lớn khủng khiếp, Bắc Cung Hỉ đang nắm giữ đại quyền, Trử Sư Phố tuy lực lượng thua kém hơn một chút, nhưng hắn lại là công khanh thế gia suốt mấy trăm năm nay của Vệ quốc, có những mối quan hệ dây mơ rễ má nhằng nhịt với rất nhiều thế tộc, lại thêm cả việc hắn đối với ai cũng vui vẻ hòa nhã, không đắc tội với bất kỳ ai cả, nhân duyên cũng khá tốt, tính ra thì căn cơ của hắn là yếu nhất, làm sao mà hắn không căng thẳng lo lắng vạn phần cho được.

Tề Báo có chút dao động trước chủ trương của hắn, hắn khẽ đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều, mỹ nhân ngồi trong lòng Công Tử Triều tuy rằng bị hắn lạnh nhạt thờ ơ, nhưng những vị đại nhân trên đại đường kia duy chỉ có mình Công Tử Triều là anh dũng đạo mạo, những vũ kỹ trong phủ Tề Báo lấy sắc đẹp để dâng tặng cho khách nhân, khi tiếp đãi khách nhân vốn không quan trọng chuyện già xấu ra sao, có điều nhìn thấy mỹ nam tử thì cũng nhiệt tình hơn một chút, lúc đó thấy Công Tử Triều không muốn uống rượu, liền nắm lấy cổ hắn, hôn nhẹ lên những chỗ nhạy cảm, đến cả áo bào cũng được nới lỏng ra, Tề Báo thoáng nhìn qua, thấy lấp ló qua cổ áo của hắn là một chiếc áo lót của nữ tử, nghĩ lại tin đồn về mối quan hệ của hắn với Vệ hầu Cơ Nguyên, Tề Báo không khỏi cảm thấy hậm hực, ngoảnh đầu nhìn về phía Bắc Cung Hỉ.

Bắc Cung Hỉ cầm lấy chén rượu, đang cúi đầu trầm ngâm. Tuy rằng bản thân hắn hiện tại đang nắm giữ quyền lực lớn nhất, thế nhưng căn cơ của tên Tề Báo với chức danh hiếm có là cả thái sư và thái phó còn thâm hậu hơn cả hắn, tiềm lực cũng vô cùng khủng khiếp, nếu thật sự phải đấu một trận, thì cũng chưa biết ai thắng ai thua đâu, đó chính là nguyên nhân vì sao Tề Báo dám tranh quyền cùng hắn. Hơn nữa, cho dù thế lực của hắn mạnh hơn Tề Báo, cũng không thể tru sát Tề Báo được, tự chặt tay của mình, tạo điều kiện cho Vệ hầu trừ khử hắn.

Nếu để cho Tề Báo nắm giữ bên ngoài, thế lực của hắn sẽ càng thêm lớn mạnh, thế nhưng quyền lực đó đã phải trải qua tay của đám Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc, Công Mạnh, giống như một thanh kiếm sắc bén treo lơ lửng trên đầu, khiến người ta cứ suốt ngày phải nơm nớp lo sợ. Vả lại, Tề Báo có được thực quyền chính trị của mình, những mâu thuẫn giữa hai người cũng sẽ không kịch liệt đến như vậy.

Nghĩ tới điều này, Bắc Cung Hỉ khẽ gật đầu nói:

- Tử Triều nói phải lắm, lão phu nắm nội quân, Tề đại phu nắm ngoại quân, Trử đại phu nắm quốc khố, sẽ không có ai chống lại chúng ta nữa. Chỉ có điều việc này cần phải thương thảo cho kỹ, quốc quân chưa chắc đã gi­ao đại quân cho Tề đại phu, nhưng bất luận thế nào thì chúng ta cũng phải giúp đỡ Tề đại phu có một phần quyền lực trong đó. Đúng rồi, Tử Triều có kế hoạch gì chưa?

- Ta?

Công Tử Triều lúc này mới phát hiện ra mỹ nữ nằm trong lòng đã nới lỏng áo choàng của hắn, hắn vội nắm chặt vạt áo, che đi nội y của mình, thuận tay vỗ mông mỹ nhân kia một cái, bảo nàng tránh ra xa một chút, lúc này mới cười nói:

- Ta ở trong cung đấu pháp với Công Tôn Mậu, nhất thời chưa thể bỏ đi được. Vả lại, ta còn phụ trách việc điều phối quân nhu cho Khánh Kỵ, đến nay Vệ quốc chúng ta cũng muốn chiến tranh, việc này có chút rắc rối, ta cũng cần phải cân nhắc thật kỹ mới được.

Trử Sư Phố không đồng tình nói:

- Bây giờ là lúc nào rồi mà còn để ý đến tên Khánh Kỵ làm chi?

Công Tử Triều mỉm cười nói:

- Chuyện đã chấp thuận với người ta, thì phải làm cho xong. Hơn nữa Khánh Kỵ giờ đây cũng là quân đồng minh của chúng ta, hắn đánh bại được Cơ Quang, thì Tấn quốc mới từ bỏ dã tâm tiến xuống phía Nam của hắn. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, nhận được sự giúp đỡ của chúng ta từ trước, chẳng phải lúc đó sẽ trở thành một trợ lực to lớn cho chúng ta sao?

Trử Sư Phố lộ ra một nụ cười khinh khỉnh châm biếm trên khuôn mặt mập mạp, hắn đang định nói gì đó, bất chợt nhìn thấy trong ánh mắt Công Tử Triều có thần sắc kỳ lạ nào đó xuất hiện rồi vụt biến mất, trong lòng không khỏi chột dạ: “Tên Tử Triều này khuôn mặt chất chứa dã tâm, không biết hắn đang suy nghĩ gì vậy nhỉ?

Trử Sư Phố là người cẩn trọng chu đáo, trước nay không dễ dàng để đắc tội với người khác, hắn vô tình nhìn thấy thần tình quỷ dị của Công Tử Triều, lời nói giễu cợt đang định thốt ra bỗng không dám nói ra nữa, trong lòng dâng lên vài phần phòng bị.

Khánh Kỵ giữ Văn Chủng ở lại nghỉ ngơi một ngày, Văn Chủng vội vàng đem tin tức bẩm báo cho Sở vương. Ngày hôm sau liền cáo từ lên đường, Khánh Kỵ đích thân tiễn hắn ra khỏi thành, đến tận con đường mòn qua núi để tới Tùy quốc mới chịu thúc ngựa trở về thành.

Khi hắn vừa vào trong phủ, Quý Tôn Tiểu Man liền luống cuống chạy đến, vẻ mặt rạng rỡ nói:

- Mau lại đây mau lại đây, Lỗ quốc gửi thư tới rồi.

Khánh Kỵ mừng rỡ, vội vàng bước lên bậc, Quý Tôn Tiểu Man kéo một tay hắn dắt đi trong đại sảnh, Khánh Kỵ ngượng cười nói:

- Này này, bình tĩnh nào, không cần phải sốt sắng đến như vậy chứ.

Vào trong sảnh, Thúc Tôn Diêu Quang nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man nắm tay Khánh Kỵ, không khỏi đưa ánh mắt hình dao găm phóng về phía nàng, nếu như đôi mắt là con dao, e rằng con dao này đã cắt cụt cánh tay kia của họ. Khánh Kỵ khi bước vào phòng chỉ để ý tới vị tín sứ Lỗ quốc, không chú ý tới thần sắc của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cứ như là oan gia mà ông trời sinh ra để đối nghịch với nàng, đôi mắt nhỏ nhắn nhìn thấy rõ biểu lộ của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cười khúc khích đắc chí, lòe mặt quỷ dọa trước mặt nàng, dường như vô cùng vui vẻ.

Vị tín sứ kia chính là một thân binh Khánh Kỵ để lại tại Lỗ quốc Phí Thành Phi Hồ cốc, vừa thấy Khánh Kỵ hắn vội vàng bước lên trước quỳ gối nói:

- Nô tài bái kiến công tử.

- Mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, tình hình Lỗ quốc thế nào rồi?

- Bẩm công tử, sau khi công tử đi, Phi Hồ cốc không thu nạp thêm tân binh nữa, Tôn Vũ tướng quân, Anh Đào tướng quân ngày đêm thao luyện, tổng cộng đã đào tạo được tám nghìn tinh binh. Khi Chúc Dung công tử đến, lại mang theo một nghìn nhân mã, vài ngày trước nghe tin công tử phát binh Sở quốc, Tôn tướng quân và Anh tướng quân lập tức chuẩn bị tập kích Ngô, khi nô tài khởi hành, bọn họ cũng đang nhổ trại, xé nhỏ ra từng tốp đi tới biên giới Ngô quốc rồi tập hợp tại nơi đã định, lúc này chắc là đã đến nơi rồi. Đây là thư của Tôn tướng quân, xin công tử xem qua.

Khánh Kỵ nhận lấy bức thư, khoát tay nói:

- Ngươi ngồi xuống đi.

Dứt lời đi tới ngồi xuống trước ghế thượng tọa giở thư ra xem, căn phòng trở nên yên tĩnh, lặng lẽ dõi theo những thay đổi trên nét mặt của Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man không có việc gì, cũng không chịu ngồi im một chỗ, liền đứng đằng sau lưng Khánh Kỵ, kiễng người lên nhìn bức thư trong tay Khánh Kỵ.

- Hm…!

Thúc Tôn Diêu Quang đằng hắng một tiếng, hung hăng trừng mắt nhìn Quý Tôn Tiểu Man.

Quý Tôn Tiểu Man đưa lại cái nhìn tinh nghịch, ngượng ngùng chắp tay đi ra, gằn giọng lầm bầm nói:

- Ta xem thì đã làm sao? Có phải là thư tình ngươi viết cho chàng đâu, nếu là mấy thứ vớ vẩn ngươi viết cho chàng, thì cầu xin ta ta cũng không thèm xem.

Khánh Kỵ đọc xong, không nhịn được cười lớn.

Lương Hổ Tử, Thúc Tôn Diêu Quang mắt nghếch như chuông đồng, đồng thanh hỏi:

- Thế nào rồi, có tin tức gì chưa?

Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy bị Thúc Tôn Diêu Quang hục hặc, bây giờ giả bộ ngẩng mặt nhìn trời, ra vẻ ta đây không thèm nghe, nhưng đôi tai thì lại dỏng lên, nghe ngóng thanh âm của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ vỗ bàn rầm một cái, cười khoái trá nói:

- Hay, hay lắm. Ha ha ha…, Tề quốc xuất binh rồi, ha ha ha…

- Thật ư?

Quý Tôn Tiểu Man đang giả ngơ không biết gì là người đầu tiên nhảy cẫng lên, chạy tới bên cạnh hắn, cầm lấy tay đưa đẩy, phấn khích đến nỗi khuôn mặt đỏ gay:

- Tề quốc xuất binh rồi? Hay quá là hay, nước lớn nhất ở phía Đông xuất binh tương trợ, Cơ Quang bị kẹp ở giữa, khó bề chống đỡ, hy vọng phục quốc của ngài đã thành công rồi.

Khánh Kỵ cười nói:

- Chưa hẳn, chưa hẳn, Tề quốc xuất binh là xuất binh, nhưng chưa hẳn đã là giúp ta, mà là nhận lời mời của Cơ Quang mà xuất binh, định xuống phía Nam tham chiến.

- Ách!

Quý Tôn Tiểu Man đẩy mạnh bả vai hắn, tức tối nói:

- Ngài bị ấm đầu sao? Người ta đến đánh ngài mà ngài còn vui mừng được?

Khánh Kỵ cười nói:

- Sao mà không vui cho được, hắn muốn tham chiến, cũng cần phải đến đó mới được. Tôn Vũ có mối quan hệ với Tôn thị gia tộc bên Tề quốc, thu được một số thông tin tình báo quan trọng, Cơ Quang muốn mua chuộc các tộc Đông Di cho Tề quốc hòng đổi lấy việc Tề quốc xuất binh, hai phe trong triều đình Tề quốc tranh luận kịch liệt, Điền Khất chủ trương xuất binh, Yến Anh phản đối xuất binh, hai bên tranh cãi loạn xị ngậu, cuối cùng phe xuất binh chiếm thế thượng phong, phe phản chiến uất ức lắm lắm, liền có người đem tin tức về điều kiện trao đổi để kết minh giữa Cơ Quang với Tề quốc rêu rao ra bên ngoài.

Trần quốc, Tào quốc, Lỗ quốc sát vách Đông Di lo lắng thế lực Tề quốc xâm phạm phía Nam, sẽ gây bất lợi cho họ, đã kết thành liên minh, cùng nhau chống lại Tề binh. Cả người Đông Di cũng tham chiến, quân Tề dù có mạnh cũng nhất thời không thể chiếm thế thượng phong dễ dàng được, hơn nữa những nước đó phát binh chính là sự che chắn tốt nhất cho những hành động của đám người Tôn Vũ. Thủy quân Ngô cho dù biết được, cũng nhất thời không thể đoán ra hướng đi và mục đích của họ, làm sao mà ta không vui được? Ha ha ha…

Giữa Tề và Ngô còn có một vùng đất rộng lớn, không có chính quyền nhà nước, lại có rất nhiều bộ lạc sinh sống, dân cư chủ yếu là do hai bộ lạc Hoài Di và Di Hổ . Người Đông Di vốn là chủ nhân của Tề quốc hiện tại, nhưng bọn họ giống như người Anh-​điêng ở khu vực Bắc Mĩ, vùng đất này bị người Chu phong hầu xua đuổi ra khỏi vùng đất cố xưa, mấy trăm năm nay đã lui ra khỏi toàn bộ khu vực Sơn Đông, sau đó cùng với sự mở rộng của ranh giới Tề quốc, tiếp tục lui về hướng Đông Nam, cuối cùng bị đẩy về dưới hạ du sông Hoài, trở thành khu vực đệm giữa ba nước Tề Lỗ Ngô.

Nếu như tiếp tục bị Tề quốc lấn chiếm xuống phía dưới nữa thì vùng đất của con cháu người Đông Di sau này đến cả một khoảnh nhỏ cũng chẳng còn, bọn họ chỉ có thể đi xuôi theo thượng nguồn sông Hoài, chạy đến biển Hoàng Hải, chiếm cứ vài ngôi đảo nhỏ để sinh sống mà thôi.

Giờ đây ý đồ bành trướng xuống phía Nam của người Tề bại lộ, các nước xung quanh vô cùng bất an, đã ký kết đồng minh cùng nhau kháng Tề, đồng thời, các bộ lạc trong vùng Đông Di như Doanh, Tần, Từ, Hoàng, Gi­ang, Lý cũng triệu tập cuộc họp liên minh các bộ lạc, uống máu ăn thề, tạo thành liên quân, quyết một trận sinh tử với Tề quốc vì vùng đất sinh tồn cuối cùng của họ. Binh mã Tề quốc đã bắt đầu điều động, vốn muốn phò Ngô phạt Sở, lấy lý do đường đường chính chính xuôi xuống phía Nam, nhân lúc họ không phòng bị mà khuếch trương xuống lưu vực Hoàng gi­ang, lúc đó mới chính thức trở thành trợ Ngô phạt Sở, lúc đó sẽ ký kết liên minh với Ngô, vùng duyên hải nối thành một dải, các nước xung quanh nếu muốn phản kháng sẽ phải mạo hiểm giáp công Nam Bắc, nhưng bây giờ tin tức đã sớm bị tiết lộ, các nước phản ứng mãnh liệt, Tề quốc há miệng mắc quai, đành phải cắn răng tiếp tục tiến tới.

Nghe Khánh Kỵ nói nhân quả bên trong, Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang mới hiểu rõ sự tình, không giấu nổi vẻ vui mừng. Sau đó Khánh Kỵ tiết lộ một phần về kế hoạch tập kích Ngô của Tôn Vũ, mọi người đang vui vẻ, bỗng tiếng bước chân rầm rập của một người bước vào điện, chắp tay nói:

- Báo! Công tử, nhận được tin tức từ Sở quốc, Sở vương bị ám sát tại Cửu Phượng cốc.

Khánh Kỵ nghe xong, sắc mặt bỗng trắng bệch, hắn muốn đứng dậy, nhưng tâm trí khiếp đảm nhất thời không thể nhấc nổi thân mình. Tình hình Sở quốc bây giờ, nếu như Sở vương bị ám sát, lập tức sẽ trở thành đống cát vụn, các công tử tranh đoạt vương vị, chưa biết liệu có ai toàn tâm toàn ý quyết chiến với Ngô không, và liệu có ai đủ năng lực hiệu triệu quân đội Sở quốc? Tất cả khổ tâm của mình đều tan theo dòng nước mất.

- Sở vương thế nào rồi, ngươi nói mau đi!

Trông thấy vẻ mặt Khánh Kỵ kinh hãi thất thần, Lương Hổ Tử vội bước tới dò hỏi thám tử.

- Sở vương không sao, tên thích khách đó đơn thương độc mã thâm nhập vào trong núi, lúc ra tay hành thích bị tướng quân Tử Kỳ của Sở quốc lao lên đỡ thay một kiếm cho Sở vương, Tử Kỳ tướng quân chết ngay tại chỗ, tên thích khách kia cũng tự vẫn mà chết.

Khánh Kỵ nghe được thì sững sờ, hắn chậm rãi hắt ra một hơi nhẹ nhõm, cơ thể đang đứng khom lưng dần dần ngồi xuống trở lại. Cảm giác vào lúc này… hắn rất muốn một tay bóp chết cái tên thám tử chết tiệt kia.

Lương Hổ Tử nghe xong cũng bốc giận trong người, hắn tung chân lên đá một cước vào đít của tên thám tử, quát lớn:

- Cút! Lần sau khi báo tin phải nói cho rành mạch rõ ràng, con bà nhà ngươi chứ.

Thám tử kia chẳng hiểu làm sao, lủi thủi lui ra ngoài.

Khánh Kỵ và Lương Hổ Tử nhìn nhau, trong mắt đối phương đều là sự phấn khởi đến cuồng nộ:

- Cơ Quang hành thích, Sở vương gặp nạn mà không chết, lần này mối thù càng lúc càng lớn thêm.

Đáng tiếc, bọn họ đoán đúng kết quả, nhưng lại không đoán đúng quá trình. Kẻ hành thích Sở vương không phải Cơ Quang, mà là một kẻ đã rơi vào quên lãng từ lâu trong con mắt bàn dân thiên hạ. Chỉ là, Ngô Vương Hạp Lư nổi tiếng với thủ đoạn sử dụng thích khách, trong thiên hạ không ai không biết, vụ này không đổ vào đầu hắn thì vào đầu ai?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 191: Sở đô Ngô doanh (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Trên đại điện trơ trọi tại hoàng cung Sở vương ở Dĩnh Đô, phát ra tiếng gào thét giận dữ của Ngô vương Cơ Quang: “Bá vô dụng! Dùng thích khách không thể thiếu một trong ba yếu tố thời cơ, địa điểm, cơ hội, thế mà hắn lại hành động sơ suất, quả nhân đem trọng trách này gi­ao phó cho hắn, hắn lại chỉ phái có một tử sĩ lén vào núi động thủ, thật là ngu ngốc hết sức, Sở vương giờ đây chắc là cẩn thận đề phòng hơn, sau này có còn xuất hiện cơ hội nữa không?”

Các tướng đứng dưới điện sắc mặt nghiêm nghị, đều im lặng không thốt lời nào. Tướng quốc Ngũ Tử Tư quét mắt khắp một lượt quần thần đứng đó, bước ra khải tấu: “Đại vương nguôi giận, Bá hành sự xưa nay luôn cẩn trọng kĩ càng, nếu không có kế sách vẹn toàn, tuyệt đối không ra tay bừa bãi. Cái thủ đoạn dùng thích khách này, xem ra không giống hành vi của Bá, hay là đợi tín sứ của Bá về báo tin rồi tính sau.”

Cơ Quang tím tái mặt mày, phất tay áo mạnh một cái, gằn giọng: “Không phải hắn thì còn ai vào đây nữa, nôn nóng muốn giết Sở vương như vậy, ngoại trừ chúng ta, chỉ còn Tề và Tấn, mà hai nước Tề, Tấn không thể nào hành động nhanh chóng như thế được. Hơn nữa, Tề, Tấn mưu đồ thôn tính thiên hạ, nếu chiến sự ở Sở quốc sớm chấm dứt, bọn họ lấy đâu ra cớ để xuất binh? Họ còn mong ở đây càng loạn lên càng tốt ấy, ngoại trừ họ ra, thiên hạ còn ai muốn giết Sở vương?”

Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, mái tóc bạc phất phơ, nói: “Thần cũng nghĩ không ra, chỉ là cảm thấy với tính cách của Bá, đây không giống hành vi của hắn.”

Đúng vào lúc này, có người chạy vội vào điện bẩm báo: “Bẩm đại vương, tín sứ của Bá tướng quân đến.”

Ngũ Tử Tư mừng rỡ: “Mau mau đưa hắn vào điện!”

Cơ Quang đang tức tối đi qua đi lại trên đại điện hứ một tiếng rõ to, quay về chiếc ghế vương vị giữa điện ngồi xuống. Một tên tín sứ vội vàng bước vào, dập đầu hành lễ: “Tiểu nhân phụng lệnh Bá tướng quân, bái kiến đại vương.”

Cơ Quang lại gằn giọng, lạnh lùng chất vấn: “Quả nhân gi­ao ba ngàn quân tinh nhuệ cho hắn, bảo hắn đi Tùy quốc thưởng thức phong cảnh đó hả? Bá sao lại chỉ phái có một thích khách vào Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc hành thích, hắn phái ngươi về đây là để thỉnh tội với quả nhân đúng không?”

Tên tín sứ sợ hãi quỳ đó, lên tiếng phân bua: “Hồi bẩm đại vương, tên thích khách đó không phải do Bá tướng quân phái đi. Bá tướng quân phái người lén trà trộn vào Tùy quốc dò thám động tĩnh, mới phát hiện có người hành thích Sở vương.”

Cơ Quang ngớ người ngạc nhiên: “Quả nhiên không phải là hắn động thủ ư?”

Ánh mắt Cơ Quang hướng về Ngũ Tử Tư như muốn hỏi gì. Ngũ Tử Tư bước tới hỏi tên tín sứ: “Bá hiện giờ đang ở đâu?”

Tên tín sứ trả lời: “Hồi bẩm tướng quốc, Bá tướng quân nghe được tin Sở vương bị hành thích, biết là Sở vương sẽ đề cao cảnh giác, kế hoạch trước đây khó mà tiến hành được nữa, hơn nữa các lộ binh mã cần vương của quân Sở mỗi ngày đi sang Tùy quốc vô số. Bá tướng quân sợ bị người Sở phát hiện hành tung, đã tránh khỏi đường lớn, dẫn quân mai phục tại các cánh rừng dọc đường từ Tùy quốc đến Dĩnh Đô, ngoài ra còn phái binh sĩ giả làm tiều phu đi dò thám tin tức liên tục.”

Ngũ Tử Tư nghe xong khen ngợi: “Bá quả nhiên hành sự cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo, biết tùy cơ ứng biến, quả là tài giỏi, hắn phái ngươi về đây gặp đại vương, còn có gì dặn dò không?”

Cơ Quang nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, thử nghĩ nếu quả thật thích khách không phải do Bá phái đi, Bá xử lí như thế đương nhiên đáng được khen ngợi, cơn giận trong lòng tiêu tan, cất tiếng hỏi lớn: “Nói mau, Bá phái ngươi về đây còn gì nữa không?”

Tên tín sứ khúm núm: “Đại vương, Bá tướng quân nói các lộ binh mã cần vương không ngừng tập kết về Tùy quốc, chắc không lâu nữa quân Sở sẽ rời khỏi Tùy quốc đánh về Dĩnh Đô. Tướng quân vốn nhận lệnh chờ Sở vương tiến về Dĩnh Đô, tập kích vào trung quân chém vua Sở, nhưng giờ Sở vương bị hành thích, đánh rắn động cỏ, bên mình chắc chắn tăng thêm nhiều thị vệ hộ tống, nếu theo kế hoạch cũ, e khó đạt hiệu quả, nên tướng quân phái tiểu nhân về đây, nghe lệnh tiếp theo của đại vương có gì thay đổi không ạ.”

Ngũ Tử Tư lại hỏi han một hồi về tình hình của Bá như thế nào, xong quay qua chắp tay bẩm báo: “Đại vương, nếu như đại vương không định về nước Ngô ngay, như vậy theo ý kiến của thần, cánh quân của Bá không cần triệu tập về đây gấp, kế hoạch thích sát Sở vương tuy là thất bại, nhưng chúng ta phái đi một cánh quân mai phục, sau này ắt vô cùng hữu dụng. Theo ý thần đại vương không vội triệu Bá về, cứ ra lệnh cho Bá phục quân ở xung quanh, lúc cần thiết nói không chừng ta có thể tập kích bất ngờ quân Sở.”

Cơ Quang xưa nay luôn nghe theo Ngũ Tử Tư răm rắp, thấy tướng quốc đã có ý vậy, bèn ra lệnh: “Tướng quốc nói phải lắm. Ngươi tức tốc quay về, lệnh cho Bá mai phục quanh đó, giữ liên lạc với quả nhân, chờ mệnh lệnh tiếp hẵng tính sau.”

Tên tín sứ dập đầu nhận lệnh xong lui ra. Cơ Quang vuốt râu suy ngẫm: “Kì lạ nhỉ, là ai muốn giết Sở vương chứ? Chẳng lẽ…trong số các hoàng thân quốc thích của Sở có kẻ thấy Sở vương gặp nạn, muốn thừa nước đục thả câu, nhân cơ hội giết hắn hòng cướp ngôi? Thật là khốn kiếp, làm hỏng cả chuyện lớn của quả nhân.”

Ngũ tử tư lên tiếng: “Đại vương, kẻ đứng sau lưng vụ này e nhất thời không dễ gì lộ diện đâu ạ. Quân Sở mấy ngày tới chắc xua quân đánh trả, mà…Khánh Kỵ lại sớm chiếm giữ thành trì bên kia, chặn đường rút lui của đại quân ta, dụng tâm của hắn không nói ra thì ai cũng biết, bây giờ chúng ta kéo dài thêm ít ngày tháng, một là có thời gi­an vận chuyển của cải từ Sở về nước để Ngô quốc ta sử dụng sau này, hai là tạo cơ hội xuất quân tham chiến cho hai nước Tề, Tấn, nhưng quân Ngô ta tiến sâu vào đất địch, cố thủ Dĩnh Đô không phải là cách hay, chúng ta cần bàn bạc kĩ kế hoạch hành động tiếp theo, cứ ngồi đây cố thủ chi bằng chủ động xuất kích, gây cho quân Sở chút thương vong, ngăn cản chúng bao vây phản kích chúng ta, đồng thời việc bố phòng ở Dĩnh Đô cũng phải tăng cường…”

Cơ Quang ngạo mạn cười mỉm: “Về phía Khánh Kỵ, phái thêm nhiều thám mã, chỉ cần hắn có ý đồ bỏ đi quay về tập kích Ngô quốc, chúng ta lập tức men theo con đường như kế hoạch đề ra về Ngô chặn đánh hắn, còn nếu hắn cứ gi­ao chiến với quân ta ở Sở… Hừ! Đợi khi các chư hầu xuất quân, thiên hạ đại loạn, chúng ta mới quay về Ngô quốc, cứ cho đội quân ô hợp của hắn ở lại đây thu xếp tàn cục này đi, ha ha…

Còn về quân đội của người Sở, giống như là trăm vạn con cừu non, tuy đông mà vô dụng, đâu phải là đối thủ quân Ngô hùng mạnh của ta. Hơn nữa số quân người Sở triệu tập được sẽ không quá mười vạn, nếu nhiều hơn thì không cần chúng ta ra tay, trong có các nước phụ thuộc nổi lên làm phản, ngoài có các nước chư hầu thừa cơ xâm lấn, Sở quốc lập tức sẽ tiêu đời. Mười vạn quân Sở, cộng thêm hơn hai vạn quân của Khánh Kỵ, cùng lắm là mười ba vạn quân, còn binh mã của ta có bốn vạn, giờ có thêm tù nhân được thả ra của Sở, quân mới chiêu nạp từ đám nô lệ, cộng lại cũng hơn hai vạn. Sáu vạn quân Ngô chống với mười ba vạn liên quân, nếu đối khánh trước mặt thì chúng chiếm ưu thế, nhưng nếu ta cố thủ thì chúng muốn bao vây, với số quân đó cũng không làm được, ta còn sợ gì bọn chúng nào?”

Ngũ Tử Tư khẽ nhíu mày, khuyên can: “Đại vương, kiêu binh tất bại! Quân Sở bị chúng ta đánh cho một trận tơi bời, nhưng người Sở tuyệt đối không phải là hoàn toàn vô dụng, số quân Sở dũng cảm tử chiến không thiếu, hơn nữa lần này Khánh Kỵ lại dấy binh khởi sự, càng không thể xem thường, ở đây dù sao cũng là Sở quốc, là thiên hạ của người Sở, đại vương sao lại khinh suất như thế này?”

Ngũ Tử Tư nặng lời chỉ trích, Cơ Quang ngược lại mỉm cười không trách phạt, trong số các đại thần cũng chỉ có Ngũ Tử Tư dám lên tiếng can gián Ngô vương Hạp Lư hung bạo này, mà Cơ Quang lại thích tính cách này của hắn. Cơ Quang vuốt râu: “Tướng quốc dạy phải lắm, quả nhân biết sai rồi. Giờ các tướng đều ở đây, tướng quốc sẽ nói kế hoạch chúng ta đã nghị định ra cho các tướng nghe xem sao, nếu có gì không ổn, mọi người có thể bàn bạc cho thỏa đáng ngay tại đây.”

“Dạ, xin tuân ý chỉ của đại vương.” Ngũ Tử Tư chắp tay cúi chào, ung dung đứng thẳng người, vẫy tay một cái, bên ngoài đại điện lập tức có hai võ sĩ bước vào, một tên cầm theo một cuộn tranh to, khi đứng yên trong điện, hai tên võ sĩ mỗi người cầm một đầu cuộn tranh, từ từ kéo cuộn tranh ra hai hướng, Cơ Quang chăm chú nhìn vào, thấy đó là một tấm bản đồ chi tiết.

Ngũ Tử Tư nói: “Tấm bản đồ này là do thần tìm được trong hoàng cung, thần căn cứ theo tình hình điều động binh mã của đôi bên gần đây thêm vào chú thích, vẽ ra tấm bản đồ như mọi người đã thấy. Trên bản đồ có vẽ những điểm và đường màu đỏ, là lực lượng quân ta đang chiếm giữ, còn điểm và đường màu xanh là binh mã của Sở, còn cái tam giác màu xanh lá chính là binh mã của Khánh Kỵ.”

Tấm bản đồ khá lớn, núi non sông ngòi nhìn vào rất rõ ràng, chỉ là trên đó giờ có thêm ba màu đỏ, xanh, xanh lá khiến các tướng nhìn chả hiểu gì cả, lúc này nghe Ngũ Tử Tử giải thích, mọi người so sánh với tình hình phân bố binh lực của các bên trong kí ức của mình, thấy quả nhiên chính xác như trong bản đồ.

Theo như bản đồ có thể nhận ra, khu vực xung quanh Dĩnh Đô tập trung nhiều màu đỏ và xanh nhất, trung tâm của màu xanh chính là Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc, các tuyến đường hành quân của quân Sở đều đổ về hướng ấy, sau đó hợp lại thành một màu xanh đậm, từ từ di chuyển về hướng Dĩnh Đô. Tòa thành trì phía Đông Nam của Dĩnh Đô, có một tam giác màu xanh lá, chính là nơi quân Khánh Kỵ trú đóng. Cứ điểm của Khánh Kỵ rất nhỏ, vị trí này chính là yếu đạo hai ngả thủy lục từ Ngô quốc đi sang, Khánh Kỵ đóng quân ở đấy rõ ràng có ý tạo thế gọng kiềm cùng quân Sở bao vây Dĩnh Đô, còn muốn rút quân không tham gia trận chiến, xua quân lui sang phía Đông vòng lại tiến đánh thẳng vào Ngô quốc cũng rất thuận tiện.

Trên bản đồ một màu đỏ tụ tập lại tại vị trí Dĩnh Đô, mấy con đường trọng yếu xung quanh và một số thành trì nhỏ gần Dĩnh Đô cũng có vài chấm đỏ, như các ngôi sao bao bọc xung quanh mặt trăng ở giữa là Dĩnh Đô vậy. Các tướng có mặt trên đại điện đều là tướng lĩnh thân thuộc của Cơ Quang, họ vừa nhìn thấy tuyến đường đỏ chót vẽ từ Dĩnh Đô ra ngoài thì đã hiểu đó chính là đường rút quân về Ngô mà Ngô vương Hạp Lư quyết định.

Ngũ Tử Tử cất cao giọng: “Các tướng xem cho rõ, đám quân cần vương của Sở vương một khi tập hợp lại, chắc chắn từ Tùy quốc tiến thẳng sang phía Đông, chủ soái mười phần có tám chín là Phí Vô Cực, cách đánh của hắn chẳng qua chỉ có hai cách là tấn công thành hoặc bao vây, theo tình hình trước mắt, quân số người Sở huy động được có hạn, hơn nữa quân Sở mới bại trận, lòng quân hoang mang, Phí Vô Cực chưa chắc dám chia quân ra bao vây, sợ bị chúng ta tiêu diệt từng cánh quân, vì thế cho dù gặp trường hợp xấu nhất, chúng ta muốn phá vòng vây về nước cũng dễ như trở bàn tay, đấy chính là lí do đại vương muốn mạo hiểm ở lại Dĩnh Đô, Ngũ Viên không ra sức ngăn cản.

Điều duy nhất đáng lo là tâm ý của Khánh Kỵ, hắn định phối hợp với quân Sở gi­ao tranh với quân ta ở đây hay là thừa lúc quân ta chiến đấu với quân Sở lén xua quân về Ngô đánh chiếm Cô Tô thành? Ta phải cẩn trọng chú ý động thái bên Khánh Kỵ, nhưng…mấy vạn binh mã của hắn, muốn điều động cũng không phải chuyện dễ, cho dù muốn xua quân Đông tiến, dọc đường núi non hiểm trở, sông ngòi chằng chịt, chúng chỉ có hai con đường để chọn lựa, trèo đèo vượt suối, san rừng lấp biển, tốc độ hành quân không quá nhanh, nếu như hắn chọn cách đi thuyền men theo Trường Gi­ang, tuy là thuận theo con nước, nhưng Trường Gi­ang quanh co uốn khúc, tính theo tốc độ của thuyền, hắn không thể đi nhanh hơn chúng ta quay về Ngô quốc, hơn nữa ở Ngô có hai vị công tử Phù Khái và Phù Sai chặn địch, chỉ cần chúng ta cẩn thận hành sự, không có gì đáng phải lo ngại.

Trong thành Dĩnh Đô, quân ta đang đóng chủ lực một vạn năm ngàn quân ở đây, ngoài ra tăng cường thêm ba ngàn quân được trang bị nỏ Sở, khoảng tám ngàn quân tù nhân và nô lệ, họ chủ yếu phụ trách việc gia cố thành trì, đào hào sâu và chế tạo cơ giới phòng thủ. Quân số chia ra trấn giữ các con đường trọng yếu là hai vạn quân, các thành trì nhỏ xung quanh Dĩnh Đô có một vạn bốn ngàn quân trấn giữ, Bá dẫn theo ba ngàn quân, tuy quân số ít nhưng đều là quân tinh nhuệ chinh chiến lâu năm trên sa trường, vũ khí sắc bén, giáp trụ đầy đủ, ai cũng được trang bị nỏ mạnh của người Sở, cánh quân mai phục này có tác dụng gây bất ngờ, đợi quân Sở tiến về phía Đông, cánh quân này chính là nhát dao nhọn đâm thẳng vào trái tim người Sở.

Bố phòng như thế, đảm bảo cho quân ta an tâm ở lại đất Sở, trừ khi có gì sơ suất, bằng không quân ta không gì phải lo ngại. Nhưng đại vương thân phận cao quý, liên hệ đến an nguy xã tắc toàn Ngô quốc, giờ đại vương thân tại Sở quốc, tuy mang bên mình mấy vạn hùng sư, cũng nên đề phòng bất trắc. Nhỡ Khánh Kỵ và quân Sở có mưu kế thâm sâu nào ta không đoán ra được, công phá phòng tuyến vững chắc của quân ta, cũng giống như ta thừa lúc người Sở không để ý tiến đánh Dĩnh Đô vậy, lúc đó quân ta phải quyết đoán lập tức rút chạy về nước…”

Nói đến đây, Ngũ Tử Tư ngập ngừng giây lát, Cơ Quang ngắt lời hắn: “Chưa tính đường chiến thắng đã tính đường thất bại, đấy chính là tính thận trọng của tướng quốc. Các tướng đừng nghĩ Khánh Kỵ và quân Sở liên minh hung hăng tiến đánh mà e sợ, số quân địch gấp đôi này không vây khốn quả nhân được đâu. Ngộ nhỡ bọn chúng tấn công bất ngờ, đột kích vào thành, quân ta chưa kịp rút đi, lúc đó cứ làm theo kế của tướng quốc, tập hợp quân tinh nhuệ chạy ra thành Đông, đốt lửa khắp thành ngăn cản quân địch, sau khi ra thành ta lấy chiến xa mở đường, bộ binh theo sau, ở giữa áp giải mười vạn dân đen hiện giờ bị quả nhân bắt chuyển sang ở thành Đông, làm vậy dù là Khánh Kỵ hay quân Sở cũng không dám bỏ mặc đám dân đen này phát động tấn công vào quân ta, phía trước chắc chắn không còn vật cản…”

Các tướng lĩnh thân tại Sở quốc, quả thật có hơi chút lo lắng con đường rút quân, giờ nghe mưu kế độc ác này của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư xong, ai nấy vui mừng hớn hở, trong lòng yên tâm phần nào. Ngũ Tử Tư lại chỉ tay lên tấm bản đồ, dừng lại ngay vị trí phía Nam Vân Mộng Trạch, nghiêm nghị: “Tất nhiên, đây chỉ là đề phòng bất trắc thôi, quân Sở và Khánh Kỵ chưa chắc làm gì được quân ta.”

Hắn xua tay cho lính thu tấm bản đồ lại, quay người lại nói tiếp: “Bây giờ lại nói đến trường hợp quân ta đánh bại liên quân Khánh Kỵ và quân Sở, bước tiếp theo nên làm thế nào. Giờ này Tề quốc và Tấn quốc đều đã xuất quân, còn lệnh cho các nước phụ thuộc tham chiến, phía ta có Tề, Tấn, Thái, Đường, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân mười nước giúp sức, còn phía Sở có Tần, Tào, Lỗ, Trần, Vệ, Tống, Trịnh, Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa và Khánh Kỵ mười ba lộ binh mã tương trợ, các nước như Lữ, Lưu, Phí, Cam, Đơn, Thiệu, Dương, Việt chưa rõ thái độ ngả về phe nào, vẫn đang nghe ngóng chờ thời.

Tề, Tấn là hai nước lớn, quân đội hùng mạnh, nếu hai nước thuận lợi xua quân nam hạ, lúc đó thiên hạ nghe theo, tình thế lập tức thay đổi, các nước chư hầu phe ta chắc chắn làm chủ trung nguyên, chúng ta ở nước Ngô chớp lấy thời cơ mở rộng bờ cõi ra gấp mấy lần, nếu tình hình quả thật phát triển theo hướng ấy, cách bố trí của ta cũng cần kịp thời điều chỉnh…”

Ngũ Tử Tư huyên thuyên không ngớt, chốc chốc Cơ Quang và các tướng lại hỏi hắn vài vấn đề, mọi người bàn luận hết cả buổi sáng, các tướng mới ra khỏi đại điện rời đi, Ngũ Tử Tư theo sau Cơ Quang đi vào hậu cung, lại bàn chi tiết thêm về kế hoạch vạch ra hôm nay hồi lâu, hai người cùng dùng ngự thiện xong, Ngũ Tử Tư cáo lui về phủ.

Một lão thái giám hầu hạ bên cạnh Ngô vương Hạp Lư đi theo hắn định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thôi, không ngừng đưa mắt liếc nhìn Ngũ Tử Tư.

Ngũ Tử Tư tuy là mái đầu bạc râm, nhìn có vẻ già hơn tên thái giám kia nhiều, nhưng thật ra hắn chỉ ngoài ba mươi tuổi, tai thính mắt tinh, hành vi của tên thái giám lập tức bị hắn phát hiện, Ngũ Tử Tư giả đò không nhận thấy, cứ bước đến trước tiền điện, lúc này phía trước đã có thị vệ quân Ngô canh giữ, theo quy định thái giám cung nữ trong hoàng cung không được bước vào đó, Ngũ Tử Tư dừng bước, quay đầu lại nhìn tên thái giám già mặt đầy nết nhăn hỏi: “Nhạn, ngươi có gì muốn nói với ta ư?”

Thì ra tên thái giám này vốn là chỗ quen biết với Ngũ Tử Tư, khi xưa Ngũ Tử Tư còn làm quan ở Sở, Ngũ gia là trọng thần Sở quốc, phụ thân hắn hay ra vào hoàng cung, dẫn theo Ngũ Tử Tư nên hắn và tên thái giám hầu hạ Sở vương này đã quen biết nhau từ đó.

“Tướng quốc đại nhân…” Tên thái giám già này khom lưng nói giọng ồ ồ: “Nhạn có mấy câu muốn nói với đại nhân.”

“Chuyện gì thế?”

“Đại nhân vốn là người Sở, tổ tiên của đại nhân mấy đời ra sức vì nước Sở, trong thành Dĩnh Đô có bao nhiêu gia đình từng là bằng hữu của Ngũ gia. Đại nhân…đại nhân sao lại có thể nghĩ ra mưu kế độc ác này, lấy thường dân vô tội của Sở quốc làm lá chắn thoát thân, bắt họ làm vật thế mạng trên chiến trường chứ?”

Ngũ Tử Tư trừng mắt, bước lên một bước, tức giận hét lên: “To gan, ngươi dám nghe lén kế hoạch của ta và đại vương hả?”

Tên thái giám già tên Nhạn cười khổ, lọm khọm nói nhỏ: “Nhạn…không dám, Nhạn ở trong cung chỉ là tên thái giám nhỏ hầu hạ người khác, có ai xem Nhạn là con người đâu? Đại nhân và Ngô vương uống rượu nói chuyện to tiếng với nhau, Nhạn đứng bên dưới hầu hạ, không hề nghe Ngô vương và đại nhân bảo lui ra. Nếu đại nhân sợ Nhạn để lộ tin tức, bây giờ xin cứ giết Nhạn đi là xong.”

Ngũ Tử Tử nắm chặt bảo kiếm, lạnh lùng: “Giết ngươi thì có ích gì? Ngươi ra khỏi hoàng cung được sao? Nếu có ngày cần dùng đến kế sách ấy, Ngũ Tử Tư ta sợ gì người khắp thiên hạ biết đó là mưu kế do ta bày ra.”

Nhạn lắc đầu nguầy nguậy: “Đại nhân vì muốn trả mối thù gia tộc, dẫn quân đánh về Sở quốc, đuổi Sở vương, hãm hiếp Sở nữ, cướp bóc của cải Sở quốc, giết tướng sĩ của Sở, quất roi vào xác tiên vương, làm bao nhiêu chuyện, cho dù là có thù sâu tựa biển cũng phải nguôi giận rồi chứ… Đốt trụi Dĩnh Đô, đem mười vạn dân thường vô tội ra làm lá chắn, đại nhân có biết…đó đều là người già trẻ nhỏ? Hành động tàn ác như thế, đại nhân quả thật nhẫn tâm thế này sao?”

Ngũ Tử Tư im lặng giây lát, ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng, hai mắt rực lửa, lạnh lùng trừng mắt nhìn vào thái giám Nhạn: “Ngũ Viên lúc làm người Sở, nhà tan cửa nát, người Sở có ơn gì với ta nào? Bây giờ Ngũ Viên chỉ còn một thân một mình, đều do Sở quốc mang đến cho ta! Ta ra sức giúp Ngô vương, chinh chiến thảo phạt Sở quốc sao lại cho phép có tình riêng ở đây? Ta không có gì phải day dứt trong lòng cả!”

“Ông…” Thái giám Nhạn tức giận sôi gan, Ngũ Tử Tư phất tay một cái, quay lưng bỏ đi.

Thái giám Nhạn đuổi theo hai bước, dõi theo bóng dáng Ngũ Tử Tư từ từ đi khỏi, dậm chân mấy cái, rầu rĩ: “Ta đã sớm biết có nói ra cũng không ích gì, Ngũ tướng quốc giờ đây đã khác xa nhị công tử nhiệt tình đôn hậu ngày trước. Ngươi nếu hãy còn nhân tính, sao lại giết chết gã ngư phu chở ngươi qua sông và cô gái tiếp tế cơm nước cho ngươi để diệt khẩu, còn nói họ là tự vẫn mà chết, ngươi giấu được cả thiên hạ, không qua mắt được người Sở, không qua mắt được lão già này đâu, khi xưa ngươi chỉ là một tiểu tử ở Ngũ gia, một công tử chỉ biết ăn chơi, có ân đức gì mà bắt gã ngư phu và cô thôn nữ phải hy sinh vì ngươi…”

Hắn quay đầu bước chầm chậm, nhủ thầm: “Làm nhiều điều ác, Ngũ Viên ơi là Ngũ Viên, trời cao có mắt, ngươi sẽ không có kết cục tốt đẹp gì đâu!”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 192: Gi­ao chiến (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Tàn dương như máu, soi rọi xuống mặt đất bao la, một màu nắng đỏ rực ảm đạm.

Một thiếu niên mặc áo lông trắng, đứng trên bức tường thành cũ kĩ, ánh mắt dõi về phương Nam, im lặng như một bức tượng, hồi lâu không thốt lên lời nào.

Những bậc thang cao cao trải dài từ trên tường thành xuống tận mặt đất, khắp nơi phủ một lớp tuyết dày cộm không bị ai quét dọn, hai viên quan dẫn theo mấy tên cung bộc mặc áo ấm đứng hầu ở đó dưới cơn gió lạnh cắt da cắt thịt.

Một viên quan già mặc lễ phục cũ xưa chốc chốc lại dậm chân hít hà phà hơi ấm vào hai lòng bàn tay, quay qua nói nhỏ với viên quan kia xem ra tuổi tác còn già hơn hắn: “Thiếu Doãn đại nhân, mặt trời xuống núi rồi, thời tiết càng ngày càng lạnh, hay là…khuyên thiên tử về cung thôi, nếu ngài vì cái lạnh ngã bệnh thì nguy, chúng ta sao gánh vác trách nhiệm?”

Lão quan già nua kế bên thở dài một tiếng, hắn đúng là quá già rồi, đến nỗi phải nhờ một cung bộc dìu lấy mới đứng cho vững được, khi hắn thở dài, những nết nhăn trên mặt trơ ra như đá, không hề động đậy.

“Bá Tư đại nhân, cứ để thiên tử yên tĩnh thêm chút nữa. Tin tức hôm nay khiến ngài vô cùng thất vọng, trong lòng ngài khó chịu lắm đây. Hừ, những ngày này thiên tử cứ trông ngóng phía bên Sở quốc có tin tốt truyền về, không ngờ lại đợi được tin này, thiên tử còn nhỏ tuổi, sao chịu được cú sốc lớn này chứ?”

Hai lão quan già lại thở dài chán nản, ngẩng đầu lên trông theo Chu thiên tử Cơ đang đứng cô đơn một mình trên tường thành cao chót vót, phía sau lưng họ là hoàng cung xưa cũ lâu ngày không được chỉnh trang, nay đã u ám tàn tạ. Lâu lâu mới có một vài cung nữ và thái giám đi lại trên con đường vắng vẻ trong cung, cứ như hai lão già đang đứng dưới chân tường, khắp nơi đây nhuốm một màu vắng lặng buồn tẻ.

Chu thiên tử Cơ đứng trên tường thành hoàng cung Lạc Ấp, nhìn xuống tòa thành Lạc Ấp không còn chút sinh khí này, sau đó ánh mắt từ từ dõi xuống phương Nam, nhìn vào phía chân trời xa xa, cũng thở dài ngao ngán. Những ngày này hắn cứ mong chờ được một tin tốt gì đó, chờ đợi tin báo thích sát Sở vương thành công truyền về, kết quả lại là tướng quân Sở quốc Tử Kỳ thế mạng, Cơ cảm thấy vô cùng thất vọng.

Sở vương khinh thường quyền uy của Chu thiên tử, tự lập lấy vương hiệu, làm tấm gương xấu cho những nước Ngô, Việt noi theo, đồng thời liên kết các nước chư hầu phía nam Trường Gi­ang, thế lực không ngừng mở rộng sang phương Bắc, nanh vuốt của Sở quốc nay đã giương tới những địa phương cách Lạc Ấp không quá hai trăm dặm, thành mối họa lớn đe dọa thiên tử. Ngô quốc tiến đánh vào Dĩnh Đô, đánh cho Sở quốc ngạo mạn một trận tơi bời hoa lá, nếu bây giờ Sở vương mà chết, Sở quốc quần long vô thủ, chư hầu phương nam tranh đoạt lãnh thổ của Sở, cứ thế chinh chiến tiêu hao lực lượng lẫn nhau, sẽ không còn quan tâm việc xâm lấn về phương Bắc nữa. Các nước chư hầu Chu thất phương Bắc lại còn thừa dịp đánh trả về phương Nam, diệt trừ mối họa lớn này triệt để, thế mà giờ đây tất cả tan theo mây khói rồi.

Chu thiên tử lại thở dài, ánh mắt quay sang hướng Tây Bắc, hai bàn tay lạnh cóng xoa xoa vào nhau tìm chút hơi ấm. Hướng Tây Bắc, là lãnh thổ Tấn quốc, giờ chỉ còn đặt hết hy vọng vào Tấn quốc thôi, mong sao Tấn quốc nhân cơ hội này xuất quân chinh phạt, bình định tên chư hầu man di Sở quốc không chịu thần phục hoàng thất họ Chu này.

Lúc này, đại quân của Tấn quốc đã xua quân nam hạ, nhưng vừa mới đi được một ngày đường, liền bị Triệu Giản Tử phái tín sứ đuổi kịp, thay đổi mệnh lệnh. Từ nam hạ đổi thành đông chinh, vì đại quân hai nước Vệ và Tống đã áp sát biên giới Tấn, Vệ. Phía biên giới Tấn, Trịnh cũng thấy quân Trịnh không ngừng điều động gia tăng quân số, hình như đang mưu toan xâm lược. Lúc này Triệu Giản Tử không dám mạo hiểm xua quân nam hạ, đề phòng Vệ, Tống thừa cơ đánh lén, chỉ còn cách phái người ngăn cản cánh quân nam hạ, quyết định chuyển qua đánh bại liên quân Vệ, Tống trước, đồng thời trấn áp Trịnh quốc rồi tính sau.

Mạnh môn. Liên quân Tống, Vệ đang gấp rút xây chiến hào, đặt doanh trại. Liên quân hai nước chia làm thế gọng kiềm hạ trại hai bên, cách nhau chỉ có vài dặm, chiến kì hai nước phấp phới dưới cơn gió lạnh, các đội binh sĩ hấp tấp qua lại không ngớt, một bầu không khí khẩn trương khi chiến sự sắp nổ ra.

Cách đó một con sông nhỏ, đội quân tiên phong của Tấn và quân đội của Vệ Tống nhìn rõ mặt nhau, doanh trại của quân Tấn cũng đang vội vàng dựng lên, ba đạo quân chỉ cách nhau có mấy dặm. Đại quân của Vệ do Tề Báo làm chủ soái, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, ba người gấp gáp thị sát quân doanh, đứng ở nơi cao quan sát doanh trại quân Tấn đằng xa.

Cánh quân Tấn tiên phong này doanh trại chen chúc, nhìn vào không thấy giới hạn, ước chừng ít nhất cũng có một vạn năm ngàn quân, ba người chỉ tay về hướng đại doanh quân Tấn, thảo luận phương án tấn công, quyết định được một phương án rồi, sau đó Tề Báo dẫn theo hai người đi về phía doanh trại quân Tống, cùng đại soái thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành bàn bạc kế hoạch ứng chiến.

Hiên Viên Hành cũng vừa mới đi thị sát xong doanh trại về, còn chưa kịp cởi áo giáp, nghe báo là chủ soái của quân Vệ đến đây, vội vàng ra đón tiếp ba người vào trong lều bàn chuyện.

Tề Báo giữ chức chủ soái quân Vệ, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, việc này cũng từng xảy ra tranh chấp kịch liệt trên đại điện Vệ quốc. Mới đầu tuy đám đại thần có quyền lực như Bắc Cung Hỉ hô hào ủng hộ Tề Báo làm chủ soái, nhưng Vệ hầu Cơ Nguyên rốt cuộc không chịu gi­ao binh quyền cho Tề Báo, vì chuyện này các phe cánh cãi nhau nảy lửa, việc xuất quân sém chút tan thành bọt nước.

Lúc này đại quân Tống quốc đã đến, Vệ phu nhân Nam Tử đích thân dẫn đại quân về Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên nghe tin vội dẫn theo văn võ bá quan ra nghênh đón phu nhân, đưa nàng và đại quân Tống quốc đón vào Đế Khâu, lần này dẫn quân về giúp đỡ, Vệ phu nhân Nam Tử có công to lớn, vì thân phận đặc thù của nàng, và địa vị đặc thù trong mối liên minh Tống, Vệ, nên tiếng nói của nàng có ý nghĩa quyết định.

Vệ hầu Cơ Nguyên và Nam Tử bàn bạc riêng một hồi, lại truyền lệnh thượng triều, đồng ý kiến nghị cho Tề Báo làm chủ soái thống lĩnh quân Vệ, nhưng lại kèm theo một điều kiện: đưa Công Tử Triều lên giữ chức tiên phong, tất cả cấm quân thuộc hữu quân dưới trướng Công Tử Triều toàn bộ được đưa cả vào cánh quân tiên phong, điều sang chiến đấu ở biên giới Vệ, Tấn.

Tề Báo quá đỗi vui mừng vì được nắm giữ binh quyền, mà Bắc Cung Hỉ có nghĩ đến tuy làm vậy họ sẽ mất đi lực lượng cấm vệ có thể trực tiếp khống chế Vệ hầu, nhưng giờ đây toàn bộ binh quyền đã nằm trong tay, đối với họ mà nói mức độ an toàn cao hơn việc nắm giữ một nửa lực lượng cung vệ, cho nên mặc kệ Công Tử Triều ra sức phản đối, cứ nhận lời thay hắn luôn. Không ngờ Vệ hầu lại ra lệnh cho Công Tôn Bạt làm phó soái, cánh quân chủ lực của đại quân Vệ quốc lại được xây dựng bằng người ngựa của Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc dẫn vào Đế Khâu hồi trước, làm vậy chẳng khác nào giám sát chặt bọn Tề Báo, sợ hắn chiếm dụng quân đội mưu đồ phản loạn.

Giờ đây chủ soái, phó soái, tướng quân tiên phong của quân Vệ bề ngoài ra vẻ đoàn kết một lòng, sau lưng lại không tránh khỏi mưu tính quyền lợi riêng, chỉ là kẻ địch trước mắt, họ đều là người thông minh, chưa ngốc đến nỗi tàn sát lẫn nhau trước sự đe dọa của quân Tấn mà thôi.

Tề Báo nói: “Nguyên soái Hiên Viên, chúng ta vừa quan sát xong tình hình quân Tấn, nghĩ ra một cách phối hợp tấn công quân địch, nay định bàn bạc với nguyên soái coi sao.”

“Hô hô, thế thì tốt quá, Hành cũng định qua mời ba vị tướng quân đến đây cùng bàn đại sự, nào nào, thời tiết lạnh lẽo, chúng ta vào lều ngồi cho ấm rồi hãy từ từ bàn bạc.”

Hiên Viên Hành nói xong liếc mắt về phía Công Tử Triều, hai người là chỗ quen biết khi Tử Triều còn ở Tống, tuy quan hệ giữa họ không được thân thiết lắm, nhưng cũng không phải kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây Công Tử Triều đang tối sầm mặt, ánh mắt láo liên không biết đang suy tính việc gì, không thèm chào hỏi người quen cũ một câu.

Hiên Viên Hành chớp chớp mắt, trong đầu vang lên những lời dặn dò bí mật của Nam Tử trước lúc hắn dẫn đại quân lên đường: “Lần này đi sang biên giới Vệ, Tấn, tướng soái quân Vệ bất hòa, đây chính là kết quả tranh đoạt quyền lợi giữa hai phe cánh trong triều đình Vệ quốc, biết chắc là bất lợi cho chiến sự, nhưng cũng không thể không sắp xếp thế này, trận đầu tiên có thể quân ta sẽ gặp bất lợi, nhưng nội loạn đáng lo hơn kẻ địch bên ngoài, một khi thua trận, Vệ hầu có thể nhân cơ hội trị tội Tề Báo, diệt trừ mối đe dọa này, cái này là mượn tay kẻ địch bình định nội loạn, lúc đó Vệ hầu sẽ hạ lệnh cho ngươi thống lĩnh hết liên quân hai nước tái chiến với quân Tấn, ngươi hành sự phải cẩn thận, giữ gìn lực lượng sau này dùng đến.”

“Mạc tướng tuân lệnh.”

“Còn việc này…”

“Mời công chúa cứ nói.”

“Hiên Viên tướng quân, Tử Triều mang nặng dã tâm, lúc ở Tống quốc của ta đã lôi kéo phe cánh, lập mưu nắm giữ triều cương, sau đó trốn sang Vệ quốc, lại nói ngon nói ngọt lấy lòng thương hại của bổn công chúa, lừa lấy lòng tin của ta, giờ có chốn dung thân ở Vệ, hắn cấu kết với bọn gi­an thần Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, mưu đồ khống chế chính sự Vệ quốc, có người này ở đây, hai nước Vệ, Tống không có tháng ngày yên ổn, hắn lấy thân phận là công tử Tống quốc, nếu gây ra chuyện gì bất lợi cho Vệ hầu, không chỉ hại đến uy tín của bổn công chúa, còn gây bất lợi cho mối liên minh mấy trăm năm của hai nước Vệ, Tống. Ý của quốc quân Vệ hầu và ta là…, tìm cơ hội nào đó, ngươi diệt tên Tử Triều này đi, khi Tề Báo, Tử Triều chết đi, Công Tôn Bạt không còn bị hai tên này chế ngự, sẽ thống lĩnh đại quân Vệ quốc, sát cánh cùng tướng quân chống lại kẻ địch quân Tấn.”

“Công chúa yên tâm, mạc tướng đã ghi nhớ rồi ạ.”

Nghĩ đến đây, Hiên Viên Hành khoái chí mỉm cười, lại đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều một cái.

Công Tử Triều lòng đầy tâm sự, từ khi hắn bị điều ra tiền tuyến, hắn đã biết ý Nam Tử muốn ra tay với hắn rồi. Hồi trước đắc tội với Nam Tử, hắn không thể nào không chịu nhục đưa thân ra mua vui cho Vệ hầu, hy vọng được Vệ hầu giữ cho tính mạng, củng cố địa vị ở Vệ quốc. Không ngờ Vệ hầu Cơ Nguyên hận hắn bắn chết huynh trưởng Công Mạnh Trập, giờ lại nghe theo lời Nam Tử, đem hắn ra làm vật hy sinh nơi trận tiền.

Suốt dọc đường hành quân Công Tử Triều ray rứt không yên, hắn không biết Nam Tử đã nhờ cậy Hiên Viên Hành hay là Công Tôn Bạt, cũng có thể là một tên lính nào đó trong quân đội làm thích khách, càng không biết bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ có bán đứng hắn hùa theo Nam Tử và Vệ hầu âm mưu hại hắn không? Giờ đây Công Tử Triều ăn không ngon ngủ không yên, ngay cả gió rít chim kêu cũng giật mình sợ hãi, tâm thần hoảng loạn.

Công Tử Triều cúi đầu rầu rĩ theo sau mọi người bước vào trong lều, ngồi xuống mơ mơ màng màng trầm tư một mình, đột nhiên nghe tiếng đập bàn cái rầm, hắn giật mình hoảng hốt, chỉ nghe Viên Hiên Hành nói lớn: “Tốt! Quân ta chia làm hai cánh trái phải, thừa lúc quân chủ lực của Tấn chưa đến đánh phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí. Tử Triều tướng quân, ngài có ý kiến gì?”

“Hả? À được đấy, rất hay! Tử Triều đồng ý…cứ nghe theo ý kiến của các tướng quân.” Công Tử Triều như bừng tỉnh sau giấc mộng, lắp bắp trả lời.

Hiên Viên Hành vuốt râu, nhướng mày: “Tốt, nếu tất cả mọi người đều đồng ý làm vậy, chúng ta cứ tiến hành thôi. Người đâu, mang bản đồ lại đây, chúng ta bàn chi tiết hơn về kế hoạch tác chiến sắp tới nào!”

Lều chỉ huy của Hiên Viên Hành vừa mới dựng xong, bản đồ chưa được treo lên, hai tên lính cung kính bước vào trải tấm bản đồ rộng ra, các tướng đều bước về phía tấm bản đồ bàn bạc, Công Tử Triều cũng ngơ ngác theo sau, tâm trí hắn lại nhớ về quá khứ trong hoàng cung Đế Khâu…

Hắn mặc một chiếc áo bào trắng, khí khái ung dung, tay cầm cây tiêu bằng tre, đi qua đi lại ở khu vườn thượng uyển, Nam Tử mặt mày tươi tắn, mỉm cười quyến rũ xuất hiện, ánh mắt nàng là tình yêu say đắm và niềm vui kinh ngạc, đó chính là cảnh hắn vừa chạy từ Tống quốc sang Vệ. Bên tai Tử Triều ong ong, các tướng lĩnh đang luận bàn kế hoạch tấn công quân Tấn, âm thanh hỗn tạp lao xao, bọn họ đang nói gì Tử Triều không nghe thấy câu nào cả.

“Ta…rốt cuộc muốn có được gì chứ?” Công Tử Triều tự hỏi trong lòng, nhớ về quá khứ sâu thẳm trong tim, nhớ về Nam Tử, trong lòng trống trải…

“Thùng thùng thùng……” một hồi trống vang lên lanh lảnh, mây lửng lờ trôi, gió rít mạnh từng cơn. Phía trận địa của Khánh Kỵ bày ra năm mươi chiến xa, một ngàn cung thủ, hai ngàn kiếm thủ, hai ngàn trường mâu thủ, sau lưng là núi cao và sơn cốc hiểm trở, dàn trận chuẩn bị nghênh chiến.

Phía bên kia trên một chiếc chiến xa, cắm cây cờ ghi chữ “Hùng” to tướng, Vương Tôn Hùng râu ria khắp mặt đang uy nghi cầm kích đeo kiếm đứng trên đó.

Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, tự nhủ: “Lạ nhỉ? Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây lại không tấn công thành trì, chỉ bày trận ra ngoài sơn cốc, ý hắn muốn thế nào đây?”

A Cừu ngồi trên xe, chỉ mặc áo giáp thân trên, bên dưới chỉ là tấm áo vải thô, đeo kiếm ngang hông, trong tay không cầm vũ khí, đang nắm lấy dây cương của bốn con chiến mã phía trước, cười ha hả: “Công tử, còn phải hỏi sao? Tên cẩu tặc Cơ Quang khiếp sợ uy danh của công tử, đâu dám bén mảng tới thành trì của ta chuốc lấy thất bại.”

A Cừu là người điều khiển chiến xa, đừng xem thường hắn chỉ lái chiến xa, thật ra hắn mới là người quan trọng nhất trên đó, một khi đại chiến bắt đầu, hắn phải điều khiển cho tốt cùng lúc mấy con chiến mã, tai phải nghe rõ hiệu lệnh tiến quân rút quân, mắt luôn quan sát diễn biến tình hình trên chiến trường, tránh việc chiến xa đi sâu vào trận địa quân địch không trở ra được, hơn nữa lại không cầm được vũ khí dài hộ thân, vừa vất vả vừa nguy hiểm vô cùng.

Hai phía trái phải Khánh Kỵ đang đứng hai người, bên trái là một thần tiễn thủ, toàn thân mặc giáp, chỉ chừa vai phải ra, tay cầm cung, vai đeo một túi đựng đầy tên, bên phải là Tái Cừu, mặc giáp cầm song kích, phía sau chiến xa không chở theo trống bự, chiếc chiến xa này là để xông pha giết giặc chứ không phải dùng chỉ huy toàn quân.

Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: “Đừng nói bậy, Vương Tôn Hùng trung thành tuyệt đối với Cơ Quang, hơn nữa phiêu dũng thiện chiến, nếu chỉ xét vũ lực cá nhân, hắn không là đối thủ của ta, nhưng chỉ huy quân đội tác chiến, hắn chưa chắc kém ta phần nào đâu. Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây chắc có dụng ý nào đó.”

Tái Cừu kế bên ngạo mạn lên tiếng: “Mặc kệ hắn có dụng ý gì, hắn không tấn công thì chúng ta đánh qua đó, đánh cho hắn tan tác, lúc đó dụng ý gì cũng tiêu tùng.”

Khánh Kỵ cười ha hả, nhíu mày nói: “Tái Cừu à, con người ngươi suy nghĩ đơn giản, nhưng lại là một ý kiến hay. Nếu đã không đoán ra hắn đang có dụng ý gì, chúng ta không đoán nữa, cứ đánh bại hắn rồi tính. Cơ Quang đã ban lệnh xuống, ai gi­ao chiến với Khánh Kỵ ta mà rút lui bỏ chạy, chém! Buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà, nên trận chiến này sẽ ác liệt lắm đây, các ngươi hãy cẩn thận.”

A Cừu nắm chặt dây cương trong tay, lớn tiếng: “Công tử yên tâm, ra lệnh tấn công đi!”

Khánh Kỵ phất tấm áo khoác ra sau lưng, hét lớn: “Tấn công!”

Trên một ngọn núi, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang đứng sát vai nhau theo dõi trận chiến dưới kia, sau lưng hai nàng là hai tì nữ mới tuyển lựa trong tòa thành chiếm được, hai tì nữ cùng ôm một chiếc đàn, cũng dõi mắt về phía dưới núi. Tuy gió lạnh rít mạnh bên người, Thúc Tôn Diêu Quang lại nắm chặt bàn tay đang không ngừng tuôn chảy mồ hôi, miệng lải nhải oán trách: “Thân là chủ tướng, lại đích thân ra trận, bắt chúng ta gảy đàn thổi sáo ở đây, nhìn chàng giết giặc. Thật là tức chết đi được, người ta đang lo lắng, tâm trí nào mà gảy đàn chứ?”

Quý Tôn Tiểu Man đang xoay xoay một cây tiêu bằng ngọc xanh trên tay, lại đang háo hức theo dõi trận chiến, xem ra có vẻ thích thú lắm. Động tác Khánh Kỵ phất áo choàng về phía sau bị nàng nhìn thấy, cất tiếng khen ngợi: “Oa! Động tác này oai phong lẫm liệt, thật là mê người.”

Thúc Tôn Diêu Quang trừng mắt nhìn Tiểu Man, hét lên: “Đừng làm ồn, sắp tấn công rồi đó, chàng thân làm chủ soái lại đích thân dẫn quân ra trận, thật khiến người ta lo lắng.”

Quý Tôn Tiểu Man liếc Diêu Quang một cái, châm chọc: “Chuyện này cũng không biết sao? Đây là trận đầu tiên Khánh Kỵ gi­ao chiến chính diện với quân Ngô, năm ngoái Khánh Kỵ bại trận ở Đại Gi­ang, uy danh bị tổn hại, một năm trôi qua, tướng sĩ quân Ngô càng lúc càng ít sợ hắn hơn, người Ngô không còn e sợ, sau này hắn xua quân phạt Ngô không biết phải phí bao nhiêu sức lực, chết thêm bao nhiêu tướng sĩ, trận chiến này hắn đích thân dẫn quân ra trận, nếu đánh cho quân địch thua chạy tan tác, có thể gầy dựng lại uy danh bất khả chiến bại của hắn trong mắt người Ngô, rất có lợi cho chiến sự sau này.”

“Hứ, công nhận là cô cũng có chút hiểu biết đó.”

Quý Tôn Tiểu Man cười đắc ý, chắp tay: “Quá khen, quá khen, không dám nhận, không dám nhận, ta cũng chỉ nghe Kinh tướng quân nói lại thế thôi.”

Thúc Tôn Diêu Quang nghe xong cảm thấy tức tối, nàng hứ một tiếng rõ to: “Cũng không tệ, cô không chiếm lấy công lao về phía mình.”

Lúc này dưới núi tiếng hò hét vang lên, đại quân của Khánh Kỵ bắt đầu lao lên phía trước, chiếc xa lướt đi băng băng, bụi bay mịt mù, đứng trên núi nhìn xa xa xuống dưới, cứ như một đội thiên binh đang cưỡi mây lướt gió tiến lên.

Thúc Tôn Diêu Quang hồi hộp bấu chặt cánh tay của Quý Tôn Tiểu Man, toàn thân run lên, la lên liên hồi: “Gi­ao chiến rồi, gi­ao chiến rồi, ối, cẩn thận chứ! Sao lại phải lao ra tận phía trước, nguy hiểm quá, sợ quá, cái tên A Cừu đáng chết này, sao lại lao nhanh thế không biết, chiến xa hai bên không theo kịp rồi kìa.”

Quý Tôn Tiểu Man bị bấu vào tay đau điếng, hét lên: “Này, cô bấu ta đau quá, có gì mà phải lo lắng, cô lần đầu thấy người ta đánh trận à, sao sợ đến nỗi trắng bệch ra rồi?”

Thúc Tôn Diêu Quang giờ mới phát hiện ra mình đang bấu chặt tay Tiểu Man, vội hất tay Tiểu Man ra trách cứ: “Cô không có tình cảm gì cả, lúc ở Ngải thành chúng ta đã nói gì nào? Đuổi cô đi thì không chịu đi, còn tưởng là cô thích chàng lắm, bây giờ chàng xông pha trận mạc, sao không thấy cô có chút lo lắng nào hết vậy? Hứ, ta hiểu rồi, dù sao cô và chàng cũng đâu có hôn ước, nếu chàng có mệnh hệ nào, cô mặc kệ cứ đi lấy người khác đúng vậy không?”

Quý Tôn Tiểu Man thương hại nhìn vào Diêu Quang, lắc đầu nguầy nguậy: “Thật không hiểu cô lo lắng cái gì, hắn là ai kia chứ? Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc đấy! Hắn là Khánh Kỵ chạy nhanh hơn ngựa, nhảy lên túm được chim bay, sức mạnh quật ngã bò tót, hắn ra chiến trường giết giặc có gì mà phải lo lắng, ai chết cũng không đến lượt hắn đâu, hứ bậy quá, không nói đến chết chóc ở đây. Cô đó, làm ta rối cả lên, ta có…lòng tin với hắn.”

Thúc Tôn Diêu Quang trợn tròn đôi mắt, nhìn vào cô bé Tiểu Man đang ngưỡng mộ sùng bái Khánh Kỵ, sau đó lại dõi mắt theo dõi trận chiến dưới kia, tiếng thét vang trời, bụi bay mù mịt, tên bắn như mưa.

Tiểu Man hét lên: “Hứ, điên thật, tên Vương Tôn Hùng đó dám chạy xe lên đơn đả độc đấu với Khánh Kỵ à?”

Ánh mắt của Thúc Tôn Diêu Quang không hề muốn rời khỏi bóng dáng Khánh Kỵ, nhưng nàng quay đầu nhìn theo hướng của Quý Tôn Tiểu Man, chỉ thấy Vương Tôn Hùng đang cầm mâu xông thẳng về phía Khánh Kỵ…

Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng uy nghi đứng trên chiến xa, trừng mắt nhìn nhau, hai người đều mặc giáp da, trên đầu đội mũ giáp bằng đồng, tay cầm trường mâu sắc nhọn, sau lưng hai người bụi bay mịt mù, từng hàng chiến xa điên tiết lao vào nhau.

Chiến xa hai bên tuy lao nhanh về trước, nhưng cũng lấy chiến xa của chủ soái làm trung tâm, tạo thành một đội hình tấn công hình chóp, khoảng cách được thu ngắn lại, khi hai bên chỉ còn cách nhau không quá mười trượng, một trận mưa tên vù vù xé gió bắn vào nhau.

Quân của Khánh Kỵ chiếm giữ vị trí phía Bắc, giờ đang thuận gió, thêm vào đó giữa khe núi sức gió thổi mạnh, tất cả tên bắn ra đều bay xa hơn mạnh hơn phía quân Ngô, sau một trận mưa tên, rất nhiều binh sĩ ngã xuống tử trận.

“Đỡ khiên!” Khánh Kỵ hét lớn ra lệnh, sau chiến xa của hắn các kiếm thủ đồng loạt giơ khiên lên, các tấm khiên được bọc bằng da, tạo thành tấm chắn vững chắc đỡ lấy tên từ phía quân Ngô bắn qua, phía trước đội chiến xa dàn hàng ngang tăng tốc lao nhanh, đồng thời các binh sĩ trên đó dùng binh khí trên tay gạt tên bắn tới.

Chiến xa càng lúc càng gần, chiến mã hí vang, hai bên ập vào nhau…

“Đỡ!” Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng hét lên gần như cùng lúc, tay lăm lăm trường mâu.

A Cừu vận sức vào hai vai, cầm cương quất mạnh vào mông bốn con ngựa chiến, ngựa chiến lồng lên lướt qua chiến xa phe địch, Tái Cừu nhổ lấy một cây trường mâu cắm trên xe, quét thành một vòng tròn lấy thế, chém về phía tên lính Ngô đang điều khiển chiến xa bên kia. Khi hai chiếc chiến xa lướt qua nhau, Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng cùng lúc giơ trường mâu lên, hét to một tiếng, đâm một nhát mạnh về phía đối phương…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 193: Huyết chiến sa trường (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Keng! Chát!” Hai tiếng khô khốc vang dội, hai thanh trường mâu chạm nhau tóe lửa, hai chiếc chiến xa đã xẹt qua, tuy mới gi­ao chiến có một hiệp, Vương Tôn Hùng hai chân run rẩy, lảo đảo đứng không vững trên xe, vội đưa tay bấu chặt thanh gỗ thế mới đứng thẳng được, cánh tay tê tái đau nhói từng chập.

“Lao nhọn!”

Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.

Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.

Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ…

Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba…, cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.

Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn…

A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.

Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng “leng keng leng keng” đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)

“Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?” Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: “Ta phải xuống dưới kia!”

Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: “Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?”

Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: “Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?” Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.

Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: “Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?”

Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.

Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh “Muôn người khó địch”, binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.

Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang gi­ao chiến ác liệt.

“Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế.”

Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang gi­ao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.

Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.

Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.

Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.

Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi gi­ao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.

Quân Ngô bại trận như núi đổ!

Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào? (Câu này tác giả tự phân bua chăng?)

Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.

Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.

Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.

Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia gi­ai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.

Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.

Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.

Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.

Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: “Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần.”

Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.

Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.

“La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!” Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.

Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.

“Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng.”

Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.

“Ta biết.”

Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: “Chiến trường máu me thế này, không sợ à?”

Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười dịu dàng, nhẹ giọng nói: “Không sợ, còn nhớ thiếp từng nói gì với chàng không?”

“Gì vậy?”

“Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!”

Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.

Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: “Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng.”

Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.

“Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?”

“Chàng nói thử xem?”

“Ừm…Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát.”

Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: “Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?”

Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: “Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a…”

“Bốp!” Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.

Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: “Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?”

“Được!” Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.

Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.

“Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu…”

Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ…đã tấn công vào Ngô hay chưa?

Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. “Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này.” Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.

Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.

Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 194: Tiết lộ bí mật (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Vương Tôn Hùng.”

“Tam vương tử.”

“Hô hô, ngươi còn nhận ra ta là vương tử à?”

“Thân phận vương tử khắp thiên hạ đều biết, thần sao dám không nhận?”

Sắc mặt Khánh Kỵ trầm xuống, hét hỏi: “Nếu ngươi đã nhận ta là vương tử, sao còn giúp tên nghịch tặc Cơ Quang?”

Vương Tôn Hùng tuy áo giáp rách bươm, trên người vẫn còn bị tấm lưới chụp lấy, dáng vẻ thảm hại, nhưng lại hiên ngang ngẩng cao đầu, lạnh nhạt: “Tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử, Chư Phàn, Dư Tế, Di, Quý Trát. Tiên vương có ý truyền ngôi cho Quý Trát, vì Quý Trát từ chối nên ba vị vương tử lần lượt nối ngôi, cho đến khi tổ phụ của ngài lên ngôi, Quý Tử vẫn chưa chịu kế thừa vương vị, ngôi vị theo thứ tự trưởng thứ, phải nên do đương kim đại vương con trai của Chư Phàn kế thừa, nhưng tổ phụ ngài lại truyền ngôi cho phụ vương ngài, chủ ta chỉ lấy lại ngôi vị vốn thuộc về mình, sao có thể gọi là nghịch tặc?”

“To gan!” A Cừu đá vào sau gối Vương Tôn Hùng, hắn vừa bị đá quỳ xuống lập tức đứng bật dậy, ngạo mạn nhìn vào Khánh Kỵ, không hề sợ sệt.

Khánh Kỵ cười khẩy, phản bác: “Thứ tự trưởng thứ ư? Ngươi cũng đã nói tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử lại có ý truyền ngôi cho tứ vương tử Quý Trát, thế thì đâu có thứ tự trưởng thứ gì ở đây, lúc đó ngôi báu có phải là chắc chắn thuộc về con trưởng đâu? Quý Tử không chịu lên ngôi, ba vương tử còn lại lần lượt kế thừa vương vị, đó đều là ý của tiên vương, phù hợp lễ pháp. Phụ vương ta kế vị, là nghe theo di mệnh của tiên vương, gi­ao phó quốc gia vào tay người nào, đó phải là di mệnh của tiên vương hợp pháp đời trước, không phải là món hàng tùy ý chuyển nhượng, sao lại nói vốn thuộc về Cơ Quang hả? Tiên vương đã lập thái tử, danh phận quân thần đã định, Cơ Quang sai thích khách giết vua, ngươi có nói cho trời đổ ập xuống, cũng không che đậy được sự thật giết vua đoạt ngôi này.”

Vương Tôn Hùng hứ một tiếng rõ to, ngẩng cao đầu nói: “Vương vị Ngô quốc, vốn là chuyện của Cơ thị Ngô quốc, ai đúng ai sai không liên quan đến Vương Tôn Hùng. Vương Tôn Hùng là tướng lĩnh dưới trướng Ngô vương Hạp Lư, bổn phận phải ra sức vì đại vương, đến chết mới thôi.”

Khánh Kỵ cười to: “Ha ha, ngươi đuối lí rồi phải không? Nên mới nói ra những lời đứng về phía thân thuộc chứ không đứng về phía lí lẽ. Vương Tôn Hùng, hôm nay ngươi dẫn quân tiến về thành Na Xứ của ta, Cơ Quang phái ngươi đến là có ý gì? Chỉ với số binh mã của ngươi, nếu ta thủ thành, ngươi khó tiến thêm bước nào, giờ ta chủ động ra thành ứng chiến, vẫn cứ đánh cho ngươi bại trận tan tác. Ta cứ cho rằng ngươi có quân mai phục, để đề phòng bất trắc, còn sai Kinh Lâm dẫn quân phòng bị, không ngờ quân của ngươi chạy mất dạng, không hề thấy một binh một tốt tới cứu viện, Cơ Quang bảo ngươi tới nộp mạng đó hả?”

Vương Tôn Hùng lại hứ một tiếng, uất hận mà nói: “Vương Tôn Hùng tưởng điện hạ không biết thực hư quân ta, trong một lúc không dám ra thành ứng chiến, nên mới không hề chuẩn bị, nếu không sao để ngài dễ dàng chiến thắng? Thôi vậy, việc đã đến nước này, nói nhiều vô ích, điện hạ muốn giết thì cứ giết, Vương Tôn Hùng mà chau mày thì không là hảo hán.”

Khánh Kỵ cười khoái trá: “Ta giết ngươi có ích gì? Cơ Quang tàn bạo, dùng quân luật hà khắc trị quân còn sợ chưa đủ, còn dùng cả nhà lớn bé thân thuộc vô tội của quân sĩ ra làm con tin, đấy không phải là chủ nhân tốt. Nếu đã phạt Sở chiếm cứ Dĩnh Đô thành công, có được kỳ công này lại không biết xuôi theo thời thế, chiêu dụ người Sở, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ biết làm cường đạo giết người cướp của, hãm hiếp nữ nhân, đấy không phải là đấng minh quân. Tướng quân thần dũng, Khánh Kỵ xưa nay kính phục, sao cứ phải theo hầu hôn quân tàn bạo này chứ? Tướng quân nếu chịu quy thuận Khánh Kỵ, không những giữ được tính mạng, sau này vinh hoa phú quý, phong hầu bái tước, dễ như trở bàn tay, tướng quân có đồng ý không?”

Vương Tôn Hùng hít một hơi dài, mái tóc rối tung phấp phơ trong gió, hai mắt bắn ra tia nhìn kiên quyết, hiên ngang nói: “Đa tạ ý tốt của điện hạ, Vương Tôn Hùng đã bái đại vương làm chủ nhân, sao lại có thể tham sống sợ chết đầu hàng người khác? Nếu giờ ta làm vậy, điện hạ không sợ sau này ta lại vì muốn được tính mạng đầu hàng kẻ khác ư? Điện hạ không cần nhiều lời, xin hãy cho Vương Tôn Hùng được toại nguyện.”

Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: “Ngươi không chịu đầu hàng thật ư?”

“Xoạt, xoạt!” Hai tiếng gỏn lọn vang lên, hai thanh đao sáng choang lập tức được kề vào cổ Vương Tôn Hùng, hắn không hề tỏ ra sợ hãi, ngước cổ lên nhắm nghiền mắt, ảm đạm cất tiếng: “Không cần nhiều lời, muốn giết cứ giết!”

“Ha ha, quả nhiên là một trang hảo hán!” Khánh Kỵ khen xong, lắc đầu than thở: “Ta có thể không giết Yêu Ly, sao lại nỡ giết ngươi chứ? Hây! Chỉ là tiếc cho một trang nam tử hán nhà ngươi, lại ra sức cho tên nghịch tặc Cơ Quang tàn bạo, tiếc thay, tiếc thay…”

Vương Tôn Hùng nổi giận đùng đùng: “Điện hạ muốn giết ta thì cứ việc ra lệnh, hà tất sỉ nhục đại vương.”

Khánh Kỵ nhìn chăm chú vào hắn hồi lâu, Vương Tôn Hùng không hề né tránh tia nhìn của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ lại mỉm cười, xua tay: “Khá lắm, quả nhiên là anh hùng, thả hắn ra!”

“Cái gì?” Tướng lĩnh xung quanh đồng loạt kêu lên.

Khánh Kỵ không hề chớp mắt, nói giọng đều đều: “Ta nói, thả hắn ra, đây là quân lệnh!”

“…Tuân lệnh!” A Cừu, Tái Cừu cố chế ngự cơn giận, xua tay cho hai tên lính kề đao vào cổ Vương Tôn Hùng lui xuống, Vương Tôn Hùng ngớ người ra giây lát, vẻ mặt nghi ngờ hỏi: “Điện hạ…muốn thả ta đi?”

Khánh Kỵ hứ một tiếng: “Ngươi không chịu đầu hàng, giữ lại trong quân ta để tốn cơm gạo à? Biến, mau biến cho ta!”

Vương Tôn Hùng bước lùi hai bước, ánh mắt dò xét một lượt, sau đó đứng thẳng người, chắp tay vái lạy Khánh Kỵ một cái, quay sang phía Quý Tôn Tiểu Man đang đứng gần đó, lên tiếng hỏi: “Xin hỏi cao danh quý tánh của cô nương là gì?”

Vừa nãy gi­ao chiến, hắn tuy bị Quý Tôn Tiểu Man chụp lưới bắt giữ, nhưng cũng đâm một mâu hất tung mũ sắt của Tiểu Man, nhìn thấy búi tóc của nàng đã biết đây không phải là một thiếu niên, mà là một cô nương chưa được hứa gả cho ai.

Quý Tôn Tiểu Man vênh mặt khoái chí, đáp lời: “Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man, thế nào, ngươi không phục kiếm pháp của ta hử?”

Vương Tôn Hùng mỉm cười: “Kiếm thuật của cô nương kỳ lạ, Vương Tôn Hùng mới gặp lần đầu, trong lòng rất là khâm phục, hôm nay bị cô nương bắt giữ, hy vọng sau này trên sa trường, Vương Tôn Hùng lại có cơ hội tiếp chiến cô nương. Xin phép cáo từ!”

Dứt lời, Vương Tôn Hùng quay phắt người bước đi, cũng không nói thêm lời nào với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ quả nhiên không sai người ngăn cản, nhìn trừng trừng dõi theo Vương Tôn Hùng đi xuyên qua từng lớp từng lớp binh sĩ đội ngũ chỉnh tề, hiên ngang bỏ đi.

“Này!” Quý Tôn Tiểu Man quay sang Khánh Kỵ, mở to đôi mắt đen láy, vẻ hậm hực: “Ngài hay nhỉ, người ta phí bao nhiêu công sức, còn sém bị hắn đâm chết mới bắt được hắn, ngài sao lại thả cho hắn đi? Người này cứng đầu như trâu, sau này chắc chắn sẽ lại đối địch với ngài đó.”

Khánh Kỵ dõi theo bóng dáng Vương Tôn Hùng giờ đã đi xa, ánh mắt sáng lên, nói: “Ta biết, nhưng giết một mình hắn có ích gì? Chi bằng thả cho hắn về, lại làm nguôi ngoai cơn giận của người Ngô, đập tan sĩ khí chiến đấu của chúng. Cơ Quang đã có lệnh, ai rút lui bỏ chạy, giết! Ai buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà! Vừa nãy các binh sĩ bỏ chạy, không biết hắn có giết hay không? Vương Tôn Hùng là ái tướng của Cơ Quang, lần này đại bại, tổn thất nghiêm trọng, không biết hắn có giết hay không?

Lần này thảm bại, không phải tướng sĩ của Vương Tôn Hùng không nghe lệnh liều chết, nếu giết cả sẽ làm tướng sĩ quân Ngô sợ hãi, một khi nắm bắt thời cơ không đúng, còn có thể ép quân Ngô tạo phản, còn nếu không giết, quân lệnh của hắn nói ra không thực hiện, sau này quân Ngô gi­ao chiến với ta, chắc sẽ không ngoan cường chống cự như hôm nay nữa.”

“Ơ…” Quý Tôn Tiểu Man kể ra cũng hiểu chuyện, nghe lời Khánh Kỵ giải thích, lập tức hóa giận thành vui: “Không ngờ chỉ một tên tù binh mà có tác dụng lớn thế này, ngài lợi hại quá!”

Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: “Ha ha, điều đó đương nhiên, cho dù là một hòn đá, ta cũng bắt nó chảy dầu ra… (1) À phải rồi, nàng đừng lái sang chuyện khác!”

Khánh Kỵ làm mặt giận, hỏi: “Ai cho nàng ra tay hả? Nếu không may nàng bị thương thì ta sao ăn nói với Quý thị Lỗ quốc? Còn nữa, Vương Tôn Hùng hỏi tên nàng, sao nàng lại nói cho hắn biết?”

Quý Tôn Tiểu Man bị Khánh Kỵ trách mắng giữa chốn đông người, khuôn mặt đỏ chít vì xấu hổ, phụng phịu: “Lại là ta không đúng ư? Tên của bổn cô nương đây xấu lắm hay sao mà không nói cho người khác biết được chứ?”

“Đương nhiên là không nói ra được rồi! Hừ, bây giờ khắp thiên hạ không ai không chú ý chiến sự ở Sở quốc, Vương Tôn Hùng quay về nói ra, lúc đó khắp thiên hạ đều biết Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man đang ở trong quân Khánh Kỵ ta, Lỗ quân và Quý Tôn Ý Như mà nghe nói thì…”

“Chết rồi!” Quý Tôn Tiểu Man nhảy dựng lên hốt hoảng, sau đó xoạt một cái rút kiếm ra, nhón chân nhìn dáo dác xung quanh, Khánh Kỵ thấy bộ dạng của nàng ta, cảm thấy kỳ lạ hỏi: “Nàng làm gì vậy?”

“Mau tìm cho ta một chiếc chiến xa.”

“Nàng muốn bỏ trốn? Trốn đi đâu chứ?”

“Hứ! Đã trốn đến tận Sở quốc rồi, còn trốn được đi đâu nữa? Chẳng lẽ trốn vào bộ lạc của người Tây Địch à? Ta phải đuổi theo tên Vương Tôn Hùng mới được ngài thả ra, giết người diệt khẩu.”

—————————-

(1) Vắt dầu từ đá: Đây không phải là một lời nói bâng quơ của Khánh Kỵ mà là một câu nói lịch sử của nhà hóa học F. Bergius (1884 - 1949) người Đức. Khi còn bé Bergius tuy chỉ chơi bời lêu lổng nhưng lại hay tỏ ra hiểu biết và lừa cô bạn gái của mình rằng “Anh có thể ép dầu ra từ đá”, về sau khi cô gái lớn lên nhận ra bản chất của Bergius thì cô quay lưng lại với ông. Bergius đau khổ và lao đầu vào học, cuối cùng ông chứng minh được rằng: Đúng là có thể ép dầu ra từ đá! Từ trong than luyện chế thành nhiên liệu lỏng!

Ông nhận được giải No­bel hóa học, khi đứng trên bục nhận giải, Bergius lại hồi tưởng tới người bạn gái thuở nào.

Chỉ tiếc rằng nàng đã qua đời, không kịp nhìn thấy thành công của ông.

“Thì ra Cơ Quang muốn nhân lúc các cánh quân cần vương của Sở chưa ổn định, tấn công Quyền Ấp, lại lo lắng chúng ta và người Sở đưa tin lẫn nhau, sợ ta xuất binh cứu viện, nên mới phái Vương Tôn Hùng dẫn quân từ Ngư Phản đến đây, khống chế quân ta hành động. Chỉ là hắn không ngờ tới ta đang định mượn trận chiến này lập uy, lại chủ động xuất kích, đánh cho Vương Tôn Hùng không kịp trở tay. Thế nhưng…Quyền Ấp bị quân Ngô chiếm giữ, sẽ gây bất lợi lớn cho quân ta đấy.”

Khánh Kỵ nhíu chặt mày nghiêm nghị: “Từ mục đích này mà nói, quân Ngô tuy bại trận, thật ra chúng vẫn chiếm phần thắng.” Khánh Kỵ bước đến bức bản đồ chỉ lên đó, nói: “Các ngươi xem, phía trước mặt chúng ta là Dĩnh Đô, mặt phải là Quyền Ấp, mặt trái là Ngư Phản. Hai cánh quân từ Quyền Ấp và Ngư Phản của Cơ Quang kẹp chặt chúng ta ở giữa, chúng ta muốn tấn công Dĩnh Đô, lúc nào cũng phải phòng bị hai bên hông, sợ quân Ngô tập kích, còn nếu chúng ta tấn công một phía, cánh quân khác của chúng sẽ chặn hướng rút lui của ta, nếu ta chia quân hai ngả cùng lúc tấn công quân địch hai cánh, binh lực có đủ hay không còn chưa biết, với lại quân Ngô ở Dĩnh Đô lúc nào cũng có thể tăng viện, khó lắm đây.”

Yểm Dư công tử gật gù: “Đúng vậy, quân địch ở Quyền Ấp, đóng gần con sông Bá Tân của chúng ta, sau này chúng ta phải cẩn thận đề phòng bọn chúng. Theo tình hình này ta không khinh suất hành động được rồi, tiên phong của quân Sở bị xơi mất một nửa, tàn quân của họ hiện đang đóng tại sông Dư La, đợi đại quân của tướng quân Tử Tây đến phối hợp, chúng ta cũng phải chờ đợi, chỉ cần đợi đại quân của người Sở đánh đến chiếm giữ nơi trọng yếu, đánh lủng một chỗ trong lá chắn phòng ngự của Cơ Quang, chúng ta mới có thể hành động.”

Khánh Kỵ gật đầu đồng ý: “Ừ, giờ thứ quan trọng nhất chính là tin tức, nhưng giờ đây nước Sở hỗn loạn khắp nơi, tin tức truyền đưa khó khăn, quân đội của phe địch và phe ta lại phân bố đan xen lẫn nhau, trong lúc này khó thiết lập một nơi đưa nhận tin cố định, chỉ có thể phái ra thám mã ước lượng vị trí và quân số của kẻ địch, khó nắm được thông tin tình báo có giá trị hơn thế.”

Lương Hổ Tử ngao ngán góp lời: “Thế cũng hết cách, quan lại cai quản của người Sở xung quanh đây người thì bỏ trốn, người thì chết mất tiêu, cơ sở cai trị của người Sở ở khu vực này đã bị tê liệt, muốn kịp lúc thu nhặt thông tin tình báo, e là ngay cả quân Sở cũng không làm được, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta đây.”

Khánh Kỵ khẽ gật đầu: “Đúng vậy, muốn kịp thời truyền tin và thu nhặt thông tin tình báo cần đặt một địa điểm thỏa thuận cố định, hiện nay chúng ta không làm được chuyện này, nhưng người của Cơ Quang cũng không làm được giống ta, thế mới nói, về mặt này, ta và địch không ai chiếm ưu thế.”

Khánh Kỵ bước về chỗ ngồi xuống, nói tiếp: “Nếu đã là vậy, đối địch với Cơ Quang, ta vẫn có lòng tin, giờ điều ta lo lắng chính là phía bên Ngô quốc kìa.”

Hắn ngẩng đầu lên, tầm mắt như nhìn xuyên qua bức vách, hướng về nơi xa xăm ngoài kia: “Truyền đưa tin tức là một vấn đề khó khăn, không thể kịp thời biết được tình hình bên Chúc Dung hoàng thúc và Tôn Vũ, Anh Đào thế nào, chúng ta không phối hợp nhịp nhàng tác chiến với họ được. Bây giờ quân trấn giữ ở Ngô quốc tuy không nhiều, nhưng dù sao chúng cũng chiếm trọn ưu thế địa lợi nhân hòa, cũng may có Chúc Dung hoàng thúc ở trong quân, ít nhiều cũng vớt vát được chút giúp sức trong quân Ngô, điều chúng ta có thể làm bây giờ là chế ngự đại quân của Cơ Quang, một khi phía Chúc Dung hoàng thúc tập kích thành công, đoạt lấy Cô Tô thành, lúc đó tín sứ của ta và của Phù Sai sẽ cùng lúc chạy sang Sở đưa tin, thắng thua là vào lúc ấy, chính là lúc quân đội của ta chạy đua với quân đội của Cơ Quang, xem ai sớm quay về Ngô quốc trước tiên.”

Nói đến đây, Khánh Kỵ ngập ngừng giây lát, cười chua chát: “Cho nên dù cho Chúc Dung hoàng thúc có thuận lợi chiếm giữ Cô Tô thành, cũng không chắc chắn chúng ta giành được thắng lợi, mà phải xem tín sứ của phe nào tới trước, ai quay về Ngô quốc trước tiên. Trong tình cảnh tin tức truyền đi chậm chạp khó khăn thế này, phải phối hợp tác chiến từ xa đúng là xưa nay mới xuất hiện lần đầu. Có nhiều khi, thắng bại lại được quyết định bởi ý trời…”

Cô Tô thành mới được xây dựng không lâu, bá tánh và các hộ giàu có trong thành đều di cư từ khắp mọi miền đến đây. Nằm ở vị trí trung tâm Cô Tô thành, hoàng cung Ngô quốc giống một tòa thành nhỏ nằm trong tòa thành lớn, tuy không nguy nga tráng lệ như hoàng cung của các nước chư hầu trung nguyên, nhưng nhìn vào cũng khá là hùng vĩ.

Một con tuấn mã phi từ trong hoàng cung ra ngoài, phía trước là đội xe ngựa được cấm quân và thái giám hộ tống đang đi vào trong cung, trên xe chất đầy ngọc ngà châu báu, gấm vóc lụa là, vàng bạc vũ khí lấy từ Dĩnh Đô Sở quốc, giờ đã được vận chuyển từ Sở về, số của cải này nhiều gấp ba lần số của cải chứa trong hoàng cung Ngô quốc, phía xa đội xe, tàu chuyên chở của cải từ Sở quốc quay về vẫn còn xếp hàng dài không ngớt.

Nhìn thấy chàng thanh niên đang ngồi trên ngựa, đám cấm quân và thái giám vội vàng dừng lại hành lễ với hắn, chàng thanh niên kia không thèm để ý đến chúng, quất roi vào mông ngựa, lướt nhanh ra ngoài cổng hoàng cung. Hắn mặc chiếc áo xanh lá đậm, trên có thêu họa tiết núi non long phụng, búi tóc bằng một cây trâm ngọc phỉ thúy, mặt mày sáng sủa, thần khí cao ngạo, là một nam tử khôi ngô tuấn tú.

Người này chính là con trai của Ngô vương Hạp Lư, đương kim thái tử Phù Sai của Ngô quốc.

Phía bên ngoài hoàng cung được phân chia ra các khu vực khác nhau, càng về phía ngoài, tuy cũng có đình đài lầu các, nhưng phần lớn là vùng đất cây cối um tùm, đan xen còn có nhiều mảnh vườn trồng rau quả xanh tươi. Vào thời này trong hoàng cung cũng có khu vực trồng rau trái tự cung tự cấp, bên ngoài cũng không ngoại lệ, trong Cô Tô thành bố trí rất nhiều đất trồng, một khi xảy ra chiến tranh, chỉ cần trong thành có nguồn nước, bị vây khốn ba đến năm năm không lo về lương thực.

Phía ruộng lúa trước mặt xuất hiện một cây cầu, trên cầu đang có hai mươi mấy tên lính đứng đó, thấy Phù Sai đi đến, mọi người vội thi nhau hành lễ, Phù Sai giơ roi ngựa lên chỉ nhẹ về phía trước, sau đó phóng ngựa lướt qua mặt mấy tên lính, đám lính liền chạy bám theo sau.

Ngựa chiến từ từ chạy chậm lại, đi dọc con đường chính dẫn ra tận cổng hoàng cung, đám binh sĩ hợp sức đẩy cánh cửa dầy cộm nặng nề ra, Phù Sai phóng ngựa ra ngoài, theo sau là hai mươi mấy tên vệ sĩ, khi hắn ra ngoài rồi cánh cổng đóng sầm lại. Trước mặt trái phải có hai tòa lầu cao ngất, Phù Sai nắm chặt cương ngựa, ngẩng đầu nhìn vào bầu trời trong xanh, một cơn gió thoảng qua, cơn gió mang đến giọng ca ngọt ngào của một nữ nhân.

“Một năm mới bắt đầu rồi, mà thiên hạ cũng bắt đầu đại loạn.” Phù Sai nghĩ: “Tề Tấn liên thủ nam chinh, Sở Tần liên minh chống cự, chư hầu khắp thiên hạ đều ngả vào hai bên chiến tuyến, một trận đại loạn sắp bắt đầu diễn ra. Mà Ngô quốc, có điều kiện địa lí được ông trời ưu đãi, Ngô quốc nằm ngay gốc Đông Nam, phía Bắc có Trường Gi­ang hiểm trở, phía Nam chỉ là một Việt quốc nhỏ bé, phía Đông là biển cả, còn về phía Tây, chính là Sở quốc.

Sở quốc nhìn bề ngoài có vẻ rộng lớn, giờ bị phụ vương tấn công vào tận Dĩnh Đô, Tề Tấn một khi xua quân nam hạ, liên quân Sở Tần tự lo thân mình còn chưa xong, vốn không lo nổi chuyện của Ngô quốc, ngọn lửa chiến tranh đang thiêu rụi khắp thiên hạ này khó mà cháy lan tới Ngô quốc. Ngô quốc có uy danh đánh thắng Sở quốc, lại chiếm lấy số của cải tích trữ mấy trăm năm của Sở làm vốn, thừa lúc thiên hạ đại loạn, nỗ lực xây dựng quân đội, đợi khi nguyên khí các nước đại thương, Ngô quốc đã thành bá chủ Đông Nam, muốn tranh đoạt ngôi bá chủ thiên hạ, cũng không phải là không có cơ hội.”

Nghĩ đến đây, Phù Sai không khỏi máu nóng sôi sục trong tim.

“Thái tử, chúng ta đi đâu ạ?” Thị vệ trưởng bước lên cung kính hỏi chuyện.

Phù Sai quất nhẹ roi ngựa, cười khoái trá: “Cứ đi thong dong vài nơi, bây giờ người Đông Di làm loạn, cùng Lỗ quốc kháng Tề, đại đạo Triển Chích thừa cơ dấy binh tạo phản, cùng nước Tề trong ứng ngoại hợp. Hí, cách nhau con sông Trường Gi­ang, chúng ta cứ xem vở tuồng hay coi sao, nghe nói các bộ lạc Đông Di cũng có lúc vượt sông nam hạ, cướp bóc dân chúng nơi biên giới, trong kinh thành có nổi lên lời đồn tin liên minh của Khánh Kỵ và quân Sở, càng làm người ta lo lắng, thân là thái tử, ta phụng mệnh phụ vương trấn giữ Cô Tô thành, bây giờ đi lại trong thành cũng có tác dụng làm an lòng dân chúng.”

“Dạ, thuộc hạ xin hộ tống thái tử đi tuần tra.”

Cấm quân hộ tống Phù Sai ở giữa, men theo con đường chính trong Cô Tô thành thong dong bước đi, hàng vệ sĩ đi trước cầm trường mâu gạt đám đông ra mở đường. Phù Sai đi tới bên một cây cầu, vừa định thúc ngựa qua cầu, bên đường đột nhiên có một người nhảy ra chặn trước đầu ngựa, đám thị vệ hốt hoàng hét lên, lo đó là thích khách, lập tức có hai tên thị vệ giơ trường mâu đâm thẳng vào người đó, người này thân pháp lanh lẹ, chỉ xoay người nhẹ sang một bên đã tránh được hai đầu nhọn sắc bén đâm tới, đoạn dang tay ra, nắm chặt hai thanh trường mâu trong tay, hét to tiếng: “Khoan ra tay vội, tiểu nhân xin gặp thái tử có đại sự cần bẩm báo!”

“Dừng tay!” Phù Sai nghe vậy hét vào đám thị vệ, thần thái ung dung nhìn vào người đó.

Người này mặc áo vải thô, đầu đội mũ rơm che hết cả khuôn mặt, nhìn thế đứng vững vàng, thân thủ bất phàm, chắc là một võ sĩ. Hai chân Phù Sai thúc nhẹ vào bụng ngựa, tiến ngựa lại gần, không hề có ý cảnh giác, hỏi: “Ngươi là ai, muốn gặp bổn thái tử bẩm báo việc gì?”

Người này ngẩng đầu lên nhìn lên lưng ngựa, thấy người ngồi trên đó dung mạo tuấn tú, khí khái cao ngạo, nhất là đôi mắt sáng choang, tia nhìn sắc lẹm.

Hắn buông trường mâu ra, bước lùi ba bước, hạ gối quỳ xuống, nói: “Tiểu nhân có việc quan trọng, chỉ mong được gặp mặt thái tử một lần, bẩm báo riêng với thái tử. Vừa rồi mừng rỡ khi thấy thái tử đi tuần, trong lúc vội vàng nhảy ra kinh động thái tử, xin thái tử tha tội.”

Phù Sai lên tiếng: “Nói ý định tới đây của ngươi ta nghe.”

“Dạ!” Người kia cung kính trả lời, sau đó tháo mũ rơm xuống, cúi đầu: “Tiểu nhân vốn là người Lỗ, từ Khúc Phụ đến đây, có việc liên quan đến cơ mật Ngô quốc muốn bẩm báo thái tử, chỉ là…sự việc hệ trọng, nói ở đây không được thuận tiện.”

“Người Lỗ? Từ Khúc Phụ đến ư?” Phù Sai lộ vẻ nghi ngờ, hắn ngước đầu nhìn vào một mái đình nhỏ bên kia cầu, dặn dò: “Nào, ta qua kia nói cho rõ.” Dứt lời nhảy phóc xuống ngựa, sải bước đi về phía mái đình, mấy tên thị vệ lập tức ùa qua phía ấy, la hét đuổi người đi đường xung quanh đó dạt ra xa.

Người kia nói: “Dạ, tiểu nhân là người Lỗ, vốn là thực khách môn hạ của Thúc Tôn Ngọc đại phu Lỗ quốc, họ Lý tên Hàn. Lý Hàn ngưỡng mộ uy danh của Ngô vương và thái tử đã lâu, lần này đến đây đầu quân, còn mang theo một công lớn.”

Phù Sai tuy trẻ tuổi, nghe hắn kể rõ thân phận, nghĩ chắc có chuyện gì cơ mật quan trọng lắm cần bẩm báo đây, nhưng hắn năm lần bảy lượt muốn nói rồi lại thôi, trong lòng cảm thấy không vui, liền nhăn mặt: “Nếu đã là chuyện cơ mật, cứ nói ra với bổn thái tử, chỉ cần là đại sự có lợi cho Ngô quốc, ta sẽ thay mặt phụ vương làm chủ, cho ngươi làm quan to, ban thưởng hậu hĩ.”

Lý Hàn mừng rơn, vội dập đầu cảm tạ: “Lý Hàn xin đa tạ thái tử. Thái tử có biết, đại quân của Khánh Kỵ hiện đang ở đâu không?”

Phù Sai nói: “Đương nhiên là đang ở Sở…”

Phù Sai chợt im bặt, trong lòng ngờ ngợ, ánh mắt toát ra tia sáng nghi hoặc: “Ngươi nói…hắn đang ở đâu?”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 195: Loạn thế gi­ai nhân (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Lý Hàn vốn định lấy lòng Thúc Tôn Diêu Quang, từ đó một bước lên trời, bước vào hàng ngũ quý tộc. Khi biết được hôn ước bí mật của Khánh Kỵ và Thúc Tôn Diêu Quang, hắn vừa hận vừa đố kỵ, lại thất vọng tràn trề, nhưng khi đó hắn vẫn ôm hy vọng được Thúc Tôn Ngọc coi trọng, bắt chước Dương Hổ dấn thân chốn quan trường bằng con đường tiến cử.

Khi quân Tề nam chinh, Triển Chích tạo phản, Tam hoàn Lỗ quân cùng khởi binh bình nội loạn chống ngoại xâm, Lý Hàn cảm thấy vào thời loạn thế này, chính là cơ hội tốt cho kẻ anh hùng kiến công lập nghiệp, do đó hắn ra sức tranh thủ cơ hội dẫn quân xuất chinh, nhưng dù hắn phí bao công sức, chỉ vì xuất thân thường dân, thời gi­an ở tại phủ Thúc Tôn Ngọc quá ngắn, căn cơ thiển cận, không thể kiếm được một chức tướng lĩnh nào đó trong quân Lỗ.

Lý Hàn thất vọng cuối cùng nảy ra ý định bỏ đi nơi khác, suy nghĩ kĩ lưỡng, hắn thấy đầu quân về phía Đông Nam là tốt nhất, hơn nữa còn mang theo một món quà người Ngô không bao giờ từ chối: Tin về cánh quân mai phục ở Phi Hồ cốc tại Phí thành Lỗ quốc của Khánh Kỵ.

Phù Sai không ngờ hắn lại mang đến tin động trời này, nghe xong thất kinh hồn vía. Hắn sai người đưa Lý Hàn đi dịch quán ở tạm trước, sau này sẽ luận công ban thưởng, sau đó phóng ngựa quay về hoàng cung, lấy thân phận thái tử giám quốc lấy quốc ấn ra, hạ một đạo quân lệnh cho quan binh trấn giữ ven sông, lệnh cho họ đặt trạng thái chiến tranh bố phòng nghiêm ngặt bất kể ngày đêm, lại thảo một bức thư sai người tức tốc mang đến Dĩnh Đô ở Sở báo tin cho Ngô vương Hạp Lư, mặt khác còn sai tín sứ đi Ngự Nhi thành triệu hồi hoàng đệ của Hạp Lư là Phù Khái. Phù Khái lúc này đang trấn giữ Ngự Nhi thành, mục đích là phòng hờ Việt quốc thừa cơ hội giở thói lưu manh chạy sang Ngô quốc cướp bóc, Phù Khái nghe tin xong cũng thất kinh hồn vía, lập tức sắp xếp việc bố phòng Ngự Nhi thành thỏa đáng, xong xuôi phi ngựa trong đêm quay về Cô Tô thành. Sau khi hỏi rõ chi tiết từ Lý Hàn, theo tình báo từ Lý Hàn cho biết thời gi­an xây dựng Phi Hồ thành, quy mô thành trì, suy luận ra phục binh trong Phi Hồ thành nhiều nhất chỉ khoảng một vạn, với binh lực thế này chỉ có thể tập kích bất ngờ mới mang lại hiệu quả, giờ đây Ngô quốc đã sớm phòng bị trước, liệu rằng tên Tôn Vũ và Anh Đào nhóc con ấy khó làm nên đại sự, Phù Khái mới yên lòng đôi chút.

Nhưng dù cho là vậy, hiện nay Hạp Lư đang chinh chiến tại Sở, dẫn theo đại bộ phận binh lực của Ngô quốc. Quân bố phòng trong nước chỉ còn lại rất ít, Phù Khái không dám sơ suất, bèn bàn bạc với Phù Sai, vẫn để Phù Sai trấn thủ Cô Tô thành, Phù Khái tức tốc lên đường đến Hàn Ấp, đặt quân bố phòng nghiêm ngặt ven sông.

Đến Hàn Ấp rồi, Phù Khái thu thập tin tức từ nhiều phía. Nghe nói những ngày này liên tục có từng nhóm nhỏ người ngựa lén qua sông cướp bóc, tướng lĩnh trấn giữ ven sông cứ tưởng là người Đông Di vì muốn chuốc giận nên tập hợp lại vượt sông cướp bóc, Phù Khái nghe xong nghi ngờ đó là phục binh của Tôn Vũ và Anh Đào chia nhỏ ra qua sông, do đó một mặt tăng cường phòng ngự dọc đường sông, một mặt sai quan lại địa phương dán cáo thị khắp nơi, hứa trọng thưởng cho ai cáo mật, đồng thời đưa quân lục soát núi non, sông ngòi, làng quê hoang dã, muốn tìm ra địa điểm tập kết của đội phục binh của Khánh Kỵ.

Nhưng Phù Khái tốn nhiều công sức, cũng không có được tin gì của cánh quân này. Sau khi hắn tăng cường bố phòng đúng là đã bắt được vài nhóm người, đều ăn mặc như thợ săn của Đông Di, tra hỏi chúng cũng không lần ra mối liên hệ gì với phục binh của Khánh Kỵ, Phù Khái đem tất cả bọn người này ra chém đầu, treo thủ cấp vào cột tre đặt ngay đường lớn trong thành để thị chúng, hành động này dấy lên thù hận từ người Đông Di, số người Đông Di lén vượt sông vào ban đêm trả thù cho người thân liên tục không ngớt, làm náo loạn cả nhánh sông Trường Gi­ang, ban ngày thì quân Ngô chiếm ưu thế, ban đêm thì bị người Đông Di đánh lén, cứ thế đánh qua đánh lại, Phù Khái không sao bình định được biên giới.

Lúc này đã bước sang tháng hai đầu xuân, khắp mặt đất vùng Gi­ang Nam một màu xanh biếc, cỏ cây um tùm. Chỉ là mùa xuân năm nay đã được dự báo không trôi qua êm ả, ngọn lửa chiến tranh đang nổi lên khắp thiên hạ, khắp nơi đều là tin chiến sự truyền về, chư hầu thiên hạ hoặc vì tự bảo vệ, hoặc vì muốn kiếm chác lợi lộc gì đó trong thời loạn thế, đều ngả về hai phe liên quân Tần Sở và liên quân Tề Tấn, người giữ vị trí trung lập ngoại trừ cô gia quả nhân Chu thiên tử mang danh là chủ thên hạ, cũng chả có mấy nước nhỏ đứng ngoài cuộc.

Tấn quốc lúc này vừa mới đánh bại liên quân Vệ Tống, liên quân Vệ Tống lui giữ vùng đất Tu Trạch, chỉnh đốn quân đội. Vì quân Vệ ra trận thất bại, ba quân tan tác, thống soái Tề Báo khó tránh trách nhiệm, bị Vệ hầu hạ chỉ bắt giữ hỏi tội. Tề Báo lần này vốn định mượn cơ hội đoạt lấy binh quyền, không ngờ trước bị phó soái Công Tôn Bạt chế ngự, sau lại do bại trận khó thoái thác tránh nhiệm, bị Vệ hầu trả thù, ngay cả Bắc Cung Hỉ cũng không cách nào cứu được hắn.

Vệ quốc bại trận xong không ngoài dự đoán do Công Tôn Bạt tiếp tay, thăng chức nguyên soái. Tiên phong tướng quân Công Tử Triều vì chém chết đại tướng Kỵ Tễ của quân Tấn ngay trận tiền, lập được đại công, Nam Tử tuy hận hắn thấu xương, cũng không tiện ra tay xử trí với hắn vào lúc này, cứ cho hắn sống thêm ít ngày vậy. Công Tử Triều lập được công lại không thấy Vệ hầu ban thưởng, trong lòng đã biết chắc Vệ hầu và Nam Tử đã đạt được thỏa thuận trừ khử hắn, bắt đầu suy tính đường riêng cho mình.

Quân Tần với năm trăm chiến xa, bốn vạn hùng binh tiến ra Vũ Quan, qua Thân huyện, hướng về Sở quốc. Vì liên quân Vệ Tống đang chỉnh đốn nội bộ, bổ sung binh lính, nhất thời chưa tái chiến với Tấn quốc được, quân Tấn sĩ khí ngút trời tiến về phương Nam, giáp mặt với quân Tần vừa mới đi ra Vũ Quan.

Hai bên binh lực ngang ngửa, nhưng phía bên kia quân Sở đóng ở biên giới nghe tin quân Tần tới nơi đã chủ động ra ứng chiến, cùng với quân Tần giáp chiến trước mặt sau lưng quân Tấn, quân Tấn trận đầu bại trận, cố thủ nơi hiểm yếu, đợi binh mã các nước nhỏ đồng minh kéo đến tập hợp lại mới đánh tiếp, quân Tần bị kẻ địch hùng mạnh này chắn ngang, không dám sơ suất tiến sâu, chỉ còn cách phối hợp với quân Sở phía kia, bắt đầu gi­ao chiến với quân Tấn.

Quân Tần tung hoành ở Phương thành, quân Sở hoạt động khu Nam Bắc Hán Thủy, trải qua mấy trận đánh lớn với quân Tấn, đôi bên có thắng có thua, trong một lúc rơi vào thế dằng do, bất phân thắng bại, thành quả duy nhất mà liên quân Tần Sở đạt được chính là tiêu diệt Đường quốc từng giúp Ngô đánh Sở nay lại giúp Tấn quấy nhiễu liên quân Tần Sở.

Ở mặt trận phía Đông, Tề chiếm thế thượng phong khi gi­ao chiến với liên quân Trần, Lỗ, Tào và các bộ lạc Đông Di. Vì trong liên quân ba nước Trần, Lỗ, Tào cộng thêm các bộ lạc Đông Di, thực lực mạnh nhất chỉ là Lỗ quốc, mà Lỗ quốc hiện nay có Triển Chích tạo phản, đồng thời Triển Chích còn thuyết phục được Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu bị dồn ép bởi Dương Hổ, nổi dậy chiếm hai tòa thành quan trọng của Quý thị, liên kết với hắn củng dấy binh tạo phản. Ba mối họa này cộng lại với nhau, trở thành mối họa lớn bên trong Lỗ quốc.

Lỗ quốc bổ nhiệm Dương Hổ vừa thăng chức đại phu làm thống soái ba quân, thống lĩnh quân đội của Tam hoàn bao vây tiêu diệt quân phản loạn của Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu. Như vậy Lỗ quốc phải lo cùng lúc cả hai chiến trường, lực bất tòng tâm, quân Lỗ đóng vai trò quân chủ lực gi­ao chiến với Tề, nay quân Lỗ tự lo còn không xong, liên quân tự nhiên không đánh lại quân Tề, nhưng họ liều chết bám lấy quân Tề, khiến tốc độ tiến quân nam chinh của đại quân Tề quốc chậm như rùa bò.

Phí thành, lúc này đã trở thành một thành trì quan trọng về mặt quân sự, trong ngoài thành từng đội quân qua lại không ngớt, đám dân đen hấp tấp đi chạy nạn. Trong đại sảnh nhà cũ của Quý thị, ánh mặt trời rọi vào, khắp nơi vắng lặng, so với cảnh ồn áo huyên náo bên ngoài, nơi đây nghe rõ cả tiếng ruồi bay.

Ngoài sân đang dừng đậu mấy chiếc xe ngựa, mấy chục tên võ sĩ trang bị áo giáp vũ khí đầy đủ đứng yên bất động dưới ánh nắng, bóng của chúng in dài ra mặt đất. Trong sảnh hai nam nhân đang đứng đó, một người mặc áo bào xanh đeo kiếm, người kia thân hình thấp bé, đôi mắt lờ đờ như vừa mới ngủ dậy.

Tiếng bước chân vội vả vang lên, hai người ngước mắt nhìn về phía tấm bình phong, một mỹ nhân bước ra từ phía sau, tà áo xanh mướt, thân hình yểu điệu, dung mạo thanh nhã, mỗi bước đi đều làm say đắm lòng người.

Tên nam nhân già đứng đó thấy nhói một cái trong tim, vội cúi đầu né tránh tia nhìn của nàng ta. Đã mười mấy năm trôi qua, cô nương này vẫn mê hoặc như năm xưa, nàng như một vò rượu để càng lâu càng thơm, mùi thơm mang hơi ấm nồng nàn. Cũng chính vì vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp khó bắt người ta xuống tay hủy diệt, lão già này năm xưa phạm phải lỗi lầm lớn, giờ hắn tuyệt đối không nhìn vào đôi mắt làm điên đảo lòng người của Thành Bích phu nhân nữa.

“Tỉ tỉ.” Thành Tú thấy Thành Bích phu nhân bước ra, lập tức bước lên phía trước: “Tỉ tỉ, xe ngựa đã chuẩn bị xong.”

“Ừ!” Thành Bích phu nhân đáp khẽ, nhét một cuộn tranh đang cầm trên tay vào tay Thành Tú, dặn dò: “Thành Tú, cuộn tranh này được vẽ theo cách bí mật mà tỉ đã dạy đệ, đệ có thể xem hiểu, cầm theo nó, đi với tốc độ nhanh nhất sang Sở quốc, làm theo dặn dò của tỉ.”

“Tỉ tỉ, chúng ta…có thật phải từ bỏ tất cả ở đây, bây giờ cũng không nên đến đó, tỉ…”

“Im miệng!” Thành Bích chau mày, đôi mắt long lanh như nước hồ mùa thu quét sang ông chủ Lỗ Quái Cư đang bất an đứng bên cạnh, người từng là đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc Viên Tố, nhỏ nhẹ: “Ngươi lui xuống trước đã!”

“Dạ!” Viên Tố như trút được gánh nặng, vội quay đầu bước ra ngoài.

Thành Bích lúc này mới nói với Thành Tú: “Đệ đệ, bây giờ thiên hạ đại loạn, còn có nơi nào là an toàn tuyệt đối chứ? Đệ đó, cũng không phải là suốt đời nhờ vào tỉ được đâu, cũng phải có sự nghiệp riêng cho mình chứ. Cầm theo cuộn tranh này đi tìm Khánh Kỵ, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, đệ lúc đó là khai quốc công thần, chắc chắn được phong hầu bái tước, còn nếu Khánh Kỵ thất bại…những gì ghi trên bức tranh này, cũng đủ giúp đệ giữ được tính mạng.”

Thành Tú hoang mang hỏi: “Tỉ tỉ, còn tỉ thì sao?”

“Đệ yên tâm, tỉ là một nữ nhân, trong lúc chiến loạn không tiện ra ngoài, tốc độ đi đường lại chậm, đệ cứ đi trước, tỉ sẽ theo sau đi tìm đệ.”

Thành Tú nghe vậy mới hơi yên tâm, nhưng nghĩ kĩ hắn lại thấy anh ách: “Tỉ tỉ, đệ không ở bên cạnh tỉ, quả là không an tâm chút nào. Tỉ cũng biết hiện nay thiên hạ đại loạn, chúng ta quay về Khúc Phụ, chẳng phải an toàn hơn sao? Người Tề lợi hại đến đâu, chắc không đánh đến kinh đô Lỗ quốc được đâu nhỉ? Đệ cứ đi Sở quốc đưa tin, còn tỉ chi bằng quay về Khúc Phụ, đợi khi sóng yên gió lặng, đệ lại đón tỉ qua Sở.”

Thành Bích phu nhân thở dài: “Đệ đệ ngốc của ta, đệ tưởng tỉ vội qua đó…qua đó gặp Khánh Kỵ à?” Nói đến đây, Thành Bích hơi đỏ mặt, tiếp: “Tỉ không đi cũng không được, Công Sơn Bất Nữu lợi dục công tâm, hùa theo đại đạo Triển Chích tạo phản, lợi dụng bí mật của tỉ khi xưa, hắn không ngừng sai người bắt tỉ cung cấp lương thảo binh khí, càng lúc càng tham lam, đây là cái động không đáy, trám không đầy được. Nhưng kêu tỉ sao từ chối đây? Tỉ không đồng ý nghe theo hắn sẽ nói ra bí mật của tỉ, đến lúc đó là tỉ tiêu đời, Sinh nhi cũng không giữ được tính mạng, nếu không đến bước đường cùng rồi tỉ sao lại rời khỏi vào lúc này chứ?”

Thành Bích thần sắc sầu não: “Sinh nhi hãy còn nhỏ, nó tuy không phải là máu mủ ruột thịt của tỉ, nhưng bao nhiêu năm qua tỉ đã xem nó như con ruột của mình, nếu không vì sự thể nghiêm trọng, tỉ sao nỡ bỏ mặc nó? Ài! May là gia chủ Quý Tôn rất thương yêu nó, có gia chủ Quý Tôn chăm sóc, lại có số của cải khổng lồ trong phủ, suốt đời này nó không phải lo rồi.”

“Vậy…đệ và tỉ tỉ cùng lên đường.”

“Tuyệt đối không thể nào!” Thành Bích nghiêm nghị: “Những gì ghi chép trên cuộn tranh này rất quan trọng, tỉ tin Khánh Kỵ giờ đang rất cần nó, nếu thời cơ qua đi, nó đối với Khánh Kỵ chỉ còn là một đống rác không có giá trị, đệ phải lập tức lên đường, phải đi với tốc độ nhanh nhất đưa đến cho Khánh Kỵ.”

“Dạ!” Thành Tú cúi đầu vâng lời.

“Được rồi, đệ ra ngoài chuẩn bị đi, kêu Viên Tố vào gặp tỉ.”

“Dạ!” Thành Tố bước ra ngoài sảnh, một lát sau, Viên Tố lê bước chầm chậm đi vào, bộ dạng e dè, không hề mang chút khí khái oai phong của đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc năm nào.

Thành Bích hứ một tiếng, nói giọng không vui: “Thôi được rồi, trước mặt ta ngươi không cần làm ra bộ dạng đó nữa, ngươi có biết ta gọi ngươi từ Khúc Phụ đến đây là có ý gì không?”

Viên Tố giả lả: “Tiểu nhân không biết.”

“Ta muốn ngươi bảo vệ Thành Tú đi Sở quốc.”

“Cái gì?” Viên Tố ngớ người, vội làm ra vẻ khó xử từ chối: “Đi Sở quốc? Môn hạ của phu nhân đâu thiếu người tài, cao thủ như mây, đâu cần dùng đến Viên Tố này? Viên Tố già rồi, gân cốt toàn thân rã rời, không múa kiếm được nữa đâu, hơn nữa lão Viên còn phải trông coi Lỗ Quái Cư, lão mà đi khỏi…”

“Trông cái gì mà trông? Tưởng ta không biết dụng ý của ngươi khi mở Lỗ Quái Cư hả?” Thành Bích phu nhân tức giận ngắt lời, lạnh lùng nói: “Lỗ Quái Cư từ giờ đóng cửa, tiểu Ngải hiện đang ở Sở quốc, ngươi còn nán ở Khúc Phụ chờ đợi gì chứ?”

“Tiểu Ngải đã đến Sở quốc?” Viên Tố kinh ngạc kêu lên, nghĩ đến tình hình Sở quốc giờ đang hỗn loạn, tiểu Ngải một thân nữ nhi…, Viên Tố chợt biến sắc.

Thành Bích phu nhân vênh mặt, cặp lông mày quyến rũ như hồ ly, cất giọng đều đều: “Không sai, nàng ấy đang ở Sở, với lại đang trong đại quân của Khánh Kỵ, ngươi bảo vệ Thành Tú qua đó, tiện thể gặp tiểu Ngải luôn không tốt sao?”

Viên Tố ngơ ngẩn giây lát, tấm lưng còng từ từ đứng thẳng, chỉ trong khoảnh khắc một lão già lọm khọm bỗng hóa thân thành một kiếm khách oai phong, trở lại bộ dạng khí khái bất phàm năm xưa, Thành Bích phu nhân tuyệt đẹp đứng ngay trước mặt, nhưng khí chất của hắn như lấn át cả tuyệt sắc gi­ai nhân Thành Bích.

Viên Tố ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh nhìn xuyên thấu vào tim của hắn: “Không cần nhiều lời nữa, thời gi­an cấp bách, ngươi đi với Thành Tú ngay lập tức, còn về tổn thất của Lỗ Quái Cư, bổn phu nhân sẽ bồi thường cho ngươi.”

Viên Tố vội cụp mắt xuống, tuy chỉ là một khắc tia nhìn chạm nhau, nhưng vẻ thu hút phát ra từ đôi mắt Thành Bích thật khiến người ta khó lòng kiềm chế. Viên Tố hạ giọng đáp ứng: “Dạ! Phu nhân nếu đã nói thế, Viên Tố còn có gì không bỏ lại được chứ? Viên Tố bằng lòng đi cùng Thành Tú đến Sở một chuyến.”

“Rất tốt, mọi người khởi hành ngay đi, bổn phu nhân còn có chuyện cần làm, không tiễn.”

“Phu nhân, tại hạ cáo từ!” Viên Tố chắp tay cúi lạy xong lui ra ngoài, thần thái ung dung, bước đi vững vàng, hoàn toàn khác với bộ dạng lom khom khập khiểng khi nãy.

“Hư…, đợi Thành Tú đi khỏi, chúng ta mới đi.”

“Dạ…” Tiểu Hà hơi chút do dự: “Phu nhân…nhất định phải làm như vậy ư?”

Thành Bích liếc mắt vào Tiểu Hà, hỏi: “Ngươi lo gì à?”

Tiểu Hà cắn môi không trả lời, Thành Bích phu nhân mỉm cười, từ từ xoay lưng lại, thở một hơi dài: “Đi triệu tập đầy đủ người ngựa, chúng ta lập tức lên đường.”

“Dạ!” Tiểu Hà quay đầu bước ra ngoài. Thành Bích lại thở dài, tự nói với mình: “Chàng vốn chỉ là một công tử lưu vong, còn ta lại có gia nghiệp khổng lồ và thân phận đặc thù để lợi dụng, ta thật không biết…chàng đến với ta, rốt cuộc có bao nhiêu phần thật lòng, rốt cuộc còn vì mục đích nào khác không? Trên thế gi­an này, thứ khó đọc hiểu nhất chính là lòng người…, không biết trong lòng chàng có thật tồn tại Thành Bích, ta không yên tâm, không cam tâm chút nào.”

Thành Bích ngây dại nhìn khắp đại sảnh trống trơn, lại nói tiếp: “Tiểu Man hận ta thấu xương, mà giờ nàng ta đang ở cùng chàng, còn tên Công Sơn Bất Nữu cứ bám riết lấy ta, uy hiếp ta cung ứng quân trang cho hắn. Tất cả đều là nút thắt khó gỡ, nhưng lại buộc phải đi gỡ…”

Thành Bích đứng đó ưu sầu hồi lâu.

Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng vàng dịu, vì chiến sự đang diễn ra khốc liệt, Phí thành lập tức phải đóng cửa. Lúc này, giữa đám đông chen chúc ùa vào thành, xuất hiện thêm một đoàn người ngựa áo giáp chỉnh tề, vũ khí sáng choang, trang bị còn tốt hơn cả đại quân của Tam hoàn. Ba trăm võ sĩ hộ tống chiếc xe ngựa xa hoa của Thành Bích phu nhân đi ra cửa thành Nam, hòa cùng ánh chiều tà lay lắt.

Dưới ánh nắng hoàng hôn, in bóng một đoàn người từ từ đi xa…

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 196: Bách Tân hồ (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Bách Tân hồ. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man đang thong dong đi dạo ven hồ, nước hồ xanh biếc, lăn tăn gợn sóng, trên mặt hồ đang có mấy con thuyền nhỏ thả lưới đánh cá, đó đều là binh sĩ của Khánh Kỵ, trong hồ có nhiều cá béo ngậy, bắt lên bổ sung cho bữa ăn cũng khá hay, lại có thể để đám binh sĩ trước đây chưa từng đi thuyền rèn luyện thêm, một công đôi việc.

Bên hồ có một khu vực rộng lớn bị dọn trống, làm xưởng đóng thuyền “Chu thất”, những binh sĩ biết đóng thuyền trong quân Khánh Kỵ giờ bị điều động hết tập trung ở đây, ngoài ra còn tuyển lựa nhiều thợ mộc vào đội đóng thuyền, còn những thợ cưa gỗ thì không cần phí công chọn lựa, đám binh sĩ khỏe mạnh chặt cây khiêng đá còn nhanh hơn cả dân làm lao dịch.

Những thủy binh phụ trách chèo thuyền gọi là “Thuyền tốt”, với “Thuyền quan” chỉ huy đội chèo đều được tuyển lựa kĩ lưỡng từ trong quân Khánh Kỵ, còn các binh sĩ còn lại, chỉ cần thích ứng việc đánh trận trên thuyền là được. Lúc này đám binh sĩ đang lái những chiếc thuyền màu sắc hỗn tạp mới mua về, tập luyện thủy chiến trên lòng hồ xa xa, cả trăm mái chèo cùng lúc rẽ bọt sóng, hai thuyền giáp mặt thu ngắn khoảng cách, các binh sĩ phóng móc câu qua đó níu chặt thuyền của đối phương, phi thân bay qua tiếp chiến, thỉnh thoảng có người tuột tay rơi tỏm xuống nước, tuy chỉ là diễn tập nhưng tất cả binh sĩ đều tập luyện hăng say như thật.

Yểm Dư nói: “Ta từng đi tìm một số thuyền về đây, đáng tiếc đó đều là thuyền đánh cá loại nhỏ và thuyền chở khách, không thích hợp đi lại đường dài trên sông lớn, chỉ còn cách tự đóng thuyền lấy vậy. Lần này chúng ta chủ yếu chờ đợi sau khi phía Chúc Dung thành công chiếm giữ Cô Tô thành, tiến quân thần tốc quay về chặn trước đại quân của Cơ Quang, chiếm lĩnh thành trì chờ hắn tới nộp mạng. Ta đã tính toán, với khoảng cách đường bộ Ngô Sở, dọc đường phải chèo đèo vượt suối, đường đi vô cùng khó khăn, chúng ta không có đủ số xe ngựa chuyên chở binh sĩ, dù có đủ xe cũng khó đi trên con đường hiểm trở, tốc độ không nhanh bằng đi đường thủy. Với lại hành quân thế này lương thảo khó theo kịp đại quân, chúng ta không thể không tính đến trường hợp bại trận, nếu lương thảo theo không kịp, đánh nhau lại bại trận thì lòng quân hoang mang, sợ lúc đó có nhiều binh sĩ bỏ trốn.”

Khánh Kỵ gật gù. Yểm Dư lại nói: “Vì thế với số thuyền này, ta không dám mảy may sơ suất, chúng ta đang đóng nhiều tàu thuyền, có thuyền lớn dùng cho việc vận chuyển binh lính, vì muốn đối phó với thủy binh quân Ngô, ta còn chuẩn bị đóng lâu thuyền, thuyền đụng, thuyền cánh én, thuyền nhỏ để truyền đưa tin tức và dò thám nữa…”

Khánh Kỵ khẽ gật đầu hài lòng: “Hoàng thúc suy nghĩ chu đáo, nếu chúng ta đi đường thủy về Ngô, tuy là xuôi theo dòng nước, để tăng tốc cũng nên ra sức huấn luyện thêm cho binh sĩ, lần này về Ngô quốc, đường sá xa xôi, số thuyền tốt này không đủ dùng đâu, để ta đi chọn thêm số người biết lái thuyền đưa tới, tổ chức làm đội dự bị, hai đội thuyền tốt thay phiên nhau chèo…”

Khánh Kỵ chợt ngưng bặt, toàn thân tưng lên một cái rồi cứng đơ ra, một cánh tay còn giơ lên không trung, miệng mở to bất động, không nói tiếng nào. Mọi người hoảng sợ cả lên, vội nhìn cả vào hắn, chỉ thấy hắn trợn mắt đáng sợ, gân xanh nổi lên trên trán, thân trên run lập cập như đánh đu.

Thúc Tôn Diêu Quang lo lắng, vội bước tới vịn lấy vai Khánh Kỵ, hốt hoảng kêu lên: “Chàng sao rồi? Mau nói gì đi chứ? Chàng sao rồi?”

Khánh Kỵ nhìn trừng trừng vào đống tàu thuyền đang được đóng dang dở bên “Chu thất” được dựng lên sơ sài. Hai mắt trợn tròn, vẫn không phát ra tiếng nào. Thúc Tôn Diêu Quang quay đầu lại nhìn theo hướng đó, các binh sĩ bên kia vẫn bận rộn làm việc, không có gì khác lạ, Thúc Tôn Diêu Quang càng thêm sợ hãi, sắp bật khóc đến nơi. Nàng ra sức lay lay Khánh Kỵ, quay qua cầu cứu Yểm Dư: “Mau, mau đi mời một thuật sĩ về đây, chàng…chàng nhất định bị trúng tà rồi.”

Phía bên kia, Quý Tôn Tiểu Man gần như cùng một lúc với Diêu Quang lao đến bên cạnh Khánh Kỵ, bấu chặt chiếc vai còn lại của hắn, nàng không lay Khánh Kỵ, chỉ là mở to đôi mắt đen láy như hạt ngọc, kinh hãi nhìn vào hắn. Thúc Tôn Diêu Quang ra sức lay mạnh Khánh Kỵ cho hắn tỉnh lại, Quý Tôn Tiểu Man cũng bị lay cho chóng mặt, hét lên: “Đừng lay hắn nữa! Tên này giết người vô số, đôi tay nhuốm đầy máu tanh, có con ma nào dám ám hắn chứ?”

Khánh Kỵ chợt xoay đầu lại, nhe răng phát ra tiếng âm u: “Ta là ma nữ đây!”

Quý Tôn Tiểu Man “Oái!” một tiếng nhảy dựng, bật về phía sau, đoạn “Xoạt!” rút Hàm Quang kiếm cầm trong tay, hung dữ chĩa vào trước ngực Khánh Kỵ, nghiêm giọng: “Ngươi đi ra cho ta!”

Khánh Kỵ không còn nhịn được nữa, bật cười khanh khách: “Nàng chui vào ta đi!”

Quý Tôn Tiểu Man ngờ ngợ: “Ta không phải là ma nữ, sao mà vào được?”

Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, cười đến nỗi ôm bụng lăn lộn: “Tiểu Ngải à Tiểu Ngải, nha đầu này ngốc nghếch đáng yêu thật. Ha ha ha…, ai nói ta bị ma nữ ám chứ? Giết người vô số, tay nhuộm đầy máu tanh, nàng nói ta thành “Hỗn thế ma vương” mất rồi, ta còn bị ma ám được ư? Ha ha ha…”

Quý Tôn Tiểu Man nóng ran hai má, xấu hổ vì biết bị lừa, hậm hực nói: “Ngươi đó, không đàng hoàng gì cả, sao lại hù dọa người ta?”

Thúc Tôn Diêu Quang đẩy mạnh Khánh Kỵ một cái, phụng phịu: “Chàng đó, lần sau đừng hòng người ta lo lắng cho chàng nữa.”

Khánh Kỵ tươi cười hớn hở, cứ như lượm được kho báu, cười đến nỗi không ngậm miệng lại được, hắn cũng không giải thích với hai cô nương, chỉ là đưa tay nắm lấy Yểm Dư, vội lên tiếng: “Không cần lo, chỉ là ta vừa mới nhớ ra một chuyện lớn. Mau, chúng ta đi “Chu thất”, lập tức triệu tập tất cả thợ đóng thuyền, ta có chuyện dặn dò bọn họ.”

Kéo theo Yểm Dư đang nghệch mặt ra không hiểu gì cả đi được vài bước, Khánh Kỵ quay đầu lại nói: “Hai nàng tự đi đâu đó chơi đi, không cần theo ta.”

Quý Tôn Tiểu Man hậm hực tra kiếm vào bao, đôi mắt long lanh tức tối, nguýt to: “Đúng là một tên vô lại!”

Thúc Tôn Diêu Quang hùa theo: “Là tên vô lại hư hỏng hết chỗ nói!”

Hai người nhìn vào nhau, bỗng chốc nảy sinh cảm giác đồng hội đồng thuyền, hai người mỉm cười với nhau, lại thoáng thấy ngại ngùng, Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy tay Quý Tôn Tiểu Man: “Muội muội, chúng ta tìm một chiếc thuyền nhỏ đi chèo thuyền chơi, mặc kệ tên hỗn đản đó.”

“Ờ…hay đó!” Quý Tôn Tiểu Man còn chưa quen Diêu Quang tỏ thái độ thân thiết với nàng như vậy, ậm ự nói: “Nhưng ta không biết chèo…”

Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười: “Ta biết đôi chút, không sao…chúng ta kêu người khác chèo hộ.”

Quý Tôn Tiểu Man mừng rỡ: “Hay quá! À hay là chúng ta đợi ở đây một lát, tên khốn đó hù dọa chúng ta thế này, phải bắt hắn chèo thuyền cho chúng ta, mệt chết hắn mới thôi!”

“Được!” Hai cô nương cười khúc khích khoái trí với nhau.

Các thợ đóng thuyền đang làm việc trong “Chu thất” đều bị đuổi hết ra ngoài, ngoại trừ Khánh Kỵ, Yểm Dư, chỉ vài đội trưởng giữ chức vụ cao được ở lại, họ đều là thợ đóng thuyền lão luyện, mọi người đứng thành một vòng tròn, Khánh Kỵ đứng giữa, trên tay cầm một mô hình thuyền gỗ, tỉ mỉ giảng giải cho mọi người nghe, chốc chốc có người giơ tay thắc mắc, Khánh Kỵ dừng lại giải thích kĩ hơn.

Đợi Khánh Kỵ nói xong, một tên đội trưởng lên tiếng khâm phục: “Tiểu nhân tuy ở Sở quốc, nhưng đã sớm nghe danh công tử Khánh Kỵ mới là thiên hạ đệ nhất về chế tạo, hôm nay được thấy tận mắt, đúng là danh bất hư truyền, máy xay gạo, bánh xe tưới tiêu, đã là tác phẩm tuyệt diệu, còn thuyền này…, Ây! Tiểu nhân từ nhỏ đã theo phụ thân học đóng thuyền, cả đời này các loại thuyền do chính tay tiểu nhân đóng nhiều vô số, nhưng chưa từng nghĩ ra ý tưởng khác lạ như thế. Tuy cái vật này tiểu nhân chưa từng thấy qua, trước mắt còn chưa làm thử, nhưng với kinh nghiệm đóng thuyền cả đời của tiểu nhân, biết chắc các thiết kế này rất khả dụng, mọi người thấy thế nào?”

Các đội trưởng xung quanh ai nấy gật đầu lia lịa, vui mừng ra mặt. Bọn họ đều là thợ đóng thuyền tài ba,đối với họ có thể đóng ra một chiếc thuyền chất lượng ưu việt là chuyện vui sướng nhất trên đời. Còn nếu đóng được một chiếc thuyền xưa nay chưa từng có, càng là thành tựu vĩ đại, lúc này đây trong lòng họ phấn khích vô cùng, không hề thua kém cảm giác lâng lâng vừa nãy khi mới nảy ra ý tưởng của Khánh Kỵ.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 196: Bách Tân hồ (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Khánh Kỵ mừng rơn: “Đương nhiên là khả dụng rồi, thuyền này dùng cánh buồm mà bổn công tử vừa nói, mượn sức gió đi trên sông, trong lúc thuận gió, không những tiết kiệm rất nhiều sức, mà tốc độ di chuyển còn nhanh gấp mấy lần, cho dù là ngược gió hay gió thổi chệch hướng, chỉ cần mặt nước đủ rộng, điều chỉnh góc độ cánh buồm chạy theo đội hình chữ “Chi” (chữ Chi trong tiếng Hán viết giống chữ Z trong tiếng Anh.), vẫn cứ tiến nhanh như cũ. Tất nhiên, đội lái thuyền phải từ từ tập luyện mới nắm bắt được cách điều khiển, trước mắt chúng ta chưa cần nghĩ tới. Hoàng thúc, nơi này cần tăng cường canh gác, phải đảm bảo trước khi chúng ta dùng đến, tin tức không tiết lộ ra ngoài, còn sau này thì, sợ gì không cho khắp thiên hạ được biết, ha ha…”

Câu cuối cùng hắn nói là để cho đám thợ đóng tàu này nghe. Hồi xưa hễ mà có vật gì quý báu hay chuyện cơ mật, quân vương vì muốn độc chiếm, giết người diệt khẩu chuyện gì cũng dám làm. Khánh Kỵ sợ đám thợ này sau khi cơn phấn khích qua đi, lo lắng Khánh Kỵ vì muốn giữ bí mật, sau này sẽ giết chết bọn chúng, lúc đó chắc không ra sức làm việc, nên mới nói ra câu này, ý là hiện giờ thì cần phải giữ bí mật, một khi dùng xong đống tàu thuyền mới này, thì không sợ khắp thiên hạ biết đến, lúc đó không phải giữ bí mật gì nữa, bọn họ sẽ không bị đe dọa tính mạng, còn nắm bắt được một số kỹ thuật đóng thuyền mới mẻ. Khánh Kỵ dùng chiêu này để trấn an lòng người.

Yểm Dư hiểu ý Khánh Kỵ, hắn cũng mỉm cười góp tiếng nói: “Yên tâm đi, xung quanh Bách Tân hồ có đại quân canh giữ, không cho phép người lạ tiếp cận, đợi khi chúng ta dùng đến đống thuyền này, lúc đó Cơ Quang có biết thì đã muộn, hắn không kịp đóng thuyền bắt chước theo chúng ta, đại sự có cơ hội thành công rồi, ha ha…”

“Ừm, giờ nghĩ ra cách này, ta quyết tâm quay về Ngô quốc bằng đường thủy.” Khánh Kỵ lại quay sang đám thợ, nói: “Còn về bánh lái, bổn công tử chỉ nghĩ ra phương thức, còn cụ thể chế tạo, lắp đặt, vận hành thế nào cần các ngươi ra sức nghiên cứu, dù là làm ra xong cũng phải có thời gi­an đủ cho đội thuyền tốt thao tác sử dụng thành thạo, nên các vị phải nhanh chóng thiết kế làm ra để các thuyền tốt tập luyện. Còn về cái khoang tàu đóng kín kia, tin chắc bổn công tử nói ra là mọi người hiểu ngay, cái đó không cần nói nhiều nữa.”

Đám thợ cùng chắp tay: “Xin hai vị công tử yên tâm, ở đây vật liệu nhân công đều đầy đủ, tàu thuyền còn chưa đóng xong, muốn chỉnh sửa đôi chút không gì khó, bọn tiểu nhân lập tức làm việc, làm ra chiếc chiến thuyền kiểu mới tận dụng sức gió và khống chế dòng chảy này.”

Khánh Kỵ gật đầu mỉm cười: “Tốt, đợi khi nào hoàn thành, ngoài tiền công đã hứa, các vị đều được nhận thêm gấp năm, à không! Gấp mười lần tiền thưởng, Ngô quốc Khánh Kỵ, đã nói là làm, các vị có thể yên tâm, bắt đầu bắt tay vào làm việc đi.”

Khánh Kỵ phất tay, cùng Yểm Dư lui ra ngoài “Chu thất”, mấy đội trưởng đóng thuyền lập tức túm tụm lại với nhau, léo nhéo bàn bạc một hồi, số khoang thuyền kín, bánh lái, buồm gió Khánh Kỵ nói với họ trước đây chưa từng thấy qua, họ là những tay đóng thuyền lão luyện lúc này cũng cần bàn bạc điều chỉnh cho phù hợp, tất nhiên cần trao đổi kinh nghiệm với nhau trước đã.

Vừa ra khỏi “Chu thất”, Yểm Dư phấn khích khen lấy khen để: “Khánh Kỵ này, thúc phụ bây giờ đối với cháu đúng là tâm phục khẩu phục, cháu có thể trong một thời gi­an ngắn nảy ra ý tưởng táo bạo này, không phải có thần thánh giúp đỡ không thể làm được. Thiên hạ của Ngô quốc, thuộc về cháu chắc rồi! Có các chiến thuyền kiểu mới này, chúng ta muốn quay về Ngô quốc trước lão tặc Cơ Quang dễ như trở bàn tay, chỉ cần thuyền được đóng xong, ta lập tức cho binh sĩ tập luyện sử dụng thành thạo, …”

Khánh Kỵ mỉm cười, vừa định lên tiếng, phía bìa rừng xa xa Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang xì xào to nhỏ đã nhìn thấy hắn bước ra ngoài, Quý Tôn Tiểu Man sải bước dài lao nhanh tới trước mặt Khánh Kỵ, làm mặt giận dỗi: “Này! Muội muốn chèo thuyền trên hồ.”

Khánh Kỵ còn đang bận suy tư gì đó chưa kịp định thần, hờ hững buông một câu: “Thế thì đi đi.”

“Nhưng muội không biết chèo thuyền.”

“Đơn giản thôi mà, kiếm ai đó chèo giúp.”

Quý Tôn Tiểu Man cười tinh nghịch: “Vậy người ta tìm ai để chèo nè?” Thúc Tôn Diêu Quang lúc này đã đến đứng kế bên cũng đang tủm tỉm.

Khánh Kỵ vừa định trả lời, Kinh Lâm từ phía xa đang chạy nhanh tới, vừa chạy vừa hét lớn: “Công tử, công tử, có tin đưa đến.”

Khánh Kỵ vội bước tới, hỏi: “Có chuyện gì?”

Kinh Lâm vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: “Hai cánh quân Ngô ở Ngư Phản, Quyền Ấp tấn công tàn quân trấn thủ La Gi­ang của quân Sở, quân chủ lực của Sở phải ba ngày sau mới đến được, bây giờ quân Sở ở La Gi­ang nguy ngập, phái người đột phá vòng vây chạy đến xin công tử cứu viện.”

“Hử?” Khánh Kỵ đanh mặt, vội gọi theo Yểm Dư, nói: “Đi, chúng ta đến chỗ ở của hoàng thúc rồi bàn bạc rõ ràng hơn.”

Hắn xua tay về hướng cô nương Tiểu Man có tính khí trẻ con: “Tiểu nha đầu, muốn đi chơi trên hồ thì cứ tìm mấy tên lính biết chèo thuyền chở theo là được mà.”

Quý Tô Tiểu Man phụng phịu: “Hứ, lại để hắn chuồn đi mất rồi.”

“Thôi đi, nam nhân ấy à, cứ bàn đến đánh trận là trong lòng chỉ có quân địch, còn chứa được gì khác đâu chứ? Chàng có việc lớn cần làm, chúng ta không giúp ích được gì cũng không nên gây cản trở, đi chơi trên hồ chúng ta tự đi vậy.” Thúc Tôn Diên Quang thông cảm lên tiếng.

Quý Tôn Tiểu Man quay đầu lại, nhìn một lượt từ đầu đến chân Diêu Quang. Thúc Tôn Diêu Quang hai má ửng hồng, thắc mắc: “Bị gì vậy?”

Quý Tôn Tiểu Man thở nhè nhẹ, hạ giọng: “Không có gì. Ta bây giờ đã hiểu vì sao hắn cứ gọi mình là tiểu nha đầu. Ây! Ta đúng là tính khí trẻ con, rất nhiều chuyện…cứ thích là làm, không hề suy nghĩ cho người khác…”

Thúc Tôn Diêu Quang nhìn vào khuôn mặt Tiểu Man, ánh nắng êm dịu rọi lên khuôn mặt búp sen của nàng ta, xung quanh lỗ tai có ít tóc tơ, toát ra vẻ ngây ngô của con trẻ, nhưng cũng có nét xinh xắn quyến rũ.

Thúc Tôn Diêu Quang thở dài: “Muội đó, biết nói ra những lời này, nghĩa là đã trưởng thành rồi.”

Diêu Quang ngẩng đầu, nhìn bóng lưng Khánh Kỵ đã đi sang bên kia bìa rừng, đan các ngón tay vào nhau, tâm sự: “Lúc mới gặp chàng, ta cũng chỉ là một thiếu nữ điêu ngoa không hiểu chuyện, cái tính khí bây giờ là được chàng dạy dỗ đó, ta cũng vừa mới chín chắn lên thôi.”

“Hừ! Quân Sở hành quân với tốc độ quá chậm, hậu quân xuất phát chậm, lại vội phái quân tiên phong tiến đánh Quyền Ấp, kết quả đơn độc tác chiến, bị Cơ Quang đánh bật ra La Gi­ang, quân Sở rốt cuộc đang tính toán gì chứ?” Yểm Dư nghe Kinh Lâm bẩm báo chi tiết về tình hình bên quân Sở xong nổi cơn tanh bành.

Khánh Kỵ cười khổ: “Ai cũng biết hiện giờ người cầm quyền ở Sở chỉ là một tiểu Sở vương nhỏ tuổi, người kia là Phí Vô Cực. Phí Vô Cực thật ra rất thông minh, chỉ đáng tiếc con người hắn quá ích kỉ, một người ích kỉ chỉ biết lo nghĩ cho riêng mình, khó tránh khỏi làm ra những chuyện ngu ngốc. Hắn phái quân xâm nhập riêng lẻ, khó nói không phải vì muốn chúng ta gánh chịu sức tấn công của Cơ Quang giùm hắn.”

Kinh Lâm nổi đóa: “Chúng ta cũng đang bị Cơ Quang tấn công mà, đại quân của Vương Tôn Hùng không phải do công tử đánh cho tan tác ư? Cho dù Phí Vô Cực có đến đây hắn cũng không có gì để trách, chẳng qua hắn cứ nhỏ nhen, chấp nhận thiệt mất một cánh quân Sở. Hừ! Sở quốc giờ đã ra nông nỗi thế này, thứ gi­an thần như hắn còn toan tính chủ ý gây tổn hại lên nhau, khó trách đệ nhất cường quốc lãnh thổ rộng lớn, binh mã đông đúc phương Nam lại thảm hại đến bước đường này.”

Khánh Kỵ nói: “Lạc đà ốm đói vẫn to hơn con ngựa, hơn nữa Sở quốc không phải không mạnh, chỉ là thiếu gắn kết mà thôi, như một con sư tử khỏe mạnh có một bộ óc heo, nên mới bị người ngoài xà xẻo. Nay chúng ta vẫn cần hợp tác với người Sở, nên đối với quân Sở đang bị vây khốn ở La Gi­ang, biết chắc là dụng tâm của Phí Vô Cực, cũng không thể bỏ mặc không cứu.”

Yểm Dư uất ức: “Binh mã của ta chính là bị đám khốn kiếp Nang Ngõa, Phí Vô Cực hại cho mất hết. Khánh Kỵ, ý cháu là…chúng ta vẫn phải xuất binh đi cứu viện đám quân Sở bị vây ở La Gi­ang ư?”

Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: “Phí Vô Cực đã gây ra chuyện này, người Sở sẽ tự đi cứu viện, chỉ vì biết chắc chúng ta không thể không cứu, người Sở nghĩ ra, bọn gi­an tặc Cơ Quang, Ngũ Tử Tư sao lại không nghĩ ra? Chúng vây đánh quân Sở tại La Gi­ang là giả, mai phục quân cứu viện của ta mới là thật, nên…chúng ta không thể đi!”

Yểm Dư và Kinh Lâm cùng ngớ người không hiểu: “Vừa phải đi cứu, lại không thể đi cứu, vậy theo ý của chủ soái là…?”

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 197: Đánh úp sau lưng (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Mọi người xem.” Khánh Kỵ chỉ lên tấm bản đồ nói: “Phía Tây chỗ này là Ngư Phản, phía Đông chỗ này là Quyền Ấp, ở giữa là con sông La Gi­ang, tàn quân của Sở đều tập trung cả ở đây. Mặt nam là Dĩnh Đô, mặt bắc khe núi này là thành Na Xứ chúng ta đang chiếm giữ. Nếu chúng ta xuất binh đi cứu quân Sở tại La Gi­ang, Dĩnh Đô cũng xuất quân chặn đường chúng ta, sau đó quân Ngô tại Ngư Phản và Quyền Ấp sẽ tấn công hậu quân của ta, chúng ta cùng lúc bị đánh cả trước mặt sau lưng, làm không tốt thì cũng rơi vào tình cảnh của đám quân Sở này, mất đi thành trì hiểm yếu, lưu lạc tới vùng La Gi­ang, đợi Tử Tây đến cứu, lúc đó cứu người không được, lại tự hại thân mình, sao có thể xuất binh đi cứu chứ?”

Đôi mắt Yểm Dư chớp chớp, đã hiểu ra vấn đề, nói: “Nếu quân Ngô lấy tàn quân của Sở tại La Gi­ang làm mồi nhử, mục đích thật sự là nhằm vào chúng ta, vậy chúng ta hãy làm ra vẻ như muốn đưa quân đi cứu quân Sở, đánh trống khua chiêng tiến về La Gi­ang, giữa đường ta thay đổi đột ngột, chỉ để lại ít người dẫn dụ quân địch, còn đại đội binh mã bất ngờ tấn công Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, tương kế tựu kế cướp thành trì của chúng, có phải vậy không?”

Khánh Kỵ cười ha hả: “Hoàng thúc đoán đúng lắm, nhưng phải để lại ít quân thủ thành, quân chủ lực đi tấn công Quyền Ấp hoặc Ngư Phản, kết quả cuối cùng có thể là chiếm được một thành, mất một thành. Thành Nã Thứ nằm giữa Quyền Ấp và Ngư Phản, hồ Bách Tân từ khi biến thành xưởng đóng thuyền của quân ta, đã trở thành cứ điểm quan trọng quyết định đại nghiệp phạt Ngô sau này của ta có thành công hay không, nên cũng không thể khinh suất điều quân rời đi tiến đánh Quyền Ấp hoặc Ngư Phản. Ý của ta là…giả bộ xuất quân đến cứu viện La Gi­ang, giữa đường chuyển sang tấn công Ngư Phản, sau đó…”

Ngón tay của Khánh Kỵ chỉ ngay vị trí của thành Na Xứ trên bản đồ, gằn từng tiếng một: “Một là hư chiêu, hai cũng là hư chiêu, ba mới là đánh thật. Chúng ta tương kế tựu kế, đợi khi quân Ngô tập kích thành Nã Thứ, đại quân quay về sau lưng chúng, đâm cho chúng một nhát hồi mã thương.”

Kinh Lâm không hiểu thế nào là “Hồi mã thương”, nhưng ý của Khánh Kỵ thì hắn đã hiểu ra, phấn khích khen ngợi: “Công tử quả nhiên diệu kế! Chúng muốn dụ chúng ta rơi vào bẫy mai phục, ngược lại rơi vào bẫy mai phục của chúng ta. Công tử thần cơ diệu toán như thế, lần này phạt Ngô phục quốc, đại sự tất thành.”

Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, nghiêm nghị: “Binh sĩ có suy nghĩ như vậy, có thể nâng cao sĩ khí chiến đấu, nhưng thân làm tướng lĩnh, tuyệt đối không được tự tin thái quá, nên biết kiêu binh tất bại, trong binh pháp tuy có đề cập dùng binh tập kích bất ngờ giành thắng lợi, nhưng thắng lợi cuối cùng phần lớn thuộc về kẻ nào dùng binh lực hùng mạnh gi­ao chiến chính diện. Cái gì mà lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh trong binh gia không phải là không có, chỉ là có quá ít, chính vì vậy mới được người ta xem như kinh điển, ngoài ra đó chỉ quyết định thành bại trong một trận chiến, cực ít trường hợp xoay chuyển được cục diện cả chiến dịch.”

Ánh mắt Khánh Kỵ dõi theo phương xa, tự nói với mình: “Cho dù có là Binh thánh, binh lực cũng là tiêu chuẩn duy nhất quyết định tất cả. Cầm ba vạn quân trong tay, thiên hạ không ai địch lại, chỉ là một câu tâng bốc không đúng với thực tế, cũng như Khánh Kỵ ta bị người ta nói thành vạn người khó chống lại, cứ cho một trăm binh sĩ vây kín ta, ta có mọc cánh cũng khó mà chạy thoát thân.”

Kinh Lâm thấy chủ soái nói có vẻ nghiêm trọng, liền luôn miệng nhận lỗi. Yểm Dư không biết hắn đang lo về cánh quân mấy ngàn người do Tôn Vũ thống lĩnh có nhiệm vụ tập kích bất ngờ vào Ngô quốc, những lời vừa nãy nghe hắn nhắc đến xưởng đóng thuyền, trong lòng chợt nổi lên một khúc mắc, liền lên tiếng hỏi: “Khánh Kỵ, cháu bản lĩnh đầy mình, điều đó ta biết. Luận về kiếm pháp, cháu không bằng ta. Luận về mâu pháp, ta không bằng cháu. Cháu trời sinh đã có thần lực, trên chiến trường ít có địch thủ, được xưng tụng là Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, điều đó cũng xác đáng thôi. Nhưng nói về dẫn quân đánh trận, cháu luôn quen việc dẫn quân đường đường chính chính giáp chiến chính diện với quân địch, không giỏi về việc dùng mưu mẹo, bây giờ thói quen dụng binh của cháu so với hồi năm ngoái lúc rời khỏi Sở khác nhau một trời một vực. Còn nữa, cháu đường đường là vương tử Ngô quốc, sao lại biết nghiên cứu ra máy xay, bánh xe gió, rồi mấy thứ thuyền buồm, bánh lái gì đó? Ta nghe nói, bàn chải đánh răng mà hiện nay các công khanh quý tộc khắp các nước chư hầu đều thích dùng cũng do cháu thiết kế làm ra, cháu làm ra tất cả bao nhiêu thứ, khiến ta khó mà tin đó là sự thật.”

Nghe những lời này, Khánh Kỵ không khỏi giật mình, người thời đó phần lớn chỉ nghe oai danh Khánh Kỵ, chứ không hiểu rõ về hắn, nên hắn có phát minh quái lạ nào người ngoài cũng không thắc mắc. Nhưng Yểm Dư thì khác, Yểm Dư là hoàng thúc của hắn, hai người tuổi tác không mấy chênh lệch, lại từ nhỏ chơi chung với nhau, cùng nhau trưởng thành nên hiểu rõ hắn hơn ai hết. Phong cách cầm quân đánh trận của hắn giờ đúng là hoàn toàn khác trước, số phát minh quái lạ ngay cả số thợ lão luyện lành nghề nhất lúc bấy giờ cũng không nghĩ ra của hắn không giống như chủ ý mà một vương tử quý tộc có thể nghĩ ra, Yểm Dư nổi lòng nghi ngờ là lẽ đương nhiên. Sau này gặp mặt Chúc Dung, hoặc sau khi phục quốc quay về Ngô, số người hiểu rõ quá khứ của hắn chắc chắn nhiều hơn, số điểm khác biệt xuất hiện trên người hắn vào lúc này phải tìm lí do giải thích nghe sao cho hợp lí mới được, nếu không thì rắc rối đây.

Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ đột nhiên nhớ đến chuyện hồi nãy Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man tưởng lầm hắn trúng tà bị ma ám, bèn nảy ra một ý, vừa suy tính câu chuyện bịa đặt trong đầu, vừa nói giọng đều đều kéo dài thời gi­an: “Chuyện này nói ra thì…, thật ra đó là bí mật lớn nhất của ta, ta chưa từng nói cho người khác nghe, nhưng hai người một người là hoàng thúc, một người là tướng lĩnh vào sinh ra tử với ta, ta sẽ nói cho hai người nghe vậy.”

Yểm Dư và Kinh Lâm nghe Khánh Kỵ nói vẻ nghiêm trọng, đều hồi hợp nín thở nghe hắn kể tiếp câu chuyện.

Khánh Kỵ ra vẻ bí hiểm: “Không giấu gì hai người, ta ở trên sông bị Yêu Ly đâm cho một nhát xuyên thấu phủ tạng, với thương tích nặng thế thật ra khó mà sống sót. Lúc đó, ta thấy mình như đang trôi bồng bềnh trên bầu trời, ta còn nhìn thấy Kinh Lâm và Lương Hổ Tử ôm xác ta than khóc, định phóng hỏa đốt thuyền. Sau đó, trước mặt ta xuất hiện một tia sáng chói lòa, tia sáng xẹt ngang, toàn thân ta bị hút vào trong đó, thấy một thế giới hoàn toàn khác với thế giới hiện nay trong thiên hạ…”

Những gì tiếp theo, đối với Yểm Dư và Kinh Lâm mà nói, đều là chưa từng nghe qua, còn với người hiện đại như chúng ta thì đều đó cũng dễ hiểu. Khánh Kỵ đem chuyện thần thoại cổ tích và sự vật trong xã hội hiện đại kết hợp lại với nhau, thêu dệt cho họ nghe về một thế giới thiên đường. Thời đại Xuân Thu, truyện thần thoại Trung Quốc chưa có hệ thống hoàn thiện, người ta chỉ biết trên có thượng đế cai quản chúng sinh, còn chi tiết thế nào không một ai đủ sức tưởng tượng ra.

Khánh Kỵ nói đến nào là Nam Thiên môn, Kim Lăng điện, Tứ đại thiên vương, Bát đại kim cang, ba mươi ba tầng trời, sứ giả đi phong hỏa luân, rồi thiên lí nhãn, thuận phong nhĩ, thậm chí còn bịa ra các mỹ nhân mắt xanh môi đỏ mặc váy ngắn lái xe hơi, kết hợp cả cổ kim Đông Tây. Yểm Dư và Kinh Lâm nghe đến nỗi há hốc mồm không ngậm lại được.

Tóm lại, ý của câu chuyện này là: Khánh Kỵ vốn đã bỏ mạng, nhưng lên được thiên đình, được thần tiên thương hại, nên cho phép hắn tiếp tục sống để báo thù phục quốc, còn về những phát minh kì lạ của hắn, thật ra chỉ là lúc ở trên thiên đường hắn nhìn thấy mà thôi.

Câu chuyện thần tiên của Khánh Kỵ đem nói ra vào thời hiện đại còn hù dọa được đám dân đen quê mùa, nói gì đến thời đại Xuân Thu hơn hai ngàn năm trước, hắn kể xong câu chuyện bịa đặt, quay qua nhìn Yểm Dư và Kinh Lâm, thấy trong ánh mắt của hai người toát ra vẻ kính nể sợ sệt, cứ như trước mặt là một pho tượng thần.

Hội Kê, kinh đô Việt quốc, quần thần đang tranh luận nhau kịch liệt trên đại điện.

Đại phu Duệ Dong của Việt quốc khẳng khái mở lời phân tích: “Đại vương, hiện giờ Ngô vương Hạp Lư đang sa lầy ở Sở quốc, chính là cơ hội tốt cho chúng ta lợi dụng, năm trước Việt quốc ta lại bại trận lần nữa cho Ngô quốc, buộc phải nhục nhã xưng thần với Ngô, hai năm nay triều cống cho Ngô chịu nhiều sỉ nhục của người Ngô rồi, lúc này đây là lúc trả món nợ này.”

Đại phu Nhược Thành cũng đồng ý: “Duệ Dong đại phu nói có lí lắm, giờ ta nhận được tin Phù Khái bên Ngô vì người Đông Di làm loạn, đã quay về Hàn Ấp, binh lực ở Ngự Nhi thành không có bao nhiêu, nếu lúc này đại vương xua quân phạt Ngô, chiếm thành trì của chúng, thế như chẻ tre.”

Cao Như đại phu nói: “Đại vương, thực lực của Việt quốc ta không bằng Ngô quốc, thừa lúc Ngô đang trống rỗng xua quân thảo phạt chính là lúc này, hơn nữa chúng ta có thể lấy danh nghĩa giúp đỡ Sở quốc, nước Sở bao la rộng lớn, người Ngô tuy chiếm cứ Dĩnh Đô nhưng không đủ sức xâm lấn cả nước Sở đâu, bây giờ Tần, Vệ, Tống, Trần, Lỗ các nước đều xuất binh cứu Sở, Sở vương chắc sẽ quay về Dĩnh Đô, lúc đó chúng ta và Sở trở thành liên minh, người Ngô có hận cũng e dè chúng ta mấy phần.”

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 197: Đánh úp sau lưng (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Việt vương Duẫn Thường ngồi trên đại điện, nghe xong phân tích của quần thần ra vẻ gật gù. Hạo Tiến đại phu lại căn ngăn: “Đại vương, theo ý tiểu thần, Việt quốc ta không nên tiến đánh Ngô quốc vào lúc này. Chư hầu khắp thiên hạ chỉ có Việt quốc ta là gần Ngô nhất, binh lực lại kém xa Ngô, lần này thừa cơ xuất binh tập kích, người Ngô chắc ôm hận trong lòng. Đợi khi thiên hạ ổn định, Việt quốc ta sẽ bị Ngô tính sổ, người Sở quen thói bỏ mặc người khác, Yểm Dư, Chúc Dung chính là tấm gương còn đó, Việt quốc ta nên thừa lúc thiên hạ đại loạn, nghỉ dưỡng quân sĩ, gia tăng sản xuất tăng cường sức mạnh quốc gia, không thể đi theo vết xe đổ của Yểm Dư, Chúc Dung được ạ.”

Duẫn Thường chau mày đăm chiêu, quay đầu nhìn sang kế bên, một thanh niên đang đứng bên cạnh hắn, người này thân hình cao ốm, nước da ngăm đen, cổ dài như cổ rắn, hai mắt sắc lẹm như chim ưng, mũi cao, mặc một chiếc áo bào trắng toát, đang chăm chú lắng nghe ý kiến của các đại thần.

Việt vương Duẫn Thường mỉm cười hỏi: “Hoàng nhi, hiện nay Ngô quốc trong ngoài đều khó khăn, Việt quốc ta có nên thừa cơ hội xuất binh thảo phạt, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, quả nhân muốn nghe thử ý kiến của con.”

Chàng thanh niên đó nhe răng, để lộ một hàm răng hô trắng hếu, lúc ngậm miệng như chiếc mỏ chim nhọn hoắc, người này chính là con trai duy nhất của Việt vương Duẫn Thường, đương kim thái tử Việt quốc Câu Tiễn.

Câu Tiễn nghe phụ vương hỏi vậy vội bước lên một bước, bẩm: “Phụ vương, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, người chủ công cũng có lí, người muốn thủ cũng không sai. Nhi thần nghe xong ý kiến các vị đại thần, phân tích đắn đo lợi hại trong đó, cảm thấy hiện nay thiên hạ đại loạn, Việt quốc ta khoanh tay không làm gì chưa chắc đã là chuyện tốt. Phía nam Việt quốc là rừng rậm hoang vu, là nơi tụ tập của các bộ lạc man di, phía Tây là lãnh thổ của Sở, Sở muốn mở rộng bờ cõi buộc phải tiến đánh Ngô phía Bắc, mở ra con đường thông ra trung nguyên. Ngô quốc bây giờ gây thù chuốc oán khắp nơi, cùng với các nước xung quanh là Sở, Lỗ, Đông Di nhóm lên ngọn lửa chiến tranh, đây chính là cơ hội cho Việt quốc ta tận dụng, nhân lúc hắn đang suy yếu lấy mạng hắn luôn, lúc này mà đóng cửa lại cố thủ, đợi khi Ngô quốc nghỉ ngơi dưỡng sức xong lại chà đạp lên đầu lên cổ người Việt ta à?”

Việt vương Duẫn Thường cười ha hả, vỗ đùi một cái, quét mắt về phía quần thần: “Những lời của hoàng nhi hợp với ý của quả nhân…”

Câu Tiễn lại nhe răng: “Phụ vương hãy khoan!”

“Hoàng nhi còn có gì muốn nói?” Việt vương Duẫn Thường thật ra đã có ý xuất binh, lại cố ý quay qua hỏi con trai, chỉ là hy vọng con trai hiểu được tâm ý của mình, nhờ vào miệng của Câu Tiễn nói ra quyết định xuất binh, từ đó tạo lập uy tín của thái tử trước mặt quần thần, đó cũng là tâm ý của người làm cha. Câu Tiễn quả nhiên tán thành xuất binh, trong lòng Duẫn Thường mừng rơn, vừa định hạ lệnh triệu tập binh mã thảo phạt Ngô quốc, vừa nghe con trai định nói tiếp, bèn cười tủm tỉm quay đầu lại hỏi.

“Dạ, phụ vương, nhi thần cho rằng phạt Ngô là chuyện chắc chắn phải làm, nhưng trước mắt thời cơ chưa đến.”

“Trước mắt thời cơ chưa đến? Hoàng nhi cứ từ từ nói ra ý kiến của mình cho quả nhân và các vị đại thần nghe coi sao.”

“Dạ, phụ vương. Việt quốc ta phạt Ngô, có ba điều kiện thuận lợi: một là Ngô vương Hạp Lư đang dẫn quân bên ngoài, dằng co với quân Sở và binh mã của Khánh Kỵ; hai là Phù Khái rời khỏi Ngự Nhi thành, trấn thủ Hàn Ấp đề phòng người Đông Di xâm lấn, tạo điều kiện cho Việt quốc ta Bắc tiến; ba là Ngô Sở kết oán, chư hầu khắp thiên hạ ngả về hai phe, nếu Việt quốc ta khai chiến với Ngô sẽ trở thành liên minh của Sở, kết gi­ao được với một Sở quốc hùng mạnh.

Nhi thần nói lúc này chưa phải là thời cơ ra tay, nguyên nhân cũng có ba: một là tình hình khắp thiên hạ chưa rõ, nếu liên quân Tề Tấn nam tiến, quân Tần lùi về Quan Nội, tình hình thiên hạ xoay chuyển, Việt quốc ta giơ cao ngọn cờ giúp Sở không phải là hành động khôn ngoan; hai là lúc này khởi binh, Hạp Lư nghe tin trong nước xảy ra chiến loạn, lập tức rút quân về Ngô, đại quân của hắn vẫn chưa đại chiến nhiều trận với quân Sở, nguyên khí chưa bị tổn thương nặng, nếu hắn rút về nước là ta mất cơ hội; ba là Ngô quốc Khánh Kỵ, quyết chí giết chết Hạp Lư đoạt ngôi vị Ngô vương, cho dù hắn vây khốn Hạp Lư ở Sở, thậm chí giết chết Hạp Lư, Phù Sai ở Ngô cũng sẽ lập tức đăng cơ, Khánh Kỵ muốn đoạt vương vị, buộc phải đánh về Ngô mới được. Với thực lực của Việt quốc ta hiện giờ, vẫn chưa đủ sức chiếm cả nước Ngô, lúc này đánh Ngô chẳng qua chỉ là thừa cơ cướp bóc chút của cải. Thế tại sao chúng ta không chịu khó nhẫn nhịn chờ đợi thêm, đợi một thời cơ thích hợp hơn nào?”

Nhược Thành đại phu nghi hoặc hỏi: “Thời cơ thích hợp hơn? Ý của điện hạ là…?”

Câu Tiễn cười lạnh lùng, ánh mắt sắc lẻm: “Khánh Kỵ sẽ không chịu ở lại Sở quốc ra sức giúp Sở vương đánh về Dĩnh Đô đâu, hắn cuối cùng cũng phải đánh về Ngô quốc, đến lúc đó hắn bỏ hết tất cả vốn liếng ra đánh một trận, không còn đường lui nữa. Còn Hạp Lư, chắc sẽ dồn toàn lực ra quyết tử chiến với Khánh Kỵ một phen. Hai bên bước vào cục diện một mất một còn, đến lúc đó chúng ta mới khởi binh đánh Ngô, bọn họ là kẻ thù bất cộng đái thiên, Hạp Lư có chịu rời bỏ vương vị gi­ao nộp thủ cấp? Hay là Khánh Kỵ chấp nhận từ bỏ vương vị và thù cha? Hai thứ đều không, họ sẽ không vì giữ vẹn toàn cho Ngô quốc mà hy sinh bản thân, khi đó chúng ta hạ có thể đạt được mục đích cướp bóc của cải của Ngô quốc, trung có thể ép một trong bọn họ xưng thần với Việt quốc ta để đổi lấy trợ giúp, thượng, chính là…ta thừa lúc họ lưỡng bại câu thương, binh lực hao tổn gần hết, chiếm trọn cả Ngô quốc.”

Quần thần chăm chú lắng nghe, khắp đại điện im phăng phắc. Câu Tiễn mỉm cười đắc ý, lại nói: “Mà ba điều kiện thuận lợi cho chúng ta phạt Ngô, đến lúc đó không những không biến mất, ngược lại còn được chúng ta vận dụng linh hoạt, chủ động nắm bắt hơn.”

Duẫn Thường nghe xong, nhắm mắt trầm tư giây lát, đột nhiên bật cười to tiếng.

Đại phu Kế Nghiên bước lên hai bước, vái lạy Duẫn Thường, vẻ thần phục lên tiếng: “Đại vương, điện hạ thông minh, nhìn xa trông rộng, chúng thần thán phục. Đại vương ta có con trai tài giỏi, Việt quốc ta có thái tử thế này, là phúc của ngàn vạn dân chúng Việt quốc, chúc mừng bệ hạ.”

Các đại phu Cao Như, Hạo Tiến đều bước cả ra, cung kính: “Kế này của điện hạ, tiến thoái đều ổn thỏa, chúng thần tán đồng.”

Duẫn Thường hí hửng nhìn vào con trai, đập bàn cái rầm, phán: “Tốt, cứ theo kế hoạch của con ta. Đợi khi thời cơ đến, quả nhân sẽ phong chức đại tướng quân cho thái tử, con hãy đi mang gi­ang sơn Ngô quốc về cho quả nhân.”

Câu Tiễn chắp tay hành lễ, dõng dạc: “Nhi thần tuân lệnh!”

Chính vào lúc này, một vị tướng quân bước vào đại điện, vì hắn đang mặc áo giáp, nên hành quân lễ: “Chư Kê Dĩnh tham kiến đại vương.”

Duẫn Thường kinh ngạc: “Chư Kê Dĩnh, lúc này chẳng phải ngươi nên ở Ô Thú sao? Sao lại quay về Hội Kê làm gì?”

Chư Kê Dĩnh nói: “Thần phụng mệnh Tử Minh tướng quân quay về Hội Kê, bẩm báo quân tình quan trọng với đại vương.”

Duẫn Thường lập tức nhổm lên, hai tay chống vào mặt bàn, vẻ mặt khẩn trương: “Nói mau, đã xảy ra chuyện gì?”

Chư Kê Dĩnh chắp tay trả lời: “Đại vương, quân ta đóng tại Vọng Hải Quan phát hiện có mấy trăm chiến thuyền lớn nhỏ, cứ tưởng là quân Ngô đến đánh lén, Tử Minh tướng quân nhận được tin báo, một mặt tăng cường phòng bị, một mặt phái ra vài đội quân do thám theo dõi động tĩnh của chúng, thấy chúng đã chỉnh đốn đội ngũ xong xuôi, lại lén đi về phía Ngô quốc, sáng nghỉ tối đi, hành tung bí hiểm, hình như có ý đồ gì với Ngô, lực lượng này chưa rõ là bạn hay thù, Tử Minh tướng quân không dám manh động nên sai tiểu tướng về đây báo cáo với đại vương.”

“Hử? Mấy trăm chiến thuyền vận chuyển binh lính trên biển…, chúng có khoảng bao nhiêu người?”

“Chắc cũng phải sáu bảy ngàn người trở lên, dưới một vạn.”

Duẫn Thường dõi mắt vào quần thần, các đại thần đều kinh ngạc, quay qua bàn luận với nhau. Hai nước Ngô Việt, xưa nay lấy Ô Ấp làm ranh giới, sau khi Việt quốc bại trận phải xưng thần với Ngô, để tránh ở quá gần quân biên phòng của Ngô xảy ra xung đột, các điểm đóng quân của Việt đều lui cả về sau, tạo thành vùng đất không người ở rộng mười mấy dặm ở giữa hai nước, vùng đất này có nhánh sông thông ra biển lớn, nên gọi là Vọng Hải Quan.

Lúc bấy giờ thuyền bè đi lại hoàn toàn dựa vào sức người chèo, vận chuyển số quân lớn này theo đường thủy, hao tốn tiền của khá nhiều, trước giờ chưa ai làm vậy, nhưng bọn chúng lên bờ phía Vọng Hải Quan, có nghĩa là đó không phải quân Ngô đi tập kích Việt quốc, vì nếu đánh Việt cứ tiến quân theo đường bộ là được rồi, đâu cần phí bao nhiêu sức người sức của đi đường vòng ngoài biển vào cho tốn công tốn sức. Hơn nữa sau khi lên bờ chúng lại lén vào lãnh thổ Ngô quốc, chúng là ai mới được chứ?

Duẫn Thường và Câu Tiễn nhìn nhau, đều không hẹn trước mà nghĩ tới một người.

Câu Tiễn lộ vẻ phấn khích, buộc miệng kêu lên: “Phụ vương, thời cơ của chúng ta đã đến!”

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Vọng Hải Loan, chính là gần khu vực Hàng Châu thời hậu thế, nhưng khi đó vùng Hàng Châu vẫn còn ngập trong biển nước, địa hình địa lí khác xa so với hiện nay. Tôn Vũ sau khi cho đại quân lên bờ, lệnh cho một bộ phận binh lính quen thuộc thủy tính cưỡi thuyền nhẹ dọc theo bờ biển tiến lên Bắc, còn quân chủ lực đi đường bộ, chia làm hai ngả đánh tan hai đồn biên phòng của quân Ngô đóng tại biên giới.

Đang đại chiến ở nước Sở, quan hệ giữa nước Ngô với Lỗ quốc và các bộ lạc Đông Di ở phương Bắc ngày một căng thẳng, tuy nhiên Việt quốc trong mắt người Ngô có thực lực kém xa, không phải là mối đe dọa chí mạng, đóng quân ngay đây chỉ là phòng hờ Việt quốc thừa lúc chủ nhà đi vắng, như con chó điên xộc vào chuồng ngoặm một miếng thịt rồi bỏ đi, tận đáy lòng người Ngô đã tồn tại ý nghĩ khinh thường người Việt, nên mới tạo cơ hội thuận lợi cho Tôn Vũ dễ dàng dẹp yên đồn biên phòng của Ngô.

Khi đội thuyền của Tôn Vũ áp sát doanh trại thủy quân của Ngô quốc, đang vào lúc tờ mờ sáng, tinh thần cảnh giác của con người vào lúc kém nhất. Mấy chục chiếc thuyền cánh én nhỏ lặng lẽ tiến về phía Ngô doanh, hai chiếc thuyền đi trước dùng nỏ Sở bắn rụng số binh lính gác đêm trên chòi canh giữa sông, mở đập ngăn ra, đội thuyền nhanh chóng ùa vào.

Loại thuyền cánh én nhỏ này dài không quá mười thước, chỉ đủ chở mười người, nhưng lại xoay chuyển linh hoạt, dùng trong tấn công phòng thủ đều thần tốc. Trên thuyền chỉ có hai tay chèo, tám người còn lại có bốn người cầm nỏ, dưới chân đặt sẵn rìu bự, bốn người kia ngồi xen kẽ với nỏ binh, giơ khiên yểm trợ cho đồng đội, họ được trang bị trường mâu, chuẩn bị khi hai thuyền giáp chiến sẽ đưa qua móc lấy thuyền địch, nhảy vào trợ chiến. Ngoài ra, trên thuyền còn để nhiều vật dụng dễ bắt lửa đã được tẩm dầu và rất nhiều chai lọ sành sứ.

“Trên sông có người, trên sông có người, tập kích…Á!” Một tên lính Ngô đang đứng bên mạn thuyền tè xuống sông thấy trong sương đêm đột nhiên xuất hiện mấy chiếc thuyền địch, sợ đến nỗi lập tức hét toáng lên.

Hắn mới kêu được ba tiếng, ba mũi tên đã cắm phập vào người hắn, tên lính gục đầu chết tươi, rơi tỏm xuống mặt nước, một chiếc thuyền cánh én nhanh chóng áp sát, ném mồi lửa lên chiến thuyền quân Ngô, có mấy tên lính Ngô nghe tiếng hét báo động còn chưa kịp mặc áo hấp tấp ùa ra ngoài, lập tức bị nỏ Sở tiêu diệt, số binh lính còn lại cúi rạp người trong khoang thuyền không dám động đậy lên tiếng.

Chiến thuyền thời đó đều làm bằng gỗ, một khi bắt lửa, lại ném lên đó mấy cái lọ sành, trong lọ đều chứa đầy dầu, lọ sành vỡ tan khi đập vào thân tàu, lửa cháy lan theo vệt dầu loang, cả con thuyền lập tức cháy bừng bừng như một ngọn núi lửa. Chiếc thuyền cánh én vòng nhanh qua chiếc thuyền đang cháy, tiếp cận tiêu diệt chiến thuyền tiếp theo.

“Phóng tiễn, phóng tiễn!” Một số binh sĩ quân Ngô giờ đã phát giác bị tấn công lóp ngóp bò dậy cầm cung tên chạy ra, bắn lung tung vào làn sương mờ ảo trước mặt, thuyền cánh én giơ khiên chắn tên bắn tới, đồng thời dùng nỏ Sở bắn trả, số binh sĩ phụ trách che khiên một tay cầm khiên, tì vào vai mượn sức, tay còn lại cầm lấy mồi lửa đợi khi thuyền cánh én tiến vào phạm vi tầm ném thì ném sang chiến thuyền phe địch, sau đó còn bồi thêm vài lọ dầu qua kia.

Khi số thuyền cánh én luồn lách như cá trê vào đội chiến thuyền đang dừng đậu ven sông của quân Ngô, sau lưng họ các thuyền lớn đang cháy to bừng bừng. “Người Việt đánh lén, thuyền lớn không di chuyển được, mau lên thuyền nhỏ cản quân địch lại!”

Cuối cùng cũng có mấy viên tướng lĩnh chạy ra, hốt hoảng hạ mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu, lập tức có mấy chiếc thuyền con chở theo lính Ngô còn chưa kịp trang bị đầy đủ áo giáp vũ khí tiến lên chặn đầu số thuyền cánh én, binh sĩ trên thuyền cánh én bắn nỏ, không cần đứng lên giương cung lắp tên, chỉ cần đặt tên vào, núp sau tấm khiên bắn ra, đợi khi hai thuyền áp sát, binh sĩ hai bên phóng móc câu vào thuyền đối phương, binh sĩ trên thuyền cánh én cũng lập tức buông nỏ xuống, nhặt rìu bự lên phối hợp với lính cầm trường mâu nhảy vào chém giết.

Số binh lính này đều trước sau trải qua huấn luyện nghiêm ngặt bởi Khánh Kỵ và Tôn Vũ, giỏi về sử dụng binh khí ngắn khi giáp chiến cự ly gần, mà quân Ngô hấp tấp lên thuyền ra trận, chưa kịp mang theo binh khí dài, với lại chúng không phải là đội quân kiếm thủ vang danh thiên hạ của Ngô quốc, chiến đấu trên thuyền con chật hẹp, quân địch sử dụng rìu to có sức, bên cạnh còn có trường mâu phối hợp, còn quân Ngô dùng kiếm ngắn bị thua thiệt, chúng không dám dùng kiếm tiếp chiêu với rìu bự của đối phương, vì chiến đấu trong khu vực chật hẹp lại không tận dụng được ưu điểm linh hoạt của kiếm ngắn, dưới thế chém mạnh của rìu bự hết tên này đến tên khác rơi tỏm xuống nước, máu loang đỏ cả mặt sông.

May là đám thuyền cánh én này không muốn đánh lâu, một khi đốt cháy một chiến thuyền, lập tức quay sang một chiến thuyền khác, số thuyền này vốn đang dừng đậu san sát nhau trên bến, thuyền cánh én lợi dụng khe hẹp len lỏi đi lại, còn thuyền to của Ngô lại không nhúc nhích được. Lúc này trời tờ mờ sáng, thủy triều dâng cao, gió thổi mạnh vào bờ, số thuyền chiến cháy rực như ngọn đuốc bị gió thổi cuốn vào bên trong, bắt lửa cả vào các thuyền khác, hàng chiến thuyền sau cùng chưa bị cháy, nhưng khói bay mù mịt làm cho quân Ngô tối tăm mặt mũi, không còn quan sát gì được nữa.

Số thuyền cánh én thấy đã hoàn thành xong nhiệm vụ tập kích, lập tức chia ra hai cánh đột phá vòng vây, số binh lính quen thuộc thủy tính châm lửa lên cả thuyền cánh én, đâm sầm vào chiến thuyền quân Ngô, sau đó nhảy xuống nước bỏ trốn.

Doanh trại quân Ngô đóng trên bờ là trận địa phía trước Ngự Nhi thành, trong doanh trại có hai ngàn binh sĩ, quân chủ lực của Tôn Vũ tiến đánh chỗ này không cần đánh lén, mà là phái một cánh quân tiên phong bày binh bố trận, lấy kiếm gõ vào khiên, khiêu chiến với quân Ngô trong doanh trại.

Sương đêm mịt mờ, mờ mờ ảo ảo không nhìn rõ đối phương có bao nhiêu binh mã, người Ngô nghe thấy bên ngoài huyên náo, trong đó còn xen lẫn tiếng địa phương của Việt quốc, cứ tưởng là quân Việt đến tập kích, Việt quốc có binh lực ít ỏi, gi­ao chiến với Ngô quốc chuốc lấy thất bại như cơm bữa, tướng sĩ quân Ngô vốn đã kiêu căng không xem quân Việt ra gì, đại tướng Tây Môn Thắng nghe báo có người Việt khiêu chiến, lập tức tập hợp binh mã ra trận, quay lưng về phía doanh trại bày trận tiếp chiến.

Theo thông lệ, đối phương đã ngang nhiên khiêu chiến, hai bên sẽ bày binh bố trận, sau đó binh sĩ hai bên mới xông vào nhau chém giết, chưa đến lúc phân thắng bại thì đội quân do chủ tướng thống lĩnh ít khi phát động tấn công. Nhưng không ngờ binh mã của Tây Môn Thắng vừa bước ra khỏi doanh trại, đội hình còn chưa bày xong, “Quân Việt” bên kia lập tức ùa sang tấn công, mưa tên vù vù bắn về phía quân Ngô.

Muốn cất giữ cung tên trong miền sông nước phương Nam không hề dễ, nên cung tên không phải là vũ khí chủ lực trong các cuộc gi­ao tranh Ngô Việt, Tây Môn Thắng nằm mơ cũng không ngờ kẻ địch lại trang bị nỏ mạnh, binh chủng hoàn toàn khác với quân Việt trước đây, binh mã của hắn vang lên tiếng rú thảm thiết trong đêm.

“Bắn tiếp!” Tôn Vũ đứng ở trận tiền, dõng tai lắng nghe tiếng kêu gào đau đớn phía bên kia chiến tuyến, lạnh lùng ra lệnh. Đội cung nỏ thứ hai đã chuẩn bị sẵn lập tức bắn tiếp một chập tên, “Vù, vù!” tiếng tên bay xé gió lao đi, ào ạt trút xuống đầu quân Ngô tội nghiệp. Tiếng lích kích kéo căng dây cung lại vang lên, đội cung nỏ đầu tiên bắn tên đi nay lại lắp tên xong giơ nỏ lên.

Tên là một loại binh khí hao phí nặng, muốn cất giữ cung nỏ, cán tên, lông vũ, mũi nhọn đều hao phí không hề ít, vả lại phần lớn là chỉ bắn tên vào đợt đầu trước khi tấn công, tên bắn ra khó có cơ hội thu hồi lại, hai nước Ngô Việt không giàu bằng Sở quốc rộng lớn và các nước chư hầu trung nguyên, nên cung tên có rất ít, về vấn đề tiền của là một lí do lớn ảnh hưởng.

Hai lượt tên bắn ra, đó là một món hao phí lớn, Chúc Dung công tử đứng xem bên cạnh có hơi tiếc đứt ruột, Tôn Vũ không hề biến sắc, lạnh lùng ra lệnh: “Tiếp tục bắn! Nổi trống lên, tấn công hai cánh!” Cùng với giọng nói của Tôn Vũ, trận mưa tên thứ ba được bắn ra, hai cánh quân trái phải được sương mù che chắn nghe hồi trống xông trận, dũng mãnh lao lên như hổ dữ xuống núi…

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Doanh trại quân Ngô khắp nơi hoang tàn, Tôn Vũ đứng trên một gò đất bị cháy đen còn bốc khói dõi mắt về phương xa, lúc này sương mù đã tan, số quân Ngô bị bắt làm tù binh đang bị áp giải cúi đầu lủi thủi đi ngang sau lưng Tôn Vũ.

“Tôn tướng quân quả nhiên tài giỏi, dẫn dụ Phù Khái đi Hàn Ấp, xách động người Đông Di chế ngự binh lực của hắn, sau đó vận chuyển cả vạn đại quân theo đường biển vòng về sau lưng địch lên bờ, chủ ý này bổn công tử ngay cả nghĩ còn không dám nghĩ đến, chúng ta chỉnh đốn binh mã, còn phải chiếm lấy Ngự Nhi thành, sau đó mới đánh thẳng vào Cô Tô được, trận chiến sắp tới không dễ đánh đâu, nhưng có Tôn tướng quân ở đây, bổn công tử tràn trề lòng tin.”

Chúc Dung tuy là thân phận công tử, nhưng đội quân này là do Tôn Vũ thống lĩnh, trong đội quân này uy danh của hắn kém xa Tôn Vũ và Anh Đào, chính vì vậy với tính khí cao ngạo nóng nảy của hắn, ngược lại phải cung kính nể trọng Tôn Vũ.

Tôn Vũ mỉm cười nói: “Công tử quá khen rồi, Anh Đào đang tập kích thủy trại quân Ngô, đợi huynh ấy về, chúng ta lập tức rời khỏi đây, Ngự Nhi thành không thể đánh, đó là cứ điểm quan trọng Phù Khái đề phòng người Việt, tuy thành trì không to lớn hiểm trở, nhưng Phù Khái dụng tâm xây dựng, bố phòng nghiêm ngặt, chúng ta dễ dàng đánh thắng ở đây chứ không dễ chiếm giữ Ngự Nhi thành đâu, chúng ta cũng không thể tốn quá nhiều thời gi­an ở đây, đánh trận ở đây vẫn phải dùng cách khi chúng ta xuất binh tại Phi Hồ cốc, chia nhỏ binh lực, hẹn trước thời gi­an, địa điểm, phái tướng lĩnh trung thành đáng tin cậy, thông thạo địa hình Ngô quốc dẫn đường, chia ra đến địa điểm tập kết.”

Chúc Dung nghe xong giật mình kinh ngạc: “Chia nhỏ binh lực, muốn vòng qua Ngự Nhi thành theo đường rừng không phải là không làm được, nhưng làm như vậy chẳng phải là cho phép quân thủ thành ở Ngự Nhi chặn mất đường lui của ta?”

Tôn Vũ nói vẻ nghiêm nghị: “Công tử, từ khi chúng ta đặt bước lên lãnh thổ Ngô quốc, chúng ta đã không còn đường lui rồi. Chúng ta không thể cứ mải miết công thành đoạt trại, đánh về phía Cô Tô thành, bằng không khi chúng ta tới được Cô Tô, binh mã đã bị hao tổn gần hết, đến lúc đó đâu còn sức mà công thành? Thừa lúc Phù Khái bị thu hút về phía Hàn Ấp, chúng ta phải nhanh chóng tiến vào Cô Tô, còn về việc quân Ngô ở Ngự Nhi thành chặn đánh sau lưng ta thì…, cho dù không có cánh quân này, một khi chúng ta xuất hiện tại Cô Tô, các lộ binh mã thủ thành khắp nơi đều sẽ ùa vào chúng ta thôi.”

Chúc Dung hứ một tiếng, nhíu mày nói: “Được, bổn công tử cũng phải đích thân dẫn một đội quân, quân trấn thủ Vũ Nguyên là bộ hạ cũ của ta, Cơ Quang tuy thay hết tướng lĩnh của ta, nhưng không thể nào đuổi hết quân của ta về nhà, hắn dẫn quân gi­ao chiến với ta ở Sở, thế nào cũng không dám dùng đội quân ta từng làm chủ soái này, mà điều họ đi trấn giữ duyên hải phía Đông Nam. Ta dẫn quân theo, nói không chừng có thể lôi kéo đội quân này, lúc đó binh lực của chúng ta sẽ mạnh lên đôi chút.”

Tôn Vũ trầm ngâm: “Thế thì được, chỉ là công tử nên cẩn thận giữ gìn an toàn cho bản thân, chúng ta bàn bạc quyết định xong thời gi­an, địa điểm tập hợp, công tử mới xuất phát cũng chưa muộn. Từ khi tiếp tay quản lí Phi Hồ cốc, Tôn Vũ đã phái người không ngừng đến Cô Tô thành dò thăm tin tức…”

Nói đến đây, Tôn Vũ thở dài ngao ngán: “Cô Tô thành do Ngũ Tử Tư xây dựng, ở phương Bắc có lẽ còn chưa được xem là tòa thành hiểm trở không thể leo lên, nhưng ở Ngô quốc đã là đại thành trước đây chưa từng có. Lúc Ngũ Viên xây thành cũng đã nghĩ đến trường hợp kinh đô bị vây đánh, trong thiết kế vận dụng khéo léo ưu thế địa hình, tòa thành này dễ thủ khó công, hơn nữa đương kim thái tử Phù Sai cũng không phải thứ bất tài vô tướng, sắp xếp việc bố phòng đâu ra đó, muốn dựa vào hơn vạn quân tập kích vào thành, khó đấy! Còn nếu bao vây tấn công mạnh mẽ, chỉ dựa vào số lính thủ thành, chúng chiếm ưu thế địa hình, chúng ta cũng chưa chắc giành phần thắng, ngoài ra còn phải đề phòng quân địch quay về cứu viện, vì thế ta mới ra sức giữ gìn binh lực, đi vòng theo đường biển đến sau lưng địch, đâm nhát mạnh vào tim chúng, khiến chúng trong ngoài không thể tiếp ứng lẫn nhau. Cái chúng ta làm được chỉ có bấy nhiêu, nếu vọng tưởng chiếm trọn Cô Tô, dựa vào chút binh lực của chúng ta, đợi khi Khánh Kỵ công tử về Ngô quốc, lúc đó chỉ kịp dọn xác giùm ta mà thôi.”

Chúc Dung ngớ người, vội hỏi: “Mục đích của chúng ta không phải là chiếm giữ Cô Tô thành, thủ thành đợi viện binh sao? Thế chúng ta xua quân vào sâu, chẳng lẽ không nguy hiểm?”

Tôn Vũ lắc đầu: “Chưa chắc, nếu chúng ta đặt mục tiêu tấn công thành Cô Tô, vậy phải hứng chịu sức tấn công của quân Ngô cả trong và ngoài thành, với binh lực của chúng ta chẳng khác nào tự sát. Việc dùng binh, gấp mười bao vây, gấp năm tấn công, binh lực chúng ta thua xa đối phương, chỉ còn cách cơ động tác chiến, dắt mũi quân địch chạy theo chúng ta. Binh lực trong Ngô quốc hiện giờ không đủ tạo thế bao vây ta, nên quân ta ở đây vẫn còn nhiều đất dụng võ. Thứ chúng ta phải làm là tạo cơ hội, trái chín ắt sẽ rụng, đợi Khánh Kỵ công tử về nước, chỉ cần chúng ta tạo ra thanh thế và cơ hội đủ cho công tử lợi dụng, vậy trái đào chín mọng trên cây này, tự nhiên sẽ được công tử hái xuống.”

Nói đến đây, ánh mắt Tôn Vũ sáng lên, gằn giọng: “Đương nhiên, đánh trận quyết liệt cuối cùng cũng phải đánh, nếu không sao tạo dựng thanh thế?”

Chúc Dung nghe vậy cho rằng Tôn Vũ muốn nhường công lao chiếm giữ Cô Tô thành cho Khánh Kỵ, tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Kỵ bước lên vương vị sau này, trong lòng cảm thấy không vui, hỏi: “Khánh Kỵ đang thu hút quân chủ lực của Cơ Quang ở Sở, bảo chúng ta đoạt lấy Cô Tô thành, đó không phải là kế hoạch đã vạch sẵn ư? Giờ sao Tôn tướng quân lại nói thế?”

Tôn Vũ trả lời: “Tôn Vũ cho rằng, thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt gi­ao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành. Với binh lực kém xa đối phương, xét vị trí địch là chủ ta là khách, với tài trí của Phà Sai, Phù Khái và tình hình Ngô quốc hiện tại phán đoán, tấn công đoạt thành không phải là hành động khôn ngoan vào lúc này. Kế hoạch định sẵn chỉ là dựa theo tình hình nắm bắt được lúc đó đưa ra quyết định, nay chúng ta đang có tình báo thiết thực hơn, thì nên xuôi theo thời thế thay đổi kế hoạch trước đây, tướng tại ngoại, quân lệnh có thể không nghe theo.”

(Giải thích: “Thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt gi­ao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành.” Câu này được trích trong Tôn Tử binh pháp, nghĩa là việc dụng binh hay nhất là sử dụng mưu mẹo, tiếp đến là ngoại gi­ao, sau đó mới dùng đến binh sĩ chiến đấu, tấn công thành trì xếp cuối cùng.)

Chúc Dung tự biết mình tuy là thân phận công tử, nhưng Tôn Vũ là người của Khánh Kỵ, công tử như hắn trên thực tế không thể chỉ huy được binh mã của Khánh Kỵ, bèn nhẫn nhịn nói: “Chủ ý này của tướng quân đã báo với Khánh Kỵ chưa? Bây giờ đột nhiên thay đổi kế hoạch, tướng quân muốn phối hợp với Khánh Kỵ thế nào?”

Tôn Vũ nói: “Lát nữa đợi Anh Đào quay về, Tôn Vũ cùng công tử, Anh Đào tướng quân bàn định kế hoạch hành động chi tiết bước tiếp theo xong, lập tức phái tín sứ đưa tin đến công tử Khánh Kỵ ở Sở quốc.”

Chúc Dung thất kinh hỏi: “Chúng ta đã xuất hiện tại Ngô quốc, tin này rất nhanh sẽ truyền đến tai Phù Sai và Phù Khái, tin của chúng ta đưa đi có kịp không? Khánh Kỵ có kịp ứng biến phối hợp không?”

“Việc này…Xin công tử cứ yên tâm, trước lúc tới Ngô, ta từng được một người giúp đỡ.” Tôn Vũ cười một cách bí hiểm: “Theo cách của nàng ta, tin tức chắc chắn kịp thời nhanh chóng đưa tới cho Khánh Kỵ công tử.”

Chúc Dung nghe Tôn Vũ nói chuyện gì cũng đưa Khánh Kỵ lên trước tiên, trong lòng đã không vui, giờ lại nghe hắn nói có người giúp đỡ vẻ bí hiểm, cứ tưởng Khánh Kỵ có cách thức đưa tin bí mật gì không nói cho mình biết, trong lòng càng thấy tức tối, hứ mạnh một tiếng: “Được rồi, ta đi bắt vài tên tù binh, coi có tra hỏi được tình hình Ngô quốc hiện nay không?” Dứt lời phất tay áo quay lưng hậm hực bỏ đi.

Tôn Vũ nhìn theo bóng lưng Chúc Dung, mỉm cười chua chát, hắn nhìn thấu suy nghĩ trong tim Chúc Dung, đó chính là lí do hắn phòng bị đối với Chúc Dung. Nhưng tên Chúc Dung này hãy còn có ích nhiều, bây giờ Khánh Kỵ ở xa tận Sở quốc, hắn lấy danh nghĩa thay Khánh Kỵ phạt Ngô phục quốc giết vào Ngô, chỉ dựa vào lí do này là không đủ, có Chúc Dung trong quân, chí ít giảm được chút khó khăn trở ngại, đối với đại nghiệp của chúa công Khánh Kỵ có tác dụng to lớn.

Biển thu nhận cả trăm con sông đổ vào, người làm việc lớn phải biết bao dung, tấm lòng bao dung gồm bao dung sở đoản của người khác, bao dung lòng riêng của người khác. Trong mắt không cho phép có một hạt cát, nếu không phải kẻ có mười hai phần tận trung thành khẩn thì không sử dụng, chúa công thế này chỉ thích hợp dẫn theo ba đến năm trăm hán tử không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, chỉ mong chết cùng năm cùng tháng cùng ngày làm sơn tặc đại vương. Khánh Kỵ không để bụng khi xưa Yểm Dư, Chúc Dung mang lòng riêng ở lại Sở quốc, không những đón họ về mà còn gi­ao phó hai cánh quân Ngải thành và Phí thành vất vả tạo dựng vào tay họ, tấm lòng bao dung đó mới giống người làm việc lớn, Tôn Vũ đối với Khánh Kỵ ngày càng kính phục là vậy.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Tôn Vũ quay đầu về phía biên giới Việt quốc, một khoảng trống mọc đầy cỏ dại trải dài, không hề thấy bóng dáng doanh trại của quân Việt, nhưng Tôn Vũ biết ở phía bên kia, không biết có bao nhiêu đôi mắt đang theo dõi nhất cử nhất động của hắn, Tôn Vũ tủm tỉm cười đầy ẩn ý.

Dẫn theo hơn một vạn binh mã, bất ngờ tập kích vào Ngô, đoạt lấy kinh đô, kế hoạch này rất chủ động nhưng khả năng thành công lại khá thấp. Hồi đó Khánh Kỵ vốn định mượn thành đóng quân tại Lỗ quốc, từ đó quấy nhiễu quân Ngô, bảo đảm ảnh hưởng của mình trong người Ngô không mất đi, tấn công Ngô quốc vẫn phải theo hướng chính diện.

Người Lỗ không chịu vì Khánh Kỵ mà xung đột trực tiếp với Ngô, hắn bèn tính kế thứ hai, bí mật xây dựng một đạo quân ngay tại Lỗ quốc, lúc chinh phạt Ngô quốc, lấy đạo quân bên Vệ làm chủ lực, tân quân bên Lỗ tiếp ứng, giáp chiến hai mặt, chia cắt binh lực của Ngô vương Hạp Lư, tận dụng tất cả khả năng tạo điều kiện có lợi cho đại nghiệp phạt Ngô phục quốc.

Hồi sau Ngô quốc phạt Sở, tình hình thay đổi, Khánh Kỵ mới căn cứ theo tình hình mới, quyết định đem quân đội đóng ở Vệ của mình đến liên minh với người Sở, thu hút quân chủ lực của Ngô tại Sở, cánh quân mới xây dựng tại Lỗ vốn định chỉ để quấy nhiễu đánh tuyến thứ hai nay phải gánh vác trọng trách trở thành đạo quân chủ lực đánh chiếm kinh đô của Ngô quốc, kế hoạch tác chiến vẫn còn đang không ngừng điều chỉnh hoàn thiện theo tình hình Ngô quốc hiện nay.

Trên thực tế, dù cho quân chủ lực của Ngô đang đánh trận ở Sở, chỉ dựa vào một cánh quân mới thành lập, ý đồ công phá kinh đô Ngô quốc là một nhiệm vụ bất khả thi. Khánh Kỵ dám mạo hiểm quyết định làm vậy, dù bản thân hắn không phát hiện ra, nhưng trong tiềm thức của hắn chịu một lí do quan trọng ảnh hưởng: Tôn Vũ.

Vì Khánh Kỵ biết rõ tài năng quân sự của Tôn Vũ trong lịch sử Trung Quốc, tuy hắn ba lần bảy lượt tự nói với bản thân, muốn giành thắng lợi trong chiến tranh tuyệt đối phải dựa vào sức mạnh, hắn nói với Yểm Dư và Kinh Lâm tại Bách Tân hồ cũng là vậy, nhưng hắn vẫn còn chút mê tín về khả năng của Binh thánh Tôn Vũ.

Tôn Vũ tiếp quản đội quân Phi Hồ cốc, với lại sau khi xác định rõ mục tiêu phạt Ngô, từng lần lượt phái đi nhiều mật thám lẻn vào Ngô quốc thu nhặt tình báo, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, binh lực của hắn thua kém Ngô quốc, lại gánh vác trọng trách thế này, tuyệt đối không thể nhắm mắt làm liều khi chưa hoàn toàn hiểu rõ tình hình phía Ngô được.

Khi nắm rõ được tình báo, thêm vào phán đoán lực lượng đôi bên, Tôn Vũ cảm thấy chỉ dựa vào hành động quân sự khó có thể đạt được mục đích, do đó hắn thay đổi kế hoạch tác chiến của Khánh Kỵ, nhanh chóng đưa kế hoạch mới của mình đến nước Sở, Tôn Vũ tin chắc Khánh Kỵ sẽ ủng hộ quyết định táo bạo này của hắn.

Đội ngũ tập hợp chỉnh tề, vừa mới trải qua trận chiến, trên mặt các binh sĩ hãy còn mang sát khí đằng đằng, gươm giáo tua tủa, quân sĩ đứng im phăng phắc, trong rừng đám chim chóc bị tiếng chém giết kinh động bay trở về, lại không tìm được cái tổ quen thuộc, chúng bay tán loạn trên đầu các binh sĩ, có con đậu xuống dưới vai, cảm nhận được luồng sát khí đáng sợ đám người đứng đó đang toát ra, vội vỗ cánh xuyên qua rừng gươm giáo bay đi mất dạng.

Chúc Dung không khỏi nổi lòng thán phục, hắn cũng là người dẫn quân lâu năm, binh sĩ dưới trướng không thể nói là không anh dũng thiện chiến, nhưng so về kỉ luật nghiêm khắc, tuyệt đối không sánh bằng đội quân này của Tôn Vũ, cánh quân này mới được huấn luyện có mấy tháng thôi. Tên Tôn Vũ này đúng là một tướng tài, tiếc là dướng trướng hắn không có người tài như thế, bằng không cũng không thua thê thảm ở Sở quốc rồi…Chúc Dung rầu rĩ nhớ lại.

“Các tướng sĩ nghe lệnh!” Tôn Vũ hét to một tiếng, toàn quân im phăng phắc lắng nghe.

Tôn Vũ sải bước đi lên đài điểm tướng, quay mặt về phía đội ngũ đen sì sì, chỉ tay về phía xa, cất cao giọng: “Trận chiến hôm nay chỉ là tập dượt thôi, mục tiêu cuối cùng của quân ta chính là Cô Tô thành, ngoài ra đều không thèm nói tới. Nhưng…Cô Tô thành không dễ tấn công như chỗ này, Phù Sai và Phù Khái cũng không dễ chế ngự như Tây Môn Thắng.”

Cột cờ kế bên đài điểm tướng đã hạ lá cờ của quân Ngô xuống, trên đó giờ treo lơ lửng một cái thủ cấp, chính là thủ cấp của Tây Môn Thắng, hắn chết dưới kiếm của Chúc Dung.

“Trong thiên hạ sẽ không xuất hiện một đạo quân giống như chúng ta, với binh lực không quá một vạn người, dám phát động tấn công vào kinh đô một nước, chỉ dựa vào việc này thôi là đủ cho thiên hạ lác mắt, đủ cho đám nam nhi nhiệt huyết chúng ta cảm thấy kiêu ngạo. Kể từ chỗ này, cho đến dưới chân thành Cô Tô, chúng ta phải đi xuyên qua chốt chặn quan trọng Ngự Nhi thành, còn phải đi xuyên các tòa thành Túy Lý, Lạp Trạch, Hình Ấp, Hoành Thượng…, phải vượt qua mấy chục phòng tuyến của địch, gi­ao chiến với quân Ngô không rõ số lượng đang bố phòng khắp nơi.

Thủ đoạn của quân Ngô các ngươi thấy rõ, cho dù là người Đông Di bị bắt hoặc đầu hàng, tất cả đều bị Phù Khái bêu đầu, lần này tiến quân, chúng ta có tiến không lui, nếu muốn sinh tồn, chỉ còn cách tiêu diệt kẻ địch, nếu muốn kiến công lập nghiệp, sau này bái tước phong hầu, chỉ còn cách giẫm lên máu của quân địch mà đi tới. Cơ Quang có thể dùng năm vạn quân đánh chiếm Dĩnh Đô, chúng ta chỉ dùng dưới một vạn đoạt lấy Cô Tô. Cơ Quang nếu thua trận còn có Ngô quốc làm chỗ dựa, các ngươi không có chỗ dựa, Ngô quốc cũng chính là lối thoát hiểm duy nhất, chiếm lấy Cô Tô, các ngươi mới được sống, mới có căn cứ dung thân, mới được hưởng vinh hoa phú quý!”

Xung quanh doanh trại đã bị san thành bình địa, hơi thở của gió xuân hòa nhịp, đưa tiếng nói của Tôn Vũ vang cao vang xa.

“Các ngươi không phải đơn độc chiến đấu, bổn tướng đã phái người phi ngựa đem tin đánh xộc vào Ngô quốc của chúng ta đến báo cho công tử Khánh Kỵ, rất nhanh, công tử sẽ đưa đại quân quay về Ngô quốc, sát cánh chiến đấu cùng quân ta. Theo như sắp xếp, mỗi năm trăm người chia làm một đội, chia ra chọn đường mà tiến tới, đến địa điểm chọn trước tập hợp, nếu bị quân Ngô đánh tan thì dùng chiến thuật du kích, mạnh ai nấy ẩn náu, chờ đợi thời cơ đánh lén, hoàn thành sứ mệnh của các ngươi, có nghe rõ không?”

Ba quân đồng thanh hét lớn: “Dạ!”

Tôn Vũ phất tay một cái: “Xuất phát!”

Từng đội binh sĩ theo sắp xếp định sẵn phân ra nhiều nhóm, do một lữ soái thống lĩnh, chia nhau các hướng tiến sâu vào Ngô quốc, đại quân hành động nhanh chóng bài bản, theo quy chế trong quân của Khánh Kỵ, quân đội được chia theo quy cách lúc bấy giờ, năm người là một “Ngũ”, có một ngũ trưởng; năm ngũ là một “Lượng”, có một lượng tư mã; bốn lượng thành một “Tốt”, có một tốt trưởng; năm tốt thành một “Lữ”, do một lữ soái chỉ huy…Vậy một lữ vừa đúng có năm trăm người.

Khánh Kỵ chưa bao giờ cảm thấy chia quân ra như thế có thể nâng cao sức chiến đấu của quân đội lên, hơn nữa lúc đó mỗi một quân sĩ còn phải phân chia đẳng cấp và vũ khí sử dụng, khá là rắc rối, nên trong lúc huấn luyện quân đội Khánh Kỵ không mấy quan tâm chuyện chia quân này, chỉ khi Tôn Vũ tiếp quản mới ra sức huấn luyện, lúc này phải hành quân nhóm nhỏ mới thấy rõ tác dụng của việc chia quân.

Lữ này gồm năm trăm người, Tôn Vũ chỉ định một viên tốt trưởng thông thạo địa lí Ngô quốc làm Lữ soái, phụ trách thọt vào sau lưng địch, có quyền độc lập chỉ huy tác chiến trước khi đến được địa điểm tập kết. Nhìn toàn quân tập hợp, chia tách, tiến quân nhanh chóng mà không rối, Tôn Vũ mỉm cười hài lòng, chỉ trong một thời gi­an ngắn có thể huấn luyện một đội quân hỗn tạp gồm nông dân, thương lái, nô dịch, tù nhân và cả đám lưu manh vô lại thành ra thế này, tất nhiên đủ khiến chàng tướng quân trẻ tuổi cảm thấy tự hào.

Hơn nữa trong công tác huấn luyện, Tôn Vũ có ý đồ đặt nặng việc huấn luyện kỉ luật và ý thức của quân sĩ, theo tiêu chuẩn quan quân mà huấn luyện, làm vậy là chuẩn bị cho đại nghiệp phục quốc của Khánh Kỵ một khi thành công, giúp Khánh Kỵ nhanh chóng dựa vào đám người này khống chế tiếp quản quân đội Ngô quốc. Với lại vào thời này tin tức đi lại khó khăn, trong lúc không thống nhất chỉ huy được, cần mạnh ai nấy tác chiến độc lập, chất lượng chỉ huy trong quân cũng nâng cao rõ rệt, một khi tướng chỉ huy tử trận, có thể theo thứ tự cử người thay thế, không rơi vào cảnh như rắn mất đầu, chỉ huy chết là toàn quân tan rã.

Anh Đào và Chúc Dung cũng tự dẫn theo một đội quân, leo lên lưng ngựa, chắp tay chào Tôn Vũ, xong mạnh ai nấy dẫn quân rời khỏi. Tôn Vũ từ từ buông tay xuống, hít một hơi dài, hướng về phía Việt quốc, khóe môi nở một nụ cười bí hiểm.

“Đại trượng phu kiến công lập nghiệp, chính là lúc này!” Tôn Vũ phấn chấn tinh thần, sải bước đi xuống đài điểm tướng, leo lên lưng ngựa, dẫn theo số binh mã còn lại, đi về phía thảo nguyên mênh mông, sau lưng Tôn Vũ, doanh trại quân Ngô nay chỉ còn là một đống hoang tàn, một cột khói bốc thẳng lên trời cao…

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Vương Tôn Hùng suất lĩnh một đội nhân mã, kìm ngựa cắn đũa (thời xưa khi hành quân bí mật, binh sĩ phải ngậm trong miệng mỗi người một chiếc đũa để không nói), bí mật tiến vào trong núi rừng . Trải qua một lần bại trận được thả về, bởi vì Ngô Vương vốn yêu thích hắn, chúng tướng cũng biết vậy mà hết lời cầu khẩn cho hắn, rốt cục hắn cũng được ân xá, cuộc đánh úp Na Xứ thành lần này, Vương Tôn Hùng chủ động xin đi giết giặc, lấy công chuộc tội rửa sạch nỗi nhục khi trước.

Thám mã của hắn đã điều tra tin tức chuẩn xác của Khánh Kỵ, chủ lực của Khánh Kỵ đã rời khỏi Na Xứ thành, tới sông La cứu viện quân Sở. Quân Ngô công kích quân Sở ở sông La, đã định liệu rằng chắc chắn Khánh Kỵ sẽ đi cứu, Quyền Ấp cùng Ngư Phản hai lộ đại quân ở ngoài sáng, đại quân Dĩnh Đô ở trong tối, đã bày ra thiên la địa võng ở sông La, nếu Khánh Kỵ tới sông La cứu viện, tất sẽ rơi vào bao vây trùng trùng điệp điệp, nếu hắn nhân cơ hội này đánh chiếm Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, thì Vương Tôn Hùng đã nắm được đại bản doanh của hắn rồi. Quân coi giữ Ngư Phản và Quyền Ấp sớm đã có phòng bị chỉ cần đứng vững trước tiến công của hắn, ba đường quân Ngô ở sông La nuốt sạch quân Sở, sẽ hội quân tiến quân thần tốc về hướng đó. Khánh Kỵ đã mất đi căn cơ nếu như không muốn bị ăn tươi nuốt sống, chỉ có thể chạy trối chết, Na Xứ thành mà hắn đã khổ tâm gây dựng chẳng những rơi vào tay địch thủ, hơn nữa cả một con đường quan trọng cuối cùng để liên lạc cũng bị rơi vào tay quân Ngô. Hắn khó đối kháng lại quân Ngô, quân Sở lại bị tầng tầng vây quanh, chiến lược ‘từng bước ép vào’ cũng hoàn toàn bị phá sản.

Trong rừng rậm tối om om, binh lính dẫn đường phía trước dùng một cái đèn lồng được phủ vải đen, chỉ chiếu ra một chút ánh sáng ở phía dưới, chiếu sáng một khoảng không lớn ở dưới chân, trong rừng ngoại trừ âm thanh cỏ cây sột soạt vì ma sát, còn lại không có âm thanh gì khác. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết, ở tại sơn cốc phía bên kia rừng núi, cũng có một nhánh quân đội đang cùng hắn tiến lên. Sơn cốc ở hai bên sườn núi vốn có hai nhánh quân đội của Khánh Kỵ đóng quân, nhưng hiện tại chủ lực của Khánh Kỵ xuất chinh, quân trông giữ đỉnh núi đại bộ phận cũng bị điều động đi rồi. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết rằng nơi đó vẫn có binh sĩ đóng quân, vì sợ bị nhân mã lưu thủ ở Na Xứ thành phát hiện ra sớm sự tiến công của hắn, hắn chia binh ra làm hai đường, từ cánh trái phải lặn lội đi đường núi, tránh quân phòng thủ ở cốc khẩu.

Phía trước là một ngọn đồi nhỏ, đi qua ngọn đồi này, Na Xứ thành ở ngay tại một bình nguyên phía ngoài cốc khẩu. Một đường bình an vô sự, Vương Tôn Hùng trèo đèo lội suối đến mức toàn thân toàn mồ hôi thối âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

“Mau, sắc trời sắp sáng rồi, phải nắm chắc thời gi­an. Ôn Thành, mang vài người sang mặt Đông liên hệ, mệnh cho bọn họ nhanh chóng tập kết chỗ này; Hà Lý tướng quân, ngươi phụ trách cản đường, mang nhân mã bản bộ của ngươi đi sang hướng Tây Bắc, hủy diệt Linh Tú Kiều, đóng quân ở chỗ đó, bảo hộ cánh quân thủ thành của ta, ngăn cản nhân mã của Khánh Kỵ đóng ở bến Bách Tân tới cứu viện; Công Sư, lập tức chặt cây cối chỗ này, chế tạo công cụ công thành thô sơ, cần phải hoàn thành trước hừng đông.

Mọi người nhất nhất lĩnh mệnh mà đi. Vương Tôn Hùng hai tay chống kiếm, đứng ở trước ngọn núi nhắm mắt không nói gì. Bên trong đầu hắn, đang hiện lên tình cảnh một lần gi­ao chiến với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ đột nhiên dẫn quân xuất hiện, chủ động xuất kích, ở trong hỗn chiến sử dụng phục binh chặt đứt sự phối hợp của xa trận và bộ binh của hắn, đánh đuổi bộ binh, vây lấy tinh nhuệ, đấu pháp xảo quyệt, khác rất nhiều với thủ pháp mà hắn quen dùng.

“Đã trải qua hơn một năm lang bạt kỳ hồ, trải qua nguy hiểm suýt nữa bỏ mạng, xem ra đã khiến cho Khánh Kỵ thay đổi rất lớn, hắn đã không còn là Khánh Kỵ trước kia. Chỉ có điều… mặc cho hắn có giả dối như cáo, lúc này cũng không còn cơ hội nữa. Đại vương đánh chiếm Sở đô, danh vọng nhất thời tăng cao, lại mang tài phú của nước Sở vận chuyển về nước Ngô, thực lực của nước Ngô tất nhiên cũng sẽ tăng lên nhiều. Chỉ cần vua của ta đánh bại liên quân, thành công trở về Ngô quốc, là sẽ có thể lập uy thu nạp nhân tâm của mọi người. Khánh Kỵ cho dù không chết, thì lúc đó cũng không thể làm gì với nước Ngô ta nữa.”

Vương Tôn Hùng từ từ nhắm hai mắt, khóe miệng hơi hơi mỉm cười.

” Vương Tôn tướng quân, quân của mạt tướng đã tập kết xong, đang ở phía trước chờ mệnh.”

Vương Tôn Hùng mở mắt ra, đã thấy Y Thu tướng quân từ sơn cốc phía bên kia sườn núi vội vàng chạy tới trước mặt, cách đó không xa phía sau nhân mã như rồng, đang uốn lượn mà tới.

“Ừm, bên ngươi có phát hiện gì không?”

” Không có, các huynh đệ đều vô cùng cẩn thận.” Y Thu thở hổn hển lau mồ hôi trên trán: “Chỉ có điều vừa mới vượt núi tới đây, tất cả mọi người đều có hơi mỏi mệt.”

Vương Tôn Hùng ngẩng đầu nhìn sắc trời tối như mực, nói: “Truyền lệnh, toàn quân nghỉ ngơi tại chỗ, ăn chút lương khô, uống nước, sau thời gi­an hai nén hương, công thành!”

Thời cơ đã tới, mặc dù không đốt hương, nhưng mà Vương Tôn Hùng với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến, đã có thể nắm giữ thời gi­an chính xác. Hắn lại lần nữa ngẩng đầu lên, ở chân trời đã ẩn ẩn hiện lên một vệt sáng.

” Công Sư, tạo ra bao nhiêu dụng cụ công thành rồi.”

Công Sư vội vàng tiến lên bẩm: “Hồi bẩm tướng quân, bởi vì thời gi­an cấp bách, lại thêm sắc trời tối tăm, không thể thắp đèn, trong lúc vội vàng chỉ làm được hai chiếc xe, hơn mười cây gỗ, hơn hai mươi cái thang gỗ.”

Vương Tôn Hùng thản nhiên cười: “Na Xứ thành không cao, hào không sâu, cổng không dày, quân trông giữ bên trong lại ít, như thế là đủ rồi, chúng ta chỉ cần tấn công một chút là có thể lấy được thành. Khánh Kỵ dù đi rồi, nhưng một khi phát hiện trúng kế, rất có thể sẽ phớt lờ quân Sở mà phá vây quay về, thời gi­an cấp bách, lập tức công thành!”

Vương Tôn Hùng lần này đi cấp bách, lại là đánh lén ban đêm, cho nên còn không kịp chế tạo những dụng cụ như trục bắn cung, là một chiếc xe có thể từ trên cao bắn tên thẳng vào trong thành, hay như trùng xa là loại xe để công phá cửa thành, còn có máy bắn đá cũng không kịp chế tạo. Có điều Na Xứ thành ở rất gần Dĩnh Đô, vốn là có đóng quân, nhưng bởi vì ở sâu bên trong nước Sở, không tính tới việc sẽ có kẻ thù vây bên ngoài thành, cho nên xây dựng thành cực kỳ đơn sơ, căn bản là không cần những công cụ công thành nặng nề, chỉ cần mấy thứ như vậy là đủ rồi.

Vương Tôn Hùng vọt tới dưới thành, quân coi giữ trên tường thành cũng đã phát hiện ra bọn họ, lập tức khoa chiêng báo nguy. Nương theo chút tia nắng ban mai, Vương Tôn Hùng thấy được trên tường thành đã có chút cải tạo, mặc dù tường vẫn không cao, nhưng lại có thêm những mái chắn để che cho quân phòng thủ thành, ở góc thành có chòi canh, chỉ có điều cổng thành vẫn cũ nát như cũ, không được trang bị cầu treo như những thành trì vốn được dùng vào quân sự.

Na Xứ thành trì thấp bé, vật tư phòng ngự chuẩn bị trong thành cũng không được đầy đủ, nếu hai bên nổi lên chiến trận, Vương Tôn Hùng nhìn số quân coi giữ trên tường thành, cùng với những khí giới phòng thủ của bọn họ, liền biết chắc chắn hôm nay có thể phá thành. Vương Tôn Hùng không khỏi mừng rỡ, lập tức cho cả đội dự bị cũng cùng đi vào. Hắn lo rằng Khánh Kỵ một khi phát hiện ra trúng kế, lập tức sẽ bỏ rơi quân Sở mà quay về sào huyệt, nếu trước khi hắn quay về mà không thể công được Na Xứ thành, vậy sẽ lâm vào tình huống hai mặt đều có địch cực kì nguy hiểm, cho nên lúc này bất kể hy sinh, mệnh lệnh tấn công mạnh mẽ.

Thang gỗ công thành quá ít, đã bị những lực sĩ trên tường thành dùng dây xích sắt và thiết chùy đánh hư rất nhiều. Hai chiếc xe đã được đưa đến hai bên cổng thành, Vương Tôn Hùng vẫn chưa sử dụng phương pháp đào địa đạo hoặc phá hỏng tường thành, Na Xứ thành tuy rằng tường thành sơ sài, nhưng muốn đào lên cũng không phải trong phút chốc là có thể, hắn cũng không an bài nhiều sĩ tốt bên cạnh hai chiếc xe, chỉ chất lên đó rất nhiều cỏ tươi, bên trên giội dầu hỏa, tới dưới thành thì châm cả xe cháy lên, khói đặc cuồn cuộn bay lên, khiến cho những quân coi giữ trên tường thành bị chảy nước mắt đầy mặt, mắt không thể thấy rõ gì nữa.

Lập tức liền có binh lính ôm thân cây to cứng rắn mạnh mẽ đánh vào cánh cửa, quân trên thành đỏ cả hai mắt, ném những thân cây, đá tảng xuống bên dưới, lại không ngừng bắn tên, mặc dù bắn được không ít binh lính công thành, nhưng mà binh lính Ngô quân dưới sự chỉ huy của Vương Tôn Hùng không ham sống sợ chết, một khi có người ngã xuống, lập tức có người lấp vào, liên tiếp vài cú va đập, cánh cổng thành mỏng mảnh kia đã lung lay muốn đổ.

Quân trong thành lớn tiếng kêu lên sợ hãi, lập tức có người lao lên chống đỡ cổng thành, chỉ có điều cánh cổng thành chỉ được gia cố một tầng ván gỗ kia không chịu nổi va chạm, liên tiếp vài cú va đập, chỉ nghe “ầm” một tiếng, cổng thành đã bị vỡ làm bốn, những binh lính trong thành đang chống cổng bị đâm bay ra sau, ngã xuống đất.

Vương Tôn Hùng mừng rỡ, lập tức quát: “Nổi trống, đoạt thành!”

Tiếng trống trận “bình bình” vang lên, quân Ngô rời khỏi hai bên tường thành chen chúc từ cổng chính mà vào. Vương Tôn Hùng xông ngựa lên đầu, cầm mâu tiến nhanh về phía trước, một đường đánh ngã hơn mười sĩ binh, suất lĩnh hơn năm trăm quân tiên phong vọt vào trong thành. Trong thành ào ra rất nhiều sĩ tốt, song phương nhất thời hỗn chiến ở một chỗ.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Tiếng la hét rung trời, chỉ nghe thấy quân Ngô ở phía sau kêu lên sợ hãi không thôi. Vương Tôn Hùng rút mâu ra khỏi ngực một tên lính, quay đầu nhìn lại, không khỏi chấn động, Khánh Kỵ không tu bổ gia cố gì nhiều cho tường thành của Na Xứ thành, nhưng mà phía trên cổng thành lại tạo ra một cơ quan, khó trách trên cổng thành được xây thêm một tòa thành lâu, hóa ra là để treo một cánh cổng nữa. Lúc này mới có chưa tới hai ngàn người vọt vào cổng thành, từ cái cổng tò vò chính giữa đã có một cánh cổng rất nặng hạ xuống, uỳnh một tiếng rơi xuống đất, ngăn cách quân Ngô trong ngoài.

Lập tức chung quanh có rất nhiều tiếng hò hét vang lên, không biết nhảy ra biết bao nhiêu phục binh đứng ở trên tường thành, mỗi người trong tay đều cầm nỏ của người Sở, từ trên cao nhìn xuống, nhắm vào quân Ngô dưới mặt đất. Những binh lính vốn đang gi­ao chiến với quân Ngô nhanh chóng lui về sau, tạo ra một khoảng cách với bọn chúng, cầm giáo dài đại kích ngăn trở bọn chúng đi về phía trước. Một gã thiên tướng thủ hạ của Vương Tôn Hùng thấy tình cảnh như vậy liền hét lớn một tiếng chĩa mâu xông lên, vừa mới chạy được hai bước, liền nghe thấy một trận tiếng mưa tên “sưu sưu” xé gió, tên thiên tướng kia đã bị bắn thành giống như con nhím, không kịp kêu lên lấy một tiếng, liền gục đầu ngã xuống đất.

Bên người Vương Tôn Hùng còn có người muốn lao lên, lại bị hắn nắm chặt lại, lúc này chợt nghe thấy từ cái lầu trên cổng thành có tiếng mõ vang lên, Vương Tôn Hùng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một người đội mũ công tử, thân khoác áo choàng trắng mỉm cười hiện ra trên bờ tường, vịn tường hô lên với hắn: “Vương Tôn Hùng, lần này có chịu quy hàng không?”

Vương Tôn Hùng nhìn thấy người này là công tử Yểm Dư vốn phải đóng ở bến Bách Tân, không khỏi thở dài một tiếng, biết rằng đã trúng độc kế của Khánh Kỵ.

Khi cánh cổng treo hạ xuống, trong ngoài bị ngăn cách, tiếng trống trận bên ngoài thành thình thình vang lên, từ xa chỉ thấy bụi đất mù mịt, từ phía ánh sáng mặt trời lao tới, tựa như nổi lên một trận bão cát hung dữ.

Quân Ngô ngoài thành trợn mắt há hốc mồm, tới tấp dừng chân trố mắt nhìn lại, chỉ thấy khoảng một trăm năm mươi cỗ xe xếp thành hình nón tam giác đang điên cuồng lao về phía tường thành. Na Xứ thành có khoảng năm mươi binh xa, hơn nữa lần trước thu được hơn một trăm binh xa, những chiến xa này lúc đó trên chiến trường tương đương với xe tăng hạng nặng hậu thế.

Na Xứ thành nằm trong cốc khẩu, nhưng mà bên ngoài cốc khẩu là một vùng đất bằng phẳng, chính là thích hợp cho chiến xa hành động. Lần này đại quân Khánh Kỵ cũng không chỉ như lần trước xua tan quân Ngô là xong việc, một trăm năm mươi cỗ chiến xa giống như máy ủi đất đang từ vùng bình nguyên trước cổng thành cày tới, bánh xe chạy tới đâu, cả vùng đầy máu tới đó.

Quân Ngô là vượt núi đánh lén, cũng không mang theo vũ khí nặng, một tiếng nổ lớn như tiếng sấm, hơn một trăm cỗ chiến xa đã đánh sâu vào trong đội quân công thành của quân Ngô, một Lữ soái quân Ngô hoảng sợ né tránh một cỗ chiến xa, lấy tay rút kiếm, đang muốn hét lên ra lệnh trường mâu thủ tạo thành trận pháp ngăn chặn chiến xa, lại có một cỗ chiến xa chui ra từ trong bụi đất mù mịt, vó ngựa hất cao, đá bay cả thân mình hắn lên. Lữ soái này chỉ cảm thấy mình giống như là đang đằng vân giá vũ, “Bịch” một tiếng rơi xuống đất, lại lăn người đứng lên, cảm giác rằng trên người dường như chưa bị thương tới một cọng tóc.

Lữ soái này giật mình, phát giác ra kiếm sắc trong tay đã bị đá bay, liền đoạt lấy một cây binh khí từ tử thi nằm trên mặt đất phía trước, hắn vừa mới lao đi hai bước, liền cảm thấy thiên địa rung chuyển, cổ họng hơi ngọt, một vòi máu tươi phun ra, trước mắt tối sầm rồi mềm nhũn ngã xuống đất. Mặt đất chấn động, lại một cỗ chiến xa lao tới, bánh xe không chút lưu tình cán qua cơ thể hắn. Ý thức của hắn vẫn còn, hai mắt mở thật to, dùng sức trừng mắt nhìn phía trước, nhưng chẳng nhìn thấy nổi cái gì, bánh xe nặng nề cán qua eo hắn, hình như là cắt đứt eo hắn, nhưng mà hắn cũng không cảm thấy đau đớn, máu đen trào ra ở tai mắt mũi miệng hắn…

Rất nhiều bộ binh hò hét vọt lên theo chiến xa, hơn trăm cỗ chiến xa chạy qua trận doanh của quân Ngô đang gào thét, sau đó rẽ sang hai cánh rồi lại quay về, giống như muốn phát động đợt xung phong thứ hai. Ở những vùng mà chiến xa lăn qua, có rất nhiều bộ binh đi theo, đánh cho bộ binh quân Ngô tơi bời hoa lá, bỏ chạy về phía sơn cốc. Cờ xí chiêng trống đều bị bọn họ vứt bỏ, một vài tướng lãnh may mắn còn sống khàn cả giọng truyền lệnh cho quân đội, kết quả là cũng thân bất do kỷ bị binh lính kéo bỏ chạy theo.

Ở hai bên đỉnh núi cũng có quân Ngô đóng giữ, nhưng mà nhân số quá ít, một vài mũi tên lẻ tẻ lực sát thương không lớn, chiến xa mang theo truy binh đuổi theo, nhưng đường trong sơn cốc khó đi, chiến xa khó có thể phát huy uy lực. Những quân Ngô này quăng mũ cởi giáp, mồ hôi ướt đẫm chạy ra khỏi sơn cốc, còn chưa kịp thở một hơi, đã sợ đến ngây người, mấy ngàn nhân mã đứng ngây ra như phỗng ở cốc khẩu, đột nhiên lặng ngắt như tờ.

Ra khỏi cốc khẩu là một cái dốc nhấp nhô thoai thoải, đi qua dốc này là tới ngã ba đường đi Dĩnh Đô, Ngư Phản, Quyền Ấp. Chỉ có điều ở trên cái dốc đó có một đạo nhân mã đang lẳng lặng đứng trang nghiêm, cờ bay phấp phới kéo dài, liếc mắt nhìn không thấy bờ bến, cũng không biết rốt cuộc là bao nhiêu nhân mã.

Ở giữa là một gã võ tướng, cưỡi ngựa cầm mâu, phía sau bên trái là một cây cờ hiệu, bên phải là một cây cờ chủ soái, ở trên viết hai chữ Khánh Kỵ, không ngờ rằng Khánh Kỵ đã dẫn quân trở lại.

Hai gã võ tướng giống như cột sắt thúc ngựa tiến lên vài bước, cao giọng quát: “Điện hạ có lệnh, ai hàng miễn chết, các ngươi nhanh chóng quyết định đi!”

Quân Ngô chạy tới cốc khẩu còn đang kinh hoàng chưa bình tĩnh kịp, nghe thấy lời đó không khỏi hai mặt nhìn nhau, dần dần, những sĩ tốt đều tập trung ánh mắt về những tướng lãnh có chức vị hơi cao trong quân. Vài tên tướng lĩnh đó còn đang do dự không quyết, uy phong cùng ngạo khí bọn họ có từ khi phạt Sở đến giờ đã bị hai trận chiến của Khánh Kỵ quét cho sạch trơn, uy danh Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ từ ngày xưa một lần nữa lại nổi lên trong lòng bọn họ. Lúc này chủ tướng Vương Tôn Hùng bị nhốt ở trong thành sống chết không biết thế nào, bọn họ cũng đã hoàn toàn đánh mất dũng khí đối đầu với Khánh Kỵ, nhưng mà…

Hàng? Gia quyến của mình ở nước Ngô làm sao bây giờ? Hạp Lư có lẽ sẽ không mất trí đến mức giết hại gia nhân của tất cả sĩ tốt, nhưng mà với một vài vị tướng thì hắn sẽ bỏ qua sao?

Hai gã võ quan đang chiêu hàng phía trước là A Cừu và Tái Cừu. Mắt thấy bọn họ còn đang chần chừ, A Cừu cười to nói: “Tái Cừu, ta thấy những người này chưa từ bỏ ý định, còn muốn khiêu chiến với trường mâu của điện hạ đó. Chỉ là không biết, dưới tay của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ ai xứng đáng làm địch thủ, dù sao thì ta cũng không làm được, ha ha…”

Tái Cừu ‘phì’ cười một tiếng, tay cầm song kích nói: “Ta thấy cũng chưa chắc, bọn họ chỉ lo rằng một khi đầu hàng, gia quyến ở nước Ngô sẽ bị Cơ Quang tàn bạo giết hại, cho nên mới đành chịu cảnh toàn quân bị diệt, chứ không chịu đầu hàng.”

A Cừu cười ha hả, nói: “Cái đó thì có gì phải lo? Cơ Quang mặc dù muốn đại sính dâm uy, cũng phải chờ cho sau khi hắn về tới nước Ngô, nhưng hắn có còn quay về nước được sao? Hiện giờ Sở, Vệ, Tống, Tào, Lỗ mấy nước chư hầu gần Ngô quốc đều đã kết minh với điện hạ, Tề Tấn hai nước tuy rằng cường đại, nhưng lại nước xa không cứu được lửa gần. Cơ Quang bị nhốt ở Dĩnh Đô thành, điện hạ mấy ngày nữa phạt Ngô phục quốc, trở thành quân chủ Ngô quốc, hôm nay là người quy phục điện hạ, ngày sau đều là thần tử có công, vợ con hưởng đặc quyền đều có thể, khi đó Cơ Quang muốn không chết còn khó, còn làm sao mà giết cả nhà họ?”

Những binh lính Ngô bị vây khốn trong cốc khẩu nghe thấy vậy thì nhất thời xôn xao lên, trong lòng bọn họ sợ quân pháp tàn nhẫn của Hạp Lư, nhưng mà một cuộc đối đáp của A Cừu Tái Cừu lại khiến cho trong lòng bọn họ sinh ra dị tâm. Người trong lúc khốn cảnh ai chẳng ham sống, nếu có thể có cách vẹn toàn, trong lòng người tự nhiên sẽ suy nghĩ về phía tốt hơn, nếu Khánh Kỵ thành quân chủ Ngô quốc, như vậy còn e sợ quân pháp khổ hình của Cơ Quang sao?

Khánh Kỵ ngồi thẳng bất động, nhìn thấy binh lính nước Ngô đã tâm động, Khánh Kỵ đúng lúc bọn họ còn chưa kịp đưa ra quyết định liền bỏ thêm một quả cân lên cái cân, hắn cầm trường mâu trong tay hướng về phía trước, lưỡi mâu thẳng tắp hướng lên không trung. Có hiệu lệnh của chủ soái, trong quân lập tức vang lên tiếng trống trận vang dội.

“Thình! Thình! Thình thình thình thình…” Mỗi chuỗi tiếng trống với tiết tấu và tốc độ như nhau vang lên, Khánh Kỵ dùng trống hiệu của quân Ngô, khiến cho sĩ binh quân Ngô đều nghe và hiểu được, đây là tiếng trống khi sắp phát động xung phong. Tiếng trống ngày càng dồn dập, tim bọn họ cũng đập càng lúc càng nhanh, nhất thời khẩn trương tới mức miệng lưỡi đều khô, mồ hôi bất tri bất giác chảy đầy trên trán.

“Có đầu hàng hay không? Có đầu hàng hay không?” Tay cầm mác thì dùng mác đập, tay cầm kiếm thuẫn thì dùng kiếm đánh lên mặt thuẫn, lớn tiếng hét lớn về phía những quân Ngô bị vây bên trong cốc khẩu. Quân Ngô trong cốc khẩu lại càng bối rối, một vài tên tướng lãnh trong đó cũng vô cùng lo lắng trao đổi ánh mắt cho nhau.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Mâu của Khánh Kỵ dừng lại ở không trung trong nháy mắt, chậm rãi chỉ thẳng về phía trước, cờ soái tung bay, cờ hiệu theo đó phất lên, cờ xí sặc sỡ trong quân cũng đồng thời phất lên, cái này gọi là “Ứng kỳ”, ý là các quân cùng nhận được mệnh lệnh của chủ soái tướng lãnh, kế tiếp chỉ cần ngọn cờ hiệu của Khánh Kỵ chỉ về phía trước, các quân sẽ như hổ lang lao về phía trước, phát động một trận đại chiến.

Mắt nhìn thấy cờ hiệu của Khánh Kỵ, binh sĩ quân Ngô đều thầm nuốt nước bọt, cờ hiệu của Khánh Kỵ được lực sĩ đưa lên, ngay lúc lá cờ sắp chỉ về phía trước, đột nhiên có một tiếng hét lớn, từ trong đội ngũ quân Ngô có một gã tướng lãnh đi ra, một mình tiến về phía trước, hai tay giơ lên cao, rồi từ từ giương ra hai bên.

Trường mâu trong tay Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, chăm chú nhìn vào hắn. Dung mạo người này có chút quen thuộc, hơi hơi suy nghĩ một chút, Khánh Kỵ cũng đã nhớ ra người này, chính là Ngô quốc trung đại phu Xích Trung, ấn theo cấp độ, lần này trong quân là Sư soái, địa vị của hắn gần với Vương Tôn Hùng, liền hít một hơi giương giọng, lạnh lùng quát hỏi: “Xích Trung, ngươi có gì để nói?”

Sư soái quân Ngô Xích Trung giơ rộng hai tay, ngăn Khánh Kỵ hạ lệnh tiến công, sau đó chậm rãi xoay người nhìn về đống hỗn loạn phía sau mình, quân Ngô phía sau hắn đang tán loạn, chen chúc trong cốc khẩu. Sau cốc cũng đã bị quân Khánh Kỵ chặn đường, toàn quân đã không còn đội hình, trong ánh mắt mỗi binh lính đều có sự bối rối và khát vọng sinh tồn, đôi mắt trông mong nhìn vào hắn. Ánh mắt của hắn lướt qua, vài tên Lữ soái thuộc hạ xấu hổ cúi đầu, giống như sợ sẽ bị hắn nhìn thấy suy nghĩ của mình.

Xích Trung bùi ngùi thở dài, lại xoay người trở lại, mặt hướng về Khánh Kỵ, sau đó ‘keng’ một tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm của hắn dưới ánh mặt trời bắn ra hàn quang, phát ra ánh sáng chói mắt. Khánh Kỵ ngồi trên lưng ngựa, mắt lạnh lùng nhìn hắn, không nói không cử động.

Xích Trung lớn mật bước về phía trước, ở trước mắt bao người hướng về Khánh Kỵ, cách Khánh Kỵ khoảng mười bước, một loạt trường mâu thủ tiến lên phía trước ba bước, mũi mâu sáng như tuyết đồng loạt giương lên, ngăn chặn trước người hắn.

Xích Trung dừng lại, ngẩng đầu nhìn Khánh Kỵ, đột nhiên cúi người, ‘Phập’ một tiếng cắm kiếm thật sâu vào trong bùn đất, tay cầm chuôi kiếm, quỳ một gối xuống, trầm giọng nói: “Xích Trung nguyện dẫn quân đội trong tay, trung thành dưới trướng công tử!”

Khánh Kỵ thản nhiên nói: “Ngươi là người nước Ngô, đáng ra phải gọi ta là điện hạ!”

Xích Trung cúi đầu nói: “Đúng, quân đội trong tay Xích Trung, nguyện… nguyện trung thành với Khánh Kỵ điện hạ!”

Đã có người đi đầu, các tướng lĩnh quân Ngô đều thở phào nhẹ nhõm, những quân sĩ quân Ngô vốn bàng hoàng bất lực hiện giờ như đã tìm ra được lựa chọn, tới tấp theo Xích Trung quỳ rạp xuống đất về phía Khánh Kỵ, tuyên thệ nguyện trung thành, Khánh Kỵ không khỏi ngửa mặt lên trời cười to.

Đội quân này một khi đã tuyên thệ nguyện trung thành với hắn, từ nay về sau, vì tính mạng của hắn, vì tính mạng của gia nhân, vì tiền đồ của bọn họ, liền chỉ có thể sống chết cống hiến cho hắn. Trọng yếu hơn đúng là, có đội quân này gia nhập, sẽ làm dao động quân tâm của Cơ Quang, tâm lý người theo số đông rất nghiêm trọng, một cấm địa mà ban đầu ai cũng cho rằng không thể vượt qua, một khi đã có người bước ra đầu tiên, những người bước theo sẽ nối liền không dứt. Từ nay khi gi­ao phong với quân đội Cơ Quang, hắn đã có một thứ để ỷ vào, không chỉ có lợi trong một trận chiến này, mà dần dần sẽ mài mòn sĩ khí quân Ngô, tranh thủ nhân tâm, mở tâm phòng (sự phòng bị trong thâm tâm) của người nước Ngô.

“Người đâu, giải Vương Tôn Hùng!”

Khánh Kỵ hét lớn một tiếng, Vương Tôn Hùng bị trói gô dẫn đi lên.

“Quỳ xuống!” Hai gã binh lính lớn tiếng quát, đồng thời hung hăng đá một cước lên đầu gối Vương Tôn Hùng. Hai chân Vương Tôn Hùng vừa cong, lập tức lại thẳng lên. Hắn quay đầu lại hung hăng trừng mắt nhìn hai gã sĩ tốt kia, sau đó ngang nhiên nhìn về phía Khánh Kỵ và Yểm Dư. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư sóng vai đứng ở trước trướng, phía sau Khánh Kỵ không xa còn có hai võ sĩ thân mặc giáp nửa người, đầu vai lộ ra một đoạn chuôi kiếm, dung nhan tuấn tú, tôn nhau lên rất thú vị.

Hai người cũng không cần che dấu thân phận, Vương Tôn Hùng chỉ cần liếc mắt một cái, liền nhận ra thiếu nữ Quý Tôn Tiểu Man lần trước bắt hắn, mặc dù hắn nhìn không ra thân phận, nhưng cũng là một cô gái cực kỳ thanh tú.

Vương Tôn Hùng cũng không nhìn nhiều, ánh mắt chỉ thoáng chuyển qua hai người bọn họ, liền quay về trên người Khánh Kỵ, lớn tiếng nói: “Nếu y theo thân phận, Vương Tôn Hùng vốn nên dập đầu hành lễ với công tử, tuy nhiên hiện giờ công tử phản loạn Đại vương, là nghịch tặc Ngô quốc ta, Vương Tôn Hùng thân là chủ tướng Ngô quân, thụ mệnh của Ngô Vương, thứ cho không thể tham bái công tử.”

Yểm Dư giận dữ, hai hàng lông mày hơi nhướng lên, Khánh Kỵ đưa tay ngăn lại, ha hả cười nói: “Vương Tôn Hùng, ngươi cũng là hậu duệ vương tộc của Ngô quốc ta, sao lại ăn nói hồ đồ như vậy? Cơ Quang nếu không hành thích vua tự lập, nếu không làm kẻ trộm phản quốc, làm gì có cái danh hiệu Đại vương hôm nay? Khánh Kỵ ta mới đúng là người kế thừa thực sự của tiên vương, hiện giờ tiêu diệt phản nghịch, khôi phục Ngô quốc, như thế nào lại trở thành phản tặc? Bảo ta không chống lại Cơ Quang, ta đây phải làm cái gì bây giờ? Tự trói tới gặp Cơ Quang, rồi bảo hắn chém đầu ta đi mới được gọi là trung thần liệt sĩ sao?”

Vương Tôn Hùng ngang nhiên nói: “Đại vương của ta là đương kim quân chủ Ngô quốc, ngay cả Chu thiên tử cũng đã ban cáo thừa nhận, làm sao có thể nói là giành quyền bất chính? Công tử, vẫn nên thừa nhận sự thực đi, chỉ cần ngài lấy binh quy thuận, với lòng dạ như biển của Đại vương ta, tất nhiên sẽ xá cho ngài tội mưu phản, ban thưởng cho ngài vinh hoa phú quý, làm một công tử thái bình, chẳng phải tốt hơn sao? Làm sao phải đồng tộc tương tàn, cho ngoại nhân lợi dụng?”

Khánh Kỵ mỉm cười nhìn hắn, nét cười trên mặt dần dần đanh lại.

Hắn nhẹ nhàng thở dài một tiếng, nói: “Vương Tôn Hùng, theo cái quy luật hỗn trướng của ngươi, thì đó chính là ‘kẻ thắng làm vua kẻ thua làm giặc’. Ta tiếc cho ngươi một thân hảo hán, bảo Vương thúc lưu lại mạng sống cho ngươi, vốn định giữ lại một kẻ mạnh mẽ như ngươi để dốc sức cho Ngô quốc, đáng tiếc…, Ai! Tốt lắm, nếu đã bảo nắm tay ai cứng, kẻ đó chính là kẻ có lí, chính là chánh chủ thiên mệnh, như vậy, chúng ta cứ dùng kiếm mà chứng thực đi.”

“Người đâu, mang rượu tới.”

Kinh Lâm nao nao, lập tức xua tay cho người đi lấy, một lát sau, một gã tiểu tốt cầm một vò rượu ngon, cùng với hai cái bát lớn chạy trở lại. Khánh Kỵ đưa tay đoạt lấy vò rượu, xé đi giấy phủ, rót rượu tràn đầy hai bát lớn, sau đó đưa đến trước mặt Vương Tôn Hùng, quát: “Cởi trói cho hắn.”

“Xoẹt!” Khóe mắt Khánh Kỵ chỉ liếc thấy một đạo nhân ảnh khéo léo như vượn chợt lóe lên, sau đó một đạo kiếm quang như điện chợt hiện, những sợi dây thừng đang trói Vương Tôn Hùng đồng loạt đứt ra. Người nọ lộn người nhảy trở lại, chúng tướng trong sảnh đều là người trong nghề, trông thấy kiếm pháp tinh diệu như vậy, không khỏi ầm ầm trầm trồ khen ngợi, Yểm Dư công tử hô lên một tiếng: “Hảo kiếm pháp, tuyệt diệu đến đỉnh điểm.”

Chiêu thức kiếm pháp đó quả thực rất cao, dây thừng trên người Vương Tôn Hùng buộc rất rắn chắc, dường như lằn sâu cả vào da thịt, mà một kiếm này cắt đứt được tầng tầng dây thừng, tuy rằng kiếm này bản thân đã là bảo kiếm cực sắc, nhưng mà lực tay, lực đạo, xuất kiếm đều phải chuẩn mực, chỉ cần một khắc không cẩn thận, Vương Tôn Hùng sẽ khó tránh khỏi bị thương trên người, chỉ có điều một kiếm này, ngay cả quần áo của hắn còn không bị cắt rách.

Vương Tôn Hùng vẫn không phục chính mình khi trước bị thiếu nữ kia bắt sống, lúc này nhìn thấy kiếm thuật của nàng không khỏi kinh tâm, liếc mắt chăm chú nhìn nàng một cái thật sâu. Quý Tôn Tiểu Man nhảy về bên cạnh Thúc Tôn Diêu Quang, tai nghe thanh âm mọi người ủng hộ không dứt, trên mặt tuy rằng là một bộ dáng không hề để ý chút nào, nhưng trong mắt lại lộ ra thần sắc khoe khoang.

Thúc Tôn Diêu Quang liếc xéo sang nhìn nàng, dùng thanh âm chỉ hai người mới có thể nghe được nói: “Khoe khoang như thế, nhìn thế nào cũng giống như một tiểu hài tử chưa lớn hết!”

Quý Tôn Tiểu Man nhướng đôi mày nhọn, tưởng rằng giận dữ, nhưng nàng bỗng nở nụ cười, nhún nhún vai, nhỏ giọng trả lời: “Kiếm pháp vốn quá tốt, thật sự là không có biện pháp.”

Thúc Tôn Diêu Quang chanh chua nói: “Hừ! Một nữ hài tử, đánh đánh giết giết là rất giỏi sao? Nữ nhân à, phải học cầm kỳ thi họa, nếu không sau này làm Ngô Vương phi, thực mất mặt.”

“Này, cô chỉ biết đánh đàn thôi, không cần phải thổi phồng lên chứ, ta còn biết thổi sáo đó.”

“Ta còn biết quản lí gia sản.”

“Ta biết nấu cơm.”

“Vậy để cho cô nấu cơm…”

Hai cô gái ở phía sau líu ríu tranh cãi, Khánh Kỵ đã cùng Vương Tôn Hùng đối ẩm một chén rượu lớn, nâng bát lên ném xuống mặt đất, nghiêm nghị quát: “Khánh Kỵ kính ngươi là một hảo hán, không đành lòng nhìn ngươi chết dưới hình binh. Ngươi trở về đi, bảo với Cơ Quang, hắn cướp của cha ta, ta sẽ tự tay đoạt lại! Dĩnh Đô thành, chính là mồ chôn xương của hắn!”

Vương Tôn Hùng mắt hổ chợt lóe quang mang, lui lại ba bước, rốt cục quỳ một gối xuống, nặng nề chắp tay với hắn, không nói được lời nào, xoay người liền đi.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Yểm Dư thong thả bước tới bên người Khánh Kỵ, nghiêng đầu nhìn hai hàng tùy tùng y giáp sáng ngời bước nhanh ra phía ngoài cùng Vương Tôn Hùng, hơi hơi cau mày: “Sao lại vẫn để cho hắn đi? Ta bảo cháu này, cháu chẳng lẽ có niềm tin rằng hắn sớm muộn gì cũng sẽ đầu nhập làm môn hạ hay sao? Ta thấy cái kẻ cơ bắp này chắc là sẽ không phản bội Cơ Quang đâu.”

Khánh Kỵ gật đầu nói: “Ta biết, ta còn biết, hắn liên tục bại hai lần, lần này trở về, nhất định sẽ tự sát để tạ tội với Cơ Quang. Chính bởi vì hắn đã quyết ý sẽ chết, cho nên lúc đi mới bái với ta một cái, nếu không, hắn sẽ không chịu cúi đầu với ta đâu. Ai, đáng tiếc cho một hán tử…”

Khánh Kỵ lắc đầu, bước chầm chậm đi ra. Yểm Dư công tử chớp chớp mắt, vân vê chòm râu buồn bực nói thầm: “Trở về thì cũng chết, vậy thì còn thả hắn về làm gì? Cứ muốn hào phóng sao?… Ai dà! Khánh Kỵ tiểu tử này, quá âm hiểm rồi, ngay cả người chắc chắn phải chết mà cũng lợi dụng.”

” Khánh Kỵ công tử âm hiểm như thế nào?” Yểm Dư công tử nói xong, liền kinh ngạc phát hiện ra trái phải đã có hai người đứng đó, vây hắn ở giữa. Hai cô gái thân mặc giáp trụ, tư thế oai hùng hiên ngang, vẻ mặt không vui trừng mắt nhìn hắn, tua kiếm màu hạnh hoàng (màu vàng hơi hơi đo đỏ như quả hạnh) không gió mà động, ẩn ẩn mang theo sát khí.

Yểm Dư công tử rùng mình một cái, cười gượng nói: “Việc này nói ra thì rất dài, mới trước kia còn ở trong vườn cây Vương thành trộm đào…, ách, đó là chuyện cũ năm xưa, các ngươi hay là đi hỏi Khánh Kỵ cho thỏa đáng.”

Yểm Dư nói xong, định chuồn mất, Quý Tôn Tiểu Man xoay người một cái, liền chắn trước mặt hắn, kỳ quái hỏi han: “Cái việc trộm đào này thì có quan hệ gì? Cây đào nhà mình, vì cớ gì phải trộm.”

“Ách…” Hai mắt Yểm Dư loạn chuyển, còn chưa nghĩ ra một đáp án hợp lí, một gã sĩ tốt đã vào phòng bẩm báo: “Công tử, có một lão giả cùng một người trẻ tuổi tự nói là từ Lỗ quốc tới, có việc quan trọng muốn yết kiến Khánh Kỵ điện hạ.”

“Từ Lỗ quốc tới? Ta trốn trước đã…” Quý Tôn Tiểu Man chột dạ xoay người định đi, lại bị Thúc Tôn Diêu Quang giữ chặt lại, tựa cười lại như không cười nói: “Từ lần trước cô bắt giữ Vương Tôn Hùng, danh hào Hàm Quang kiếm khách đã lan truyền nhanh chóng, thiên hạ sớm đã đều biết, cô có tránh né, cũng có ai không biết cô ở trong quân của Khánh Kỵ? Đi thôi, cùng đi xem rốt cục là nhân vật đến từ phương nào.”

Quý Tôn Tiểu Man vừa tức vừa vội, lại không muốn yếu thế trước mặt Thúc Tôn Diêu Quang, Yểm Dư công tử thật vất vả mới tìm được một lí do thoát thân, vội vàng nói: “Đúng đúng đó, chúng ta cùng nhau xem, dẫn bọn họ lên đi.”

Sĩ tốt kia đáp lại xoay người đi ra ngoài, một lúc sau mang theo hai người lên, Yểm Dư tiến lên hai bước, chậm rãi hỏi han: “Khụ, các vị là ai, là người nào sai phái các vị tới gặp Khánh Kỵ…”

Hắn còn chưa nói hết, Quý Tôn Tiểu Man đã hoan hô một tiếng, nhảy nhót lao về trước, ôm lấy cổ lão giả. Yểm Dư công tử một đôi mắt trừng đến sắp muốn lồi ra: “Này… này không phải quá kì cục sao, tốt xấu gì ngươi cũng cháu dâu trong nhà ta, sao có thể không kiêng nể gì mà thân thiết với nam nhân khác như thế?”

Yểm Dư đang bận nghĩ ngợi lung tung, Quý Tôn Tiểu Man đã kêu lên: “Viên thúc, sao thúc lại tới đây, là cố ý tới tìm cháu à?”

Thúc Tôn Diêu Quang cũng cả kinh kêu lên: “Lão Viên!”

Viên Tố vỗ vỗ bả vai Tiểu Man, ý bảo nàng buông mình ra, thân thiết cười nói: “Còn không phải vì đứa trẻ tinh ranh nhà ngươi à, cháu đó, như thế nào lại một mình chạy tới Sở quốc, lúc vừa mới nghe nói, thật sự là khiến ta giật mình.”

Nói xong lại xoay sang thi lễ với Thúc Tôn Diêu Quang, nói: “Viên Tố ra mắt Diêu Quang công tử.”

“Chớ đa lễ.” Thúc Tôn Diêu Quang vốn định chê cười một chút, nhìn kĩ lại mới thấy hóa ra là bề tôi trung thành của Quý Tôn Tiểu Man, nàng không khỏi thất vọng, ánh mắt liền chuyển tới vị thiếu niên mi thanh mục tú kia. Nàng mặc dù ở Quý Thị lão trạch lâu ngày, cũng chưa từng nhìn thấy Thành Tú, lão Viên liền giới thiệu: “Vị này… là đệ đệ của Thành Bích phu nhân, có một thứ rất trọng yếu cần gi­ao cho Khánh Kỵ công tử. Viên Tố lần này đi, là vì Tiểu Man tiểu thư, cũng là vì hộ tống Thành Tú đến đây.”

Quý Tôn Tiểu Man mặc dù cũng không thống hận Thành Bích như trước, nhưng nàng vẫn không tránh khỏi có chút khúc mắc, vừa nghe nói là đệ đệ của nàng ta, sắc mặt nhất thời trầm xuống: “Thành Bích? Nàng ta có thứ gì trọng yếu muốn gi­ao cho Khánh Kỵ? Lấy ra cho ta xem!”

“Tiểu Man!” Viên Tố nhẹ nhàng kéo kéo ống tay áo của nàng, liếc mắt nhìn nàng một cái, nói: “Việc của Thành Tú, quả thực rất trọng yếu, có trợ giúp lớn với chiến sự của Khánh Kỵ công tử, còn phải mời Khánh Kỵ ra xem nữa.”

Tiểu Man nghe nói có liên quan đến đại sự chiến cuộc của Khánh Kỵ, liền không nhiều lời nữa. Yểm Dư con mắt xoay xoay hơi chuyển, nói: “Đã là cố nhân của hai vị nữ tướng quân, vậy xin mời nghỉ ngơi một chút, bản công tử đi gọi hắn ra đây.”

Khánh Kỵ cầm tập tranh mà Thành Tú đưa lên liền mừng rỡ như điên, nghe Thành Tú giải thích, hắn mới biết rằng tập tranh này là những ghi chép của Thành Bích tại Ngô, Việt, Sở ba nước, những cửa hàng và những người liên lạc mà nàng đã khổ công bố trí sau nhiều năm kinh doanh.

Sinh ý của Thành Bích trải rộng nhiều quốc gia, những sinh ý này là tiền vốn mà Thành Bích dự tính sau khi thoát ly khỏi Quý Tôn Thị tự lập hộ riêng, đương nhiên cần phải chặt chẽ nắm trong tay. Tin tức truyền đi cần cực kì kịp thời, ổn định, để nàng có thể biết được nhất cử nhất động của các cửa hàng ở các quốc gia, đồng thời mỗi quốc gia có các nhu cầu về hàng hóa và chênh lệch giá cả khác nhau, cho nên cần có sự hiểu biết về động thái chính trị, kinh tế, quân sự của quốc gia đó.

Trải qua sự bồi dưỡng nhiều năm của Thành Bích phu nhân, nàng ở một vài quốc gia có mạng lưới tin tức khổng lồ, đương nhiên vào thời chiến loạn, một ít điểm truyền tin sẽ mất đi liên hệ, nhưng mà chiến tranh ảnh hưởng không nhiều đến những gia đình bình dân, mạng lưới tin tức của nàng vẫn có thể vận hành bình thường.

(Ở đây xin nói thêm, vì sao chiến hỏa liên miên mà không ảnh hưởng nhiều đến gia đình bình dân. Bởi vì chiến tranh chủ yếu là giữa quân đội, cho dù một đội quân khác công chiếm thành trì thì thông thường cũng sẽ không đụng tới nhân dân mà trong nhiều trường hợp còn muốn lấy lòng dân trong thành, nhất là khi nhân dân có điều bất mãn với quan lại sở tại. Việc Cơ Quang và Ngũ Viên phá hoại Dĩnh Đô phần nhiều là vì thù hận của Ngũ Viên và Bá, hành động này cũng đã được Úc đại phu Úc Bình Nhiên cảnh tỉnh, tuy nhiên quân thần Ngô quốc vì cừu hận mà mờ mắt, đã không còn phân định được phải trái.)

Điều này đối với Khánh Kỵ mà nói, có ý nghĩa không phải là nhỏ. Hiện tại hắn liên lạc tin tức Ngô quốc, Sở quốc vô cùng chậm chạp, năng suất rất thấp, đây là một nhược điểm trí mạng trong sự liên lạc phối hợp chặt chẽ giữa hai đội quân. Rất nhiều thời điểm, thời cơ chiến đấu trước mắt mà hắn lại chỉ đứng xem, hoặc là tới khi hắn biết được tin tức của đối phương, thì bên đối phương đã xảy ra biến hóa long trời lở đất, mà hắn lại hoàn toàn không hay biết.

Hắn dù phái đi nhiều thám mã trinh sát, thì những tin tức đoạt được sao có thể so được với Thành Bích nhiều năm tổ chức, lợi dụng dân bản xứ xây dựng một mạng lưới tin tức khổng lồ, mà hiệu suất truyền tin cũng còn xa mới bằng được.

” Vương thúc, chúng ta có những cơ sở ngầm này, tác dụng không thua gì tăng thêm năm vạn đại quân đó!” Khánh Kỵ mừng rỡ như điên nói với Yểm Dư, Yểm Dư đương nhiên biết tầm quan trọng của tin tức quân tình đối với bọn họ, không khỏi liên tục gật đầu.

” Thành Tú, đệ trước hết ở chỗ này đã, tác dụng của vật này đối với ta quá lớn, đại ân không lời nào cảm tạ hết được. Khánh Kỵ hứa với đệ, ta nếu có thể phục quốc đoạt vị, Thành Tú đệ sẽ được bái làm Ngô quốc công khanh, nếu đệ không muốn làm quan, Ngô quốc ta cũng sẽ dốc hết sức có thể cho đệ thuận tiện, trở thành thương nhân phú khả địch quốc một phương.”

Thành Tú nghe thấy những lời xúc động của Khánh Kỵ, bất giác cũng cảm động, vội vàng gập người bái tạ. Khánh Kỵ nâng hắn dậy, hơi chần chừ, rồi hỏi hắn: “Ách… Đệ cùng Viên Tố cưỡi ngựa tới đây, trên đường có an tĩnh không? Lệnh tỷ vừa rời khỏi Lỗ quốc, dọc đi trên đường các nước đều có đại chiến, nàng có thể bình an tới đây không?”

Thành Tú chắp tay nói: “Làm phiền công tử quan tâm rồi, gia tỷ tính tình xưa nay luôn tỉnh táo cẩn thận, bên người luôn có mấy trăm võ sĩ trung thành theo bảo vệ, lần này bí mật đi về phương Nam, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ có điều gia tỷ là một nữ tử yếu đuối, đi đường từ tốn, còn phải chậm một chút mới tới nơi, đệ nghĩ không quá nửa tháng là gia tỷ có thể tới đây.”

” Tốt! Tốt!” Khánh Kỵ mặt mày hớn hở, xa cách lâu như vậy, hắn đúng thật là vô cùng nhớ Thành Bích, hiện giờ bên người tuy có Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man một đôi tiểu vưu vật, nhưng mà hai người này lại giám thị lẫn nhau, ai cũng không cho đối phương có nhiều cơ hội tiếp xúc riêng tư với hắn. Khánh Kỵ trơ mắt nhìn hai quả tươi trong veo như nước treo ở trước miệng mà không được ăn, hiện giờ rốt cục có một quả còn ngon miệng kiều diễm ướt át hơn đưa đến miệng.

Mùa xuân, đang lặng yên tới.

Ngày mai sẽ là chiến trường tràn ngập khói lửa, cũng là một mảnh sắc xuân…

Khánh Kỵ vui vẻ thầm nghĩ.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Khánh Kỵ thành công đánh bại âm mưu của Ngũ Tử Tư, chẳng những đoạt lại Na Xứ thành, hơn nữa còn chiêu hàng được toàn bộ binh sĩ quân Ngô đã hết đường lui. Ngô Vương Hạp Lư ở trong thành Dĩnh Đô nghe được tin thì vô cùng giận dữ, lập tức muốn lãnh binh thân chinh, lại bị Ngũ Tử Tư tận lực can ngăn.

Quân Sở ở sông La vốn là đối tượng mà quân Ngô đánh nghi binh, bởi vậy tổn thất cũng không quá nghiêm trọng. Quân Sở thoát khỏi đại nạn, như chim sợ cành cong không dám lưu lại ở gần Dĩnh Đô, bọn họ dời đi về phía Tây Nam, cuối cùng ở Tân Ấp gặp được đại quân cần vương, hai quân hội hợp, cho nên mới đóng quân ở Tân Ấp.

Tử Tây dẫn đại quân ba đường từ Tùy quốc mà tới, chiếm cứ Tân Ấp, Tuyển thành, Chương Vu ba chỗ trọng yếu, bao vây một nửa Dĩnh Đô, liên tiếp gi­ao thủ vài lần với tiên phong quân Ngô có thắng có bại, nhất thời quân tâm dần dần ổn định. Nhưng mà ba địa phương này đều ở phía Bắc Dĩnh Đô, cũng không có tác dụng nếu Cơ Quang chạy về phía Nam.

Khánh Kỵ biết đây là do người Sở sợ hắn muốn ngăn cản Cơ Quang ở lại Sở quốc, lợi dụng người Sở làm hao hết lực lượng của Cơ Quang, cho nên trái lại lại lợi dụng hắn để cản đường Cơ Quang, khiến cho hắn phải gánh chịu áp lực cường đại đến từ quân Ngô.

Lúc này hắn đã có chiến thuyền với cánh buồm và bánh lái, chắc chắn sẽ trở về nước sớm hơn Cơ Quang. Chỉ có điều cần có thời gi­an để đóng thêm chiến thuyền và để binh lính quen thuộc với việc điều khiển, thứ hai là nội tình Ngô quốc như thế nào hiện nay hắn hoàn toàn không biết gì cả, vẫn chờ đợi tin tức của Chúc Dung, Tôn Vũ. Vì không để chủ soái song phương Ngô Sở là Phí Vô Cực và Ngũ Tử Tư sinh nghi, hắn liền tương kế tựu kế, không ngừng phát binh tấn công Ngư Phản, làm ra vẻ muốn chiếm cứ Ngư Phản, lát sau lại dẫn quân xuống phía Nam, làm bộ ngăn trở con đường duy nhất mà ba cánh quân Ngô ở Dã Phụ, Chử Cung, Chương Hoa Thai có thể đi xuống phía Nam.

Người Ngô ở Dĩnh Đô cũng không kinh hoảng, một là Dĩnh Đô lương thảo sung túc, chỉ cần thành không bị phá, không thì thủ thành tới ba năm cũng không thành vấn đề. Thứ hai, từ đường sông Trường Gi­ang quay về nước Ngô nhất định phải đi qua hai con đường là Na Xứ thành và cửa ngõ Ngư Phản, từ đường bộ đi về Ngô có ba con đường, một là đi qua Chương Hoa Thai hoặc Dã Phụ, xuyên qua Vân Mộng trạch (trạch: đầm), một đường khác là đi từ Chử Cung theo hướng Đông Nam, đi qua con đường Hoa Dung nổi danh hậu thế, từ chỗ gi­ao giới Ngô Việt mà về.

Na Xứ thành đã rơi vào tay Khánh Kỵ, từ Ngư Cô muốn quay về bằng đường thủy cũng phải suy xét tới việc mấy vạn đại quân từ Sở về Ngô sẽ có rất nhiều con thuyền trên sông Trường Gi­ang, trong quá trình đi thuyền việc Khánh Kỵ có dẫn binh tập kích hay không lại là vấn đề, nhưng mà đi đường bộ về nước thì lại không có vấn đề mấy, bởi vậy quân Ngô cứ tử thủ ở Ngư Cô. Khánh Kỵ mỗi lần xuất binh tấn công Ngư Phản, Quyền Ấp quân Ngô lại tập kích quấy rối ở đằng sau, quân ở Dĩnh Đô cũng sẽ xuất binh viện trợ, Khánh Kỵ nhân đó mà làm ra vẻ không biết làm thế nào đành lui về Na Xứ thành, cuộc chiến song phương cứ diễn ra dai dẳng không xong.

Trong lúc đó, quân Sở cũng xuất binh tập kích phía sau quân Ngô, nhưng quân Ngô thủ thành Dĩnh Đô rất kiên cố, lại do Ngô Vương Hạp Lư cùng tướng quốc Ngũ Viên tự mình tọa trấn, cho nên quân Ngô trên dưới đều phục vụ quên mình, bọn họ căn bản là không có cơ hội đắc thủ. Khánh Kỵ nhiều lần gửi thư sai sứ sang khiển trách Tử Tây, bảo là làm hỏng việc quân cơ, một cây làm chẳng nên non, Tử Tây tướng quân cũng là cực chẳng nói lên được, hắn tuy là chủ tướng tiền quân, nhưng mà quyền hành trong quân lại là do Phí Vô Cực điều khiển. Hắn mặc dù muốn thay đổi chiến lược, phối hợp với Khánh Kỵ để làm một trận chiến toàn lực, nhưng mà vấn đề là không làm chủ được.

Khánh Kỵ làm ra hành động như vậy chẳng qua là để sau này khi mình thoát ly khỏi chiến trường Sở mà quay về Ngô thì cũng có chút đạo nghĩa mà thôi. Tuy nói rằng mình làm ra vẻ khổ tâm thù địch, nhưng căn bản là không mong muốn hắn mang quân đến phối hợp, Phí Vô Cực bành trướng tư tâm, chính là lại hợp với ý hắn.

Chiến sự địch ta song phương cứ giằng co như vậy, Cơ Quang cũng thúc đẩy nhanh hơn tiến độ vận chuyển tài phú nước Sở, đồng thời bắt đầu thu xếp cuộc đại rút lui phản hồi Ngô quốc. Đúng lúc này, Bá dẫn dắt một nhánh quân đơn độc xâm nhập vào Tùy quốc áp sát Cửu Phượng cốc, ba ngàn tinh binh tiến vào vùng trống phía sau trận doanh của người Sở, đánh cho quân Sở đại bại.

Các thượng khanh, trung khanh, quan lớn địa phương Sở quốc đều tập hợp trong Cửu Phượng cốc. Văn Chủng, Phạm Lãi một là hạ tướng quân, một là huyện tư mã, chức quan chỉ như hạt vừng hạt đậu, ở trong Cửu Phượng cốc lại trở thành hai gã sai vặt. Vậy mà thời khắc mấu chốt lại chính là họ mang theo thân binh của mình xông vào sơn động của Sở Vương, cõng tiểu Sở Vương đào tẩu vào trong rừng sâu rậm rạp.

Bá đến chậm một bước chỉ biết nhìn biển rừng mênh mông mà dậm chân thở dài, cuối cùng đành bắt một đống lớn các thượng khanh, trung khanh bụng to não nhỏ, cùng với những quan viên mục thủ địa phương tới cần vương hộ giá cấp tốc lui khỏi Cửu Phượng cốc, theo đường cũ về Dĩnh Đô. Phí Vô Cực đang khoan thai suất lĩnh trung quân tới Dĩnh Đô nghe nói Cửu Phượng cốc bị tập kích, Sở Vương sống chết ra sao không biết, không khỏi cực kì sợ hãi, lập tức tản nhân mã ra chặn đường lui của Bá, tự dẫn quân chạy về Cửu Phượng cốc, cho nên chuyện Phí Vô Cực tiếp viện Dĩnh Đô đành phải trì hoãn lại. Tử Tây đợi không thấy Phí Vô Cực, đối với mấy lộ quân đã hành quân tới phụ cận Dĩnh Đô lại không có quyền điều động để bố trí một cuộc tiến công đại quy mô, áp lực lên phía Khánh Kỵ lại càng lớn hơn nữa.

Bá chạy về Dĩnh Đô, Cơ Quang đối với chiến quả của hắn rất là tán thưởng. Ngũ Tử Tư đưa ra phán đoán, người Sở nóng lòng vì an nguy của Sở Vương, tạm thời sẽ không phát động tiến công với Dĩnh Đô, vì thế thừa dịp này tự mình lãnh binh tấn công Na Xứ thành. Lộ tuyến quay về Ngô quốc của bọn họ đã được xác định là đi qua Chương Hoa Thai hoặc đi về Chử Cung phía Nam, cũng không cần phải cướp cửa ải hiểm yếu Na Xứ thành, đây chỉ là muốn trước khi về nước tận lực đả kích lực lượng của Khánh Kỵ mà thôi.

Ngũ Tử Tư tập trung quân phòng thủ Ngư Phản, Quyền Ấp, ba đường đại quân hợp công Na Xứ thành, đồng thời bên trong thành Dĩnh Đô cũng đã làm xong chuẩn bị cuối cùng cho việc rút lui. Khánh Kỵ biết Na Xứ thành căn bản không chịu nổi sự công phạt của đại quân, cho nên chủ động tấn công trước, triệu tập trọng binh bảo vệ hai sườn sơn cốc bên ngoài Na Xứ thành, dựa vào địa lợi mà dựng doanh trại quân đội, quyết chiến với quân Ngô, song phương đại chiến ba ngày, tổn thương lẫn nhau đều cực kỳ nghiêm trọng.

Nhá nhem ngày hôm đó, lại chấm dứt một hồi đại chiến, ánh tà dương đỏ tươi chiếu lên mảnh đất, chiến xa vỡ nát, chiến kỳ trơ trọi, thi thể nằm ngang dọc, cùng với kiếm kích trường mâu dựng đứng trong trận giống như cỏ dại, cấu thành một hình ảnh yên lặng thảm thiết. Ngẫu nhiên, ở trong hình ảnh đó sẽ có một vài sĩ tốt tỉnh lại, trong vũng máu bò đi vài bước, run rẩy phát ra tiếng kêu gọi, ở trong gió đêm tựa như tiếng nghẹn ngào của chó hoang.

Đại quân của Ngũ Tử Tư đã lui về phía sau, quay về doanh trại. Đại doanh của Ngũ Viên hình tam giác chia làm ba tòa, trung quân của hắn là lều lớn ở phía sau, bên trái bên phải là hai đạo nhân mã của Quyền Ấp và Ngư Phản, như một đôi sừng thú chỉa ra ngoài, kìm chặt ngọn núi của Khánh Kỵ.

Bố trí như vậy, nếu Khánh Kỵ điều động đại quân tiến công, có thể tránh được hai mặt thụ địch, cũng có thể đồng thời phát động lệnh tiến công tới hai tòa đại doanh, mà trung quân của Ngũ Tử Tư vẫn có thể chiếm thế chủ động, lúc nào cũng có thể cứu viện cho hai tòa quân doanh. Hoặc là hậu doanh trực tiếp tiến lên trước, còn hai tòa quân doanh trái phải từ quân tiên phong biến thành phối hợp tác chiến, từ đó biến thành chủ công.

Trong chủ doanh quân Ngô, dưới lá cờ lớn có chữ Ngũ, Ngũ Tử Tư đang ngắm nhìn ngọn núi xa xa. Mặt trời chiều ngả về Tây, trên mặt đất cũng có những cái bóng kéo dài, nhưng mà phía trên sườn núi vẫn rất sáng rõ, phía bên phải sườn núi, là cờ hiệu và cờ soái của Khánh Kỵ đứng sừng sững.

Nhưng mà Ngũ Tử Tư cũng không nghĩ rằng Khánh Kỵ nhất định sẽ ở sườn núi bên phải. Trải qua một thời gi­an đánh giá, hắn đã phát hiện ra phương pháp tác chiến của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ hiện giờ so với Khánh Kỵ hắn vốn hiểu rõ là hoàn toàn khác nhau. Trước kia Khánh Kỵ dụng binh, phong cách chính là ‘đại khai đại hợp’ (mở là mở hợp là hợp), xưa nay thích lấy quân đường đường chính chính quyết chiến. Hắn khi chỉnh đốn binh mã xuất binh đánh về Ngô quốc, cũng là một đường phất cờ phấp phới, trống trận rền vang, chỉ sợ người khác không biết quân đội của hắn đang ở chỗ nào, người Ngô có thể dễ dàng nắm giữ được lộ tuyến hành quân của hắn.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Chiến pháp của hắn cũng giống như chiến mâu của hắn, cũng không dựa vào chiêu thuật quỷ quái gì mà người ta khó phỏng đoán, mà lấy chiến lực vô cùng dũng mãnh của hắn, dùng thế không thể đỡ, trực tiếp đánh tới đối thủ. Nhưng mà từ khi gặp chuyện trên sông Trường Gi­ang, hắn tựa như thay đổi thành một người khác, hắn lại có thể nén chịu nhục bị sứ giả nước Ngô đuổi đi, ở Lỗ quốc âm thầm sắp xếp một nhánh phục binh; hắn lại có thể sử dụng ba tấc lưỡi mà thỏa hiệp được với chính khách hai nước Lỗ Vệ, đổi được sự viện trợ của bọn họ; hắn một kẻ xưa nay luôn tâm cao khí ngạo, vậy mà lại giống như hai kẻ không tiền đồ Yểm Dư và Chúc Dung, kết minh với kẻ thù truyền kiếp của Ngô quốc là Sở quốc, hơn nữa thời cơ lại rất vừa đúng; từ khi vào Sở đến nay đánh mấy trận với quân Ngô, hắn cũng chưa lần nào không ngại trả giá, quyết chiến đối mặt với quân Ngô. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mưu kế, phàm là có thể sử dụng, hắn đều có thể dùng tới.

Khánh Kỵ hôm nay, đã không còn là Khánh Kỵ khi xưa, một con mãnh hổ, nếu có được mưu kế của hồ ly, vậy lại càng thêm khó chơi. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, từ đội quân chính quy ban đầu của hắn mà thành lập một đội phản quân, vô luận là quân giới lương bổng, hay là quân kỹ chiến lực, so với đội quân tinh nhuệ của Ngô quốc cũng không thua kém tí nào, về mặt sĩ khí thậm chí còn hơn vài phần, điều này khiến cho Ngũ Viên càng thêm kiêng kị với Khánh Kỵ. Điều may chính là, Đại vương chôn vùi Dĩnh Đô, đã lập ra đại công khiến cho thiên hạ phải kiêng nể, chỉ cần ngài có thể bình yên trở về Ngô quốc, tuyên truyền chiến công này ra tứ phía, chắc chắn tầm ảnh hưởng sẽ được mở rộng thêm một bước ra toàn Ngô quốc thậm chí toàn bộ thiên hạ, đến lúc đó, vốn là kế thừa không hợp pháp, cũng sẽ dưới quân công chói lọi mà lên ngôi đường đường chính chính, Khánh Kỵ khó có thể làm gì được nữa.

Sắc trời còn lưu lại một ánh nắng chiều như tia máu, ánh sáng trên ngọn núi đối diện cũng đã biến mất, đứng ở đây cũng không còn nhìn thấy động tĩnh trên núi nữa. Gió thổi lên mái đầu bạc, những sợi tóc vuốt qua những đường cong khuôn mặt như đao khắc của hắn. Không biết tại vì sao, Ngũ Viên có một loại cảm giác, Khánh Kỵ hiện tại nhất định cũng đang đứng trên đỉnh núi, giống như hắn giờ phút này, nhìn chăm chú vào động tĩnh trong quân của hắn.

Ngũ Tử Tư bỗng nhiên mỉm cười, lại phóng tầm mắt nhìn ra dãy núi xa xa, tựa hồ như thăm hỏi với Khánh Kỵ đang đứng sóng đôi với hắn trên đỉnh núi xa xa kia.

“Khánh Kỵ thủ ở chỗ hiểm trở, đã liên tục hai ngày đại chiến cứng đối cứng với ta, cũng không chiếm được lợi thế gì. Nhìn sắc trời thì đêm nay có lẽ có mưa, truyền lệnh xuống quân, ba quân đề phòng, cảnh giới canh gác giãn ra, để phòng ngừa Khánh Kỵ đánh lén.”

“Rõ!” Quan thư kí phía sau vội vàng ghi nhớ mệnh lệnh của Ngũ Tử Tư.

Ngũ Tử Tư quay người lại, ấn kiếm đi xuống khỏi đài quan sát.

Hoàng hôn dần dần buông xuống, giấu những thi thở nằm ngang dọc khắp nơi trên mặt cỏ vào trong bóng đêm. Mây đen che trăng, bắt đầu nổi lên mưa phùn. Trong quân doanh của Ngũ Viên treo cao đèn, một đội binh lính tuần tra mặc áo tơi đi tới đi lui tuần tra khắp nơi.

Ban đêm, Khánh Kỵ quả nhiên thừa dịp trời mưa đột kích, Ngũ Tử Tư vốn mặc nguyên quần áo mà ngủ, nghe thấy tiếng la giết, liền mặc giáp ra khỏi trướng xem, thấy bên tay trái ở chỗ doanh trại quân đội Quyền Ấp tiếng ’sát’ rung trời, cả trại rực lửa, lát sau, có người vội vàng chạy tới bẩm báo, Ngũ Tử Tư nghe được chiến báo, không khỏi nhíu đôi lông mày trắng, nói: “Chỉ tập kích phía bên trái, mà nhân số lại hữu hạn? Sao lại thế được…, lệnh cho hữu quân (quân bên phải) phòng thủ, án binh bất động, canh phòng nghiêm ngặt đánh lén, cánh trái tổ chức phản công, cần phải đánh đuổi đợt tiến công của Khánh Kỵ.”

Chiến đấu giằng co nửa canh giờ, tiếng chém giết bên phía cánh trái dần dần yếu đi, không lâu sau, lại tới doanh trại bên phải bị đánh lén, địch tới cũng không nhiều lắm, tiến công cũng không mãnh liệt, chỉ đánh trống quấy rầy bên ngoài doanh trại, làm như thế hai ba lượt, trong lòng Ngũ Tử Tư đã hiểu rõ, không khỏi cười lạnh: “Đến đi! Phân phó xuống, tối nay ba quân cứ gối mác mà đợi, cẩn thận đề phòng. Khánh Kỵ làm thế này, vừa là kế nghi binh, còn là kế làm binh mỏi mệt, cái gọi là đột kích, thực chất chỉ là giả bộ, chờ tới khi hắn thực sự tiến công, chắc cũng phải sau nửa đêm thậm chí là rạng sáng không thể nghi ngờ!”

Tướng lãnh trong quân Ngũ Tử Tư phần lớn đều có nhiều năm kinh nghiệm chiến trận, đối với phán đoán của Ngũ Tử Tư thì rất đồng tình, vì thế tới tấp lĩnh mệnh, vội vàng an bài xuống dưới. Tới nửa đêm, mưa dần dần ngừng rơi, bên phía Khánh Kỵ đã hoàn toàn đình chỉ quấy rầy đánh lén, ba quân Ngũ Tử Tư đề phòng, cho tới rạng sáng, bên phía Khánh Kỵ vẫn không hề có động tĩnh.

Cho tới khi trời sáng rõ, Ngũ Tử Tư lên cao quan sát, chỉ thấy đại kỳ của Khánh Kỵ ở trên núi tung bay theo gió, từ xa nhìn lại, lờ mờ có thể thấy được binh lính của Khánh Kỵ đứng ở sườn núi, cảnh giới những chỗ hiểm yếu. Ngũ Tử Tư nhíu mày trầm tư, cân nhắc một hồi, không hiểu đêm qua Khánh Kỵ quấy rầy doanh trại là có dụng ý gì, “Chẳng lẽ… mục đích của hắn chỉ đơn giản như vậy, làm cho binh của ta mệt mỏi?”

Lúc này, phó tướng vội vàng đi tới báo cáo: “Tướng quốc đại nhân, quân Khánh Kỵ đã không còn đột kích, hay là chúng ta bỏ phòng bị, để cho ba quân đào bếp nấu cơm, rồi lại tập kết đánh một trận với địch?”

Ngũ Tử Tư đang ở trên đài quan sát bước đi thong thả, cúi đầu nhìn một giọt nước dưới đài, hình ảnh trong giọt nước chính là mây trắng trên không trung, rõ ràng như gương. Phó tướng đứng ở trước đài lẳng lặng chờ, Ngũ Tử Tư cúi đầu trầm tư trong chốc lát, đột nhiên ngẩng đầu, lông mi trắng nhướng lên nói: “Không! Lệnh cho hai cánh quân tả hữu, lập tức tổ chức nhân mã tấn công lên núi! Ta muốn xem, thằng nhóc Khánh Kỵ này rốt cuộc là đang làm cái trò quỷ gì!”

“Rõ!” Phó tướng lĩnh mệnh đi xuống, một lát sau, cờ hiệu được huy động, hai cánh quân tiên phong tả hữu theo hiệu lệnh cờ, lập tức người hô ngựa hý. Hai đạo nhân mã rời khỏi doanh trại, thăm dò tiến công hai sườn trái phải ngọn núi mà Khánh Kỵ đang chiếm cứ.

Không ngờ lần này tiến công, hai đạo nhân mã công dưới chân núi, lại không có ai ngăn cản. Bọn họ sợ trúng kế, lập tức đình chỉ tiến công, vội vàng quan sát một hồi, rồi cho người hồi báo lại Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư nghe vậy cũng thấy kinh ngạc, tình huống kì quái như vậy thật khiến cho người ta khó có thể phán đoán, hắn vội vàng lệnh cho thám mã trinh sát mạo hiểm lên núi thám thính động tĩnh, tới khi một thám mã làm vật hi sinh tự thổi phồng lá gan nơm nớp lo sợ đi lên đỉnh núi, chỉ thấy hai tòa trại lớn của Khánh Kỵ đã không còn ai cả, đại kỳ vẫn đứng sừng sững trên đỉnh núi, những binh lính canh gác đều là dùng cỏ tết lại rồi khoác quân phục lên, trên núi không một bóng người, nhưng mà trên mặt đất xốp sau cơn mưa, lưu lại rất nhiều dấu chân hỗn độn, xem xét những dấu chân đó, đều là dọc theo đường núi lui về phía sau.

Ngũ Tử Tư và các tướng lĩnh thủ hạ nghe được tin tức này không khỏi hai mặt nhìn nhau, hóa ra Khánh Kỵ đêm qua tập kích doanh trại không phải là kế làm binh mỏi mệt, cũng không phải là kế nghi binh, mà là hắn lui quân ra khỏi vùng khói lửa. Khánh Kỵ thừa dịp ban đêm dời đi, chơi kế thành trống, mục đích của hắn là gì, người của hắn đang ở nơi nào?

Ngũ Tử Tư thấy quân địch ở trên ngọn núi thừa dịp ban đêm bỏ trốn, liền cảm thấy tình hình không ổn, nhưng để cẩn thận, hắn vẫn cho người khống chế hai bên trái phải ngọn núi, sau đó mới dẫn đại quân ra khỏi cốc mà đánh tới Na Xứ thành. Cư dân Na Xứ thành không tấn công mà chỉ mở cửa nghênh đón, có một người tuổi cao vọng trọng bên trong thành khi thấy Ngũ Tử Tư thì run rẩy, trình lên một phong thư đình chiến của Khánh Kỵ.

Ngũ Tử Tư đọc xong bức thư vội cho người chạy nhanh tới Bách Tân hồ để thám thính động tĩnh, nơi đó chỉ còn lại một doanh trại rỗng, đại quân Khánh Kỵ quả nhiên chẳng biết đi đâu rồi. Ngũ Tử Tư không dám chần chừ, lập tức dùng tốc độ cao nhất quay về Dĩnh Đô báo cho Cơ Quang, Cơ Quang nghe thấy tin tức thì kinh hãi. Ngũ Tử Tư cùng Bá cẩn thận tính toán một hồi, bởi vì Trường Gi­ang ngoằn ngoèo, lộ trình có nhiều khó khăn, cho nên Khánh Kỵ mặc dù đi đường thủy cũng không để nhanh hơn được bọn họ hành quân đường bộ. Tuy rằng Khánh Kỵ đi sớm hơn một ngày, nhưng mà đi đường thủy về nước Ngô, so với bọn họ đi đường bộ thì hẳn phải chậm hơn dăm ba ngày.

Cho ra được kết luận này, Cơ Quang mới hơi an tâm, hắn lập tức hạ lệnh điều động hết thảy xe lừa trâu ngựa của người nước Sở, đại quân hướng phía Đông đi về nước, trước khi đi còn hỏa thiêu hoàng cung Dĩnh Đô vốn đã bị hắn cướp bóc phá hủy chẳng còn gì. Đợi khi Phí Vô Cực tìm thấy Sở Vương, che chở Sở vương trở về, khi đại quân Sở về tới Dĩnh Đô, thì quân Khánh Kỵ và quân Ngô cũng đã sớm theo hai đường thủy bộ tới Ngô quốc rồi. Hoàng cung vốn ở trong thành Dĩnh Đô bây giờ chỉ còn sót lại một mảnh phế tích đổ nát thê lương.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Quân biên giới Tây Bắc của người Sở đang phối hợp với quân Tần, dốc sức chiến đấu với đại quân Tấn quốc đang đi xuống phía Nam. Mà một vài bộ lạc Tam Miêu ở phía Nam người Sở, thậm chí ngay cả một vài tiểu bá quốc vốn thần phục Sở quốc cũng đã bắt đầu rục rịch ổn định quốc nội. Tình hình như vậy, cho nên không thể tác chiến nhiều mặt, vì thể tiểu Sở vương và các quần thần vừa mới trở về Dĩnh Đô liền gặp phải một sự lựa chọn: triệu tập đội quân cần vương đánh theo quân Ngô ở phía Nam, lợi dụng cuộc tranh đoạt vương vị của Khánh Kỵ cùng Cơ Quang mà nhân cơ hội tiêu diệt quân đội của Cơ Quang; hay là lưu lại bảo vệ xung quanh đô thành, sau đó phân nhân mã ra làm hai, một bộ phân đi đàn áp bộ lạc Tam Miêu cùng với những tiểu bá quốc đang có phản tâm, một bộ phận khác phái đi tiếp viện cho quân biên giới Tây Bắc, đánh cho người Tấn về chầu ông bà ông vải.

Cuộc thảo luận rút ra được một nhất trí lạ thường, gần như tất cả công khanh đại thần đều lựa chọn con đường thứ hai. Lý do là bởi sự cường đại của Tấn quốc, người nước Ngô chỉ như một con sói dưới chân một con voi. Con sói có thể tha đi một miếng thịt, còn con voi lại có thể san bằng cả gi­ang sơn Sở quốc. Nếu người Tấn đả bại người Tần, Tề Tấn liên quân đánh xuống phía Nam, thì thế cục toàn bộ thiên hạ sẽ thay đổi, Sở quốc mất nước cũng không có gì là lạ.

Về phần Ngô quốc thì họ lại không dám mạo hiểm, chi bằng cứ để mặc cho Khánh Kỵ cùng Cơ Quang tự giết lẫn nhau, cho dù là ai thắng thì cũng là thắng thảm, khi đó tuyệt đối sẽ không có lực lượng nào lại một lần nữa xâm nhập vào Sở quốc. Sở quốc nếu kết minh với Tần đả bại liên quân Tề Tấn, thì chính là bá chủ thiên hạ, khi đó quay lại đối phó với Ngô quốc chỉ dễ như trở bàn tay, huống chi, Sở quốc gặp phải đại nạn, cũng cần phải ổn định lại bên trong. Một hồi thương nghị xong xuôi, tiểu Sở Vương nghe thấy ai nói cũng có đạo lý, cuối cùng đành nhờ Phí Vô Cực làm chủ, lựa chọn quyết định thứ hai.

Những công khanh đại phu đưa ra lựa chọn như vậy, chân chính là có người sợ sự hung mãnh của người Ngô; có người quả thật là tính toán lâu dài, cảm thấy rằng nếu chưa giết đi người Tấn thì cảnh nội nước Sở vẫn còn bị uy hiếp; có người lại bởi vì gia chủ bị Bá bắt đi, bắt làm tù binh, ước gì gia chủ vĩnh viễn không cần trở về, gia tộc lại phân phối lại quyền lực, chính mình là tinh anh trong gia tộc có thể được phân một chén canh, đủ loại lý do các loại, phần lớn là không nói ra với người ngoài.

Phí Vô Cực chờ các công khanh thống nhất ý kiến, lập tức lấy danh nghĩa Sở vương, sai Tử Tây dẫn một lộ quân đi Tây Bắc tiếp viện, đối kháng quân Tấn, sai Yên tướng soái dẫn quân đi phía Nam đàn áp những bộ lạc Tam Miêu đang rục rịch cùng với những bá quốc dã tâm bừng bừng, rồi lập tức lấy cớ thắng lợi đuổi đi được người nước Ngô, xếp các thân tín và người của mình vào khắp các vị trí, chính mình lại vất vả lao tâm khổ tứ, chẳng những tiếp nhận chức lệnh doãn của Nang Ngõa, hơn nữa còn một thân mà kiêm cả tam công, quyền hành khuynh đảo đương triều, uy phong không ai bì kịp.

Đại quân Khánh Kỵ từ Bách Tân hồ nhập vào Trường Gi­ang, đi xuống hơn mười dặm mới giương buồm đi nhanh. Trên dòng Trường Gi­ang, mấy trăm chiến hạm giương cờ, đón gió đi về phía Đông. Ngẫu nhiên có một vài chiếc thuyền đánh cá trên bờ sông, thấy một đại đội chiến hạm không cần mái chèo trước kia chưa từng thấy, một đám không khỏi trợn mắt há hốc mồm. Gió thổi phần phật, kích động cánh buồm, hơn nữa dòng chảy của sông vốn là về hướng Đông, cho nên tốc độ cũng rất mau.

Ban đầu Yểm Dư công tử còn muốn cho người chèo thuyền, để cho thuyền đi nhanh hơn một ít, chỉ có điều chiến thuyền kiểu mới này, những người chèo thuyền vẫn còn chưa quen sử dụng, cho người chèo thuyền tuy rằng tốc độ có nhanh hơn, nhưng nắm giữ bánh lái còn chưa tốt, một con thuyền phía trước thẳng tắp nhắm ngay vào đá ngầm mà đâm vào. Cũng may là đã được Khánh Kỵ gợi ý, chiến hạm nào cũng được thiết kế một khoang thuyền kín, cho nên chiến thuyền đó cũng không đến mức chìm nghỉm, nhưng Khánh Kỵ không có thời gi­an sửa thuyền, liền để cho những sĩ tốt trên thuyền đó ở lại phía sau sửa tàu, đại quân lại chậm rãi đi tới Gi­ang Đông, Yểm Dư cũng không dám đưa ra chủ trương lung tung nào đó nữa.

Ngô Vương Hạp Lư sớm đã làm đủ loại bố trí cho đường lui, một đường đi không gặp chút trở ngại nào. Tới khi hắn đi qua Sào thành, sắp vượt Gi­ang Đông để tiến vào đất Ngô quốc, thì những thủ vệ mới được bố trí bên bờ sông cho biết đội thuyền Khánh Kỵ không ngờ đã đi qua đây từ ba ngày trước rồi. Ngô Vương Hạp Lư nghe thấy thế thì tim như muốn nhảy ra, hắn vô luận thế nào cũng không nghĩ ra, thuyền của Khánh Kỵ sao lại có thể chạy nhanh hơn hắn. Tới khi nghe binh lính phòng thủ kia kể rõ việc chứng kiến đoàn thuyền Khánh Kỵ, thấy có chỗ khác thường, Hạp Lư cùng Ngũ Tử Tư, Bá các tướng hai mặt nhìn nhau, bọn họ mặc dù còn chưa biết Khánh Kỵ đụng tay đụng chân gì vào thuyền, nhưng cũng mơ hồ đoán ra được hắn dựng trên thuyền một cái cột cao, chắc là trên đó treo một tấm ván gỗ thật lớn.

“Sức gió, đây là mượn sức gió mà đi…, hắn… sao lại có thể nghĩ ra chủ ý như vậy, từ khi gặp chuyện trên Trường Gi­ang, Khánh Kỵ giống như thay đổi thành con người khác, hay là có thần trợ giúp?”

Một ý niệm xuất hiện, trong lòng Ngũ Tử Tư chấn động, nhưng hắn lập tức phủ định đi ý nghĩ của chính mình: “Không có khả năng, nếu thần linh thực có mắt, sao có thể trơ mắt ngồi xem Ngũ gia ta một nhà trung liệt lại bị đồ sát, Khánh Kỵ… hẳn là có một cao nhân ẩn dật tương trợ, mới có thể có biến hóa như thoát thai hoán cốt như vậy.”

Ngũ Tử Tư nghĩ đến đây, vội nói: “Đại vương không nên kinh hoảng, từ khi biết Khánh Kỵ ở Lỗ quốc có một đội phục binh, thái tử điện hạ đã tăng cường đề phòng Cô Tô thành. Thái tử điện hạ túc trí đa mưu, Phu Khái công tử anh dũng thiện chiến, Cô Tô thành mà thần mới xây, lại chính là hùng thành đệ nhất Gi­ang Đông, Khánh Kỵ cho dù chạy về Ngô quốc sớm hơn chúng ta mấy ngày, cũng không thể công được Cô Tô thành.”

Nói tới đây, hắn vừa kiêu ngạo vừa tự phụ nói: “Với sự hùng vĩ hiểm trở của Cô Tô thành, chỉ cần phòng thủ thỏa đáng, không có mười vạn đại quân vây khốn ba năm, thì không thể đoạt thành mà vào. Chúng ta hiện tại trở về, lại có thể ngăn đường lui của Khánh Kỵ, khiến cho hắn hai mặt thụ địch, chắc chắn sẽ bị giết dưới thành Cô Tô.”

Mặc dù được Ngũ Tử Tư xoa dịu, nhưng trong lòng Hạp Lư vẫn không yên, hắn lập tức phân phó qua sông, đẩy nhanh hành trình tiến về Cô Tô thành. Lúc này, đại quân Khánh Kỵ cũng đã đổ bộ lên bờ, ngày đêm chạy tới Cô Tô, cách Cô Tô thành chỉ còn hai ngày lộ trình.

Lúc này Tôn Vũ đang dẫn quân tới Thái Hồ nghỉ ngơi và chỉnh đốn, cũng phái nhân mã đi ngóng chờ hắn đến. Sau khi Chúc Dung bí mật chạy tới Vũ Nguyên để xúi giục quân trông giữ nơi đó tạo phản, Tôn Vũ cùng với vài vị lữ soái của hắn chia nhau suất lĩnh vài đội nhân mã xen kẽ phía sau, hội hợp ở bờ sông, biết Phu Khái vẫn tọa trấn ở Hàn Ấp chưa trở về, nghĩ rằng đây là một cơ hội khó có được, liền phái một đội nhân mã ra vẻ là một đội bán dạo đi vào Cô Tô thành, trong ngoài phối hợp cướp lấy Cô Tô.

Cho đến khi tới được Cô Tô thành, liên hệ với mật thám, biết được bố trí tường tận của Cô Tô thành, Tôn Vũ mới biết Cô Tô thành dễ phòng thủ khó tấn công, giống hệt như tường đồng vách sắt, sự hùng vĩ hiểm trở còn hơn xa khả năng dùng ngôn ngữ để miêu tả của mật thám. Đô thành này là do Ngũ Tử Tư tự mình đốc thúc xây dựng, thập phần chú trọng vào thiết kế phòng ngự quân sự, Phù Sai cũng có bản lĩnh thủ thành, Tôn Vũ vừa tới Cô Tô thành biết được những tư liệu này, liền biết phỏng đoán ban đầu của mình có khi là chính xác, tòa thành này căn bản là không thể dùng binh mã của hắn mà mạnh mẽ công phá được.

Phù Sai là một người trẻ tuổi chưa tới nhược quán lấy thân phận thái tử giám quốc, tọa trấn Cô Tô thành. Trong việc phòng ngự Cô Tô thành, đã biểu hiện ra khả năng quân sự trác tuyệt của hắn. Phù Sai đã nhận được tin tức của những binh lính trốn về từ biên cảnh Ngô Việt, Tôn Vũ còn chưa tới, Cô Tô thành đã tiến vào trạng thái toàn diện chuẩn bị cho chiến tranh.

Sự cảnh giới mở rộng ra cả ba mươi dặm xung quanh Cô Tô ngoài thành, Phù Sai di chuyển toàn bộ người nước Ngô trong vòng ba mươi dặm vào trong thành, tất cả nhà cửa trong vòng ba mươi dặm toàn bộ san bằng, đốt hết toàn bộ cây cối, hạ độc dược vào nước giếng, thực hiện vườn không nhà trống.

Cách mười dặm xung quanh Cô Tô thành bắt đầu dựng lầu quan sát, cứ cách trăm bước lại dựng một lầu quan sát, trên là ba gã Ngô quân, phụ trách trinh sát cảnh giới, ban ngày phát hiện quân địch thì phất cờ cảnh báo, ban đêm phát hiện quân địch thì đốt lửa cảnh báo. Muốn phái vào một đội nhân mã, dùng vũ lực cướp lấy cửa thành, sau đó phục binh bên ngoài thành mạnh mẽ đoạt thành là không có khả năng. Đại quân nếu tới, từ lúc ở ngoài mười dặm đã bị phát hiện, quân Ngô lập tức sẽ đứng đầy tường, một đội phục binh cho dù có vào được Cô Tô thành, thì cũng làm gì có cơ hội tiếp cận cổng thành?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Ở dưới lầu quan sát, Phù Sai còn thiết lập các con đường chính cùng trạm kiểm soát, phụ trách kiểm tra những dân chúng, thương lữ, tín sứ các nơi hàng ngày ra vào Cô Tô thành, đồng thời còn phái Ngũ Trường mang theo nhiều tiểu đội năm người, trinh sát tất cả mọi thứ xung quanh Cô Tô thành kể cả gió thổi cỏ lay. Nghiêm mật phòng ngự như thế, cho dù ngươi có bản lĩnh thông thiên, cũng đừng mơ tưởng có thể thần không biết quỷ không hay mà tiến tới gần Cô Tô thành nửa bước.

Cô Tô thành chu vi bốn mươi bảy dặm, mười sáu cổng thành thủy bộ, ở các nước chư hầu phương bắc cũng được coi là một thành lớn. Thành trì chắc chắn nguy nga, trong ngoài hai lớp tường dày, thành hào (sông đào bảo vệ ngoài thành) lợi dụng nguồn nước dư thừa của Gi­ang Nam cùng với những hồ nước phụ cận, chỗ hẹp nhất tới mười bảy trượng, chỗ rộng nhất căn bản là lấy luôn hồ nước làm thành hào, rộng tới hơn 50 trường, trở thành một cái rào chắn, khiến cho không dễ mà đánh tới được dưới thành.

Thành hào cách tường thành ba trượng, dưới nước cắm những cây trúc nhọn ngắn dài không đồng nhất. Ở giữa thành hào và tường thành có thêm một dãy tường thấp, vào thời chiến có thể giấu quân sĩ, phối hợp với quân trên thành bắn giết địch nhân, lại có thể gây trở ngại cho quân địch dùng thang. Ở dưới chân tường, còn sắp xếp một dãy cọc gỗ, vừa có thể cản trở địch nhân bấu vào tường thành vừa dùng để đâm chết khi địch nhân rơi xuống.

Tiếp đó mới là tường thành Cô Tô, đây là lá chắn thành trì cuối cùng. Tường thành Cô Tô so với tường thành Khúc Phụ Lỗ quốc còn cao hơn vài phần, cao tới năm trượng, rộng ba trượng, hai sườn có chỗ giấu binh, có lỗ châu mai để bắn tên. Trên tường thành mỗi hai mươi trượng lại xây một tòa lầu các, dùng để tiêu diệt những kẻ địch đứng ở góc chết và mang tác dụng giáp công từ nhiều phía. Chân tường sâu hơn mười trượng, cho dù có bị đào rỗng, cũng không mất trọng tâm sụp xuống mà chỉ lún xuống.

Về phần cổng thành, Cô Tô thành có mười sáu cổng thành thủy bộ, đều là những cổng thành kép trong ngoài, ngoài ra còn bố trí cánh cổng treo, cầu treo, cơ quan điều khiển đóng mở cầu cổng. Ở trên cổng thành chắc chắn rất nặng còn được bố trí những lỗ bắn, vì để phòng cháy, cổng thành được bọc đồng đen, cùng một hàng dài đinh tán gia cố.

Tôn Vũ nghe thấy những tin tình báo như vậy thì không khỏi thầm cả kinh, hắn vốn tưởng rằng Cơ Quang dẫn dắt rất nhiều quân Ngô đi tới nước Sở xa xôi, quân binh chủ lực ở trong nước hẳn là phải lưu thủ ở biên giới Ngô Việt, lại thêm người Đông Di làm loạn, trước mắt thu hút rất đông nhân mã tới phòng ngự ở ven bờ Trường Gi­ang. Quân phòng thủ bên trong thành Cô Tô vốn đã cực hữu hạn rồi, chỉ cần nhanh chóng trà trộn vào trong Cô Tô thành, là mình có khả năng thừa cơ hội. Nhưng mà Ngũ Tử Tư không tiếc nguồn vốn xây dựng ra tòa đại thành Hạp Lư này, thực đúng là đã phát huy những phương diện phòng thủ thành trì lên tới cực hạn.

Tôn Vũ tính toán sơ qua một chút, nếu cho hắn đến thủ thành, với sự hùng vĩ hiểm yếu của Cô Tô thành, cho dù có mười vạn đại quân vây thành, hắn cũng chỉ cần 4000 lính, là có thể phong tỏa được nhuệ khí của cường địch. Mà bên trong thành Cô Tô hiện tại quân phòng thủ có tới 9000, mà ngay cả nam tử bình dân, phụ nữ khỏe mạnh, thậm chí người già trẻ em cũng có thể lên tường thành. Cư dân được sung làm phụ binh, hậu cần, tạp dịch có thể lên tới sáu vạn, cho nên hạ được Phù Sai là việc không đơn giản.

Mà Tôn Vũ thì sao, trong tay của hắn chỉ có không tới tám ngàn binh mã, còn phải đề phòng quân Ngô ở Hàn Ấp phía Bắc, Ngự Nhi thành phương Nam đánh về cứu viện cho Cô Tô. Hai mặt thụ địch, binh lực hữu hạn, làm sao có thể đánh hạ được Cô Tô?

Một khi đã biết được tình huống, trong lòng Tôn Vũ đã bắt đầu mưu tính sách lược mới. Hắn một mặt lợi dụng mạng lưới tình báo mà Thành Bích phu nhân gi­ao cho hắn để nắm được mọi tình hình, nghe ngóng tin tức từ Khánh Kỵ, một mặt hủy bỏ kế hoạch thử tấn công Cô Tô, trực tiếp dẫn quân lách qua Cô Tô, bắt đầu gạt bỏ những đạo quân Ngô đóng ở bên ngoài Cô Tô.

Hoằng Thượng, Một thành, núi Cô Tô… Tôn Vũ đánh vòng quanh Cô Tô thành, đánh cho những quan binh vệ thành* đóng quân xung quanh Cô Tô hoa rơi nước chảy. Nhưng mà Phù Sai ở bên trong Cô Tô lại rất trầm tĩnh, căn bản không để ý tới khiêu khích của hắn, không điều người nào ra ứng chiến, mà chỉ liên tiếp phái ra ba đội tín sức, điều Vương thúc Phu Khái từ Hàn Ấp trở về thành giải vây.

(Vệ thành: Các thành phòng vệ, thường đóng xung quanh một thành lớn trung tâm)

Trải qua vài trận đại chiến, quân đội trong tay Tôn Vũ cũng đã chịu tổn hại, binh lính giảm bớt, thương binh gia tăng, cần phải nghỉ ngơi và hồi phục. Một ngày này, Tôn Vũ dẫn binh vào Thái Hồ tạm nghỉ chỉnh đốn lại, liền có tai mắt đưa tới tin tức, đại quân Khánh Kỵ đã đổ bộ lên bờ Trường Gi­ang, một đường đi nhanh, chỉ còn cách nơi này hai ngày lộ trình.

Tôn Vũ nghe thấy tin báo như vậy thì vui mừng giãn đôi chân mày, hắn lập tức ở trong trướng mở tấm bản đồ da dê ra xem lộ tuyến hành quân của Khánh Kỵ, hoan hỉ nói: “Công tử có thể đi nhanh hơn Hạp Lư, cơ hội là rất lớn.”

Hắn bỗng nhiên ngẩng đầu nói: “Cơ Quang hiện ở nơi nào?”

Thám tử kia nói: “Chưa có được tin tức của Cơ Quang.”

Tôn Vũ nhướng hai hàng lông mày, phân phó xuống: “Nhanh chóng tìm hiểu động thái các lộ quân Ngô của Cơ Quang, Phu Khái, Ngự Nhi thành, một khi có tin tức, phải lập tức hồi báo.”

“Tuân mệnh!” Trinh sát kia vội vàng lui ra.

Tôn Vũ lại cúi đầu nhìn kỹ lên bản đồ nước Ngô, trầm ngâm một lát, lấy tay chỉ trỏ lên bản đồ, cũng không ngẩng đầu lên nói: “Anh tướng quân, ngươi tạm lĩnh toàn quân nghỉ ngơi phục hồi, bản tướng dẫn một đội nhân mã đi nghênh đón công tử, sau khi vào Ngô phải dựa vào trận đánh đầu tiên, sắp đánh rồi, trận chiến này quan hệ rất trọng đại, ngươi phải cẩn thận chuẩn bị.”

“Mạt tướng tuân mệnh!”

Trải qua một thời gi­an tiếp xúc, Anh Đào vốn luôn tâm cao khí ngạo, đối với vị Tề quốc võ sĩ xấp xỉ tuổi của mình đã hoàn toàn phục tùng. Hai người bọn hắn vốn là tương đương, luận về lai lịch thì Anh Đào còn trên Tôn Vũ, khi Khánh Kỵ bổ nhiệm Tôn Vũ làm chủ soái toàn quân, Anh Đào vốn cũng có chút không phục, nhưng bây giờ cũng đã cam tâm tình nguyện kính hắn làm chủ tướng, vừa nhận được quân lệnh, lập tức chắp tay lĩnh mệnh.

Bên trong thành Cô Tô, Ngô thái tử Phù Sai lúc này đang tiếp kiến sứ thần của Việt quốc. Việt quốc đại phu Linh Cô Phù ăn mặc long trọng, quan mão chỉnh tề, hành lễ với Phù Sai nói: “Đông hải thần quốc Việt Vương Duẫn Thường hạ thần Linh Cô Phù, tham kiến đại Ngô thái tử điện hạ.”

Phù Sai toàn thân hoa phục, ấn kiếm ngồi bên cạnh vương vị đại vương, cười lạnh nói: “Linh Cô Phù, Việt quốc là nước phụ thuộc Ngô quốc ta, vốn một năm phải yết kiến hai lần, tiến cống gạo thóc tiền tài, cho tận thần lễ. Lần đầu yết kiến trong năm nay lại mãi tới tận bây giờ, ta nghe nói ngươi vào thành chỉ mang theo năm cỗ xe ngựa, hay là đã cho rằng Ngô quốc ta trong ngoài đều khốn đốn, cho nên tới để rình động tĩnh sao? Ha hả, ngươi xem thành Cô Tô của ta sừng sững như ngọn núi, Khánh Kỵ một thân một mình có thể công được sao?”

Linh Cô Phù hoảng sợ cả kinh, vội vàng phất tay áo hành lễ nói: “Thái tử điện hạ thứ tội, thần quốc Đại vương trung thành và tận tâm với Ngô quốc, luôn thủ thần lễ, không dám có chút dị tâm.”

Hắn nói tới đây, thần tình lại trở nên u sầu nói: “Hạ thần không dám giấu diếm điện hạ, Việt là nước nhỏ ít dân, thực lực một nước hữu hạn, năm trước lại gặp nạn sâu bệnh, thu hoạch không nhiều, năm nay lễ vật yết kiến không cách nào kiếm được, cho nên mới kéo dài tới tận bây giờ. Phải tới khi bọn chúng thần đề nghị với vua, Ngô quốc là nước lớn Gi­ang Đông, gạo cá sung túc, thực lực hùng mạnh, là thần tử chỉ cần dành hết tâm ý, thì ngay cả lễ vật có thiếu một chút, Đại vương thượng quốc cũng sẽ không trách tội. Vua của chúng thần nghe thấy vậy, mới thuận theo đề nghị của hạ thần, từ trên dưới Việt quốc, tuyển năm mươi nữ tử tuyệt sắc làm lễ vật.”

“Hả?” Phù Sai là người có tính mưu lợi, nghe thấy lời này không giật mình, vội hỏi: “Các ngươi năm nay tiến cống cho phụ vương ta năm mươi nữ tử?”

Linh Cô Phù chỉnh lý lại nói: “Việt quốc tiến cống năm mươi mỹ nữ, ba mươi người tiến dâng cho Ngô quốc Đại vương, hai mươi người tiến dâng cho thái tử điện hạ.”

Sắc mặt của Phù Sai lúc này mới nhất thời dịu lại, ha hả cười nói: “Duẫn Thường lão thất phu, thật còn biết thức thời. Ha ha, mang lễ vật của ngươi vào điện, để cho bản thái tử xem, nước Việt nghèo nàn ngu dốt các ngươi, có được mỹ nữ như thế nào.”

“Dạ! Hạ thần tuân mệnh!” Linh Cô Phù không thèm để ý đến lời nói vũ nhục của hắn, chỉ mỉm cười chắp tay đáp lại.

Cửa Nam Cô Tô thành mở ra, một hàng hơn một trăm người giương cờ nước Việt ra khỏi Cô Tô thành, phía sau cánh cửa nặng trịch đóng lại ầm ầm, Linh Cô Phù buông lỏng đầu vai, thầm thở ra một hơi lạnh. Phó tướng bên cạnh hắn quay đầu lại nhìn thoáng qua Cô Tô đại thành sâm nghiêm, thấp giọng nói: “Phù Sai tiểu tử này, trong lúc nguy cấp còn có lòng thanh thản đùa bỡn nữ sắc.”

Linh Cô Phù nói: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan - anh hùng cũng khó qua được ải mỹ nhân, son phấn làm giáp trụ, giường chiếu làm chiến trường, đối phó với một nam tử tự cho là anh hùng như vậy, mỹ nhân chỉ cần nhăn mặt cười, cũng như là kiếm kích. Huống chi Cô Tô đại thành này đúng thực là phòng thủ kiên cố, theo như ta thấy, Khánh Kỵ tuyệt đối khó mà công thành được.”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Phó tướng bên cạnh Linh Cô Phù động sắc mặt nói: “Tướng quân nói, chúng ta có còn cơ hội ở Ngô quốc không?”

Ánh mắt Linh Cô Phù chợt lóe, từ từ nói: “Khánh Kỵ thế yếu, tự mình không làm nên chuyện. Việt quốc ta nếu muốn chờ hai hổ tranh đấu, từ giữa thủ lợi, thì nhất định phải giúp yếu kháng mạnh, khiến cho bọn họ lưỡng bại câu thương. Chờ quay về gặp Đại vương, trước tiên bình tĩnh chờ xem biến, Khánh Kỵ nếu có thể có triển vọng, chúng ta sẽ phát binh tương trợ, đâm một cây châm vào trong tâm lý quân Ngô.”

Phó tướng của Linh Cô Phù nghe vậy liên tiếp gật đầu, đoàn xe của hai người càng lúc càng đi xa, ngẫu nhiên quay đầu lại, nhìn thấy tòa Hạp Lư đại thành đứng sừng sững ở đằng kia, khóe miệng hai người không khỏi lộ ra một nụ cười giống như lang sói.

Khánh Kỵ suốt đường hành quân gấp gáp, không tới mấy ngày đã tới Yểm thành, cách nơi này không xa là Diên Lăng. Diên Lăng Quý Tử, chính là Vương thúc Quý Trát của đương kim Ngô Vương Hạp Lư, nổi danh trong các nước là quân tử lương thiện, uy vọng to lớn, ở Ngô quốc không có ai cao hơn. Để bày tỏ kính ý với Quý Tử, Ngô Hạp Lư không dám trú binh ở Yểm thành, sợ khiến cho người ta nghi ngờ hắn có lòng muốn giám thị Quý Tử, cho nên đây là một tòa thành không có binh lính, chỉ có một vài quan lại địa phương cùng với một ít tiểu tốt trị an, Khánh Kỵ có thể không đánh mà giành được thành.

Khánh Kỵ đại quân dọc đường đi thuyền, sĩ tốt cũng không mỏi mệt, nhưng mà sau khi lên bờ hành quân mấy ngày, toàn bộ đều đi bằng hai chân, đến đây phải nghỉ tạm một đêm, nếu không khi tới Cô Tô thành cũng không còn lực mà chiến đấu tiếp. Khánh Kỵ dàn xếp đại quân hạ trại, nhớ tới lúc trước Nhâm Nhược Tích đã từng đề nghị hắn mượn dùng sự tương trợ của Diên Lăng Quý Tử, chần chừ một lúc, liền triệu đến các vị tướng Yểm Dư, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, thương nghị có nên hay không nên nhờ sự giúp đỡ của Quý Tử - người đã đóng cổng thành tự thủ, quyết ý cả đời không qua lại với triều đình Ngô quốc. Khánh Kỵ vừa mới nói ra tâm ý, đã có quân tốt vội vàng tới bẩm báo: “Khởi bẩm điện hạ, ngoài thành có một đạo nhân mã, người cầm đầu tự xưng là Tôn Vũ, xin được cầu kiến!”

Khánh Kỵ nghe nói Tôn Vũ đã tới, không khỏi quá đỗi vui mừng, vội vàng tự mình ra ngoài, mở cổng thành nghênh đón một hàng hơn một trăm người của Tôn Vũ vào thành. Tôn Vũ so với lần chia tay trước thì gầy đi một chút, nhưng mà hai mắt sáng ngời hữu thần, nhìn vào đó có một loại khí chất khác với năm xưa, đó là một loại khí chất quân nhân được tôi luyện qua sát phạt chiến trường.

Trước kia, hắn mặc dù chất đầy chiến lược binh thư trong bụng, nhưng lại chưa từng có cơ hội được mang binh đi thực tiễn. Hiện giờ mấy tháng này từ luyện binh đến mang binh, tự mình sắp xếp và chỉ huy mấy trận chiến đấu, hắn rốt cuộc đã dần dần thành thục.

Khánh Kỵ nhìn thấy bộ dáng của hắn như vậy thì vô cùng sung sướng, thế gi­an này chẳng có một ai không phải trải qua tôi luyện, từ khi sinh ra đã là kỳ tài, con người hoàn hảo, thánh nhân. Nếu Khổng Khâu chu du các nước được một vị quân chủ nào đó trọng dụng, như vậy trên thế gi­an sẽ không còn có Khổng thánh nhân. Những cuốn sách Xuân Thu sẽ chỉ chú thích một chút: Ở một nước nào đó có một vị hiền đại phu, họ Khổng tên Khâu tự Trọng Ni, một vài nét bút văn tự mà thôi. Tôn Vũ cũng là như vậy, từ khi Khánh Kỵ chết đi sống lại, nhân sinh của Tôn Vũ cũng xảy ra biến hóa. Khánh Kỵ vốn còn có chút lo lắng liệu có phải nếu mình cải biến nhân sinh của hắn, thì trên đời từ nay về sau sẽ thiếu đi một quyển “Binh pháp Tôn Tử”, lịch sử thiếu đi một vị binh thánh Tôn Vũ. Hiện giờ xem ra, lo lắng này tựa hồ như là dư thừa rồi.

Khánh Kỵ nắm tay Tôn Vũ tiến vào lều lớn, Tôn Vũ mời Khánh Kỵ ngồi lên ghế trên, còn chính mình thì đứng nghiêm nghị trong trướng, sau đó quỳ một gối xuống đất, chắp tay thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, nói: “Tôn Vũ vi phạm quân lệnh của công tử, không theo kế lúc trước mà tiến công Cô Tô, thỉnh công tử trị tội.”

Khánh Kỵ vội vàng hai tay nâng hắn lên, nói: “Trường Khanh không nên như thế, làm ngoài quân mệnh không phải không được, ta tin rằng ngươi làm thế tất phải có nguyên do. Đến đến đến, ngồi xuống nói chuyện.”

Ánh mắt Tôn Vũ lộ ra thần sắc cảm động, Khánh Kỵ kéo hắn ngồi cùng chiếu, nói sơ qua về tình hình ở nước Sở, sau đó hỏi về thế cục Ngô quốc. Nghe Tôn Vũ nói hắn đã dụ được Phu Khái tới Hàn Ấp, sau đó mượn dùng mấy con thuyền lớn chở muối của Tề quốc để vận chuyển binh, gián tiếp ra phía sau địch, tránh gặp địch chính diện, rồi phân tán đột kích tới dưới thành Cô Tô, nơi nơi đều nguy hiểm, khiến các tướng nghe thấy không khỏi khát khao.

Tới khi nói về tình hình phòng thủ thành kiên cố của Cô Tô thành, sắc mặt của đám người Khánh Kỵ, Yểm Dư, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử đều trở nên ngưng trọng. Yểm Dư công tử giật mình nói: “Khó trách Cơ Quang luôn đối với Ngũ Tử Tư nói gì nghe nấy, người này thật sự là nhân tài, chỉ trong vòng một năm, đã kiến tạo được một tòa đại thành như vậy, thực là một chuyện vĩ đại chưa từng có ở Ngô quốc ta trước nay. Chỉ có điều… đến lúc này tất phải hao hết tài lực Ngô quốc ta, khó trách Cơ Quang giống như phát điên, hận không thể vác cả Dĩnh Đô trở về Ngô quốc.”

Khánh Kỵ liếc mắt nhìn hắn, thầm nghĩ: “Đâu chỉ có Ngũ Tử Tư là nhân tài, nhân tài ở Sở quốc cũng đâu có hiếm. Chỉ tiếc là, Sở Vương ngu ngốc, gi­an thần cầm quyền, kẻ sĩ trung lương có tài hoặc là bị áp chế không ngóc đầu lên nổi, hoặc là bị khiến cho nhà tan cửa nát.”

A Cừu sờ sờ sau gáy, oán hận mắng: “Ngũ Tử Tư này thật là thần cơ diệu toán, liệu định rằng một năm sau Ngô quốc sẽ có ngày này. Nếu không cứ để tòa thành cũ kia, chỉ cần chống một cây gậy trúc là có thể nhảy lên được tường thành, mụ nội nó, sao phải phí phạm nhiều tiền của như vậy?”

Tôn Vũ nói: “Ngũ Viên kia chưa chắc là tính toán cái gì, hắn vội vã xây dựng đại thành này, chỉ là vì củng cố quyền lực của Cơ Quang thôi. Xây dựng đại thành hùng tráng, tuyên dương uy phong Ngô Vương, đó là thứ nhất; xây dựng đại thành, tập trung những gia tộc quyền thế giàu có cả nước, ở gần giám thị, phòng ngừa dị tâm, đó là thứ hai; xây dựng đại thành, cần tập trung lao động thanh niên cả nước, khiến những người này tập trung toàn bộ ở đô thành để tham gia xây dựng công sự, có thể tránh cho bọn họ đi theo công tử, thảo phạt kẻ cướp ngôi vị, đó là thứ ba; xây một lần mà hiệu quả muôn đời, xây dựng một tòa thành kiên cố làm căn bản cho Ngô quốc, đó là thứ tư. Chính là xuất phát từ đủ các loại nguyên nhân, nên Ngũ Tử Tư mới không tiếc quốc lực mà xây nên tòa đại thành này, lần này bọn họ cướp được tài phú như núi từ Sở quốc, chẳng những bù lại được những tiêu hao của việc xây công sự, lại càng làm tăng thêm tài phú của Ngô quốc, cái cách lấy chiến tranh nuôi dưỡng chiến tranh này, thực hợp với cá tính của Ngũ Viên.”

Khánh Kỵ lo lắng nói: “Vì sao Ngũ Tử Tư xây thành ta không muốn quản, chỉ có điều Cô Tô thành dễ thủ khó công, hiểm yếu như vậy, chúng ta vội vàng chạy tới Ngô quốc, phía sau lại có đại quân Cơ Quang đuổi theo, thành không thể phá, mấy vạn đại quân này ngay cả một chỗ để đặt chân cũng không có, càng không nói tới lương thảo cấp dưỡng có thể chống đỡ được bao nhiêu thời gi­an. Chẳng nhẽ chúng ta hao tổn tâm cơ, cuối cùng lại chỉ có thể bại trận mà quay về Vệ quốc sao?”

Tôn Vũ nói: “Công tử, khi Tôn Vũ đổ bộ vào biên cảnh Ngô Việt, căn cứ vào những tư liệu nắm được, liền phỏng đoán Cô Tô khó có thể mạnh mẽ đánh hạ, cho nên mới lệnh cho tín sứ ngày đêm chạy tới nước Sở, thỉnh công tử cần phải về Ngô quốc trước Cơ Quang, để chuẩn bị phương án. Một, đó là trong ngoài phối hợp, bất ngờ đánh chiếm Cô Tô. Hiện giờ xem ra, Cô Tô hiểm trở, Phù Sai có cách phòng thủ, kế này khó thành. Ta có biện pháp thứ hai, tuy rằng nguy hiểm, nhưng mà nếu vận dụng thích đáng, thì muốn đoạt nước Ngô, cũng không phải không có khả năng.”

Khánh Kỵ ánh mắt sáng ngời, vội nói: “Trường Khanh có diệu kế gì, mau nói đi.”

Tôn Vũ nói: “Một kế này, còn cần bẩm báo công tử, cùng với các vị tướng quân thương nghị.”

Hắn lấy từ trong tay áo ra một quyển bản đồ, mở ra ngay tại trên chiếu, chúng tướng xung quanh ngồi bao quanh lại, Tôn Vũ chỉ vào bản đồ nói: “Mọi người mời xem, Cô Tô thành ở chỗ này, thành trì hiểm yếu, dễ thủ khó công, quân phòng thủ trong thành dù không nhiều, nhưng cũng là một tòa hùng thành mà một người có thể chắn một trăm, khó có thể dùng lực. Mục đích của chúng ta, là thiên hạ Ngô quốc. Muốn lấy thiên hạ Ngô quốc, liệu có phải chỉ có một con đường là cướp thành Cô Tô không? Không phải, Ngô quốc có hai cột mốc, một cái bất động, chính là Cô Tô vương thành ở đây, một cái lại di động, chính là đương kim Ngô Vương Hạp Lư!”

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, hỏi: “Trường Khanh, ngươi là nói… vây thành đả viện binh?”

Ánh mắt Tôn Vũ ngạc nhiên, vui vẻ khen: “Vây thành đả viện binh? Những chữ này của công tử rất hay, Tôn Vũ chính là có ý này.”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 202: Dương Đông kích Tây (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, hỏi: “Trường Khanh, ngươi là nói… vây thành đả viện binh?”

Ánh mắt Tôn Vũ ngạc nhiên, vui vẻ khen: “Vây thành đả viện binh? Những chữ này của công tử rất hay, Tôn Vũ chính là có ý này.”

————————————

Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, lắc đầu nói: ” Khó! Với nhân mã của chúng ta, nếu muốn vây thành còn sợ binh lực không đủ, đồng thời lại còn muốn đánh viện binh, không khác gì lấy trứng chọi với đá. Trong tay Cơ Quang còn gần sáu vạn nhân mã, chúng ta hợp binh ở một chỗ còn không đủ bốn vạn, làm sao có thể hai mặt tác chiến, mà còn đánh bại thậm chí bắt được Cơ Quang?”

Tôn Vũ sắc mặt ngưng trọng nói: ” Đây đúng là một nan đề, trận này nhất định là một trận đánh ác liệt, chỉ có điều với điều kiện của chúng ta, muốn đạt được mục đích, thì đây là cơ hội duy nhất. Tôn Vũ đi nước cờ hiểm này, cũng đã từng cẩn thận cân nhắc, Tôn Vũ nghĩ rằng, Cơ Quang biết được công tử chạy về Ngô quốc trước, lo lắng mất sào huyệt, cho nên suốt đường hành quân gấp gáp, tất nhiên không thể phái thám mã cẩn thận do thám tình hình tiền phương. Hơn nữa hắn nhận định công tử vượt lên về nước trước, chắc hẳn sẽ tập trung vào Cô Tô thành, chứ khó nghĩ rằng công tử lại tập kích hắn. Chúng ta lấy hữu bị tính vô bị, đó là điều kiện thuận lợi thứ nhất của chúng ta.

Hắn chính là đi đường bộ, không dám dừng lại giây lát, thể lực của sĩ tốt sẽ bị hao tổn rất lớn, theo Tôn Vũ phỏng đoán, lặn lội đường xa như vậy, sĩ tốt không được nghĩ ngơi, chiến lực ít nhất cũng sẽ mất đi bốn thành. Chúng ta lấy quân khỏe ứng với quân địch mệt mỏi, bất ngờ hành động, đó là điều kiện thuận lợi thứ hai của chúng ta.

Cơ Quang đi đường bộ sang Sở, rồi lại quay về địa bàn của hắn, lương thảo tất nhiên sẽ không mang nhiều, hơn nữa hắn dọc đường đã ăn cướp thành tánh, ta thấy đại quân của hắn có lẽ còn không mang theo lương thực đủ cho ba ngày. Toàn bộ Ngô quốc hiện giờ mặc dù là của hắn, nhưng mà hắn một khi bị nguy cấp, lại không có được cung cấp, quân tâm sĩ khí thậm chí cả chiến lực cũng sẽ tan rã, đó là điều kiện thuận lợi thứ ba của chúng ta.”

Khánh Kỵ hơi có chút suy nghĩ trầm ngâm, chậm rãi nói: ” Ừm… còn gì nữa không ? “

“Còn, Cơ Quang giành được nước đã hơn một năm, mượn cớ xây dựng thành mới, hắn tập trung tất cả thân hào cự phú vào Cô Tô, lại mời các thanh niên trai tráng đầu nhập vào trong quân, lần này đánh hạ Dĩnh Đô, trở thành chư hầu đầu tiên từ khi Chu thiên hạ khai quốc tới giờ công chiếm được đại thủ đô của kẻ khác, uy danh hiển hách, náo động thiên hạ, nếu lần này chúng ta không thể áp chế được hắn, từ nay về sau sẽ không còn cơ hội, bởi vậy, một nước cờ hiểm này, là bất đắc dĩ phải đi, bất đắc dĩ phải lâm vào.

Huống chi, phục kích Cơ Quang mặc dù rất khó khăn, nhưng mà khó khăn này so với việc tấn công vào thành Cô Tô có chín ngàn sĩ tốt canh gác thì còn dễ dàng hơn, chúng ta chỉ cần một trận chiến là có thể đánh bại được Cơ Quang, phá hủy sức chiến đấu của hắn, như vậy là có thể nắm được quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường Ngô quốc. Công tử mời xem, nếu chúng ta có thể giết chết Cơ Quang ở địa điểm phục kích, vậy thì uy vọng của Phù Sai sẽ không đủ để toàn Ngô quốc khiếp sợ, hơn nữa Cô Tô thành lúc đó sẽ chỉ còn là một tòa thành cô độc bị chúng ta vây khốn, nếu chúng ta cứ vây khốn bọn họ, không cần phải công thành, thì bọn họ muốn ra khỏi thành cũng không phải dễ dàng. Khi đó công tử cứ lên làm vua trước, đoạt được sự ủng hộ của người Ngô.

Nếu Cơ Quang không chết, mà chỉ bị chúng ta vây khốn, Phù Sai sốt ruột cứu cha, thì có thể sẽ dẫn binh mã đi cứu, chúng ta có thể dẫn dụ được binh mã của Phù Sai ra khỏi Cô Tô thành, nhân cơ hội mà khoét được hang ổ của hắn.”

Yểm Dư nghe thấy kế hoạch của hắn như vậy, lo lắng nói: ” Đó chính là phương pháp tốt nhất, nhưng mà một khi thất bại, chỉ sợ là chúng ta sẽ lâm vào thế vạn kiếp bất phục.”

Khánh Kỵ nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, hỏi: ” Chư vị, có biện pháp nào khác không? “

Từ Yểm Dư xuống, chúng tướng đều im lặng không nói gì. Khánh Kỵ nắm chặt tay, đấm mạnh một cái lên bản đồ, nói: ” Nếu như thế, chúng ta chỉ có lựa chọn này mà thôi.”

Tôn Vũ xúc động nói: ” Binh quý thần tốc, nếu công tử đồng ý với kế hoạch của Tôn Vũ, chúng ta sẽ lập tức bắt đầu chuẩn bị. Nếu muốn phục kích, vậy thì phải không tiếc nuối hết thảy, chẳng những phải đánh bại quân Ngô, mà còn phải tốc chiến tốc thắng, vì cho dù quân thủ thành của Phù Sai có không ra, thì khi Phù Khái dẫn quân quay về từ Hàn Ấp, chúng ta cũng sẽ lâm vào cục diện hai mặt đều thụ địch.”

Khánh Kỵ kỳ quái nhìn hắn một cái, không biết vì sao trong lời của hắn lại không nhắc tới quân phòng thủ Ngự Nhi thành, theo như lời hắn vừa nói, quân phòng thủ Ngự Nhi thành chưa bị tổn hao tới một sợi tóc, một khi tới cần vương cứu giá, đó là một cỗ lực lượng không thể bỏ qua. Tôn Vũ dường như đang trầm ngâm, có chút vô ý tránh đi ánh mắt của hắn, nói: ” Đáng tiếc, trong Ngô quốc không có lực lượng nào có thể lợi dụng, nếu không… cho dù có kết minh theo kiểu bằng mặt nhưng không bằng lòng giống như người Sở, cũng sẽ giúp chúng ta chia sẻ được bớt áp lực. “

Hắn vừa nói điều này, trong lòng Khánh Kỵ chợt lóe linh quang, liền vứt bỏ cái ý nghĩ kỳ quái vừa mới nảy ra kia, nói: “Không sai, hiện giờ chúng ta cần phải đoàn kết hết thảy những lực lượng có thể đoàn kết, lúc này đã khác lúc xưa, Lỗ quốc khai chiến với Tề quốc, Tống quốc thì khai chiến với Tấn quốc, Tề quốc có minh ước với Cơ Quang, Tấn quốc có minh ước với Tề quốc, cứ như vậy, chúng ta và Lỗ, cũng coi như là đồng minh có cùng ích lợi. Trước mắt bọn họ còn không lo nổi cho chính mình, không có lực lượng trợ giúp chúng ta, nhưng mà để bọn họ bố trí nghi binh, làm ra bộ dáng dẫn quân đi xuống phía Nam để níu kéo Phù Khái là có thể. Còn có bộ lạc Đông Di, cũng có thể khiến cho Phù Khái phải đau đầu, chỉ cần bọn họ có thể tạm thời bám trụ lấy Phù Khái, thì chúng ta ở nơi này có thể rảnh tay rảnh chân, Vương thúc…”

Yểm Dư gật đầu nói: ” Được, ta sẽ đi một chuyến. “

Khánh Kỵ gật gật đầu, lại nói: ” Nơi này đi không xa về phía Bắc chính là Diên Lăng, Trường Khanh, ngươi tới đây, ta đang thương nghị với mọi người, có nên xin sự tương trợ của Quý Tử hay không. Uy vọng của Quý Tử ở nước Ngô ta rất lớn, nếu được ông ta tương trợ, thì cho dù quân đội nước Ngô có nằm trong tay Cơ Quang, cũng có thể được tuyệt đại đa số bình dân nước Ngô cùng khá nhiều công khanh đại phu hỗ trợ. “

” Quý Tử là một quân tử, ôn lương như ngọc, là người có đức, Tôn Vũ kính đại danh Quý Tử đã lâu. Chỉ là người này không màng danh lợi, ở trong lòng ông ta, xã tắc quan trọng hơn quốc quân, lê dân quan trọng hơn xã tắc, bởi vậy năm đó mới ẩn nhẫn chuyện Cơ Quang hành thích vua tự lập, chỉ vì để củng cố xã tắc Ngô quốc, lê dân được hưởng an bình. Xin thứ cho mạt tướng nói thẳng, hiện nay Cơ Quang vẫn chiếm ưu thế, hy vọng phục quốc của công tử vẫn mù mịt, nếu lúc này đi bái phỏng Quý Tử, chỉ sợ Quý Tử sẽ không bởi vì mối hận trong nhà của công tử, bởi vì vinh nhục của một nhà mà giúp đỡ công tử.”

Khánh Kỵ gật đầu nói: ” Không sai, ta cũng băn khoăn về điều này, lúc này mà đi gặp Quý Tử, chỉ sợ là vô bổ, thậm chí còn hổ thẹn. Chi bằng chúng ta đánh một trận ác liệt, cho dù không thể thắng, cũng phải làm cho Quý Tử cảm thấy rằng không thể để cho Ngô quốc ở trong tình trạng lưỡng bại câu thương như thế nữa, khi đó ông ta mới có thể đưa ra lựa chọn. Tạm không nói về chuyện này nữa, chúng ta thương lượng chuyện làm sao để công hãm được doanh trại của Cơ Quang đi.”

Đại quân Khánh Kỵ đột nhiên xuất hiện dưới Cô Tô thành, những trạm canh gác mà thái tử Phù Sai an bài trong khoảng ba mươi dặm đã nhanh chóng phát hiện ra đại quân Khánh Kỵ mênh mông cuồn cuộn mà tới, một lá cờ, hai lá cờ, ba lá cờ… được phất lên để báo vào trong thành phát hiện quân địch, đang tiến vào gần Cô Tô…

Chỉ trong vòng một nén hương, khi các trạm canh gác phất lên đủ năm lá cờ, các binh lính canh gác vừa tới tấp chạy bỏ mạng về thành, thì đại chiến đã bắt đầu rồi.

Lần này tấn công thành Cô Tô, vốn chỉ là trận chiến nghi binh. Nhưng mà nghi binh nếu muốn khiến cho quân địch tin tưởng, cũng phải đánh cho giống thật mới được. Khi dẫn quân tới Thái Hồ để nghỉ ngơi và hồi phục, Tôn Vũ đã cho một đạo quân bí mật đi vào rừng rậm ở núi Cô Tô để tạo vũ khí công thành, lần này quay lại mang theo đủ các loại vũ khí quân thành, trong đó còn có mười cái máy bắn đá do Khánh Kỵ thiết kế.

Những chiếc máy bắn đá này so với những chiếc máy bắn đá truyền thống phải cần hơn trăm người kéo thì khác biệt rất nhiều, có thể tiết kiệm rất nhiều thời gi­an và không gi­an chiến đấu, thích hợp cho việc tác chiến ở vùng đầm nước Gi­ang Nam.

Đại quân Khánh Kỵ chậm rãi, tấn công trực tiếp vào cổng chính Xương Môn của Cô Tô thành. Sĩ tốt mang đất tới lấp sông, tới lui như kiến, đầu tường tên bắn xuống như mưa, bên phía Khánh Kỵ dùng khiên che chắn. Cổng chính Cô Tô thành là con đường mọi người hay qua lại, cho nên ở đây sông không rộng, người Ngô mặc dù đã nhấc cầu lên, nhưng bên phía Khánh Kỵ cả vạn người cùng đổ đất xuống sông, cuối cùng cũng chặn được con sông đó, sau đó lấy xe cùng khiên lớn yểm hộ, xua binh tấn công vào gần, ở phía sau lấy nỏ lớn, máy bắn đá làm vũ khí hỗ trợ từ xa, áp chế địch nhân trên đầu tường.

Quân Khánh Kỵ ở dưới thành bắn tên tẩm dầu lên, tên bay loạn xạ, quân phòng thủ trên đầu tường thì dùng thân cây, đá tảng để đáp lễ. Quân Khánh Kỵ không tiếc hy sinh tấn công dưới thành, đáp bậc thang lên tường thành, ở trên đầu tường quân phòng thủ lại dùng những chiếc chùy nặng được buộc trên vách tường đập cho những chiếc thang gỗ đó vỡ tan tành.

Dưới cổng thành được ném tới nhiều bó củi, lửa cháy bừng bừng dấy lên, khiến cho đồng đen bọc cổng thành Cô Tô bị đốt cháy ẩn ẩn hiện lên màu đỏ, gỗ ở bên trong cũng phát ra mùi cháy khét. Người Ngô ở trên cổng thành lại sử dụng những cái máng chứa nước, bên này thế lửa dấy lên, đầu tường liền có người đổ nước xuống, giống như những chiếc vòi hoa sen chảy xuống, nước lửa tương khắc, trên thành dưới thành song phương đại chiến tạo thành thế bất lưỡng lập (không đội trời chung).

Khánh Kỵ gióng trống khua chiêng, công khai giương lên cờ hiệu của mình, lại sử dụng kế nghi binh, ở trước trận lập một doanh trại, cho năm ngàn binh sĩ cứ tuần hoàn ra ra vào vào, khiến cho từ đầu tường nhìn ra xa xa, cứ như là có mười vạn đại quân đang không ngừng tụ tập tới, khó có thể phỏng đoán được hắn rốt cuộc là có bao nhiêu nhân mã.

Quân thủ thành Cô Tô chưa từng gi­ao thủ với Khánh Kỵ hay Yểm Dư, Chúc Dung, đối với vị Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ vốn vẫn có tâm kính sợ, lại thấy tình hình này, quân tâm sĩ khí dưới thế công mãnh liệt của hắn lại càng uể oải. Rõ ràng là phòng thủ một tòa hùng thành không thể phá được, nhưng thế phòng thủ trên đầu tường lại nhất thời bị dồn ép liên tục.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 202: Dương Đông kích Tây (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Tin tức truyền tới hoàng cung, thái tử Phù Sai nghe thấy vậy thì giận dữ, lập tức rút kiếm chạy tới, đi theo sau là chánh phó thái giám tổng quản, chia nhau cầm vương kỳ cùng ấn tín. Hắn đi lên thành lâu Xương Môn, lập tức chém đầu chủ tướng Xương Môn, treo đầu của hắn lên cao, rồi mệnh cho phó tướng chủ trì việc quân, chính hắn tự mình đốc chiến.

Phù Sai cho người trải chiếu ra rồi ngồi trên thành lâu, phía sau là thái giám cầm vương kỳ cùng ấn tín, trong ngực ôm mỹ nữ do người Việt tiến cống, trong tay nâng chén rượu ba chân rót đầy rượu ngon, phía trước đầu gối là trường kiếm máu chảy đầm đìa, cao cao phía trước còn treo một cái đầu người dữ tợn, trên trời tên bay tứ tung, thỉnh thoảng còn có tảng đá lớn bay ngang trời, đập vào nơi nào, liền khiến cho mặt đất nơi đó rung chuyển, nhưng hắn vẫn cười cười nói nói, hồn nhiên không thèm để ý, điều này cổ vũ rất lớn cho sĩ khí của quân thủ thành Cô Tô, ổn định lòng người, thế phòng thủ Xương Môn lập tức vững như Thái Sơn, áp chế thế công mãnh liệt của quân Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ đứng ở trước trận nhìn chiến trường tiếng kêu hét rung trời, khẽ lắc đầu nói: “Cô Tô Đại Thành, quả nhiên là không thể công. Binh lính chúng ta hữu hạn, tạm thời không thể bổ sung, tiêu hao ở đây không nổi, máy bắn đá vừa đưa tới thêm bao nhiêu?”

Kinh Lâm đáp: “Vừa vận tới tám cái, thợ công tượng phía sau vẫn đang không ngừng chế tạo, may là điện hạ khi ở Phi Hồ cốc đã cho bọn họ chế tạo suốt ngày, lắp đi lắp lại trang bị, cho nên những công tượng này đã vô cùng thuần thục.”

Khánh Kỵ thở dài nói: “Trước khi ta rời khỏi Lỗ, còn cảm thấy rằng máy bắn đá cồng kềnh này tác dụng không lớn, hiện tại xem ra, đối mặt với tòa thành trì hùng vĩ thế này, uy lực của máy bắn đá lại là lớn nhất.”

Thúc Tôn Diêu Quang ôn nhu nói: “Tình thế trên chiến trường thay đổi trong nháy mắt, ai có thể đoán trước được tiên cơ.”

Khánh Kỵ cười, rồi phân phó xuống cho Kinh Lâm: “Để cho bọn họ tiếp tục chế tạo máy bắn đá, càng nhiều càng tốt, nghi binh phía sau tiếp tục chạy, đêm nay, ta sẽ dẫn chủ lực rời khỏi nơi này, ngươi cũng phải cẩn thận một chút.”

Kinh Lâm đáp lời, nói: “Công tử yên tâm, chỉ cần chế tạo ra hai ba mươi cái máy bắn đá, phía sau lại có nghi binh, thì với mấy ngàn nhân mã của ta, cũng đủ để cho Phù Sai hắn phải co đầu rụt cổ trong thành không dám ra đây, chỉ có điều nguyên liệu đá tốn nhiều công sức, lại phải vận chuyển tới từ xa.”

Đúng lúc này, A Cừu vội vàng chạy tới bẩm báo: “Điện hạ, quả nhiên không ngoài dự đoán của người, Phù Sai ra vẻ trấn tĩnh, nhưng từ Tư môn, Sở môn, Xà môn, Lâu môn, Bàn môn năm cổng thành lại phái tín sứ phá vây ra ngoài.”

Khánh Kỵ mỉm cười: “Chạy hay lắm, ngươi không bắt được một ai sao?”

A Cừu lớn tiếng nói: “Đương nhiên là muốn bắt, nhưng mà bọn người đó chạy thật sự nhanh, hơn nữa lại là đi đường thủy, trong tay mạt tướng không có thuyền, chỉ có thể trơ mắt nhìn hắn rời đi.”

Khánh Kỵ ha ha cười lớn, vỗ lên bả vai hắn, quay đầu lại nói với Kinh Lâm: “Về vấn đề đá thì không cần lo lắng, ngươi có thể đào bùn lên, đắp thành viên cầu, lấy lửa hong khô, rồi ném đi thành đạn bùn, cũng có thể khiến cho bọn chúng không dám thò đầu ra. Còn nữa, Phù Sai đã phá hủy hết nhà cửa trong vòng mười dặm, những mảnh vỡ từ những căn nhà này cũng có thể dùng làm đạn.”

Hắn ngừng lại một chút, lại nói: “Để tránh cho tiểu tử Phù Sai kia nhìn ra sơ hở, từ ngày mai trở đi, sửa thành ban ngày quấy nhiễu địch, ban đêm công thành.”

” Rõ, mạt tướng tuân mệnh!”

Khánh Kỵ quay đầu lại cười cười với Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man, nói: “Hai nàng không cần phải đi theo ta, ta ở chỗ này rất an toàn, các nàng đi cùng Lương Hổ Tử tướng quân an bài việc rời binh đêm nay đi.”

” Rõ! Mạt tướng tuân mệnh!” Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man trăm miệng một lời, rồi không khỏi phì cười, như hai đóa phù dung.

Màn đêm buông xuống, Khánh Kỵ suất lĩnh chủ lực lặng yên dời đi, hội hợp với Tôn Vũ, Anh Đào đã tới trước để an bài chỗ mai phục. Kinh Lâm thì thay đổi chiến thuật, ban ngày lấy một ít binh lính quấy nhiễu thành, ban đêm lấy máy bắn đá làm vũ khí chủ yếu tấn công thành, phía sau dùng kế nghi binh để làm như đại quân vẫn còn ở trong doanh trại quấy rầy Phù Sai.

Đá tảng, bùn đất từ máy bắn đá của Kinh Lâm uy lực quả thực không nhỏ, những nơi đạn đá đạn bùn rơi xuống trong Cô Tô thành nhà cửa đều bị san phẳng, quân phòng thủ ở đầu tường ẩn náu không dám lên thành, mà khi lên thành, dưới chân đầy là đá vụn bùn đất, đi qua đi lại cũng khó khăn.

Kinh Lâm có vẻ đã thích trò tấn công trên không này, lệnh cho những công tượng phía sau ngừng chế tạo những khí giới công thành khác, toàn lực chế tạo máy bắn đá. Máy bắn đá tạo ra càng nhiều, đá tảng lại càng ít để sử dụng. Ở hai sườn doanh trại đại quân Khánh Kỵ đất được đào lên để làm đạn bùn, dần dần tạo ra hai rãnh chiến hào rất sâu, chỉ có điều tầm bắn của máy bắn đá chỉ có hạn, chỉ có thể đả kích những khu vực ở gần tường thành, nếu không phải là do Ngũ Tử Tư khổ tâm thiết kế, thì một tòa đại thành cứng rắn có thể ngăn cản được mười vạn hùng binh cũng chẳng cần phải tấn công, bên trong cũng trở thành một vùng phế tích.

Kinh Lâm từ giảm bớt dần dần hủy bỏ toàn bộ bộ binh công thành, đổi từ quấy nhiễu địch sang tấn công bằng máy bắn đá. Ở trong mắt Phù Sai, là do binh lực thực tế của Khánh Kỵ hữu hạn, chỉ là phô trương thanh thế mà thôi. Hắn chỉ bảo vệ chặt chẽ thành trì, đón đạn đá đạn bùn, ngày đêm tự mình canh giữ trên thành, tu sửa công sự, thề sống chết thủ vững. Trong thành nếu có ai có lời đồn đại, làm dao động quân tâm, chỉ cần nói ra một câu bực tức, là sẽ bị chém đầu treo trên đầu tường để mọi người đều thấy. Trong các nhà, nam làm nô nữ làm tỳ đều sắp xếp phục vụ cho quân đội. Sau hai ngày thời gi­an, đầu người trên tường thành Cô Tô tạo thành một quang cảnh rất độc đáo, trong thành trên dưới quả nhiên không ai dám kháng mệnh, Phù Sai lệnh cho các nhà các hộ thay phiên cho nam nữ tráng niên lên thành trợ thủ, cũng không có ai dám nói câu oán hận.

Lúc này, Khánh Kỵ đã dẫn quân chủ lực tới núi Thiên Mục, hội hợp với Tôn Vũ, Anh Đào đã tới trước, lẳng lặng chờ đợi Hạp Lư đang ngày đêm thần tốc tiến quân vào trong ổ phục kích của mình…

“Mau, đi nhanh nữa lên! Đi nhanh nữa lên!” Cơ Quang đứng ở trên chiến xa, đỡ tay vịn mà lòng như lửa đốt, gió thổi làm chiếc áo choàng màu đỏ của hắn tung bay như những đám mây lửa.

Sớm nhận được mật báo của Lý Hàn, Phù Sai lập tức cho người tới Sở quốc xa xôi để nói rõ tình huống, nên Cơ Quang mới biết được Khánh Kỵ còn có một nhánh phục binh ở Lỗ quốc. Lúc đó bởi vì nhánh phục binh này nhân số không nhiều, mà Ngô quốc còn có một đệ ruột Phù Khái kinh nghiệm chiến trận phong phú, cho nên dù đã biết được tình hình của đối phương, nhưng mà đối phương khó có thể đánh lén được thành công, nên hắn lúc đó còn chưa lo lắng cho lắm.

Nhưng mà hiện tại Khánh Kỵ đột nhiên lại rút lui khỏi chiến trường Sở quốc, thậm chí còn không có ý niệm muốn khiến cho nhân mã của hắn (Cơ Quang) diệt vong ở Sở quốc, mà chạy như bỏ mạng về Ngô quốc, khiến cho hắn sợ hãi. Nếu không phải là phục binh của Khánh Kỵ tập kích thành công, rất cần viện trợ của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ sao lại hành động như vậy?

Ở trong lòng mỗi người cha, con hắn vĩnh viễn luôn là một đứa nhỏ cần được chăm sóc, trong lòng Cơ Quang cũng tồn tại tâm lí như vậy. Phù Sai con hắn chưa bao giờ một mình đảm đương mọi việc, hắn không biết liệu Phù Sai có sơ suất khinh thường không, lại để cho Khánh Kỵ thừa thời cơ. Khổ nỗi thời đại này việc truyền tin không tiện, thám mã đầu tiên quay về báo cáo tin tức: Khánh Kỵ hiện đang công thành, lại còn phong tỏa phạm vi xung quanh thành Cô Tô, cho nên không thể biết thêm được tin tức cặn kẽ hơn. Hắn lúc này không biết được tin tức chuẩn xác của Cô Tô thành, đủ loại hậu quả đáng sợ không ngừng nổi lên từ đáy lòng, khiến cho hắn không ngừng thúc giục toàn quân kiệt lực tiến về phía trước, muốn nhanh chóng về Cô Tô thành giải vây.

“Hành quân gấp như vậy không được rồi, nếu còn như vậy thêm, nhân mã sẽ mệt mỏi không chịu nổi, ngay cả có chạy tới Cô Tô thành, cũng khó mà công kích được. Chúng ta nên khuyên nhủ Đại vương, không thể để cho binh lính đi nhanh như vậy. Cô Tô thành là tự tay ta xây, chỉ cần phòng ngự thích đáng, không có mười vạn hùng binh thì đừng hòng mơ tưởng trong vòng một năm rưỡi có thể đánh hạ được nó.” Ngũ Tử Tư đứng ở trên một cỗ chiến xa khác, lo lắng nói.

Bá nhíu mày lại, nói: “Chúng ta cũng đã khuyên rất nhiều lần, nhưng Đại vương chịu nghe sao? Sao phải gặp Đại vương mà chịu xui xẻo.”

Hắn hơi trầm ngâm, nói: “Đại vương làm như vậy, cũng có đạo lý của Đại vương. Nhân mã của chúng ta hơn xa nhân mã của Khánh Kỵ, cho dù khi chạy tới Cô Tô thành chưa thể lập tức khai chiến tiến công, nhưng nếu muốn phòng thủ, bọn họ cũng không làm gì được chúng ta. Chỉ cần Cô Tô thành chưa thất thủ, thấy chúng ta đuổi về tới bên ngoài, tất có thể ổn định quân tâm, chỉ cần nghỉ tạm một ngày, trong ngoài giáp công, tất có thể một trận chiến hạ được Khánh Kỵ.”

Ngũ Tử Tư tính tình nóng nảy, nghe thấy hắn phụ họa cho Hạp Lư không khỏi giận tím mặt, suýt nữa thì mắng ra một câu “hỗn trướng”, có điều nghĩ lại Bá lần này ở Sở quốc đã lập công lớn, hiện giờ địa vị trong lòng Ngô vương còn gần hơn cả hắn, đành phải kìm nén câu đó lại, một đôi mi như tằm nằm giật giật, trầm giọng nói: “Quân ta mặc dù đông, nhưng hiện giờ hành quân đường dài đã mệt mỏi không chịu nổi, chiến lực giảm sút, hiện giờ gấp rút tiếp viện Cô Tô , không kịp phái thám mã đi phía trước, đội hình toàn quân tán loạn, tình hình như thế, nếu Khánh Kỵ bỏ Cô Tô mà nghênh đón quân ta, ở phía trước có mai phục, khi đó phải làm như thế nào?”

Bá ngây người ngẩn ra, đột nhiên tức cười nói: “Tướng quốc lo lắng quá rồi, đại quân của chúng ta đi rất gấp, không ngừng di động, ngay cả việc phái thám mã đi thám thính con đường phía trước cũng không làm được, thì thử hỏi Khánh Kỵ hấp tấp chạy về Ngô quốc, chỉ sớm hơn chúng ta có hai ba ngày, hắn có cái thủ đoạn nào mà nắm giữ được chuẩn xác lộ tuyến hành động của chúng ta, vào đúng thời gi­an và địa điểm, mai phục mấy vạn đại quân trên con đường của chúng ta? Mấy vạn đại quân, đó cũng không phải là dăm ba tên trộm vặt cướp đường, sao có thể hành động tùy ý, chỉ cần quân lệnh thường xuyên truyền xuống trên dưới, đợi khi đại quân ta tới đó, đại quân của hắn không cần đánh cũng sẽ tự tán loạn.”

Ngũ Viên nghe thấy cũng có đạo lý, hắn quay đầu lại nhìn đằng sau chiến xa đang phóng nhanh, đại quân đang vô cùng mệt mỏi, nặng nề thở dài một tiếng.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 203: Mai phục

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Báo, quân Ngô đang đi nhanh tới đây, ước chừng khoảng hai canh giờ là có thể tới trước núi.” Một gã tín sứ giống như thương nhân nâng vạt áo, đầu đầy mồ hồi chạy tới trước doanh trướng giấu trong bụi cây của Khánh Kỵ bẩm báo.

“Hai canh giờ!” Tôn Vũ chợt kích động, hắn ngẩng đầu lên nhìn bầu trời, vui vẻ nói: “Hai canh giờ nữa, sắc trời đã tối, thật sự là trời giúp chúng ta.”

Khánh Kỵ nói: “Thành Bích phu nhân thật tuyệt vời, có tai mắt của nàng, chúng ta tựa như có một con mắt nhìn xa nghìn dặm, luôn nắm rõ nhất cử nhất động của địch trong lòng bàn tay, nhờ có điều này, mới có thể thư thả chuẩn bị, xuất hiện kì binh, lấy yếu thắng mạnh. Lần này phạt Ngô nếu thắng, công của Thành Bích phu nhân là rất lớn!”

Thành Tú đứng một bên nghe thấy hắn khen tỷ tỷ, không khỏi cười nói: “Công tử quá khen, tỷ tỷ bày ra mạng lưới tai mắt ở Sở Ngô, vốn là dùng để truyền thông tin thương nghiệp, nhiều năm tổ chức, mới có được hiệu quả như thế, ban đầu ta thật không nghĩ tới lại có thể dùng cho quân sự.”

Khánh Kỵ tò mò hỏi: “Thành Tú, tỷ tỷ ngươi dùng biện pháp gì mà tin tức có thể truyền đi nhanh chóng vậy?”

Thành Tú gãi gãi đầu nói: “Phương pháp kỳ thực thì rất nhiều, chỉ cần sắp xếp kinh doanh nhiều năm là được. Cách thức truyền tin tức kinh thương của chúng ta là, chưởng quầy do nhà chúng ta phái đi các nơi đi sưu tầm tin tức, mà người truyền tin tức, chẳng qua đúng là nông dân, ngư dân hoặc các xa phu rong ruổi bốn phương mà thôi. Những năm gần đây, chúng ta ở trong dân gi­an Sở Ngô tìm được một vài người nông dân, hàng năm trợ cấp cho bọn họ một ít kim tiền, khi có tin tức, bọn họ sẽ sử dụng một vài phương pháp như qua các xe, qua các con đò để từng đoạn từng đoạn truyền tin tức cho chúng ta, tin tức truyền tới nơi, thì sẽ có thêm phần thưởng, bọn họ chẳng qua là làm chân sai vặt, hàng năm lại có thêm một nguồn thu xa xỉ, cho nên đối với việc này rất nhiệt tình. À, đúng rồi, vào lúc khẩn cấp, chúng ta còn dùng bồ câu để truyền tin.”

” Bồ câu đưa tin!” Khánh Kỵ kích động nói: “Các ngươi còn dùng bồ câu để truyền tin tức?”

Khoảng 3000 năm trước công nguyên, người Ai Cập và Hy Lạp đã biết thuần dưỡng chim bồ câu hoang làm bồ câu nhà, người Ai Cập từ đó bắt đầu dùng bồ câu để đưa thư. Nước Trung Quốc vào thời kỳ Xuân Thu, ở khu vực phía Nam cũng có các loại bồ câu nhà, có điều phải tới thời Tần Hán mới được mở rộng ra, rồi tới thời Tùy Đường thì là phương pháp tương đối phổ biến để thư từ qua lại.

Khi đó chủ yếu là ở An Nam (Việt Nam hiện nay), Nghiễm Châu (Quảng Châu hiện nay) bởi vì có nhiều thuyền rời bến, thư từ qua lại không được tiện, cho nên thường mang theo bồ câu nuôi trong nhà lên thuyền, rồi thả bay trở về, truyền thư báo bình an cho gia đình, cũng không mấy khi dùng cho quân sự. Khánh Kỵ biết việc nuôi chim để truyền tin, huấn luyện mất rất nhiều công sức, không có vài năm thì không được, hơn nữa bồ câu kia cũng không phải ngươi muốn cho nó bay tới chỗ nào là nó bay tới chỗ đó, nó chỉ biết quay về nhà của nó mà thôi, nếu muốn dùng bồ câu đưa tin thì phải có một căn nhà đáng tin cậy, trở thành một trung tâm truyền tải tin tức, chuyện như vậy không phải trong chốc lát mà làm được, với một vương tử đào vong bên ngoài như hắn thì lại càng không có khả năng làm, cho nên mặc dù khổ vì thông tin bất tiện, cũng từng có chủ ý với việc bồ câu đưa tin, nhưng mà vẫn đành phải buông bỏ, không thể tưởng được Thành Bích đã sớm tiến hành phương thức này rồi.

” Bồ câu đưa tin?” Thành Tú ngẩn ra, cười nói: “Công tử gọi hay lắm, bồ câu của chúng ta đúng là dùng để đưa tin, có điều bồ câu bay mặc dù nhanh, nhưng lại chỉ nhận ra nhà của mình, hơn nữa trên đường bay còn có thể bị thợ săn bắn hạ, chim ưng ăn mất, cho nên bình thường chúng ta cũng không dùng. Lúc này bởi vì việc trọng đại, cho nên khi ta tới Sở quốc gặp công tử, đã theo phân phó của tỷ tỷ, lệnh cho những người chuyên truyền tin tức cho chúng ta ở Ngô Sở sớm đem bồ câu do nhà mình nuôi đưa đến nhà tiếp theo (trong mạng lưới truyền tin), khi nào phải có tin tức thực sự trọng yếu thì mới được thả bồ câu, cho nó bay về nhà của mình. Vào thời khắc trọng yếu trước mắt, mỗi lần phải thả ít nhất là ba con bồ câu, trên đùi buộc theo nội dung như nhau, để phòng đánh rơi thất lạc mất.”

Hắn cười nói: “Những nông dân này tuy rằng vất vả hơn chút, lúc nào cũng phải ở nhà chờ tin tức, có điều vào thời điểm thế này, phần thưởng cho bọn họ luôn nhiều hơn gấp bội, bọn họ còn ước gì chúng ta ngày nào cũng có tin tức khẩn cấp truyền qua truyền lại, như vậy bọn họ cũng chẳng cần đi làm ruộng nữa, chỉ trông vào việc truyền tin tức cho chúng ta, cũng có thể trở thành thủ phủ trong thôn.”

Khánh Kỵ cùng các tướng nghe vậy, không khỏi đều bật cười.

…………

” Phía trước đã tới Thiên Mục sơn, Đại vương, sắc trời đã tối muộn, chúng ta không thể đi qua núi trong đêm, huống hồ sĩ tốt đã không bước nổi nữa, chúng ta nên cắm trại nghỉ tạm ở trước núi đi, chờ trời sáng lại đi tiếp.”

Khi quân tiên phong của Ngô tới dưới chân núi Thiên Mục, Ngũ Tử Tư lại nhịn không được góp lời với Cơ Quang.

Lần này, Bá cũng không nhịn được, góp lời với Cơ Quang: “Đại vương, sắc trời đã tối muộn, sĩ tốt mệt mỏi không chịu nổi nữa, cần phải ăn uống một chút, huống hồ đội sau cách quá xa, cũng nên chờ bọn họ đuổi tới hội hợp mới được, hẳn là nên cắm trại nghỉ tạm.

Cơ Quang làm gì chẳng biết nên cho binh lính nghỉ ngơi một chút, nhân mã của hắn dù sao cũng có máu có thịt, tóm lại không thể không ăn không uống, cứ thế mà chạy. Hắn gật gật đầu, vung tay lên, Bá lập tức cao giọng nói: “Truyền lệnh, toàn quân dựng trại tạm, đào bếp nấu cơm.”

Lập tức liền có hoàng kỳ vẫy lên, xoay tròn bay múa trên không trung, lại có người đánh trống, ba dài ba ngắn, hiệu lệnh toàn quân. Nghe được tin tức dựng trại tạm, rất nhiều sĩ tốt dừng cước bộ, nằm la liệt xuống đất, cả người mềm nhũn, chẳng muốn động đậy gì nữa. Những ngũ trưởng, tư mã, tốt trưởng các chức quan cũng mỏi mệt không chịu nổi, nhưng vẫn xốc lại tinh thần, liên tục đá với quất roi, bức cho những sĩ tốt ngã xuống phải đứng lên vận động, để phòng ngừa đột nhiên từ động chuyển sang tĩnh mà bị thương.

Còn một vài binh lính còn sức ai cắm trại thì đi cắm trại, ai bố trí phòng vệ thì đi bố trí phòng vệ, đào bếp thì đào bếp, khắp bình nguyên trước núi là một cảnh bận rộn. Ngũ Tử Tư vội vàng nhảy xuống chiến xa, gọi chiến tướng tâm phúc, phân phó: “Lập tức phái ra mấy đội nhân mã, suốt đêm đi dò tin tức Cô Tô thành, lại điều vài đội bộ binh, thám thính ngọn núi phía trước.”

” Tướng quốc đại nhân, sĩ tốt đều mệt mỏi, không đi được nữa, có phải hay không nên cho bọn họ nghỉ tạm một chút, quả thực là …”

” Không được!” Ngũ Tử Tư nhíu hàng lông mi trắng, giận tím tái mặt mũi nói: “Việc binh phải cẩn trọng, thám mã nhất định phải phái đi.”

Viên tướng kia đành phải chắp tay đồng ý, lập tức điều đi một vài trinh sát, cho mỗi người thêm một chút tiền, để bọn họ lập tức chấp hành mệnh lệnh.

Ánh mặt trời đã tắt, cả ngọn núi tối đen như mực, đoàn người Khánh Kỵ ở bên trong rừng cây rậm rạp nhìn ra doanh trại quân đội đang không ngừng được mở rộng bên ngoài núi, Anh Đào xoa tay nói: “Công tử, chúng ta thừa dịp bọn họ còn chưa ổn định, lao ra đi thôi.”

” Không thể!” Tôn Vũ vội vàng ngăn cản: “Xem trận hình hạ trại này, họ vẫn chưa phòng bị cho việc bị tập kích. Còn nữa, bọn họ đi vội vàng, không mang theo nhiều đồ quân nhu, phía trước lại là một vùng bình nguyên, không có chỗ nào có thể ẩn náu, làm sao mà phòng thủ nghiêm mật được, cứ để cho bọn họ dựng doanh trại đi, làm cho khí lực của bọn họ hao đi càng nhiều càng tốt, chờ bọn họ ăn cơm chiều xong, sắc trời cũng đã tối, càng không dễ dàng di chuyển, khi đó hẵng động thủ.”

Anh Đào liếc mắt nhìn Tôn Vũ một cái, ngẫm lại tình hình, không khỏi âm thầm rùng mình. Cơ Quang vốn có sáu vạn năm ngàn người, hiện giờ sau mấy trận chiến ở Sở quốc, còn hơn năm vạn người. Hơn năm vạn nhân mã này, từ Sở quốc tới đây là đi đường bộ, xe ngựa có hạn, không chở được bao nhiêu người, đại quân lặn lội đường xa, mỗi sớm đi lúc mặt trời mọc, mặt trời lặn mới nghỉ, đã sớm hao mòn hết thể lực cùng nhuệ khí. Hai ngày này vì nghe nói Khánh Kỵ đã tới trước, nên Cơ Quang thúc giục mọi người phải đi băng băng, ai cũng đã sức cùng lực kiệt. Thế mà Tôn Vũ còn lo là không đủ, còn muốn trước tiên để cho bọn họ dựng doanh trại, tiêu hết đi một ít khí lực cuối cùng, lại để cho những binh lính này ăn no bụng, ai nấy đều vừa mệt vừa buồn ngủ, chắc bụng khó đi lại, lúc đó sẽ…

Nhìn khuôn mặt hắn trung hậu, không thể tưởng được dụng binh lại tàn nhẫn như thế, ai nếu phải làm đối thủ của hắn, thật sự là ác mộng.

Tôn Vũ tựa hồ như biết suy nghĩ của hắn, khóe mắt đảo qua, nói: “Nhân từ không nắm được binh.”

Anh Đào cười khan một tiếng: “Tôn tướng quân nói không sai.”

Khánh Kỵ gật đầu nói: “Trường Khanh nói có lý, chúng ta chờ thêm một chút, nếu lúc này tùy tiện đánh úp, Cơ Quang nói không chừng sẽ thừa dịp toàn quân chưa kịp cắm trại, lập tức dẫn quân lui về phía sau, hội hợp với nhân mã phía sau, khi đó sẽ không dễ để đánh.”

Tôn Vũ nghển cổ nhìn từng đợt khói bếp bốc lên trên thảo nguyên, tự nhủ: “Lại chờ thêm một canh giờ nữa, đêm nay không có trăng, khi đó sắc trời như mực, lợi cho quân ta đục nước béo cò. Đến lúc đó, binh của Cơ Quang vừa mới nghỉ ngơi ăn cơm chiều, nhân mã phía sau cũng vừa mới lục đục tới trong quân doanh, muốn chạy cũng không dễ dàng, lúc này đánh bất ngờ, mới có thể gây ra sát thương lớn nhất với lực chiến đấu của hắn.”

Lương Hổ Tử cùng A Cừu, Tái Cừu nghe thấy lời này, cũng không khỏi lạnh cóng cả người.

” Chư vị tướng quân, các ngươi hãy nhìn rõ vị trí đội quân của Cơ Quang. Chăm chú nhìn vào nơi đó, trận hỗn chiến tối nay, chỉ cần chúng ta có một đội quân giết được tới đó, là đại công cáo thành!” Tôn Vũ nói xong quay đầu lại, vừa thấy ánh mắt mọi người, không khỏi sửng sốt, theo bản năng vuốt vuốt mũi và hai má, hỏi: “Có gì không đúng à?”

Chúng tướng đều đồng loạt ra sức lắc đầu: “Không có, không có…”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 204: Diệt trừ tai mắt (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Triền núi phía trước thoai thoải, mấy viên thám báo chậm chạp trèo lên một bãi cỏ trên sườn núi, một người trèo lên được bên trên bèn nằm soãi ra mặt cỏ mềm mại rên rỉ:

- Ông trời của tôi ơi, xương cốt sắp rã rời cả ra rồi.

Thám báo còn lại cũng đặt mông ngồi xuống bên cạnh, uể oải rũ rượi xoa xoa cặp đùi:

- Tướng quốc cũng thật là… Đã vào trong biên giới của nước mình, việc gì phải bắt ra vẻ như đang đương đầu với đại địch ở Sở quốc chứ. Ai da… ngươi nói xem, liệu Khánh Kỵ điện hạ có công hạ được thành Cô Tô không?

Thám báo bên cạnh duỗi thẳng lưng, dang hai chân ra nói:

- Ta thấy khó nhằn lắm, khi thành Cô Tô được xây dựng thì ta đã ở đây rồi, tòa thành này vô cùng kiên cố, Khánh Kỵ điện hạ phải có trong tay mười vạn đại quân, vây hãm thành trong nửa năm, cắt đứt nguồn nước, xây dựng thành cao, đào đắp hào sâu, phía ngoài không có kẻ khác tới quấy nhiễu, thì may ra mới có thể công hạ được, nếu không thì…

Hắn lắc đầu rần rật, hắn nằm xuống gối đầu vào hai tay, đăm chiêu suy nghĩ nhìn về bầu trời càng lúc càng tối đen, lẩm bẩm nói:

- Cũng không hẳn đã là như vậy, sông Trường Gi­ang quanh co khúc khuỷu, cho dù là xuôi theo dòng nước đi xuống hạ lưu, ban đêm dù không sợ đâm phải đá ngầm, cũng không thể tới trước chúng ta được, bây giờ thì sao?

Viên lính ngồi cạnh hắn láo liên đưa mắt nhìn ngó tứ phía, thần sắc bí hiểm nói:

- Ta bảo các vị điều này, mọi người không thấy có điều gì kỳ lạ sao? Nghe nói trước đây khi gặp thích khách trên sông, mũi kích của Yêu Ly đã đâm xuyên qua ngực của Khánh Kỵ vương tử, thế nhưng công tử lại không chết. Lần này, ngài giống như lắp thêm đôi cánh, đi phía trước chúng ta trở về Ngô quốc. Ài, ta kể chuyện này, các ngươi chớ có nói ra ngoài đó nha.

- Chuyện gì thế?

Mấy sĩ binh ngồi bên cạnh nghe thấy vậy thì bắt đầu hào hứng.

Viên thám báo kia nói với giọng bí hiểm:

- Khi ta phụng lệnh đi tới Bách Tân Độ, nghe có người bảo Khánh Kỵ điện hạ khi bị ám sát trên sông Trường Gi­ang thì thật sự đã chết rồi. Nhưng linh hồn của ngài cứ quanh quẩn rồi phiêu bạt lên chín tầng mây, bay lên tới tận thiên đình, nhìn thấy phủ đệ của thần tiên mà thiên đế đã sắp đặt.

Mấy người kia nghe vậy thì kinh hãi thay đổi sắc mặt:

- Ta bảo này Tiểu Xá, ngươi đừng có nói mò, nếu để tướng quốc đại nhân nghe được, thì chắc chắn ngươi sẽ phải chịu tội tung tin đồn thất thiệt mê hoặc chúng dân đấy.

- Ài, thì chẳng phải ở đây không có người ngoài sao? Mấy anh em chúng ta vào sinh ra tử cùng như đã lâu, tình cảm như ruột thịt, làm gì có chuyện tiết lộ ra ngoài chứ?

Mấy người kia lắc đầu lia lịa, một người trong số đó như không thể chờ đợi được nữa nói:

- Ngươi nói đi, tình hình về sau thế nào, thế ngươi nghe tin đó từ đâu?

Tiểu Xá đáp:

- Nghe nói, sau khi Khánh Kỵ điện hạ lên trên thiên đình, thiên đế nói rằng mệnh của người chưa dứt, nên đã cho người hồi sinh trở lại.

- Thiên đế…, thiên đế á! Phàm nhân bỗng dưng lại được gặp thiên đế! Thiên đế chỉ nói một câu đó thôi sao?

Tiểu Xá liếc mắt nói:

- Nói bậy, đó là thiên đế đấy, vốn dĩ thiên đế không coi quản chuyện trong nhân gi­an, người chịu nói một câu, chịu gặp mặt vương tử Khánh Kỵ, nếu đổi là người khác thì liệu họ có phúc phận như vậy không? Các ngươi xem… điều đó có ý nghĩa thế nào? Chẳng phải có ý rằng chỉ có vương tử Khánh Kỵ mới có thể đưa Ngô quốc…

- Câm miệng!

Một sĩ binh trông có vẻ già dặn đứng kế bên đột ngột biến sắc, tuy trời đã về đêm, lại thêm việc đang ở trên giữa sườn núi cheo leo, bốn bề không một bóng người, nhưng hắn vẫn dáo dác nhìn khắp nơi cảnh giác, nén giọng xuống thật thấp nói:

- Tên tiểu tử nhà ngươi không cần mạng nữa sao, nếu tin này mà để truyền ra ngoài thì chắc chắn sẽ phải chịu trọng tội diệt thân đó.

Tiểu Xá vâng vâng dạ dạ bảo phải, nhưng vẫn không câm nổi miệng nói cố:

- Nhưng nếu không phải là như vậy, thì thật là quái lạ. Chịu phải vết thương nặng như vậy mà vẫn còn sống sót được. Người ta bảo gặp đại nạn không chết thì chắc chắn sẽ có phúc về sau. Còn nữa, điện hạ liên tục sáng tạo ra những vũ khí vô cùng kỳ quái, nghe nói đều là những thứ được nhìn thấy khi đi lên thiên đình nên mới có thể nghĩ ra và sáng tạo được như thế. Lần này, điện hạ có thể tạo ra được chiến thuyền có khả năng mượn sức gió để đi, chắc mẩm cũng là thứ học được trên thiên đình mà thôi.

- Trên thiên đình…

Mấy thám báo đứng bên cạnh không khỏi tò mò nhìn lên trên trời, sắc trời lúc này đã về đêm, toàn không gi­an là một màu đen u ám, đêm nay không có trăng, ánh sao sáng rọi, phát ra hào quang đẹp mê ly, có từng đám mây bàng bạc, thoắt ẩn thoắt hiện. Đám người đều có chung một cảm giác là kính sợ đối với bầu trời mang đầy vẻ thần bí kia.

Tiểu Xá nói:

- Lúc đó ta còn định hỏi kỹ càng thêm một chút, thế nhưng đám dân công làm thuê chế tạo chiến thuyền trên Bách Tân Độ đó nói rằng thiên cơ bất khả lộ, cho nên khi trước Khánh Kỵ điện hạ lúc bàn chuyện này với đám tâm phúc cũng nói rất sơ sài, đến khi đám tướng tá tâm phúc đó truyền đạt ra ngoài thì lại càng ít ỏi hơn nữa. Điện hạ đã đi lên trời, được diện kiến thiên đế, thể nào mà chẳng hấp thu chút tiên khí trên đó chứ? Khi ta quay về thì không dám nói điều đó ra, chỉ sợ bị tướng quốc khép vào tội dao động lòng quân, rồi lại chặt phăng đầu của ta đi thì toi. Nhưng cứ ỉm đi giữ làm của riêng thì đêm nằm ngủ ta cũng thấy rất bứt rứt khó chịu, không thể ngủ ngon được, mọi người đều là anh em huynh đệ tốt của nhau, nên ta mới nhiều chuyện một chút đấy.

Mọi người đều chùng xuống, vị thám báo già dơ kia lại hắng một tiếng, rồi hỏi:

- Chúng ta có tiếp tục đi lên đó kiểm tra nữa không? Tướng quốc đại nhân đã có lời dặn rằng phải kiểm tra lên tận đỉnh núi nữa.

Một binh sĩ uể oải nói:

- Nếu muốn đi thì tự ngươi đi đi, ta mệt không động nổi tay chân nữa rồi. Trời lại tối om om, tướng quốc cũng không cho phép đốt đuốc, nếu như chẳng may tuột tay rơi xuống dưới thì chẳng phải chết oan uổng lắm sao? Vả lại, nơi này thì làm gì có ai mai phục nổi, họa chăng là thiên binh thiên tướng!

Mấy binh sĩ lười nhác không muốn trèo lên tiếp cũng đồng thanh tán thưởng, một tên nói:

- Diệp đại ca, chúng ta cứ ngồi ở đây, đợi trôi đủ hai canh giờ nữa, thì lại đi xuống rồi bảo là đã kiểm tra xong, ai mà biết được.

Vị huynh đài tên là Diệp đại ca nghe mấy người kia nói vậy thì cũng đằng hắng ngậm bồ hòn làm ngọt.

Được một lúc, Diệp đại ca bỗng nhiên thở dài một tiếng rồi nói:

- Thuở còn nhỏ, nghe tổ phụ(ông nội) nói, những nhân vật cấp cao này đều là những vì tinh tú trên trời hạ phàm xuống đây. Có lẽ… đại vương của chúng ta, còn cả Khánh Kỵ điện hạ, Ngũ tướng quốc nữa, đều là những vì tinh tú trên trời đầu thai xuống nhân gi­an. Những kẻ phàm nhân tục tử chúng ta, cần phải đi theo sự dẫn dắt chỉ bảo của những nhân vật cỡ bự đó thì mới khá lên được, nếu không thì chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng… ta hy vọng rằng những vị đại nhân được thượng đế ưu ái kia có thể mang lại cho chúng ta những ngày tháng tươi đẹp. Giờ đây tiết trời đã bước sang xuân, trăm hoa khoe sắc, vậy mà vẫn còn phải đánh trận đổ máu, ở nhà còn có cha mẹ già yếu, vợ đau ốm bệnh tật đang phải nai lưng ra kiếm sống cầm cự qua ngày, thật não cả ruột gan a.

Mấy sĩ tốt đứng kế bên cũng im lặng lắng nghe, ngẩng đầu lên nhìn bầu tinh không, từng vì sao chiếu sáng lấp lánh, giống như đôi mắt của họ vậy. Tâm tưởng của ai nấy dường như đều đang cất cánh về cố hương.

Trong không khí yên tĩnh, Tiểu Xá trầm ngâm nói tiếp:

- Thời gi­an độ hai năm trước thật tốt biết bao, bất luận thiên hạ loạn thế nào chăng nữa, thì Ngô quốc chúng ta do ở xa tít tận Đông Hải, nên cũng chẳng can hệ quái gì cả. Ban ngày cày ruộng, ban đêm nghỉ ngơi, thỉnh thoảng phải đi đánh trận, nhưng cũng chỉ là đám người Việt quốc rỗi hơi gây sự, gảy một khúc đàn là đã đánh lui bọn chúng nó ra khỏi bờ cõi rồi, không đáng kể cho lắm. Từ khi đương kim đại vương đăng cơ đến nay… Ài, nghe Diệp đại ca kể chuyện thì ta cũng thấy nhớ nhà rồi, trước khi ta bị tuyển mộ đi đánh trận, thì con bò trong nhà đang bị bệnh, lúc đó nó còn đang mang thai nữa, ài, từ đó đến giờ chả có tin tức gì từ gia đình, cũng không biết bệnh biếc của nó đã khỏi hay chưa nữa… Hình như ta lại nghe thấy tiếng kêu của nó rồi đấy…

- Ụm bò, Tiểu Xá nhắm chặt mắt, bên tai vọng lên tiếng bò kêu loáng thoáng đâu đây, hắn bất giác cũng giả giọng tiếng bò kêu.

Trong sơn cốc bao trùm một vẻ yên ắng lạ thường, mỗi người ở trong sơn cốc đều giống như hòa vào không gi­an xung quanh làm một vậy, chỉ có đôi mắt là phát sáng, mấy ngọn đuốc sáng trưng được ngụy trang dưới tầng đất đá phát ánh sáng chói mắt.

Tôn Vũ đứng trên tảng đá lớn, dặn dò binh lính đứng chật đầy trong sơn cốc:

- Trận chiến đêm nay, kế hoạch tác chiến hành động của chúng ta trước đó đã được phổ biến đến từng binh sĩ, ai nấy đều phụ trách nhiệm vụ cụ thể rõ ràng rồi. Một khi phát động tấn công ập vào doanh trại, thì không cần phải quan tâm tới hiệu lệnh từ cờ quạt nữa, chỉ cần lao thẳng tới phương hướng và mục tiêu đã định trước là được. Lúc tập kết đồng loạt tiến công đương nhiên cũng phải phân chia thành từng nhóm có trật tự hàng lối, nhưng vì đánh đêm nên đội ngũ không được đông đúc quá, cứ lấy hai tư mã làm tiêu chuẩn, nhiều nhất là không quá một tốt binh lực xung phong lên trước, các tốt các lữ các soái lúc phân lúc hợp. Các tướng sĩ chỉ huy nếu như bị chết thì phó tướng phải lập tức thay thế ngay. Kẻ địch của chúng ta đêm nay chỉ là một đám người ngựa mù lòa, một lũ heo ngốc mà thôi. Chỉ cần bỏ chút hơi sức cũng đã làm thịt chúng được rồi, bây giờ chúng ta sẽ nuốt chửng chúng vào bụng, đánh một trận thật sảng khoái.

- Chuẩn bị xong cả chưa?

Tôn Vũ cất tiếng hỏi.

Binh lính trong sơn cốc chẳng ai nói năng gì, chỉ nắm chặt bàn tay, vỗ vỗ vào trước ngực, nắm tay vỗ vào áo giáp, phát ra âm thanh “cồng cộc”, hàng cơ số người nhất tề vỗ ngực, khiến cho âm thanh cộng hưởng lại tạo nên tiếng động như sấm rền.

- Làm dấu hiệu!

Trong sơn cốc vang lên âm thanh sột soạt. Mỗi binh sĩ đều được phân phát một chiếc khăn lụa trắng, đây là loại lụa thượng hạng từ Lỗ quốc, bọn họ buộc chúng thật chặt trên đầu, bầu trời đêm bỗng chốc nổi lên một màn trắng xóa.

- Xuất phát!

Tôn Vũ rút kiếm ra khỏi vỏ, chĩa về phía ngoài sơn cốc, binh sĩ trong cốc xuất phát trong câm lặng, lăm lăm binh khí, tràn ra ngoài theo hướng Tôn Vũ chỉ, giống như một dòng thác lũ đang tuôn trào vậy…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 204: Diệt trừ tai mắt (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

- Thật kỳ lạ, hình như ta cũng nghe thấy tiếng bò rống ở đâu đó…

Diệp đại ca dỏng tai lắng nghe.

- Ùm… bò…

Tiếng bò rống càng lúc càng gần hơn, hai binh sĩ đứng kế bên cũng nhảy dựng lên:

- Không phải, là tiếng bò kêu thật, đêm hôm khuya khoắt, lại ở giữa núi sâu thế này lấy đâu ra bò kêu ở đây?

Tiểu Xá vội vàng ngồi nhỏm dậy:

- Không sai, đúng là có tiếng bò kêu…

Bọn họ hoang mang đưa mắt nhìn nhau, vội đi theo hướng âm thanh phát ra tiếng bò kêu, khi đi tới ven sơn cốc, tiếng bò kêu lại càng rõ ràng, âm thanh cũng gần hơn, từng đám lửa trong sơn cốc được nhanh chóng thắp lên, đám lửa bỗng bùng lên rồi di động! Tiếng bò rống càng lúc càng gần, khoảnh đất đột ngột trở nên chấn động.

Bọn họ đứng ở trên triền núi, trợn mắt há hốc miệng nhìn về phía sơn cốc, giống như là đang nhìn thấy một bầy quái vật. Âm thanh ì ầm đó vang rền trong sơn cốc, bắt đầu cộng hưởng thành một tiếng gầm khủng khiếp, sau đó giống như dòng nước đại hồng thủy mạnh mẽ lao về phía doanh trại quân Ngô.

- Đó… đó là loài quái vật gì thế?

Ánh mắt của Tiểu Xá đơ dại dõi theo những đám lửa ma trơi đang di động với tốc độ kinh hồn kia, kinh ngạc nhìn xuống doanh trại quân mình dưới sườn núi. Diệp đại ca hớt hải thét lên kinh khiếp:

- Không phải ma quỷ gì đâu, tập kích, có kẻ tập kích!

Bọn họ đã không còn kịp báo tin nữa rồi, phía trong sơn cốc bỗng nhiên trào ra hàng ngàn đốm lửa, không biết có bao nhiêu binh sĩ đang giương đuốc thần tốc lao về phía trước, mấy thám báo đứng trên triền núi thậm chí còn nhìn rõ cả những bộ mặt đằng đằng sát khí và vũ khí lăm lăm sáng lóa trên tay họ.

Diệp đại ca ngồi bệt mông xuống dưới, hít vào một hơi, ngán ngẩm nói:

- Hết rồi, hết rồi, bọn chúng… tại sao lại xuất hiện được ở nơi này chứ?

Doanh trại được bao biện đơn sơ vốn dĩ không thể ngăn cản được bước tiến của đám hỏa ngưu, đám trâu nước hung hăng gắn ở mông một bao cỏ rơm đang bốc cháy nghi ngút, lao thẳng xuống con đường thẳng tắp phía dưới, gặp người húc người, gặp trại húc trại, dường như không gì có thể ngăn được bước tiến của chúng.

Binh sĩ trong doanh trại đã cởi bỏ giáp trụ, nhưng phần đông vẫn chưa ngủ, Gi­ang Hoài lúc này vừa duyệt đội ngũ, ăn cơm no nê xong, đang ngồi vắt vẻo trên chiếc nệm cỏ, tháo bỏ giầy ra, đang lim dim thao thức, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng động rì rầm từ đâu truyền tới, hắn đưa mắt dò hỏi đám binh sĩ nằm cùng trướng, nhưng chẳng ai biết là đã xảy ra chuyện gì hết. Một con trâu nước to lớn liền “rầm” một tiếng húc tan chiếc lều, bỏ mặc mọi thứ cắm cổ trối chết lao qua, Gi­ang Hoài cảm thấy hình như chân mình còn hơi sượt qua chân của một con trâu khác.

Phía sau mông của đám trâu nước treo một chiếc đệm cỏ, lũ trâu điên bổ ngang đâm dọc lao tới tấp, phá tan doanh trại, rồi còn lôi theo đống lều trại vải trướng tiếp tục bổ về phía trước, Gi­ang Hoài lấy một tay ôm chân, một tay cầm tăm xỉa răng, mắt ngây dại ngồi thu lu một chỗ, lều trướng bị kéo phăng, bỗng chốc hắn nhìn thấy những vì sao, bầu trời, còn có cả con đường lấp ló…

Lều trướng trại doanh bị đám trâu điên kéo đi bị lửa phía đằng đuôi của chúng bén gọn, lửa cháy càng lúc càng to, đám lửa cứ bám theo phía sau mông lũ trâu nước, chỉ có chạy trối chết về phía trước mới có thể mượn gió đẩy ngọn lửa dạt về phía sau cho bớt nóng, như vậy thì đám trâu nước mới cảm thấy dễ chịu hơn chút được. Thế nên bọn chúng vận hết sức, dặn hết mình, chạy ngang bổ dọc càng nhanh hơn, những nơi đi qua người ngã ngựa đổ thành một đống hỗn độn.

Theo sát đó là đại quân của Khánh Kỵ. Đôi bên hiện tại đều không có binh xa công phá doanh trại trong các cuộc dã chiến, vả lại, Ngô quốc là vùng sông nước, điều kiện địa lý như vậy cũng không cần người Ngô phải trang bị các loại binh chủng chiến xa, trong các cuộc chiến tranh nổ ra tại Lỗ quốc, phần lớn là đôi bên bày trận đồ sát lẫn nhau. Giờ đây quân Khánh Kỵ đang khẩn trương đột phá đại bản doanh của đối phương, đoạt lấy trung quân, vốn dĩ chỉ dựa vào bộ tốt đột kích. Thế nhưng hơn một trăm con trâu nước được lấy từ vùng Yểm Thành về lại tạo ra những hiệu quả còn ghê gớm hơn cả chiến xa, chỉ trong nháy mắt chúng đã biến doanh trại của quân Ngô hổng một lỗ lớn. Khi quân đội Khánh Kỵ tiến vào doanh trại quân Ngô, phía trước không hề thấy quân địch ra ứng chiến.

Trong quân đội ban ngày lấy cờ quạt làm hiệu, ban đêm lấy đèn đuốc làm hiệu, còn có một loại hiệu lệnh thông dụng cho cả ngày lẫn đêm, đó chính là cổ nhạc(trống quân), thế nhưng trong trận đại chiến, tiếng gầm thét chém giết vang trời, cự ly giữa các binh đoàn lại cách nhau xa, thì tiếng trống cũng bị lấn át đi, nên chỉ còn cách lấy đèn đuốc làm hiệu lệnh, do vậy nên phải trái trước sau, phía trên thành lầu, đều thắp đèn hiệu, dựa theo số lần nhấp nháy và số lượng đèn thắp để truyền đạt quân lệnh.

Còn Khánh Kỵ thì sau khi đưa quân ập vào doanh trại, lập tức phái một đội quân tinh nhuệ tiến về phía lầu quan sát, lập tức những rừng tên phóng ra tới tấp, giống như thể bắn không tiếc tay vậy, trong những trận đại chiến liên miên, số lượng tên còn lại đã không nhiều. Toàn bộ tập trung trong tay đội đột kích này. Đám tên trút như mưa của đội quân đột kích này đã hạ thủ được đám binh vệ trên lầu gác. Tiếp đó vứt bỏ hết đám cung tên lúc này đã không còn tác dụng, rồi cầm lấy rìu giắt ở sau lưng. Vung ngang bổ ngửa chém loạn xà ngầu, chém cho vụn gỗ bay tứ tung, chẳng bao lâu sau, một lầu quan sát đã bị đốn cho đổ sụp xuống, mang theo những tiếng kêu thảm thiết của đám binh sĩ phía trên, rơi xuống đất, thịt xương bay tung tóe.

Đám quân lính trong doanh trại Ngô bất ngờ gặp phải cuộc tập kích quá đỗi bất ngờ và mạnh mẽ như vậy đã trở nên hoảng loạn mất tinh thần, còn Khánh Kỵ thì đã có sự chuẩn bị trước, trước đó quân sĩ đều đã được phổ biến quân lệnh, sau khi tiến vào doanh trại quân Ngô thì không cần phải nghe theo hiệu lệnh gì hết, cứ dựa theo thế trận của đội mình, lần lượt giết sạch những lều trại hai bên, lấy lầu gác truyền đạt hiệu lệnh làm nơi tập trung cờ xí, ào ạt lao tới.

Quân đội Khánh Kỵ được nhận diện bằng chiếc khăn đầu màu trắng cấp tốc lao tới mục tiêu, những binh lính Ngô vội vã chui ra từ trong những lán trại đứng chắn đường phía trước đều bị chém chết sạch, rồi ngay sau đó đoàn quân lại ồ ạt xông lên, đám quân Ngô mất đi sự thống nhất khi điều động quân của hệ thống chỉ huy, trở nên hoảng loạn giống như rắn mất đầu, chỉ bất lực theo bản năng giương cao vũ khí lên chống đỡ, đám quan quân chỉ có thể tụ tập binh lính trong phạm vi nhỏ thành từng tổ đội tự lo chiến đấu.

Quân Khánh Kỵ vốn có tổng cộng ba vạn năm ngàn người, trong mấy trận đại chiến ở Sở quốc bị tổn thất mất năm ngàn người, thu nạp được ba ngàn binh lính chiêu hàng, cộng thêm bảy ngàn quân hội tập với Tôn Vũ, tất thảy có bốn vạn người, tuy đánh thành Cô Tô chỉ là đánh nghi binh, nhưng cũng không được đưa quân ra quá ít, nếu không sẽ bị quân địch nghi ngờ, cho dù Phù Sai không điều binh đến tiếp ứng cho Hạp Lư, thì chỉ cần mang quân xuất thành gi­ao chiến, thì đám quân vây thành này chắc chắn sẽ bị tiêu diệt, số quân giữ lại công thành và đám quân dùng làm kế nghi binh do Kinh Lâm giữ là một vạn người, như vậy, đám quân tham gia cuộc đột kích núi Thiên Mục lần này chỉ có ba vạn người.

Lúc này Anh Đào, Lương Hổ Tử mỗi người giữ năm ngàn quân, lẳng lặng di chuyển ra bên cánh trại Ngô, đứng trên cao quan sát không vội tham chiến, bản trận của Khánh Kỵ và Tôn Vũ để lại do Xích Trung thống soái để làm quân dự bị là năm ngàn người, đội quân chính thức phụ trách việc áp sát đột nhập doanh trại quân địch cắt đứt phòng tuyến chỉ huy, gây rối loạn quân ngũ địch chỉ có một vạn rưởi người. Nhưng khi bọn họ đã chiếm được thượng phong, lại có mục tiêu đã định sẵn, không giống như những binh sĩ Ngô đã mất chỉ huy, thể lực mất đi sự đáng sợ vốn có, một vạn năm ngàn người kia khuấy đảo hàng phòng ngự của quân địch, khiến chúng hoang mang khôn xiết.

Tiền doanh vừa truyền đến tin báo động, Ngô vương Hạp Lư, Ngũ Tử Tư, Bá liền lục tục mặc giáp trụ, Ngũ Tử Tư lập tức truyền lệnh dàn xếp thế trận, trường mâu thủ đứng phía trên, kiếm thuẫn thủ bọc sau, tạo thành các thế trận hình tròn, cùng lúc đó phát ra tín hiệu đèn trại, lệnh cho các doanh tập hợp quân bày đặt thế trận. Trung quân, hậu doanh, tả doanh, hữu doanh nối lại tạo thành thế trận hình tròn cố thủ bản doanh, nhưng khi Hạp Lư vừa mới phát ra tín hiệu thăm dò, trong lúc vẫn chưa được hồi âm, thì bỗng nhiên tín hiệu đèn trại ở hữu doanh bị vụt mất giống như tiền doanh, tình hình ở vùng chiến sự trong khu đó nhất thời mất liên lạc, cũng không biết là cả tòa thành trại đã thất thủ, hay chỉ là hệ thống chỉ huy bị phá vỡ.

Bá lập tức phái hai viên lữ soái mỗi người lĩnh năm trăm quân phối hợp với nhau đi tiếp ứng hữu doanh, Ngũ Tử Tư sau khi ổn định doanh trại, soái nhiệm chủ soái, soái hai ngàn năm trăm quân đột phá khu trung lộ, xếp thành đội hình chặt chẽ, áp chế tiền doanh, phản ứng không thể không gọi là nhanh chóng được.

Từ hai bên sườn núi, Anh Đào và Lương Hổ Tử nhìn những đốm lửa di động trong doanh trại quân Ngô, đã hiểu được ý đồ của quân Ngô, không khỏi thầm khen ngợi Tôn Vũ thần cơ diệu toán. Quân Ngô tuy phải lặn lội đường xa mệt nhọc, nhưng dù sao cũng là những quân sĩ tinh nhuệ trải qua trăm trận, kinh nghiệm tác chiến phong phú, tính toán của Tôn tướng quân quả nhiên không sai, công tử nghĩ ra diệu kế dùng hỏa ngưu trận, lại tập kích lúc đêm tối, cắt được tai mắt của quân địch, nhưng hiện tại mới chỉ cắt được tín hiệu từ hai tòa đại doanh, Ngô quân lúc này đã chỉnh đốn quân đội, trong thủ có công rồi.

- Thắp tín hiệu!

Anh Đào vừa dặn dò xong, một sĩ tốt đứng cạnh lui về sau vài bước, thắp lên một ngọn đuốc, nâng cao rồi huơ qua huơ lại mấy lần giữa sườn núi tối đen như mực. Đứng ở vị trí đó, người đứng ở ngọn núi đối diện có thể nhìn thấy rõ ràng, đám hỗn quân ở dưới mặt đất cho dù ngẩng đầu lên nhìn tới cũng không thể nhìn thấy gì cả.

Tĩnh lặng trong chốc lát, phía núi đối diện truyền lại tín hiệu tương tự, Anh Đào lấy ra bội kiếm sau lưng, cắm vào kẹp giữa dây đai và vạt áo, rút lên thanh trường mâu đang đặt kế bên, mũi mâu hướng xuống dưới núi, quát lớn:

- Mục tiêu, cánh trái lầu gác, tấn công!

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 205: Cắt đứt tay chân (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Từ hai bên sườn núi, Anh Đào và Lương Hổ Tử nhìn những đốm lửa di động trong doanh trại quân Ngô, đã hiểu được ý đồ của chúng, không khỏi thầm khen ngợi Tôn Vũ thần cơ diệu toán. Quân Ngô tuy phải lặn lội đường xa mệt nhọc, nhưng dù sao cũng là những quân sĩ tinh nhuệ trải qua trăm trận, kinh nghiệm tác chiến phong phú, tính toán của Tôn tướng quân quả nhiên không sai, công tử nghĩ ra diệu kế dùng hỏa ngưu trận, lại tập kích lúc đêm tối, cắt được tai mắt của quân địch, nhưng hiện tại mới chỉ cắt được tín hiệu từ hai tòa đại doanh, Ngô quân lúc này đã chỉnh đốn quân đội, trong thủ có công rồi.

- Thắp tín hiệu!

Anh Đào vừa dặn dò xong, một sĩ tốt đứng cạnh lui về sau vài bước, thắp lên một ngọn đuốc, nâng cao rồi huơ qua huơ lại mấy lần giữa sườn núi tối đen như mực. Đứng ở vị trí đó, người đứng ở ngọn núi đối diện có thể nhìn thấy rõ ràng, đám hỗn quân ở dưới mặt đất cho dù ngẩng đầu lên nhìn tới cũng không thể nhìn thấy gì cả.

Tĩnh lặng trong chốc lát, phía núi đối diện truyền lại tín hiệu tương tự, Anh Đào lấy ra bội kiếm sau lưng, cắm vào kẹp giữa dây đai và vạt áo, rút lên thanh trường mâu đang đặt kế bên, mũi mâu hướng xuống dưới núi, quát lớn:

- Mục tiêu, cánh trái lầu gác, tấn công!

Năm trận kết doanh, đan xen vào nhau, một khi kết trận thành công thì sẽ khiến cho kẻ địch vô luận là tấn công từ hướng nào cũng đều phải trả một cái giá rất đắt mới có thể tiếp cận được doanh trại. Ngũ Tử Tư dự liệu rằng cho dù Khánh Kỵ có đặt binh mai phục ở nơi này thì binh lực của hắn cũng không thể nào đông đảo hơn của mình được. Mục tiêu của cuộc tập kích vào trại quân lần này ắt hẳn là trung quân, nếu như quân địch liều mạng tới cùng tấn công vào trung quân, vậy thì lúc đó các đại doanh quây tụ xung quanh đã tập kết ổn định trận tuyến sẽ được điều động, bao vây ngược trở lại quân địch ở trung tâm.

Nhưng Tôn Vũ cũng đã nghĩ tới tố chất binh sĩ quân Ngô, tuy rằng binh lính đã phải đi suốt một chặng đường mệt mỏi, thể lực sĩ khí đều chịu phải ảnh hưởng không nhỏ, nhưng dù sao thì đó cũng không phải là một đội quân vừa mới gặp phải tập kích đã lập tức tan rã đội hình. Huống hồ nhân vật cầm quân bên phía Ngô lại không phải là kẻ chỉ có hư tài, nơi này là Ngô quốc chứ không phải Sở quốc, hiện tại Ngô vương lại đang ở trong doanh trại, lòng quân vô cùng vững chãi, cho nên vốn dĩ cũng không nghĩ tới chuyện tập kích một trận mà thắng toàn cục. A Cừu, Tái Cừu dẫn quân chọc thẳng vào chính giữa hàng ngũ địch, hai bên tả hữu còn an bài binh sĩ tiếp ứng.

Lúc này đại doanh quân Ngô vừa mới ổn định thế trận, Lương Hổ Tử và Anh Đào ở hai bên tả hữu cũng đã bắt đầu rục rịch phát động.

Hai cánh quân tả hữu tràn từ trên núi xuống, còn cần phải đi qua một đoạn đường trống thì mới đánh vào trong Ngô doanh được. Cánh quân bên trái quân Ngô vừa mới ổn định đội hình, năm doanh trại của Cơ Quang mỗi doanh đều có khoảng trên dưới một vạn quân, lúc này một vị tướng soái đang điều binh chống cự lại đội quân thế như mãnh hổ của Khánh Kỵ, trong lúc đang vất vả đối phó thì lại chui ra một đạo kì binh bên cánh sườn, thế trận vừa mới được ổn định nhất thời lại bị buông lỏng, quân tướng tả doanh lập tức lại cử hai vị tướng soái nữa ra đón đầu chặn địch, hai bên bước vào cuộc hỗn chiến.

Binh sĩ Gi­ang Nam phần nhiều đều có thể hình thấp bé, nhưng thấp bé cũng có lợi thế của nó. Ngô binh sống ở vùng sông nước Gi­ang Nam được trang bị áo giáp, cầm khiên cứng, vững đoản kiếm, đánh trận gan dạ, lanh lẹ cơ trí, nếu như ở trong một vùng đất như vậy của Ngô quốc đụng độ với đội binh xa tinh nhuệ bách chiến bách thắng phương Bắc, thì những chiến xa đó cũng chỉ làm đồ chơi, chả có tác dụng gì cả. Thế nhưng hiện tại binh lính đôi bên đều là những đội quân tinh nhuệ áp dụng chiến thuật quân Ngô, các binh chủng trong quân đội đều là những kiếm thuẫn thủ tay cầm đoản kiếm. Do bóng đêm dày đặc, nên trường mâu thủ không thể phối hợp tác chiến được. Vũ khí sử dụng được chỉ là những binh khí ngắn dùng đánh giáp lá cà.

Ở cánh quân bên phải, các binh sĩ vẫn còn chưa kịp hoàn hồn, đã bị một đội quân chừng hơn năm trăm người cưỡng công xộc vào trong doanh, huỳnh huỵch chặt đổ những lầu quan sát liên lạc thông tin, ngay sau đó liền bị quân Ngô bao vây, đám quân Ngô vẫn còn đang kinh hồn bạt vía lúc này đã tập trung lực lượng phát động tấn công áp đảo đối với một nhóm quân tiên phong của Khánh Kỵ, điên cuồng công kích, máu chảy lênh láng khắp nơi. Những binh sĩ hàng trên bị kiếm kích đâm quỵ, những binh sĩ phía sau lập tức lao lên thay thế, trận chiến vô cùng ác liệt, chẳng bao lâu, đội hình phòng ngự của đội ngũ năm trăm người đã càng lúc thu hẹp dần, quân số cũng giảm xuống còn hơn ba trăm người, trong vòng tròn phòng ngự được thu nhỏ từng lúc kia nằm la liệt những thi thể binh sĩ hai bên.

Đúng vào lúc này, binh mã của Lương Hổ Tử đã tới, tiếng thét giết rung trời, binh lính trong trại dao động nhân tâm, những binh sĩ tinh nhuệ trong đội quân của Khánh Kỵ đang gồng mình chiến đấu quyết tử trong vòng vây khốn đẫm máu của quân Ngô tinh thần phấn chấn, cao giọng đồng thanh hét:

- Viện binh đến rồi, viện binh đến rồi!

Vừa la hét, vừa chuyển từ thế trận hình tròn sang thế trận hình chữ chùy( giống như mũi tên), xông vào đạo quân bên trái điên cuồng chém giết phá vòng vây.

Phía sau lưng bọn họ, quân sĩ của Khánh Kỵ từ tiền doanh giết tới nối thành những hàng dài không dứt, nhưng lúc này đã bị chặn lại bởi đội quân hữu doanh đã ổn định lại tinh thần, hai bên đang trong cuộc hỗn chiến. Ba trăm tráng sĩ kia chọc thủng doanh trại quân Ngô, vừa chém giết tìm đường thoát vây, vừa cầm lấy đuốc ném bừa ra tứ phía phóng hỏa doanh trại. Còn Lương Hổ Tử bao vây vòng ngoài, dẫn năm nghìn quân hừng hực khí thế đang khẩn trương mở một con đường đột phá doanh trại quân Ngô phía trước lúc này đang được phòng thủ bằng những cỗ chiến xa kiên cố.

Binh mã của Lương Hổ Tử giết tới trận tiền, phá vỡ những hàng rào gỗ sơ sài vừa được chôn đêm đó, phía trước mặt chính là chiến xa của quân Ngô, xe ngựa gắn kết với nhau tạo thành xa trận, quân Ngô dựa vào xa trận với số ít cung thủ và trường mâu đại kích kháng địch. Binh mã của Lương Hổ Tử sau khi có khoảng hơn trăm người ngã xuống đã tiếp cận được xa trận, hàng trăm móc câu đồng thời được quăng ra, không cần biết có móc trúng cái gì không, cầm tay chạy ngược trở lại, những binh sĩ yểm trợ phía sau nhất tề kéo mạnh dây thừng, khiến cho những sợi dây thừng đều được kéo căng thẳng tắp.

Đám binh sĩ đồng loạt kinh hô, rồi kéo những xe ngựa chạy ra tứ phía, những binh sĩ Ngô bị móc câu móc vào người hoặc bị càng xe ép vào trong trung tâm kêu thét thảm thiết, canh ba giữa đêm, giống như tiếng quỷ kêu khóc. Đám xe bị kéo giãn, xa trận của quân Ngô bị trống hoác một lỗ lớn, Lương Hổ Tử cầm kiếm sắc trong tay, hét lên hiệu triệu:

- Giết!

Rồi thúc ngựa xông lên trước lao vào trận địa quân địch.

Cùng lúc đó, binh sĩ Ngô cũng bắt đầu chen chúc lấp lại lỗ hổng, một viên sĩ tốt bên Ngô gào thét khản cả cổ, nhưng đáng tiếc là chẳng có mấy ai nghe thấy tiếng kêu của hắn, màn đêm tăm tối, đâu đâu cũng là cảnh hỗn loạn, không những không tìm thấy quân trống hiệu ở cạnh bên chờ lệnh, mà còn không có cách nào dùng đăng hỏa làm hiệu, hắn cắn răng mấy cái, giơ trường mâu lên rồi cũng lao vào trong dòng người đang trương phình ra chen chúc nhau tại lỗ hổng.

Tiếng kêu thảm vang lên tứ phía, những người đang đánh nhau gân cổ gào thét đều cảm thấy như ngay cả giọng của mình cũng không nghe thấy được, đâu đâu cũng là những binh sĩ đang xáp lại hỗn chiến tưng bừng, bên cạnh người đổ xuống không ngừng, nhưng cũng chẳng có ai bận tâm tới cả. Lương Hổ Tử bị vấp phải một thi thể, loạng choạng chúi người về phía trước mấy bước rồi mới đứng vững lại được, một tay kiếm thuẫn thủ cầm đoản kiếm sắc bén đâm tới, bị những hỗ binh bên cạnh hắn giương kiếm ra chống đỡ, Lương Hổ Tử đá một cước vào giữa chiếc khiên của hắn, khiến hắn bay ngửa ra sau, đang định lấn bước đâm tới bồi thêm một kiếm, nhưng không biết từ đâu lại đã có binh sĩ lao ra “phập” một tiếng, nhát kiếm đâm trúng vào cổ họng tên đó.

- Tướng quân!

Hỗ binh bên cạnh đỡ hắn đứng vững, Lương Hổ Tử định thần lại, chỉ cảm thấy trên má hơi man mát, thò tay lên lau thì mới cảm thấy đau rát, máu mê nhẫy nhụa khắp bàn tay, không biết bị mũi kiếm sượt qua từ lúc nào, hắn lại chẳng phát giác được ra.

- Không cần ham chiến, chỉ cần tập trung nhân mã, đánh thẳng tới đại trướng trung quân!

Lương Hổ Tử hạ lệnh với giọng nói khàn khàn.

- Rõ!

Những hỗ binh đứng sau lưng hắn lấy từ sau lưng ra một cái mõ, tiếng mõ khiến cho những bộ hạ đang tứ tán bốn phía tìm địch truy sát tập hợp lại, vừa mới điểm lại đội hình, Lương Hổ Tử liền vội vã vung kiếm lên, tiết tấu của tiếng mõ lại được thay đổi, quân Khánh Kỵ lấy Lương Hổ Tử làm trung tâm, xếp thành thế trận hình trữ chùy lao vào doanh trại quân Ngô.

Anh Đào lúc này đã mở ra một lỗ trên phòng tuyến của quân Ngô, kế hoạch tập kích bất ngờ của hắn thất bại, không phá hỏng được lầu quan sát của quân Ngô, đội quân của hắn xếp thành hình chữ truy lao thẳng vào doanh trại quân Ngô, quân Ngô từ hai bên cánh không ngừng được điều động tới đây, các loại đèn hiệu trên lầu quan sát không ngừng được thay đổi, thỉnh thoảng lại truyền đạt tình hình chiến trận tới đại doanh trung quân, khi thì lại truyền đạt quân lệnh tới quân sĩ bên cánh trái, truyền lệnh điều động quân lính phòng thủ bao vây lấy đám người ngựa của Anh Đào đang đột phá vào trong.

Quân Ngô bị những binh sĩ của Khánh Kỵ hung hãn liều mạng đâm đầu lao tới, chọc thủng một hàng tuyến rất sâu trong doanh trại, nhưng được sự chỉ huy của đèn hiệu, bọn họ nhanh chóng tập hợp thành những đội nhân mã phản công trở lại, hai đạo quân Ngô không ngừng tràn về phía đội quân của Khánh Kỵ, lợi dụng khuyết điểm trong thế trận hình chùy, chia cắt khu trung tâm của đối phương, xử lý sạch sẽ đám quân tiên phong của Khánh Kỵ lúc này đã tiến vào quá sâu.

Anh Đào cầm thanh trường mâu đầm đìa máu lao về phía trước, hắn được hàng trăm binh sĩ mặc giáp sắt, cầm kiếm sắc làm hỗ binh, dần dần áp sát tới lầu quan sát của quân Ngô.

Tiền phương, đèn đuốc sáng trưng, tướng quân Ngô Hạ Thiên đứng trước trận tiền, phía sau là đội ngũ chỉnh tề, đan xen chặt chẽ, đông vô số kể, mũi kích lăm lăm.

- Hảo hán tử, lại đánh được tới tận trướng soái của ta cơ đấy, có dám quyết một trận sinh tử với ta không?

Hạ Thiên trừng mắt nhìn, đanh giọng quát lớn.

Nếu là Anh Đào một năm trước, lúc này chắc hẳn đã cởi bỏ áo giáp, cởi trần cầm trường mâu ra tiếp nhận lời khiêu chiến của hắn rồi. Nhưng giờ đây…, hơn một năm qua, trước sau đã đi theo Khánh Kỵ và Tôn Vũ, pha trộn tính cách của hai nhân vật trên, bản tính vốn có trong dòng máu của Anh Đào đã bị biến chất từ lâu rồi.

Hắn đưa mắt láo liên, nhìn thấy rõ tình thế trước mặt, liền cười lạnh một tiếng, quát lớn:

- Tốc chiến tốc thắng, hạ thủ lầu quan sát, xốc thẳng tới trung quân của Cơ Quang!

Dứt lời ẩn vào trong những hỗ binh sát khí đằng đằng xông lên phía trước.

Hạ Thiên hai tay hai mâu, trông thấy hắn làm như vậy không khỏi ngạc nhiên, hắn còn chưa kịp phản ứng gì thì đã bị hàng trăm binh sĩ còn chưa động thủ từ nãy đến giờ bao bọc lấy Anh Đào xuất hiện, đám lính này trong tay ai cũng lăm lăm những chiếc nỏ Sở đắt đỏ, chỉ nghe thấy những tiếng lên dây cung, rồi sau đó là một trận mưa tên được bắn ra không chút do dự, đổ ập xuống đầu đám lính Ngô đang chúm chụm lại với nhau trong doanh trại.

- Hèn hạ!

Hạ Thiên trợn mắt hô to, hai chữ vừa mới thoát ra khỏi miệng, đã có hai mũi tên bắn vào trong miệng hắn, một mũi cắm xuyên, một mũi xuyên vọt ra ngoài, mang theo một luồng máu tươi, những mũi tên trúng vào người hắn càng không đếm xuể, đám quân Ngô tập hợp ở trước trận doanh đổ rạp như cắt lúa mạch vậy.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 205: Cắt đứt tay chân (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Không đợi Ngô quân ở phía sau kịp phản ứng, những cung tiễn thủ kia lại tiếp tục lạnh lùng rút tên ra, lên dây cung, lượt tên thứ hai lại được bắn ra. Sau đó là lượt thứ ba…, tiếng lên dây cung khủng bố đè nén những tiếng kêu thảm thiết, những mũi tên sắc bén có thể đâm xuyên bốn tầng áo giáp, huống chi là đám quân Ngô vừa mới thiu thiu thức dậy, đến cả áo giáp cũng chưa kịp mặc. Những mũi tên bắn xuyên qua cơ thể, từng hàng từng hàng thi thể quân Ngô chất đống chồng chất.

Loại nỏ Sở này được gia công rất tốn kém, ngay cả mũi tên thôi cũng đã đắt hơn nhiều so với mũi tên thông thường, Khánh Kỵ vốn định trang bị cho toàn quân loại vũ khí tân tiến này, nhưng đến khi sờ tận tay nó mới thấy là đống vũ khí này đốt tiền của hắn kinh khủng thế nào, đến cả một quốc gia giàu có như Sở quốc cũng không dám tiêu xài hoang phí, nên Khánh Kỵ chỉ trang bị cho một bộ phận quân chủ lực loại vũ khí này, hắn cũng không nghĩ tới vấn đề về lâu về dài, chỉ có nắm chắc hiện tại mới có được tương lai, đương nhiên phải dốc hết tiền lực vật lực, lần phạt Ngô này đã tiêu tốn tất cả, cho dù như vậy, hắn vẫn không thể đạt được mục tiêu trang bị cung nỏ Sở cho toàn quân, binh lính được cung cấp loại nỏ Sở này tổng cộng chưa đến hai nghìn người, lần quyết chiến này đã được đem đi sử dụng hết nhẵn.

- Giết!

Anh Đào trầm giọng gầm lên, soái lĩnh binh sĩ xông lên phía trước, giống như một trận cuồng phong, đạp trên những đống thi thể chất chồng như núi, tung bay trên không, một mâu đâm thẳng vào quân địch phía trước.

- Cấp tốc hủy diệt lầu quan sát!

Anh Đào gạt phăng một binh sĩ Ngô ra, thở hổn hển nói, bốn bề khí nộ xung thiên, tuy rằng thể lực quân Ngô yếu kém, đã không còn sức chiến đấu như trước, nhưng dù sao chúng cũng là người đông thế mạnh, hơn nữa chúng cũng biết được tầm quan trọng của lầu quan sát. Tiếng hô xung trận của Anh Đào chỉ là phí công phí sức, lấy mạng người để bù đắp, hắn cố sống cố chết xông tới dưới lầu quan sát.

Mười mấy binh sĩ cầm rìu bén bắt đầu lao lên trước đốn hạ khung trụ của lầu quan sát, một binh sĩ Ngô trúng tên nằm dưới đất nghe thấy tiếng nói của Anh Đào, biết được hắn là tướng của Khánh Kỵ, liền dùng chút hơi tàn đâm về phía bụng của hắn, Anh Đào hoảng mình cảm thấy dưới mặt đất có bóng người khẽ động đậy, vội né mình sang một bên, nhát kiếm đâm trúng đùi hắn, lập tức máu chảy ra như suối, mấy binh sĩ bên cạnh vừa giật mình vừa tức giận, lao lên trước đâm chém đủ kiểu vào tên lính Ngô kia, trong chốc lát thân thể hắn đã nhão nhoét như bùn.

- Đèn hiệu bên tả doanh bị hủy rồi!

Trong doanh trại chỉ huy của Ngô quân lập tức xôn xao, Cơ Quang lóe chớp mục quang, quát lớn:

- Truyền lệnh, tất cả quân sĩ tựa vào trung quân.

- Khoan đã!

Ngũ Tử Tư vội ngăn cản:

- Không được đâu đại vương, hiện tại tình hình chiến trận đang rất hỗn loạn, trước sau trái phải trận doanh đều có địch, địch ta lẫn lộn với nhau, một khi truyền lệnh tập hợp, quân địch sẽ tự động kéo lại đây, thừa cơ xông thẳng tới trung quân. Hiện tại tuy chúng ta đã mất thông tin về tình hình ba trại tiền tả hữu, nhưng vẫn có thể phát lệnh ra cho quân sĩ, nếu như lầu quan sát của trung quân bị hủy, dù có trăm vạn đại quân cũng chỉ như người mù cưỡi ngựa mù, chỉ còn biết mặc cho quân địch chém giết.

Cơ Quang nghe xong thì kinh hãi:

- Tướng quốc nhắc đúng lắm, vậy giờ chúng ta nên làm gì đây?

Ngũ Tử Tư nói:

- Chỉ còn cách lệnh cho quân sĩ ba doanh tiền tả hữu tập kết lại, tập trung cố thủ, đến khi trời sáng. Hậu doanh có thể tiếp cận được với trung quân phối hợp tác chiến.

Cơ Quang vuốt cằm nói:

- Được, cứ theo lời tướng quốc đi, truyền lệnh xuống dưới, hậu doanh áp sát trung quân, ba quân ở tiền tả hữu cố gắng phòng thủ, ngăn chặn quân địch công phá trận thế của ta đến khi trời sáng.

Doanh trại chỉ huy của trung quân của Cơ Quang thiết lập bốn lầu quan sát, bốn lầu quan sát lập tức phát đèn hiệu truyền đạt mệnh lệnh của Cơ Quang. Ánh đèn nhấp nháy cũng truyền đến bản trận của Khánh Kỵ, cờ hiệu đèn hiệu của quân Ngô hơi có chút sai khác so với trước, nhưng đại để giống nhau, muốn thay đổi cờ hiệu đèn hiệu, huấn luyện xuống toàn quân vào thời đó không phải việc dễ dàng, vì vậy Khánh Kỵ là tướng lĩnh của quân Ngô một năm trước vẫn có thể hiểu rõ tín hiệu đó là gì.

Hắn vừa nhìn vừa lý giải cho Tôn Vũ, Tôn Vũ nói:

- Cơ Quang quả nhiên sử dụng kế sách này, loạn trung thủ thắng, chặt đứt đầu não của địch trong đêm tối là một chuyện vô cùng khó khăn, giờ đây Cơ Quang đã sử dụng chiến thuật như vậy, chúng ta chỉ cần sử dụng kế hoạch hai là được.

Khánh Kỵ gật đầu:

- Một trận mà tiêu diệt được đầu não quả thực là vô cùng khó khăn, hắn mà chạy trốn trong đám loạn quân thì cũng khó mà bắt được, phương án hai quả là rất hợp với ý của ta, Cơ Quang lệnh cho các doanh trại tử thủ, còn mình thì rụt đầu không chịu chui ra, cờ hiệu đèn hiệu ở tam quân tiền tả hữu đã bị chúng ta triệt phá, tin tức từ các doanh trại không thể truyền tới chủ doanh được, hắn không nắm được tình hình, cũng không dám mạo muội dẫn quân đi tiếp ứng, phù hợp cho chúng ta tập trung binh lực, tiêu diệt sinh lực địch.

Tôn Vũ thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, vui vẻ cười nói:

- Hiện tại, đội quân dự bị của chúng ta có thể xuất trận được rồi, phối hợp với tiền quân, tiêu diệt tiền doanh địch trước.

- Ừ!

Khánh Kỵ đi tới trước sườn núi vài bước, tiếng hò hét dưới núi theo gió truyền tới, lúc trầm lúc bổng, ngược lại càng khiến người ta cảm thấy ngọn núi yên tĩnh lạ thường. Những ánh lửa dưới núi giống như bầu trời lấp lánh vì sao đêm, không biết rằng ở dưới đó đã có bao nhiêu sinh mạng vụt tắt trong muôn ngàn ánh sao đêm kia, đốt trụi những ánh sáng le lói cuối cùng của cuộc đời họ.

- Trận này không biết sẽ có bao nhiêu sinh mạng phải chôn vùi dưới núi rồi.

Khánh Kỵ trầm ngâm nói.

- Công tử, Cơ Quang hiện là đại vương Ngô quốc, ở trong lãnh thổ của Ngô quốc đã chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa. Dựa theo số lượng binh mã của chúng ta, chống chọi chính diện ở nơi mà quân địch chiếm được cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa, thì căn bản không có cơ hội chiến thắng. Cơ hội duy nhất của chúng ta chỉ có đêm nay thôi, nếu bỏ lỡ cơ hội này thì sau này sẽ không còn cơ hội nào khác nữa đâu.

Lương Hổ Tử, Anh Đào, A Cừu, Tái Cừu là bốn mũi tấn công mà ta bắn ra, mục tiêu của họ chính là đâm thẳng vào giữa lòng địch, chặt đứt bộ máy chỉ huy của chúng, mang ý nghĩa sống còn trong cuộc chiến. Nếu như có thể giết được Cơ Quang, toán đại quân này công tử có thể sử dụng tùy ý, đó là kết cục tuyệt vời nhất. Thế nhưng cho dù Cơ Quang có sai lầm triệu hồi các lộ đại quân quay về tập trung ở bổn trận, thì việc tru sát đầu não của quân địch trong đêm đen này cũng không dễ dàng. Bây giờ hắn lệnh cho các doanh cố thủ, chúng ta phải kịp thời thay đổi chiến thuật, chặt đứt vây cánh của hắn, cắt bỏ tứ chi của hắn! Trận này chúng ta buộc phải thắng, chỉ có chiến thắng mới có thể tránh được những hy sinh to lớn về sau.

Lời nói của Tôn Vũ lạnh lùng đanh thép, ẩn chứa trong đó là dòng máu nóng nhiệt huyết nhưng cũng rất quyết đoán vô tình. Khánh Kỵ quay sang nhìn hắn, sắc mặt gầy ốm của hắn có chút tiều tụy, chỉ có đôi mắt là vẫn sáng tinh.

Khánh Kỵ đột nhiên nhớ tới câu chuyện Tôn Vũ luyện binh hồi trước, Ngô vương cho Tôn Vũ sử dụng tùy ý ba trăm cung nữ trong cung vào việc luyện binh, Tôn Vũ nhiều lần nói rõ kỷ cương quân luật, nhưng đám mỹ nữ chỉ tưởng là đại vương đang chơi trò chơi, cười đùa giễu cợt không thèm nghe theo quân lệnh, Tôn Vũ không chút do dự, sai người bắt giữ hai phi tần mà Ngô vương sủng ái nhất, dựa theo quân pháp chặt đầu thị uy. Nếu đổi lại là mình, thì đừng nói là những mỹ nhân vạn người có một, tuyệt sắc gi­ai nhân đó, ngay cả những nữ nhân hết sức bình thường thì e là cũng không nỡ hạ thủ mất! Lòng dạ đàn bà, hại người hại mình, đã đến thế giới này rồi thì phải tuân theo luật lệ của nó, lúc này không phải là lúc động lòng trắc ẩn đối với những binh sĩ cũng là người Ngô kia.

Khánh Kỵ nghiêm nghị gật đầu, khẽ vỗ bờ vai Tôn Vũ, nói giọng nhỏ nhẹ:

- Trận này, do ngươi chỉ huy, hạ lệnh đi nào!

- Thuộc hạ tuân lệnh!

Tôn Vũ chắp hai tay vào nhau, phần giáp tay va vào nhau kêu đoanh đoách, quay người mạnh bước đi ra.

Đội quân dự bị nghỉ ngơi dưỡng sức, nãy giờ chưa hề động tĩnh gì giống như bầy sói phục ẩn khắp ngọn núi, sau khi Tôn Vũ phát đèn hiệu, liền thi nhau lao ra từ trong rừng rậm. Bọn họ không hề hò hét, không khua chiêng gõ trống, từ rừng rậm chỉ phát ra những tiếng bước chân rầm rập, bọn họ xung phong trong im lặng, như làn sóng dữ điên cuồng lao về phía doanh Ngô chém giết.

Trong cuộc chiến điều cốt yếu không phải là kỹ thuật của từng binh lính, mà là sự điều động tài tình của người chủ soái. Lần tập doanh của Tôn Vũ lần này, quân trận binh lực điều động phối hợp rất đẹp mắt có quy củ, hoàn toàn đột phá so với những quy củ lề thói cũ trong tác chiến đánh giáp lá cà trước đây của tiền bối đi trước, sử dụng quân chủ lực cơ động đến mức tuyệt hảo, tình hình chiến trận lúc này là quân đội Khánh Kỵ xâm nhập vào phòng tuyến địch, đánh úp bất ngờ, xông thẳng vào doanh trại địch, cắt đứt sự liên hệ giữa các trại với trung quân. Ngô vương Cơ Quang bất lực trong việc liên lạc với các trại, buộc phải hạ lệnh quân đội các trại cố thủ, lúc này quân đội dự bị của Khánh Kỵ lập tức nắm bắt lấy cơ hội tham gia chiến đấu. Quân của Lương Hổ Tử và Anh Đào đang tấn công hai cánh lập tức có chút điều chỉnh, từ sau đánh bọc sườn, chia cắt trung quân của Ngô với hậu doanh, bay vây toàn bộ quân Ngô trong ba trại tiền tả hữu ở giữa.

Nếu như vậy, xét về binh lực thực tế trong trận chiến của đôi bên, thì quân của Khánh Kỵ tham chiến đông hơn, quân lính của Khánh Kỵ tràn trề thể lực và sĩ khí, được sự chỉ huy và điều động có trật tự, còn quân Ngô ở ba trại lúc này thể lực yếu ớt, chỉ huy thiếu nhạy bén, sĩ khí giảm sút, đánh nhau đơn lẻ, không có liên kết, sức chiến đấu nhanh chóng tụt lùi, đến cả ba phần chiến lực cũng không phát huy ra nổi. Trong bóng tối dày kịt trở thành những con dê ngoan ngoãn cho bầy hổ lang chi sư của Khánh Kỵ thỏa thê làm thịt.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 206: Moi gan (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Trong doanh trại quân Ngô, Cơ Quang đang đứng trên vọng cao quan sát. Khi tả doanh thất thủ, tâm trạng hắn bỗng trầm lắng xuống đôi chút, sắc mặt trở nên khó coi:

- Tại sao lại…, tên Khánh Kỵ rốt cuộc có bao nhiêu quân? Hắn làm sao dám sử dụng toàn bộ binh mã hiện có vào trận đánh này với quả nhân? Tại sao trong thời gi­an ít ỏi như vậy hắn có thể đoạt được một lúc ba trại của ta. Lẽ nào… lẽ nào thành Cô Tô đã thất thủ?

- Đại vương cả nghĩ rồi.

Ngũ Tử Tư co chặt hàng lông mi, thái độ bần thần nói:

- Thái tử điện hạ đã gửi thư hàm tới, trong thư nói rằng tuy rằng Khánh Kỵ có tấn công thành, nhưng cũng không gây thiệt hại đáng kể gì cho thành trì cả. Điện hạ nghe theo lời căn dặn nên sẽ tuyệt đối không rời khỏi thành nửa bước, hiện đã phái tín sứ đi gọi Phu Khái công tử đem binh mã trở về tấn công Khánh Kỵ. Với tình hình này thì Khánh Kỵ đừng mong lấy được thành Cô Tô, thần chỉ lo…

Bá cầm kiếm đứng kế bên, không nhịn nổi được nữa nói:

- Tướng quốc đại nhân lo lắng điều gì? Bọn chúng có khả năng tấn công trực diện vào bản trại của chúng ta ư?

Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, ngón tay chỉ về phía trước, khẽ đưa đẩy cánh tay:

- Điều ta lo lắng, một là tình cảnh hiện tại, một là Cô Tô. Thế tấn công của địch hiện tại là rất quyết liệt, nhưng mục đích thực sự của chúng vẫn còn khá mù mờ. Xem cách bọn chúng liên tiếp tập kích đánh chiếm mấy đại doanh, dường như là muốn cắt đứt liên lạc giữa các doanh trại, rồi nhân cơ hội giành lấy trung quân. Tuy nhiên một khi chúng ta ra lệnh các trại tập trung quân bày binh bố trận, thì sự tấn công về trung quân sẽ giảm xuống tới mức tối đa, hiện tại bên ngoài tiếng chém giết đang kịch liệt, tựa hồ các quân đã bị chia cách, loại trừ những điều đó ra…

Hắn còn chưa nói dứt lời, Cơ Quang đã chặn ngang:

- Quả nhân muốn tập kết binh lính lại cũng chính là lo lắng gi­an kế của chúng. Tướng quốc đã nói như vậy rồi thì hãy lệnh cho các lộ quân mã tập kết tại trung quân đi.

Ngũ Tử Tư cười nói:

- Đại vương nhìn xem, các doanh trại đều lửa cháy ngút trời, địch ta đã không còn phân biệt được nữa, muốn bọn chúng cũng tập kết lại chĩa mũi nhọn vào chúng ta? Như vậy chẳng phải là mở cổng doanh trại mời kẻ địch vào cùng đó sao? Lúc đó hàng trăm ngàn binh sĩ hỗn chiến với nhau trong đêm đen, việc điều động chỉ đạo binh lính mất hoàn toàn tác dụng, thể lực của binh sĩ bên ta còn đang chưa hồi phục, khi bị tập kích đã hoảng loạn nao núng mất vài phần, làm sao có thể đối phó với một cuộc hỗn chiến như vậy được? Lúc đó thì ngay cả trung quân và hậu doanh cũng đều rơi vào thế bị động hết.

Lại nói thêm, Vương Tôn Hùng từng nói bên cạnh Khánh Kỵ có một nữ kiếm khách tên Quý Tôn Tiểu Man, kiếm thuật siêu quần, lại có sở trường về khinh thân thuật. Thần đã điều tra rõ ràng, thị nữ tên Quý Tôn Tiểu Man đó là thành viên trong gia tộc Quý Thị ở Lỗ quốc, học kiếm thuật của kiếm khách đệ nhất lừng lẫy một thời ở Lỗ quốc là Viên Tố. Quý Tôn Tiểu Man từng ở trong quân binh của Khánh Kỵ học hỏi kiếm pháp của Viên Thị hồi còn ở Vệ quốc Ngải Thành. Thần lo ngại, tên Viên Tố đó cũng đầu quân dưới trướng của Khánh Kỵ. Có một cao thủ như vậy ở phe địch, nếu như hắn còn dẫn theo dăm ba chục tên đệ tử tâm phúc đắc lực theo, giữa cuộc hỗn chiến thiên binh vạn mã trà trộn lẫn lộn với nhau, nhân lúc đêm tối lấy đầu chủ tướng, cho dù chúng ta có hùng binh vô số, cũng không thể cứu vãn được tình hình, đại vương là linh hồn của toàn quân, làm sao có thể để người rơi vào tình cảnh hiểm nghèo như vậy được?

Cả Cơ Quang và Ngũ Tư Tư đều là những kẻ rất giỏi sử dụng thích khách, bọn chúng thành thạo việc dùng thích khách, nên cũng không có gì là lạ khi chúng lo lắng người khác dùng cách tương tự để đối phó với mình. Cơ Quang dừng bước nói:

- Thế này không được, thế kia cũng không được, lẽ nào ta cứ giương mắt đứng trơ tại nơi này, nhìn Khánh Kỵ xơi tái đại quân của mình sao?

Ngũ Tử Tư nói:

- Trung quân của đại vương là nơi ổn định toàn quân, chính vì trung quân của đại vương vững như bàn thạch, nên chư tướng mới có thể an tâm mà chiến đấu. Một khi lầu chỉ huy của trung quân thất thủ, khi đó thì dù chúng ta có nhiều người hơn nữa cũng sẽ bị Khánh Kỵ đánh cho đại bại. Đại vương đừng vội vàng nôn nóng, đợi khi hậu doanh hợp với trung quân, lúc đó có thể lệnh cho binh sĩ phân quân ứng cứu tam doanh.

Cơ Quang nghe xong, thở gấp một hơi dài bất nhẫn. Bá tâm tư kín đáo, ghi nhớ hai điều lo lắng của Ngũ Tư Tư, hỏi liến thoắng:

- Tướng quốc đại nhân, còn có một điều lo lắng về thành Cô Tô, rốt cuộc là thế nào?

Ngũ Tử Tư nói:

- Ta lo lắng Khánh Kỵ tiến đánh trung quân của ta là trong thực có hư, một khi biết là không thể, liền chuyển sang diệt trừ các cánh bao bọc quân ta, nhưng thực sự việc diệt trừ vây cánh bao bọc trung quân mới là trong thực có hư. Ý đồ thực sự của hắn chính là thành Cô Tô mà hắn chưa thể tìm ra biện pháp công hạ.

Thành Cô Tô là căn cơ của Cơ Quang, những công khanh quý tộc có quyền có thế ở Ngô quốc phần đông đều sinh sống tại tòa vương thành này. Nơi đây là biểu tượng vương quyền của Ngô quốc, không chỉ chứa đựng những tiền tài của cải của toàn bộ Ngô quốc, mà hiện tại còn đang lưu giữ của cải khổng lồ của kinh thành Dĩnh Đô Sở quốc. Một khi Cô Tô thất thủ, Khánh Kỵ vốn đã danh chính ngôn thuận sẽ đường đường chính chính đăng kế vương vị, trừ gạt toàn bộ những kẻ chống đối. Cơ Quang nghe vậy thì chột dạ, vội vàng hỏi:

- Bọn chúng nhắm vào Cô Tô thành là sao? Tướng quốc mau nói rõ xem nào.

Ngũ Tử Tư quặp đôi lông mày, nói:

- Lợi dụng đêm tối tập kích đoạt lấy trung quân chỉ là trung sách. Nếu như làm cho đại vương bị thương thậm chí… thì Khánh Kỵ đã thành công một nửa; Buộc quân ta cố thủ, lợi dụng thời cơ triệt hạ vây cánh của ta, là hạ sách, để giết một ngàn quân của ta thì cũng phải mất tám trăm quân. Hiện tại Khánh Kỵ không có binh lính bổ sung. Hắn không thể giết được đại vương, mà chỉ làm cho chúng ta dồn dập hơn, đợi khi các cánh quân chủ lực của ta từ Hàn Ấp và Ngự Nhi thành trở về, lúc đó kẻ bại vong sẽ là hắn.

Còn thượng sách… thần lo rằng Khánh Kỵ dốc hết quân số, không nề hà tổn thất tấn công quân đội của đại vương, chính là muốn ngụy tạo khung cảnh đang bao vây toàn diện quân ta, thái tử là người con có hiếu, hiện đang cố thủ tại thành Cô Tô. Khánh Kỵ không có cách nào công hạ được. Nếu bây giờ nghe tin đại vương gặp nguy, e là sẽ bất chấp tất cả xuất thành đi cứu viện cho đại vương. Lúc đó cho dù Khánh Kỵ chỉ còn một nửa binh mã, nhân lúc thành trì trống trải cướp lấy Cô Tô, như vậy đã có thể làm chấn động cả Ngô quốc rồi.

Khi đó, những quan viên địa phương trước đó thần phục uy nghiêm của đại vương sẽ quay đầu sang trướng của Khánh Kỵ, khi đó hắn muốn xin thêm viện binh cũng chẳng phải khó khăn gì. Cho dù quân ta binh lực vẫn còn, nhưng căn cơ đã mất, muốn nuôi dưỡng những binh sĩ như vậy cũng chẳng thể làm được, lẽ nào đại vương lại túng quẫn đi cướp đoạt những phần lương thực cuối cùng của con dân Ngô quốc? Nếu làm như vậy, thì Ngô quốc sẽ rơi vào tay Khánh Kỵ nhanh hơn thôi.

Chăm chú nghe phân tích của Ngũ Tử Tư, Cơ Quang liền hít một hơi dài, lập tức tỉnh cơn mê:

- Tướng quốc nói đúng lắm, với tính cách của con ta, nếu như quả nhân gặp nạn, nó chắc chắn sẽ bất chấp mọi giá đến đây cứu viện.

Cơ Quang nói xong, tháo bội kiếm giắt bên hông ra quát:

- Người đâu!

Hai tên cận vệ thiết thân từ dưới đi lên, chắp tay đáp:

- Đại vương!

- Cầm lấy bội kiếm của ta, mang theo một toán binh mã liều chết thoát khỏi vòng vây, đi tới thành Cô Tô, lệnh cho thái tử cố thủ thành trì không được ra ngoài, kẻ nào trái lệnh chém.

Hắn giương to cặp mắt, nghiêm nghị nói:

- Nghe cho rõ đây, quả nhân sẽ điều binh từ Hàn Ấp và Ngự Nhi thành tới tiếp viện, chín ngàn binh lính phòng ngự ở Cô Tô thành, một binh một tốt cũng không được xuất thành, kể cả quả nhân có chết cũng tuyệt đối không được rời khỏi thành nửa bước!

- Rõ!

Mấy tên cận vệ dùng hai tay nhận kiếm, tâm trạng hoang mang đi ra.

Cơ Quang quay người lại, trông thấy trên lầu quan sát đã đưa tín hiệu, cho biết hậu trại đã nhổ trại, bắt đầu tới đây hội quân. Xem ra quả nhiên là binh lực thực tế của Khánh Kỵ có hạn, nếu không vào lúc này hắn dẫn một lộ binh mã, thừa lúc đại quân điều động đánh úp hậu doanh, như vậy thì hết sức gay go.

Cơ Quang trầm ngâm nói:

- Kỳ lạ, Khánh Kỵ dụng binh trước đây luôn là lúc lên lúc xuống, lúc co lúc giãn, cho dù là ba ngàn đối lại mười vạn, cũng luôn sử dụng trận pháp liều chết tấn công, tại sao bây giờ dụng binh lại khác trước nhiều vậy?

Bá chen miệng nói:

- Những tướng lĩnh mà Khánh Kỵ sử dụng đại để đều là những người hồi trước theo hắn chạy tới Vệ quốc. Những tướng từ bên ngoài, chỉ có Tôn Vũ và Anh Đào, hai người này đều chỉ mới ngoài đôi mươi, chẳng lẽ là bọn chúng hiến kế cho trận đánh ngày hôm nay?

Ngũ Tử Tư mỉm cười khinh miệt, không đồng tình nói:

- Tôn Vũ Anh Đào? Hạng con nít vô danh mà thôi, đâu đáng để nhắc tới. Người gặp đại nạn thì tâm tư tự khắc thay đổi. Khánh Kỵ từ sau khi bị Yêu Ly ám sát, chết đi sống lại ở Trường Gi­ang, mọi hành vi đã khác xưa rất nhiều. Đại vương, hậu doanh đã sát nhập với chúng ta, vậy hãy lập tức lệnh cho quân sĩ chia quân thành hai ngả, cứu viện cho hai cánh quân tả hữu.

Bá buột miệng nói:

- Thế còn tiền doanh thì sao?

Ngũ Tử Tư đảo mắt, nhìn về phía xa là ba doanh trại đang lửa cháy khắp nơi, nói giọng thâm trầm:

- Khánh Kỵ trước tiên sẽ phá tiền trại của ta, sau đó chia binh sang đâm vào cánh sườn quân ta, quân lính ở tiền doanh… e là đã không thể cứu vãn được nữa, chỉ còn mong bọn họ tự lực cánh sinh cứu lấy chính mình, tử thủ đến cùng thôi, nếu như cầm cự được đến khi trời sáng, thì tức là họ đã giành được thắng lợi, nếu không…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 206: Moi gan (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Tiền quân sớm đã tan rã, Khánh Kỵ dùng hỏa ngưu công phá doanh trại, sau đó đem đại quân công kích, những nhóm quân chia thành từng ngũ, lưỡng tư mã, tốt ngang nhiên chọc xuyên qua doanh trại, gạt bỏ đám quân lính hoảng loạn như rắn mất đầu người Ngô lại đằng sau, chia quân ra công kích hai cánh tả hữu và trung quân, ý chí chiến đấu của binh lính ở tiền doanh đã hoàn toàn tiêu tan.

Bọn họ chạy tán loạn trong doanh trại, không có trật tự, không có chỉ huy, phân lẻ như bãi cát vụn tự lo chiến đấu, chỉ biết tiện tay chọc kiếm đâm mâu ra đám quân Khánh Kỵ đang chú tâm lao về phía trước một cách yếu ớt để giữ mạng mà thôi. Trong thời điểm hỗn loạn như thế, quân dự bị của Khánh Kỵ đã tới.

Đội quân tràn trề sinh lực đó đang lao thẳng về phía họ, những đội hình chữ ngũ hiển hiện trong tiền doanh quân Ngô, chia thành từng năm hàng một, hàng ngàn binh sĩ tinh thần đang hưng phấn, thể lực dồi dào buộc khăn trắng trên đầu, tỏa sáng lạ thường trong đêm tối. Mấy ngàn cái đầu trắng bệch mang đến hàng ngàn nỗi sợ hãi màu trắng tang thương, bất cứ binh sĩ nào cản đường tiến của đoàn quân này, chỉ cần trên đầu không buộc khăn trắng làm dấu, đều sẽ bị vô số những kiếm kích trường mâu đổ ập xuống mà chém, mà đâm tới tấp, toàn bộ đội quân nửa đi nửa chạy lao về phía trước, những nơi đi qua tử thi rải rác.

Một bên có tổ chức, có trật tự, còn một bên thì hoảng loạn bất kham, thân ai nấy lo chiến đấu, thì cho dù là quân số bằng nhau cũng sẽ xuất hiện một cách biệt vô cùng lớn. Huống hồ giờ đây quân Ngô đã bị tiêu tan cả về tâm lý. Đối diện với đội quân dự bị dày đặc, xếp thành từng trận hình như nêm cối của Khánh Kỵ, quân Ngô tiền doanh đổ vỡ mạnh mẽ, binh sĩ đã mất hết dũng khí chiến đấu, bắt đầu vứt bỏ vũ khí bỏ chạy tán loạn về cánh đồng rộng lớn hai bên, lao về phía bóng núi xa xa tối tăm trước mặt.

Cảm giác sợ hãi nhanh chóng lan ra, kiếm kích đâm sát phía sau lưng nhưng chẳng có ai nghĩ tới việc cầm đao ngăn cản, chỉ biết sải rộng đôi chân, chạy trốn với tốc độ nhanh nhất có thể, không mong chạy qua quân địch, chỉ mong chạy qua đồng đội, lấy đồng đội làm lá chắn thịt sống để giành lấy chút ít cơ hội sống sót cho bản thân mình. Tiền doanh quân Ngô hoàn toàn rơi vào tình trạng hỗn loạn, những binh sĩ chết và bị thương chưa tới một nửa, đại bộ phận binh sĩ còn lại đều quay đầu chạy trốn vào trong vùng sơn cốc hoang sơ…

Hậu doanh quân Ngô chia quân ra làm hai đường, vòng ra hai bên tả hữu doanh gi­ao tranh với hậu quân của Lương Hổ Tử và Anh Đào, tình hình chiến trận ở ba doanh trại kia thế nào, binh sĩ thương vong ra sao, hiện tại bên nào đang nắm thế thượng phong, Ngô vương ở trong đại doanh quân Ngô hoàn toàn không hề hay biết. Do quân của Khánh Kỵ lập thành từng tiểu đội xếp thành đội hình rõ ràng lưu động tác chiến độc lập với nhau, khiến phương thức truyền tin của quân Ngô bị mất tác dụng, binh không tìm được tướng, tướng không gọi được binh, đến nỗi toàn bộ chiến trường giống như một nồi bùn nhão.

Cảm tưởng như trước sau trong ngoài, chỗ nào cũng có thể đụng độ những tiểu đội đầu buộc khăn trắng đang chém giết điên cuồng chạy loạn khắp nơi. Đám binh lính được phái đi tiếp viện trong tình hình này không phát huy tác dụng được là mấy, bọn họ giống như nhảy vào vũng bùn lầy để cứu đồng đội đang ngập ngụa trong đống bùn lầy nhớp nháp vậy, hoàn toàn không thể phát huy được ưu thế của đội quân còn sung sức. Khiến cho một vị lữ soái đi tiếp viện hữu doanh xung phong lên đầu cũng phải nổi gân xanh cuồn cuộn, không khỏi nghĩ dại trong đầu:

- Giá như mà đám binh lính quân ta ở hữu doanh chết sạch hết rồi có phải tốt hơn không, còn hơn là bây giờ cứ phải tìm kiếm trong đám loạn quân, không biết đâu là ta đâu là địch này nữa.

- Không được, quả nhân phải đích thân lãnh binh tiếp ứng!

Cơ Quang không nhận được tin tức chính xác, không thể nắm bắt được tình hình chiến trường, ruột gan cồn cào như kiến bò trên chảo nóng, hắn chạy qua chạy lại trong trướng trung quân như con dã thú bị vây khốn, bỗng dưng không thể chịu đựng thêm được nữa gầm thét rút kiếm ra.

Ngũ Tử Tư cũng rất ư lo lắng, nửa đêm qua đã lâu, tiếng kêu giết vẫn chưa ngừng, doanh trại trung quân của họ ít chịu ảnh hưởng của cuộc tấn công nhất, một mặt cho thấy binh lực của đối phương là có hạn, hai đạo binh mã được điều đi tiếp ứng đã phát huy tác dụng, thành công trong việc ngăn cản bước tiến của quân đội Khánh Kỵ, nhưng một mặt khác điều đó cũng khiến bọn họ hoàn toàn không có khả năng nắm giữ tình hình chi tiết ở tuyến đầu.

- Xin đại vương lấy ba quân làm trọng, tuyệt đối không được đưa mình vào chỗ nguy hiểm, về chiến sự tiền phương…

Ngũ Tử Tư dựng đứng hàng lông mày trắng toát:

- … hãy để thần dẫn viện binh đi cho!

Dứt lời, hắn không đợi Cơ Quang đáp lại, nói với Bá:

- Xin Bá tướng quân bảo vệ đại vương, giữ vững bản trận.

Bá đáp:

- Tướng quốc đại nhân, hay là để mạt tướng đi cho.

Ngũ Tử Tư nói:

- Không, chưa có được chút thông tin nào từ tiền phương, lão phu cũng cảm thấy không an tâm, đại vương, xin chớ u sầu, thần sẽ dẫn binh đi tiếp viện ngay đây!

Ngũ Tử Tư mắt điếc tai ngơ, bước nhanh ra khỏi đại trướng, cao giọng ra lệnh:

- Đi, bốn góc lầu gác phát tín hiệu, nổi trống trận trong trại, thông cáo cho tướng sĩ các doanh trại, đại vương chỉ huy ở trung quân , nửa bước không lùi! Tướng quốc Ngũ Viên, đích thân dẫn đại quân tăng viện!

- Rõ!

Bên ngoài đáp lại một tiếng. Ngay sau đó, đèn hiệu ở bốn lầu gác bật lên, tiếng trống trận trong doanh trại nổi lên đì đùng, Ngũ Tử Tư đích thân dẫn theo một đội binh mã, mở viên môn giết ra ngoài.

Tình hình chiến trận ở hữu doanh do Lương Hổ Tử phụ trách vô cùng thảm khốc, đội dự bị của Khánh Kỵ sau khi tham chiến, với lợi thế tập trung được binh lực, đã áp chế được sinh lực quân Ngô, sau khi giải quyết được chiến sự tiền doanh, lập tức tràn quân sang tả doanh, hội quân với Anh Đào và A Cừu, trong ta có địch, trong địch có ta, mở rộng quy mô một cuộc hỗn chiến, còn cánh phải hoàn toàn gi­ao cho Lương Hổ Tử và Tái Cừu phụ trách.

Sau khi đội quân tiếp viện thứ nhất của quân Ngô tới, tuy rằng không mang lại mấy hiệu quả do chiến trường hỗn loạn, gây ra một áp lực tương đối lớn cho quân đội, nhưng hắn biết rằng quân mình trụ vững ở đây thêm lúc nào thì sẽ càng nắm chắc phần thắng hơn, nên quyết định dẫn một đội binh mã từ trong trung quân lao tới chiến đấu, cổ vũ sĩ khí toàn quân. Cuộc chiến vô cùng tàn khốc, hai bên chỉ có binh sĩ chết trận, ít khi có binh sĩ bị thương còn sống sót, không có ai kịp mang những chiến hữu bị thương ra khỏi vòng chiến, và một khi bị thương, thì cho dù là thủng bụng lòi ruột, người chiến sĩ đó cũng chỉ còn biết cắn răng mà tiếp tục chiến đấu, một khi ngã xuống, bất cứ lúc nào cũng có thể bị đối phương bồi thêm một kiếm nữa.

Người áp người, người giẫm người, tiếng kiếm đâm rìu bổ không ngớt bên tai, những tiểu đội của Khánh Kỵ phân tán ra khắp nơi chỉ cần có chút lơ là, hoặc bị đả thương, bị tụt lại đội ngũ đang chạy phía trước, liền ngay lập tức sẽ bị loạn kiếm của kẻ địch phanh thây. Vào lúc này, chẳng có mấy ai có đủ sức đi cứu người đó, điều duy nhất mà người sống có thể làm được là giết thêm vài tên địch nữa để báo thù cho người đã khuất. Cảnh ngộ thê thảm của quân Ngô còn lớn hơn rất nhiều, bởi mặc dù quân số bên họ đông đảo, nhưng lại không có tổ chức, cho dù tướng lĩnh đứng trong hàng ngũ hét khản cổ, cũng không làm sao để tập hợp binh sĩ xung quanh lại bên cạnh mình được.

Lương Hổ Tử dẫn theo một toán quân lao ra từ trong đoàn người dày đặc, một tay giữ kiếm, hơi thở hổn hển. Hắn chẳng có lúc nào được ngơi tay từ nãy đến giờ, thể lực bị giảm sút một cách nghiêm trọng. Trước mặt một toàn quân Ngô đang lao tới, chẳng kịp nghĩ ngợi gì liền vung kiếm nhấc mâu lao tới chém giết.

Nhưng khí thế và tốc độ của đám quân Ngô cũng không linh hoạt cho lắm, hơi thở từ trong lồng họng cứ như bị xẹp lép vậy, hai bên đại chiến đến lúc trời gần sáng rồi, binh sĩ của Khánh Kỵ đến sớm trước hai ngày, đã được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng tinh thần đầy đủ, vậy mà lúc này còn cảm thấy mệt mỏi, huống chi là đám nhân mã lặn lội đường xa mà vẫn chưa được nghỉ ngơi một giây một phút nào kia.

- Giết!

Lương Hổ Tử là chủ tướng, bên cạnh có rất nhiều hộ binh, nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ an toàn cho hắn, trông thấy tình hình như vậy không dám chậm trễ, lập tức giương binh khí lao lên phía trước, hai bên đan quân vào nhau, chỉ trong chốc lát, trên mặt đất lại ngổn ngang một đống thi thể nhầy nhụa, máu mê be bét, nhuộm đầy bãi cỏ.

Đột nhiên, phía trước vang lên tiếng giết rầm trời, lại là một đội binh mã nữa lao tới. Lúc này trời đã gần sáng, chân trời đã xuất hiện vệt màu trắng bạc, Lương Hổ Tử chống kiếm nheo mắt dò xét qua ánh sáng ban mai le lói, thì ra không biết tự lúc nào đã đánh tới hậu phương hữu doanh của quân Ngô, đội quân đó là đội quân từ trong đại trướng trung quân của Ngô đi ra, vừa hay đụng đầu ngay với hắn.

- Lại là một đám quân nữa, Cơ Quang lại tăng binh rồi!

Trong lòng Lương Hổ Tử khẽ cả kinh, lập tức dặn dò:

- Rút về, dụ địch sa vào hỗn chiến!

Dứt lời mặc kệ đám nhân mã kia, dẫn theo binh sĩ của mình rút lui. Đội quân kia chính là toán quân sung sức do Ngũ Tử Tư đích thân thống lĩnh, bọn họ vừa tới, đám quân của Khánh Kỵ ở vòng ngoài không kịp trở tay rút lui đành đứng mũi chịu sào, tiếng kêu thét kinh hoàng, thống thiết không ngừng vang lên kèm theo những tiếng kiếm kích gi­ao tranh khắp nơi.

Đội quân Ngô tiếp viện lao tới như thủy triều, chọc thẳng vào giữa không gì ngăn cản nổi, nhưng chỉ xâm nhập được vào trong chừng chưa tới trăm bước, liền bị trận hỗn chiến ác liệt làm phân tản đội hình, bị sa lầy vào trong cuộc hỗn chiến loạn xà ngầu.

- Giết, giết!

Đội quân Ngũ Tử Tư dẫn tới vẫn chưa hoàn toàn tham chiến, bởi vì phía trước hỗn chiến, tốc độ di chuyển chậm chạp, đội hình phía sau uốn khúc như rắn cuộn, đúng vào lúc này ở xa xa lại cất lên tiếng chém giết, hai đội nhân mã giết ra ngoài từ tả doanh quân Ngô, hình như kéo sắc, vừa chọc thẳng bảy tấc vào con “trường xà”(chỉ đoàn quân tiếp viện của Ngũ Tử Tư) kia, vừa trực tiếp lao thẳng vào trung quân của Cơ Quang.

Tiếng kêu giết ngập trời, không ít binh sĩ đang hỗn chiến trong bản doanh đều sợ hãi nhìn lại, Ngũ Tử Tư và Lương Hổ Tử nhìn về phía đó, không khỏi vừa mừng vừa lo, hai người lúc này đều nghĩ: “Trận doanh cánh trái, đừng mong thoát!”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 207: Thừa thắng truy sát (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

- Giết, giết!

Đội quân Ngũ Tử Tư dẫn tới vẫn chưa hoàn toàn tham chiến, bởi vì phía trước hỗn chiến, tốc độ di chuyển chậm chạp, đội hình phía sau uốn khúc như rắn cuộn, đúng vào lúc này ở xa xa lại cất lên tiếng chém giết, hai đội nhân mã giết ra ngoài từ tả doanh quân Ngô, hình như kéo sắc, vừa chọc thẳng bảy tấc vào con “trường xà”(chỉ đoàn quân tiếp viện của Ngũ Tử Tư) kia, vừa trực tiếp lao thẳng vào trung quân của Cơ Quang.

Tiếng kêu giết ngập trời, không ít binh sĩ đang hỗn chiến trong bản doanh đều sợ hãi nhìn lại, Ngũ Tử Tư và Lương Hổ Tử nhìn về phía đó, không khỏi vừa mừng vừa lo, hai người lúc này đều nghĩ: “Trận doanh cánh trái, đừng mong thoát!”

………………

- Chỉ thiếu chút nữa thôi!

Tôn Vũ khẽ thở dài

- Nếu như màn đêm kéo dài thêm một canh giờ nữa thôi, thì chúng ta đã có thể giết vào trong trung quân của Cơ Quang rồi.

Hắn cầm kiếm lên, áo giáp ở bả vai rách một vệt lớn, máu tươi từ bên trong trào ra nhuộm đỏ một bên áo giáp. Đó là một vết giáo cắt, nếu lúc nãy không phải là Khánh Kỵ dùng mâu đẩy ra, làm chệch hướng đi chiếc giáo của Ngũ Tử Tư, thì Ngũ Viên đã một giáo chặt phăng thủ cấp của Tôn Vũ rồi.

Khánh Kỵ xoa xoa bờ vai của Tôn Vũ, nói nhẹ:

- Đi băng bó vết thương đó đi, chúng ta có thể làm được như vậy đã là một kỳ tích khó tin lắm rồi.

Hắn giương mắt nhìn ra xa, trên chiến trường tử thi la liệt, xác chết ngổn ngang, dường như chẳng có nổi một chiến sỹ nào lành lặn cả.

- Công tử, việc thống kê quân số đã cũng tương đối rồi.

A Cừu người đầy máu nhơ chạy lại, trong đó có máu của hắn, cũng có máu của kẻ khác, người này ăn mặc như con nghé con, trên người có vô số vết thương, có vết thương đã được băng bó xong xuôi, có vết thương vẫn để hở, nhưng hắn vẫn chẳng hề bận tâm tới.

- Tình hình thương vong thế nào, còn bao nhiêu người có thể chiến đấu được tiếp?

Khánh Kỵ sốt ruột lại gần hỏi.

- Dạ…, à….

Đôi mắt ngưu nhãn của A Cừu cứ chớp chớp, bỗng nhiên quên béng sạch những con số trong đầu.

- Công tử, trận này quân ta có ba ngàn bảy trăm binh sĩ tử trận, trọng thương một ngàn chín trăm người, bị thương nhẹ nhưng vẫn còn khả năng chiến đấu tiếp có khoảng hơn hai vạn bốn ngàn người.

Anh Đào vịn một vết thương băng bó dưới chân, vừa khập khiễng đi tới bẩm báo hộ A Cừu.

- Hử? Tình hình thương vong rất thấp, thấp hơn dự tính của ta khá nhiều!

Khánh Kỵ nghe xong vui mừng rạng rỡ, quân Ngô đã mất đi ba tòa đại doanh, chỉ còn lại trung quân và hậu doanh nhân lúc trời tờ mờ sáng lui về phía sau một góc sông khô cạn trên núi. Ba tòa đại doanh, tương đương với ba vạn đại quân Ngô, đám quân Ngô đó không chết thì bị thương nặng, ngay cả chạy trốn cũng đa phần đều bị tóm gọn, đã không còn tham gia chiến đấu tiếp được. Chỉ một trận đã giành được chiến tích vẻ vang như vậy, khiến cho Khánh Kỵ vào giờ phút này đây đã cân bằng lực lượng với Cơ Quang tại Ngô quốc, trong khi cái giá phải trả thì lại vô cùng nhỏ bé, khiến cho hắn không khỏi điên lên vì vui sướng.

- Trưởng Khanh, may mà có diệu kế của ngươi! Tập kích ban đêm, lấy tinh thần tỉnh táo khắc chế quân địch mỏi mệt, trước diệt tai mắt, sau cắt tay chân, chỉ huy hữu hiệu, nên mới có chiến thắng của chúng ta ngày hôm nay.

Tôn Vũ đang ngồi trên một chiếc chiến xe xiêu vẹo, Thúc Tôn Diêu Quang đang bọc vết thương cho. Tôn Vũ cũng biết rằng hai cô nương Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man mười phần thì có đến tám chín phần sẽ trở thành phu nhân tương lai của Khánh Kỵ chủ công. Được vị phu nhân tương lai của chủ công đích thân băng bó vết thương, quả thực khiến cho hắn có chút không thoải mái cho lắm, đường đường là một đấng nam nhi, binh gia thiên cổ phong là một nhân vật chí thánh nhân, lúc này bị Thúc Tôn Diêu Quang cởi bỏ áo giáp băng vết thương cho, bỗng dưng hơi có cảm giác xấu hổ.

Câu nói khen ngợi của Khánh Kỵ đã gạt bỏ được sự ngượng ngùng đó của hắn, theo thói quen hắn chắp tay lại, lập tức đau đớn đến phồng mồm trợn má:

- Công tử quá khen, đây đều là công lao của tướng sĩ đã chấp hành mệnh lệnh nghiêm ngặt. Công tử, bây giờ chúng ta vẫn chưa được coi là đã chiến thắng, nếu Cơ Quang ổn định lại trận tuyến, Phu Khái mang quân tiếp viện đến, chúng ta không có cơ sở ở Ngô quốc, trận chiến ngày hôm nay khó lòng bù đắp lại tổn thất, phải thừa dịp chiếm lợi thế về nhuệ khí, liên tiếp phát động tiến công.

Khánh Kỵ gật đầu, nheo mắt nhìn về đằng xa, ngọn núi kia cây xanh um tùm, tuy rằng không nhìn rõ, nhưng Khánh Kỵ biết rõ đại quân của Cơ Quang lúc này đang cố thủ tại đó chờ đợi quân tiếp viện.

- Thế nhưng, quân ta e rằng cũng đã mệt mỏi bất kham rồi, suốt đêm công phá ba tòa đại doanh, trong số ba vạn quân thì đã có gần bốn ngàn người tử thương. Tấn công tiêu diệt ba vạn đại quân của Cơ Quang… nhưng lúc này người ngựa đều mệt mỏi, ta lo rằng, chúng ta khó lòng tấn công lên trên núi một đợt nữa được, cho dù đánh được thì khi đại quân của Phu Khái đến, cũng không thể nào mà chiến đấu tiếp được nữa.

- Công tử!

Tôn Vũ quýnh lên, quên mất bên cạnh mình là Thúc Tôn Diêu Quang, gạt phắt tay của nàng ra, đứng bật dậy khỏi xe:

- Công tử, quân ta mệt mỏi, đại quân của Cơ Quang còn mệt mỏi hơn gấp mấy lần quân ta. Lúc này viện quân của chúng chưa tới, ba quân nơm nớp lo sợ, sĩ khí hao nhụt, chính là thời khắc vàng cho chúng ta thừa thắng truy kích. Lúc này đây chúng ta như tên đã lên dây, không thể không bắn dược. Đừng nói là binh lực hiện tại của Cơ Quang kém hơn chúng ta, mà ngay cả khi chúng đông hơn chúng ta, thì quân ta cũng phải xông lên tấn công, chần chờ một chút thôi là chúng ta sẽ bị phản thắng thành bại, rơi vào thập diện mai phục, đến lúc đó thì một chút cơ hội nhỏ nhoi cũng không còn.

- Theo như lời của Trưởng Khanh, thì cần phải dốc toàn sức lực truy đuổi quân địch đến cùng?

- Bằng không, Cơ Quang đã rơi vào đường cùng, dựa vào thế núi hiểm trở để ngoan cố kháng cự. Nếu thừa thắng truy đuổi thương vong sẽ rất nhiều, địch rơi vào đường cùng sẽ liều chết chống cự. Tuy nhiên hiện tại chúng lại đang đợi viện binh, quân ta lại đơn độc không có tiếp viện, lại càng không thể không đánh, công kích mạnh mẽ lên núi, để lại một con đường đào thoát cho Cơ Quang. Dự tính đám tàn quân của Cơ Quang khi đã sức cùng lực kiệt, lại thấy được đường sống, thì làm sao dám chống cự tiếp nữa? Huống hồ Cơ Quang là Ngô vương, Ngũ Tử Tư nào dám mạo hiểm để Cơ Quang chiến đấu, một khi nhìn thấy đường sống, hắn sẽ chủ động phá vòng vây. Một khi hắn tháo chạy thì khó lòng tổ chức đội hình chống cự, chúng ta sẽ truy sát theo sau tiêu diệt sinh lực địch.

Điều lo lắng duy nhất là thành Cô Tô kiên cố, hơn nữa còn là vương đô của Ngô quốc, chúng ta cần phải chặn đường rút của Cơ Quang về thành Cô Tô, nếu không một khi hắn vào được trong thành Cô Tô, quân ta tấn công đuổi theo sẽ không thể nào công phá được thành, bị giữ chân ở dưới thành, lương thực không được tiếp tế, trong khi quân viện binh của Cơ Quang bao bọc bốn bề, quân ta tiến không được, lui cũng không xong, chắc chắn sẽ chịu cảnh bại vong. Hiện tại ta cần phải đuổi hắn cách xa khỏi thành Cô Tô, dùng mẹo để ngăn chặn, rồi sau đó lập mưu tiêu diệt. Gần thì có thể chiến, xa thì đoạt được dân tâm, thế cục thiên hạ nằm trong tay chúng ta.

Khánh Kỵ không nói năng gì, hắn xoay người lại, chậm rãi tiến về phía trước mấy bước, đưa mắt nhìn khắp khung cảnh chiến trường. Trước mắt hắn là vô số thi thể nằm ngổn ngang, tuy rằng trận hỗn chiến trong đêm đã hòa thi thể của họ cùng với đám bùn đất nhớp nhúa làm một, nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ sĩ tốt của đôi bên, có người nằm ngửa, có người nằm sấp, có người bị chặt phăng đầu, có người nửa quỳ trên mặt đất, sau lưng cắm vào một ngọn trường mâu sắc bén xuyên người, còn có cả cảnh hai thi thể quấn vào nhau, một tên đang ngậm răng cắn chặt tai của tên kia, còn ngón tay của tên kia thì đang chọc vào mắt đối phương…

Dưới chân hắn, một cành cỏ dại nhẹ nhàng đung đưa, toàn bộ cánh đồng bát ngát nơi đại doanh đóng quân đồn trú hầu như chẳng có nổi vài ngọn cỏ xanh tươi nguyên vẹn, ngọn cỏ này tuy chưa bị chà đạp thành bùn, nhưng cũng đã bị nhuốm đỏ bởi máu người lúc này đã khô lại. Gió và ánh nắng, đã biến những vũng máu khô đọng lại hiện lên phía trước, vì vậy những bãi cỏ tươi tắn xanh mơn mởn tràn đầy sức sống hồi nào giờ đây bỗng nhiên trở nên xấu xí và kinh tởm vô cùng.

Khánh Kỵ từ từ cúi xuống, bứt cọng cỏ dưới đất nhẹ nhàng đặt vào lòng bàn tay, đưa mắt vọng nhìn ra xa, toàn bộ dãy núi đều mọc đầy cỏ dại, kiên cường khắc khổ sinh trưởng trong vùng sơn dã hoang vu, khắc nghiệt. Đêm qua chúng đã được tắm táp bằng máu tươi, sang năm có lẽ sẽ tươi tốt hơn rất nhiều.

- Đúng vậy, tuy thắng trận này, nhưng chúng ta vẫn đang nằm trong vòng vây nguy hiểm. Đợi khi chúng ta vượt qua từng cửa ải, đốn hạ từng thành trì, chỉ cần thất bại ở một thành trì nào thôi, thì ta cùng đại quân của ta sẽ bị chôn vùi mãi mãi ở mảnh đất Ngô quốc này. Vào ngày này sang năm, những ngọn cỏ bị ta vặt trụi sẽ lại sinh sôi nảy nở và tăng trưởng trở lại, lúc đó… thân thể ta đang ở đâu? Đại quân của ta ở đâu?

- Truyền lệnh, toàn quân vùi nồi nấu cơm, người bị thương băng bó vết thương, ai bị thương nặng thì đưa vào trong sơn cốc tìm nơi tĩnh dưỡng, còn lại toàn bộ tham gia chiến đấu, một canh giờ sau, ba quân tổng tấn công đại doanh Cơ Quang!

Khánh Kỵ chậm rãi đứng thẳng lưng lên, đón nhận ánh nắng mặt trời ló rạng phía Đông, dặn dò kỹ lưỡng.

- Vết thương của tướng quốc thế nào rồi?

- Thần… không sao cả, vết thương không nghiêm trọng lắm, đại vương không cần lo lắng. Cần phải tận dụng thời gi­an ổn định quân tâm, theo dự tính của thần, Khánh Kỵ sẽ nhân đà thắng truy kích.

Thái y còn chưa kịp trả lời, Ngũ Tử Tư đã cắn răng đáp thay. Hắn bị dính một mâu của Khánh Kỵ, tí nữa thì lủng bụng, vết thương tuy không sâu, nhưng khi quân hắn rút lui, lúc quân lính cõng lên trên núi, do đường xóc nảy nhiều nên vết thương bị rách, máu thấm nhuộm khắp áo bào, do mất máu quá nhiều nên lúc này khuôn mặt xanh xao yếu ớt.

Hạp Lư oán hận giậm chân, quay đầu nhìn xuống dưới núi. Hắn không thể không lẩn quân vào trong núi, lên trên núi thì hắn mới có thể cố thủ đợi viện, nếu như lúc đó mặc sức tháo chạy, trong khi quân Khánh Kỵ đuổi theo sát nút đằng sau, vậy thì mấy vạn đại quân không cần đánh cũng sẽ tản mác tứ tán không biết đâu mà lần nữa.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 207: Thừa thắng truy sát (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Quân Khánh Kỵ tấn công quả thực vừa nhanh vừa mạnh. Bọn họ trước tiên dùng một đạo quân tập kích doanh trại, sau khi lọt vào bên trong doanh trại quân Ngô thì phá hủy các đài truyền tin, kế đó cánh quân hai bên phát động tấn công nội ứng ngoại hợp, cuối cùng phát động đội phòng bị, tiêu diệt toàn bộ đội quân bị chia tách ở tiền doanh, sau đó để lại một cánh quân huyết chiến với tả doanh của quân Ngô, còn lại tập trung binh lực giải quyết hữu doanh, sau đó đồng thời phát động tấn công với tả doanh và trung quân, mức độ ác liệt còn mạnh mẽ hơn cuộc tập kích rất nhiều.

Đám binh sĩ quân Ngô tan tác tán loạn tựa hồ vỡ vụn trận hình, sau đó Bá ra lệnh không cho người vào trong doanh nữa, bất luận là quân địch hay quân ta cũng đều sẽ giết sạch khi áp sát lại gần doanh trại, lúc này mới phần nào duy trì được trận thế. Cho dù là vậy, cũng chỉ duy trì được trong thời gi­an ba nén hương, trận địa phòng ngự bị quân của Khánh Kỵ đánh cho thất điên bát đảo.

Ngô quân lúc này lòng quân đã tan tác, không đủ sức để ngăn cản bước tiến công của Khánh Kỵ, chỉ biết tập hợp binh lực đưa nhau chạy lên núi, không tránh khỏi việc bị trung quân của Ngô giết hại không duyên cớ. Cho dù rút lui kịp thời, thì cũng có khoảng hai ngàn năm trăm người đi bọc hậu phía sau không còn đường quay về nữa.

Thế tấn công của quân Khánh Kỵ quả thực đáng sợ, cho đến bây giờ Hạp Lư cũng không thừa nhận rằng mình quá nóng vội hành quân, khiến cho toàn quân trên dưới không còn sức chiến đấu, lại thêm cả nguyên nhân bị tập kích giữa đêm, các phương thức truyền tin bị cắt đứt hoàn toàn. Hắn đổ dồn trách nhiệm về tả doanh để tiền doanh bị mất liên lạc, cho dù trong ba trại, tả doanh là trại cuối cùng bị tiêu diệt.

Tả doanh là nơi tập trung những phạm nhân Sở quốc được phóng thích và những nô lệ chiêu nạp từ Sở quốc. Tuy rằng đám quân này rất trung thành, nhưng cũng không phải là dòng giống người Ngô. Cơ Quang nghĩ bụng sau khi tả doanh bị quân Khánh Kỵ lẻn vào phá hủy đèn hiệu, dẫn đến lòng quân xao động, rồi mới bị Khánh Kỵ thừa cơ lợi dụng. Đáng tiếc, tả doanh cũng nằm trong danh sách bị tiêu diệt, nếu không kẻ dễ nổi nóng như hắn nói không chừng sẽ lôi hết quân tướng ở tả doanh đi bêu đầu thị chúng rồi.

Xa xa, quân lính của Khánh Kỵ đang tập kết, giống như đám mây trên trời, dần dần tụ lại, càng tụ càng dày, dần dần trở thành một đám mây đặc quánh, trong làn khói mờ chớp lóe những ánh sáng chói mắt, một trận phong ba bão táp chuẩn bị ập đến.

- Quân lính của hắn nhiều lắm cũng chưa bằng một nửa quân số của ta, hoàn toàn dựa dẫm vào việc đánh lén ban đêm, cắt đứt liên lạc các tuyến của ta, dẫn đến các lộ quân doanh điều động lung tung, dẫn đến việc bị đánh tan tác, bây giờ đại cục đã định, ưu thế tạm thời về binh lực của Khánh Kỵ đã lộ rõ, ta chỉ cần dựa vào địa hình hiểm trở cố thủ, chờ đợi viện binh, mới có thể thay đổi tình thế.

Cơ Quang ngẫm nghĩ một lúc, quay đầu nhìn về quân sĩ của hắn, binh sĩ của hắn ẩn trong rừng, triền núi đóng quân cố thủ trong lúc vội vã này cũng không thích hợp để tác chiến, một là vì triền núi khá bằng phẳng, không có chỗ nào hiểm địa để nương náu, hơn nữa rừng sâu rậm rạp, không có đường đi, nếu lấy một toán quân nhỏ đánh phục kích, sau đó tận dụng thời cơ dào thoát, thì sẽ vô cùng thuận lợi. Nhưng nếu dùng để che chắn cho một đội quân đến cả vạn người, rồi còn tập trung tác chiến, như vậy căn bản là không bài bố đội hình chính xác được, dẫn đến việc quân lính của hắn chỉ có thể phân tán ẩn náu trong từng phân khu cố định, trong lúc cấp bách, hắn cũng không thể điều người xuống núi tìm nơi đóng quân khác được.

Ở bên cạnh hắn là những người được Ngũ Tử Tư điều đi tăng viện tả doanh, trông thấy trung quân bị tập kích vội vàng quay đầu hộc tốc trở về cứu viện, bọn họ đứng thu lu một chỗ, trông giống như đám vịt giời dài cổ ngóng nhìn về phương xa nơi có đám “mây đen” ùn ùn đang chuẩn bị kéo tới kia. Tiếng thở dốc nhè nhẹ, mang theo sự hoảng sợ trong tâm tưởng mỗi người, hội tụ lại trở thành một tiếng tru tréo khiến người ta chột dạ, giống như một con dã thú đang thở dốc bên tai.

- Dựa vào đám quân sĩ tinh thần còn chưa được trút bỏ gánh nặng kia liệu có thể ngăn chặn được đòn đánh hiểm độc của Khánh Kỵ sắp tới không?

Cơ Quang lại đảo mắt nhìn về đám mây đen dưới núi, sau đó lướt qua bọn họ, nhong mắt nhìn về phía xa trong núi sâu.

- Phu Khái… có đến kịp thời gi­an đã định không?

Những cành cây ngọn cỏ khẽ lay động trước những cơn gió xuân thổi tới, mang theo hơi khí ngập tràn sắc xuân tươi. Phía xa, bỗng nhiên vọng tới một hồi thanh âm chói tai “Keng keng keng”, “rầm rầm rầm”, rất nhiều âm thanh pha trộn vào nhau rung động mặt đất, giống như là tiếng động hành quân của một đạo quân lớn, kèm theo là những tiếng chiến xa hạng nặng lộc cộc đi trên đường, tiếng động càng lúc càng gần. Những người nông dân đang cặm cụi làm đồng ngẩng đầu lên, bỗng nhiên kinh ngạc khi trông thấy một đội quân đông đảo cờ hiệu bay phấp phới, đang đi men theo đường lớn tới nơi này.

Khôi giáp phát ra những tiếng ma sát, đôi khi vũ khí lại va vào nhau leng keng, những âm thanh đó được cộng hưởng bởi vô số binh sĩ, hội thành một hiệu ứng âm thanh khủng khiếp. Những người nông dân sửng sốt đứng thẳng dậy, những phụ nữ, trẻ em sợ hãi nép mình bên cạnh chồng, bố của mình, khiếp đảm nhìn cảnh tượng hành quân đó.

Trên một chiếc xe, Phu Khái khoanh chân ngồi trên một chiếc ghế nệm dày cộm mềm mại, nhìn chăm chú đống thẻ tre trong tay, thân thể hổ trườn rồng phục của hắn khiến cho chiếc xe cũng hơi chòng chành lắc lư. Trước chỗ ngồi của hắn là một vị tín sứ đang quỳ mọp báo tin.

- Đại vương với sáu vạn hùng binh, lại phải binh bại dưới tay một tên Khánh Kỵ quân số chưa bằng một nửa?

Phu Khái nheo mày, trầm giọng nói.

- Vâng, Khánh Kỵ tập kích nửa đêm, trong đám loạn quân…

Phu Khái vịn hai tay xuống đầu gối, thân thể cũng đong đưa theo chiếc xe, nghe hắn nói xong liền hỏi:

- Đại vương giờ đang ở đâu?

Tín sứ đáp:

- Đại vương vội vã cho lui quân lên ngọn núi gần đó, ổn định đội ngũ, nhưng trong lúc cấp bách, không kịp mang theo quân lương, Khánh Kỵ công núi không thành, vẫn lỳ lợm bao vây tại đó cả một ngày, lại phát động cuộc tấn công thứ hai. Quân ta người ngựa mệt mỏi, đói rét không còn sức chiến đấu, Tư Môn Sào tướng quân cầm vương kỳ đại vương dẫn một toán quân dẫn dụ chủ lực Khánh Kỵ. Đại vương, tướng quốc cùng Bá tướng quân dẫn gần một vạn quân chạy theo đường khác. Lúc này đã chạy tới suối Đông Điều, bị Khánh Kỵ phát giác, chặn lấy đường đi, đại vương mong tướng quân mau tới cứu viện, tổn thất của Khánh Kỵ cũng không hề nhỏ, đánh trận liên tục nên càng mệt mỏi, chỉ cần viện binh tới là sẽ cầm chắc phần thắng.

Phu Khái nhăn lại hàng lông mày hỏi:

- Chạy tới suối Đông Điều? Chỗ đó cách thành Ngự Nhi không bao xa, sao không điều động quân thủ thành ở đó tới tiếp viện?

Tín sứ giải thích:

- Đại vương không phải là bỏ chạy thật sự, đây là kế của Ngũ tướng quốc, đại vương đích thân lao vào hiểm nguy, lấy thân mình làm con mồi dẫn dụ đại quân của Khánh Kỵ tới, đến lúc đó sẽ phái người tới thành Ngư Nhi điều binh tới, đề phòng Khánh Kỵ bỏ chạy, rồi một mặt quân lính của tướng quân từ sau đánh thốc tới, dốc toàn lực đánh một trận lập đại công.

Phu Khái suy nghĩ một chút, gật đầu nói:

- Biết rồi, ngươi bẩm lại với đại vương Phu Khái hành quân ngày đêm không nghỉ, sẽ đến đúng thời gi­an đã định, tham gia quyết chiến với địch.

- Rõ, nô tài cáo từ!

Tên tín sứ lạy một lạy, rồi quay người đi xuống xe, nhảy lên chiến xa lúc nãy mạo hiểm vượt trùng vây của mình, đánh ngựa giơ roi, dẫn theo bốn hỗ binh giục ngựa bỏ đi.

Phu Khái dựng đứng lông mày, nhìn theo phía sau lưng vị tín sứ kia, khẽ thở dài nói:

- Kịp thời đến nơi…, lúc nào thì được coi là kịp thời đây? Đáng tiếc, nếu như ở trong trận trên núi Thiên Mục, bọn chúng đều…

Phu Khái “hắc” một tiếng, vội vàng đập càng xe nói:

- Truyền lệnh xuống dưới, tăng tốc hành quân, mục tiêu thay đổi, vòng qua Cô Tô, đi thẳng tới suối Đông Điều.

Thành Ngự Nhi, năm vị tín sứ của Ngô vương ngơ ngác đứng nhìn một đống phế tích trước mặt, dường như không thể tin được đây là cứ điểm phòng ngự biên giới của Ngô quốc. Bọn họ dắt ngựa, há hốc miệng đi qua chiếc cổng thành đã bị tàn phá, đi chầm chậm trên những tuyến phố tử thi ngổn ngang, máu me nhớp nháp khắp nơi, hai bên đường là những đống tro tàn đổ nát đã bị thiêu trụi, có nơi vẫn còn đang bốc khói xanh, thậm chí một vài căn nhà vẫn đang bốc cháy nghi ngút.

Lửa chưa được dập, khói chưa tan, vết máu trên mặt đất chưa khô, cảnh tượng hoang tàn này nhất định là vừa mới xảy ra trong ngày. Nơi này… tại sao lại biến thành thế này? Khánh Kỵ rõ ràng vẫn đang ở vùng giữa suối Đông Điều và Lạp Trạch giằng co với đại vương cơ mà, rốt cuộc hắn có bao nhiêu quân???

Mấy vị tín sứ nghĩ tới đây không rét mà cứ run lên cầm cập.

Đúng lúc này, phía trước một chiếc xe nằm chỏng lọng trên đất bỗng nhiên phát ra tiếng động khe khẽ, vài vị tín sứ cảnh giác như gặp đại địch, lập tức vứt bỏ cương ngựa rút ra bội kiếm, quát lớn về phía sau chiếc xe.

Trên xe đặt một thi thể mềm nhũn, hai chân thõng giữa không trung, máu từ chân của hắn giỏ xuống đất, phía sau lưng hắn, một binh sĩ từ từ đứng dậy, sắc mặt trắng bệch, áo giáp ngập ngụa máu, trong tay cầm chắc một thanh đoản kiếm, nhưng khi nhìn mặt của hắn thì mọi người đều nghi ngờ việc hắn liệu có cầm nổi thanh kiếm đó được không.

Hai bên đều kinh sợ nhìn nhau, người kia nhìn thấy cách ăn mặc của mấy tín sứ thì nhận ra đó là quân Ngô, trong lòng nhẹ nhõm đôi chút, khàn giọng nói:

- Ta… ta là quân thủ thành Ngự Nhi, các vị… các vị là thuộc hạ của tướng quân nào?

Năm tín sứ đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn ra bốn phía, không thấy có người nào còn sống xuất hiện trong tầm mắt, rồi nhìn về phía trước, qua bộ áo giáp lờ mờ có thể nhận ra đó cũng là binh sĩ quân Ngô, thế là chậm rãi thu hồi lại bội kiếm, vị tín sứ cầm đầu tính tình cẩn trọng, không muốn cho một tên tốt quèn vận chuyển vật tư tầm thường biết thân phận của mình, liền thuận miệng nói luôn:

- Chúng ta là thuộc hạ của tướng quân Tư Môn Sào, phụng lệnh đến Ngự Nhi thành làm việc. Nơi này… rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thế? Là quân của ai công thành, không lẽ… không lẽ toàn bộ quân thủ thành Ngự Nhi đã bị tiêu diệt rồi sao?

Viên lính kia nơm nớp lo sợ nói:

- Tôi… tôi cũng không biết nữa. Đêm qua, quân Việt bỗng nhiên tập kích, một đám du thương người Việt trong thành bị chúng mua chuộc lén lút mở cổng thành, để cho quân Việt tràn vào, nhất thời toàn thành nổi lửa, nơi đâu cũng có binh sĩ gi­ao chiến. Một viên tướng thủ thành vội vã kéo mấy chiếc xe đến đây lập phòng tuyến ngăn chặn trên phố, về sau chiếc xe này bị lật, hất tôi xuống dưới, về sau… tôi không biết gì nữa cả, tôi… tôi cũng vừa mới tỉnh dậy thôi.

Quân Việt tập kích quân doanh? Thành Ngự Nhi chỉ là một trại quân doanh, không có tác dụng gì mấy, người Việt tập kích là có ý đồ gì đây? Mấy tín sứ đưa mắt nhìn nhau, trong mắt ai nấy đều lộ thần sắc hoang mang, bọn họ không nghĩ thêm gì nữa, lập tức đi men theo con đường lớn chất đầy thi thể lao tới.

Tên lính gặp đại nạn không chết kia nheo mắt nhìn quanh, cũng vội vàng thất tha thất thểu đi theo.

Hậu thành Ngự Nhi không có dấu vết hỏa hoạn, nhưng tử thi cũng chất đống khắp nơi, rõ ràng cũng xảy ra những trận chém giết kịch liệt, cổng thành phía sau không có dấu vết bị phá vỡ, nhưng cổng thành lại mở toang, trên mặt đất là vô số vết chân lớn nhỏ, những mũi giầy đều hướng hết về phía Ngô quốc.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 208: Tạo lập thanh thế (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Kiền Toại thành, có mấy người áo quần rách bươm đang chống cành cây lết từng bước khó nhọc trên đường, gặp người qua đường ăn mặc tươm tất liền dừng lại, làm ra vẻ đáng thương xin bố thí thức ăn. Những người này phần lớn đều mang thương tích trên mình, những mảnh vải băng bó vết thương bị máu thấm đầy hóa thành màu đen sậm, nhìn vào cách ăn mặc rách rưới của chúng, không giống với ăn mày bình thường, mà là thương binh lạc khỏi quân ngũ.

Một ông chủ mở quán ăn ven đường cầm một ít thức ăn ra phân phát cho bọn chúng, nhìn bộ dạng của chúng một hồi, ông chủ lên tiếng hỏi: “Mấy vị này, ta thấy mấy vị không giống những kẻ đi ăn xin dọc đường, thế sao lại…sao lại thành ra nông nỗi này?”

Mấy người này nghe hỏi vậy thở dài ngao ngán, trong đó có một người trả lời: “Ấy, một lời khó mà nói hết được, mấy người chúng ta vốn là binh lính theo đại vương đi phạt Sở, ai mà ngờ, lúc ở Sở thì đánh trận nào thắng trận nấy, về đến Ngô quốc, lại bị Khánh Kỵ điện hạ đánh cho tan tác.”

Ông chủ kia nghe kể chuyện phấn chấn tinh thần, xung quanh đột nhiên một đám người nhiều chuyện vây lấy bọn người kia, hỏi han đủ thứ: “Nghe nói Khánh Kỵ điện hạ về nước rồi, còn dẫn theo mấy vạn đại quân, cưỡi những con thuyền mọc cánh, có thật không vậy?”

“Nghe nói đại vương bị bại trận? Bây giờ thế nào rồi?”

“Nghe nói…”

Một tên thương binh than thở: “Ấy, chuyện này ấy mà, mọi người chỉ là nghe nói, còn chúng ta đã tận mắt chứng kiến. Chúng ta đi đường bộ về nước, còn đường thủy uốn khúc quanh co, vốn dĩ không thể nào nhanh hơn chúng ta được, thế tại sao mà Khánh Kỵ điện hạ tới trước chúng ta nào? Chính là vì cưỡi loại thuyền lướt đi trên gió đó.”

“Lướt đi trên gió à?” Đám dân đen huyên náo cả lên.

“Còn không phải ư? Ta nghe nói Khánh Kỵ điện hạ năm ngoái bị hành thích ở Trường Gi­ang, từng gặp được tiên nhân, được truyền cho ba quyển thiên thư, nên mới đánh đâu thắng đó, dưới Thiên Mục sơn, mười vạn đại quân của đại vương bị Khánh Kỵ điện hạ thỉnh xuống vật cưỡi của thiên thần là Thần ngưu biết phun lửa, giẫm tanh bành cả năm quân doanh lớn, trận chiến đó, giết hơn quá nửa binh mã của chúng ta đó.”

“Woa! Đó không phải là năm sáu vạn người à?”

“Chứ sao, máu chảy thành sông, máu chảy thành sông luôn đó. Ta nói cho mọi người nghe, vì ta là một thương binh nên Khánh Kỵ điện hạ mới tha mạng cho, ta thấy tận mắt mà, xác chết chất cao từng đống, còn cao hơn cả cán cờ cắm trên chiến xa nữa, thảm thương hết chỗ nói!” Một tên lính nói giọng âm u.

“Vậy bây giờ thế nào rồi? Nếu quả thật Khánh Kỵ điện hạ có thần thánh trợ giúp, sao không trực tiếp đánh chiếm Cô Tô thành?”

“Cái này…cái này là thiên cơ. Ta nói cho mọi người nghe, mọi người đừng nói ra ngoài đó.” Tên thương binh dáo dác sợ sệt nhìn xung quanh xong mới nói tiếp: “Cô Tô thành là hoàng thành, hoàng thành tất nhiên có vương khí, còn có thần linh phù hộ nữa, Khánh Kỵ điện hạ không triệt để đánh bại đại vương, hấp thụ vương khí sẽ không vào được Cô Tô thành, nhưng bên ngoài Cô Tô thành thì Khánh Kỵ điện hạ muốn hô phong hoán vũ, làm gì cũng được hết.”

Đám dân đen tụ tập càng lúc càng đông, người nào người nấy im lặng lắng nghe chăm chú. Tên thương binh cứ thế huyên thuyên: “Đại vương chỉ có nước thua hết trận này đến trận khác thôi, bây giờ đã lui về Đông Điều Khê, bị Khánh Kỵ điện hạ chặn mất đường lui về Cô Tô thành, gi­ang sơn này…Hic! Gi­ang sơn này, khó nói lắm…”

“Nói chuyện đó làm gì nữa, các vị hương thân phụ lão rũ lòng thương, bố thí thêm cho mấy người đáng thương này ít thức ăn nữa đi ạ. Đại vương đã không lo được cho chúng ta rồi, chúng ta mang thương tích đầy mình, cũng không biết còn sống được bao lâu, chỉ mong…có thể gắng gượng quay về quê nhà, gặp mặt phụ mẫu thê nhi một lần…”

Nói đến đây, tên thương binh nghẹn ngào bật khóc.

Đám dân chúng nổi lòng thương hại, ai cũng bố thí tùy theo khả năng của mình. Có người hỏi: “Mấy người quê ở đâu?”

“Ta ở Yểm thành.”

“Ta ở Diên Lăng.”

“Còn ta ở Nam Vũ thành, cám ơn các hương thân phụ lão, thôi không nói tiếp nữa, chúng ta còn phải đi khắp nơi xin chút tiền đi đường để quay về quê nhà, đa tạ các vị có lòng hảo tâm.”

Mấy tên thương binh ra vẻ thương cảm, chắp tay vái lạy đám dân đen vừa bố thí cho chúng, sau đó chống gậy tiếp tục lảo đảo bước đi, bỏ lại đám đông ồn ào đang túm tụm bàn luận ý kiến với nhau.

Mất tên thương binh đi xiên vẹo bước ra lối nhỏ, quay đầu lại thấy không ai bám theo, vội nháy mắt ra hiệu, lại rẽ vào một con đường khác, cùng một màn xin bố thí thức ăn kể lể tình hình chiến sự lại được trình diễn ở một nơi khác…

Trong Cô Tô thành, Phù Sai lo lắng không yên, hắn đã nhận được tin phụ vương bại trận lui về Đông Điều Khê, chỉ là đại quân của Khánh Kỵ chặn ngay lối đi giữa Đông Điều Khê và Lạp Trạch, vừa đúng chỗ cản đường phụ vương quay về Cô Tô thành. Hắn lo cho an nguy của phụ vương, có ý định dẫn quân ra khỏi thành đi cứu viện, thế nhưng…Cô Tô thành là gốc rễ của phụ vương, hắn sao lại không biết điều này, nếu đánh mất cả Cô Tô, hậu quả vô cùng nghiêm trọng.

Hơn nữa, lại có hai tên tín sứ mang theo bảo kiếm của Hạp Lư quay về, lệnh cho hắn không được trúng kế điệu hổ ly sơn của Khánh Kỵ, cứ thủ chặt Cô Tô thành, tình hình hiện nay hắn chỉ còn mong cho Phù Khái ở Hàn Ấp và quân trấn thủ Ngự Nhi thành kịp thời quay về giải vây cho phụ vương mà thôi.

“Đùng!” lại một tiếng đinh tai nhức óc vang lên, mặt đất rung chuyển hồi lâu mới dứt. Một lúc sau, có người chạy vội vào động trú ẩn dưới chân tường thành, đó là một chàng thanh niên, mũi chim ưng mặt gầy gò, thần thái nghiêm nghị, hai mắt sắc lẻm, bắp tay rắn chắc.

Hắn vội chạy đến bên Phù Sai, chắp tay nói: “Thái tử điện hạ, quân địch đã dừng bắn đá.”

Phù Sai ừ hử một tiếng, bừng tỉnh khỏi suy nghĩ trong đầu, nhìn chàng thanh niên một cái. Người này họ Chuyên tên Nghị, còn trẻ tuổi mà đã giữ chức tư mã Ngô quốc, xếp vào hàng ngũ thượng khanh. Một năm trước hắn hãy còn là một thường dân, ngay cả đất cũng không có ba sào, nhưng phụ thân hắn là Chuyên Chư được Ngũ Tử Tư sử dụng làm thích khách giúp Cơ Quang hành thích Ngô vương Cơ Liêu, trước lúc hành sự phụ thân hắn đưa ra một yêu cầu đó là sau khi thành công, phải phong cho con trai làm thượng khanh. Cơ Quang đồng ý yêu cầu này, Chuyên Chư thích sát Cơ Liêu thành công, Cơ Quang ngồi lên vương vị quả nhiên giữ lời hứa, phong cho con trai của Chuyên Chư làm thượng khanh, giữ chức tư mã Ngô quốc. Chuyên Nghị này cũng giống cha, hết mực trung thành phò trợ cha con Cơ Quang.

Chuyên Nghị còn trẻ, tài năng không có, căn cơ lại thiển cận, tuy giữ chức quan đại tư mã, cai quản binh mã thủy lục quân Ngô, nhưng binh quyền thật sự lại nằm trong tay tướng quốc Ngũ Tử Tư, hắn chỉ là mang danh nghĩa thế thôi. Cũng may là Chuyên Nghị tự biết thân biết phận, hắn hiểu sở trường của hắn chỉ là chút kiếm thuật võ nghệ phụ thân đã truyền dạy, chỉ đủ làm một thị vệ, bắt hắn giữ chức tư mã Ngô quốc là không xứng đáng, nên Chuyên Nghị không có tranh quyền đoạt lợi, vì thế Phù Sai rất coi trọng hắn.

Phù Sai theo sau Chuyên Nghị ra khỏi động ẩn náu, bên ngoài một vết hoang tàn, những ngày này Kinh Lâm ngày nào cũng bắn đá tảng đất nung vào thành, đất đá bên ngoài bị đào sâu ba thước, ngược lại trong thành thì cao thêm ba thước, đá tảng băm nát hoàn toàn khu vực trong phạm vi một trăm bước chân xung quanh tường thành, khắp nơi đều là đất đá vương vãi, vì ngày nào cũng bắn nên cũng không ai đi dọn dẹp, nhìn vào cứ như một tòa thành bị bỏ hoang lâu ngày, muốn đi lại trên đường cũng gặp khó khăn.

Quân ngoài thành cũng phải nghỉ ngơi, cho dù luân phiên nhau thao tác máy bắn đá, mỗi ngày cũng sẽ có những lúc tạm ngừng “không kích”. Không kích vừa dứt, Phù Sai bèn bước lên tường thành, quan sát tình hình quân địch, một khắc cũng không dám lơ là.

Hôm nay Phù Sai lại bước lên tường thành, vịn vào một mảnh tường bị phá hoại dõi mắt ra xa, thấy trong quân của Kinh Lâm cột khói bốc lên cao vút, lại thấy có mười mấy tên đại hán dùng thanh gỗ bự vác ngược mấy con heo mập ú trắng nõn đã cạo sạch lông, vừa reo hò khoái trá vừa khiêng từ ngoài bờ suối vào tận quân doanh.

Phù Sai ngớ người nghĩ ngợi giây lát, đột nhiên nổi giận lôi đình, hai bàn tay đang vịn trên tường thành run lên bần bật.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 208: Tạo lập thanh thế (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Chuyên Nghị thấy vậy vội bước tới hỏi: “Thái tử điện hạ, ngài sao rồi?”

Phù Sai chỉ tay về phía xa, gầm gừ trong miệng: “Đáng chết! Một lũ tặc tử đáng chết!”

Chuyên Nghị ngạc nhiên không hiểu, Phù Sai cũng không thèm giải thích, phất tay áo bỏ đi, căm phẫn chửi rủa: “Đợi sau khi đánh lui quân địch, bổn thái tử thề sẽ tìm hết bọn người này ra, lột da xẻ thịt từng đứa, không chừa tên nào.”

Thì ra, mấy ngày này quân của Kinh Lâm bắt đầu cạn kiệt lương thảo, Phù Sai quan sát trên thành thấy bên ngoài hay phái quân đi bắt cá hoặc hái rau dại làm thức ăn, vì Kinh Lâm chỉ tấn công Xương môn, không thể phong tỏa hết mười sáu cổng thành của Cô Tô, nên Phù Sai thường nhân lúc đêm xuống phái thám mã ra ngoài thám thính khắp nơi, được biết quân đội của Khánh Kỵ vì muốn lấy lòng dân chúng, không cướp bóc của dân, chỉ bỏ tiền ra thu mua lương thực, nhưng mấy thành trì nhỏ và làng mạc thôn quê có ít lương thực dự trữ, với lại trong quân Khánh Kỵ cũng không mang theo nhiều tiền, gần đây đã xảy ra tình cảnh phải đem áo giáp của các binh sĩ tử trận đi đổi lấy lương thực.

Nhưng bắt đầu từ hôm qua số người bắt cá hái rau dại ít đi thấy rõ, lúc đó Phù Sai cảm thấy hơi lạ, lúc này lại nhìn thấy chúng có thịt heo ăn nữa chứ. Phù Sai sao mà không hiểu ra? Quân của Khánh Kỵ vì muốn lấy lòng dân nên không chịu đi cướp của lê dân bá tánh, tiền của mang theo lại ngày một vơi đi, chúng lấy đâu ra thực phẩm để dùng? Giờ còn có cả thịt heo nữa?

Rõ ràng là bọn phú hộ xung quanh thành trì xuôi theo chiều gió, cho rằng Ngô vương Hạp Lư sắp hết thời, nên mới hùa theo ủng hộ Khánh Kỵ, lén quyên góp tiền của, vận chuyển lúa gạo gia cầm tặng cho quân của Khánh Kỵ, mưu cầu được phong cho chức quan sau này. Thật không ngờ phụ vương vừa mới bại trận, người Ngô lại xuôi theo chiều gió thế này! Phù Sai đâu biết chuyện Tôn Vũ phái người đi khắp nơi tung tin đồn, đã tạo dựng một hình tượng Khánh Kỵ có thần linh phù hộ trong lòng dân chúng, giờ ai cũng mang niềm tin chắc chắn Khánh Kỵ sẽ trở thành Ngô vương. Phù Sai đương nhiên căm phẫn hành động phản bội này.

Phù Sai tức giận vừa định ra thành ứng chiến, đột nhiên một viên tướng lĩnh vội vã chạy đến bẩm báo với hắn: “Thái tử điện hạ, mạc tướng tuần tra, bắt được có người ném thư ra ngoài thành.”

“Hử?” Phù Sai trợn mắt, ánh mắt hung tợn, sắc mặt đanh lại: “Là ai? Trong thư nói gì?”

“Cái này, là…là người nhà trong phủ Triết đại phu, thư…thư ở đây ạ.” Viên tướng đó thấy Phù Sai tức giận, trong lòng cũng cảm thấy sợ, nói lắp ba lắp bắp, hai tay dâng bức thư lên, rụt rè: “Lá thư còn chưa kịp bắn ra ngoài, mời…mời điện hạ xem qua.”

Phù Sai đưa tay cầm lấy, “rẹt!” một tiếng xé ra xem, trong thư không có trình bày cách bố phòng trong thành, trên thực tế thì cái vị Triết đại phu gì đó cũng không rõ về bố phòng trong thành, thư chỉ huyên thuyên kể lể về ân tình giữa nhà Triết đại phu với nhà Khánh Kỵ, Vương Liêu bị hành thích, Khánh Kỵ trốn đi xa, Triết đại phu đau lòng biết nhường nào, ngày nhớ đêm mong, mong cho Khánh Kỵ sớm đánh về Ngô quốc, đoạt lại vương vị. Nội dung trong thư rõ ràng là không xem trọng hai cha con Cơ Quang, bắt đầu mở đường trải thảm đón quân vương mới.

Hiện giờ Hạp Lư bại trận chạy về Đông Điều Khê, lòng quân hoang mang, lòng dân dao động, thân là thái tử giám quốc, trong lòng Phù Sai bị đè nén cỡ nào? Lá thư này vừa lúc như châm thêm dầu vào lửa, hắn vận sức vào hai tay, rứt gãy cả chỉ nối, những tấm thẻ tre rơi đầy cả ra mặt đất.

Phù Sai nghiến răng ngẩng đầu lên, viên tướng lĩnh sợ sệt bước lui lại một bước, chỉ thấy Phù Sai đanh mặt trừng mắt, hai mắt đỏ ngầu, quắc mắt ngước mũi như một con rồng lửa, hắn gằn từng tiếng: “Đi! Bắt cả nhà Triết đại phu lại cho ta, triệu tập tất cả công khanh đại phu, gia chủ thế tộc trong thành, phanh thay nam đinh cả nhà bất kể già trẻ lớn bé của Triết đại phu trước mặt họ, sau đó ném xác cho chó ăn! Nữ nhân thì xung quân làm doanh kĩ mua vui cho quân sĩ, đến chết mới thôi.”

Viên tướng lĩnh nói giọng run run: “Điện hạ, Triết đại phu tuy tư thông với địch, nhưng tội không đáng chu di cả họ, hơn nữa Triết đại phu và điện hạ có mối quan hệ kết thân, theo bối phận thì còn là dượng của ngài.”

Phù Sai phất tay, gào lên hung bạo: “Mặc kệ hắn là ai, cứ theo lệnh của ta mà làm, lập tức đi mau! Ngươi mà còn đứng đây lải nhải không nghe lệnh của ta thì cùng chung tội với hắn.”

“Dạ! Tuân lệnh!” Viên tướng lĩnh run rẩy tuân lệnh xong vội vàng quay lưng bỏ đi.

Phù Sai đi xuống dưới cầu thang, bị đất đá làm vấp chân sém té ngã, hắn điên tiết nhảy dựng lên, xoay người đi ngược trở lên, đụng ngay mặt Chuyên Nghị đang theo sau đi xuống, Chuyên Nghị vội lách qua một bên tránh đường, Phù Sai sải bước lên tường thành, nhìn cột khói phía quân doanh Khánh Kỵ, đột nhiên nhíu mày nói: “Chuyên Nghị, đi tìm người đến đây hét lớn ra ngoài thành, Kinh Lâm hùa theo phản tặc Khánh Kỵ, là kẻ địch của Ngô quốc ta, ai chém thủ cấp của hắn mang vào thành sẽ được thưởng vạn lượng vàng, phong khanh bái tướng, còn được chia đất.”

Gi­ai cấp trong thiên hạ thứ tự là Thiên tử, chư hầu, khanh, đại phu, sĩ, thứ dân, nô lệ. Được trực tiếp phong chức khanh, có thể nói là một bước lên mây, bước vào hàng quý tộc, hơn nữa ngoài chức tước còn vạn lượng vàng và quan hàm tướng quân, Phù Sai lấy thân phận thái tử Ngô quốc nói ra những lời này tất nhiên sẽ thực hiện, lại bảo Chuyên Nghị nói ra ngoài, hắn tin cho dù binh sĩ ngoài kia không ai có gan đi chặt cái đầu trên cổ Kinh Lâm, cũng có thể khiến Kinh Lâm ăn không ngon ngủ không yên, ngày đêm đề phòng bị hành thích.

Chuyên Nghị lập tức đi chọn ra mất tên lính to tiếng nói vọng ra, Phù Sai thì bước xuống thành đến phủ Triết đại phu, Phù Sai quả nhiên kiên quyết làm chuyện này, tất cả công khanh thế tộc trong thành đều bị tập trung hết lại, còn dù có người trong hoàng tộc đứng ra xin giúp, Phù Sai cũng không mảy may động lòng, chỉ một lát sau cả con đường bị chen chúc chật kín người, từ người già trên bảy mươi tuổi đến đứa bé sơ sinh phủ Triết đại phu, chỉ cần là nam nhân, đều bị tùng xẻo.

Tùng xẻo cũng chính là Lăng trì, là hình phạt tàn bạo, người thụ hình kêu la thảm thiết, người đứng xem sợ hãi mặt không còn giọt máu, Phù Sai lại ung dung thư thái, quay qua nói với các công khanh đại phu: “Tồn vong của Cô Tô thành quan hệ đến gi­ang sơn xã tắc Ngô quốc, nếu thành trì bị thất thủ, bổn thái tử sẽ nổi lửa thiêu trụi toàn thành cùng chết với nhau, các ngươi phải đồng tâm tận lực cùng triều đình thủ thành, chống cự quân địch, kẻ nào lâm trận phản bội, sẽ có kết cục thế này, các ngươi lấy đó mà làm gương. Người đâu, đưa hết tất cả nữ nhân vào trong quân ban thưởng cho binh sĩ.”

Một đám lính hung tợn xông vào kéo tất cả nữ nhân khóc lóc thê lương của Triết phủ bỏ đi, Phù Sai quét ánh nhìn hung tợn vào từng người, những ai bị hắn nhìn vào đều cúi rạp đầu xuống, Phù Sai cười to ba tiếng, phất tay áo bỏ đi, bỏ lại một đám công khanh đại phu, gia chủ thế tộc trước cửa phủ đệ Triết đại phu, đang run lẩy bẩy trong tiếng kêu gào thảm thiết…

Phù Sai quay lên tường thành Xương môn, Chuyên Nghị đang dẫn theo một tốp lính hét lớn truyền lệnh của hắn ra ngoài, định dùng công tâm kế với quân Khánh Kỵ, không ngờ tốp lính hét đến khản cả giọng, binh lính ngoài kia sau khi ăn uống no nê, mới uể oải dàn hàng ngang ra trước Viên môn, rất nhiều người trên tay còn cầm cành liễu bẻ lấy bẻ để, Phù Sai lúc đầu không hiểu chúng đang làm gì, hồi sau mới nhìn rõ là chúng bẻ cành liễu dùng làm tăm xỉa răng.

Đám người đứng xiên vẹo ngoài kia dàn hàng ngang hét to vào thành: “Người trong thành nghe đây, Khánh Kỵ điện hạ đánh bại Cơ Quang, sắp đăng cơ xưng vương, ai giết được Phù Sai, đem thủ cấp đến đầu hàng, điện hạ thưởng vạn lượng vàng, ngàn mẫu ruộng, còn phong tướng bái hầu!”

Phù Sai nghe xong tức tối muốn lập tức dẫn quân xông thẳng ra ngoài, tên Kinh Lâm vô sỉ này dám nói y chang hắn, còn mở to miệng hứa ban thưởng giùm cho Khánh Kỵ.

Phù Sai nhẫn nhịn đi qua đi lại trên tường thành nửa ngày trời, thấy Chuyên Nghị vẫn đang đứng đó đợi lệnh, Phù Sai trầm ngâm một hồi, vẫy tay: “Ngươi qua đây!”

Chuyên Nghị lập tức bước tới bên cạnh, Phù Sai nói: “Phụ vương không cho ta ra thành cứu viện, nhưng ta quả thật không an tâm an nguy của phụ vương, bên cạnh ta chỉ có ngươi là giỏi nhất, đêm nay ngươi lẻn ra ngoài thành, đến Đông Điều Khê gặp phụ vương, lúc này chắc quân trấn thủ Ngự Nhi thành đã đến tiếp ứng cho phụ vương, hai quân tập hợp lại đủ kháng cự với Khánh Kỵ. Ngươi nói với phụ vương là Phù Khái hoàng thúc đang ngày đêm tiến quân đến giải vây, đợi quân hoàng thúc đến nơi, Khánh Kỵ bị đánh trước mặt sau lưng, ba quân tan rã, lúc đó mời phụ vương nhanh chóng quay về Cô Tô, ta và phụ vương trong ngoài giáp công, tiêu diệt Kinh Lâm, sau đó mời phụ vương trấn giữ Cô Tô, ta thay cha cầm quân xuất chinh, truy quét phản loạn.”

Hắn nói đến đây, hai nắm tay đấm mạnh vào nhau, gầm gừ: “Mỗi ngày đứng trên tường thành, lo lắng cho an nguy của phụ vương nơi xa, kẻ địch ngay trước mặt lại không được ra ứng chiến, thật là tức chết đi được.”

“Dạ!” Chuyên Nghị chắp tay vái lạy định lui xuống.

“Khoan đã!” Phù Sai lại gọi hắn lại, trầm ngâm lên tiếng: “Dẫn theo tên Lý Hàn, người này mưu mô quỷ quyệt, lại hiểu rõ tình hình Khánh Kỵ ở Lỗ quốc, có thể…phụ vương cần dùng đến hắn.”

“Dạ!” Chuyên Nghị lui xuống chuẩn bị.

Phù Sai nhìn xuống phía dưới, chỉ cách có gang tấc, hắn lại không thể làm gì đám người ti tiện gây hấn. Phù Sai nhổ xuống, đấm một quả mạnh vào tường thành.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 209: Thù trong giặc ngoài (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Doanh trại Khánh Kỵ đóng trên mảnh đất rộng ven sông, bên trái là một dòng sông dưới thông Đông Điều Khê, trên nối liền Ngũ Hồ. Trong doanh trại người ngựa qua lại không ngớt, thám mã không ngừng đưa tin từ khắp nơi về, các tướng lĩnh tề tựu trong túp lều lớn đặt tại trung tâm.

“Tôn tướng quân, có phải nên bố phòng ven hồ bên trái, nhỡ khi Cơ Quang trốn chạy vào Ngũ Hồ, thì sẽ vượt sông đến dưới chân thành Cô Tô.”

“Không cần, các tàu thuyền lớn nhỏ trên sông đã bị chúng ta tịch thu hết, trừ khi bọn chúng bị điên, bằng không xông vào Ngũ Hồ, ngoài quay lưng về sông nước quyết chiến một phen ra không còn đường nào khác. Hiện giờ binh mã của chúng ta tuy sĩ khí cao hơn Cơ Quang, nhưng đừng quên Cơ Quang vẫn đang là Ngô vương, hắn còn có viện quân, chúng ta buộc phải tập trung toàn bộ lực lượng…”

Một bức bản đồ lớn dùng than vẽ ghép lên hai mảnh da dê dựa vào tấm bản đồ nhỏ được treo lên bức vách gỗ, các tướng đang bàn bạc kế hoạch tác chiến.

“Chúc Dung giờ thế nào rồi? Hắn đi Vũ Nguyên có tin gì không?”

“Đã phái người đi Vũ Nguyên liên lạc, tin tức chắc cũng mau về tới.”

“Vũ Nguyên nằm ở cánh phải của ta, nếu Chúc Dung có thể chiêu hàng thủ quân Vũ Nguyên, cùng chúng ta tạo thế gọng kiềm, lúc đó Cơ Quang không thể qua sông bằng đường thủy, đường bộ cũng bị cắt đứt.”

Khánh Kỵ nói: “Cũng chưa chắc, đừng quên bên Ngự Nhi thành còn có bảy ngàn quân của Cơ Quang, đó là bảy ngàn quân chưa bị sứt mẻ gì, cánh quân này đổi lại vào lúc khác tác dụng có thể không lớn, nhưng đợi khi quân ta và quân địch đều sức cùng lực kiệt mà kéo đến thì sức chiến đấu của chúng không thể xem thường. Điều quan trọng nhất là nó có tác dụng vực dậy lòng quân đang đi xuống của binh mã Cơ Quang.”

Tôn Vũ nhìn vào các điểm bố trí binh lực quân ta và quân địch trên tấm bản đồ, trầm ngâm: “Mạc tướng cũng thấy lo điểm này, theo sau còn có binh mã của Phù Khái từ Hàn Ấp quay về, Chúc Dung công tử có chiêu hàng được thủ quân Vũ Nguyên hay không còn là một biến số, binh mã của Phù Khái khi nào sẽ tới cũng là một biến số, còn về binh mã ở Ngự Nhi thành… Ta tuy thắng trận nhưng biến số quá nhiều, rất nhiều việc còn không nắm chắc trong tay, nếu muốn không bị các biến số này ảnh hưởng, chúng ta phải dồn tất cả sức lực thừa lúc nó chưa xảy ra tấn công chí mạng vào tàn quân của Cơ Quang đóng ở Đông Điều Khê, ta tin…chúng sẽ không chịu nổi đợt tấn công này đâu.”

“Nếu bây giờ lại phát động tấn công, binh mã ở Ngự Nhi thành hoặc Vũ Nguyên, hoặc của Phù Khái kéo đến kịp thời, tình hình chiến sự sẽ phát triển theo hướng nào?” Khánh Kỵ chớp mắt, chất vấn Tôn Vũ, hắn tuy là hỏi nhưng lại có ý nhắc nhở, ai cũng biết nếu trường hợp đó xảy ra thì thế công thủ thắng bại lập tức bị đảo ngược.

Tôn Vũ nói: “Đó chính là lí do Ngũ Tử Tư chọn lui về chỗ này, đi về phía Bắc là không thể vì có chúng ta chặn mất đường tiến quân, với sĩ khí của đám tàn quân dù đụng độ với một vạn quân đang công thành của ta cũng khó giành phần thắng. Dời binh đóng tại Đông Điều Khê, bên phải có Vũ Nguyên, phía sau có Ngự Nhi thành, còn có thể đợi Phù Khái đưa quân đánh sau lưng chúng ta, hắn muốn đi vào tử địa để trùng sinh, mượn tình hình này chuyển bại thành thắng, còn chúng ta…”

Tôn Vũ cười khổ nói tiếp: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, chúng ta tuy muốn nắm phần chủ động trong tay, nhưng hiện nay phần lớn phải xem ý trời quyết định biến số thế nào rồi?”

“Báo! Quân tình khẩn cấp. Việt quốc thừa lúc Ngô quốc ta nội loạn vượt biên giới tập kích, đã san bằng Ngự Nhi thành, hiện nay không rõ tung tích.”

“Cái gì?” Các tướng cùng lúc hét lên, tin này vừa đáng mừng vừa đáng lo, quân trấn thủ Ngự Nhi thành bị tiêu diệt, Hạp Lư sẽ mất đi một cánh quân cứu viện, đối với đại quân của Khánh Kỵ là một việc tốt, nhưng người Việt lần này đến đây không mang ý tốt, tuyệt đối không là đến giúp Khánh Kỵ, ai biết con rắn độc này bước tiếp theo sẽ tấn công Cơ Quang hay tấn công Khánh Kỵ?

“Quân Việt có bao nhiêu binh lực? Do ai thống lĩnh?”

Tên tín sứ trả lời: “Cái này…còn chưa biết rõ.”

Tôn Vũ vội ra lệnh: “Thám mã các nơi mau chóng dò la hành tung của quân Việt, một khi có tin lập tức báo về, không được chậm trễ.”

“Tuân lệnh!” Tên tín sứ vội lui ra.

Khánh Kỵ từ từ liếc mắt vào Tôn Vũ: “Trường Khanh khi nào phái ra một đội thám mã vòng qua Cơ Quang, lại đi dò la tin tức bên Ngự Nhi thành vậy? Hình như…hắn sớm biết Ngư Nhi thành sẽ xảy ra tình cảnh này…”, Khánh Kỵ bất chợt nhớ lại lần trước bàn về các cánh quân Ngô có thể cứu viện Cơ Quang, Tôn Vũ không hề nhắc tới quân trấn thủ ở Ngự Nhi thành…

Phù Khái dẫn quân đến Yểm thành, nghỉ ngơi chỉnh đốn xong lệnh cho đại quân tiếp tục lên đường, ba quân vừa định nhổ trại, một con ngựa phi nhanh tới, hai vai của tên lính trên lưng ngựa cắm hai lá cờ nhỏ màu đỏ, chính là tín sứ trong quân. Tên lính phi ngựa như bay tới trước xe ngựa của Phù Khái nhảy vội xuống, bước nhanh về phía trước bám lấy bánh xe Phù Khái, thở hổn hển nói: “Báo! Đại tướng quân, có quân tình khẩn cấp.”

Phù Khái đang ngồi trên xe, lạnh lùng lườm tên lính một cái, dửng dưng nói: “Chuyện gì mà phải hốt hoảng? Đứng lên rồi nói!”

“Dạ, dạ!” Tên tín sứ gật đầu lia lịa, nhưng đôi chân hắn khi cưỡi ngựa đã bị tê liệt, bên đùi rướm đầy máu tươi, hắn gắng gượng hai lần cũng chưa đứng lên được, chỉ còn cách quỳ tại chỗ, vội vàng bẩm báo: “Đại tướng quân mới rời khỏi Hàn Ấp có hai ngày, quân Lỗ và người Đông Di phối hợp tấn công Hàn Ấp. Bọn chúng…bọn chúng vốn chỉ giả bộ tấn công, nhưng quân số còn lại ở Hàn Ấp quá ít, kẻ địch nhìn ra khẽ hở, bèn cùng người Lỗ và người Đông Di hợp binh lại công phá Hàn Ấp, hiện giờ liên quân của chúng đã vượt sông đuổi đánh vào Vân Dương. Chúng…chúng giơ cờ hiệu của Yểm Dư công tử.”

“Cái gì?” Phù Khái giật nảy người, hai tay vịn vào thành xe, bật dậy ngay lập tức.

Phía trước vọng đến tiếng bánh xe lăn bánh, tiền quân đã nhổ trại xong, Phù Khái phất tay một cái, hét lớn: “Dừng tiến quân!”

Cờ hiệu lập tức được giơ lên truyền lệnh, chỉ trong giây lát, tiền quân dừng lại không tiến quân nữa. Phù Khái nhảy phốc xuống xe, sắc mặt do dự không biết làm thế nào, đứng đó đăm chiêu suy nghĩ.

“Yểm Dư đã mượn được quân từ Lỗ quốc và người Đông Di? Bọn chúng trong lúc giằng co với Tề còn có binh lực phát động tấn công xuống phía Nam ư? Tin này là thật hay giả? Chúng xuất binh đánh thật hay tung hỏa mù dụ ta? Nếu là thật thì ta dẫn quân đi cứu viện Đông Điều Khê, Yểm Dư đuổi theo đánh thọc sau lưng ta, lúc đó ta bị đánh cả trước mặt sau lưng à?”

Phù Khái đôi mắt sắc lạnh, nhìn xuống ngón chân trầm ngâm suy nghĩ, một ý nghĩ động trời nhen nhóm trong lòng hắn: “Hoàng huynh… e là không cứu được rồi, ta dẫn quân nam hạ giải vây cho huynh ấy, chi bằng tiến về Cô Tô, quét sạch binh mã đang vây thành của Khánh Kỵ, trốn vào Cô Tô thành rồi mưu tính đại nghiệp sau. Phù Sai chỉ là tên nhóc con miệng còn hơi sữa, trong quân đội Ngô quốc, uy danh của ta không kém cạnh so với Khánh Kỵ, đến lúc đó nói không chừng ta có thể thay thế hoàng huynh…”

Hắn lại lắc đầu, từ bỏ tham niệm mới nhen nhóm trong tim: “Không được, nếu hoàng huynh bị tiêu diệt, Khánh Kỵ chắc chắn tiến đánh Cô Tô thành, lại có liên quân người Lỗ và Đông Di của Yểm Dư giúp sức, đến lúc đó ta sao mà chống lại?”

Hắn nhíu mày đăm chiêu, nôn nóng đi vòng quanh chiếc xe ngựa hai vòng, dừng bước: “Người Tề hùng mạnh, vượt xa các nước Tào, Trần, Lỗ, Đông Di, phía Bắc người Lỗ và Đông Di chiến sự gay gắt, quân của chúng nếu không đánh nhanh thắng nhanh thì không thể nán lâu trong Ngô quốc ta, chỉ có việc tiếp tế lương thảo chúng cũng khó lo nổi, nếu viện binh bên ngoài mà lui, chỉ chừa lại cánh quân của Khánh Kỵ, thành Cô Tô kiên cố có thủ trên ba năm cũng không thành vấn đề, hơn nữa lúc đó ta thu nạp luôn quân thủ thành, binh lực có thể công có thể thủ, còn có binh mã ở Vũ Nguyên, Ngự Nhi thành, chỉ cần ta giơ cao cờ hiệu của Ngô vương điều động thì…”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 209: Thù trong giặc ngoài (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Phù Khái sáng mắt lên, ngẩng đầu hét lớn: “Người đâu!”

Một tên quan ghi chép và một tên tín sứ cùng bước tới, chắp tay: “Đại tướng quân!”

“Truyền lệnh…” Phù Khái đưa tay lên, đột nhiên lại ngập ngừng: “Nếu hoàng huynh bại trận nhưng không chết, chạy về Cô Tô, vậy… vậy ta nên làm thế nào?…”

“Đại tướng quân?” Tên quan ghi chép kinh ngạc nhìn Phù Khái.

“Hử? À, truyền lệnh… Truyền lệnh ba quân nhổ trại, tiến về Đông Điều Khê.”

“Tuân lệnh!”

“Về đây! Còn nữa…”

“Đại tướng quân xin cứ sai bảo.”

“Phía Cô Tô thành và Đông Điều Khê, phái thêm nhiều thám mã, lúc nào cũng đưa tin liên tục. Phía Vũ Nguyên cũng phái người đi liên lạc. Vì…người Lỗ và người Đông Di đuổi theo sau lưng, đề phòng bất trắc, ba quân của ta lúc nào cũng phải trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, khoảng cách đóng quân không được cách xa nhau, hậu quân đi chậm lại, tập hợp đội hình, đề phòng quân địch truy kích sau lưng.”

“Tuân lệnh!”

Hậu hoa viên Nhâm gia, Nhâm Nhược Tích ngồi bên cửa sổ. Ngoài kia, hoa nở rực rỡ, cỏ xanh um tùm, bên bờ hồ, Nhâm Băng Nguyệt đang câu cá, vừa ném lưỡi câu vào hồ, còn chưa kịp đợi lưỡi câu chìm xuống đã vội nhấc cần lên, sau đó lại thả xuống. Nhâm Nhược Tích hai tay chống cằm, vẻ mặt ngu ngơ nhìn vào em gái, cũng không hề cảm thấy tức cười.

So với một năm trước, thân hình của nàng có hơn chút ốm đi, hàng mi cong vút, dung nhan như ngọc, chiếc vòng ngọc đeo trên tay tựa như xuôi tay xuống là tuột ra, eo thon nõn nà, tà áo phất phơ, nàng ưu sầu tiều tụy đang lo cho sinh tồn của gia tộc và tính mạng cá nhân.

Sau này nên làm sao đây? Gia tộc của nàng nên đi đâu về đâu? Phụ thân, muội muội, tất cả thân nhân, còn có bao nhiêu người sống nhờ vào Nhâm Gia của nàng nữa, vận mệnh của bao nhiêu người tập trung lại như ngọn núi nặng trĩu trong lòng nàng. Khánh Kỵ và Cơ Quang đang tranh đoạt cả Ngô quốc, dù gi­ang sơn có ra thế nào cuối cùng cũng rơi vào tay một trong hai người họ, trong quá trình tranh đoạt đã hy sinh bao nhiêu tính mạng, có bao nhiêu gia tộc tan thành mây khói, tất cả đều không quan trọng, gia tộc mới sẽ mọc lên, thế lực mới sẽ hình thành, quá khứ sẽ rơi vào quên lãng, chẳng qua đó là một con sóng nhỏ trong dòng chảy, sinh ra, huy hoàng rực rỡ, tan biến…

Nhưng đối với nàng, cái gia tộc nhìn như con sóng nhỏ này trong mắt các nhân vật lớn kia lại chính là tất cả của nàng, nàng sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, phụ mẫu thân nhân, gia tộc của nàng, vận mệnh của nàng có quan hệ mật thiết không tách rời. Ngoài ra bảo vệ gia tộc, bảo vệ thân nhân cũng là trách nhiệm nàng không thể chối bỏ. Phụ mẫu ngày càng lớn tuổi, mái đầu bạc phơ, nếp nhăn đầy mặt, đó là hai người đã ban nàng sinh mạng, nuôi nấng nàng khôn lớn, thân là Nhâm gia trưởng nữ, gánh vác vận mệnh gia tộc là sứ mệnh của nàng, nên bây giờ nàng xuất hình một nỗi lo trong lòng.

Hơn nữa, đây không phải là tranh chấp của thương buôn, khi hai tập đoàn chính trị hùng mạnh phát động chiến tranh toàn diện, gia đình giàu có bậc nhất như nàng, vận mệnh chẳng qua chỉ như bọt sóng trong dòng chảy thời loạn thế, lúc nào cũng có nguy cơ bị tiêu diệt, hoàn toàn không tự quyết định được số phận.

Khánh Kỵ…

Bỗng nhiên, nàng nhớ đến chàng thanh niên múa trường mâu cách một bức tường với nàng, nghĩ đến khoảnh khắc chàng phóng mâu cứu nàng dưới lưỡi kiếm của kẻ địch, nhớ lại lúc chàng quay lưng bỏ đi, cất cao giọng hát ném cho nàng trái đào, lại nhớ chàng đích thân nói với nàng dưới bóng trăng: “Nếu như, lần này Khánh Kỵ không chết; nếu như, lần này nàng chưa gả cho ai; nếu như Khánh Kỵ quả thật phục quốc lên ngôi, ta nhất định triệu nàng vào cung…”

Nhâm Nhược Tích cảm thấy hai má nóng ran, đôi mắt long lanh như dòng nước mùa thu toát ra tình ý say đắm lung linh…

Có cô gái nào mà không tương tư? Chàng tà áo phất phơ, chàng khôi ngô tuấn tú, chàng cưỡi ngựa múa quyền… từng hình ảnh một, ẩn hiện trong tim. Thế mà nàng không có cả quyền theo đuổi hạnh phúc của mình, sinh ra làm phận con cái, nàng mãi mãi không làm được chuyện ích kỉ chỉ nghĩ cho hạnh phúc của riêng nàng, nhất cử nhất động của nàng đều liên hệ đến vận mệnh gia tộc, liên hệ phụ mẫu thân nhân, liên hệ đến sinh tử tồn vong của ngàn mấy sinh mạng trong gia tộc…

Một tiếng thở dài ngao ngán, Nhâm Nhược Tích từ từ cúi đầu xuống. Đời người, rất nhiều chuyện không tự làm chủ được, thám mã trong thành phái ra đi do thám các thành trì thị trấn xung quanh, đã mang về rất nhiều câu chuyện của Khánh Kỵ. Có người nói Khánh Kỵ đã kết thân với hai gia tộc thế lực Lỗ quốc, lấy hai cô gái Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, nên Lỗ quốc mới ra sức giúp đỡ hắn, chọn lựa đối đầu với Tề quốc hùng mạnh, còn đưa quân đến Ngô quốc giúp hắn phục quốc, những tin tức này nghe từ tướng lĩnh thủ thành Chuyên Nghị, nên có lẽ không giả.

Vị đại tư mã này có tình ý với nàng, tiếc là Chuyên Nghị tài cán bình thường, duy chỉ giỏi kiếm thuật, sao lại biết lấy lòng nữ nhi chứ?

Nam nhân, cuối cùng cũng lấy sự nghiệp làm trọng, lấy hai cô nương đại diện cho hai thế lực lớn có thể giúp sức, nếu nàng là Khánh Kỵ, nàng cũng sẽ không hề do dự mà làm vậy.

Bản thân nàng còn có tương lai ư? Phụ thân bị bắt phải ở trong Cô Tô thành để tiện giám sát, Nhâm gia đang bị ép không ngừng cung ứng vũ khí quân bị cho quân Ngô, Khánh Kỵ một khi phục quốc, gia tộc nàng chính là phe cánh ủng hộ Cơ Quang, nếu gia tộc nàng là một thị tộc nhỏ không quyền không thế còn dễ nói, nay là gia tộc giàu có bậc nhất, phụ trách cung ứng toàn bộ vũ khí quân bị cho quân Ngô, Khánh Kỵ đâu thể ngồi yên bỏ mặc cho nó tồn tại, đến lúc đó hiến tặng một nữ nhi có nguôi cơn giận trong lòng quân vương Khánh Kỵ?

Còn Cơ Quang chiến thắng thì sao? Hắn công phá Dĩnh Đô, mặc sức cướp bóc của cải Sở quốc, chiến công lừng lẫy, nếu lại đánh bại đại quân Khánh Kỵ, lúc đó hắn ngồi vững gi­ang sơn, Nhâm gia tuy có giúp sức nhưng lại vì bị thúc ép buộc phải làm, hắn sẽ không tin tưởng gia tộc Nhâm thị, hắn hoàn toàn có khả năng xử trí Nhâm gia, ít ra cũng răn đe dọa nạt, từng bước lấy sạch của cải cực khổ gầy dựng của Nhâm gia chiếm làm của riêng. Lúc đó, vì tồn vong của gia tộc, có lẽ nàng bị biến thành một lễ vật đem gả cho quyền thần nào đó trong Ngô quốc làm thiếp, Phù Sai, Phù Khái, hoặc có thể là Ngũ Tử Tư, Bá, Tư Môn Sào…

Sinh ra trên đời đừng làm thân nữ nhi, trăm năm vui buồn khổ cực do tay người khác quyết định! Nhớ lại câu nói này của Khánh Kỵ, Nhâm Nhược Tích nhói đau trong lòng, có lẽ…mơ ước xa xưa, là một vết thương không bao giờ lành trong tim nàng.

“Đại tiểu thư…” Dương bá mái đầu bạc phơ, quản sự Nhâm phủ dừng lại ngoài cửa phòng, gọi nhẹ một tiếng.

“Dương bá, có chuyện gì?” Nhâm Nhược Tích không quay đầu lại, nàng đang ngu ngơ nhìn ra ngoài cửa sổ, gió thổi tung mái tóc nàng, để lộ chiếc cổ trắng mịn như tuyết.

“Gia chủ mời đại tiểu thư đến gặp ngài.”

“Cha ta đã về?” Nhâm Nhược Tích quay đầu lại, vội vã đứng dậy chạy đi.

Trong thư phòng Nhâm Tử Anh, hai cha con ngồi đối mặt nhau.

Nhâm Tử Anh mặt như quán ngọc, mũi cao, dưới cằm có ba lọn râu, vốn là một trang nam tử khôi ngô tuấn tú, trải qua bao nhiêu năm lao tâm lao lực gánh vác gia nghiệp của Nhâm gia, tuy biết cách giữ gìn, trên mặt vẫn xuất hiện rất nhiều nết nhăn, mái đầu cũng xuất hiện nhiều sợi tóc bạc. Ngước nhìn phụ thân, Nhâm Nhược Tích thấy chua chát trong lòng.

“Con gái, ta thấy Hạp Lư đã rơi vào đường cùng rồi, chúng ta cũng nên tính toán cho mình.” Nhâm Tử Anh đầy vẻ lo âu lên tiếng.

“Phụ thân cứ nói!” Nhâm Nhược Tích giật mình, không khỏi nôn nao.

“Con gái, hôm nay thái tử bắt phụ thân qua đó, không phải là ép buộc Nhâm gia chúng ta tiếp tục cung cấp binh khí, mà là…đến xem cả nhà Triết đại phu bị hành hình.”

“Triết đại phu?” Nhâm Nhược Tích cảm thấy kì lạ: “Triết đại phu là khanh sĩ Ngô quốc, lại có quan hệ thân thích với Ngô vương, sao lại bị hành hình?”

Nhâm Tử Anh đanh mặt, gò má hai bên co giật mấy cái, nói: “Hạp Lư binh bại, Cô Tô bị vây khốn, các thế tộc công khanh khắp nơi có quan hệ liên lạc với Khánh Kỵ ngày càng nhiều, Triết đại phu không chịu nhẫn nhịn, vì muốn giữ lấy phú quý, hắn muốn tỏ lòng tốt với Khánh Kỵ, thế là viết một bức thư tỏ lòng trung thành muốn bắn ra ngoài thành, không ngờ lại bị binh lính tuần tra bắt giữ.”

Nhâm Nhược Tích toát mồ hôi lạnh kêu lên: “Thôi rồi, sao hắn lại hồ đồ như thế? Lâm trận quay sang đối địch, làm loạn lòng quân, thái tử mười phần có tám chín chắc chắn không niệm tình cũ, xử cho tội chết.”

Nhâm Tử Anh giọng vẫn còn run rẩy: “Thì đó, cả nhà Triết đại phu bất kể già trẻ lớn bé, nam đinh toàn bộ bị tùng xẻo, đem xác cho chó ăn, nữ nhân bị xung quân làm doanh kĩ…”

“Cái gì?” Nhâm Nhược Tích kinh hãi thét lớn.

Nhâm Tử Anh lắc đầu nguầy nguậy: “Tất cả gia chủ danh môn thế tộc, công khanh đại thần toàn thành đều bị gọi đến xem hành hình, tiếng kêu gào thảm thiết đó đến giờ còn văng vẳng bên tai ta…Phù Sai, đã mất hết tính người, ta nhìn vẻ mặt các công khanh, tuy có vẻ sợ hãi nhưng lại mang lòng ganh ghét, Phù Sai đã mất nhân tâm. Trong hoàng thành đã thế, bên ngoài không cần nghĩ cũng đã biết thế nào. Khánh Kỵ vốn là thế tử Ngô quốc danh chính ngôn thuận, lần này trở về đại bại Hạp Lư, vòng vây Cô Tô thành đến nay chưa được hóa giải, đại vương lưu lạc bên ngoài không thể vào thành, ta thấy…Hạp Lư khí số đã tận, Nhâm gia ta không thể cứ thế tiêu tùng theo hai cha con hắn được.”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 210: Viện quân (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Nhâm Tử Anh cúi đầu trầm ngâm hồi lâu, mới từ từ ngước mặt lên nói: “Con…năm ngoái trên đường đi Tề quốc, từng có duyên gặp mặt với Khánh Kỵ điện hạ, còn kết gi­ao tình nghĩa với ngài nữa. Lúc ở Tề quốc, con còn ra tay giúp đỡ ngài ấy đúng không?”

Nhâm Nhược Tích cảm thấy xấu hổ trong lòng, vội nhảy dựng lên đáp lời: “Dạ phải!”

Nhâm Tử Anh ánh mắt vụt sáng, nói: “Bây giờ chúng ta phải toan tính cho gia tộc của mình thôi. Thiên hạ đại loạn, gia nghiệp Nhâm gia ta to lớn, càng không thể dời đi đâu được, chỉ có thể ở lại Ngô quốc phát triển, mà hiện nay chức chủ nhân Ngô quốc, phần thắng của Khánh Kỵ điện hạ tăng cao…”

Hắn ngước nhìn con gái, đột nhiên mỉm cười: “Hai năm trước, phụ thân từng đề cập chuyện hôn sự của con và Khánh Kỵ điện hạ với tiên vương, may mắn được tiên vương ưng thuận. Đáng tiếc là ngay sau đó Hạp Lư hành thích giết chết tiên vương, chuyện này tuy chưa công bố ra ngoài, nhưng lại trở thành lí do Nhâm gia ta phải mang tội. Hiện nay…xem ra phải khơi lại chuyện cũ rồi, đó cũng là số phận sắp đặt sẵn cho con.”

Nhâm Nhược Tích thấy sống mũi cay cay, nước mắt chực trào ra trên đôi mắt nàng: “Phụ thân ơi…”

Nhâm Tử Anh vỗ nhè nhẹ vào vai con gái, an ủi: “Chúng ta cung cấp nhiều binh khí thế này cho Ngô vương, lại không được hắn xem như tâm phúc, muốn bảo toàn gia tộc, giờ đây chỉ còn dựa vào Khánh Kỵ. Con đi chuẩn bị đi, đêm nay con và Băng Nguyệt rời khỏi Cô Tô thành, quay về Nhâm gia thành của ta, tập hợp tất cả thợ rèn, thợ xây, thợ khuân vác, gia tướng, gia nô, trang bị áo giáp vũ khí của Nhâm gia ta, đi đầu quân chỗ Khánh Kỵ điện hạ, lập công lớn phục quốc giúp điện hạ.”

Nhâm Nhược Tích bỗng chốc trở nên kích động, đôi má đỏ chót cả lên, nàng cố gắng giữ bình tĩnh: “Phụ thân, thế phụ thân thì sao? Muốn đi chúng ta cùng đi.”

Nhâm Tử Anh lạnh lùng trách mắng: “Lắm lời! Nếu có thể cùng đi, phụ thân sao lại không đi? Phụ thân thân tàn sức yếu, lại chưa từng tập luyện võ nghệ, Cô Tô thành này thành cao tường dày, nếu dẫn theo ta, các con sao chạy thoát khỏi thành?”

“Cái gì?” Nhâm Nhược Tích nghe xong khóc lóc van xin: “Phụ thân không đi, con cũng không đi. Tấm gương của Triết đại phu còn đó, nếu con mà bỏ đi, phụ thân sao giữ được tính mạng?”

“Hỗn xược!” Nhâm Tử Anh trừng mắt giận dữ: “Đời người có hạn, chẳng qua chỉ mấy mươi năm, đều lại quay về với đất, có gì mà đáng tiếc? Nhâm Tử Anh ta có thể gầy dựng cơ nghiệp lớn thế này, giàu ngang cả quốc gia, trong thiên hạ có mấy ai làm được như ta? Gia tộc lớn mạnh và uy danh này chính là gốc rễ cơ nghiệp của ta, cơ nghiệp còn, mạng sống của ta coi như tồn tại mãi mãi.”

Nhâm Nhược Tích nghẹn ngào cầu xin: “Phụ thân, nữ nhi xưa nay chưa từng dám làm trái ý phụ thân, duy chỉ có lần này, thứ cho nữ nhi không thể nghe theo.”

Nhâm Tử Anh sắc mặt nghiêm nghị, quát lên: “Thêu hoa trên gấm vóc, không bằng tặng than lúc gió tuyết. Nhâm gia ta muốn tranh thủ địa vị cao ở Ngô quốc, thì phải trả cái giá tương xứng, thế mới công bằng. Khánh Kỵ phục quốc, Hạp Lư giữ ngai vàng, ai cũng không tiếc hy sinh, ngàn vạn sinh mạng theo đó tan thành mây khói. Nhâm gia ta muốn giữ lấy cơ nghiệp gia tộc, chết đi một ít người thì có đáng là gì? Phù Sai tàn bạo, hắn bảo ngày thành trì bị công phá sẽ đốt trụi cả thành theo hắn quyết không phải nói chơi, Nhâm gia ta không thể ngồi yên chờ chết, nếu chuyện lớn này không phải vì cần có con đi thực hiện, mà cần con hy sinh để giữ toàn vẹn gia tộc, Nhâm Tử Anh ta cũng không hề do dự hy sinh con. Nào, nghe lời phụ thân, mau đi chuẩn bị.”

“Nữ nhi không dám!” Nhâm Nhược Tích ngã gục ra đất khóc to.

Nhâm Tử Anh đứng phắt dậy, rút thanh kiếm treo trên tường ra, trợn mắt sắc lạnh: “Con muốn làm đứa con bất hiếu hả? Con không nghe theo phụ thân, phụ thân chỉ còn cách giết chết con và Băng Nguyệt trước, tránh bị người khác làm nhục. Sau đó nhờ em họ con gánh vác trách nhiệm bảo toàn gia tộc! Nó tuổi còn nhỏ, có làm được hay không còn chưa biết, nhưng cũng còn mang lại chút ít hy vọng cho phụ thân!”

Thanh kiếm bén nhọn được chỉa vào trước ngực Nhâm Nhược Tích, đụng nhẹ vào dưới cằm nàng, Nhâm Tử Anh hai mắt đỏ ngầu, nghiến răng ken két: “Con gái, con muốn phụ thân chết không được nhắm mắt ư?”

Màn đêm buông xuống. Nhâm phủ.

Nhâm Tử Anh ăn mặc sang trọng chỉnh tề, ngồi trên đại sảnh, trên đùi đặt một thanh kiếm đã tuốt khỏi vỏ, kiếm sắc lạnh như nước hồ mùa thu, bốn góc nhà chất đầy vật dễ cháy được tẩm dầu, mùi dầu nồng nặc xộc vào mũi.

Lão quản sự trung thành Dương Bá dẫn theo bốn tên võ sĩ đeo kiếm mặt mày dữ tợn bước vào sảnh, hành lễ với Nhâm Tử Anh: “Gia chủ, lão nô phục mệnh.”

Nhâm Tử Anh nhắm nghiền mắt, nghe tiếng Dương Bá liền từ từ mở mắt ra: “Đều giải quyết rồi chứ?”

Dương Bá cung kính buông xuôi hai tay: “Dạ! Từ phu nhân trở xuống, tất cả nữ nhân, đều đã treo cổ.”

Nhâm Tử Anh ánh mắt sắc lạnh: “Có ai cần các ngươi giúp đỡ không?”

Dương Bá cúi rạp đầu, mái đầu bạc phơ rầu rĩ lên tiếng: “Không có, tất cả nữ nhân trong phủ, đều đã tự vẫn.”

Nhâm Tử Anh búng tay vào thanh kiếm, phát ra tiếng leng keng hồi lâu, hắn ngửa mặt lên trời cười như điên dại: “Ha ha…, tốt, tốt lắm! Nữ nhân trong Nhâm gia ta, xem ra không làm Nhâm Tử Anh ta thất vọng.”

Hắn lại cúi đầu, hai mắt thu lại nhìn vào màn đêm đen kịt bên ngoài, giọng âm u: “Lúc này con ta chắc đã đi đến gần Xà môn, tạp dịch toàn phủ cứ đuổi đi hết, đốt lửa!”

Dương Bá phe phẩy tay mấy cái, một tên gia tướng bước ra ngoài cửa ra hiệu, trong màn đêm phát ra tiếng sột soạt, thì ra đã có không ít tạp dịch trong phủ vai đeo tay nải đứng sẵn ở đó, lúc này mở cửa sau ra, ai nấy ùa ra bên ngoài bỏ chạy. Nhâm Tử Anh cười chua chát nói: “Sau khi phóng hỏa, các ngươi cũng tự bỏ trốn giữ lấy mạng sống vậy.”

Dương Bá không nói nên lời, đột nhiên quỳ mọp xuống, bò đến trước mặt Nhâm Tử Anh, ôm lấy chân chủ nhân, trán mũi chạm sàn, hồi lâu không ngẩng lên. Nhâm Tử Anh thở dài, đặt tay lên mái đầu bạc phơ của tên quản sự già, nói nhỏ: “Ngươi theo ta cũng đã hơn bốn mươi năm rồi nhỉ?”

“Dạ, lúc chủ nhân vừa được sinh ra đời, lão nô đã bế qua chủ nhân, lúc ấy chủ nhân còn rất nhỏ, lão nô bế chủ nhân đi chơi đây đó, ngón tay của chủ nhân vừa bé vừa mềm, ánh nắng chiếu vào có thể nhìn xuyên qua, lão nô hết hồn, cố gắng cẩn thận, sợ dùng sức mạnh một chút sẽ làm gãy tay chủ nhân. Sau này chủ nhân từ từ lớn lên, hay cưỡi lên cổ lão nô ra ngoài chơi, có một lần chơi vui quá quên nhảy xuống đi tè, thế là tè cả vào người lão nô…”

Nhâm Tử Anh nở nụ cười thân thiện: “Phải rồi, ngươi nhắc ta mới nhớ lại rất nhiều rất nhiều chuyện hồi nhỏ trước đây…”

Dương Bá nghẹn ngào nói tiếp: “Hồi đó có ngày nào mà lão nô không cùng chủ nhân ra ngoài chơi, dù nắng hay mưa cũng không thay đổi. Ây, chủ nhân từ từ khôn lớn, lưng của lão nô cũng ngày một còng thêm, ngày xưa lão nô nắm tay chủ nhân đi, sau đó đuổi theo sau lưng chủ nhân, kể từ đó, thì chỉ theo sau chủ nhân thôi. Đôi chân này đã không còn linh hoạt, đến bây giờ chỉ còn có thể trông coi vườn tược, giữ cửa cho chủ nhân.”

Nhâm Tử Anh xoa xoa đầu lão nô Dương Bá, trầm ngâm: “Dương Nô Nhi, Dương Nô Nhi, ta hình như sém quên mất tên của ngươi rồi, những năm này cũng chỉ còn nhớ ngươi là Dương Bá, quên mất hồi bé cứ hay gọi ngươi là Dương Nô Nhi. Hây, ngươi dẫn theo bốn người họ châm lửa rồi rời khỏi đây mau, với thân thủ của họ tìm một chỗ ẩn thân không khó. Còn ngươi, chỉ là một lão nô, nghĩ chắc thái tử sẽ không làm khó một tên người hầu như ngươi.”

“Chủ nhân, lão nô sống là người của Nhâm gia, chết làm ma của Nhâm gia. Lão nô đã hầu hạ chủ nhân cả một đời, xin chủ nhân khai ân, cho phép lão nô cùng lên đường với chủ nhân.”

Nhâm Tử Anh thở một hơi dài: “Ngươi đó, cái tên Dương Nô Nhi này.” Hắn ngẩng đầu lên nhìn vào bốn tên thị vệ cận thân, bốn thị vệ nhất tề quỳ xuống, tuốt kiếm dõng dạc: “Xin gia chủ khai ân, cho phép tiểu nhân cùng lên đường với gia chủ.”

Nhâm Tử Anh trầm lặng trong giây lát, phất tay áo một cái, rầu rầu hạ lệnh: “Châm lửa!”

Thành nam Cô Tô, gần Xà môn, binh lính thủ thành hỗn loạn cả lên, có người hét to: “Mau xem, mau xem, trong thành bị cháy.”

“Ối! Nhà ở khu đó toàn là của các công khanh đại phu, danh môn thế tộc, là nhà ai đấy nhỉ? Trận lửa này to quá, cháy rực cả bầu trời, sao mà cứu được.”

Trong bóng đêm gần đó, hai tên hắc y nhân quay đầu nhìn vào đám cháy hừng hực phía xa, đột nhiên quỳ mọp xuống đất, dập đầu ba cái, một hàng hắc y nhân sau lưng cùng lúc quỳ xuống bái lạy. Hai người ngẩng đầu lên, ánh trăng mờ ảo, hai khuôn mặt trắng nõn giờ có thêm hai hàng nước mắt chảy dài.

Cô gái thân cao đi đầu cắn răng phất tay một cái, dẫn theo đoàn người xông thẳng về phía Xà môn, chỉ trong thoáng chốc, cổng thành lập tức vang vọng tiếng la hét và tiếng binh khí leng keng gi­ao chiến, trải qua một trận đánh ác liệt, khắp nơi phủ đầy xác chết, cuối cùng chỉ còn lại hơn mười người hộ tống hai hắc y nhân thân hình mảnh mai xông lên tường thành.

Dưới thành có hào nước, xung quanh có cọc gỗ nhọn hoắt chỉa ra cản địch, họ leo lên tường thành xong nhanh chóng cột dây vào cán cờ, từng người từng người tuột xuống, vẽ ra một vệt đen dưới bóng trăng, “Tỏm” nhảy ùm vào hào nước, bọt bắn tung tóe, rong rêu tứ tung, sau đó tất cả trở lại màn đêm tĩnh lặng, duy chỉ có trong thành ngọn lửa đỏ rực vẫn tiếp tục cháy dữ, sáng cả một góc trời đêm nay…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 210: Viện quân (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Đông Điều Khê, đại doanh quân Ngô.

Khánh Kỵ sải bước đi vào, Tôn Vũ theo sát đằng sau, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man toàn thân áo giáp như vệ sĩ kè kè kế bên, đám binh sĩ tự giác tránh ra một lối đi, khi Khánh Kỵ đi qua, lại tụ tập theo sát sau lưng chủ soái.

Trong doanh trại còn văng vẳng tiếng chém giết đâu đây, xung quanh Khánh Kỵ lại yên lặng tuyệt đối, chỉ có tiếng thở dốc nặng nề và tiếng va chạm nhẹ của binh khí. Chiếc lều dựng tạm bị vứt sang một bên, bị giẫm đạp lên nát bấy cả ra, ngoài cửa doang trại là khu vực tử thương nghiêm trọng nhất, hai bên đại chiến bên thủ bên xông vào, giờ đây xác nằm la liệt, Khánh Kỵ không còn một khoảng trống để bước qua, trong kia vẫn còn một đội quân nhỏ bị bỏ lại đang chống cự trong tuyệt vọng, đội quân Ngô này còn khoảng hơn hai trăm người, vừa đánh vừa lui, nhưng chúng đã không còn đường lui, Anh Đào dẫn quân tấn công ngay chính diện, A Cừu và Tái Cừu dẫn hai cánh quân nhanh chóng chia ra hai bên hông và sau lưng chúng xộc đến, đám quân Ngô đã rơi vào đường cùng buộc phải tử chiến.

Khi Khánh Kỵ xuất hiện, chút ý chí chiến đấu sau cùng của đội quân này cũng bị tiêu tan, không chỉ vì sự xuất hiện của Khánh Kỵ mang ý nghĩa cả doanh trại đã hoàn toàn thất thủ, còn là trong lòng của đám quân này, kẻ quyền quý trời sinh mãi mãi cao cao tại thượng, họ chỉ là đám dân đen phục tùng dưới chân những ai quyền quý. Khi chúng tôn thờ Ngô vương Cơ Quang làm chủ nhân, chúng hãy còn chút dũng khí chiến đấu chống lại Khánh Kỵ, nay Cơ Quang bại trận bỏ trốn, thế tử Ngô quốc hôm nào áo giáp tinh tươm lại xuất hiện trước mặt chúng, cái cảm giác phục tùng lập tức lấn át ý chí quyết chiến của đám quân Ngô.

Khánh Kỵ phất tay một cái, quân lính của Anh Đào lập tức dừng tấn công, hai trăm mấy tên quân Ngô bị bao vây ở giữa nhìn trừng trừng vào Khánh Kỵ một hồi, sau đó không ai bảo ai cùng lúc buông vũ khí xuống, quỳ rạp cả ra.

“Cơ Quang đang ở đâu?” Khánh Kỵ đi đến trước mặt chúng, trừng mắt uy nghi quát lên.

Phía trước tên lữ soái chỉ huy quân Ngô giật mình run rẩy, buộc miệng trả lời: “Đại vương…”

Hắn mới nói đến đó, phát hiện cách xưng hô như vậy bây giờ không ổn, sợ hãi ngưng bặt tiếng, Khánh Kỵ cười khẩy: “Nói tiếp!”

“Dạ, dạ dạ, Cơ…đại vương đã biết Ngự Nhi thành bị quân Việt tập kích, quân thủ thành bị tiêu diệt toàn bộ, không thể kéo đến cứu viện. Điện hạ…điện hạ tấn công như vũ bão, đại vương… đại vương đã rút lui về hướng Vũ Nguyên.”

Anh Đào nói xen vào: “Công tử, Tôn tướng quân và Lương Hổ Tử tướng quân đã dẫn quân đuổi theo.”

Khánh Kỵ hỏi dồn: “Tình hình bên Vũ Nguyên thế nào?”

Tên lữ soái hơi chút do dự, Khánh Kỵ gằn giọng: “Hử?”

Tên lữ soái giật mình, vội đáp: “Ngũ tướng quân từng phái đi nhiều tín sứ, chia nhau liên lạc tin tức với Cô Tô, Hàn Ấp, Vũ Nguyên, Ngự Nhi thành, nhưng những nơi có khả năng đến cứu viện chỉ có Ngự Nhi thành, Vũ Nguyên, Hàn Ấp. Hiện nay Ngự Nhi thành thất thủ, Phù Khái tướng quân ở Hàn Ấp bị Yểm Dư công tử mượn quân Lỗ chế ngự, hành quân chậm chạp, duy chỉ còn biết trông cậy vào Vũ Nguyên. Quân trấn thủ Vũ Nguyên đã đưa tin đến, họ biết Cô Tô lâm nguy đang định dẫn quân đến thành Cô Tô cứu giá, sau khi gặp tín sứ biết đại vương bị vây ở Đông Điều Khê, đã vội dẫn quân tiến về đó ngay trong đêm, đại vương vốn định chờ quân từ Vũ Nguyên đến tập hợp lại tiếp chiến với điện hạ, nhưng điện hạ tấn công thần tốc, không cho đại vương chút thời gi­an để thở, đại vương chỉ còn cách lui về hướng Vũ Nguyên…”

Khánh Kỵ trong lòng nôn nao: “Chúc Dung chiêu hàng thất bại rồi ư? Quân Vũ Nguyên mà đến, lại diễn ra gi­ao tranh ác liệt, không biết quân ta còn chống đỡ được đến bao giờ?”

“Công tử, Tôn Vũ tướng quân, Lương Hổ Tử tướng quân đã đuổi theo Cơ Quang, chúng ta cũng mau đuổi theo đi ạ.” A Cừu bước đến, to tiếng nhắc nhở.

Khánh Kỵ suy ngẫm khá nhanh, truyền lệnh: “Tập hợp binh mã, thương binh bỏ lại dọn dẹp chiến trường, còn tất cả những người còn lại theo ta thừa thắng truy kích!”

Khánh Kỵ chỉnh đốn xong xuôi, từ từ thong thả tiến quân theo sau Tôn Vũ và Lương Hổ Tử, không vội hội quân với hai tướng quân. Một là phía sau lưng không biết có xảy ra bất ngờ gì không, đại quân trải qua mấy trận đại chiến khốc liệt, không thể không nghỉ ngơi dưỡng sức. Hai là hiện giờ còn một cánh quân Việt đang không rõ tung tích, cần thận trọng đề phòng bọn chúng đánh úp.

Bản chất của chiến tranh từ trước giờ không phải là mục đích, mà là một loại thủ đoạn, thủ đoạn này có mục đích vì kinh tế, hoặc vì chính trị, hoặc vì tín ngưỡng, thậm chí là vì nữ nhân, nhưng chưa bao giờ chỉ vì muốn chiến tranh mà phát động chiến tranh, vậy mục đích của người Việt là gì? Trước khi làm rõ động thái và mục đích tiến quân vào Ngô của chúng, Khánh Kỵ không dám dồn tất cả binh mã vào mỗi trận đánh, buộc phải để lại một cánh quân đề phòng bất trắc xảy ra.

Cũng may là xung quanh ít có đồng bằng, toàn là sông rạch núi non hiểm trở chắn đường, đại chiến cả vạn người dàn trải ra chiến trường không thể xảy ra, đồng thời trải qua mấy trận chiến kịch liệt binh mã Khánh Kỵ còn trên dưới hai vạn, mà Cơ Quang bại trận mấy lần, thương binh vô số, số lính bỏ trốn cũng nhiều, thêm vào Tư Môn Sào nghi binh dụ Khánh Kỵ đuổi đánh lại dẫn theo một ít quân, nên giờ binh mã Cơ Quang mang theo bên mình đã kém xa Khánh Kỵ, cho dù dồn hết toàn bộ binh lực vào chiến đấu đi chăng nữa thì Khánh Kỵ vẫn chiếm thế thượng phong.

Hiện giờ thứ làm Khánh Kỵ lo nhất chính là cánh quân từ Vũ Nguyên, cánh quân này không nhiều nhưng lại chưa hề sứt mẻ, nếu chúng nhảy vào tham chiến nói không chừng sẽ làm thay đổi cục diện trên chiến trường, chính vì vậy càng cần phải để lại quân dự bị phòng hờ tình hình chiến sự có gì thay đổi bất ngờ.

“Báo, đại vương, tướng quốc, quân Vũ Nguyên đã kéo đến, đang ở ngoài tầm bắn ba mũi tên.”

“Hở?” Cơ Quang dáng vẻ thảm hại mừng rơn, hắn bây giờ đang bại trận thê thảm phải bỏ trốn, đội nghi thức của Ngô vương đã vứt bỏ hết, nghe thám mã bẩm báo, hắn vội lệnh người dừng chiến xa lại, tay tựa vào cánh dù che nắng dõi mắt ra xa.

“Đỡ ta…đứng dậy…” Ngũ Tử Tư cố gắng đứng dậy, vết thương của hắn không mấy nghiêm trọng, nhưng cũng cần có thời gi­an tịnh dưỡng mới khỏi hẳn, mấy ngày này vết thương đã hồi phục đôi chút, nhưng chưa vận sức được nhiều, bằng không vết thương lại tái phát.

Phía xa xa bụi bay mịt mù, đang có một cánh quân đang ùn ùn kéo đến. Ngũ Tử Tư nói: “Quân trấn thủ Vũ Nguyên vốn là bộ hạ của Chúc Dung, nên chỉ điều sang trấn giữ Vũ Nguyên, xưa nay chưa từng điều động dùng đến, bây giờ họ ngày đêm chạy vội đến cứu viện, đã tỏ rõ lòng trung thành với đại vương, đại vương nên ban thưởng cho tướng lĩnh Vũ Nguyên, thăng quan tiến chức cho Bình Bố.”

Cơ Quang cảm thấy được an ủi phần nào: “Quả nhân biết mà, tướng quốc hãy nằm xuống nghỉ ngơi đã, đừng cố sức làm toát vết thương.”

“Chút thương vặt này, không hề hấn gì.” Ngũ Tử Tư nheo mắt nhìn ra xa, nói với thám mã: “Đi nói với Bình Bố, bảo đại quân của hắn dừng lại đợi lệnh, mau đến bái kiến đại vương!”

“Tuân lệnh!” Thám mã quay đầu ngựa lao về phía đại quân Vũ Nguyên.

Đại quân Vũ Nguyên đang kéo đến ùn ụt, mười mấy chiếc chiến xa đi trước, cờ hiệu phấp phới, binh mã chen chúc như kiến theo sau, tổng cộng có hơn tám ngàn người, xem tình hình này quân Vũ Nguyên đã kéo hết đến đây, một binh một tốt cũng không để lại trấn giữ.

Chúc Dung toàn thân giáp trụ, tay nắm trường mâu, chòm râu còn dính đầy bụi đường, ngước nhìn đoàn quân thảm hại đang dừng lại bên kia, phấn khích nói với người đứng kế bên: “Bình Bố, ngươi thấy rõ rồi chứ?”

Bình Bố thân hình thấp bé, chỉ đứng đến vai của Chúc Dung, nhưng lại vạm vỡ rắn chắc, hắn vịn tay vào chiến xa, nhón chân nhìn về phía trước, gật gù: “Nhìn rõ rồi, tại sao cờ hiệu, soái kì, vương kì đều không có thế này, chúng thảm bại đến mức này sao?”

Chúc Dung cười ha hả: “Tín sứ của Cơ Quang không phải đã nói rồi sao? Tư Môn Sào giả làm Cơ Quang dẫn dụ truy binh của Khánh Kỵ, cờ hiệu, vương kì gì đó bị Tư Môn Sào mang theo cả, nhưng đại quân của hắn ngay cả soái kì trung quân cũng đánh mất, đúng là thua thảm thiệt! Đám tàn quân này còn tự dâng tận miệng chúng ta, đúng là công lớn từ trên trời rơi xuống.”

Bình Bố chà xát nắm đấm, phấn khích nói: “Công tử cứ trấn giữ trung quân, mạc tướng dẫn một cánh quân lên tấn công quân địch, bắt sống Cơ Quang.”

“Cơ hội tốt thế này còn trấn giữ trung quân làm cái gì? Toàn quân tiến lên tấn công quân địch.”

“Dạ dạ, vậy xin công tử đoạn hậu, mạc tướng làm tiên phong…”

“Tiên phong con khỉ, quân của Cơ Quang còn ra đội hình sao hả? Chúng ta bày trận ra cho ai xem? Cứ xông thẳng tới, ai bắt được hắn tính công lao người đó.”

“Được!”

“Ngươi nghe cho rõ, chỉ được theo sau chiến xa của ta, không được vượt lên đầu ta đó, nghe rõ chưa?”

Bình Bố xoay xoay cái đầu thấp bé không thấy cổ của hắn, trừng mắt tức tối, trút tất cả giận dữ lên đám thuộc hạ của mình: “Xông lên, xông lên, không cần đánh trống, cứ xông thẳng vào cho ta! Công lớn đang đặt trước mặt, đây là công lao cuối cùng đó, tiến lên! Giết!”

Bên kia, Cơ Quang vẫn ngây ngô chưa biết khí số của hắn sắp tận…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 211: Mệt mỏi trốn chạy (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Trên đồi, Ngũ Tử Tư tựa kiếm quỳ một chân xuống đất, khắp người đầy máu. Binh sĩ xung quanh hắn càng đánh càng ít, vòng tròn phòng thủ càng lúc càng bị thu hẹp, bại trận chỉ còn là vấn đề thời gi­an. Hắn liều chết cố thủ ở khe núi này, phía sau là một lối nhỏ, Ngô vương Cơ Quang đã bỏ chạy theo lối đó. Cơ Quang tức tối điên cuồng không chịu chạy tiếp bị Bá dẫn theo võ sĩ trung thành cứ thế mặc kệ kéo hắn đi, đó cũng là mệnh lệnh cuối cùng Ngũ Tử Tư gi­ao phó cho Bá.

Bây giờ Cơ Quang bỏ chạy đã được một canh giờ, tuy nói toàn quân trốn chạy mất một phần, đầu hàng đi một phần, nhưng Ngũ Tử Tư thấy tất cả như thế cũng xứng đáng, ít đi đại quân vướng chân bận cẳng, Cơ Quang có thể cải trang làm thường dân, đường lớn lối nhỏ, núi sông kênh rạch đều có thể tùy ý chọn lựa, chỉ cần đại vương bình an trốn được về Cô Tô thành, đại sự chưa chắc đã hết cách.

Ai mà ngờ được, quân trấn thủ Vũ Nguyên đến cứu viện lại là một lũ sói dữ đến vồ mồi, trong lúc không hề phòng bị, lại mệt mỏi vì bị truy đuổi, cánh quân của Cơ Quang vốn đã không thể địch lại, đúng lúc này truy binh của Khánh Kỵ từ sau lưng đuổi kịp, đại quân trước sau đều bị đánh, nhanh chóng bị xẻ ra làm nhiều mảng, có người bỏ trốn, có kẻ đầu hàng, khí số đã tận, giờ đây chỉ còn cánh quân của Ngũ Tử Tư liều chết giữ lấy đường núi yểm trợ cho Ngô vương Cơ Quang tiếp tục trốn chạy.

Vết thương cũ trên người của Ngũ Tử Tư giờ đã toát ra, vì mất máu quá nhiều, trước mắt hắn là một màn sương đen, toàn thân dần dần lạnh toát, hắn biết sứ mạng của hắn sắp kết thúc, mối thù gia tộc đã được trả, bây giờ là lúc hắn dùng tính mạng đền đáp Ngô vương Hạp Lư, chết cũng coi như xứng đáng rồi.

Số binh sĩ còn kề cận chiến đấu đều là các dũng sĩ thề chết tận trung, số người này mặc dù đang liều mạng chém giết như cọp điên, nhưng đã là mũi tên bắn đến tận cùng không còn sức phóng, ngay cả quay qua lo cho tướng quốc đại nhân cũng có lòng không có sức.

“Xông qua đó! Cơ Quang không còn bao nhiêu vệ sĩ bên mình, đừng để hắn trốn thoát, nhất định phải bắt cho được hắn!” Chúc Dung hét lớn, quét mâu gạt ngang một kiếm một kích đâm tới ngang ngực, hùng hổ lao lên chém giết, Bình Bố dẫn theo binh sĩ theo sát đằng sau. Ngũ Tử Tư hít một hơi dài, lao lên đâm một nhát kiếm, bị Bình Bố giơ kích gạt phăng, sải bước lao nhanh vượt qua hắn.

Ngũ tướng quốc biết giờ như chim bay trong lồng, chức quan của hắn cao vốn là một công lao khá lớn khi lấy đầu hắn, nhưng so với sức hấp dẫn từ Cơ Quang thì vẫn kém xa. Bình Bố lúc này chỉ muốn bắt sống Cơ Quang, lập công lớn để được phong hầu bái tước, đâu cần để mắt tới Ngũ Tử Tư xưa nay hắn luôn cung kính không dám to tiếng giờ đang hấp hối ở đó.

Lại một đám người xông tới, Ngũ Tử Tư nhận ra người dẫn đầu là Xích Trung, bỗng nổi giận đùng đùng, gào to: “Phản đồ!”

Hắn đứng chưa vững lại cầm kiếm lao lên, Xích Trung thấy là tướng quốc, khuôn mặt thoáng lộ vẻ hổ thẹn, không tự chủ được bước lui vài bước, một tên lính kế bên thấy có cơ hội tốt, đâm một nhát kiếm xuyên qua lớp giáp da của Ngũ Tử Tư, dưới bụng Ngũ Tử Tư lập tức máu tuôn như suối.

“Á!” Ngũ Tử Tư rú lên đau đớn, tay trái nắm chặt chuôi kiếm chém phạt vào tên lính, tên lính trong lúc đang khoái chí vì đâm trúng Ngũ tướng quốc nên không hề đề phòng, bị Ngũ Tử Tư chém bay mất nửa cái đầu. Ngũ Tử Tư lảo đảo lùi lại, một cây kích lại đâm tới xuyên qua đùi trái của hắn, Ngũ Tử Tư trừng mắt nhìn lên, tên lính kia hoảng sợ run tay, cây kích dài bén nhọn không đâm tiếp nữa, chỉ thấy tay Ngũ Tử Tư khẽ động đậy, tên lính sợ hãi hét toáng lên bỏ cả kích chạy ra xa.

Ngũ Tử Tư cười như điên dại, nón giáp trên đầu hắn đã bị chém bay, mái tóc bạc phơ rối tung trong gió, vẻ uy nghi của hắn vẫn còn, tuy toàn thân đầy máu nhưng không ai dám lại gần, nhưng ai nấy nhìn thấy vết thương của hắn máu tươi không ngừng tuôn ra, đều biết vị tướng quốc đại nhân này không còn sống được bao lâu nữa.

Ngũ Tử Tư cười điên dại xong, ho lên vài tiếng, khóe miệng chảy ra máu tươi, hắn lảo đảo lui thêm vài bước, vấp ngã ra đất, mấy tên thị vệ cận thân đang ra sức chiến đấu với quân Khánh Kỵ, có người muốn đến cứu, hơi chút lo là phân tâm lập tức bị đâm chết, giờ đây xung quanh Ngũ Tử Tư là một đám binh sĩ của Khánh Kỵ đang lăm lăm trường mâu bao vây hắn ở giữa.

Mấy tên lính liếc mắt nhìn nhau, nổi lòng ham muốn lập công, đột nhiên cùng lúc hét lên, không ai bảo ai giơ binh khí đâm thẳng vào Ngũ Tử Tư.

“Hứ!” Ngũ Tử Tư chống kiếm xuống đất, gằn to một tiếng, ánh mắt dữ tợn, mười mấy cây trường mâu vốn đã đâm đến sát bên, bị hắn trừng mắt liếc nhìn, đám binh sĩ mất hết dũng khí, đều nhất tề ngưng lại.

“Đầu của Ngũ Viên, có thể đổi chức vạn hộ hầu, ai dám đến đây mà lấy?” Ngũ Tử Tư lại hét to, mười mấy tên lính không dám tiến lên mà cùng lui cả lại.

Ngũ Tử Tư giơ tay vận sức, phóng thanh kiếm trong tay ra, vì cố gắng phóng kiếm, hắn ngã chúi nhủi về phía trước, vì hắn đã không còn chút sức lực, kiếm phóng ra bay với tốc độ không cao, bị một tên lính giơ khiên lên đỡ, kiếm chạm cái mạnh vào tấm khiên bắn bật trở lại, rơi ngay trước mặt hắn.

Tiếng bước chân vang lên, Ngũ Tử Tư khẽ ngẩng đầu, chỉ thấy đại quân bao vây hắn tách ra nhường cho một lối đi, một nam tử mặc áo bào đen đi giầy vải đi đến trước mặt hắn, tay áo bào màu trắng của ánh trăng, trên có thêu họa tiết hoa mai, viền giầy vải cũng là màu trắng, bước chân đạp lên bãi cỏ xanh mướt dưới đất, vững vàng có sức.

Ngũ Tử Tư ngẩng đầu lên, màn sương đen nơi đôi mắt đã biến mất, mặt mũi của người này hiện lên rõ mồn một, đó là một nam tử tuấn tú, nhìn dáng vẻ chưa đến ba mươi tuổi, không mặc áo giáp, chỉ đeo một thanh kiếm ngang hông.

Ngũ Tử Tư không biết người này, nhưng hắn nhận ra người này phải là chủ tướng trong quân Khánh Kỵ, vì khi người này xuất hiện, tên Xích Trung phản bội lại cung kính lui lại, tỏ vẻ thần phục.

“Rút kiếm ra, đánh với ta!” Ngũ Tử Tư rít qua kẽ răng, đưa tay muốn nhặt kiếm.

Người kia khẽ cử động, chiếc giầy vải nhè nhẹ nhấc lên, sau đó đạp lên thanh kiếm dưới đất, cất tiếng ảm đạm: “Thắng thua đã rõ, đâu cần thiết tỏ ra ngoan cố.”

Ngũ Tử Tư ngước mặt nhìn hung tợn vào hắn, người kia thần thái ung dung, không thèm nhúc nhích.

Ngũ Tử Tư nhắm mắt hồi lâu, sầu não hỏi: “Ngươi là Tôn Vũ, hay là Anh Đào?”

“Tại hạ Tôn Vũ.”

“Ta…đã quá coi thường ngươi…”

“Tại hạ lại không dám coi thường tướng quốc đại nhân.”

“Hứ…, nên…ta mới thất bại…”

Tôn Vũ nghe hắn nói vậy, hình như có ý cho rằng hắn thua vì khinh địch chứ không phải thua vì tài dùng binh đánh trận, chỉ mỉm cười một cái, không lên tiếng cãi lại.

Ngũ Tử Tư cố sức muốn ngồi dậy, chỉ là toàn thân giờ không còn chút sức lực, cố gắng hồi lâu cũng chỉ lật mặt qua nằm ngửa lên trời, chóng mặt hoa mắt, một màn đen che kín mắt hắn.

Tôn Vũ từ từ ngồi xuống, Ngũ Tử Tư nhắm nghiền mắt, nghe giọng của Tôn Vũ văng vẳng bên tai, lúc rõ lúc không.

“Đại vương…đã chạy xa, sao ngươi không đuổi theo?”

“Cơ Quang rời khỏi đã lâu lắm rồi, đường núi khó đi, chắc đuổi không kịp.”

“Ha ha…Ngươi…không chịu phí thêm ít sức lực.”

“Ta chỉ là không muốn đi làm những chuyện không có cơ hội làm được.” Tôn Vũ bình tĩnh nói: “Sự thật là ta đã tiên liệu dù có đuổi kịp Cơ Quang cũng phải khổ chiến một phen. Quân trấn thủ Vũ Nguyên đầu hàng chúa công của ta, biến số này trước đó ta không dự liệu được.”

“Ngươi rất lợi hại, nhưng…nhưng…ta đã giữ được con đường núi này, các ngươi chưa bắt được đại vương. Đại vương hãy còn, ta…ta vẫn chưa…chưa thua…”

Ánh mắt Tôn Vũ lộ vẻ kính phục: “Phải, những gì tướng quốc muốn làm, đều đã hoàn thành rồi.”

Ngũ Tử Tư cười to: “Nếu không vì ai nấy có chủ nhân riêng, có thể chúng ta sẽ thành bằng hữu. Nào, chặt lấy cái đầu của ta đem dâng cho Khánh Kỵ, đó là một công lớn.”

Sức lực của Ngũ Tử Tư càng lúc càng cạn kiệt, hai mắt cũng không thể mở ra, mệt mỏi vô cùng, hắn chỉ muốn ngủ đi. “Tướng quốc cả đời anh hùng, không nên chết dưới tay người khác!” Trong lúc mơ màng, Ngũ Tử Tư cảm thấy có vật gì nhét vào tay hắn, dùng sức nắm chặt, mới biết đó là một thanh kiếm sắc bén.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 211: Mệt mỏi trốn chạy (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Cả đời anh hùng ư?…” Ngũ Tử Tư lẩm cẩm lặp lại câu nói đó của Tôn Vũ, tiếng bước chân đã đi xa, tiếng ra lệnh cho binh sĩ, tiếng binh sĩ rầm rập tập hợp thành đội ngũ, nhưng tất cả những thứ ấy dường như là âm thanh phát ra từ thế giới khác.

“Cả đời anh hùng ư?” Kí ức cả cuộc đời ùa về, Ngũ Viên từng là một công tử khôi ngô như ngọc, mang theo mối thù máu của gia tộc cô độc rời bỏ Sở quốc. Chính từ lúc đó, trong tim hắn chỉ có thù hận không thể hóa giải: Nửa cuộc đời lưu vong, nay đây mai đó, hận thù trong tim ngày càng trĩu nặng, máu hắn ngày càng lạnh căm, chính khách tâm địa nham hiểm ở Trịnh quốc, tướng quốc thủ đoạn ác độc ở Ngô quốc…

Đến hình ảnh đào mộ quất roi vào xác Sở vương ở Sở quốc, thứ đáng an ủi nhất, chính là khoảnh khắc ấy, lúc hắn trả được thù lớn, nét mãn nguyện nhanh chóng lướt qua trong lòng, sau đó lại rơi vào cõi hư vô…

Ngũ Viên cất lên hơi tàn cuối cùng: “Ta…Ngũ Viên ta…chưa bao giờ là một anh hùng. Ta chỉ là…chỉ là một… nam nhi tràn đầy thù hận…”

Hắn đưa kiếm từ từ kề lên cổ, hít một hơi sâu, năm ngón tay đầy máu nắm chặt chuôi kiếm, hồi lâu không thấy cứa xuống. Gió lay nhẹ mái tóc và chòm râu bạc của hắn, Ngũ Tử Tư đã tắt thở từ lâu…

Sau khi trốn khỏi vùng núi, Cơ Quang quay đầu lại nhìn vào dãy núi nhấp nhô sau lưng, nấc lên thảm thiết. Hắn biết rõ tướng quốc Ngũ Tử Tư không còn cơ hội sống sót, khi xưa dẫn theo bốn vạn đại quân đến Sở quốc, chiêu hàng nạp phản, quân đội tăng lên sáu vạn người, thế mà giờ đây bên cạnh chỉ còn hơn hai trăm quân. Từ vui đến buồn, từ thịnh đến suy, cứ như hoa quỳnh đêm khuya, quá trình hoa nở hoa tàn nhanh đến nỗi không cho ai có đủ thời gi­an nhìn cho rõ.

Bá vội an ủi: “Đại vương, đại vương không nên đau buồn quá, chúng ta có hai ba trăm người, mục tiêu vẫn còn khá lớn, đợi chạy đến làng mạc phía trước, mời đại vương tạm chịu đựng thay lấy trang phục thường dân, đám người này chia ra mười mấy đội làm nghi binh đánh lạc hướng. Tiểu thần dẫn theo mấy tên tâm phúc hộ tống đại vương lẻn về Cô Tô thành, đến lúc đó chúng ta vẫn còn cơ hội chỉnh đốn binh mã phản kích.”

Cơ Quang giậm chân giận dữ, ngửa mặt lên trời gào to: “Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, quả nhân không phanh thây ngươi ra làm trăm ngàn mảnh, tán xương cốt ngươi ra thành tro bụi, khó tiêu tan cơn hận trong lòng quả nhân!”

“Đại vương, chúng ta chạy mau thôi, nếu bị truy binh đuổi kịp, nhìn thấy con đường ta rút chạy thì khó thoát được lắm, sự hy sinh của tướng quốc đại nhân sẽ uổng phí, xin đại vương.”

Trong lúc vội vàng, Bá đưa tay kéo tay áo Cơ Quang, dáo dác nhìn quanh, Bá quyết định tránh xa lối mòn bên trái, chỉ tay sang dòng suối cỏ dại mọc um tùm bên phải nói: “Cứ đi men theo bờ suối che giấu tung tích, sau khi đi khỏi một đoạn ta băng vào rừng, trốn bọn truy binh…”

Cơ Quang thân là Ngô vương, chưa từng phải chịu khổ chịu nhục thế này, đoàn người vất vả lội xuống dòng suối tiến lên, đi được một dặm hơn, nhảy lên bờ chui vào rừng rậm đi tiếp.

Khu rừng hoang vu này ít có người qua lại, cỏ dại cao quá đầu người, đợi khi đám người Cơ Quang đi xuyên qua rừng, đến trước một cái hồ nhỏ, mồ hôi đã lấm tấm cả lưng, toàn thân rã rời, áo quần bị cỏ dại cứa rách bươm, dù là tướng lĩnh hay binh sĩ, lúc này nhìn vào không có gì khác biệt.

Chúng ùa vào bờ hồ uống lấy uống để, còn lấy nước rửa ráy vết thương, sau đó phấn chấn tinh thần vòng qua bờ hồ đi vào đường lớn.

Vừa đặt bước ra đường, thấy từ xa có một đám đông đang đi tới, Bá mới lủi thủi đi ra từ bìa rừng thất kinh hồn vía, như chim non sợ cành cong, hốt hoảng nói: “Đại vương mau chạy, chúng ta trốn vào rừng.”

Cơ Quang hứ một tiếng: “Hoảng cái gì? Ngươi không nhìn thấy chúng giơ cờ hiệu gì à?”

Bá nghe vậy đưa tay che mắt nhìn về hướng đó, đoàn người ngựa đang đi theo hướng ngược nắng, ẩn hiện lá cờ phấp phới trong gió có thêu hình rồng. Biểu tượng của Ngô quốc chính là rồng, trên cờ hay thêu hoa văn rồng, giơ cao cờ hiệu này rõ ràng là quân đội trung thành với Ngô vương, Bá nhìn thấy khấp khởi vui mừng.

Lúc này, đám người kia cũng đã phát hiện có một hai trăm người lúc nhúc ở bìa rừng, đứng đó nhìn về phía chúng, lập tức rút binh khí ra, ồ ạt xông lên.

“Đại vương, chúng, chúng không…không phải người của ta.” Một tên lính run lập cập nói.

“Cái gì?” Cơ Quang còn đang định chỉnh tranh một chút, tránh mất mặt trước thần dân, nghe vậy giật mình hốt hoảng, vội ngước mắt nhìn về phía đó. Gió thổi phất lá cờ lên, Cơ Quang lúc này mới nhìn rõ hình thêu trên lá cờ không phải là con rồng uy nghi to lớn, mà là một con rắn đang phun độc.

Ba nước vùng Gi­ang Nam, người Sở thờ Phụng, người Ngô thờ Rồng, người Việt thờ Rắn. Ngũ Tử Tư xây dựng Cô Tô thành, trong số mười sáu cổng thành có Xà môn, Cô Tô thành theo thuyết phong thủy có nhiều cách giải thích, Ngô lấy rồng làm cổng chính, xung quanh Long môn xây dựng các cửa khác, Kinh Lâm tấn công vào Xương môn còn có tên gọi khác là Phá Sở môn, tỏ lòng quyết tâm phục thù Sở quốc của Ngũ Tử Tư. Ngoài ra, phía Bắc có Bình môn, Tề môn, mang ẩn ý diệt Tề, còn phía Nam dựng Xà môn, nằm ngay mé của vuốt rồng, ngụ ý trấn áp Việt quốc dùng rắn làm biều tượng. Lá cờ có hình rắn này…, chẳng lẽ cánh quân này lại là quân Việt đã tiêu diệt quân trấn thủ Ngự Nhi thành, sau đó đột nhiên không rõ tung tích?

“Cung thủ mau tiến lên trước, tiêu diệt tất cả bọn chúng, đừng cho chúng làm lộ hành tung quân ta!” Việt thái tử Câu Tiễn một tay cầm khiên, tay kia cầm kiếm, sát khí đằng đằng ra lệnh.

Câu Tiễn dẫn cánh quân Việt đến Ngô quốc thừa nước đục thả câu đã chọn con đường ít người qua lại này để không gây chú ý, tránh xa chiến trường quyết chiến của Ngô vương và Khánh Kỵ, vốn định vòng ra sau lưng kiếm chác lợi ích, không ngờ đến đây lại gặp phải một đội quân Ngô, lúc đầu hắn cũng ngạc nhiên hoảng sợ, nhưng nhìn kĩ thấy đám quân Ngô ít ỏi này không hề phòng bị, cũng không che giấu hành tung, chỉ đứng giữa đường nhìn vào quân của hắn, Câu Tiễn lập tức định thần lại, hiểu ra đội quân Ngô này còn chưa phát giác thân phận của hắn, đối phương có thể là một đội quân lạc mất đội ngũ của một trong hai phe Cơ Quang và Khánh Kỵ khi hỗn chiến.

Câu Tiễn thế mới an tâm hạ lệnh, lập tức tiêu diệt sạch đội quân Ngô này, tránh cho chúng tiết lộ hành tung đại quân của hắn. Câu Tiễn có mang theo một đội cung nỏ hơn ba trăm người, cũng được trang bị nỏ Sở. Sở quốc những năm gần đây chưa từng đánh trận lớn với các nước trung nguyên, ở giữa lại ngăn cách bởi một số quốc gia nhỏ phụ thuộc, nên sự lợi hại của nỏ Sở không được các chư hầu trung nguyên biết đến, cũng không được coi trọng. Còn Ngô và Việt nằm sát ngay Sở quốc, tất nhiên quá hiểu sự lợi hại của nỏ Sở trên chiến trường, vì thế Việt quốc thông qua nhiều cách khác nhau có được nỏ Sở, chỉ là Việt quốc quá nghèo, vũ khí đắt tiền này họ không trang bị nổi, chỉ đủ khả năng trang bị cho ba trăm người mà thôi. Lần này thái tử đích thân dẫn quân đánh vào Ngô quốc, Việt vương Duẫn Thường rất yêu thương con trai, bèn đưa đại đội ba trăm người được trang bị nỏ Sở cho Câu Tiễn dẫn theo.

Vừa thấy bên kia là quân Việt, Bá lập tức kéo tay Cơ Quang quay đầu bỏ chạy, quân Việt đuổi theo đến nơi thấy quân Ngô bỏ chạy tán loạn bèn giơ nỏ lên bắn tới tấp vào chúng, ba trăm mũi tên như cơn mưa ập vào cây chuối, phát ra tiếng loạt soạt khi bắn vào rừng, rất nhiều cây cối bị cắm đầy tên, còn nhiều mũi tên khác thì cắm phập vào đám lính Ngô tội nghiệp, cả đội quân Ngô vừa bước khỏi bìa rừng rú lên thảm thiết ngã xuống.

Bá kéo tay Cơ Quang vừa chạy được mấy bước, đột nhiên vai hắn bị chấn động, một luồng sức mạnh chia tách hai người ra, Bá nằm rạp người vào bãi cỏ, bị một cành cây cào xước mặt, lúc này một cơn đau nhói từ vai hắn truyền đến, hắn định thần nhìn kĩ, một mũi tên bắn xuyên qua vai hắn, Bá rít lên đau đớn, gục đầu xuống bãi cỏ.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 212: Tiêu đời (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“Xoạt xoạt xoạt!” mưa tên không ngừng bắn tới, sau lưng tiếng rú thảm thiết không ngừng vang lên, Cơ Quang cũng không còn lo nghĩ tới vẻ uy nghi của bậc quân vương nữa, xoay lưng lại chạy nhanh như tên bắn, tên xé gió bắn tới, Cơ Quang tựa như nghe thấy tiếng gió rít qua tai. Sau một hồi tên, trải qua một trận bắn giết đẫm máu, số quân Ngô may mắn giữ được tính mạng chỉ còn không quá ba mươi người, trong đó một nửa bị dính tên lăn ra đất kêu gào thảm thiết. Câu Tiễn cùng binh lính của hắn xông tới bìa rừng, bước chân vững vàng đuổi theo, người nào người nấy trên tay chỉ cầm một thanh đoản kiếm dài hơn một thước, độ dài này giống với dao găm trang bị cho binh chủng biệt kích thời hiện đại.

Việt quốc nghèo hơn Ngô quốc, điều kiện sinh sống của người Việt khó khăn hơn người Ngô, do đó kinh nghiệm sống của người Việt trong rừng rậm, đầm lầy và kinh nghiệm tác chiến cũng phong phú hơn người Ngô, số binh lính Câu Tiễn mang theo, có nhiều người phải để hở chân, bàn chân chỉ được lót một miếng gỗ kiển dày, giẫm lên bãi cỏ bước đi không hề mất thời gi­an, lại nhẹ nhàng linh hoạt không phát ra tiếng động.

Số quân Ngô trốn được vào rừng bị đám binh lính nhìn như dã nhân của Việt quốc đuổi kịp tiêu diệt từng tên, không một ai giữ được tính mạng. Câu Tiễn bước thoăn thoắt trên đôi giày cỏ lại gần, lạnh lùng hạ lệnh: “Kiểm tra kĩ vào, không được để tên nào sống sót!”

Binh lính cầm đoản kiếm ngắn như dao găm đó, kiểm tra từng xác chết nằm la liệt dưới đất, phát hiện ai còn hơi thở thì bồi cho một nhát kiếm ngay cổ họng. Một tên lính nhìn thấy trong bụi cây thấp lùn có một đôi chân lòi ra, bèn nhảy bổ qua đó kéo người kia ra, giơ kiếm định đâm xuống, người kia vội kêu lên: “Các ngươi không thể giết ta!”

Tên lính cười lạnh lùng: “Tàn binh bại tướng, có gì mà không thể giết?”

Người kia nén đau ngồi dậy, thở hổn hển: “Ta là thượng khanh của Ngô quốc, đâu thể để tên tiểu nhân như ngươi ức hiếp, thống soái của các ngươi là ai, mau kêu hắn đến gặp ta.”

Tên lính không nhịn được cười khanh khách: “Đám người các ngươi, tên nào tên nấy áo quần rách bươm, dáng vẻ thảm hại, chẳng qua chỉ là một đội quân bại trận chạy trốn, trong đó có thượng khanh Ngô quốc gì chứ?” Dứt lời giơ kiếm định đâm xuống.

“Khoan đã!” Câu Tiễn nghe người kia nói vậy, trong lòng nghi hoặc, vội bước tới lên tiếng ngăn cản. Hắn mới đầu không xem đội quân Ngô này ra gì, đám quân này số lượng quá ít, áo quần lếch thếch, hơn nữa lại hốt hoảng bỏ chạy, không có sức chống trả, trong quân đội Ngô quốc chắc cũng không phải thuộc đại quân tinh nhuệ gì, chỉ là một tên lính quèn không có giá trị, giết đi cho xong chuyện. Câu Tiễn không hề biết vì đám quân Ngô này ngộ nhận quân của hắn là người nhà, hơn nữa đám bại binh chạy trốn đường dài đã sức cùng lực kiệt, lại bị hắn dùng nỏ Sở uy hiếp, dù có ba đầu sáu tay e cũng khó làm nên chuyện vào lúc ấy. Lúc này nghe người kia dám tự xưng là thượng khanh Ngô quốc, không biết thật giả thế nào, phải hỏi cho rõ đã.

Câu Tiễn bước tới một bước, nói: “Túc hạ là thượng khanh Ngô quốc? Xin hỏi cao danh quý tánh, giữ chức quan gì?”

Bá nhìn hắn một hồi, thấy người này hãy còn rất trẻ, cổ rắn mỏ chim, khuôn mặt dài thoàng khá xấu xí, nhưng hành động cử chỉ lại oai vệ, hỏi ngược lại: “Ngươi là ai?”

“Bỉ nhân là thượng tướng quân Việt quốc Linh Cô Phù, không biết có tư cách nghe danh của túc hạ không?”

“Ồ!” Bá nghe vậy không khỏi bất ngờ: “Thì ra là Linh Cô Phù tướng quân, ta chính là thái tể Bá của Ngô quốc, tướng quân có từng nghe nói đến?”

Bá trong trận chiến Cửu Phụng cốc ở Sở quốc bắt giữ được nhiều công khanh quý tộc của Sở lập được đại công, đã được cất nhắc lên chức thái tể, thực quyền tuy không bằng Ngũ Tử Tư, nhưng chức quan lại tương đương. Câu Tiễn tất nhiên có nghe về Bá, nghe người này nói hắn chính là Bá cũng giật mình kinh ngạc: “Ngươi là Bá đại phu? Ngươi…ngươi…sao lại lưu lạc đến chốn này?”

Vừa nãy Bá bị trúng tên, vội chui vào bụi cây lánh tạm, tình hình tiếp theo hắn chỉ nghe được tiếng chứ không quan sát được tận mắt. Bá cũng biết cánh quân này của Linh Cô Phù đi vào Ngô quốc không mang ý tốt gì, chỉ là muốn thừa nước đục thả câu. Chỉ là với thân phận khanh sĩ đại phu cao quý, chức quan lại cao như hắn một khi bị bắt giữ, cho dù là quốc gia nào cũng ít khi giết chết nên mới nói rõ thân phận. Bá chỉ mong Cơ Quang có thể đoạt lại Ngô quốc, lúc đó sẽ chuộc hắn từ Việt quốc về, đương nhiên hắn không chịu nói mình đang hộ tống Ngô vương chạy trốn tận đây.

Bá suy ngẫm trong lòng một hồi mới nói: “Bá hộ tống Ngô vương về Cô Tô thành, Khánh Kỵ dẫn quân tấn công, cắt vụn trận địa đại quân của ta, Bá không thể tìm thấy chủ lực đại quân trong lúc loạn lạc, thế mới…”

Bá mới nói đến đấy, hai mắt sáng bừng lên, chỉ thấy rất nhiều binh lính Việt đang khiêng xác quân Ngô từ trong rừng ra, trong đó có một cái xác bị người ta nắm lấy vạt áo lôi sềnh sệt từ trong rừng, áo bào của cái xác rách te tua, dây lưng bị cởi tung, đầu tóc mặt mũi bê bết máu, tên lính đang lôi xác vẫn đang cầm miếng ngọc bội sáng bóng sang trọng chơi đùa ra vẻ khoái chí, rõ ràng là chiến lợi phẩm bị hắn lấy từ cái xác.

“Đại vương!” Bá như bị sét đánh, không để ý đến Linh Cô Phù kế bên nữa, hắn lăn lộn lê lết lao qua đó ôm lấy cái xác khóc to: “Đại vương, đại vương, Bá vô dụng, không thể bảo vệ an toàn cho đại vương, đại vương ơi…”

Theo như sử sách ghi chép, Ngô vương Hạp Lư với chỉ mấy vạn binh mã tây phá cường Sở, công vào Dĩnh Đô, chiến công hiển hách, lại trong lúc gi­ao chiến với Việt quốc yếu hơn Ngô quốc nhiều bị đại tướng Việt quốc Linh Cô Phù ném mâu đâm trúng ngón chân, sau đó bị nhiễm trùng mà chết. Bây giờ cái chết của Hạp Lư có xảy ra thay đổi, nhưng kết cục đại thể cũng giống nhau, cũng là lật thuyền trong rãnh cống, thậm chí còn nhảm nhí hơn, trong cơn mưa tên bỏ mạng, rốt cục cũng không xác định được ai là người lấy mạng Ngô vương.

Câu Tiễn há hốc miệng kinh ngạc, tròng mắt muốn rơi cả ra ngoài: “Đại vương? Ngô quốc đại vương Cơ Quang? Mình đã dẫn quân bắn chết Ngô vương dễ dàng thế ư?” Trong một lúc, Câu Tiễn dường như không dám tin vào lỗ tai của mình.

Bá khóc lóc thảm thương, nước mắt giàn giụa, Câu Tiễn cuối cùng cũng lên tiếng hỏi: “Bá thái tể, ông nói…hắn…hắn chính là Ngô vương Hạp Lư?”

Đến lúc này Bá đâu còn gì phải che giấu nữa, hắn khẽ gật đầu, sau đó lại khóc to.

Câu Tiễn toát mồ hôi lạnh, cả thân người cứng đơ ra đó, đám binh lính Việt quốc đứng xung quanh cũng nghệch mặt ra, trong rừng bỗng chốc trở nên yên lặng, chỉ còn tiếng khóc thê lương của Bá cất lên.

Hồi lâu sau, Câu Tiễn từ từ tỉnh táo lại, đôi mắt hắn láo liên trong khoảnh khắc, một âm mưu đã nhen nhóm trong tim. Câu Tiễn hít một hơi sâu, bước tới hai bước, chắp tay cung kính hành lễ: “Bá thái tể!”

Bá ngẩng đầu lên nhìn hắn, Câu Tiễn vẫn cứ cung kính nói tiếp: “Bá thái tể tài trí hơn người, không ai sánh bằng. Ngô vương có được hiền sĩ tài trí song toàn như Bá thái tể đây phò trợ, mới có thể dẫn mấy vạn binh mã tây phá cường Sở, lập chiến công hiển hách. Câu Tiễn Việt quốc, ngưỡng mộ uy danh Bá thái tể từ lâu, bây giờ Ngô vương đã chết, hoàng tộc Ngô quốc nội chiến tranh đoạt vương vị chưa xong, nơi đây đã không phải chốn dung thân. Câu Tiễn kính nể tài học của Bá thái tể, nguyện lấy thân phận thái tử Việt quốc thay phụ vương mời túc hạ làm thái tể Việt quốc ta, phò trợ phụ vương, cùng mưu nghiệp lớn, mong Bá thái tể khẳng khái ưng thuận.”

“Cái gì?” Bá ngớ người ra.

Câu Tiễn mỉm cười lại hành lễ một cái: “Vừa rồi Câu Tiễn chưa nói rõ thân phận, vị tướng quân kế bên ta đây mới là thượng tướng quân Việt quốc Linh Cô Phù, còn ta chính là con trai của Việt vương, Câu Tiễn xin Bá thái tể bỏ qua cho tội cố tình che giấu thân phận.”

Linh Cô Phù đứng kế bên thấy thái tử có ý chiêu nạp Bá, bèn bước tới nói: “Bá đại phu, tại hạ là Linh Cô Phù, Bá đại phu phò trợ Ngô vương trị nước, chỉ trong một năm quốc gia hùng mạnh, giúp Ngô vương phạt Sở, tiến quân Dĩnh Đô, công phá Cửu Phụng cốc, công trạng hiển hách. Ngô vương Hạp Lư phong cho Bá đại phu quan to chức lớn, nhưng với công trạng của Bá đại phu, kể cũng xứng đáng với ban thưởng như vậy.

Giờ đây Ngô vương đã chết, hai bên gi­ao chiến, đao thương không có mắt, vốn không hề dính dáng thù xưa oán cũ. Bá đại phu đã cố hết sức, không phụ Ngô vương, giờ ở Ngô, Phù Sai chỉ là một nhóc con, phụ vương hắn đăng cơ chưa được một năm, Phù Sai căn cơ thiển cận, Phù Khái dẫn quân dã tâm tự lập, Khánh Kỵ lấy danh nghĩa trả thù cho tiên vương mưu đoạt vương vị. Hạp Lư mà chết, trong hoàng tộc Ngô quốc không còn chủ nhân đáng để thờ, còn Việt vương ta, hùng tài thao lược, thái tử Việt quốc ta trọng người hiền tài. Có câu chim khôn chọn cành mà đậu, thần giỏi chọn chúa mà thờ, Bá đại phu sao không giúp sức cho Việt quốc chứ?”

Câu Tiễn tiếp tục thuyết phục: “Nam nhi tại thế, cuối cùng cũng nên hoàn thành chí lớn của mình, thăng quan tiến chức, công thành danh toại, mưu cầu vinh hoa phú quý, thê thiếp đầy đàn, mưu cầu danh tiếng lẫy lừng, lưu danh muôn thuở. Câu Tiễn thật lòng chiêu mộ Bá đại phu, trời cao chứng giám, xin Bá thái tể nể tấm chân tình của Câu Tiễn.” Nói xong vái lạy một cái.

Hai người thi nhau thuyết phục, Bá nghe xong, cúi xuống nhìn xác Hạp Lưu đang ôm trên tay, không nói tiếng nào. Ánh mắt Câu Tiễn khẽ lay động, cùng Linh Cô Phù liếc mắt nhìn nhau một cái, để lộ một nụ cười nham hiểm trên khóe môi…

Ngô vương Hạp Lư đã chết.

Khánh Kỵ dẫn đại quân tấn công Đông Điều Khê đại bại Ngô vương Hạp Lư, Hạp Lư trốn chạy sang Vũ Nguyên, bị phiến quân Vũ Nguyên giáp công cùng quân Khánh Kỵ, tử trận trên sa trường, tướng quốc Ngũ Viên cũng quyết chiến tử trận theo Ngô vương. Thái tể Bá phụng di mệnh của Hạp Lư, đến Việt quốc xin quân cứu viện trả thù cho chủ nhân, Việt vương Duẫn Thường lệnh cho thái tử Câu Tiễn đích thân dẫn tám ngàn đại quân, toàn quân đánh vào Ngô quốc.

Tin này nhanh chóng được lan truyền rộng rãi khắp Ngô quốc, truyền khắp thiên hạ. Lịch sử và sự thật là hai chuyện khác nhau, sự thật là sự thật, còn lịch sử chỉ là viết theo nhu cầu của người có quyền khống chế lịch sử mà thôi.

Người Việt đem cái chết của Hạp Lư đẩy trách nhiệm lên người Khánh Kỵ, điều đó có lợi cho họ thừa nước đục thả câu ở Ngô quốc. Còn phía Khánh Kỵ thì sao? Cho dù không có thái tể Bá làm nhân chứng cho Việt quốc, cũng không thể khiến kẻ địch tin hắn không phải là hung thủ giết chết Cơ Quang, hơn nữa kẻ địch không vì Cơ Quang có chết dưới tay Khánh Kỵ hay không mà thay đổi lập trường, số người còn phân vân do dự cũng vì tin này mà ngả sang phía hắn, trên thực tế tin này có lợi cho việc tạo dựng uy danh của Khánh Kỵ trong lòng người Ngô, nên dù biết rõ đấy là gi­an kế của Câu Tiễn, Khánh Kỵ vẫn buộc phải chấp nhận.

Lịch sử chính là trong mưu cầu lợi ích giữa hai phe địch và ta viết ra kết luận: Ngô quốc Khánh Kỵ, vì trả thù cho phụ vương Cơ Liêu, giết chết Ngô vương Hạp Lư mưu triều tán vị tại Vọng Hà cốc. Trong âm mưu phối hợp lợi ích của hai phe này, có lẽ người vui nhất chính là Hạp Lư nơi chín suối, người chết để danh, chết dưới tay một tên lính Việt vô danh tiểu tốt, đương nhiên không vẻ vang bằng chết dưới tay Khánh Kỵ.

Thế là, Khánh Kỵ im lặng nhận lấy công lao giết chết Cơ Quang, lập đàn tế vong linh phụ vương, khích lệ toàn quân thừa thắng bắc tiến, thề chiếm lấy Cô Tô thành, giành thắng lợi toàn vẹn. Còn bọn quân Việt vốn lén lút lẻn vào Ngô quốc kiếm chác lợi ích, nay bỗng hóa thân thành đội quân chính nghĩa phụng di chiếu của Ngô vương Hạp Lư đến thảo phạt Khánh Kỵ.

Hạp Lư chết đi, tình hình Ngô quốc lập tức biến động lớn, Phù Khái vốn đang hành quân chậm chạp tiến về Đông Điều Khê đột nhiên tăng tốc hành quân, toàn quân đeo khăn tang lao nhanh về hướng Cô Tô thành, lên tiếng đòi thảo phạt phản tặc, trả thù cho đại vương. Phía Cô Tô thành, Kinh Lâm nhận được tin báo lập tức lợi dụng địa hình đã đào sâu xây dựng công sự, chuẩn bị ứng chiến. Cùng lúc đó, Khánh Kỵ và Chúc Dung hợp binh lại với nhau tức tốc tiến về Cô Tô thành, tạm thời không rảnh đối phó với con rắn độc Việt quốc.

Phù Khái dẫn quân đến Kiền Toại, nghe tin Kinh Lâm bày trận đợi sẵn, liền một mặt chỉnh đốn binh mã chuẩn bị tấn công, mặt khác phái người vào thành liên lạc với Phù Sai, muốn trong ứng ngoài hợp. Trong lúc rối ren này, phú hộ giàu nhất Ngô quốc, gia tộc chế tạo binh khí lớn nhất vùng Gi­ang Nam là Nhâm gia tạo phản, tất cả thợ rèn, thợ xây, thợ khuân vác, thêm vào gia tướng, gia nô ở Nhâm gia thành tổng cộng có hơn chín ngàn người, trang bị áo giáp của Nhâm gia, tay cầm binh khí của Nhâm gia chế tạo, đeo khăn tang vì gia chủ, dưới sự dẫn dắt của trưởng nữ Nhâm thị Nhâm Nhược Tích kéo đến chân thành Cô Tô, hạ trại ngoài Bàn môn, cùng với Kinh Lâm tạo thế gọng kiềm, trong kháng Phù Sai, ngoài cự Phù Khái.

Phù Khái nghe tin thất kinh hồn vía, vội vã thu quân, lấy Kiền Toại làm doanh trại, đối chọi với liên quân Nhâm gia và Kinh Lâm, một mặt phái người đi liên lạc với cánh quân Việt đã phụng di chiếu của Ngô vương đến cứu viện, mặt khác lo toan trường hợp bại trận chạy về Nam Vũ thành, các cứ một vùng tự lập làm vương.

Trong thành Cô Tô, Phù Sai nghe tin phụ vương chết thảm, lập tức muốn bất chấp tất cả dẫn quân ra thành quyết một trận tử chiến với Khánh Kỵ, bị tướng lĩnh thuộc hạ dưới trướng liều chết căn ngăn. Phù Sai khóc lóc thảm thiết, cuối cùng từ bỏ ý định lấy trứng chọi đá, quyết định dùng Cô Tô thành làm mồi nhử, thu hút Khánh Kỵ, Phù Khái, Câu Tiễn, các lộ nhân mã có dã tâm đến đây tàn sát lẫn nhau, hắn xem tình hình từ đó hưởng lợi.

Phù Sai lập tức đăng cơ, kế thừa ngôi vị Ngô vương, hắn ra một đạo nghiêm lệnh, tất cả dân chúng trong Cô Tô thành đeo tang, khắp nơi một màu trắng xóa, nghiêm cấm uống rượu ăn thịt, tiệc tùng vui vẻ. Phù Sai lại bắt tất cả nữ nhân trẻ khỏe, tất cả nam nhân dân thường từ mười bốn đến sáu mươi tuổi và gia tướng gia nô của các công khanh thế tộc trong thành biên vào quân ngũ thao luyện, trong một lúc toàn thành Cô Tô đều là binh lính, đội quân mới này có quân số năm vạn tám ngàn tám trăm người.

Khánh Kỵ trả thù cho cha, Phù Sai trả thù cho cha, Phù Khái, Câu Tiễn tuyên bố trả thù cho quân vương, Nhâm gia quân của Nhâm Nhược Tích muốn trả thù cho gia chủ. Khắp nước Ngô ai cũng đeo tang, ai ai cũng giương cao ngọn cờ trả thù chuốc hận, trong một đêm các lộ binh mã trong lãnh thổ Ngô quốc hóa thành đội quân thù hận. Từ khi Hạp Lư chết đến khi Khánh Kỵ đánh vào Cô Tô thành, gi­ai đoạn lịch sử này từ đây bị người đời sau gọi là “Trận chiến thù nước hận nhà”.

Ngoài thành Cô Tô, Khánh Kỵ đăng cơ.

Đây là đại sự đầu tiên được các tướng lĩnh phe Khánh Kỵ hội họp bàn bạc quyết định.

Hạp Lư đã chết, Phù Sai xưng vương. Câu Tiễn Việt quốc và Phù Khái qua lại bí hiểm, họ không lập tức công nhận vương vị của Phù Sai, lòng riêng của Phù Khái không nói đã rõ, nhưng chúng vẫn giương cao ngọn cờ đòi trả thù cho Ngô vương Hạp Lư để đảm bảo cho tính hợp lí của sự tồn tại của đại quân Việt quốc trên lãnh thổ Ngô.

Trước tình hình này, trên dưới Ngô quốc không biết nghe ai, muốn nhanh chóng ổn định lòng dân, tranh thủ tối đa ủng hộ của dân Ngô, nắm bắt quyền chủ động, Khánh Kỵ là con trai duy nhất còn lại của Ngô vương Cơ Liêu, cũng là người thừa kế hợp pháp vương vị Ngô quốc, phải lập tức đăng cơ xưng vương. Chỉ khi địa vị hợp pháp của Khánh Kỵ được công nhận, mới có thể tập hợp tất cả lực lượng khả dụng. Bộ hạ của Khánh Kỵ đương nhiên không ai phản đối, trong các thành viên hoàng tộc Yểm Dư công tử cũng tỏ ý tán thành, Chúc Dung tuy có hơi không đồng ý nhưng ai cũng nhất chí, Khánh Kỵ có được các thế lực chính trị trong và ngoài nước ủng hộ, hắn chỉ có một lộ nhân mã, hắn buộc phải tỏ ý hoàng điệt Khánh Kỵ kế thừa vương vị là trên thuận ý trời, dưới hợp dân tâm.

Quyết định đăng cơ tuy hơi gấp gáp, các nước xung quanh hãy còn kịp tỏ thái độ. Việt quốc là người đầu tiên đưa ra kháng nghị, viết ra một bức tuyên cáo dài thoàng, kể tội Khánh Kỵ giết vua mưu đoạt vương vị, là hành động phi pháp. Bốn nước Sở, Tống, Lỗ, Vệ lại tỏ ý ủng hộ, Lỗ quốc và Vệ quốc góp nhiều sức giúp Khánh Kỵ phục quốc thành công, đương nhiên tán đồng Khánh Kỵ đăng cơ, còn phái người mang đến số lượng lớn lễ vật chúc mừng, tuy đường sá xa xôi chưa kịp thời vận chuyển đến Ngô được, nhưng sứ giả đã đưa danh sách lễ vật đến trước. Tống quốc vì lí do Vệ phu nhân Nam Tử là công chúa của Tống, cũng mang đến nhiều lễ vật. Các nước nhỏ Từ, Thái, Trần thì giữ thái độ trung lập không tỏ thái độ ủng hộ hay phản đối.

Ngày mai chính là ngày hoàng đạo các thuật sĩ chọn làm ngày đăng cơ của Khánh Kỵ, ngoài Bàn môn Cô Tô thành dựng lên một tòa đàn cao, công việc chuẩn bị đang gấp rút tiến hành. Khánh Kỵ thì đang tắm rửa trong lều, chuẩn bị các nghi thức cúng tế đăng cơ vào ngày mai. Đúng lúc này, Anh Đào đi vào bẩm báo: “Công tử, lại có sứ thần đến chúc mừng.”

Khánh Kỵ mở to mắt hỏi: “Ồ! Là sứ thần do quân vương nước nào phái đến?”

“Sứ thần tự xưng là tín sứ của nữ vương Đông Di là Doanh Thiền Nhi.”

Khánh Kỵ nhướn mày lên, cảm thấy ngạc nhiên: “Doanh Thiền Nhi, chính là Doanh Thiền Nhi tự xưng là hậu nhân của Thiếu Hạo, thừa lúc người Tề nam hạ liên kết bảy mươi mốt bộ lạc Đông Di tự lập xưng vương? Mau mời!”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 213: Sứ giả Đông Di (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Vùng đất Hoài Di, Di Hổ, người Đông Di cai quản phần lớn cương thổ, số người Đông Di sống trên vùng đất này không có tổ chức thành bộ máy nhà nước chặt chẽ, do họ và người Sở là đồng tộc từ thời Tam hoàng Ngũ đế, dây mơ rễ má thâm sâu, lại dùng “Phụng” làm biểu tượng, do đó các bộ lạc Đông Di lớn nhỏ từ lâu đã gi­ao hảo thân cận với Sở quốc.

Nhưng gần đây Sở quốc tự lo thân mình còn chưa xong, đã mất đi quyền kiểm soát khu vực này, Ngô vương Hạp Lư từng phái sứ giả đi Tề mật bàn với Tề phân chia vùng đất này, tin tức bị lộ ra ngoài, các bộ lạc Đông Di bắt đầu huấn luyện binh mã, chuẩn bị tử chiến một phen để giữ mảnh đất dung thân cuối cùng của mình. Dưới tình hình Tề quốc hùng mạnh sắp xâm chiếm, các bộ lạc liên minh hợp sức với nhau, tổ chức các bộ lạc vốn chia rẽ nay vì đối kháng ngoại xâm dần dần manh nha phát triển nên một quốc gia hoàn chỉnh.

Khánh Kỵ cũng có chú ý đến sự phát triển của các bộ lạc Đông Di, nhất là lần này Yểm Dư đến Lỗ và Đông Di mượn quân quấy nhiễu Phù Khái, người Đông Di ra sức ủng hộ, trong đó nữ vương Đông Di góp tiếng nói quan trọng trong việc này, có thể xem như một thủ lĩnh tương đối hảo hữu với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ từng hỏi Yểm Dư biết được đôi chút về vị nữ vương này, các bộ lạc Đông Di thấy đại địch trước mắt, vội liên minh chống ngoại xâm, lúc đó một cô gái đột nhiên đứng ra, nàng bỏ nhiều tiền của tiếp tế dân chúng, chiêu binh mãi mã, huấn luyện quân đội, chỉ trong thời gi­an ngắn, lấy cơ sở từ hai bộ lạc lớn Phong thị, Doanh thị phát triển, đã đoàn kết mấy mươi bộ lạc nhỏ khác đầu quân dưới trướng nàng ta.

Cô gái này tự xưng là hậu nhân đích truyền của Đông Di Thiếu Hạo đế Doanh Chất, dựa vào vị trí tối thượng của Thiếu Hạo đế trong lòng người Đông Di, cộng với mưu lược tài trí, thủ đoạn chính trị của nàng, nhanh chóng khiến các dũng sĩ bộ lạc vốn thuần hậu, dũng mãnh trở thành thần dân trung thành của nàng, từ đó vị thế đứng cao hơn cả các tộc trưởng bộ lạc, xưng là nữ vương Đông Di.

“Mau mời vào đây!” Khánh Kỵ sửa soạn áo bào chỉnh tề đứng lên, trong lòng nghĩ thầm: “Sứ giả Đông Di vượt sông đến đây, theo lẽ phải đi ngang Kiền Toại, họ lại không bị Phù Khái chặn bắt, nghĩ chắc là biết rõ tình hình Ngô quốc, nên mới đi đường vòng tránh chỗ nguy hiểm. Một liên minh các bộ lạc xưa nay chỉ biết đánh cá săn bắn, có thể hiểu rõ Ngô quốc ta như lòng bàn tay, vị nữ vương này quả nhiên không hề đơn giản.”

Khánh Kỵ chỉnh trang y phục, ngồi trong lều chờ đợi, một lát sau, Anh Đào dẫn theo tám sứ giả bốn nam bốn nữ vào trong đại doanh trung quân, kiểu dáng quần áo của tám người này giống với nữ nhân Đông Di khi Khánh Kỵ đại chiến với Triển Chích tại Lỗ từng được thấy, bốn cô thiếu nữ mặc áo hở vai và váy ngắn, dưới váy để lộ bắp đùi rắn chắc, dung mạo tuy không xinh xắn lắm, nhưng lại mang sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân, bốn nam tử kiểu áo y chang, chỉ là cánh tay và đùi của họ màu đồng đen, càng thêm vạm vỡ rắn chắc.

Điều khác biệt là vải áo của họ tuy thô kệch nhưng rõ ràng nó thuộc trang phục truyền thống lễ nghi chính thức nào đó, trên áo có thêu các biểu tượng phụng hoàng, mặt trời sặc sỡ, nam tử đội mũ lông vũ đủ màu, nữ nhân thắt hai bím tóc dài sau lưng, trên đầu đeo vòng hoa có ít lông vũ trang trí làm trang sức, nam thì cương dương, nữ thì kiện mỹ, cách ăn mặc đúng là khác biệt so với lê dân bá tánh khắp thiên hạ của nhà Chu.

Ngang hông họ có đeo dao găm nhỏ, trên vai khoác một cây cung, sau lưng có một vò tên. Đông Di, trong tiếng cổ ngữ có nghĩa là “Đông phương cung tiễn thủ”, người Đông Di bất kể già trẻ lớn bé, ai ai cũng giỏi bắn cung, thần tiễn thủ nổi tiếng khắp thiên hạ lúc bấy giờ là Hậu Nghệ, chính là thủ lĩnh một bộ lạc của Đông Di.

“Đây là điện hạ của ta.” Anh Đào bước lên giới thiệu.

Đôi mắt to tròn, đen láy của một thiếu nữ Đông Di mở to ra nhìn vào Khánh Kỵ, bước tới hai bước, vái chào hành lễ: “Tám sứ giả Huyền Điểu, Đan Ô … dưới trướng nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi bái kiến Ngô quốc Khánh Kỵ đại vương.”

Khánh Kỵ ha hả cười to, xua tay nói: “Các vị sứ giả không cần đa lễ, mời ngồi, mời ngồi, các vị cứ gọi ta là điện hạ là được rồi, Khánh Kỵ vẫn chưa đăng cơ, không dám xưng đại vương.”

Cô thiếu nữ tên Huyền Điểu chớp chớp mắt, nói: “Chẳng phải một hai ngày nữa là xưng vương sao? Sớm hơn hay trễ hơn một hai ngày có gì khác biệt? Hôm nay gọi điện hạ, mai gọi đại vương, sửa tới sửa lui cũng không khỏi phiền phức.”

“Ừm…” Khánh Kỵ bị cô sứ giả này dạy dỗ cho một chập, nhưng thấy bộ dạng nàng ta ngây thơ, có vẻ không biết lễ nghi phép tắc của người văn minh, chỉ còn cách cười trừ: “À, phải lắm, Huyền Điểu cô nương nói phải lắm, mời ngồi, mời ngồi.”

Vị Huyền Điểu cô nương cười hi hi, vui vẻ lên tiếng: “Nữ vương nói, chúng ta nên liên minh với Ngô quốc Khánh Kỵ, xem ra nữ vương chọn lựa đúng người rồi, các quan lại của các người, cho dù là tên hạ đại phu, thấy người Đông Di chúng ta đều làm ra vẻ cao sang, chỉ có đại vương ngài lại chịu nghe lời ta nói, tốt lắm, tốt lắm.”

Khánh Kỵ khóc không được cười cũng không xong, ngẩng đầu liếc Anh Đào một cái, Anh Đào đang cố nhịn cười, cũng không giúp Khánh Kỵ giải vây. Khánh Kỵ chỉ còn cách ho lên một tiếng: “Khụ khụ, phải rồi, các vị sứ giả mời ngồi. Nữ vương Đông Di có lòng thành khẩn, Khánh Kỵ cảm kích vô cùng, ngày mai là đại lễ đăng cơ của Khánh Kỵ, mời các vị sứ giả ở lại, đợi đăng cơ đại điển xong xuôi, Khánh Kỵ còn phải trả lễ cảm tạ nữ vương Đông Di.”

Huyền Điểu vỗ tay tươi cười khoái trá: “Hay quá, chúng ta đang muốn xem coi đại lễ đăng cơ của người Ngô là như thế nào. Phải rồi, Khánh Kỵ đại vương này, ta thấy ngài cao lớn vạm vỡ, lại anh tuấn bất phàm, người ta ai cũng nói ngài là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, tay bắt được chim bay, chạy nhanh hơn ngựa chiến, nhưng sao sức khỏe lại kém thế này, cứ ho lên ho xuống, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh, ảnh hưởng đến đại lễ đăng cơ ngày mai.”

“Khụ khụ…ừm…” Khánh Kỵ thấy cô nương này ngây ngô khiển trách, lại còn tỏ ý quan tâm dặn dò, hình như không phải giả tạo, trong một lúc không biết nên khóc hay nên cười mới phải, chỉ còn biết lên tiếng cảm tạ tấm lòng quan tâm của Huyền Điểu cô nương.

Anh Đào đứng kế bên cố gắng nhịn cười, không dám tỏ ra mất lễ nghi trước mặt công tử, khuôn mặt hắn vì cố kiềm nén đỏ ửng cả lên.

Huyền Điểu nhìn trưng trưng vào Anh Đào: “Người Ngô các ngài hình như thể chất không được tốt cho lắm, ngài làm đại vương sức khỏe không tốt, sao đại tướng dưới quyền cũng có vẻ mang bệnh thế này? Sớm biết như vậy ta mang theo một xe thảo dược tới đây, thảo dược của người Đông Di chúng ta hiệu nghiệm lắm, chút phong hàn vặt vãnh này không cần lo đâu.”

“Không sao, không sao, cơ thể ta tốt lắm mà.” Anh Đào xua tay liên hồi, vội chắp tay vái lạy Khánh Kỵ, xin phép ra ngoài chuẩn bị nơi ăn chốn ở tiếp đón các vị sứ giả Đông Di, còn chưa đợi Khánh Kỵ gật đầu liền chạy như bay ra ngoài, trốn vào sau túp lều xa xa, thế mới ôm bụng cười một trận thỏa thích.

Huyền Điểu lại mở to mắt quay sang nhìn trưng trưng vào Khánh Kỵ: “Ta có nói sai gì à? Sao hắn chạy nhanh hơn cả con lừa thế?”

Khánh Kỵ vẻ e dè khó xử phân bua: “Anh Đào là người bên cạnh ta, xưa nay vẫn hay tính khí thất thường, xin Huyền Điểu cô nương đừng trách, cô nương ngây thơ trong trắng, cho dù có nói sai chuyện gì, Khánh Kỵ cũng thấy thích mà.”

Huyền Điểu nghe vậy, đỏ mặt e thẹn: “Khánh Kỵ đại vương, Huyền Điểu xin nói thẳng, ngài đừng trách cứ. Ta…ta chỉ là mang lễ vật đến, chứ không thích ngài đâu…”

Khánh Kỵ cũng thấy khó xử: “Ờ, cái này…cái này… Cô nương tính tình thẳng thắn, không biết mưu tính, quả là…quả là…”

Huyền Điểu chớp chớp mắt, hỏi: “Tính tình thẳng thắn, không biết mưu tính…, có phải ngài nói ta ngốc…”

Khánh Kỵ lập tức ngậm miệng, cô nương này đơn thuần không biết cách hành xử thế sự, lúc này lại có vẻ nghe hiểu ý hắn. Hắn cũng không phân biệt được cô nương này là ngốc thiệt hay ngốc giả, càng không biết tại sao nữ vương Đông Di lại phái đến một sứ giả ngây ngô thế này.

Tên võ sĩ tên Đan Ô lớn tuổi hơn, xem ra có vẻ trưởng thành hơn đôi chút, hắn thấy Huyền Điểu liên tiếp lộ điểm yếu ra, vội đứng ra can thiệp: “Huyền Điểu, Khánh Kỵ công tử đang khen cô mà, đừng nói lung tung nữa.”

“Thế à?” Huyền Điều xoay xoay tròng mắt, vẻ hoài nghi: “Mỗi khi ta nói sai câu nào, làm chuyện ngốc gì, nữ vương cũng nói với ta thế này, sao do miệng Khánh Kỵ đại vương nói ra thì thành biến khen ngợi rồi?” Đan Ô nghe cô nương này phân bua cũng thấy khó xử không biết phải làm sao.

Huyền Điểu suy nghĩ một hồi vẫn không hiểu ra, bèn tạm thời tin vào giải thích của Đan Ô, vui vẻ ra mặt: “Ngài không phải đang ẩn ý mắng ta là được, nữ vương chúng ta rất coi trọng đăng cơ đại điển của ngài, nếu không thì Huyền Điểu này thân là con gái của tộc trưởng, cũng không đích thân mang lễ vật đến Ngô quốc tặng ngài rồi.”

“Thì ra Huyền Điểu cô nương là con gái của tộc trưởng bộ lạc Phong, thất kính, thất kính.” Trong số các bộ lạc Đông Di, hiện nay thế lực của bộ lạc Phong là mạnh nhất, thứ hai là bộ lạc Doanh, giờ đây cái cô Doanh Thiền Nhi tự xưng là hậu nhân Thiếu Hạo gì đó lên làm nữ vương Đông Di, đương nhiên phải ra sức lôi kéo hai bộ lạc này, Huyền Điểu là con gái của tù trưởng bộ lạc Phong, cũng là người đứng đầu đoàn sứ giả Đông Di.

Cô nương Huyền Điểu nói chuyện huyên thuyên hồi lâu, lại lớ ngớ không rõ ràng, người ngoài không sao chen vào được, Khánh Kỵ phải mất khá lâu mới nắm rõ thông tin là cô nương Huyền Điểu này mang theo lễ vật tổng cộng có đến mười hai xe, món quà của người Đông Di không phải là vàng bạc châu báu, cũng không phải là gấm vóc lụa là, trên mười hai chiếc xe chỉ chứa một thứ duy nhất: hài cốt của cự long thời thượng cổ.

Khánh Kỵ nghe họ thuật lại bèn lập tức hiểu ra. Nghe nói xưa kia có người đào được vô số mảnh xương to lớn, vì Khổng Khâu học rộng hiểu nhiều, tri thức uyên bác, nên phái người đi thỉnh giáo ông ta, Khổng Khâu theo ghi chép từ sách cổ cho rằng đó là con rồng khổng lồ cai quản gió mưa năm xưa bị Đại Vũ giết chết, người đời nhờ thế tôn Đại Vũ làm Thánh nhân trị thủy. Thật ra đống xương đó chỉ là xương hóa thạch của con thú lớn thời thượng cổ mà thôi, bây giờ người Đông Di đào được nguyên bộ xương nguyên vẹn, Khánh Kỵ nghe họ miêu tả, liền đoán ra đó là một bộ xương khủng long hóa thạch.

Bộ xương này nếu nói vô dụng, thì cũng đúng là vô dụng, còn nói là quá có ích thì cũng đúng là góp công to lớn trong đại nghiệp của Khánh Kỵ, đối với người ngoài có thể vô dụng, còn với người Ngô lại mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì người Ngô tôn thờ “Rồng”.

Hiện nay Khánh Kỵ đăng cơ, ở ngoài kia Tề, Tấn và hơn một nửa chư hầu trong thiên hạ vì lợi ích cá nhân đều không thừa nhận, còn ở nước Ngô những phe cánh thuộc về Phù Sai, Phù Khái cũng không thừa nhận địa vị hợp pháp của hắn.

Thế mà trước lúc hắn đăng cơ lại đột nhiên xuất hiện hài cốt của con cự long này, lại được đưa vào trong quân hắn. Thời đại đó là thời nào chứ? Mấy trăm năm sau một tên đình trưởng muốn làm hoàng đế phải chém bạch xà ra vẻ thuận theo ý trời (chính là Hán Cao tổ Lưu Bang), hơn một ngàn năm sau một tiểu hòa thượng muốn làm hoàng đế phải nổ vang trời rằng khi hắn sinh ra khắp phòng đỏ rực (Tống Cao tổ Triệu Khuôn Dẫn). Trong thời đại mê tín này, nếu vào đại lễ đăng cơ ngày mai, lập đàn tế lễ trang trọng an táng bộ hài cốt này, lúc đó số đông người dân đều tin vào thần thánh mệnh trời, làm vậy có tác dụng tuyên truyền thu phục nhân tâm lớn cỡ nào? Sẽ có bao nhiêu người vốn kiên định theo phò Phù Sai, Phù Khái dao động chuyển sang đầu hàng Khánh Kỵ?

Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, hạ lệnh long trọng tiếp đãi đoàn sứ giả Đông Di, bên ngoài Anh Đào đã thu xếp xong nơi ăn chốn nghỉ. Anh Đào dẫn đoàn sứ giả rời khỏi không lâu liền vội quay vào lều nói nhỏ với Khánh Kỵ: “Điện hạ, sứ giả Đông Di Đan Ô bí mật xin cầu kiến.”

“Hử? Mau mời!” Khánh Kỵ ngớ người, mới tỉnh ngộ nhận ra vị nữ vương Đông Di kia phí nhiều công sức sai sứ giả đến gặp, còn mang tặng hài cốt cự long, e là có ý đồ gì đó.

Một lúc sau, Đan Ô vừa thu xếp xong lại vội vã bước vào trong lều, nói: “Điện hạ, nữ vương Đông Di có một việc quan trọng cần bàn với ngài, chỉ vì Huyền Điểu ngây ngô, khó đảm nhận nhiệm vụ bí mật này, nữ vương đã sai tiểu nhân mang theo bức mật thư này, đến gi­ao cho điện hạ.”

Đan Ô nói xong lấy từ dưới ngực ra một bức mật thư được dùng sáp nến niêm phong, thư viết trên thẻ tre Lỗ quốc, mỏng mà chắc chắn, xếp thành mấy lớp. Khánh Kỵ vội đón lấy mở ra xem, xem xong đập bàn kêu hay, hắn định thần lại, nói với Đan Ô đang đứng đó chờ đợi: “Sứ giả Đan Ô, mời về lều nghỉ ngơi trước, việc này cho phép Khánh Kỵ bàn bạc lại với các tướng lĩnh rồi hồi đáp sau.”

Đan Ô cáo từ lui ra, Khánh Kỵ lập tức triệu tập các tướng lĩnh Yểm Dư, Chúc Dung, Tôn Vũ, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử tề tựu trong lều. Trên thực tế lúc này Khánh Kỵ vẫn còn một lực lượng quân sự quan trọng, đó chính là Nhâm gia quân do Nhâm Nhược Tích thống lĩnh, nếu không phải Nhâm Nhược Tích dẫn đại quân kịp lúc kéo đến giúp Kinh Lâm cản đường tiến quân của Phù Khái, Phù Khái lúc này dù chưa vào Cô Tô thành, e rằng đại quân Kinh Lâm dưới sức ép trong ngoài thành đã bị tổn thất trầm trọng. Giờ có Nhâm gia quân tham chiến, thực lực hai bên tạo lập thế cân bằng, có thể nói công lao của Nhâm gia vô cùng lớn, vì thế lúc này đang giữ vị trí quan trọng trong đại quân Khánh Kỵ.

Nhưng hiện giờ Nhâm gia quân do Nhâm Nhược Tích thống lĩnh, Khánh Kỵ không biết sắp xếp chức vụ gì thích hợp cho nàng ta, nên lúc này không triệu nàng vào nghị sự. Hai người khi xưa đã sớm nảy sinh tình cảm, lúc ở Tề Nhâm Nhược Tích yểm trợ Khánh Kỵ trốn chạy, Khánh Kỵ còn hứa hẹn chuyện chung thân với nàng. Chỉ là chiến sự đang căng thẳng không tiện công bố tin này ra, hai người chỉ gặp mặt nhau một lần khi Khánh Kỵ quay về Cô Tô, sau đó thì ngay cả cơ hội hẹn hò riêng tư cũng không có nữa.

Vì muốn trấn an Nhâm gia quân, Khánh Kỵ sắp xếp cho Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man ở tại doanh trại bên kia, cùng ăn cùng ở với Nhâm Nhược Tích, trên dưới Nhâm gia quân đều biết hai cô nương này sau này sẽ là hoàng phi Ngô quốc, Khánh Kỵ đưa hai nhân vật quan trọng vào ở trong quân họ, rõ ràng là tuyệt đối tin tưởng và xem trọng họ rồi, hành động này có tác dụng khích lệ rất tốt với Nhâm gia quân.

Còn với Khánh Kỵ, làm như vậy một vốn bốn lời, một là thu phục nhân tâm Nhâm gia quân; hai là lúc này hắn chinh chiến ác liệt, qua lại với sứ giả các nước thường xuyên, đúng là không tiện mang theo hai thiếu nữ chưa xác định danh phận này bên mình; ba là cho Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man gi­ao lưu với Nhâm Nhược Tích; bốn là…, giờ hắn bận đến nỗi không thể phân thân, lại không thể gặp riêng Nhâm Nhược Tích lựa lời an ủi, đem hai cô nương kia sắp xếp ở cạnh Nhược Tích, tránh cho nàng ta ghen tuông vớ vẩn…

Nghe Khánh Kỵ thuật lại xong, Yểm Dư kinh ngạc kêu lên: “Người Đông Di muốn lập quốc?”

Khánh Kỵ nói: “Đúng vậy, nhưng Đông Di không tồn tại quốc gia đã lâu, các bộ lạc giờ đây vì cùng cảnh ngộ chống ngoại xâm nên tạm thời đoàn kết với nhau, một khi mối nguy được giải trừ, các bộ lạc vốn quen tự do khó chấp nhận sự quản thúc của thể chế quốc gia, còn binh mã của vị nữ vương Đông Di này cũng đều đến từ các bộ lạc khác nhau, nàng ta thiếu cơ sở quyền lực tạo lập chính quyền, chỉ còn cách dựa vào một cường quốc làm hậu thuẫn.

Tề quốc xưa nay luôn giơ cao ngọn cờ thay Chu thiên tử dẹp yên man di xâm lấn lãnh địa của người Đông Di, từ thời Tề Hoàn Công đến nay, lãnh thổ Tề quốc mở rộng thêm gấp bội, diệt hơn bốn mươi quốc gia nhỏ, trong đó có khá nhiều quốc gia kiểu bộ lạc như người Đông Di, Tề và Đông Di thù oán sâu nặng, là quốc gia người Đông Di không chấp nhận nhờ cậy. Lỗ quốc sát cánh cùng Đông Di chiến đấu chống Tề, chẳng qua vì tự bảo vệ, người Lỗ muốn yên thân an phận, không muốn bành trướng, sẽ không đồng ý tiếp nhận người Đông Di mà gây thù với Tề, nữ vương Đông Di sai sứ đến đây bày rõ ý định của mình, đó là một khi chúng ta phục quốc thành công, muốn Đông Di dựa vào Ngô quốc, làm thuộc địa của Ngô, thành lập quốc gia. Tất nhiên đấy chỉ là một đề nghị, nếu chúng ta đồng ý mới tiến hành đàm phán bước tiếp theo.”

Yểm Dư phấn khích: “Hay lắm! Sao lại không đồng ý? Người Đông Di có lãnh thổ rộng lớn, tuy vùng đất của họ có hơi nghèo nàn, người Đông Di chỉ sống bằng săn bắn đánh cá, ít trồng trọt cày cấy, làm công vụ thương lái, có thu thuế má cũng không được bao nhiêu, nhưng người Đông Di xưa nay luôn tự cung tự cấp, cũng sẽ không gây cho ta thêm gánh nặng gì, một khi Đông Di làm thuộc địa của ta, về mặt quân sự, ngoại gi­ao tất cả đều nằm trong tay Ngô quốc, còn dễ dàng quản lí hơn một vùng đất phong cho công khanh đại thần, lại nâng cao uy danh của Ngô quốc trong các nước chư hầu, đây là việc có lợi lớn nên làm.”

Tôn Vũ cũng nói: “Người Đông Di tuy hoang dã, nhưng lãnh thổ của họ rộng gấp bội Ngô quốc ta, miếng thịt này ta không ăn, sớm muộn cũng bị người khác nuốt vào miệng, bây giờ người Đông Di chủ động tìm đến, đâu có lý do gì phải từ chối? Hơn nữa người Đông Di tuy lạc hậu nhưng cũng vì Chu thất cố tình tạo ra cục diện này, chứ không phải vùng đất của họ nghèo nàn, con dân dốt nát.

Năm xưa khi quân của Hoàng đế lấy gậy gỗ làm vũ khí, người Đông Di đã biết thuật luyện kim, tạo ra vật dụng bằng đồng. Sau Chu thiên tử, người đầu tiên dám xưng vương không phải là Sở vương Tử Hùng, mà là Từ vương Đông Di, khi đó người Đông Di lập ra nước Từ quản hạch lưu vực Hoài Thủy, Tứ Thủy, Từ vương có đạo trị nước, nhân nghĩa vang danh thiên hạ, quốc gia cường thịnh, các nước thần phục xung quanh hơn ba mươi, mới dám thách thức trực diện với Chu thiên tử, hoàng thành của Từ được xây hùng vĩ hơn cả của Chu thiên tử. Chỉ là khi đó khí số Chu thất đang lên, phát động toàn thiên hạ khởi binh diệt trừ Từ quốc, từ đó không thèm cai trị bỏ mặc người Đông Di, trải qua mấy trăm năm bị tách biệt với văn minh nên người Đông Di mới thế, chỉ cần Ngô quốc ta quan tâm dạy dỗ, không mất nhiều thời gi­an sau Đông Di sẽ trở thành cơ sở vững mạnh của Ngô, giờ Đông Di chủ động nhờ cậy, điện hạ không thể lỡ mất dịp may này.”

Khánh Kỵ gật gù: “Các tướng nghĩ vậy cũng đúng với ý định của ta.”

Chúc Dung vốn cũng cảm thấy đây là dịp tốt trời ban, nhưng nghe Khánh Kỵ nói vậy thấy anh ách trong lòng, bèn lên tiếng phản đối: “Tiếp nhận Đông Di, chúng ta phải gánh chịu sức ép từ người Tề, giờ đây Ngô quốc nội chiến liên miên, gi­ang sơn chưa ổn định, Tề quốc hùng mạnh chúng ta có chống lại nổi không? Hơn nữa các bộ lạc Đông Di xưa nay luôn gi­ao hảo với Sở, chúng ta mà xen vào tiếp quản, lại kết oán với người Sở.

Chà! Nên nói là oán cũ chưa xong, lại kết thêm thù mới. Ngô quốc ta phạt Sở, giết người cướp bóc vô số, dân Sở không phải ai cũng phân biệt rõ chúng ta và Cơ Quang đâu, Cơ Quang lúc đánh vào Dĩnh Đô cướp hết của cải trong hoàng cung, nay đang chất đầy Cô Tô, chúng ta phục quốc xong cũng cần dùng số của cải này xây dựng lại quốc gia, sứ giả Tần quốc hôm qua nhắc nhở khi phá thành chúng ta nên trả lại cho Sở số của cải này, lúc đó nên trả hay không trả? Nếu không trả, người Sở tức giận, ta tiếp nhận Đông Di càng gây thù chuốc oán với họ, Sở xua quân đến đánh, vậy chẳng phải chúng ta cùng lúc chống với bốn cường quốc Tần Sở Tấn Tề sao?”

Tôn Vũ ung dung: “Tề quốc tuy mạnh, nhưng lại ở xa, nếu xua quân viễn chinh, hao tổn chắc lớn, hơn nữa hai phái Điền, Yến, năm họ tộc quyền cao chức trọng ở Tề khó đạt được đồng thuận ý kiến, nên tạm thời không đáng lo. Còn việc Đông Di đến nương nhờ ta ủng hộ lập quốc, đó là ý nguyện của người Đông Di, đâu phải chúng ta dùng vũ lực chiếm giữ, người Sở muốn trách cũng không được. Còn nói đến số của cải Cơ Quang cướp về từ Dĩnh Đô, chuyện đó càng dễ dàng hơn…”

Tôn Vũ hít một hơi dài, nói giọng bình thản: “Sau này công phá Cô Tô thành, ta chọn ra mấy căn nhà trong hoàng thành đốt trụi, cứ nói là trong lúc chiến loạn Phù Sai đã đốt lửa thiêu hết số của cải. Người Sở hiện đang lo lắng Tam Miêu phía Nam, phía Bắc phải chống trả với Tấn, phía Đông các nước phụ thuộc đang manh nha phản loạn, họ tự lo thân mình đã vất vả, nếu không có chứng cứ xác thực, lại có lý do giải thích hợp lý, Sở đâu dám xua quân đánh ta.”

Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào vị Binh thánh Tôn Vũ được sử sách miêu tả từ tài năng quân sự đến đối nhân xử thế đều hoàn hảo này, không dám tin vào mắt mình.

Tôn Vũ cười khoái trá, quay sang Khánh Kỵ: “Điện hạ thấy thế nào?”

Khánh Kỵ mỉm cười: “Ý ta cũng như ý Tôn tướng quân đây!”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 214: Thích khách (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

http://img211.im­age­shack.us/img211/1377/chng2141.gif

http://img703.im­age­shack.us/img703/1136/chng2142.gif

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 215: Đại lễ đăng cơ (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

http://img222.im­age­shack.us/img222/9283/chng2151.gif

http://img211.im­age­shack.us/img211/1128/chng2152.gif

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 216: Bốn vị cô nương (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

http://img267.im­age­shack.us/img267/9894/chng2161.gif

http://img510.im­age­shack.us/img510/9590/chng2162.gif

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 217: Trí đoạt kiền toại (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

http://img826.im­age­shack.us/img826/860/chng2171.gif

http://img708.im­age­shack.us/img708/8803/chng2172.gif

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 218: Công thành chiếm đất (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

http://img156.im­age­shack.us/img156/7005/chng2181.gif

http://img152.im­age­shack.us/img152/2759/chng2182.gif

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 219: Tôn Vũ trúng kế (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

http://img641.im­age­shack.us/img641/4043/chng2191.gif

http://img3.im­age­shack.us/img3/5720/chng2192.gif

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 220: Thắng bại chốc lát (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Phù Khái thành công trong việc thoát khỏi sự truy đuổi của Tôn Vũ, thu hút Tôn Vũ và Lương Hổ Tử ngay từ bên ngoài thành Nam Vũ, còn hắn thì tự mình lãnh binh không kể ngày đêm hướng về phía Cô Tô thành, lập tức báo tin vào bên trong thành Cô Tô cho Phù Sai, trong ngoài phối hợp, bất ngờ đánh úp đại doanh trại của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ không giống như Hạp Lư, Hạp Lư lúc đó lo sợ Cô Tô thành sẽ bị rơi vào tay của Khánh Kỵ, hơn nữa hắn vẫn tin rằng mục tiêu tấn công của Khánh Kỵ chính là thành Cô Tô, vì vậy mà trên đường hành quân không tổ chức phòng bị, hành quân đường dài như vậy khiến ba quân đều mệt mỏi, do vậy nên chỉ một trận mà đã đánh bại, sáu vạn đại quân bị tiêu diệt hơn nửa, khiến cho Khánh Kỵ ngay từ đầu đã rơi vào hoàn cảnh chống đỡ bỗng chốc chiếm được ưu thế.

Mà Khánh Kỵ vây khốn Cô Tô thành, hiện tại là cục diện đợi quân địch mệt mỏi rồi tấn công. Nhưng Khánh Kỵ cơ bản không nghĩ đến việc đạo quân của Phù Khái - đám người đang bị quân lính của Tôn Vũ truy đuổi - đột nhiên lại xuất hiện phía sau mình, vội vàng ra ứng chiến đó là việc khó tránh khỏi. Hơn nữa, bên trong thành Cô Tô lại có hơn một vạn tinh binh, tổng số binh lính bên trong hợp lại khoảng hơn bốn vạn tên, đạo quân này mặc dầu lực chiến đấu yếu, nhưng kiến nhiều có thể cắn chết voi, thời đại chế tạo vũ khí cổ xưa, nếu nửa đêm bất ngờ đánh úp, thì phối hợp tác chiến sẽ không có tác dụng cao. Chỉ cần có thái độ tử chiến, thì độ sát thương xảy ra không phải là thấp, nếu đại quân trong ngoài phối hợp, nếu Khánh Kỵ không phòng bị trước, thì chắc chắn sẽ bị đánh bại, huống hồ gì, vẫn còn đạo quân của Câu Tiễn với hành tung xuất quỷ nhập thần cũng đang đợi thời cơ.

Nghĩ đến đây, Tôn Vũ không kềm được lo lắng vô cùng,trong lòng lắc lư theo chiếc xe đang lăn bánh: “ Nếu Khánh Kỵ giẫm lên vết xe đổ của Hạp Lư, thì Phù Sai, Phù Khái, Câu Tiễn trong ngoài phối hợp chia làm ba ngả tấn công toàn quân, thì ắt quân mình sẽ thảm bại, vậy những ưu thế vừa chiếm được lúc đó lại trôi theo dòng nước rồi, thậm chí..toàn bộ trận thế công thủ của chiến cục Ngô quốc đều vì thế mà thay đổi, Đại vương…người có thể giữ vững được không?”

Tôn Vũ và Lương Hổ Tử lo sợ trúng kế phục kích của Phù Khái, lúc đó đại quân sẽ trở thành miếng mồi ngon trong bụng của đối phương. Vì thế mặc dầu gấp rút quay về thành Cô Tô, nhưng ngược lại trên đường không dám hành động mù quáng, quân tiên phong dò đường trong phạm vi ngoài ba mươi dặm phía trước, tấp nập hướng đến, không ngừng phất cờ truyền tin tức cho quân đoàn hiện phía trước đang an toàn. Nhưng quân đoàn lại vừa hành quân đến một khu rừng rậm với địa hình hiểm trở, hành trình vì thế khó tránh khỏi bị chậm lại.

Tôn Vũ hận rằng mình không thể chắp thêm cánh để có thể nhanh quay về thành Cô Tô, nhưng thân là chủ tướng của một quân, hắn lại ngàn lần không thể hành động theo cảm tính, chỉ mới nửa đêm, mà đã vội nói đến chuyện không còn hi vọng, nếu không có lòng tin đủ lớn với Khánh Kỵ, thì vị thanh niên Tôn tướng quốc e rằng đã bước theo gót của người tiền nhiệm Ngũ Tử Tư rồi, chỉ một đêm mà tóc đã bạc trắng hết.

Lúc Tôn Vũ, Lương Hổ Tử cùng đại quân đang hành quân trên đường về thành Cô Tô, thì phía bên ngoài thành Cô Tô vừa kết thúc một trận đại chiến, cuộc chiến giữa Khánh Kỵ và Phù Khái. Cuộc chiến này Phù Khái không chiến thắng được, ngược lại còn bị Khánh Kỵ tập kích đánh cho một trận tơi bời.

Trên chiến trường, đôi khi thành bại còn dựa vào vận may nữa, có lúc chỉ vì một chuyện rất nhỏ, hay một người nào đó hoàn toàn không liên quan đến, do đó mà sản sinh ra những thay đổi cực lớn ngoài dự liệu của mỗi bên. Một phát bắn ngay vào kho đạn của đối phương, cũng quyết định được chuyện thành bại trong cuộc chiến giữa hai nước; một trận mưa lớn đổ xuống bất ngờ, đã từng khiến cho binh lính của hoàng đế nước Pháp bại trận tại chiến trường Wa­ter­loo.

Câu Tiễn đã sao chép ý tưởng của Tôn Vũ, rồi mê hoặc Phù Khái dựa vào đó mà tiến binh tấn công bất ngờ đại bản doanh của Khánh Kỵ, Phù Khái con người này đã lâm vào bước đường cùng, với ý đồ được ăn cả, ngã về không. Tuy nhiên, người tính không bằng trời tính, hắn đã thất bại bởi vì không có vận may.

Vấn đề mấu chốt quyết định thành bại trong trận chiến này chính là nước tiểu của tên tiểu tử—- sứ giả của bộ lạc Đông Di Huyền Điểu cô nương.

Sau đại lễ đăng cơ của Khánh Kỵ, sứ tiết các nước lần lượt quay về bản quốc, lập tức báo cáo những tin tức mới nhất về nước Ngô cho quốc vương bản quốc biết, nhưng Huyền Điểu, người mang trọng trách lớn này lại ngược lại vẫn thể hiện điệu bộ nhởn nhơ vui chơi, nàng cùng với Quý Tôn Tiểu Man cả ngày quấn quýt bên nhau, phải đợi đến khi Đan Ô liên tục thúc giục, nàng mới chịu khởi hành quay về, nhưng trên đường đi lại cứ ung dung, đông du tây dạo, không vội vàng gì, khiến cho lần xuất quốc làm sứ tiết này trở thành một cuộc du ngoạn lý thú bên ngoài quốc gia.

Phó sứ Đan Ô dở khóc dở cười, nhưng địa vị của Huyền Điểu cao hơn, nàng lại là chính sứ, nên việc duy nhất mà hắn có thể làm là cứ huyên thuyên suốt ngày bên Huyền Điểu mà khuyên can, thúc giục nàng nhanh chóng quay về bản quốc. Huyền Điểu vì thế mà không kiên nhẫn được, thẳng thắn nói với Đan Ô, lệnh cho hắn vận chuyển bộ xương khủng long hóa thạch của người Đông Di về trước (thực ra chỉ là cho mượn thôi), còn nàng một mình cùng với hơn hai mươi tên thị vệ hóa trang thành người nước Ngô, ở lại tiếp tục ngao du sơn thủy, từ từ đi sau.

Tối hôm đó, Huyền Điểu cùng với cận vệ của mình cắm lều tại một khu rừng có tên Thanh Sơn, hơn hai chục người, có kẻ ngủ trên cây, có kẻ đốt lửa lên mà ngủ, đa phần đều đã ngủ say. Huyền Điểu đêm khuya cảm thấy khó chịu trong người, nên vội từ trên cây cao nhảy xuống, rón rén bước vào bên trong khu rừng, do bộ hạ của nàng cũng có vài tên là nam giới đang ngủ trên cây, do đó biết ý nên nàng muốn đi xa hơn vệ sinh cho tiện, tìm được một chỗ cảm thấy sạch sẽ, khuất bóng phía sau một cây cổ thụ nàng bắt đầu cởi đồ đi vệ sinh, nhưng đồ vừa vén xuống quá nửa, thì đột nhiên có động tĩnh, nàng dừng lại….

Huyền Điểu vừa kinh sợ vừa xấu hổ, sợ có người đang nhìn trộm nàng, nên vội vàng kéo quần lên, đưa tay cầm lấy kiếm, nàng đứng yên đưa tai lắng nghe một hồi… âm thanh lúc nãy phát ra từ sườn núi bên kia.

Huyền Điểu mặc dù là con gái của tộc trưởng Phong tộc, địa vị được tôn kính, nhưng từ nhỏ đã giỏi trèo núi vượt đèo, giỏi leo trèo săn bắn. Người Đông Di đa phần kiếm sống bằng nghề đánh bắt cá, từ lúc ấu thơ đã được luyện tập bản năng kiếm sống, nên khiến cho bọn họ đều là những người trinh thám thuộc hàng thượng thặng. Khả năng của Huyền Điểu cũng không đến nỗi tồi, nàng cũng thuộc loại gan to, một thân một mình lặng lẽ đi trong bóng tối.

Đợi nàng trèo qua ngọn đồi phía trước, lúc này mới ngạc nhiên phát hiện bên kia sườn núi đột nhiên xuất hiện một đại quân, đang gấp rút không ngừng nghỉ cắm lều dựng trại. Nhân mã rất đông, lửa dày đặc giống như sao trên trời, thật là hiếm thấy. Bọn chúng binh mã đông như vậy, nhưng âm thanh phát ra lại cực nhỏ, nếu không phải vào lúc đêm khuya vắng vẻ như thế này, thì chưa chắc gì Huyền Điểu đã nghe được những động tĩnh kia.

Huyền Điểu giống như một con cáo, lặng lẽ mò tới gần, từ cuộc đối thoại của đám binh sĩ Ngô quân, nàng đã nghe rõ được thân phận của chúng, trong lòng ngạc nhiên hoảng sợ. Nghe xong, nàng lập tức quay về lều của mình, đánh thức tất cả đám cận vệ dậy, dập lửa, xóa tất cả mọi dấu vết, hai mươi mấy người lập tức men theo con đường nhỏ rời khỏi sơn cốc.

Ngựa của bọn họ bỗng nhiên hí vang lên vài tiếng, nhưng bởi vì trên đỉnh núi này còn có nhiều tạp âm nữa xen vào, nên căn bản không ai nghe được. Đợi cho đến lúc sai lính trinh thám lên đỉnh núi cảnh giới, Huyền Điểu cùng đám tùy tùng cũng đã lặng lẽ rời khỏi sơn cốc, hướng về phía thành Cô Tô mà phóng ngựa như tên bắn.

Khánh Kỵ nghe được thông tin mà Huyền Điểu mang đến, trong lòng cũng ngạc nhiên vô cùng, điều mà Khánh Kỵ lo lắng nhất không phải là sự xuất hiện bất ngờ của chúng tại đây, mà là sự an nguy của Tôn Vũ và Lương Hổ Tử, hai đạo quân phụng mệnh hắn truy sát Phù Khái không biết bây giờ ra sao? Nhưng bây giờ lại không thể thám thính được tình hình của họ, Khánh Kỵ lập tức triệu tập chư vị tướng lĩnh, thông báo cho họ biết thông tin mà Huyền Điểu vừa thu được.

Phù Khái đột ngột đem quân đến, mục tiêu chính là Khánh Kỵ. Sơn cốc mà hắn chọn để cắm trại cách đại bản doanh của Khánh Kỵ chưa tới bốn mươi dặm, hắn dừng lại tại phạm vi cách bốn mươi dặm ngoài doanh trại Khánh Kỵ, nghĩ rằng trường kì gi­an nan hành quân, tướng sĩ tất thảy đều mệt mỏi, cần phải được nghỉ ngơi. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất, hắn muốn tập kích đóng quân ở đây nhiều ngày, thiết lập một đại doanh trại với hệ thống phòng thủ hoàn chỉnh, nếu dựa vào số lính không chiếm ưu thế mà tập kích bất ngờ thì e rằng không hiệu quả, hắn cần phái người liên hệ với Phù Sai ở phía trong thành Cô Tô để tạo thành liên quân.

Về điều kiện truyền tin thời này, để cho hai bên bước đầu xác định được kế hoạch, cũng vô phép mà nắm trong tay được đích xác thời gi­an mà đối phương tiến đến, do đó muốn phối hợp tác chiến với nhau, về thời gi­an phát động trận chiến cụ thể thì cũng cần phải nhiều lần tiến hành liên hệ xác nhận. Từ tình hình mà Huyền Điểu nhìn thấy được mà nói, thì đại quân của Phù Khái vừa đến, sẽ tính toán lập tức liên hệ với người bên trong thành Cô Tô, hai bên sẽ triệu tập tướng lĩnh phân phối kế hoạch, điều động binh sĩ làm tốt công tác chuẩn bị, để có được điều này cũng tốn khá nhiều thời gi­an. Nếu muốn phối hợp đúng lúc, Phù Khái vừa đến, tất phải cùng với Phù Sai xác định chính xác thời gi­an cùng nhau hành động, tất cả những việc này làm xong cũng tốn nhiều ngày. Thời gi­an mà đối phương phát lệnh tấn công rất có thể là lúc tờ mờ sáng, mặt trời vừa lên, đây là lúc mà người người đều mệt mỏi, biết như vậy, Khánh Kỵ sẽ có dư dả thời gi­an để ứng biến.

Chư vị tướng lĩnh đang bảy mặt tám lời bàn việc quân trong doanh trại, thì bỗng nhiên Huyền Điểu kêu “ A…” lên một tiếng, Khánh Kỵ lập tức vội vàng hỏi: “ Huyền Điểu quý sứ, vẫn còn tin tức gì quan trọng sao?”

Huyền Điểu tay ôm bụng, khuôn mặt thẹn thùng, xấu hổ ngước mắt nhìn hắn, ngượng ngập nói: “ Ta…ta đau bụng quá…”

“….Ồ… người đâu, mau đưa Huyền Điểu quý sứ đi ngoài…”

Huyền Điểu tay ôm bụng, vội vàng cùng tên thị vệ đi ngoài, chúng tướng được thể cười ồ lên, Khánh Kỵ vuốt vuốt mũi, ho một tiếng rồi nói: “ Chư vị tướng quân, quả nhân có ý này, ta nhân cơ hội Phù Khái vừa đến chưa ổn định, lại chưa liên hệ được với Phù Sai trong thành Cô Tô, mà chủ động phát khởi tấn công, tiêu diệt Phù Khái, khiến cho nguy cơ khác tất nhiên sẽ làm tan rã.”

Yểm Dư nói theo: “ Lời của Đại vương rất có lý, chỉ có điều Phù Khái đã cắm trại ổn định tất sẽ cử người cảnh giới, bọn họ lại đóng quân trong sơn cốc, chúng ta không có cách nào mà giống như lần trước từ cao xuống thấp mà thâm nhập vào, ngoài ra trong thành Phù Sai nếu chưa biết được kĩ càng tình hình bên ngoài, chưa chắc gì hắn dám xuất binh, nhưng chúng ta cũng không thể không đề phòng mọi động tĩnh của hắn.”

Khánh Kỵ đáp: “ Quả nhân biết”

Binh quý thần tốc, Khánh Kỵ chưa kịp suy nghĩ kĩ lưỡng, lập tức hạ lệnh cho một đại đội mật thám tiến đến vô danh sơn cốc kia, nhiệm vụ chủ yếu của chúng là thám thính mọi động tĩnh của Phù Khái, đồng thời tiêu diệt những tên lính cảnh giới bên ngoài của đối phương. Cùng lúc này cũng triệu tập binh mã các doanh trại, lệnh cho Kinh Lâm lưu thủ tại bên ngoài thành Cô Tô, tăng cường bắn đá phủ đầu vào phía bên trong thành, lệnh cho Yểm Dư, Xích Trung lãnh binh mã phối hợp hai bên của đại quân chủ lực, làm đội quân cơ động, còn bản thân Khánh Kỵ lãnh đạo đại quân, chuẩn bị bất ngờ tấn công vô danh sơn cốc.

Trận chiến tại sơn cốc vô danh, ý chí của Phù Khái đã gần như tan vỡ, hiện tại ngay cả hắn cũng bắt đầu tin lời của đám dân đen đồn nhảm rằng Khánh Kỵ được thiên thần phù hộ, nếu không có như vậy, Khánh Kỵ làm sao có thể dự liệu được tình hình, đem quân đến sơn cốc vô danh kia phản công đánh úp đối phương một cách ngoạn mục như vậy chứ?

Hắn dự tính hôm đó sẽ tiến quân bất ngờ tấn công doanh trại Khánh Kỵ, vì để cho tướng sĩ nhanh chóng hồi phục lại thể lực tinh thần, ngoài những trạm gác cần thiết, còn lại toàn quân đều được phép nghỉ ngơi trong sơn cốc. Phù Khái cử đi vài tên tín sứ, chia nhau ra thông báo cho Phù Sai ở trong thành, và cùng với hắn duy trì sự liên hệ bí mật với Câu Tiễn, dự định ngày mai sẽ tấn công vào đại bản doanh của Khánh Kỵ, lại cùng với các tướng lĩnh ở trong doanh trại lên kế hoạch tỉ mỉ để ngày mai đánh trận, bàn bạc đến khuya, bọn họ ai nấy đều mệt lả, lúc đó mới ngả người nằm nghỉ một lát, nhưng giấc ngủ còn đang lơ mơ, thì…đại quân Khánh Kỵ đã tấn công vào.

Khánh Kỵ đầu tiên cử người đi tiêu diệt những tên lính được Phù Khái phái ra ngoài canh gác thám thính tình hình, nhưng địch ở trong bóng tối, ta ở ngoài ánh sáng, muốn tiêu diệt hết những trạm gác này thì khó có thể thực hiện được, đại quân Khánh Kỵ còn chưa đến cửa núi, tiếng vó ngựa đã vọng vào trong toàn sơn cốc. Mặc dầu được lính trinh thám báo ngay từ sớm, nhưng đại quân Phù Khái vội vàng tập hợp ngay trong đêm nên ai nấy đều mệt mỏi, đại quân vừa chỉnh tề đội hình, còn chưa tiến ra ngoài sơn cốc được, thì Khánh Kỵ dẫn đầu đại quân đã tiến vào đánh giết, hai bên chạm trán gi­ao chiến với nhau ngay trong sơn cốc.

Cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt. Tiết Gi­ao liều mạng chỉ huy binh lính tử thủ tại sơn khẩu, yểm hộ Phù Khái phá vòng vây tiến ra ngoài, Phù Khái vượt qua núi mà đi, dẫn quân hướng về phía Cô Tô thành, hắn muốn nhân cơ hội đang diễn ra loạn lạc này mà tiến vào thành, nhưng Chúc Dung, Kinh Lâm đang lãnh quân thủ bên ngoài thành Cô Tô, Yểm Dư, Xích Trung thì dẫn người án ngữ hai bên cánh sườn thành Cô Tô, ở phía sau mặc dầu Khánh Kỵ bị Tiết Gi­ao tử chiến, nhưng với sự chênh lệch lực lượng quá lớn giữa hai bên, Tiết Gi­ao không cầm cự được lâu mà bỏ chạy mất hồn, vào lúc này thì Phù Sai cũng vừa nhận được tin tức ngày mai cùng hợp lực tấn công Khánh Kỵ, cho dù Phù Khái có tấn công đến bên ngoài thành Cô Tô, hô hào bên trong mở cổng để vào thành, thì Phù Sai cũng không rõ chân tướng của sự việc đâu thật đâu giả mà mở cửa thành để tiếp ứng, với tình hình như vậy thì Phù Sai nào đâu dám tùy tiện mà giẫm chân vào nguy hiểm chứ.

Nhưng nếu không đến Cô Tô, thì chỉ còn duy nhất con đường là quay về Hàn Ấp, nơi mà hắn có thể dừng chân nghỉ ngơi được, nhưng nếu đi Hàn Ấp, thì sẽ mất đi sự tiếp ứng liên kết với thành Cô Tô, lúc đó khó tránh khỏi việc bị Khánh Kỵ chia nhau ra mà đánh. Phù Khái đang ở thế khó lựa chọn giữa hai con đường, vài vị quân sư huyền bí đều đến doanh trại của hắn để bàn bạc.

Lúc Phù Khái từ Nam Vũ thành khẩn cấp chạy đến thành Cô Tô, lúc đó đã giữ liên hệ mật thiết với Câu Tiễn, Câu Tiễn biết được Phù Khái thuận lợi thoát khỏi sự truy sát của Tôn Vũ, nên cực kỳ hứng thú dẫn đại quân đang ẩn nấp ở trong núi Thiên Mục xuống núi, vội vàng chạy đến thành Cô Tô, hắn muốn chia bát canh ngon này. Nhưng vừa đến khu vực Ô Trình thì đội quân trinh thám báo tin về, Khánh Kỵ phát hiện ra tung tích binh mã của Phù Khái nên đã đem quân đánh úp, khiến cho Phù Khái bại trận tơi bời, Câu Tiễn ngạc nhiên vô cùng, vội vàng lệnh cho tam quân dừng lại, hắn đứng suy nghĩ một hồi lâu ngay tại sông Ô Trình, bất chợt một kế sách nham hiểm hiện lên trong đầu hắn, nghĩ vậy hắn vội sai tín sứ lập tức lên ngựa, tìm đến doanh trại của Phù Khái…

“ Đại quân chủ lực của Phù Khái đã chạy về hướng núi Phu Thu ở Ngũ Hồ rồi sao?”

Khánh Kỵ khởi đầu hỏi. Hắn tiêu diệt toàn bộ đạo quân quyết tử thủ của Tiết Gi­ao, sau đó vội vàng quay về đại bản doanh ở phía bên ngoài thành Cô Tô, rồi sau đó tập hợp ba quân gồm đại quân đang cố thủ tại đây do Chúc Dung, Kinh Lâm lãnh binh, cùng với Yểm Dư, Xích Trung ở hai cánh thành, lúc đó hắn mới nhận được tin tức này.

Ngũ Hồ là tên gọi về sau của Thái Hồ, Thái Hồ đến nay có hơn một trăm ba mươi dòng sông chảy vào, thông qua hơn bảy mươi nhánh sông đổ vào sông Trường Gi­ang, tổng diện tích có hơn hai ngàn cây số vuông. Nhưng lúc đương thời, diện tích Thái Hồ còn rộng gấp đôi so với Thái Hồ lúc bây giờ, những dòng sông liên tiếp nhau cũng nhiều hơn, toàn diện tích Thái Hồ còn có vô số những ao hồ lớn. Nơi đây đường thủy đường bộ bốn phương tám hướng liên thông với nhau giống như một chiếc mạng nhện khổng lồ, nếu có người ẩn náu ở Thái Hồ, thì cho dù có là ngư phu hay kẻ dẫn đường, người mà thông thuộc đường trên nước dưới của Thái Hồ, lúc đó cũng khó có thể mà dễ dàng tìm ra được tung tích ẩn náu của đối phương.

Có điều nơi đây chỉ thích hợp cho những toán quân nhỏ hành động, nếu dẫn gần một vạn binh lính vào Thái Hồ thì bắt buộc phải chọn những hòn đảo lớn mà cư trú, như vậy thì khó có thể che giấu mọi hành tung ẩn náu của mình, nếu ẩn nấp trên đảo, thì chỉ có thể dùng thuyền mà di chuyển, như thế sẽ không linh hoạt bằng trên đường bộ, lúc muốn đưa hơn một vạn quân di chuyển nơi đóng quân thì lại càng khó có thể thực hiện được, vì vậy nên đội quân trinh thám bám theo gót Phù Khái mới dễ dàng xác định được vị trí cụ thể hành tung của Phù Khái.

Khánh Kỵ mặc dù nói là truy sát đến cùng, không cho đối phương có thời gi­an nghỉ ngơi, nhưng bởi vì đối phương di chuyển theo đường thủy, cũng không dễ dàng gì làm được chuyện trong tức khắc. Dòng sông Thái Hồ vốn có rất nhiều thuyền bè lớn nhỏ, đây cũng là thủy trại mà thủy quân nước Ngô đóng quân tập luyện. Bởi vì Ngô, Việt thủy lộ ngang dọc xen kẽ nhau, binh lính nắm chắc kĩ năng chiến đấu trên đường thủy, so với chiến đấu trên bộ còn có vẻ chiếm ưu thế hơn, do đó Thái Hồ được chọn là nơi tập luyện quan trọng của thủy quân nước Ngô. Thủy quân nước Ngô được ví như là thiên hạ đệ nhất, nước Sở mặc dầu ở vùng thượng du, thuận dòng nước mà chiếm cứ ưu thế nhất định, nhưng khi xảy ra thủy chiến thì chưa từng chiến thắng nước Ngô, bởi vì quân tướng nước Ngô rất xem trọng tập luyện trên sông nước.

Lúc Tôn Vũ đưa quân càn quét sạch đạo quân phòng thủ vũ trang bên ngoài thành Cô Tô, thì đối với doanh trại thủy quân đang bỏ trống này vẫn chưa xử lí, bởi vì Khánh Kỵ đoạt lại nước Ngô, nhưng không phải là gi­ao chiến với giặc bên ngoài xâm lăng nước Ngô, cho nên thuyền bè của đại thủy quân này đối với việc tấn công thành Cô Tô và lực lượng bảo vệ thành Cô Tô mà nói thì chẳng có tác dụng gì cả, với tình hình lúc đó mà nói thì hai bên đều chưa cần thiết xảy ra thủy chiến tại Thái Hồ, vì vậy cũng không thể phá hủy tất cả số thuyền bè này, đem tài sản, của cải của nước Ngô ra mà phá nát được, cuối cùng việc này lại gây ra rắc rối lớn.

Nhưng hôm nay Phù Khái lại chọn đường thủy mà trốn chạy, hơn nữa hình như hắn đã biết tình hình thực tế của thủy quân danh trại của Khánh Kỵ, hắn hướng theo thủy trại Thái Hồ mà chạy, trực tiếp đoạt lấy tất cả thuyền bè này mà ẩn náu tại Thái Hồ.

Hoảng sợ không biết chọn đường nào sao? Hay hắn lại có âm mưu nào khác?

Khánh Kỵ không dấu được vẻ lưỡng lự, do dự về việc này.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 221: Tự thân xuất chinh

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Kinh Lâm nói: “ Đại vương, Phù Khái chạy về hướng núi Phu Thu, xem ra hắn vẫn muốn liên hệ với Phù Sai trong thành Cô Tô, từ đó mà làm chủ chiến trận trong cuộc quyết chiến giữa hai bên chúng ta. Trong thành Cô Tô, tổng binh lực của Phù Sai so với chúng ta, mặc dầu nói rằng binh lính trong thành đa phần đều chưa có kinh nghiệm chiến đấu, chưa được huấn luyện, nhưng bọn chúng chiếm giữ một tòa hùng thành cao và hiểm trở như vậy, thì cũng giống như một đứa trẻ đứng trên một phiến đá cao ba trượng, chừng đó cũng đủ khiến cho ta đau đầu rồi, huống hồ gì bọn họ cũng là những nam nữ thanh niên sức dài vai rộng. Nếu Phù Khái cứ tiếp tục ở bên ngoài thành quấy rối đại quân ta, thì e rằng lòng dân vừa mới ổn định lại bắt đầu lung lay rồi. Mạc tướng cho rằng, chúng ta nhân cơ hội thừa thắng xông lên, tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Phù Khái, đoạn tuyệt nguồn viện trợ từ bên ngoài của thành Cô Tô, đó mới là thượng sách.”

Yểm Dư gật đầu nói: “Những lời của Kinh tướng quân thật có lý, tiêu diệt được Phù Khái, thì bọn tiểu nhân nước Việt kia sẽ không dám ngóc đầu dậy, nếu không như vậy thì bọn chúng cứ chần chừ bên ngoài mà không chịu đi, lúc đó mới thật sự là thảm họa của chúng ta.”

Chúc Dung trầm ngâm nói: “ Hiện nay còn bao nhiêu tên đối địch với chúng ta? Một là Phù Sai phía trong thành Cô Tô, chẳng qua là chúng ta không tấn công vào thành, bọn họ cũng không dám xuất quân, hiện tại có thể cầm cự ở đây, tạm thời không bàn đến; đạo quân thứ hai, chính là Phù Khái, hắn là em ruột Hạp Lư, hắn ở nước Ngô uy vọng chỉ đứng sau Đại vương, từ sau khi Hạp Lư chết, lại trở thành tướng lĩnh có quyền hiệu triệu binh lực cao nhất ở nước Ngô, nếu nói lực lượng có thể uy hiếp chúng ta, thì Phù Khái còn nguy hiểm hơn Phù Sai, còn tên Việt quốc Câu Tiễn, chẳng qua là thấy Phù Khái chưa có thể gi­ao chiến, hắn chỉ mang một ý nghĩ trong đầu, muốn thừa nước đục mà thả câu mà thôi, chỉ cần tiêu diệt được Phù Khái, thì hắn tất phải tìm đường mà tháo chạy thôi.”

“Ý của chư vị đều có lý cả, vậy thì làm theo cách này, tử chiến, truy đuổi đến cùng, ra sức đánh cho hắn sức cùng lực kiệt, không cho hắn có cơ hội nghỉ ngơi, nếu có thể thì một trận mà tiêu diệt chúng. Chúng ta chỉ còn lại một vấn đề khó khăn thôi, đó là thành Cô Tô.”

Khánh Kỵ vịn vào án đứng dậy nói: “ Chúc Dung vương thúc và Kinh Lâm tướng quân cứ tiếp tục quấy nhiễu thành Cô Tô, quả nhân sẽ đích thân lãnh binh chinh phạt Phù Khái, Yểm Dư vương thúc và Xích Trung tướng quân sẽ phối hợp tác chiến cùng ta.”

Yểm Dư vừa nghe xong, vội khẩn trương đáp lại: “ Không được, đến nay ngài đã là Ngô vương, há gì phải xem nhẹ thân mình mà dấn thân vào nguy hiểm. Hay là cứ để thần lãnh binh chinh phạt Phù Khái, đại vương ở lại chỉ huy trận này được rồi.”

Khánh Kỵ cười nói: “ Nguy hiểm từ đâu đến? Việt thái tử Câu Tiễn có thể một mình đơn độc không ngại nguy hiểm, dẫn binh vào nước Ngô chúng ta, Cơ Quang bậc đại vương chi tôn có thể ra chiến trường lãnh binh công nhập Dĩnh Đô, đến nay thiên hạ chư hầu, có kẻ nào ngay tức khắc mà lấy được thiên hạ, giữ được gi­ang sơn không? Phù Khái đối với nước Ngô ta uy phong hiển hách, cũng là nhờ vào uy danh dũng khí thiện chiến của hắn. Quả nhân tự thân lãnh binh chinh phạt, cũng có thể tăng thêm nhuệ khí chiến đấu. Hơn nữa, lúc nãy vừa mới thẩm vấn tù binh, ta được biết rằng đại quân Tôn Vũ không hề hấn gì. Hắn một khi biết rằng bị trúng kế, tất sẽ ngày đêm quay về, ta có viện quân phía sau, vậy thì còn sợ gì nữa chứ? Bên trong thành, tên đại vương Phù Sai kia, vẫn ngày ngày kiên trì phòng thủ bên trong thành, còn bên ngoài tên công tử Phù Khái kia, cũng kiên cường chiến đấu, còn tên Việt thái tử Câu Tiễn kia thì không nói làm gì nữa. Từ trước đến nay, các vị vua lập quốc, không ai là không tự thân dẫn binh chinh chiến sa trường cả. Khánh Kỵ ta há nào lại không thể được như vậy sao?”

Chúng tướng đều cảm thấy những lời của Khánh Kỵ đều có lý, nên không ai xuất lời ngăn cản nữa. Một là, mới cách đây không lâu, Khánh Kỵ vẫn là chủ tướng của tam quân, tất thảy đều tự thân dẫn binh chinh chiến sa trường. Hai là, thân là vua của một nước, tự thân dẫn quân chiến đấu, vào thời Xuân Thu vốn đã là truyền thống, trong quan niệm của chúng tướng lĩnh, đại vương lãnh quân, thì đó cũng là đạo lý hiển nhiên.

Trước đó khoảng hơn một trăm năm. Trịnh Trang Công dẫn binh khiêu chiến Chu Thiên Tử, lúc đó hắn là thiên hạ cung chủ Thiên Hoàn Vương, từ trên xuống dưới đều không ai có thân phận tôn quý bằng hắn, nhưng hắn cũng phải cầm gươm mà dẫn binh ra chiến trận. Từ đó đến nay cũng như vậy, nếu dựa theo sự phát triển của lịch sử, thì chỉ có sai lầm dẫn đến chết người dưới cung tên loạn lạc của Hạp Lư, lúc hắn dẫn quân gi­ao chiến với nước Việt, bị Việt quốc thượng tướng Linh Cô Phù tung một thương, gây trọng thương ngay bàn chân hắn, do đó bị cảm nhiễm mà chết.

Những chư hầu một nước này, ngay cả Chu Thiên Tử cũng cần phải tự thân thượng chiến sát địch, Khánh Kỵ, vị anh hùng dũng sĩ trứ danh này, cũng chiêu mộ nhiều vị anh hùng tướng lĩnh vang danh thiên hạ về dưới trướng mình, lại là vị đại vương vừa mới đăng cơ, địa vị còn chưa ổn định, nếu không ra chiến trường, chỉ sợ rằng khiến cho người người chê trách.

Kế sách đã được thông qua, Khánh Kỵ lập tức phái binh hướng về Ngũ Hồ mà truy đuổi. Chiến thuyền của đại thủy quân tại Ngũ Hồ đã bị Phù Khái cướp đi, Khánh Kỵ dẫn quân men theo bờ của Ngũ Hồ, dọc theo nơi có khoảng cách gần nhất với núi Phu Thu. Dọc đường thu thập được những chiếc thuyền nhỏ của các ngư dân. Những nơi này có những hòn đảo liên thông với nhau, bề rộng của những con sông ở đây cũng có hạn, do đó chỉ cần một vài chiếc thuyền hợp lại tạo thành một chiếc cầu thuyền, thì cũng đủ cho đại quân đi qua.

Đồng thời với lúc này, Khánh Kỵ lệnh cho A Cừu Tái Cừu phi ngựa nhằm hướng Quán Cầu Hồ, Quán Cầu Hồ tương liên với Ngũ Hồ, lúc Khánh Kỵ quay về nước Ngô, tất cả những thuyền bè được dùng lúc trước được cất giấu trong Quán Cầu Hồ, đồng thời cử một toán lính ngày đêm canh phòng tại đây. Đội quân này khi nhận được lệnh của Khánh Kỵ, lập tức giương buồm khởi thuyền, sai lính chèo thuyền, trong nội hai ngày đã đến địa điểm chỉ định để tiếp ứng.

Lúc này Khánh Kỵ đã nhằm theo hướng núi Phu Thu mà phát động tiến công được một ngày, do thuyền bè có hạn, lực lượng tiến công của Khánh Kỵ chỉ có thể tập trung trên cầu thuyền, hai bên chia ra đóng quân trên đảo, lấy cầu thuyền làm chiến trường, một ngày thần sát xảy ra, kiếm gãy cát lún, thuyền bè hư hại hết phân nửa, tại khu vực hai bên kịch liệt gi­ao chiến phía trên mặt hồ máu chảy đỏ ngầu hòa lẫn vào dòng nước cứ trôi bập bềnh lờ lững.

Thủy quân chiến thuyền vừa tới, Khánh Kỵ lập tức phân binh lên thuyền, hướng về núi Phu Thu mà phát động tiến công toàn diện. Với thế trận tiến công như thế, đại quân của Phù Khái cuối cùng cũng không thể địch lại được, Khánh Kỵ lại sử dụng kế tâm lý chiến, phất vương kỳ của đại vương mà hướng về phía quân lính Phù Khái kêu gọi đầu hàng, binh mã của Phù Khái dưới sự lạm quyền của chủ tướng mặc dầu trên chiến trường tất thảy đều không có gan công nhiên tạo phản, nhưng sĩ khí lúc này đã giảm sút đáng kể, một góc núi Phu Thu đã bị A Cừu lãnh binh chiếm lĩnh, thần tốc trấn giữ trận địa, sau đó tiếp tục sai quân lính dùng ván thuyền, bắt ngang qua đảo, bắt đầu đưa quân qua tác chiến.

Phù Khái áo khoác ngoài tả tơi, mắt đỏ ngầu đứng trên đỉnh núi, hướng nhìn vương kỳ của Khánh Kỵ từ xa, bất ngờ chộp lấy cung tên từ trong tay của một tên đại vệ, giương cung nhắm về hướng vương kỳ kia, nhưng sau một lát lại chán nản hạ xuống, hắn buông tay ra, cung tên từ tay hắn rơi xuống đất.

“ Đại tướng quân!” Mâu Kỳ Xá toàn thân đầy máu chạy lên núi nói: “ Đại tướng quân! Núi Phu Thu thực tại không giữ được rồi, chúng ta mau chạy thôi.”

“ Chạy ư? Còn biết chạy đi đâu nữa?” Phù Khái mở miệng cười nhưng nụ cười của hắn còn khó nhìn hơn là khóc nữa.

Mâu Kỳ Xá vội nói: “ Đại tướng quân sao lại chán nản như vậy chứ? Núi xanh còn lại, không sợ không có củi đốt! Khánh Kỵ một năm trước giống như con chó mắc tang gia, đến nay không phải hắn lại có thể hô gió gọi mây đó sao? Không nói thiên hạ chư hầu vẫn còn một nửa đứng về phía chúng ta, vẫn ở dưới mắt, vẫn ở trong nước Ngô, chúng ta vẫn còn thành Cô Tô, vẫn còn Tư Môn Sào tướng quân đóng quân tại Cưu Từ, vẫn còn Việt quốc Câu Tiễn, chúng ta không sợ gì không có cơ hội.”

Phù Khái yếu ớt nói: “ Thành Cô Tô tự thân nó khó giữ được, Phù Sai không dám mạo hiểm xuất thành, Tư Môn Sào nước xa khó dập được lửa gần, ngay cả Việt quốc Câu Tiễn…”

Thần kinh của hắn đột nhiên kích động, khuôn mặt uất hận nói: “ Tên tiểu nhân gi­an xảo hai mặt ba đao này, ta xem hắn cổ rắn đầu chim, mắt chim ưng nhìn như sói, không nên tin hắn là một tên quân tử có thể đồng cam cộng khổ được! Khuyên ta rời bỏ Nam Vũ thành, thoát khỏi sự truy sát của Tôn Vũ, khuyên ta bất ngờ tấn công Khánh Kỵ cũng là hắn, ta bị Khánh Kỵ đánh cho tơi bời, ngay lúc đó đã muốn quay về Hàn Ấp, hắn lại khuyên ta cướp thuyền mà đi đường thủy chạy về núi Phu Thu, hắn nói cái gì mà cùng ta phối hợp bản tướng quân tấn công Khánh Kỵ, trận chiến hôm nay xảy ra tại núi Phu Thu, nhưng ta ở đây tình thế nguy cấp, sống dở chết dở, nhưng người của hắn ở đâu? Binh lính của hắn ở đâu?”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 222: Người cần đủ hung ác (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Phù Khái khàn giọng gào lên, nói đến đây khuôn mặt hắn bỗng chuyển biến thần sắc, nắm chặt lấy cổ áo của Mâu Kỳ Xá, sợ hãi nói: “ Kỳ Xá, ngươi xem…ngươi xem tên Câu Tiễn đó có phải ngay từ sớm đã đầu hàng dưới trướng Khánh Kỵ rồi, có phải hắn đã có ý dẫn chúng ta vào con đường chết thế này rồi.”

“ Việc này…” bị Phù Khái chất vấn, Mâu Kỳ Xá cũng không giấu được vẻ hoài nghi, nếu quả thật Câu Tiễn đã quy hàng dưới trướng Khánh Kỵ…, không thể như thế, Câu Tiễn đích thân đến bàn bạc đại kế, đã từng mang theo thư tín viết tay của thái tể Bá, chẳng lẽ nào…chẳng lẽ nào Bá cũng đã quy hàng dưới trướng Khánh Kỵ?”

Mâu Kỳ Xá hoài nghi bất định, Phù Khái đã bỏ cổ áo của hắn xuống, nghiến răng tức giận mà nói: “ Tên tiểu nhân Câu Tiễn, ta không giết hắn, thì khó mà hả cơn hận này!”

Hắn quay đầu hung tợn quát: “ Người đâu, mang tên tín sứ nước Việt kia ra chém đầu cho ta!”

Tên tín sứ nước Việt kia lúc Phù Khái đang bị bao vây tháo chạy, hắn đã tìm đến doanh trại của Phù Khái, thuyết phục Phù Khái phát binh đến núi Phu Thu. Hắn không phải đến một mình, trong tình hình loạn lạc muốn tìm đến Phù Khái, sự an nguy của bản thân cũng là một vấn đề, bọn họ gồm hơn mười tên, tùy theo hành động của đại quân Phù Khái mà cùng chạy đến đây.

Trong doanh trại của Phù Khái, bọn họ thân là khách nhân,nên nhận được sự trọng đãi rất hậu hĩnh, nhưng lúc này Phù Khái vừa hạ lệnh, bọn họ lập tức biến thành tù nhân, bị thân binh của Phù Khái áp tải lên phía trước giống như hổ đuổi chó sói.

“ Giết hết bọn chúng cho ta!” Phù Khái lạnh nhạt nhìn bọn họ, nghiến răng tức giận hạ lệnh.

“ Xin hãy dừng tay!” trong đám tín sứ có một tên dưới cổ có sợi râu hổ, mày báo mắt cọp, hình dáng có vẻ uy vũ. Tự tìm đến Phù Khái, thẳng thắn gi­ao tiếp với Phù Khái.

Phù Khái cười nhạt: “ Tên tiểu nhân Câu Tiễn, bội tín nuốt lời, các ngươi là tín sứ của hắn, lại chết dưới kiếm của bản tướng quân thì không oan ức đâu, các ngươi còn có gì muốn nói nữa?

Tên kia cung kính đáp lại: “ Đại tướng quân nói vậy là sai rồi, người Việt không có kẻ nào mà tham sống sợ chết cả, đại tướng quân tất gì mà lấy cái chết hù dọa chúng tôi? Chỉ là, chết thì chết cho chính đáng, nếu như bị đại tướng quân giết oan như vậy, dù cho có xuống dưới cửu tuyền, chúng tôi cũng không thể tâm phục tướng quân được. Thái tử nước Việt, nói lời tất phải thực hiện, ngài ấy đáp ứng cùng với Phù Khái tướng quân tiến công Khánh Kỵ, một cuộc chiến mà phạt, lại quyết không nuốt lời, cớ gì đại tướng quân lại trách cứ Thái tử nước chúng thần là bội tín nuốt lời chứ?”

Phù Khái hướng lên trời cười một tràng dài, lạnh nhạt đáp: “ Hôm nay núi Phu Thu khó mà giữ được, vậy vị thái tử nói lời giữ lời của quý quốc bây giờ đang ở đâu?”

Tên kia cũng cười lạnh nhạt, từng từ từng từ đáp lại: “ Bẩm báo đại tướng quân, thái tử nhà chúng thần…hiện tại đang ở Ô Trình.”

Phù Khái ngạc nhiên: “ Sao? Hắn đang ở Ô Trình?”

Phù Khái ngớ người một lúc, mặt hầm hầm nổi giận, quát lớn: “ Hắn làm gì ở Ô Trình? Hiện tại Khánh Kỵ phát binh đến tấn công ta, viện binh của Tôn Vũ cũng sắp đến ở phía sau, đúng là trời ban cho hắn cơ hội tốt, hắn lại phái ngươi đến thông báo cho bản tướng quân phát binh đến núi Phu Thu để dụ Khánh Kỵ vào tròng, nhưng bây giờ hắn lại ở Ô Trình, đây là ý gì hả?”

Tên tín sứ kia không một chút sợ hãi, điềm nhiên đáp lại: “ Thái tử ở Ô Trình đang giăng một mẻ lưới lớn, trên trời bắt con chim bay, dưới nước bắt con cá lội.”

Phù Khái mặc dầu trong lòng đang phẫn nộ, nhưng câu này hắn vẫn nghe rõ, lúc này mới giương mắt hoài nghi, hỏi: “ Ngươi nói rõ hơn xem!”

Tên kia hướng về Phù Khái cung kính, thần thái ung dung, không mảy may nghe thấy âm thanh thần sát đang vọng đến bên tai, hắn đáp: “ Binh mã nước thần nhận được tin tức tướng quân phát binh tới thành Cô Tô, lập tức từ trên núi Thiên Mục hành quân đến tiếp ứng tướng quân, không biết làm thế nào mà tướng quân lại để lộ tung tích, khiến cho bị Khánh Kỵ đánh úp bất ngờ. Thái tử nước thần không dám gấp rút tiến đến, nếu để lộ hành tung, thì sẽ mất đi tính bất ngờ của đại quân. Mọi việc vì thế mà rõ ràng không như ý muốn, thái tử tiên đoán tình hình trước mắt, lập tức lệnh cho đại quân dừng lại, bố trí trận địa mai phục, địa điểm đó là Ô Trình.”

Phù Khái lạnh lùng quát: “ Nếu đã như vậy, ngươi nên nói cho bản tướng quân di binh tới Ô Trình, cớ sao lại dẫn ta tới núi Phu Thu tại Ngũ Hồ ?”

Cùng với tiếng hét lớn cỉa Phù Khái, binh sĩ hai bên trái phải lập tức rút kiếm, âm thanh phát ra leng keng, kiếm đã được đặt lên đầu của đám tín sứ kia.

Tên kia vẫn ung dung cười đáp lại: “ Tướng quân lãnh binh nhiều năm, kinh nghiệm chiến trận phong phú, có cần thiết tại hạ giải thích qua như vậy không? Tướng quân mới thất bại, mà sĩ khí đại quân của Khánh Kỵ đang mạnh, cho dù có đại quân của thái tử tương trợ, nếu chính diện gi­ao chiến thì cũng không phải là đối thủ của Khánh Kỵ. Nếu muốn dẫn Khánh Kỵ vào trận địa mai phục của ta, thì cũng cần phải có thời gi­an sắp xếp. Hơn nữa, nếu tướng quân trực tiếp lãnh binh chạy về Ô Trình. Khánh Kỵ cho dù đuổi theo, cũng khiến hắn tất phải cẩn thận, nếu như vậy thì làm sao chúng tôi có thể khiến cho Khánh Kỵ lọt vào trận địa mai phục được chứ?”

Phù Khái râu tóc đều dựng đứng lên, hai mắt đỏ ngầu, nghiến răng nghiến lợi mà quát lớn: “ Tên thất phu Câu Tiễn! Do vậy, mà hắn muốn đem bản tướng quân ra làm miếng mồi cho bọn chúng sao?”

Phù Khái thần khí nổi giận khiến toàn thân rung lên: “ Đại quân của ta phải làm sao? Hiện tại Khánh Kỵ đã vây khốn núi Phu Thu, nơi này không thể nào giữ được nữa, đại quân của ta phải làm sao đây? Chẳng lẽ nào lại chôn vùi tất cả tại đây sao? Ngươi…những tên tiểu nhân đê tiện kia!”

Tên kia nghiêm mặt nói: “ Tướng quân, muốn làm được việc lớn, tất phải hi sinh nhiều người, nhưng chỉ cần giết được Khánh Kỵ, thì sự hi sinh lớn lao đó cũng đáng. Nếu chính diện tác chiến, đại quân của tướng quân tất cả đều hi sinh trên chiến trường, nhưng điều đó có làm đại quân Khánh Kỵ thương vong tí nào không? Vạn lần không thể! Tướng quân, ngài xem, Khánh Kỵ đã bị tướng quân thu hút đến Ngũ Hồ, nhưng hắn thân là Đại vương, thủ hạ tướng quân há nào để cho hắn xem nhẹ thân mình mà xông pha nguy hiểm được chứ? Hắn lúc này cứ yên ổn ngồi trong doanh trại, vững như núi Thái Sơn. Nếu tính toán chúng ta đột ngột xuất kì binh, đánh cho binh mã của hắn kinh hồn lạc địa, thì thủ hạ tướng quân của hắn cũng yểm hộ hắn ung dung mà chạy về bên ngoài thành Cô Tô, nếu hôm nay cho dù hắn có chiến bại, thì cũng không thể thay đổi được thế yếu của ngài đâu.”

Tên kia đưa tay gỡ lấy thanh kiếm đang đặt trên cổ mình xuống, bước tới vài bước, tới bên cạnh Phù Khái, ghé sát người hắn nói nhỏ chỉ đủ cho hai người nghe: “ Nhưng mà nếu tướng quân đại bại tại núi Phu Thu lần này, chỉ dẫn theo vài người chạy trốn, Khánh Kỵ cho dù có dụng binh như thần, hoài nghi rất lớn, cũng làm sao có thể nghi ngờ rằng tướng quân lấy thân mình làm mồi nhử, muốn dụ hắn vào tròng? Từ xưa đến nay, chưa từng có vị tướng nào tự chôn vùi binh lính của chính mình, mà thường mượn lực ở bên ngoài để thiết lập mai phục, nguyên nhân là vì chưa có ai làm vậy, cho nên mới có thể dùng được. Khánh Kỵ cùng các binh tướng của hắn tuyệt đối không thể ngờ được điều này, lúc đó…hắn nhất định trúng kế. “

“Keng!” Tên kia còn chưa nói xong, một thanh kiếm sắc bén đã đặt ngang vào cổ hắn, thanh kiếm sắc bén kia lướt một nhát qua da thịt hắn, phun ra một tràng máu tươi. Nhát kiếm khiến hắn dựng tóc gáy, da gà nổi lên từng cục, nhưng khuôn mặt của hắn vẫn giữ được vẻ bình tĩnh.

Phù Khái nghiến răng ken két nói: “ Thì ra việc này đều là chủ ý của các ngươi, muốn đem Phù Khái ta ra làm mồi nhử, dẫn Khánh Kỵ vào trận địa mai phục! Khánh Kỵ lúc đó bị trúng kế, đại quân của ta cũng không còn một tên, Khánh Kỵ chết đi, khiến cho binh mã hắn vì thế mà loạn lạc tan ra, nước Việt các ngươi vì thế mà ngư ông đắc lợi, phải không?”

Tên kia bình tĩnh cười đáp: “ Thua thì cũng thua rồi, tướng quân sao cứ nói như vậy? Chẳng lẽ lại sợ Khánh Kỵ thế sao? Thất bại nhất thời, mất quân nhất thời, nhưng đổi lại được cái đầu của Khánh Kỵ. Hai bên một mạnh một yếu, thần tin rằng tướng quân sẽ hiểu rõ điều đó. Lúc đó nếu Tướng quân muốn xưng vương, thu về vẹn toàn gi­ang sơn nước Ngô, thì cũng dễ như trở bàn tay mà thôi.”

Phù Khái hắc lên một tràng cười nhạt: “ Cứ cho rằng Khánh Kỵ chết đi,rồi như thế nào nữa? Lúc đó bên cạnh bản tướng quân chỉ là một đám tàn binh bại tướng ít ỏi mà thôi, thế thì nước Ngô này…kẻ nào sẽ chiếm lĩnh đây ? Là nước Việt ngươi, hay là tiểu nhi Phù Sai kia? Cái gì mà bản tướng quân xưng vương, lúc đó ta đã thành cô gia quả nhân rồi, dựa vào cái gì mà xưng vương được chứ? Hay là chỉ dựa vào một câu nói của Câu Tiễn?”

Tên kia cũng cười nhẹ đáp lại: “ Tướng quân nên biết rằng, lấy được nước Ngô không dễ dàng như hạ được nước Sở, nước Việt cũng không thể hạ được nước Ngô, nếu lấy nguồn lực của Việt quốc mà nói, thì có năm lần bảy lượt tấn công nước Ngô, chỉ mong kiếm được cơm ăn, tiền xài thôi, còn gi­ang sơn nước Ngô thì không thể được. Lúc đó Khánh Kỵ chết đi, chúng thần tuyệt đối ủng hộ tướng quân làm Ngô vương, đến lúc đó Ngô quốc trên dưới, còn có kẻ nào uy tín hơn tướng quân chứ, lúc đó tướng quân một người hô trăm người theo, thiên quân vạn mã, kêu gọi tập hợp lại. Tin rằng sau khi xưng vương, Tướng quân sẽ kết gi­ao hảo hữu với nước Việt chúng thần, nước Việt không cần gì nhiều, nguyện vọng lấy lãnh thổ nước Việt đổi lấy một vùng đất khác cùng diện tích mà có thể hướng lên phía bắc Trường Gi­ang, gi­ao thông với Trung Nguyên, nước Việt nghèo nàn chỉ mong muốn như thế là được rồi… Đại nhân thái tể Bá của quý quốc hiện đang ở cùng với thái tử nước thần, Bá đại nhân chính là thái tể của nước Ngô, và lại là hảo bằng hữu với tướng quân, thần tin rằng ngài ấy sẽ rất vui khi nhìn thấy tướng quân xưng vương. Tướng quân của quý quốc Tư Môn Sào ở núi Thiên Mục khởi chiến, giương cao vương kỳ, nha kỳ giả mạo làm Hạp Lư đại vương muốn thu hút Khánh Kỵ truy binh, không ngờ lại bị lộ ý đồ. Hắn vội chuyển ý muốn chạy về Hàn Ấp nương nhờ tướng quân, nhưng không ngờ lại rơi vào trận nghi binh của Tôn Vũ, mới kinh hoàng mà chạy đến Cưu Từ, đến nay Bá đại nhân đã đến Cưu Từ rồi, triệu tập binh mã của hắn đến, đang mai phục tại Tây Điêu Khê, đại quân này, sẽ là nền móng của tướng quân đó.”

Phù Khái mặc dầu hận thấu xương Câu Tiễn lợi dụng hắn như vậy, nhưng nghe đến đây vẫn không giấu được vẻ dao động mạnh, hơn nữa hắn hiện tại đã trúng kế lạc vào bước đường cùng này rồi, thực tại cũng không còn đường nào mà chạy nữa. Tư Môn Sào là thần tử của Hạp Lư, đồng thời cũng là bộ hạ thân tín nhiều năm của hắn, con người này đối với nước Ngô tuyệt đối trung thành, tuyệt đối không hề nương nhờ vào nước Việt. Nếu văn có thái tể Bá, võ có Tư Môn Sào, thì cho dù đại quân tại núi Phu Thu có tan rã, thì sau này có thành lập đại quân khác cũng không quá khó khăn.

Tên tín sứ kia nhìn thấy Phù Khái đã có ý tâm động, cười nhẹ nói: “ Ô Trình phía sau dựa vào núi Thiên Mục, bên trái là Tây Điêu Khê, bên phải là Đông Điêu Khê, hai dòng chảy đổ vào Thái Hồ, quả là một trận địa mai phục hoàn mĩ, chỉ cần tướng quân thành công thu hút được Khánh Kỵ đuổi tới đó, thì thái tử nước thần sẽ dễ dàng cắt đứt viện trợ từ phía sau của hắn, lúc đó thì sẽ dễ dàng chặt đứt cái thủ cấp của Khánh Kỵ.”

Phù Khái lúc này hận tên Câu Tiễn kia đến nỗi ngàn đao vạn kiếm đâm chết hắn mới hả giận được, nhưng…con người Câu Tiễn phải đến lúc này mới lộ ra được kế hoạch của mình, nhưng xem lại hắn lúc này, cho dù có vạn lần không muốn, thì cũng không có con đường thứ hai để lựa chọn. Nghe trong kế sách của Câu Tiễn, hắn vẫn còn khả năng lật ngược thế cờ, còn nếu không nghe theo, thì toàn quân của hắn sẽ bị tiêu diệt ngay tại đây. Không chấp đây có phải là một canh bạc của hắn, không chấp hắn có phải là một người thông minh hay không, tình hình lúc này, chỉ còn có một con đường thôi, hắn có chọn con đường này không?

Tên kia nhìn thấy sắc mặt Phù Khái, trong mắt hắn hiện lên một vẻ đắc ý nói: “ Phù Khái tướng quân, thái tử điện hạ còn có một việc sai thần bẩm báo với tướng quân, muốn mưu cầu việc lớn, thì cần phải không tiếc thứ gì, phải biết nhẫn nại, tàn độc với kẻ khác, đối với bản thân mình càng tàn độc hơn! Đến nay tình thế nguy cấp, đi đâu về đâu, tướng quân cần sớm quyết định. Tại hạ thượng tướng quân nước Việt Linh Cô Phù, xin chờ quyết ý của tướng quân!”

Phù Khái vô cùng ngạc nhiên, hắn lập tức quay đầu lại hướng ánh mắt nhìn vào tên tướng quân râu tóc xuề xoà kia, trong mắt phát ra thứ ánh sáng dữ dằn vô cùng hung tàn nhìn hắn…

Tin tức Phù Khái lên thuyền rời khỏi được chuyển đi, đạo quân tử thủ tại núi Phu Thu lập tức bị tan vỡ, toàn bộ núi Phu Thu đã bị đại quân Khánh Kỵ khống chế, Yểm Dư, Xích Trung đích thân dẫn binh lên đảo tiêu diệt toàn bộ đám tàn quân, tình hình chiến trận dần dần ổn định, việc thu phục toàn bộ núi Phu Thu giờ chỉ còn là vấn đề thời gi­an.

“ Đại Vương, Phù Khái đã lên thuyền rời khỏi đây rồi, có khoảng mười chiếc thuyền, hơn bốn trăm lính đi cùng hắn…” Một tên lính đưa ngón tay dài chỉ về phía khe suối hẹp kia, hướng về phía Khánh Kỵ đang đứng trên đầu thuyền bẩm báo. Ánh mặt trời chiếu nghiêng xuống, khiến cho những rừng cây cỏ trên núi in bóng xuống dòng suối hẹp kia biến thành một màu đen nhánh như màu mực tàu, hiện lên một không gi­an vắng vẻ, im lìm.

“ Đuổi theo! Không được để Phù Khái chạy thoát lần nữa, khi cầm được thủ cấp của hắn trên tay, lúc đó toàn quân ta mới toàn thắng được!” Khánh Kỵ không suy nghĩ, lập tức phát động tướng lĩnh, chiến hạm của Khánh Kỵ giương cao cờ lệnh tăng tốc đuổi theo, đồng thời điều chuyển hướng thuyền quay hướng theo Phù Khái mà truy đuổi. Hai chiếc đại chiến hạm ở hai bên cánh, bốn chiếc mâu thuyền cũng theo hướng đó mà đuổi theo, hai chiếc thuyền lớn kia lãnh nhiệm vụ quanh quẩn bên chiến hạm Khánh Kỵ ở phía trước mà cảnh giới, giống như một chiếc thuyền đánh cá. Đi trước xâm nhập thủy đạo.

“ Phương hướng mà Phù Khái chạy, là nơi gi­ao nhau giữa hai nhánh đông tây sông Như Khê!” Khánh Kỵ đứng tại nơi cao nhất trên chiến thuyền, hướng về phía xa kia trên mặt hồ mà nói vọng xuống. Nước Ngô rất trọng thị thủy chiến, Khánh Kỵ cũng từng luyện binh tại Thái Hồ, không những am tường kĩ thuật thủy chiến, mà đối với địa hình Thái Hồ này còn rõ như lòng bàn tay, đây cũng là lí do mà khi nghe nói Phù Khái chạy đến núi Phu Thu, hắn chưa chuẩn bị gì nhiều mà dám truy sát đến.

“ Phù Khái nắm lấy con đường này mà chạy, có ba khả năng. Thứ nhất, từ Đông Điêu Khê chạy về nước Việt, rồi tại đây mà triệu tập đám tàn binh, tranh thủ sự giúp đỡ của nước Việt, lại tiếp tục quay về đánh trả nước Ngô. Hai là, từ Tây Điêu Khê chạy về hướng Cưu Từ, hợp binh cùng với Tư Môn Sào ở đó. Ba là, trốn vào núi Thiên Mục, thoát khỏi sự truy đuổi của chúng ta, sau đó tìm mọi cách quay về thành Cô Tô…” Khánh Kỵ nói đến đây, đưa tay phủi bụi trên áo khoát ngoài, quay đầu lại hạ lệnh: “ Truyền lệnh, lệnh cho Yểm Dư, Xích Trung nhanh chóng bình định tình hình tại núi Phu Thu, sau đó tiếp tục truy đuổi theo sau; lệnh cho Nhâm Thành Kiệt dẫn quân men theo đường bộ, hỏa tốc đến Ô Trình, cắt đứt mọi con đường thông đến Đông Điêu Khê và Tây Điêu Khê, ngăn cản Phù Khái chạy tới đó; Lệnh cho đại quân của Tôn Vũ từ phía sau truy đến lập tức dẫn quân tiếp viện đến Ô Trình, phải huy động lực lượng toàn công đến đó.”

Quan thư kí vội vàng ghi vào mệnh lệnh của Khánh Kỵ, sau đó lập tức sắp xếp, chỉ sau một lát, vài chiếc thuyền đã tỏa ra những hướng khác nhau mà mang thánh chỉ truyền đi.

A Cừu xắn tay áo nói: “ Đại vương, hà cớ gì phải cẩn trọng như vậy, Phù Khái hiện tại không quá mười chiếc thuyền, ba bốn trăm tên, chúng ta như vậy cũng có thể tiêu diệt được hắn rồi, Khà Khà! Phù Sai hiện tại chỉ là thứ yếu, Phù Khái mới là kình địch của đại vương, chỉ cần lần này giết được hắn, đại nghiệp của đại vương lúc đó đã định đoạt rồi.”

Khánh Kỵ cười nheo mày nói: “ A Cừu người chớ có khinh địch, Câu Tiễn cùng với binh mã hắn hiện tại vẫn chưa biết được tung tích hắn, trong lòng ta hiện tại có chút bất an…”

Tái Cừu cười nói: “Đại quân của chúng ta đang đi theo đường bộ truy đuổi đến, cứ cho rằng nếu gặp Câu Tiễn, thì quân của hắn cũng không làm được việc gì, hiện tại Phù Khái chỉ còn vài trăm tên bại tướng, người Việt đã từng là thủ hạ bại tướng của nước Ngô ta, bọn chúng có thể làm được gì chứ? Đại vương, mạc tướng xin được lãnh ấn tiên phong, đánh trận này giết tên Phù Khái để lập đại công.”

Khánh Kỵ lắc đầu cười nói: “Cẩn trọng thì cũng cần phải cẩn trọng rồi, quả nhân lại không đa nghi như Tào Tháo, nhìn phía trước là một miếng thịt mỡ sao lại không ăn chứ, sao lại có thể đứng đó mà nhìn thấy hắn thuận lợi chạy trốn được. Làm việc gì cũng phải cẩn thận thì chắc việc gì cũng không dám làm quá, ha ha, ngươi đi đi, cần phải dũng cảm mà đuổi hắn đến cùng, mong ngươi lập được công lớn trong cuộc chiến này!”

A Cừu chắp tay nói: “ Đại vương xuất khẩu thành văn, mạc tướng khâm phục!”

Khánh Kỵ như đi guốc trong bụng hắn, cười mắng: “ Ngươi chỉ giỏi nịnh thôi, mau mau đuổi theo, giết được Phù Khái, lúc đó mới thảnh thơi mà vui vẻ được.”

A Cừu nhận lệnh nói lớn: “ Tuân mệnh!” lập tức hướng về đám binh sĩ quát: “ Gia tăng binh lực, giương buồm lên, truy đuổi tên Phù Khái kia, giết được hắn huynh đệ ta sẽ lập được công lớn.”

Phía dưới thuyền đám lính răm rắp tuân mệnh, ra sức chèo thuyền, theo hướng gió mà đi, hướng về phía Ô Trình thần tốc khởi hành…

Nhìn về hướng Ô Trình, đội thuyền của Phù Khái phía trước đã lạc ra khỏi tầm mắt, Tái Cừu lãnh ba chiếc thuyền chiến truy sát không ngừng nghỉ. Lúc này hướng gió không thổi theo như ý, nhưng điều chỉnh góc độ của cánh buồm thích hợp, sức gió cũng giúp thuyền đi nhanh hơn, do vậy mà đội thuyền của Khánh Kỵ đi rất nhanh.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 223: Cận thân gi­ao chiến (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

“ Thần tốc hơn nữa đi!” Khánh Kỵ đứng trên đỉnh thuyền lầu, nhìn thấy Tái Cừu ở cánh trung đang dần dần đuổi kịp Phù Khái, tim hắn cũng không ngừng đập liên hồi. Khổ cực đã lâu lắm rồi, trải qua nhiều cuộc chiến sinh tử, du thuyết Lỗ quốc Tam Hoàn, Tề quốc thí giết Cơ Trù, Vệ quốc tham dự chính biến, kết gi­ao với nước Sở, lại đến cục diện nước Ngô hiện nay rối rắm phức tạp, loạn lạc không ngừng…, tất cả những nỗ lực và trả giá, đều mong đạt được mục đích báo thù, chỉ cần Phù Khái chết đi, nguồn viện binh bên ngoài thành Cô Tô không còn nữa, thì việc chiếm được thành Cô Tô chỉ ở vấn đề là dùng phương pháp hòa bình hay vũ lực mà thôi, lúc đó nước Ngô, tất thảy đều là của hắn rồi.

Mặt trời đã chuyển sang hoàng hôn, ánh nắng chiều chiếu xuống mặt nước tạo nên một cảnh tượng lung linh huyền ảo, từng đoàn thuyền bơi qua, khiến mặt nước dao động, làm cho một nửa mặt nước nhấp nhô, còn nửa kia mờ mờ ảo ảo, tạo nên cảnh tượng tiêu điều đầy vẻ sát khí. Đội thuyền của Phù Khái nhìn thấy bị truy đuổi đến gần, bốn chiếc thuyền nhỏ ở sau cùng phân thành hai hướng, tạo thành một nửa hình vòng cung, tấn công vào ba chiếc thuyền ở cánh trung của hai bên Tái Cừu.

Vừa nhìn thấy thuyền địch quay lại nghênh chiến, đội thuyền cảnh giới phía trước vội vàng sáp lại gần nhau hơn, ba chiến thuyền của Tái Cừu lập tức hạ tốc độ, chuẩn bị nghênh chiến. Bốn chiếc thuyền nhỏ của Phù Khái mỗi chiếc dài chín trượng, trên thuyền bố trí mười tên binh sĩ, ngoài hai vị danh tướng trên thuyền, thì còn lại tám tên lính trong tay đều thủ sẵn cung tên, trường mâu, đại rìu, tạo thành một lá chắn ngay bên mạng thuyền, như vậy có thể tránh được cung tên của quân địch, lại có thể từ trong những khe hở của lá chắn đó mà bắn tên ra bên ngoài.

Lúc này thuyền đã vào đến dòng chảy của Ô Trình, dòng chảy nhỏ hẹp, khiến cho những chiến thuyền tầm trung và tầm lớn của Khánh Kỵ hành động không tiện, nhưng ngược loại thuyền nhỏ của Phù Khái lại hoạt động rất linh hoạt, trên thuyền của Tái Cừu lại vừa mới bắn ra một trận mưa tên, sau đó dồn các chiến thuyền đối phương vào một góc, rồi hướng về phía đó mà tiếp cận, xông lên.

“ Tiếp chiến” Tái Cừu tay cầm kích, chuẩn bị tinh thần để nhảy qua thuyền đối phương tác chiến, hai chiến thuyền càng tiếp cận gần nhau hơn, một loạt cung tên thứ hai với số lượng nhiều hơn nhằm hướng lá chắn của đối phương mà bay đến, lúc này cung tên đã không còn hiệu lực bao nhiêu, tức thì đại quân của Tái Cừu trên thuyền tay cầm đại kích hướng xuống thuyền Phù Khái mà nhảy xuống gi­ao chiến loạn xạ, đám lính phía dưới vội vàng đứng dậy, có tên dùng trường mâu phản công lại, có tên dùng đại rìu liên hồi chém vào thuyền của Tái Cừu.

“ Đừng quan tâm đến mấy cái thuyền nhỏ, xông lên, không được để cho Phù Khái chạy lên bờ!” Khánh Kỵ hét lớn hạ lệnh, lính thị vệ trên hai chiếc thuyền lớn lập tức vứt bỏ vài chiếc thuyền nhỏ, rồi hướng tiếp cận với thuyền Phù Khái.

Phù Khái ở trên một chiếc thuyền lớn, tổng cộng có khoảng 34 tên lính tay cầm cung tên, trường mâu, đại rìu , thủy thủ có 50 người, cầm tay chèo 3 tên, quan lại, tùy tùng, xạ thủ, trường mâu….các cấp quan quân chỉ huy mỗi đội một người, lúc này trên thuyền tổng cộng 91 người, như thế thuyền của hắn cũng thuộc dạng một chiến thuyền cỡ lớn.

Trong mưu ý của Khánh Kỵ. Một chiếc thuyền lầu, một chiếc thuyền chiến chia nhau ra bắn cung tên, trận mưa tên tập trung hướng vào dòng sông nhỏ kia, chiến thuyền của Phù Khái đang muốn tiếp cận vào bờ để lên đất liền như thế sẽ bị mưa tên của Khánh Kỵ khiến cho hắn phải quay thuyền lại dòng sông. Lúc này những chiếc thuyền nhỏ đang trốn chạy trong chu vi thuyền chiến của Phù Khái lập tức quay lại tấn công, nhằm hi vọng tạo cơ hội cho Phù Khái mở đường máu thoát lên bờ. Hai chiếc đại chiến thuyền của Khánh Kỵ ở hai cánh lập tức vượt lên, trong lúc hai bên đang rơi vào trận chiến, thuyền lầu của Khánh Kỵ đã tiếp cận được, lập tức áp sát vào chiến thuyền chủ của Phù Khái.

Chiếc đại thuyền lầu kia chạy nhanh qua, đâm mạnh vào một chiếc thuyền nhỏ của Phù Khái. Mười tên lính trên thuyền lúc này đều rơi tõm xuống nước, cũng may là bọn chúng đều biết bơi, lập tức bơi đến những chiến thuyền gần đó, đám lính trên thuyền đưa kích, mâu xuống cho bọn chúng đu lên.

Thuyền lầu của Khánh Kỵ đâm sầm vào chiến thuyền của Phù Khái phát ra âm thanh “ Ầm ầm” , cú va chạm khiến cho người ở hai chiến thuyền đều lắc lư, Khánh Kỵ hai mắt trừng trừng hung dữ, quát lớn: “ Mau bắt ván thuyền, vượt thuyền tác chiến!”

Thuyền lầu của Khánh Kỵ cao hơn một đoạn so với thuyền của đối phương, hai chiếc thuyền cọ sát vào nhau, tạo thành tiếng ma sát “ két két” vang lên, sau đó do lực tác dụng của nhau mà hai chiếc thuyền tách ra xa. Binh lính trên thuyền Khánh Kỵ lập tức sử dụng trường mâu, ra sức móc vào chiến thuyền của đối phương để giữ lại, nhờ vậy mà hai chiến thuyền lại sáp vào nhau. Sau đó vài chục tấm ván thuyền được đặt qua giữa hai chiến thuyền.

Khánh Kỵ từ trong tay của một tên tùy tùng chộp lấy trường mâu, rồi thắt chặt lại chiếc khăn đang quấn trên cổ, chiếc áo khoác màu hồng lửa bay phập phù theo gió giữa không trung, Khánh Kỵ hét lớn: “ Theo sau ta truy giết Phù Khái!”

Giữa hai chiến thuyền, đại quân trên thuyền Khánh Kỵ đang liều mình muốn nhảy xuống thuyền của đối phương, đám lính trên thuyền Phù Khái lúc này lại dùng vũ khí ra sức cự địch. Từ bốn hướng những chiếc thuyền nhỏ áp sát lại cứu trợ Phù Khái đã bị những chiến thuyền nhỏ ở một hướng khác của Khánh Kỵ chạy lại tiếp ứng ngăn cản không cho bọn chúng tiếp cận. Trong lúc hai bên đang gi­ao chiến quyết liệt trên đại thuyền, do dòng chảy ở đây chật hẹp, chiến thuyền ở phía sau đều không có cách nào chen lên mà tiếp cận tới được, dòng chảy lúc này đã bị tắc nghẽn hỗn loạn không ngừng.

Khắp nơi đều vang lên âm thanh chém giết, khắp nơi đều là cảnh tượng giáp lá cà gi­ao chiến, Phù Khái khẩn trương nắm chặt lấy thanh trường mâu trong tay, hướng ánh mắt nhìn vào rừng cây xanh tốt ở hai bên bờ cách đó khoảng một trăm trượng, hắn quay lại nhìn Linh Cô Phù hét lớn: “ Câu Tiễn đang ở đâu hả?”

Linh Cô Phù nhìn hai bên, đang muốn đáp lời, thì nghe có tiếng gào thét ở phía xa kia, trên thượng du của dòng sông có khoảng hơn hai mươi chiếc thuyền cá nhỏ dày đặc cả dòng nước, đang thuận dòng nước mà hướng đến đây, trong rừng hai bên bờ sông cũng xuất hiện nhiều người lao ra như tên bay, đang cuồn cuộn hướng về phía hắn.

Người Việt vốn bần cùng, binh lính không có quân phục thống nhất, hơn nữa trong gi­ai đoạn nước Ngô hiện nay, bọn họ trèo đèo lội suối, vượt kênh, sống trong những hang động, nên người nào cũng quần áo rách rưới tả tơi, tóc tai rối bời, lúc này xem như những người hoang dã, từng đôi chân trần lao đi vun vút trên mặt đất.

“ Câu Tiễn, người của Câu Tiễn đây rồi!”

Vừa nhìn thấy viện binh, dũng khí Phù Khái tăng lên gấp bội, hắn đưa thanh trường mâu lên, hừng hực vẻ sát khí quát lớn: “ Khánh Kỵ, hôm nay ông nội ngươi sẽ khiến ngươi bỏ mạng tại ngã ba sông này!”

Hắn nghiêng mắt nhìn Linh Cô Phù hỏi: “ Thượng tướng quân có muốn sát cánh cùng Phù Khái tác chiến không?”

Trên chiến thuyền này, Linh Cô Phù giống như một con tin của hắn, lại chịu sự giám sát nghiêm ngặt từ đám thân binh của Phù Khái, trên người lại không có một vũ khí phòng thân, Phù Khái hỏi như vậy, có nghĩa là đã hoàn toàn tín nhiệm hắn rồi.

Linh Cô Phù chắp tay cười đáp: “Được sát cánh chiến đấu cùng tướng quân, thật là vinh hạnh cho bản tướng!”

Có người vứt qua một thanh trường mâu, Linh Cô Phù đưa tay chộp lấy, vung tay một hồi, thanh mâu bay loạn xạ theo hắn, hắn và Phù Khái nhìn nhau cười một hồi, cùng nhau xông lên.

Lúc Khánh Kỵ nhảy xuống thuyền của Phù Khái, bốn bề vang lên âm thanh ‘sát’, Khánh Kỵ liền biết là không ổn. Khánh Kỵ ngay từ đầu không phải là không cảnh giới binh lính của Câu Tiễn, chỉ là Phù Khái thê thảm như vậy, thực không giống điệu bộ của một kẻ dụ dỗ đối phương vào tròng, kẻ nào mà lại độc ác đến nỗi hi sinh toàn quân tướng sĩ đã từng cùng nhau sinh tử tương tàn, biến bản thân mình thành một tên cô gia quả nhân (vua không có tướng), chỉ tính đến con đường sống cho riêng mình, lại có kẻ nào có thể bố trí một tử địa tuyệt không có đường thối lui? Phù Khái chạy trốn hóa ra chỉ là một trò lừa, mắt thấy hắn như đã nằm trong lòng bàn tay của mình, một trận chiến có thể quyết định thế cục của cả Ngô quốc, làm sao Khánh Kỵ có thể còn tâm lý đánh vững đánh chắc?

Huống hồ gì ở trận đại chiến này, đã hoàn toàn tách khỏi ý đồ tấn công bất ngờ ban đầu của Phù Khái, trừ phi đại quân của Câu Tiễn ngay từ đầu đã mật phục trong khu rừng rậm rạp tại núi Thiên Mục, nếu không thì bọn chúng từ đâu đến mà thiết lập thế trận mai phục? Xác suất xảy ra việc đó là rất nhỏ, không ngờ cái khả năng vạn lần mới có một đó đã xảy ra ở đây.

Do dòng sông chật hẹp, binh lính của Khánh Kỵ không thể nào vượt lên phía trước được, quân mật phục trong rừng vừa chạy ra, đại quân Khánh Kỵ đã biết có chuyện không hay, nên lần lượt dừng thuyền, đưa thuyền cập bờ, gi­ao chiến với đại quân nước Việt. Nhưng những chiến thuyền kia vừa cập vào bờ, thì lại không có không gi­an để di chuyển, những chiến thuyền phía sau chỉ có thể tiếp cận với thuyền trước, rồi tiếp nối với nhau lần lượt mà lên bờ. Những chiến thuyền kia có đại thuyền, trung thuyền, tiểu thuyền, thuyền độc mộc, thuyền lầu…cao thấp lớn nhỏ khác nhau, muốn cập bến để lên bờ, thì có thể không dễ dàng như ở những nơi bằng phẳng, do đó, nguồn viện binh có phần hơi chậm, tạo cho đại quân nước Việt trên bờ một cơ hội lớn, nhất thời ngăn cản nguồn viện trợ của quân Ngô.

Việt quân chạy đến phía bờ sông, trên vai còn vác theo những chiếc thuyền độc mộc, trên thuyền chất đầy những vật liệu dễ cháy như vỏ cây, dầu cá. Vừa tới bờ sông đã lập tức đẩy thuyền ra xa, dàn thành một hàng ngang dài phủ kín mặt nước, hơn một trăm chiếc thuyền dàn hàng ngang, trên đó lửa phát dữ dội, tạo nên một bức tường lửa hừng hực phủ ngang mặt nước, lúc này đã ngăn cản đại quân của Yểm Dư ở phía sau tiến lên.

Khánh Kỵ nhìn thấy tình hình này, mặc dầu không có vẻ sợ hãi, hắn lúc này biết rằng đã bị trúng kế, nhưng hiện tại hắn đang ở trên thuyền của Phù Khái, xung quanh hắn lúc này địch ta lẫn lộn, phía trên thượng du vài chục chiếc thuyền cá lại đang xuôi dòng xuống, giăng kín cả cửa sông. Bọn chúng đang dựng nên một chiếc cầu thuyền, để cho đám quân Việt đang ở trên bờ kia nhảy qua tác chiến trên thuyền. Nhưng do nguyên nhân cũng giống như quân Ngô, tốc độ lên thuyền của bọn chúng cũng không nhanh hơn từ trên thuyền xuống đất, mặc dầu trên bờ quân Việt rất nhiều, nhưng có thể gi­ao chiến với đại quân trên thuyền lại rất ít, chính vì vậy mà đại quân Khánh Kỵ lúc này vẫn giữ được thế trận trên thuyền.

“ Chỉ cần tìm thấy Phù Khái, giết chết hắn! Với võ công của ta, thoát ra khỏi trận chiến hỗn loạn này, chưa chắc không có khả năng! Viện binh của ta đang kéo đến!” Khánh Kỵ đứng suy nghĩ một lát, mắt hướng về phía chân trời xa xa kia.

Trời càng lúc càng tối, phía chân trời kia bị ánh mặt trời khuất núi chiếu sáng ánh lên một đường màu vàng óng ánh. Những đám mây lơ lửng trên triền núi hắc lên một màu đen nhánh, rất nhanh trời đã nhá nhem tối rồi. Trời vừa tối đến, khả năng hoạt động thân thủ lúc này không lớn được, Khánh Kỵ nghĩ nhân lúc chiến trận đang hỗn loạn, địch ta không phân biệt được, lúc đó mà trốn thoát thì dễ dàng như trở bàn tay. Đến lúc đó, đợi cho viện quân của hắn vừa đến, thì Câu Tiễn đừng có mơ mà tìm đường trốn thoát.

Hai kẻ thù gặp nhau, kẻ nào dũng khí hơn kẻ đó sẽ thắng!

“ Phù Khái”

“ Khánh Kỵ”

Hai địch thủ không đội trời chung bất ngờ gặp nhau ở đây, bỗng nhiên cả hai đều ngớ người. Hơn một năm trước, hai người đều là vương thất thân nhân của nước Ngô, một vị là công tử Phù Khái, một vị là công tử Khánh Kỵ, hai người đều có quan hệ chú cháu với nhau, đều là những bậc tướng lĩnh của nước Ngô. Đã từng cùng nhau diệt Sở, giết Việt, lập được nhiều chiến công hiển hách. Hôm nay sau một năm, hai người trở thành đối thủ của nhau, thế sự thật biến hóa khôn lường, đã sắp xếp cho hai người gặp nhau tại đây.

“Sát!” tức khắc ngay sau đó, ngọn giáo sáng loáng mang theo những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà vung đến, hướng vào yết hầu đối phương mà đâm thẳng vào. Chiêu thức giống nhau, miếng đánh cũng hiểm ác giống nhau, đã từng…bọn họ đã từng gi­ao chiến với nhau, nhưng không phải ở đây mà là trong võ đài của cung thành vương thất nước Ngô.

“Keng keng keng” một hồi âm thanh vang lên, hai bên thương đao chạm vào nhau, bắn lên một tràng lửa sáng rực. Linh Cô Phù giương mâu định nhảy lên gi­ao chiến, nhưng bị cặp song kích trong tay của Tái Cừu vung ra chặn lại, hai bên binh lính nhất tề xông lên, tạo thành một trận địa gi­ao chiến hỗn loạn.

“Tên ngốc Tư Môn Sào đang ra sức ngăn cản viện binh của Khánh Kỵ theo đường bộ, nhưng Khánh Kỵ đại quân rất đông, chúng ta nhất thiết phải nhanh chóng giết chết Khánh Kỵ đã!” Câu Tiễn khuôn mặt đen ốm, thân khoác chiếc áo giáp sơ sài, tay cầm một chiếc thuẫn tròn, một tay cầm thanh kiếm ngắn, ánh mắt liếc nhìn trên bờ, trên dòng sông hai bên nhân mã đang hỗn chiến với nhau, lần lượt hạ lệnh. “ Tuân mệnh thái tử điện hạ, còn tên Phù Khái nước Ngô…”

Tại góc miệng Câu Tiễn nhếch lên một nụ cười gi­an trá, cười nói: “ A! Phù Khái tướng quân không may đã bỏ mạng dưới tay của Khánh Kỵ rồi. Phù Sai điện hạ bị vây khốn ở thành Cô Tô, đã không còn tác dụng nữa, như thế khó mà thống soái được nước Ngô. Để tiếp tục cho sự tồn tại của xã tắc nước Ngô, đại nhân nước Ngô thái tể Bá sẽ phải nâng đỡ một vị công tử vương thất nước Ngô xưng vương, nước Việt ta cần phải dốc toàn lực mà giúp đỡ họ!”

“ Ách” Một tên đại tướng có chút ngạc nhiên.

Câu Tiễn cười nham hiểm nói tiếp: “ Khánh Kỵ, Phù Khái cùng chết, đương kim Ngô quốc thì kẻ nào có thể ngồi vào chiếc ghế trống kia? Phù Sai, Yểm Dư, Chúc Dung những tên này ư, như thế sẽ khiến cho nước Ngô lúc đó bị chia năm xẻ bảy ra, lúc này tất sẽ cần một vị quân chủ, nước Việt chúng ta có mối quan hệ bền vững với nước Ngô, huynh đệ láng giềng của nhau, lúc đó sẽ thuận theo thiên ý mà toàn lực giúp đỡ !”

“ Điện hạ anh minh, mạc tướng đã hiểu rõ rồi!”

Câu Tiễn ngừng cười, ghì sát giọng nói: “ Theo ta, tiến công vào chiến thuyền chủ của Khánh Kỵ!”

Một đạo quân tinh nhuệ, theo sau Câu Tiễn tiến đánh chiến thuyền chủ của Khánh Kỵ.

Cuộc chiến đang diễn ra trên chiến thuyền của Phù Khái đang vào lúc dầu sôi lửa bỏng, xác chết trên boong tàu nằm la liệt, máu chảy như suối, chân của Khánh Kỵ đã bị một nhát đâm, búi tóc bị bung ra, khiến cho đầu tóc hắn rối bời, chỉ có đôi mắt là vẫn sáng rực. Phù Khái cũng bị đâm một nhát ngay sườn, bên tay trái cũng bị một thương, trên gò má lộ ra một vết thương dài, máu từ đó mà tuôn ra xối xả, nhìn vẻ hung ác giống như quỷ dữ.

Linh Cô Phù quả là một cao thủ dùng mâu, cặp song đoản kích của A Cừu trong thời gi­an áp chế Linh Cô Phù chỉ cố gắng chống đỡ, không thể ngơi tay mà tấn công, nhưng cặp song kích nặng trịch, khó mà gi­ao chiến lâu được, khiến cho tay hắn trở nên chậm chạp lại, nên bị thanh mâu trong tay Linh Cô Phù đánh cho phải thối lui vài bước, bụng của A Cừu bị thanh mâu đâm tới tấp, mặc dầu vết thương không sâu, nhưng lại bị rách một đường dài, ruột như muốn lòi ra, được hắn vội vàng nắm chặt lại, lúc được hai tên tùy tùng chạy lại giúp đỡ nhưng hắn vẫn không ngừng nghỉ gi­ao chiến với Linh Cô Phù, không chịu thối lui một bước. Từ xa nhìn thấy, Tái Cừu nhìn thấy chủ công gặp nguy, vội vàng tiến đến tấn công đối thủ, hai huynh đệ liên thủ, chiến đấu ngang ngửa với Linh Cô Phù.

Trời càng lúc càng tối, mặc dầu có vài đống lửa, nhưng ngọn lửa không đủ lớn để chiếu sáng, muốn chiếu sáng chiến thuyền cao thế này thì cần phải tăng thêm lửa nữa, hai bên binh khí hướng đến, có lúc thậm chí không nhìn thấy rõ ràng vị trí binh đao của đối phương, bọn họ hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm chiến trận phong phú của mình mà gi­ao chiến.

“ Vương thúc, thúc già rồi, đừng nên giở trò dũng khí của bọn thất phu trước mặt ta!” Khánh Kỵ lạnh nhạt nói, đồng thời phi thân cùng với thanh trường mâu, bay thẳng về phía trước mặt Phù Khái.

Phù Khái nghiêng người thối lui vài bước, nhưng phía dưới trơn trợt khiến hắn suýt trượt ngã, vội vàng mượn thế nhảy về bên trái một bước, thanh mâu trong tay cũng nhằm vào bụng dưới Khánh Kỵ mà đâm tới, nhưng bị Khánh Kỵ thu thanh mâu về phía sau rồi tung đến vung đến đánh thẳng khiến mâu của Phù Khái văng ra xa. Võ công của Phù Khái không thể địch lại Khánh Kỵ, một lão già bốn mươi tuổi lại khó mà so gân cốt với một vị thanh niên mới ngoài hai mươi, lúc này khí lực như trâu, Khánh Kỵ một mâu đã đánh văng binh khí của Phù Khái, lại thuận thế hướng thanh mâu về phía Phù Khái khiến hắn khó mà chống đỡ, chỉ còn cách quay thân mà tháo chạy, hắn thuận tay ôm một binh lính ném về phía Khánh Kỵ, như thế mới ngăn được một mâu của Khánh Kỵ. Nhưng Khánh Kỵ thuận thế tấn công, thanh mâu lại đâm ngược lại một nhát vào phía bụng dưới của hắn, khiến hắn đau đến nổi thở hổn hển.

Cũng lúc này, Câu Tiễn dẫn một toán thân binh xông lên thuyền, Linh Cô Phù nhìn thấy không giấu được vẻ vui mừng, vừa nhìn thấy Linh Cô Phù bị hai tên đại hán dồn ép không cách nào thoát, Câu Tiễn đưa tay ra lệnh, tên tướng bên cạnh hắn lập tức hô hào một tiếng, cầm mâu xông lên, cùng với Linh Cô Phù tiếp chiến đối thủ.

Linh Cô Phù vội vàng chỉ về hướng Khánh Kỵ, lời còn chưa nói ra, thì song kích của Tái Cừu đã bổ đến, hắn vội vàng đưa hai tay cầm thanh mâu đỡ lấy, Câu Tiễn đã hiểu ý hắn, lập tức giương thuẫn trước ngực, kiếm giấu phía sau, bước những bước linh hoạt nhanh nhẹn hướng tiếp cận với thân hình cao lớn kia…

Câu Tiễn tay cầm kiếm, tay kia cầm khiên, có thể tấn công phòng thủ tùy ý, cùng với Phù Khái một thanh trường mâu trong tay như thế càng tăng thêm sức mạnh, Phù Khái nhìn thấy hắn đến, trong lòng lúc này căm phẫn cực độ vì hắn dám lợi dụng bản thân mình, nhưng tình hình hiện tại lại không tiện công khai thể hiện ra bên ngoài, lúc này hắn chỉ lo nghiến răng mở mũi mà tử chiến, cũng không mở một lời nào nói với Câu Tiễn. Võ công của Câu Tiễn không địch lại Khánh Kỵ được, Phù Khái lại càng không thể so sánh với Khánh Kỵ, nhưng có Câu Tiễn tương trợ lúc này cũng có thể đánh hơn được Khánh Kỵ, nhưng hắn lúc này đã không còn sức lực nữa rồi, vết thương trên người lại không phải nhẹ, nên khó có thể mà phát huy khả năng như bình thường được, do đó hai tên liên thủ với nhau cũng chỉ có thể đánh ngang ngửa với Khánh Kỵ mà thôi.

Ba người vung kiếm múa đao, nhảy bên này tránh bên kia, kẻ khác cũng không thể xâm nhập vào vòng tròn gi­ao đấu của họ, vài tên lính của Câu Tiễn lăm lăm binh khí trong tay, khẩn trương đứng bên ngoài vòng chiến quan sát.

“ A..!” Phù Khái kêu lên một tiếng đau đớn, động tác của hắn càng lúc càng chậm chạp, ngọn giáo trong tay của Khánh Kỵ vung lên, xẹt qua trên mặt chiếc khiên của Câu Tiễn, sau đó đổi hướng, đâm thẳng vào mặt của Phù Khái, Phù Khái lúc này không thể tránh được, ngọn giáo sắc lẹm đã đâm thẳng vào mắt hắn, tạo ra một vết thương cực lớn, khiến cho một mắt của hắn đã bị thương rồi.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 224: Sinh tử chỉ như sợi chỉ (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Câu Tiễn đang định đâm thẳng vào bên sườn của Khánh Kỵ, nhìn thấy tình hình này hắn vô cùng ngạc nhiên, đây là lần đầu hắn gi­ao chiến với Khánh Kỵ, hai bên gi­ao thủ thì hắn mới biết được đối phương từ lâu được mệnh danh là thiên hạ đệ nhất dũng sĩ của nước Ngô thật không phải là lời nói suông, chuyện khác không bàn đến, nhìn thấy hắn dũng lực đầy mình, kiếm thuẫn trong tay hắn vài lần đụng chạm với binh khí của hắn, thật miệng hùm cũng phải run sợ, tay hắn không thể giữ vững được binh khí, Phù Khái bị thương, hắn phía đó vẫn còn có cơ hội.

Chỉ một thoáng do dự, Khánh Kỵ lập tức đạp chân quay lại, sử dụng chiêu pháp Hồi Mã Thương, đồng thời lấy đà nhảy vút lên, hướng ngọn mâu thẳng tắp đâm thẳng vào Câu Tiễn, ngọn mâu bay vút không kể góc độ hay tốc độ, thủ pháp hay bộ pháp, đều đâm thẳng đúng vào nơi mong muốn của chủ nhân. Đây chính là chiêu thức mà lúc xưa Khánh Kỵ tại Tất Thành của nước Lỗ đã từng cùng với Nhâm Nhược Tích gi­ao chiến qua.

Câu Tiễn kinh ngạc thất sắc, vội vàng nâng khiên chống đỡ, chỉ nghe thấy một tiếng bổ vào kinh hồn. Khánh Kỵ toàn lực đâm tới, mượn sức của bụng và chân đột nhiên phát động, chiêu này tập trung khí lực toàn thân, chọc xuyên qua chiếc thuẫn của Câu Tiễn.

Câu Tiễn “ A” lên một tiếng đau đớn, xương cổ tay của hắn bị xuyên qua như muốn gãy, hắn vội vứt chiếc thuẫn, toàn thân hắn bỗng ngã nhào về phía sau, trên áo giáp của hắn máu tươi tuôn ra xối xả, hắn rơi xuống phía dưới boong tàu, đầu hắn tông vào phía trên mạn thuyền, cũng may là hắn có đội mũ sắt, mặc dầu cảm thấy đầu óc choáng váng, nhưng rất may là không có máu chảy ra.

Khánh Kỵ mặc dầu không biết thân phận của hắn, nhưng cũng nhìn thấy được con người này có thể là một vị tướng lĩnh có phẩm giá cao tại đại quân nước Việt, Phù Khái vứt mâu, đang ôm lấy khuôn mặt hét lên đau đớn, vội vàng nhấc chân, nhằm chỗ Câu Tiễn đang nằm trên mạng thuyền mà nhảy xuống.

Quân lính của Câu Tiễn cũng vô cùng ngạc nhiên, vội vàng xông đến, nhưng bị Khánh Kỵ một chiêu đã đánh bay hai tên, Khánh Kỵ cũng nhảy đến trước mặt Câu Tiễn, phía sau Linh Cô Phù nhìn thấy đã biết có chuyện không hay, liền không chú ý đến đối thủ trước mặt, mà quay người lại hét lớn: “ Khánh Kỵ nhận một mâu của ta đây!” vừa nói xong, thanh mâu trong tay hắn đã lao vút đến phía sau Khánh Kỵ.

Hai bên tử lực gi­ao chiến, ngay cả một khắc cũng không dám lơ là, huống hồ gì phía sau hắn đã là quân địch, ngọn mâu trong tay Linh Cô Phù vừa bay khỏi tay hắn, thì cũng vừa lúc hắn kêu lên “ A..” một tiếng đau đớn, một nhát rìu đã bổ thẳng vào trước ngực hắn, một dòng máu tươi từ đó mà tuôn ra.

Khánh Kỵ cầm mâu nhằm hướng Câu Tiễn mà đâm tới, lúc này Câu Tiễn cũng lờ mờ hiểu rằng cái cảm giác tuyệt vọng kinh sợ cũng đã hiện ra rõ ràng rồi, nhưng cũng vừa lúc đó, nghe thấy âm thanh thất thường phía sau, Khánh Kỵ không kịp suy nghĩ, thu mâu về quay ngược lại phía sau, rồi xoay một vòng từ dưới lên trên, chỉ nghe thấy tiếng “ Vù” vút qua, thanh trường mâu múa một vòng sáng loáng, rồi hất văng thanh mâu đang hướng về phía mình ra xa.

Câu Tiễn vốn đã nghĩ chắc sắp chết rồi, vừa nhìn thấy cơ hội đến thì lập tức phản ứng lại, trong mắt hắn hiện lên vẻ hung ác cuồng nộ, hét một tiếng lớn hắn vung thân bật dậy về phía trước, với vẻ nóng lòng, động tác lại càng mãnh liệt, do hắn đang ngồi mà vùng dậy, hai đầu gối của hắn va vào bong thuyền, phát ra một tiếng “ Bịch”.

Hai đầu gối hắn lúc va vào bong thuyền, khiến hắn đau thấu xương, nhưng ngược lại trong mắt hắn lại rực lên ngọn lửa phấn khởi điên cuồng, Khánh Kỵ múa mâu hộ thân, thân hình nhảy bổ về phía trước hướng về một góc, thuận thế quỳ chân xuống trên bong thuyền, Câu Tiễn vung kiếm chém tới, Khánh Kỵ lúc này đúng vào lúc lực cũ đã cạn kiệt, nhưng lực mới lại chưa sinh ra, nhát kiếm vừa tới, hắn chỉ vội vàng xoay nhẹ người, để tránh nhát kiếm đâm vào ngực, thanh kiếm vút qua một tiếng “ Vù” rồi đâm thẳng vào bụng Khánh Kỵ, lưỡi kiếm sắc lẹm dài một trượng đã đâm thấu bụng hắn xuyên thẳng ra phía sau, phía trước bụng chỉ còn lại chuôi kiếm.

Câu Tiễn vội vàng chồm dậy rút thanh kiếm ra, hai đầu gối lại va đập vào boong thuyền, hai tay hắn khẩn trương đâm thấu vào bụng Khánh Kỵ, thân hình hắn lúc này với tư thế vừa mắc cười vừa kì quái, Khánh Kỵ hét lên một tiếng đau đớn, đưa tay nắm giương cao thanh trường mâu, cán mâu hướng lên trên, hắn nắm chặt lấy thanh mâu chuẩn bị đâm thẳng xuống, nhưng thanh kiếm vẫn còn ở bụng hắn, động tác này khiến hắn vô cùng đau đớn, lại thêm hắn đang quỳ dưới đất, nên di động thanh trường mâu rất khó khăn, động tác trên tay hắn lúc đó vì thế mà rất chậm chạp.

Câu Tiễn thấy vậy, vội vàng bỏ kiếm, vụt qua một bên, lăn lóc giống như quả hồ lô mà chạy đi. Lúc này quân lính của Câu Tiễn cũng vừa đến, A Cừu, Tái Cừu nhìn thấy đại vương bị trúng một kiếm không chịu được hét lên một hồi, khóe mắt bọn họ đều ngấn lệ, hắn điên cuồng vung rìu bổ mấy búa khiến tên tướng lĩnh nước Việt tách đôi, rồi cả hai phi thân hướng về phía đại vương.

Khánh Kỵ chống thanh trường mâu đứng dậy, ra sức vịn vào cái giá bên cạnh, hắn đẩy một tên lính nước Việt ra xa, bản thân hắn cũng lảo đảo thối lui vài bước, tiện thể dựa vào mạn thuyền.

“ Đại vương!” Tái Cừu hét lên một tiếng, phía trước một tên lính nước Việt giương mâu ngăn cản, hắn không ngăn cản không chống đỡ, chỉ xoay người nhẹ một cái, mặc cho thanh trường mâu kia đâm tới, hai chiếc đại rìu trong tay hắn cuồng nộ bổ xuống, khiến cho đôi tay của tên lính nước Việt kia đứt rời rơi xuống, tên lính đau thấu trời xanh, hét lên một tiếng, Tái Cừu tiện đà lấy sức tung một cước khiến hắn bay ra xa.

Nếu có thể giết được Khánh Kỵ, vậy thì ta có được công lao gì? Đó có thể là đại vương nước Ngô! Vài tên lính nước Việt thủ sẵn trường mâu, phấn chấn không nề hà bản thân nhất tề xông về hướng Khánh Kỵ, nhưng tên lính vừa mới mất đi hai cánh tay kia chỉ còn độc nhất thân hình của hắn, bị Tái Cừu tung cho một cước, bay vèo giống như một viên đạn bay qua, hắn kêu gào thảm thiết rơi xuống trên người Khánh Kỵ, khiến cho Khánh Kỵ loạng choạng dịch qua một bên.

Vài tên lính nước Việt vung kiếm chém tới tấp, sau một thoáng bối rối, Tái Cừu giương rìu chống đỡ, thanh trường mâu kia đâm trúng bụng hắn, giống như điên cuồng mà đâm tới, vừa nhìn thấy tình hình này, đến hắn cũng phải lo lắng vô cùng…

Lúc Tôn Vũ đưa quân tới Ô Trình thì trời đã về khuya, sắc trời đen như mực, nhưng ở trên bến thuyền, dưới dòng sông, ngược lại đuốc sáng bừng bừng, nơi nào cũng có người, thuyền lớn thuyền nhỏ các loại nằm tứ tung, có chiếc lật úp, có chiếc nửa trên bờ nửa nằm dưới nước, bên dưới những chiếc thuyền kia, người chạy tán loạn tìm cách vượt lên bờ mà đi.

Tôn Vũ nhanh chóng chạy tới bên bờ sông, ngọn đuốc soi rõ ràng khuôn mặt hắn, sắc mặt hắn bây giờ có vẻ nhợt nhạt: “ Tìm được đại vương chưa?”

Xích Trung trên người hắn lấm lem buồn đất, cũng không biết từ đâu chui ra, hắn lúc này giống như một con thỏ, lúng túng đáp: “ Vẫn chưa tìm được…”

“ Vậy tiếp tục tìm kiếm đi, còn đứng đó làm gì!” Tôn Vũ quát lớn, làm cho Xích Trung hoảng sợ run cầm cập, ngay cả một lời cũng không dám đáp lại, vội vàng quay người hoảng hốt mà chạy, chỉ chạy được hai bước, lại nghe thấy có tiếng bịch bịch, thì ra dưới chân hắn tối đen như mực, khiến hắn không nhìn thấy mà ngã tòm xuống nước.

Đường đệ của Nhâm Nhược Tích là Nhâm Thành Kiệt, dẫn theo đại quân của Nhâm gia đi theo đường bộ đuổi đến, đi được nửa đường thì gặp phải quân của Tư Môn Sào ngăn cản. Nếu không có đại binh của Tôn Vũ kịp thời tiến đến, thì e rằng đại quân của Nhâm Thành Kiệt bị Tư Môn Sào mai phục đánh cho tan nát rồi, Tôn Vũ một mặt đau đớn cho sự tổn thất thế lực của Nhâm gia, mặt khác lại trách cứ bản thân không kịp thời đến với đại vương được, khiến cho Khánh Kỵ bị quân mai phục nước Việt đánh úp bất ngờ, đến nay sống chết còn không nắm rõ được, hắn bỗng quát lên một tiếng ghê hồn: “ Ta đi giết chết tên cẩu tặc Tư Môn Sào kia, tiêu diệt người của hắn không còn một tên!”

“ Đứng đó!” Yểm Dư nhẹ giọng bảo hắn đứng lại. Quân lính lần lượt tỏa ra hai bên, công tử Yểm Dư khuôn mặt trầm tư bước vào, phía sau hắn vài chục tên thân binh khiêng theo hai thi thể tiếp bước cùng hắn. Thi thể phía trước còn cắm nguyên thanh trường mâu trên người chưa rút ra. Tôn Vũ ngạc nhiên vô cùng, cũng không gấp gấp hành lễ Yểm Dư, hắn vội vàng chộp lấy ngọn đuốc, bước nhanh tới phía trước. Hắn chỉ nhìn thấy thi thể là một thanh niên cường tráng, miệng to mày rậm, một con mắt đã bị đâm thấu, máu từ đó mà chảy ra mơ hồ, còn con mắt kia mở to trừng trừng, để lộ ra con ngươi trắng bệt, đã tắt thở từ lâu rồi, nhìn bộ dạng này, hắn không thể nhận ra là ai.

Tôn Vũ tim đập liên hồi vội vàng soi ngọn đuốc vào thi thể thứ hai, ngược lại nhìn thấy con người này đã được băng bó sơ qua, hơi thở yếu ớt, hắn vẫn chưa chết, nhìn thấy hình dạng này chính là A Cừu. Tôn Vũ cũng không chú ý A Cừu thương tích đầy mình mà chạy đến ôm chặt lấy hắn hét lớn: “ A Cừu. Đại vương đâu? Đại vương đâu?”

A Cừu hơi thở yếu ớt, miệng hắn nhếch lên vài cái, nhưng chưa nói ra được lời nào: “ Tôn tướng quân, đại vương…đại vương bị đâm trọng thương rơi xuống nước rồi, hiện tại vẫn chưa tìm ra.”

A Cừu hơi thở yếu ớt, miệng hắn nhếch lên vài cái, nhưng chưa nói ra được lời nào: “ Tôn tướng quân, đại vương…đại vương bị đâm trọng thương rơi xuống nước rồi, hiện tại vẫn chưa tìm ra.”

Tôn Vũ nghe có tiếng động phía sau bất thình lình quay đầu lại, chỉ nhìn thấy phía sau hai tên thân binh đang cáng một vị đại hán thương tích đầy mình, đó chính là người anh em của A Cừu: Tái Cừu

“Tôn tướng quân hãy bình tĩnh, đừng nên nóng giận mà mất không lúc này.” Yểm Dư bước qua vỗ vỗ vào vai của Tôn Vũ khuyên bảo, rồi Yểm Dư sắc mặt hắc ám đưa tay chỉ về thi thể đang nằm phía trước nói: “ Tên kia…chính là Phù Khái. Trên người hắn còn cắm nguyên ngọn mâu của đại vương. Nhưng dựa vào những gì Tái Cừu nói, lúc đại vương bị trọng thương rơi xuống nước, thì Phù Khái vẫn còn sống…”

Hắn quay người lại, mắt nhìn về khoảng không gi­an mênh mông trong đêm vắng phía trước, lẩm bẩm nói: “ Một viên đá chết hai con chim, A! Câu Tiễn, ngươi giỏi lắm!”

Tôn Vũ bóp chặt bàn tay lạnh ngắt lại, A Cừu, Tái Cừu hai vị tướng lĩnh đã tìm thấy được, nhưng không tìm được tung tích của đại vương, chỉ sợ lành ít dữ nhiều,nếu đại vương có mệnh hệ gì…, nghĩ đến đây, Tôn Vũ toàn thân ướt đẫm.

“ Tôn tướng quân, tìm được đại vương chưa?”

Tôn Vũ đang ngẩn người suy nghĩ, Anh Đào tay cầm ngọn đuốc, từ xa chạy lại, mũ nón nghiêng vẹo, toàn thân ướt đẫm. Tôn Vũ bị ngọn đuốc sáng của hắn làm cho thức tỉnh, ánh mắt thất thần nhìn về phương xa, lắc đầu nhẹ vài cái. Anh Đào ngay tức khắc nhảy xuống lòng sông lạnh ngắt không biết độ nông sâu thế nào mà tìm kiếm.

Tôn Vũ từ tốn hạ mệnh lệnh: “Truyền lệnh cho ba quân trên dưới, lục soát mọi con đường, trên sông, trên bờ, trong các bụi cỏ. Mỗi thi thể tìm được đều phải cẩn thận kiểm tra, cẩn thận lục soát không bỏ qua một ngọn cỏ nào, khi nào chưa tìm thấy được đại vương, thì lúc đó chưa dừng tìm kiếm.”

“ Tuận lệnh!” chư vị tướng lĩnh bên cạnh Tôn Vũ lần lượt tuân mệnh.

Lúc này, hắn đã bình tĩnh trở lại, quay người về hướng Tái Cừu hỏi: “Còn mấy tên nước Việt kia đâu?”

Tái Cừu đưa tay gạt một tên lính đang băng bó vết thương cho hắn ra, đáp lại: “ Đại đội binh mã của Yểm Dư công tử vừa tới, bọn họ đã chạy mất rồi, bọn chúng dùng mấy chục chiếc thuyền, mang theo tướng lĩnh và thương binh, những tên còn lại thì men theo bờ sông mà đi, lúc Lương Hổ tướng quân lãnh quân chạy tới, đã lập tức đuổi theo rồi.”

Tôn Vũ lặng lẽ gật đầu, lúc này, ở trên mặt nước gần bờ đang vô cùng nhốn nháo, tất cả mọi người đều như một đám ruồi nhặng đang đi tìm miếng mồi vậy, những vị tướng lĩnh kia hét lớn hạ lệnh, khiến cho nơi này bỗng trở nên nháo nhác hỗn loạn còn hơn một trận ác chiến trên chiến trường nữa.

Tất cả binh mã đều chạy đến, chỉ trừ có Yểm Dư và Tôn Vũ là còn đứng lại trên bờ, cả hai nét mặt đều chăm chú nhìn theo, đương trong lúc tất cả mọi người ra sức không ngừng nghỉ tìm kiếm Khánh Kỵ, hai người đã bắt đầu suy nghĩ đến một vấn đề mà bọn họ không hề muốn nghĩ tới, đó là: “Nếu…tìm thấy thi thể của Khánh Kỵ thì phải làm sao?”.

Đã vào đầu mùa hạ rồi, nước sông vào mùa hạ ở Gi­ang Nam khiến cho mọi người ai nấy đều dễ chịu, trầm ngâm một đêm không ngủ lo lắng ưu tư, trầm mình dưới dòng nước dễ chịu này, ngắm nhìn những ngôi sao chiếu sáng đầy trời, khiến cho người ta bất giác mà tức cảnh sinh thơ.

Nhưng mà với một người vừa mới tỉnh lại như Khánh Kỵ thì ngược lại có cảm giác lạnh thấu xương, hắn cảm thấy ê ẩm khắp người, toàn thân đều có cảm giác ớn lạnh, phía trước mắt hắn là một màu đen kịt, không nhìn thấy gì cả. Một lát sau, hắn mới dần dần tỉnh lại, lúc đó mới nhận biết được là mình đang ở đâu.

Hắn ngã xuống từ trên thuyền, lúc đó khắp nơi đều là chiến trường, nơi nào cũng có người chết, lực lượng hai bên bốn phương tám hướng gi­ao chiến với nhau, bọn họ không hề biết được rằng người vừa mới bị một nhát kiếm rơi từ trên đại chiến thuyền xuống dòng nước kia thân phận quan trọng đến mức nào, bọn họ vì thế cứ ra sức tìm kiếm đối thủ, ra sức chém giết. Lúc này trên thuyền tướng lĩnh binh lính hai bên vẫn còn đang chiến đấu, nhưng sau đó bọn chúng biết được liền tranh giành nhau chạy đến mạn thuyền, miệng ngậm dao tranh nhau nhảy xuống dưới dòng nước truy tìm tung tích của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ ra sức bơi đi, hắn cố sức bơi đến bên hông một chiếc thuyền lớn, nhưng lúc này máu ra quá nhiều nên cảm giác rằng không còn đủ sức để bơi nữa, hắn không dám thả tay ra khỏi vết thương trên người, sau đó hắn từ trong người rút ra một con dao nhỏ, cố hết sức đâm mạnh vào bên hông thuyền, sau đó mở chiếc thắt lưng trên người ra buộc chặt người vào cán dao kia.

Làm xong, thì lúc này hắn hoàn toàn rơi vào trạng thái hôn mê, toàn thân không biết gì nữa, mãi đến lúc này, hắn mới từ từ tỉnh dậy.

Thuyền đang chạy, dòng nước phía dưới rẽ ra hai bên tạo nên âm thanh rào rào.

Đây là đâu? Trên thuyền có phải là người của mình không?

Khánh Kỵ định thần một lúc, chú ý lắng nghe phía trên, lúc này hắn nghe được đám người nước Việt ở phía trên thuyền đang lớn tiếng nói chuyện với nhau: “ Nhanh lên, tăng tốc nhanh hơn nữa, đại quân nước Ngô sắp đuổi kịp rồi.!”

Khánh Kỵ cúi xuống thở một hơi lạnh, rồi quay người nhìn hướng lên bờ, lúc này hắn chỉ nhìn thấy một cột khói dài trên phía bờ, đang ngoằn ngoèo uốn lượn bay về chân trời xa xa. Lúc này Khánh Kỵ nhìn lờ mờ nhận ra, phía trên thuyền đang thả ra một đoạn dây thừng, còn đám lính trên bờ đang kéo đoạn dây thừng kia, bọn chúng ra sức kéo thuyền vào bờ.

Cách đó không xa, một chiếc thuyền buồm nhỏ đang ra sức chèo thuyền tới, mái chèo dìm từng sải dài theo dòng nước, tạo ra thứ âm thanh rào rào. Khánh Kỵ vội vàng thu người lại. Kì thật hiện tại hơn nửa người của hắn đã chìm dưới nước rồi, toàn thân được cột chặt vào mạn thuyền, chỉ để nhô lên cái đầu cùng với bờ vai mà thôi, trong lúc trời tối đen mù mịt như thế này, trừ phi có người cố tình tìm kiếm quan sát thì may ra mới có thể tìm thấy được hắn.

“ Chiếc thuyền này đã bị quân Việt cướp đi rồi, bọn họ…hiện tại chèo thuyền quay về nước Việt! Không biết bây giờ đã tới đâu rồi?” Khánh Kỵ không thể nào phán đoán được tình hình, bầu trời bây giờ cũng đang ló rạng vài tia sáng mờ nhạt, lúc này Khánh Kỵ mới biết được rằng thuyền đã đi xa chiến trường đẫm máu tối qua được một đêm rồi, trời bắt đầu chiếu những tia nắng đầu tiên của buổi sáng, nếu đợi đến trời sáng rõ hơn nữa, thì hắn rất dễ bị chiếc thuyền nhỏ đang như con thoi chèo lên phía trước kia phát hiện ra.

“ Phải gấp rút…gất rút thoát ra khỏi nơi đây, tìm cách quay về thôi!”

Dục vọng sinh tồn trong con người hắn trỗi dậy áp đảo mọi giác quan đang muốn nghỉ ngơi của hắn, hắn nỗ lực nhắc nhở bản thân, cố gắng giữ cho mình luôn tỉnh táo. Nếu lúc này mà tiếp tục chìm vào hôn mê, thì chắc chắn rằng hắn sẽ không bao giờ tỉnh lại được, đương nhiên lúc đó nếu có người phát hiện ra hắn, thì chỉ còn là cái xác không hồn mà thôi.

Khánh Kỵ cắn răng, cố gắng đợi, cố gắng nhẫn nại, cố gắng dồn sức. Phía trước, thuyền lúc này đang hướng đến một khúc sông hẹp, con thuyền lớn này chỉ đi nhanh ở những nơi có mực nước sâu, nên đến khu vực nước cạn này chỉ có thể đi rất chậm, từ từ lái thuyền mà vượt qua. Đây hẳn là cơ hội dành kho Khánh Kỵ, nên hắn vội vàng cắt đứt sợi dây đang cột hắn vào mạn thuyền, rồi cố gắng dồn chút lực tàn ra sức bơi vào bờ.

Tài bơi lội của Khánh Kỵ cũng thuộc hạng thượng thặng, nhưng lúc này hắn bơi còn chậm hơn rùa, thậm chí còn bị những con sóng nhỏ kia cuốn trôi theo dòng nước nữa. Thật không dễ dàng gì mà bơi vào bờ được, hắn lại vừa bám vào được hai bụi cỏ, rồi vội vàng ôm lấy mô đất trên đó, lúc này…hắn tiếp tục rơi vào hôn mê…

Thời gi­an của lần hôn mê này tương đối ngắn, lúc hắn tỉnh lại, thuyền của bọn nước Việt đã đi xa rồi, đoàn quân tùy tùng của chúng trên bờ cũng đã rời khỏi, bên tai hắn ngoại trừ tiếng sóng vỗ rì rào, thì chỉ có tiếng chim hú, ếch kêu rỉ rả mà thôi. Bầu trời lúc này đã khoáng đãng hẳn lên, mặt trời cũng bắt đầu chiếu những tia nắng đầu tiên vào khoảng không gi­an mênh mông.

Khánh Kỵ tận lực dùng mười đầu ngón tay, cố gắng bò lên bờ, rồi loạng choạng bước đi, đi được một đoạn thì quá mệt nên hai chân vấp ngã vào một bụi cỏ, hắn mệt mỏi thở hổn hển, quỳ một chân xuống đất, cố chịu đau, nghiến răng rút đoạn kiếm cắm trong bụng hắn ra, rồi rút sợi vải đang quấn trên người hắn ra gấp rút băng bó vết thương lại.

Quấn băng xong, thì hắn đã vài lần muốn ngất xỉu, hắn giắt cán đao mà Câu Tiễn đâm vào bụng bên lưng, rồi liếc mắt quan sát bốn phía, khắp nơi đều là rừng cây thảm cỏ, tuyệt không có dấu hiệu của con người sinh sống nơi đây, xung quanh hắn vài con suối chảy róc rách đổ ra con sông lớn kia. Khánh Kỵ ngâm mình dưới nước một đêm, nhưng bây giờ lại cảm thấy rất khát nước, hắn vội hướng về những con suối kia mà đi, muốn tìm nước uống, sau đó tìm một nơi nào đó nghỉ ngơi. Hắn tin rằng binh lính của hắn sẽ men theo bờ sông mà tìm đến nơi đây nhanh thôi.

Khánh Kỵ bước những bước chân khó nhọc, vừa đi tới bên bờ sông, đột nhiên một chân của hắn bị hỏng bước, rồi một tiếng “Ùm” sau đó phát ra dưới lòng sông, thì ra dưới chân của hắn có một cái vũng nhỏ bị sóng bào mòn tạo thành, phía trên cỏ rác mọc um tùm, nhưng bên dưới thì trống hoắc. Từ trên dòng suối trôi đến một thanh gỗ mục, Khánh Kỵ lúc rơi xuống thì đáp ngay trên thân cây này, rồi trôi theo dòng nước chảy, hắn vội vàng ôm lấy khúc cây, ra sức trèo lên thân cây, những cử động mạnh này gây chấn động đến vết thương trên người hắn khiến hắn đau tới thấu xương, thanh gỗ này đang theo dòng nước chảy trôi ra sông lớn, bị những dòng nước xoáy đánh quay vòng vòng, khiến hắn tiếp tục rơi vào hôn mê sâu.

Trời đã sáng hẳn, lúc này quân lính đang ra sức kéo tất cả những thi thể dưới nước lên bờ, xác người chất cao như núi, nhưng trong đó đều không có thi thể của Khánh Kỵ, nhưng ai có thể dám bảo đảm rằng, mỗi thi thể đều nổi trên mặt nước, hoặc có thể đã bị nước cuốn trôi rồi, nếu tìm thấy được thi thể của Khánh Kỵ, sẽ khiến cho khí thế tam quân giảm sút, nhưng nếu không thể tìm ra, thì sẽ khiến cho mỗi người đều lo lắng. Yểm Dư công tử và Tôn Vũ công tử đối mắt nhìn nhau, từ hai mắt của nhau đều nhìn thấy những lo lắng và sợ hãi.

“ Tôn tướng quân, ta có ý này!”

Công tử Yểm Dư bước tới trước mặt Tôn Vũ, hướng về phía Tôn Vũ đưa tay nghiêm nghị mời đi, hai vị tướng lĩnh mang tâm sự trùng trùng cùng bước về một bên, Anh Đào hồn xiêu phách lạc cũng quay đầu nhìn theo, hắn chỉ nhìn thấy Yểm Dư và Tôn Vũ đứng dưới một cây cổ thụ, một người nói, một người nghe, có lúc gật đầu, có lúc lại lắc đầu, hắn cũng không biết hai người đang bàn bạc chuyện gì.

Anh Đào quay người lại, nhìn thấy dòng sông bây giờ đã yên tĩnh trở lại, hắn không đành lòng nói: “ Tiếp tục tìm kiếm cho ta, hãy dùng lưới bủa, bao vây trong phạm vi vòng tròn mười dặm, tất cả đều tìm kiếm kĩ càng, ta không tin là không tìm được tăm tích của đại vương!”

Hắn nổi giận đùng đùng bước lên thuyền, sai lính tiếp tục chèo thuyền ra giữa dòng sông.

“ Tìm thấy đại vương rồi, tìm thấy đại vương rồi!” phía trên bờ đột nhiên truyền ra một tràng hoan hô, mặc dầu không nghe thấy rõ bọn họ đang la hét việc gì, nhưng những tràng hoan hô đó đã nói rõ được ý nghĩa, Anh Đào đang ở trên sông ra sức tìm kiếm đại vương hơn nửa giờ qua thì ngược lại nghe rất rõ ràng, tinh thần hắn lúc này chấn động, lập tức hét lớn hạ lệnh: “ Nhanh, lập tức vào bờ, lập tức vào bờ!”

Thuyền còn chưa cập bờ, nhưng Anh Đào không kiềm được cảm xúc đã vội vàng nhảy một bước dài lên bờ.

“ Tránh ra, tất cả tránh ra, đại vương đâu? Đại vương có bị sao không?

Anh Đào phi thân vào trong đám đông, chỉ nhìn thấy Yểm Dư, Tôn Vũ, Xích Trung các vị tướng lĩnh đều đứng đó cả, nhưng tuyệt nhiên không thấy đại vương đâu, Anh Đào ngạc nhiên đứng lại, thất thanh hỏi: “ Đại vương đâu?”

Tôn Vũ từ từ quay đầu nhìn hắn, một lúc sau mới đáp lại: “ Đại vương bị thương rơi xuống nước, tính mạng không may đang gặp nguy hiểm, nên cần gấp rút chữa trị tĩnh dưỡng. Anh Đào tướng quân, tướng quân là ái tướng của đại vương, việc này…tướng quân lập tức hộ tống đại vương quay về đại doanh trại ngoài thành Cô Tô, trong thời gi­an đại vương tịnh dưỡng, bất cứ kẻ nào cũng không được vào gây rối, nếu không thì…tướng quân sẽ lãnh trách nhiệm.”

Anh Đào một lúc đã hiểu rõ tình hình, hắn nhìn Tôn Vũ, lại nhìn Yểm Dư, Xích Trung, Nhâm Thành Kiệt…, tất cả bị ánh mắt của hắn nhìn chăm chăm không chịu được đều cúi đầu quay đi chỗ khác. Anh Đào khàn giọng đáp: “ Chúng ta đều từ bỏ sao, phải không?”

Tôn Vũ bước tới trước mặt hắn, đặt tay lên vai hắn, nhẹ giọng nói: “ Anh Đào, sự an nguy sinh mạng của đại vương là quan trọng, đại nghiệp của đại vương lại càng không thể từ bỏ, bọn ta sẽ tiếp tục tìm kiếm, sống thì phải thấy người, chết cần thấy thi thể, nhưng tin tức này…”

Anh Đào đưa tay gạt mạnh cánh tay trên vai ra, khuôn mặt đỏ bừng bừng đáp lại: “Một tin tức bị che giấu, chúng ta tìm kiếm tăm tích đại vương đã không thể gióng trống khua chiêng mà thông báo được, hiện tại chúng ta nhiều người như thế này còn tìm không được đại vương, đằng này chỉ phái vài tên trinh thám tìm kiếm, vậy có thể tìm được không chứ?”

Tôn Vũ tức giận quát: “ Im mồm, nếu tin tức đại vương mất tích lộ ra bên ngoài, tam quân tất sẽ đại loạn, đại vương đã vì biết bao nhiêu binh lính mà hi sinh thân mình ngươi biết không? Đến hôm nay gi­ang sơn Ngô quốc còn chưa định được, đại vương lúc này sinh tử ra sao còn chưa biết, tin tức truyền ra bên ngoài, lập tức cục diện sẽ bị sụp đổ, Phù Sai tên đại vương kia, lúc đó sẽ có thể có lý mà ra lệnh hiệu triệu thiên hạ, lúc đó cho dù có tìm được đại vương cũng có ích gì không? Ta sẽ phái người tiếp tục truy tìm tung tích của đại vương, lấy danh nghĩa truy đuổi bọn nước Việt kia, phái xuất đại đội binh mã men theo bờ sông mà tìm kiếm. Nhưng tin tức đại vương mất tích thì vạn lần không thể lộ ra bên ngoài.”

Anh Đào đột nhiên bình tĩnh lại: “ Được! Vậy tướng quốc hạ lệnh cho mạc tướng dẫn một đại đội binh mã, mạc tướng sẽ đích thân truy tìm tung tích của đại vương.”

Tôn Vũ lặng lẽ chăm chú nhìn hắn một lúc, cuối cùng gật đầu: “ Được! ta sẽ hộ tống đại vương quay về, nhiệm vụ truy đuổi bọn nước Việt, gi­ao phó cho tướng quân.”

Anh Đào gật đầu liên tục, quay lại hai bước, hướng về Yểm Dư, Xích Trung cùng chư vị chúng tướng chắp tay hành lễ, sau đó quay người phi thân mà đi.

Lúc Khánh Kỵ tỉnh lại một lần nữa, hắn cảm giác trên mặt, trên người hắn nắng chiếu vào nóng bừng bừng, nếu là bình thường toàn thân ướt đẫm thế này mà nắng chiếu vào thì nhất định rất khó chịu, nhưng lúc này hắn lại cảm thấy vô cùng dễ chịu.

Hắn mở mặt, thân hắn từ từ cử động, tai hắn lập tức nghe thấy tiếng ruồi bay vù vù qua.

Trước mắt hắn là một cánh đồng tạp thảo xanh tốt, thân hắn quá nửa đã bị bùn phủ kín, phía sau lưng đã bị ánh mặt trời chiếu vào nóng bừng bừng, phía dưới thân hắn có cảm giác mát mẻ. Trời đã gần về trưa, hắn lúc này không biết bị dòng nước đẩy đến đâu rồi. Phía sau hắn là dòng sông, nhưng hắn không còn sức nữa mà quay đầu nhìn về. Trên đầu là trời, xung quanh hắn hiện tại là cánh đồng cỏ, nằm tại đây thì chỉ có thể nhìn thấy được một góc trời. Người nói rồng khó bơi vũng cạn, Khánh Kỵ lúc này đang ở ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Nhãn thần của hắn dần dần khôi phục lại tiêu cự, phía trước hắn là màu đen mềm mại của một bãi sông bị phù sa bồi lấp, nước trên sông cứ thúc vào người hắn từng hồi từng hồi, nước lại dội vào người hắn, nhất thời tràn qua thân một mảng phù sa, phía trên mảng phù sa này lại có rất nhiều hang lỗ nhỏ li ti, phía trên bung lên những hạt bong bóng tinh mịn.

Khánh Kỵ thở một hơi, từ từ đưa tay từ bên hông rút thanh kiếm ra, rồi ra sức, đột ngột đâm xuống, mảng phù sa mềm lụn kia không thể ngăn cản nổi ngọn kiếm đâm xuống, ngọn kiếm kia đâm một nhát tới đáy, nghỉ một lát, Khánh Kỵ rút kiếm ra, thì phía ngọn kiếm dính một vết máu tươi. Khánh Kỵ dùng tay khoét vào chỗ đâm xuống, cuối cùng từ bên trong vết bới đó lộ ra một con lươn lớn, hắn dùng nước rửa sạch, sau đó bỏ vào miệng ăn sống. Ăn thức ăn có máu sống là một loại thức ăn bổ dưỡng, nhưng ăn con lươn sống thế này thì thật chịu không nổi, nhưng Khánh Kỵ không quan tâm đến sự bẩn thỉu nhớp nhúa này quá nhiều, hắn ăn giống như người hoang dã, bây giờ hắn không chấp hắn đang là đại vương nước Ngô, là một vị công tử lịch lãm nữa, hắn hiện tại chỉ là một kẻ bị trọng thương trong cuộc gi­ao chiến trên chiến trường đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết mà thôi.

Hắn ăn một mạch hết ba con lươn sống, lúc đó mới cảm thấy có chút sinh lực, hắn liền bò lên bờ, toàn thân hắn đã bò lên trên thảm cỏ, rồi nằm nghỉ một lát. Lũ ruồi cũng không chịu buông tha cho hắn, cứ bay vù vù trên người, trên tóc hắn, hắn cũng không còn sức đuổi chúng đi, con người đã từng sức mạnh vô cùng như hắn, hiện tại lại phải quý trọng từng tí sức lực, đó cũng là hi vọng sống mong manh của hắn.

“Lan hề, thảo lan dữ, xướng mục huyền trạch dữ, xướng châu châu, trạm châu yên hô, tề tư tư, mạn dữ hô, chiêu Thiền Tần túc du, thẩm tùy hà hồ…” Tiếng ai hát nghe lanh lảnh vui tai lúc xa lúc gần vọng đến, bài hát này có vẻ nghe quen tai, nhưng lúc này Khánh Kỵ trong đầu hắn mọi thứ hỗn độn, nên chưa nghĩ ra bài hát gì. Hắn cố gắng định thần lại để nghe cho rõ, nhưng giọng hát đó lại biến mất vào không trung rồi.

“Có tiếng hát của một cô gái…, gần đây chắc chắn không có quân lính nước Việt.” Khánh Kỵ nghĩ vậy, tinh thần hắn nhẹ chấn động, hắn bây giờ, cần phải có người giúp đỡ mới mong cứu được mạng sống, nếu không thì khó tránh khỏi là một cái xác không hồn tại nơi hoang sơ này, con lươn sống đã trở thành món ăn trong người hắn, hắn lại trở thành thức ăn cho cá tôm dưới dòng nước kia, đó chính là hiện tượng đồng hóa mà thôi.

Nhưng hắn lúc này quả thật là một người muốn làm nhưng thực lực lại không có, muốn cử động cũng không thể cử động được. Cũng vào lúc này, có tiếng bước chân vọng tới, từ thảm cỏ phía trước mắt hắn xuất hiện một đôi chân nhỏ, quần xắn tới cao tới hông, một đôi chân trắng nõn dính đầy bùn đất bước tới.

Khánh Kỵ nhìn thấy đôi chân bước những bước nhanh nhẹn vui tươi đi về phía trước, hắn vội vàng yếu ớt gọi: “ Cứu tôi với!” nói tới đây hắn liền ôm lấy chân của người kia.

“ Á! Có ma!” tiểu cô nương hoảng hốt hét lên, nàng dùng sức đẩy đôi tay đang bám vào chân mình ra xa.

“ Cứu mạng…” Khánh Kỵ còn chưa nói xong, đôi chân nhỏ kia lại hướng về Khánh Kỵ mà đạp tới tấp. Khánh Kỵ hai tay che mặt, nhưng cũng bị đôi chân mang dày cỏ của vị cô nương kia đạp tới tấp không biết bao nhiêu lần, sau đó cô nương kia quay người bỏ chạy.

Khánh Kỵ cuống lên, vội vàng ôm chặt lấy ống quần cô nương kia, mệt mỏi nói: “ Ta không phải là người xấu.”

Chỉ nghe thấy tiếng “ xoạt xoạt”, chiếc quần của cô bé kia vốn dĩ đã rách tả tơi rồi, giờ lại bị kéo xuống rách một mảng lớn, lộ ra một một cái mông và một cái chân trắng nõn.

“ Á!” vị tiểu cô nương kia lại hét lên một tiếng nghe chói tai, gây chấn động mạnh đến tai của Khánh Kỵ, sau đó vị cô nương kia dùng một tay che cái mông lại rồi vừa chạy vừa khóc phát ra âm thanh “ xoành xạch xoành xạch”.

Khánh Kỵ ra sức ngóc đầu dậy, trên mặt hắn vết tích của chiếc giày cỏ vẫn còn dính rõ ràng, hắn cố gắng đưa tay gạt những bụi cỏ um tùm kia mà nhìn theo, chỉ thấy một cô gái tóc trái đào, khoảng 6, 7 tuổi, vừa chạy vừa hoảng hốt, giống như một con nai hoảng sợ chạy trốn…

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 225: Có cơ hội (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Lúc Khánh Kỵ tỉnh lại một lần nữa, lúc này là buổi sáng sớm, có ánh mặt trời chiếu xuyên qua khung cửa sổ đến nơi hắn nằm,một chiếc chiếu đắp trên người hắn, khiến hắn lúc mở mắt ra thì mở không được. Bên tai hắn nghe thấy tiếng ve, tiếng ếch nhái kêu, đây là lần đầu tiên trong đời hắn nghe thấy tiếng ve kêu hay như thế này, tiếng kêu này nghe có vẻ rất thân thiết, rất vui tai, khiến cho trời cao cũng phải chú ý lắng nghe.

Hắn lúc này không muốn mở mắt ra, hắn sợ những thứ này là hoang tưởng. Cái cảm giác hốt hoảng khi vừa mới tỉnh dậy lúc đầu bây giờ lại tiếp thụ một cái gì đó hạnh phúc ngọt ngào trong lòng hắn, hạnh phúc đến nỗi mà hắn muốn duỗi cái thân lười nhác của hắn ra cho thoải mái, nhưng lúc này người hắn bị phủ một lớp gì đó, khắp lưng hắn đều có cảm giác đau buốt, hắn từ từ hồi phục lại các giác quan, hắn lúc này mới nghĩ đến những chuyện trước khi bị hôn mê, một cái cây, một cái áo, trong đầu hắn cảnh tỉnh lại, hắn dần dần nhận thức được, hắn đang ở đâu? Hắn lúc này mới mở mắt ra…

“ A…” Một tràng âm thanh hoảng sợ vang lên, nhưng lại phát ra từ trong miệng của hai người, một người là nam giới giọng khàn mà trầm thấp, giọng kia là của một cô nương, cao nhưng lanh lảnh.

Khánh Kỵ vừa mở mắt, lại bắt gặp cặp mắt tròn xe giống như mắt nai đang nhìn hắn, cách cặp mắt của hắn chừng 3 tấc, hắn cũng bất ngờ ý thức được sự hoảng hốt, cô nương kia thì ngược lại phát giác được dấu hiệu Khánh Kỵ tỉnh dậy, cô ta liền cúi sát người kiểm tra kĩ lưỡng, không ngờ lúc đó Khánh Kỵ mở to cặp mắt ra nhìn, khiến cho cô ta hoảng sợ kinh hoàng.

“ Cha, tên hỗn đản kia tỉnh lại rồi.”

Cô nương kia hoảng hồn bỏ chạy ra ngoài hét lớn.

Bên ngoài cổng không có tiếng trả lời, cô bé càng sợ hãi, bộ dạng lúc này giống như chú chim cun cút co rúm lại, vừa cảnh giác nhìn Khánh Kỵ, vừa từ từ bước ra ngoài.

“ Này! Đừng sợ, Thúc thúc…không phải là người xấu…” Khánh Kỵ cố gắng nói, hắn nỗ lực nở một nụ cười hiền dịu có thể khiến người khác không sợ hãi.

Tiểu cô nương kia vội vàng nhếch nhếch miệng, trân trân nhìn nhắn, nhưng không nói một lời.

Khánh Kỵ cười một hồi, cô nương phía trước mắt hắn chỉ mới bảy tám tuổi, người hơi ốm, khuôn mặt đầy đặn, chiếc mũi nhỏ, một đôi mắt to linh hoạt và ngấn nước. Trên người cô bé mặc một bộ áo quần rách bươm của con trai, bộ đồ này không biết giặt qua đã bao nhiêu lần rồi mà có nhiều chỗ đã bạc màu, có chỗ đã rách bươm ra như sợi cước, khiến cho da ở chỗ bắp đùi và xương sườn của cô bé lộ ra bên ngoài. Phía chỗ đầu gối của cô bé cũng lộ ra một mảng da do ống quần chỗ này bị ma sát mà rách bươm, Khánh Kỵ chỉ dang một bàn tay ra là có thể ôm trọn lấy cái vòng eo nhỏ nhắn của cô bé này, cái ống quần đó đã từng bị Khánh Kỵ kéo rách lúc trước, bây giờ đã được khâu vá sơ sài lại. Tất cả những điều này cũng đã thể hiện rõ, vị tiểu cô nương này là con gái của một gia đình bình thường trong thôn, hơn nữa gia đình cô bé này lại rất nghèo.

Khánh Kỵ cũng đã lờ mờ phán đoán ra thân phận và gia cảnh của cô bé này, nên rất nhanh hắn đã nghĩ ra những lời nói vừa ý, hắn cố gắng giữ một giọng nói trầm ấm ôn hòa, hỏi:

“ Có phải cháu cứu thúc không, tiểu cô nương, cháu tên gì vậy?”

Cô bé cũng không có cảm tình trả lời mà quay đầu về hướng khác, cô bé liếc mắt nhìn quanh, rồi dừng lại ở một cây xiên cá treo phía sau cửa. Đó là một loại xiên cá làm bằng trúc, trên đầu gắn một thanh đồng nhỏ làm đao, đây có thể là một công cụ kiếm sống rất được trân trọng của gia đình này, cái xiên đồng được giữ gìn cẩn thận, nên phát ra vẻ sáng loáng bén ngọt.

“ Cô bé này. Rất cảnh giác, hơn nữa… gan nó cũng thuộc loại không nhỏ. Nếu Khánh Kỵ bị tiểu cô nương này đâm cho một xiên toi mạng thì…”

Góc miệng Khánh Kỵ cử động một tí, ánh mắt hắn nhìn về phía trước. Hắn nằm trên một chiếc giường, trên người phủ tấm chăn cũ và rách vài chỗ, phía sau vai còn gối lên một chiếc chăn cũ nữa, bên cạnh hắn, có một quả lê, quả lê này đã chín vàng rồi, nhìn có vẻ rất ngon miệng. Nhưng một bên quả lê đã bị cắn vài miếng, vết cắn này giống như vết răng cưa, vẫn còn dính dấu răng trên đó, nhìn có vẻ rất dễ thương.

Khánh Kỵ không kiềm được cười, đưa tay cầm lấy quả lê, hắn cũng không buồn lau qua, mà đưa lên miệng cắn một miếng lớn. Quả lê này rất ngon, thịt nó mềm mịn, có vị chua chua ngọt ngọt, rất vừa miệng. Khánh Kỵ miệng hắn lúc này rất tanh, cho dù lúc hôn mê bị người khác tưới lên một tô canh nóng thì cũng không thể nào mà vùng vẫy được. Hắn nhai ngấu nghiến quả lê, lúc này có cảm giác có mùi gì đó thoang thoảng, bất giác tinh thần hắn chấn động một lát, lại tiếp tục cắn vài miếng nữa.

Quả lê không quá lớn, nên một lát Khánh Kỵ đã ăn hết rồi. Lúc hắn ngấu nghiến như hổ đói ăn mồi nhai quả lê, cô bé kia cứ đứng đó mà trân mắt nhìn hắn. Khánh Kỵ ăn xong quả lê, nhìn cô bé cười thân thiện, hắn cố ý thể hiện sự yếu ớt của mình, để khiến cho cô bé không cảnh giác, hắn nói:

“Thúc thúc…không phải là người xấu. Cháu cứu tính mạng của thúc, đợi khi nào vết thương của thúc khỏi hắn, lúc đó thúc sẽ báo đáp. Lúc đó thúc sẽ…A…thúc sẽ tặng cho cháu một bộ đồ thật đẹp, sẽ cho cháu thật nhiều tiền nữa.”

Đôi mắt như biết nói của cô bé bỗng từ từ sáng lên, cô bé vội vàng chạy lại hỏi:

“ Thúc là ai, thúc có rất nhiều tiền sao?”

Cô bé nói rất nhanh, vừa nói xong đã lập tức khép miệng lại, trông như một cái miệng bị con trùng bay tọt vào trong vậy.

“ Đúng rồi…, thúc thúc có rất nhiều tiền…”

Khánh Kỵ trầm ngâm nói, trong mắt hiện lên một vẻ gì đó úp úp mở mở.

“ Thúc không được nói dối!”

Cô bé thoáng nhìn ánh mắt Khánh Kỵ, rồi vội vàng mở miệng nói rất nhanh. Giọng nói của cô bé vừa giòn giã lại rất dễ nghe, đây là khẩu âm điển hình của người Việt. Khánh Kỵ không ngờ rằng cô bé ở xóm nghèo này lại lanh lợi đến như vậy, lúc hắn ngạc nhiên nhìn hướng về cô bé, cô bé lại vội vàng khép miệng lại, rồi đưa cặp mắt dễ thương mà nhìn hắn với vẻ rất cảnh giác.

“ Ôi! Đương nhiên rồi…thúc thúc làm sao có thể đi lừa trẻ con được chứ? Khà khà…khà…, thúc thúc…thúc đúng là người có rất nhiều tiền, gia đình thúc thúc…là một đại thương nhân ở nước Ngô, sau khi phụ mẫu của thúc qua đời, thì lúc này thúc được kế thừa sản nghiệp của họ để lại, nhưng… thúc có một vị thúc thúc, người này lại không phải là người tốt…”

“ Hả?”

Cô nương bé nhỏ giương đôi chân mày dễ thương lên nhìn Khánh Kỵ đầy vẻ cảm tình.

“Uhm….Đó là thúc thúc của thúc thúc, là đệ đệ của phụ thân của thúc thúc.”

“À!”

“ Thúc thúc của thúc thúc, là người xấu, người xấu kia muốn chiếm lấy gia sản của thúc thúc, và thế là thúc thúc kia nhân cơ hội thúc không để ý, đã đâm vào bụng thúc một nhát, còn xô thúc thúc từ thuyền rơi xuống nước, thúc thúc bị dòng nước cuốn trôi tới đây…”

Khánh Kỵ ra sức uốn lưỡi, hắn động não suy nghĩ để tìm ra một câu chuyện nói dối cô bé:

“ Thúc thúc của thúc sợ thúc chưa chết, nhất định sẽ phái người tới đây, tiểu muội muội, cháu tìm cách che giấu thúc thúc lại được không, và có cái gì cho thúc thúc ăn không? Đợi khi nào gia tướng và quản sự của thúc thúc tìm tới đây, thúc thúc trừng phạt được người xấu kia, lúc đó thúc sẽ báo đáp cho cháu nhiều đồ đẹp nhé, cháu xem như vậy có được không?”

Tiểu cô nương dễ thương đưa con ngươi liếc vòng quanh, rồi bỗng nhiên hỏi:

“ Thúc thật không phải là người xấu chứ?”

“ Đương nhiên là không phải rồi, cháu xem thúc có giống người xấu không?”

Khánh Kỵ gắng sức giơ tay ra, phẩy phẩy búi tóc dài rối tung trước mặt, rồi hướng về cô bé nở một nụ cười hiền hậu.

Khánh Kỵ lúc này tóc bai bù xù, trên trán lại dính đầy cỏ cây tạp thảo, hàm râu chưa được cắt gọn cứ đâm ra tua tủa, khuôn mặt nổi những mụn nhỏ li ti lúc ngâm mình dưới nước bị sóng đánh vào, gò má bên trái còn dính vài vết bùn, gò má bên phải thì dấu vết của chiếc giày cỏ vẫn còn nguyên, nhìn ra có vẻ không phải là người xấu, nhưng ngược lại giống một kẻ ăn xin hơn…

Đôi mắt cô bé càng hiện lên vẻ hoài nghi, Khánh Kỵ sờ sờ vào lưng áo, chiếc cán dao mà Câu Tiễn đâm vào hắn đã không còn nữa, nhưng con dao nhỏ của hắn thì vẫn còn, Khánh Kỵ suy nghĩ trong lòng một lúc:

“ Gia đình này mặc dầu rất nghèo, nhưng ngược lại là một gia đình quê mùa chân chất, họ chưa hề khám xét người mình. Có vẻ nơi đây thuộc địa phận của nước Việt, người của ta sẽ không thể truy tìm đến đây được, ta phải cố lấy được lòng tin của gia đình này, sau đó nhờ họ khẩn cấp dẫn ta quay về, ta sống chết còn chưa biết được, không biết hiện tại trong đại doanh trại mọi việc đại loạn như thế nào rồi…”

Nghĩ đến hậu quả này, Khánh Kỵ trong lòng nóng như lửa đốt, nhưng lúc này hắn không thể biểu lộ ra bên ngoài được, hắn sờ vào trước ngực, phát giác ra trong túi hắn còn một số đồ đạc, rồi rút ra một miếng trang sức bằng ngọc. Hắn cầm miếng ngọc trong tay đưa về phía cô bé nói:

“ Này, cháu xem, đây là miếng ngọc rất quý, người xấu làm gì có thứ đồ đắt tiền như vậy chứ, đúng không nào?”

Miếng ngọc bích ánh lên màu sắc lóng lánh rực rỡ, cho dù cô bé kia chưa nhìn thấy bao giờ nhưng cũng nhìn ra sự quý giá và đẹp đẽ của miếng ngọc bích kia.

“ Woa!”

Đôi mắt cô bé sáng hẳn lên, rồi ngạc nhiên mở miệng trầm trồ khen.

Khánh Kỵ lúc này mới phát hiện ra, cô bé nhỏ nhắn xinh xắn này trong miệng chỉ còn ba năm chiếc răng là còn tại vị mà thôi, còn lại đã rụng hết rồi, lúc cô bé mở to mồm ra hiện lên một dáng vẻ rất mắc cười, vì thế mà cũng không thể trách được cô bé này nói nhanh như vậy, nói xong lại lập tức ngậm miệng lại che hàm răng sún của mình, thì ra là cô bé sợ người khác nhìn thấy.

Khánh Kỵ thầm nghĩ trong lòng rồi bật cười:

“ Thúc thúc tặng nó cho cháu nhé, muốn không?”

Cô bé nhỏ nhắn gật gật đầu, rồi lại lắc lắc đầu. Cùng lúc thì cánh cửa được mở ra, một vị nam tử đội mũ trúc từ bên ngoài bước vào. Người này tay cầm một chiếc giỏ trúc, tay kia cầm một tấm lưới đánh cá.

“ Cha!”

Cô bé vừa nhìn thấy phụ thân, lập tức chạy lại, đưa tay cầm lấy nón trúc của cha đặt qua một bên, người kia giở mũ xuống, cất lưới, vừa cười vừa hướng về Khánh Kỵ hỏi:

“ Tiểu huynh đệ, người tỉnh rồi ah?”

Vị nam tử này thân hình cao gầy, nhìn qua đoán rằng khoảng hơn ba mươi bảy tuổi, nhưng hắn cũng không thể đoán chính xác tuổi của người này. Do cuộc sống khổ cực, nhiều người ở nông thôn đều có diện mạo già hơn so với tuổi thực của mình, nếu lấy động tác và nhãn thần của người này ra mà tính toán, thì hắn đoán rằng người đàn ông này tuổi chưa tới ba mươi. Nhưng nếu cẩn thận nhìn những nếp nhăn hiện rõ trên nụ cười của hắn, thì có thể lầm tưởng người này đã bốn mươi tuổi rồi.

“ Đại ca, tiểu đệ xin cảm tạ ơn cứu mạng của đại ca.”

Khánh Kỵ đúng lễ muốn gượng người ngồi dậy, vị nam tử kia bước tới vài bước, nắm lấy cánh tay Khánh Kỵ nói :

“Được rồi, người vừa bị thương, không cần ngồi dậy đâu.”

Hắn bước qua rất nhanh, Khánh Kỵ mới nhìn rõ được, người này bị què, một chân hắn đi khập khiễng, vừa đi vừa kéo lê trên mặt đất, dáng đi rất ngoặt ngẹo.

Người kia quay đầu nói với cô con gái:

“ Tiểu Quang, con mau đi làm cá đi, sau đó nấu một tô canh cá cho vị thúc thúc này bồi bổ cơ thể.”

“ Cha, cá này ta không mang vào trong thành đổi lấy tiền chữa bệnh cho mẹ sao?”

Nghe cô con gái nói vậy, khiến hắn lúng túng nhìn Khánh Kỵ, hắn nói với cô con gái:

“ Cá chúng ta có thể bắt được nữa, không nhiều lời nữa, con mau đi đi.”

“ Vâng!”

Cô gái nhân cơ hội cha cô không để ý, liếc mắt trừng Khánh Kỵ một cái, rồi cầm giỏ cá bước ra ngoài.

“ Ơn cứu mạng của đại huynh, tiểu đệ cảm kích vô cùng, thật làm phiền đại huynh quá, tiểu đệ mạo muội hỏi quý tính của đại huynh để tiện bề xưng hô?”

Người kia thật thà cười đáp lại:

“ Tiểu huynh đệ không cần quá khách khí như vậy, ta họ Thi, đệ cứ gọi ta là Thi đại ca được rồi.”

“ Thi đại ca.”

“ A! Huynh đệ, ngươi là…?”

“ A, tiểu đệ họ Tịch, tên Bân, gọi là Tịch Bân, đệ vốn là một thương gia, bởi vì…”

Khánh Kỵ nói y lại những lời mình vừa nói với cô nương bé nhỏ kia cho người kia nghe, hắn ngồi bên giường chăm chú lắng nghe, Khánh Kỵ nói xong, Thi đại ca suy tư nhìn hắn một lúc, rồi nhíu nhíu mày.

Khánh Kỵ lén nhìn biểu hiện của người kia, trong lòng suy nghĩ, hắn cười cười một tiếng rồi hỏi:

“ Thi đại ca, đại ca không tin đệ sao?”

Thi đại ca cười lặng lẽ, ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt hắn, từ tốn nói:

“ Tịch lão đệ, người…có phải là binh lính của nước Ngô không?”

Khánh Kỵ vô cùng ngạc nhiên, tay hắn lập tức cầm lấy cán dao đang giấu trong người, hướng ánh mắt nghiêm nghị nhìn vị nam tử bị què này.

……………….

“ Đại ca! Đại ca!”

Chúc Dung phi như bay vào trong đại trướng của Yểm Dư, tay cầm chiếc mũ sắt, hắn đưa tay gạt mạnh tên lính đang đứng gác ngoài cổng, quát:

“ Đi ra, tất cả ra ngoài hết cho ta.”

“ Đại ca…”

Yểm Dư đặt chiếc thẻ tre trong tay xuống, nhăn mày một cái, nét mặt không vui đáp:

“ Đệ lớn rồi, huống hồ gì đến nay đã giữ chức đại tướng quân, thận trọng một tí được không? Có việc gì mà luống ca luống cuống vậy?”

“ Đại ca, Đệ muốn đi thăm Khánh…đại vương đang bị thương, cớ sao lại bị quân lính ngăn cản không cho vào, đệ là thúc thúc của hắn, cớ sao lại bị bọn chúng ngăn cản, chẳng lẽ đây cũng là Thái Tà môn sao? Huynh là đại huynh của đệ, huynh nói rõ xem sao, rốt cuộc Khánh Kỵ như thế nào?”

Yểm Dư tránh ánh mắt nhìn của Chúc Dung, hắn đáp lại:

“ Còn như thế nào nữa? Bụng dưới trúng một đao, xuyên qua thân thể, vết thương nghiêm trọng biết nhường nào, nên không thể chịu được gió thổi, do đó cần phải tịnh dưỡng một thời gi­an mới khỏi hẳn được, đệ không thấy ta cũng không đến thăm đại vương sao? Sớm bảo đệ trấn giữ ở đây, đệ đi đâu làm gì?”

“ Ha ha!”

Chúc Dung cười một điệu cười xảo quyệt, bước tới gần nói:

“ Vua băng hà, bí mật không cho phát tang, đây là quy luật từ xưa đến nay rồi. Chúc Dung ta không phải là đứa trẻ mới lên ba, còn không rõ đạo lý này sao? Các người có thể lừa được tam quân tướng sĩ, nhưng không thể qua mặt được vương thúc của đương kim đại vương đâu. Đại ca, huynh nói thật đi, có phải đại vương đã chết rồi không?”

“ Im mồm! không được nói bậy!”

Yểm Dư thần sắc chuyển biến, đưa mắt nhìn ra phía bên ngoài, nhìn thấy phía ngoài không có ai, lúc đó mới nhẹ giọng. Hắn quay lại đệ đệ thấp giọng nói:

“ Ngươi điên rồi sao? Lời này mà truyền ra bên ngoài thì sao chứ? Đừng nói ngươi là huynh đệ của ta, nếu còn gây náo loạn lòng quân nữa, ta lập tức bắt đệ lại đó.”

Chúc Dung thần sắc cũng biến chuyển, hắn cũng nhẹ giọng nói:

“ Đại ca, có thật là Khánh Kỵ đã chết rồi không?”

Yểm Dư lại nhìn ra ngoài cửa, đưa tay kéo hắn ngồi xuống ghế, nhẹ giọng đáp:

“ Ngươi nói bậy cái gì vậy, đại vương chỉ bị thương thôi, nhưng…đại vương bị rơi xuống nước chưa tìm thấy được, đến nay tăm tích vẫn chưa rõ. Để an lòng quân, ta mới truyền ra bên ngoài là đại vương bị thương đang tịnh dưỡng, đồng thời hạ lệnh cho Anh Đào dẫn binh men theo dòng sông tìm kiếm rồi. Nếu không như vậy, thì Phù Sai có ngoan ngoãn mà cố thủ trong thành Cô Tô không, hay hắn đã nhân cơ hội này mà sớm phát binh tấn công chúng ta rồi.”

“ Đại ca, đến nay đã vài ngày rồi, Anh Đào đã tìm thấy đại vương chưa? Đại vương trúng đao rơi xuống nước, tất không thể đi xa được. Lúc này ta có nhiều người như vậy, nhưng có thể tìm thấy được không? Theo đệ. Chỉ sợ lúc này đại vương đã chết rồi, nhưng xác thì khó mà tìm thấy được. Chúng ta như vậy, có thể qua mặt được lúc này, nhưng có thể lừa được họ cả đời không?”

Yểm Dư trong tâm phiền muộn đáp lại:

“ Chúng ta không phải vẫn đang tìm đó sao? Tóm lại, sống cần thấy người, chết phải thấy xác?”

Chúc Dung hai tay chống gối, đôi mắt sáng người, hướng sát người về phía đại ca nói:

“ Đại ca, huynh không cảm thấy, đây là cơ hội tốt cho huynh sao?”

Yểm Dư tim đập thình thịch, tránh ánh mắt nhìn của hắn đáp lại:

“ Cơ hội gì?”

Chúc Dung ánh mắt rực lửa trả lời:

“ Đại ca, đây có thể là thiên ý, Khánh Kỵ chết đi, người có tư cách kế thừa vương vị, ngoài huynh ra, thì có người thứ hai không chứ? Hiện tại, Phù Khái cũng đã chết, nhìn cục diện nước Ngô, kẻ nào có thể là đối thủ của ta chứ? Huynh xem, thành Cô Tô lúc này đã là một tòa cô thành rồi, nó bị cô lập không có viện trợ, chỉ cần tấn công vào đó, thì toàn Ngô quốc sẽ thống nhất, nếu cơ duyên này huynh không nhận lấy, thì còn đợi tới khi nào nữa chứ?”

Công tử Yểm Dư nhăn mặt, nghi vấn đáp lại:

“Ngươi đừng có loạn ngôn ở đây, lúc này hơn một vạn binh dùng những tấm lưới lớn phủ kín một vùng ở dòng sông đó không sót một chỗ nào, một con cá cũng không thể lọt qua được, nhưng cuối cùng cũng không tìm ra tung tích của đại vương, việc đại vương bị trọng thương không phải là giả, nhưng chính nguyên nhân như vậy, chúng ta vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm đại vương, cho nên lúc này cũng chưa chắc chắn là đại vương chết đúng không?”

Chúc Dung đáp:

“ Vậy lại thế nào? Hiện tại chúng ta đang tranh chấp gi­ang sơn với nước Ngô, đại quân há nào một ngày không có thống soái, trong nước há nào một ngày không có vua sao? Huynh chỉ cần đăng cơ xưng vương, nếu có một ngày hắn sống sót mà trở về, lúc đó huynh đã hạ được thành Cô Tô, thống nhất nước Ngô, lúc đó hắn còn mặt mũi nào mà tranh chấp vương vị với huynh không?”

Yểm Dư quay mạnh đầu lại, trầm thanh đáp:

“ Những lời nói này coi như ta chưa nghe qua, ta không muốn nó lại nói ra từ miệng đệ một lần nữa.”

Chúc Dung vội đáp:

“ Đại ca, Huynh sợ cái gì chứ? Đại quân này đúng là do một tay Khánh Kỵ gầy dựng nên, nhưng bọn họ cũng không nghĩ đến vinh hoa phú quý sao? Đến nay chúng ta đã hoàn thành sứ mệnh, nhưng Khánh Kỵ vẫn bặt vô âm tín, nếu huynh không lên ngôi, ta dám bảo đảm rằng, bọn họ cũng không vui vẻ gì, cũng tuyệt đối không hề phản đối đâu.”

Yểm Dư phất tay áo, phẫn nộ quát:

“ Câm mồm! nếu ngươi dám loạn ngôn một lần nữa, thì ngươi mau cút ra ngoài cho ta!”

“ Đại ca!”

Chúc Dung vội vàng nắm lấy áo của Yểm Dư.

Yểm Dư nghiêm mắt, tức giận đùng đùng nhìn Chúc Dung nói:

“ Chúc Dung, bất luận Khánh Kỵ là vua, hay là Yểm Dư xưng vương, ngươi đều là công tử tôn quý của nước Ngô, có gì khác biệt đâu? Ngươi có những suy nghĩ ngông cuồng bảo ta xưng vương như vậy nữa, rốt cuộc là ý gì? Chẳng lẽ nào, ngươi lại bắt chước theo Cơ Quang, có những hành động bất nghĩa như vậy sao? Nói mau!”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 226: Mưu đồ thôn tính nước Ngô (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Yểm Dư tiến lại gần hắn, Chúc Dung vội vàng thối lui vài bước, nghe những lời nói này tử Yểm Dư khiến hắn mồ hôi ra lạnh toát cả người, hắn vội vàng quỳ xuống, cúi đầu chắp tay nói:

“ Đại ca nói như vậy là trách oan cho đệ rồi. Huynh là đại ca ruột thịt của đệ, Khánh Kỵ là cháu của đệ, lúc hắn xưng vương, mặc dù đệ không phục, nhưng cũng không hề phản đối hắn. Nhưng lúc này lại có cơ hội tốt như vậy, đệ đương nhiên hi vọng đại ca có thể xưng vương, đệ tự biết rằng bản thân minh uy vọng không đủ, lại là người lỗ mãng, không đủ tư cách làm đại vương. Nếu huynh trưởng đồng ý, Chúc Dung xin được đi thuyết phục chúng tướng trong đại quân đề cử đại ca, huống hồ gì, đệ còn có thủ quân Vũ Nguyên, đối với đệ hết sức trung thành, cũng sẽ tận lực giúp đỡ huynh, cơ hội không thể bỏ lỡ, nếu mất đi sẽ không có cơ hội thứ hai đâu, khẩn cầu ý kiến của huynh trưởng!”

Yểm Dư đứng lại, khuôn mặt giận giữ của hắn từ từ dịu lại, Chúc Dung lén nhìn hắn, nhưng không dám đứng dậy.

Yểm Dư lui lại vài bước, từ từ ngồi xuống ghế, nhấp nháy ánh mắt, tâm thần đang trầm tư suy nghĩ.

Vua và công tử, khác nhau một bậc, nhưng ngược lại là cách biệt một trời một vực. Đó là khác biệt giữa quân vương và thần tử, là khác biệt giữa trời và đất, nếu có cơ hội, kẻ nào mà không xao động chứ? Khánh Kỵ hiện tại sống chết còn chưa biết, cho dù hắn chưa chết, xem ra lúc này cũng chưa thể quay về được, trong tay Chúc Dung hiện nay có binh mã của Vũ Nguyên, hắn hiện tại cũng thu nạp được không ít tàn quân của Hạp Lư, lại có thêm Xích Trung là phụ tá thân tín của Khánh Kỵ, mặc dầu hắn một mực trung thành với Khánh Kỵ, nhưng là người tất phải có tư tâm, nên hắn không tin Xích Trung không màng đến vinh hoa phú quý, hắn cũng không phải là có mưu đồ lật đổ ngôi vị của Khánh Kỵ để soán ngôi, mà là bất đắc dĩ phải làm việc này. Hiện tại chỉ nói Khánh Kỵ trọng thương, nhưng chưa nói hắn sống chết không rõ, trong đại quân đã có người hoang mang, nếu sớm có vua mới, tất sẽ ổn định lòng quân, nếu đánh nước cờ này, bọn họ cho dù không phục, thì cũng không thể phản đối, nếu thật sự ta xưng vương…

Nghĩ đến đây, tim của Yểm Dư bỗng đập thình thịch, máu trong người hắn cứ sôi sùng sục, cảm giác lúc này giống như lúc hắn uống nhiều rượu bị say vậy, hắn cố định thần lại, vội vàng nghĩ tới những hành động gần đây của Tôn Vũ, bất giác hắn cảm thấy có chút ngạc nhiên…

Đại quân của Khánh Kỵ bởi vì không lo lắng Phù Sai bỏ thành mà chạy, do đó cũng không thiết lập chiến trận vây thành nữa, đại quân chỉ tập trung trước cửa Xương Môn. Binh tướng chia làm 6 hướng đóng quân, tạo nên trận pháp hoa mai, năm doanh trại giống như năm ngôi sao bảo vệ mặt trăng là cánh quân chính giữa. Nhưng với Tôn Vũ hiện tại thì Phù Khái đã chết, nên chỉ còn duy nhất một mối lo trong thành kia là Phù Sai, do đó hắn có điều chỉnh đối với ngũ doanh trại, hiện tại hắn đang lãnh đạo cánh quân trung tâm, Lương Hổ Tử chiếm lĩnh cánh tả, Kinh Lâm đóng tại cánh hữu, đại quân của Chúc Dung đóng tại bên phải của Kinh Lâm, dựa vào một đập nước. Đại quân của Yểm Dư đóng ở bên trái của đại quân Lương Hổ Tử, phía bên ngoài hắn là đại quân của Nhâm gia. 6 cánh quân sắp xếp như vậy, đã cắt đứt liên hệ giữa cánh quân của hắn và đại quân của Chúc Dung, ngay từ đầu hắn nghĩ đó không có vấn đề gì cả, nhưng hiện tại hắn cảm thấy điều này có dụng ý, lúc này hắn cảm thấy điều đó có chút kỳ quái. Tôn Vũ…, hắn đang đề phòng chuyện gì?

“ Đại ca…đại ca…”

Chúc Dung nhìn thấy khuôn mặt hắn trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu, chịu không được cất tiếng gọi nhỏ.

Giọng nói nhỏ nhẹ của hắn ngược lại giống như tiếng sấm rền vang, khiến cho Yểm Dư giật thót, lúc này bên tai hắn chợt nghĩ đến một câu nói mà Khánh Kỵ đã từng nói qua:

“ Không giấu gì các ngươi, ta ở trên dòng sông cách bờ rất xa, một đao bén ngọt đâm vào người ta, vết thương quá nghiêm trọng, khiến ta khó mà có thể sống sót được. Lúc đó ta có cảm giác rằng mình bay lên không trung, ta còn nhìn thấy Kinh Lâm và Lương Hổ Tử ôm nhau khóc lớn, rồi phóng hỏa đốt thuyền, sau đó trước mắt ta xuất hiện một cái động sáng chói, một tia sáng trắng toát phát ra từ đó, luồng ánh sáng đó hút ta bay vào trong động, ta bắt gặp một thế giới hoàn toàn khác với thế giới bên ngoài, ta nhận ra đó là nơi mà thần tiên trú ngụ…”

“ Đại ca, huynh quyết định chưa?”

Yểm Dư cảm thấy rùng mình ớn lạnh, hắn cảm thấy trong lòng có gì đó sợ hãi.

“ Ta…quyết định rồi…”

Chúc Dung nghe thấy vậy lập tức xắn tay áo lên, Yểm Dư thì ngược lại quay đầu qua, hướng ánh mắt lạnh nhạt nhìn hắn, lạnh lùng nói:

“ Chúc Dung, ngươi nghe ta nói rõ đây, đại vương Khánh Kỵ, hiện tại đang dưỡng thương trong doanh trại, chỉ chờ cho đại vương lành bệnh, lúc đó lục quân nhất tề tấn công, công chiếm thành Cô Tô, bình định gi­ang sơn nước Ngô.”

“Một ngày còn chưa biết tin đại vương tử trận, thì ngày đó cũng không được có suy nghĩ bậy bạ. Chúc Dung, ngươi hãy an phận trấn giữ bản doanh này, không được làm loạn tại đây, nếu không thì…đừng trách Yểm Dư không niệm tình huynh đệ!”

……………………..

Tại thành Chư Ký của nước Việt, Việt vương Doãn Thường ngồi trên điện, hắn có vẻ hưng phấn dị thường.

Lần này thái tử của hắn Câu Tiễn không những lập được đại công, thành công trong việc tạo nên địa vị và uy vọng của người kế thừa ngai vàng trong lòng của chúng thần, lại còn khiến cho vương thất vốn đã thất thế giờ đây gây được tiếng vang lớn, với lại hắn đã mượn đao giết người, khiến cho Khánh Kỵ và Phù Khái gi­ao đấu với nhau mà tử trận, trận chiến này đã làm tiêu hao rất nhiều thực lực của nước Ngô, nên đối với sự phát triển của nước Việt vạn lần có lợi. Nhưng trong cái vui này còn có điều tiếc nuối, mặc dầu Phù Khái đã chết, nhưng tiếc là Khánh Kỵ chỉ bị trọng thương, nếu hắn tử vong ngay tại chiến trường lúc đó thì cục diện bây giờ lại càng thêm hoàn mĩ rồi. Nhưng thành quả hiện tại cũng rất hiếm có, Khánh Kỵ đến nay vẫn chưa lộ diện công khai, có thể thấy rằng vết thương của hắn vô cùng nghiêm trọng, nếu hắn mà chết đi, thì nước Ngô vì thế có thể hoàn toàn sụp đổ, điều này sẽ tạo cơ hội rất lớn cho nước Việt.

“ Bá tướng quốc”

Doãn Thường hào hứng nâng li:

“Đến nay tình thế nước Ngô bất định, thân phận của ngài không tiện công khai, khiến cho quả nhân thập phần hổ thẹn. Nhưng thượng khanh nước Việt ta, tất cả đều biết quả nhân đã xưng người là tướng, nên ngài cứ yên tâm. Thời gi­an này, ngài nên tìm một người thích hợp có dòng dõi vương thất từ nước Ngô, cất nhắc hắn lên làm Ngô vương, với tình thế nước Ngô ngày càng phức tạp thế này, chúng ta vì thế có thể từ đó mà ngư ông đắc lợi, chỉ cần điều đó xảy ra, ngài không những là tướng quốc của nước Việt ta, đồng thời cũng là tướng quốc của nước Ngô, hơn nữa lúc đó ngài lại là chủ nhân đích thực của nước Ngô nữa, tới lúc đó có thể nâng li chúc mừng đại công của ngài rồi.”

“ Đại vương quá tin tưởng, thần hổ thẹn không dám đảm nhận việc này, Bá thần xin hết sức mình tận lực giúp đỡ đại vương.”

Bá nhận được sủng ái mà trong lòng vô cùng lo lắng, hắn vội vàng đưa tay nâng ly. Doãn Thường nói như vậy, nghe thấy điều này làm cho hắn như mở cờ trong bụng, hắn biết nước Việt hiện tại không đủ thực lực để thôn tính nước Ngô, do vậy mới có ý lập một tên vua bù nhìn. Bởi vì là một tên vua bù nhìn, nên đương nhiên sẽ không yên tâm mà đem quyền lực gi­ao cho hắn, mà bọn chúng là người Việt, chỉ có thể điều khiển từ xa, đợi cho đến khi thực lực đã đủ mạnh, lúc đó mới dám công khai làm chủ nước Ngô. Lúc đó họ tất cần một người thay mặt, mà tên này, hắn cũng chẳng coi ra gì, đến lúc đó, hắn mặc dầu không phải là Ngô vương, nhưng lại chính là Ngô vương, đó chẳng phải là chuyện hoan hỉ vô cùng hay sao.

Đến nỗi hắn cũng muốn thâu tóm cả nước Việt, hắn cũng không cảm thấy thấm thía vào đâu, chư hầu thiên hạ mọc lên như nấm, tiểu quốc chư hầu chịu khuất phục đại quốc chư hầu, lúc Lỗ vương triều kiến Tấn quốc, lấy cớ là hai quốc gia đồng đẳng chức vị, vẫn không chịu hành lễ thần tử với nhau. Huống hồ gì là hắn. Nhưng, chỉ một thân mà lại lãnh tướng ấn của hai nước, điều này quả thật là tự cổ chí kim chưa hề có. Nghĩ đến đây Bá bất giác cảm thấy trong lòng phơi phới.

“ Vương nhi, con cần chú ý lắng nghe tin tức từ nước Ngô, Khánh Kỵ mặc dầu chưa chết, nhưng cũng cần cử đi nhiều trinh thám, đến đó truyền bá tin nhảm, tung tin rằng Khánh Kỵ đã chết rồi, điều này sẽ làm tăng thêm sự khủng hoảng cho người Ngô, chỉ cần người Ngô tin tưởng Phù Khái, Khánh Kỵ tất cả đã tử trận, toàn nước Ngô lúc đó lại không có người nào có đủ uy vọng như hai người ấy đủ để thống lĩnh toàn diện, tình hình loạn lạc trong nội bộ nước Ngô sẽ kéo dài rất lâu, lúc đó…chỉ cần Bá tướng quốc cất nhắc một tân vương đăng cơ, và mượn sự giúp đỡ của đại quân nước Việt ta, đồng thời sẽ hạ bệ tên Phù Sai hữu danh vô thực kia, thống nhất toàn bộ gi­ang sơn xã tắc nước Ngô, ha ha…”

Doãn Thường cười lớn, cầm lấy cốc rượu uống cạn. Câu Tiễn nghe xong lời đó, bất động chắp tay:

“ Nhi thần tuân mệnh.”

Hắn thở dài một tiếng, đưa tay vỗ vỗ liên tiếp vào đùi:

“ Tới lúc đó, hợp binh hai nước Ngô,Việt lại. Chúng ta trước mặt chư hầu thiên hạ sẽ có chỗ đứng vững chắc, lại sau đó nữa…, Ha ha!”

Doãn Thường cười một hồi, yếu ớt nói:

“ Ta sau khi kế thừa cơ nghiệp của Hạ Vũ, đã chịu sự áp bức của chư hầu Trung Nguyên, từ đó đến nay, ta vẫn chỉ trấn giữ vùng đất nhỏ bé hoang vu phía Đông Nam, còn vùng đất màu mỡ phì nhiêu do tổ tiên để lại thì phải cung kính gi­ao nộp cho chư hầu Tống châu, một ngàn năm qua vẫn đều như vậy, đến nay cuối cùng cũng đã thắp lên một tia hi vọng, có lẽ…dựa vào thời cơ tình hình trong nội bộ nước Ngô đang đại loạn, chúng ta khổ tâm sắp xếp một trận, rồi có thể dùng con đường này mà tiêu diệt chư hầu họ Cơ, đưa quân tiến lên phía bắc, từ từ thu phục lại được gi­ang sơn của tổ tông. Những việc này, nếu lúc quả nhân còn sống mà không thực hiện được, quả nhân hi vọng các con sẽ thay ta hoàn thành.”

“ Phụ Vương…”

Khuôn mặt Câu Tiễn bất giác thoáng một nét kích động.

Nước Việt là hậu nhân của Đại Vũ, tiên tổ là con của thứ phi của Hạ Hậu đế Thiếu Khang, Vũ được phong núi Thái Sơn, Hội Khế vốn gần với Thái Sơn nên chọn Hội Khế là nơi cử hành đại lễ ngồi thiền. Vào đời nhà Thương, thái ấp của nước Việt cũng ở khu vực sông Cổ Lôi, cũng chính là khu vực Hà Trạch Sơn Đông hiện nay. Về sau lại tiếp tục dời xuống phía nam, bị các chư hầu Chu triều gạt bỏ sang phía nam, tứ châu sơ biến đến nay liền một dải với Tô Châu của nước Ngô, cùng với sự lớn mạnh và nổi lên của nước Ngô tiếp tục mở rộng ranh giới nước Ngô về hướng nam mới hình thành hình dạng hiện tại, quá trình hình thành lịch sử này rất lâu đời rồi, nhưng bọn họ vẫn còn lưu truyền rất nhiều kí ức của tiên tổ, trong đó có vùng Hội Khế, rồi sứ mệnh thiêng liêng của việc thờ cúng đại Vũ. Là một cổ quốc có lịch sử lâu đời, bọn họ cũng hi vọng có thể đủ lực để gầy dựng lại cơ nghiệp vững mạnh của tổ quốc, trở thành chư hầu trong thiên hạ.

Lúc này, đại phu Cao Như bước lên phía trước tấu:

“ Đại vương, hiện tại Khánh Kỵ sống chết thế nào còn chưa biết, Phù Sai bên trong thành Cô Tô cũng không thấy có động tĩnh gì, hình như hắn đang nghe ngóng thông tin Khánh Kỵ tử trận, hai bên vì thế mà cầm cự không gi­ao chiến. Thời gi­an này kéo dài càng lâu, thì đối với đại doanh của Khánh Kỵ mà nói thì càng bất lợi, nếu như vậy, thì Khánh Kỵ sẽ hận nước Việt chúng ta thấu xương, hắn vì thế mà không để yên cho chúng ta, mà sẽ tiếp tục gây chiến. Nhưng mà, Khánh Kỵ đã phái thân tướng của hắn là đại tướng Anh Đào, dẫn binh men theo dòng sông, không ngừng xâm lấn vào biên giới nước Việt ta, theo thần được biết, thì người của Anh Đào gi­ao chiến không kiên quyết, hắn chỉ dẫn binh xuôi theo dòng sông mà đi, mục đích của hắn thật không rõ rãng, đại vương vì thế cần phải chú ý đề phòng.”

Thượng tướng quân Linh Cô Phù trong trận chiến với Khánh Kỵ đã bị Tái Cừu chém một nhát ngay ngực, đã có công lớn trên chiến trường, chi vị của thượng tướng quân đã do Cao Như tiếp nhận, quan mới nhậm chức, hắn tất phải biểu hiện tốt.

Bá nhăn mày, trầm ngâm nói:

“ Đại vương, Khánh Kỵ là người hiểu đạo lý, trọng đại cục, lúc này chỉ cẩn thận phòng thủ chúng ta viện trợ cho Phù Sai, vạn lần không lo hạ thành Cô Tô, an định gi­ang sơn Ngô quốc trước tiên, đằng này lại phái một cánh cô quân không nhừng gây rối biên giới nước Việt. Đại quân của Anh Đào cũng không thể xâm nhập được vào nước Việt ta, vậy mục đích của bọn họ…thật sự là rất kỳ lạ”

Lúc Câu Tiễn nghe xong những lời của Cao Như, trong lòng chìm vào dòng suy nghĩ trầm tư, lúc này mới nhẹ gi­ao động thần sắc, từ từ nói:

“ Bá tướng quốc nói có lý, Khánh Kỵ lúc này chính là đang dùng người uy hiếp biên giới, hơn nữa việc gấp rút của hắn bây giờ là nhân cơ hội Phù Khái đã chết, mà hạ thành Cô Tô, bình định nước Ngô. Vậy thì cớ gì lại phái một đại quân không quá mạnh đến uy hiếp biên giới nước Việt ta? Việc này thực sự khiến người khác suy nghĩ trăm bề cũng không tìm được lời giải đáp. Nhi thần suy nghĩ rất nhiều, nhưng chỉ tìm ra được một lí do, nhưng nghĩ rằng nó không hợp lí với thực tại, không biết…”

Doãn Thường chỉ có đứa con này là tuyệt đối sủng ái, nghe xong hắn cười nói:

“ Con trai ta chớ có băn khoăn, hôm nay nghị sự, quần thần chúng tướng đều tự do phát ngôn, hợp mưu hợp sức lại, bất kể là có lí hay vô lí, cứ nói rõ ra xem, nói không chừng ta có thể gợi ý điều gì.”

Câu Tiễn khom khom người nói:

“ Vâng. Phụ vương, nhi thần cho rằng, Khánh Kỵ nên tập trung toàn bộ binh lực, nhanh chóng công phá chiếm đóng thành Cô Tô, chỉ phái chưa tới năm ngàn quân không thể đánh bại được nước Việt chúng ta, liên tiếp gây rối, mưu kế này thật không thể giải thích được, trừ phi…bọn họ có một lí do không thể nói ra được. Vậy thì lí do gì mà bọn họ lại gấp gáp an định bản quân, thời khắc cần thiết để công phá thành Cô Tô có nhất thiết phải băn khoăn về nước Việt chúng ta mà gây rối như vậy không?”

Câu Tiễn hướng mắt từ từ nhìn lên, hắn thấy phụ thân và chúng thần đang nghi vấn chăm chú lắng nghe, hắn tiếp tục nói:

“ Nhi thần suy nghĩ rất nhiều, chỉ nghĩ ra một lí do, đó là…Khánh Kỵ có thể không có ở trong doanh trại của hắn, người Ngô có thể vẫn chưa tìm ra tung tích của hắn!”

Lời nói này khiến mọi người kinh động, mọi người trong đại điện ồ lên một tiếng, một hồi bàn tán xôn xao phát ra từ trong đại điện.

Doãn Thường khẽ nhăn mày, cảm giác những lời nói của Câu Tiễn có vẻ hoang đường, hắn có ý ngăn cản, nhưng không biết bằng cách nào có thể gỡ gạc được thể diện cho nhi tử của mình, hắn nhếch mép lên vài lần định nói, nhưng cũng không biết nói như thế nào. Câu Tiễn cúi đầu, lấy hết dũng khí nói tiếp:

“ Chỉ có duy nhất tình huống này, thì Yểm Dư, Tôn Vũ những người đó mới sợ chúng ta nhân cơ hội này mà khởi binh, lại sợ trong thành Cô Tô cũng nhân cơ hội này mà tái khởi phong vân, như thế mới không thể không thu binh mã lại, truyền tin ra bên ngoài nói là Khánh Kỵ trọng thương, hiện đang ở trong doanh trại dưỡng bệnh, như thế, một là có thể làm kinh hãi Phù Sai bên trong thành Cô Tô. Hai là có thể an định quân tâm, ba là có thể khiến cho nước Việt chúng ta không có cơ hội tấn công. Nhưng thực tế Khánh Kỵ sống chết còn chưa biết được, tăm tích cũng không biết, bọn họ tất phải tìm kiếm hắn, vậy nên phái đại quân, lấy lí do tấn công báo thù, nhưng kỳ thật hắn không chủ động gi­ao chiến với nước Việt chúng ta, mà chỉ xuôi theo dòng sông mà đi, với tình hình như vậy, thì bọn họ chỉ có một mục đích duy nhất, đó là tìm kiếm Khánh Kỵ, chứ không phải nước Việt ta.”

Tiếng xì xầm trên đại điện càng to hơn, một vị đại phu không chịu được bước lên phía trước chất vấn:

“ Điện hạ cho rằng, tên Khánh Kỵ kia trọng thương cô thân một mình xâm nhập vào nước Việt ta sao?”

Câu Tiễn cười đáp:

“ Không phải, ý của ta là…, Khánh Kỵ đến nay sống chết còn chưa biết, hơn nữa tăm tích không biết rõ, ngay cả quân Ngô cũng không biết tăm tích của hắn, vì vậy bọn họ mới tung tin như vậy để gây mê cảm các phương, rồi lại bí mật cử người đi tìm hắn.”

Nói đến đây, ánh mắt Câu Tiễn bỗng nhiên hướng về phía xa xa, rồi từ từ nói tiếp:

“ Theo phán đoán của ta, Khánh Kỵ trọng thương như vậy, hiện tại cũng đã sớm bỏ mạng nơi hoang dã nào đó rồi, chỉ là chưa có người tìm thấy thi thể của hắn mà thôi. Hoặc nếu, hắn thực sự chưa chết, trong lúc loạn lạc đó khó tìm được người của hắn, lúc đó hắn tiện thể trú ẩn ở một nơi nào đó. Việc hắn bị thương rồi lạc vào địa phận nước Việt ta, chuyện này là chính xác là hoang đường, hơn nữa nếu ta là người Ngô, cũng như bọn họ không dễ dàng gì từ bỏ, men theo dòng sông mà tìm kiếm, sống không thấy người, chết không thấy xác, nên hắn phái người nghi binh quấy rối nước Việt ta, nhưng thực tế là tìm kiếm tin tức của Khánh Kỵ, đó cũng là một lí do hợp lí.”

Doãn Thường vẫn cảm thấy cách nghĩ của hắn quá xa rời thực tế, nghe hắn nói đến đây, lập tức cười một tràng:

“ Ha ha, con trai ta nói cũng có lý, nếu là như vậy, Khánh Kỵ e rằng đã nằm dưới đống cát kia rồi, đã lâu như vậy mà sống không thấy người, chết không thấy xác, vậy thì xác nó phơi trên hoang dã, bị thú vật xơi mất rồi cũng nên. Nếu hắn thật sự mang trọng thương rời khỏi chiến trường, cũng không thể tìm đến địa phận nước Việt được, hắn ở trong địa phận nước Ngô đã lâu như vậy không liên hệ với đại quân của hắn, ta e rằng hắn đã chết ở nơi nào đó rồi, quả nhân chỉ cần yên phận quan sát mọi biến động, ngồi mát mà hưởng bát vàng là tốt rồi.”

Bá nhấp nháy đôi mắt, vội vàng bước tới vài bước, nói:

“ Đại vương, thần cho rằng những lời của thái tử rất có lí, không cần biết hiện tại Khánh Kỵ ra sao, hắn đang ẩn náu ở đâu, nhưng người của hắn phản ứng như vậy, thì rất có khả năng ngay cả người của hắn cũng chưa nắm được thông tin gì về hắn cả. Khánh Kỵ hiện tại sống chết hay mất tích ở đâu, chúng ta cũng không thể biết được, nhưng chúng ta có thể lợi dụng việc này…”

“ Là sao?”

Nhìn thấy Bá tán thành ý kiến của Câu Tiễn, Doãn Thường rất vui sướng, vội vàng hỏi:

“ Bá tướng có cao kiến gì?”

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 227: Cho phép

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: vip­van­dan

Bá hành lễ rồi nói tiếp:

“ Thần không dám, không dám, ý của thần là, người Ngô cũng không biết tăm tích của Khánh Kỵ, bọn chúng đã lùng sục khắp Ngô quốc mà cũng không tìm thấy hắn, tình thế này có thể thậm chí hắn đang ở trong lãnh thổ của nước Việt ta, đúng là bọn chúng không chịu từ bỏ, có bệnh loạn, thì trong lòng phải cố gắng chạy chữa. Nếu như vậy, thì tại sao chúng ta không tiêu diệt tên Anh Đào cùng đám cô quân kia? Nước Việt ta và nước Ngô sớm muộn gì cũng xảy ra đại chiến, hiện tại lực lượng của bọn chúng cũng đã suy yếu đi rất nhiều, đây chính là thời cơ lớn mạnh của đại Việt, làm suy yếu đại quân của quân Ngô của chúng ta.”

Doãn Thường ngạc nhiên nói:

“ Bá tướng nói là…, Quả nhân còn chưa tìm được một Ngô vương thay thế cho tên Phù Sai kia, bây giờ mà phát binh gây chiến với tên Anh Đào kia? Việc này…có quá gấp gáp không?”

Bá nói tới nói lui, thực ra cũng xem cái ý kiến của Câu Tiễn kia là chuyện nhỏ, mà hắn dự liệu việc của hắn mới là chuyện lớn, hiện tại Việt vương và quần thần không thể lí giả được thâm ý của hắn, nên trong lòng có vẻ đắc ý, hắn cười thầm một cái rồi chắp tay nói:

“ Không đúng, ý của thần là, chúng ta tại sao lại không lợi dụng cái tin tức tăm tích bất minh của Khánh Kỵ, rồi dụ dỗ đại quân của tên Anh Đào kia tự đem mạng đến?”

Hắn nhìn Câu Tiễn một lúc, lại tiếp tục bổ sung một câu:

“ Đương nhiên,trước mắt chúng ta hiện tại là Khánh Kỵ xác thực không phải ở trong doanh trại, ngay cả người của hắn cũng không biết tăm tích của hắn.”

Câu Tiễn cười nhẹ, hắn biết rằng cái việc này hắn khởi xướng ra, lúc đầu hắn cho rằng sai lầm, nhưng bây giờ không phải mình hắn cảm thấy mất mặt. Câu Tiễn cũng không nói rõ, hắn bước lên vài bước nói:

“ Phụ vương, nhi thần đã hiểu rõ ý tứ của Bá tướng quốc rồi. Bá tướng nói là, Anh Đào đã đi khắp nơi nhưng đều không thể tìm được Khánh Kỵ, nhưng lại không chịu tin rằng hắn đã chết, thậm chí còn hoang tưởng rằng hắn đã lọt vào nước Việt ta, vậy thì chúng ta cứ làm ra vẻ, cho rằng Khánh Kỵ men theo dòng sông, rồi chạy đến lãnh thổ của nước Việt.”

Hắn cúi đầu, để yên cho quần thần cùng với Doãn Thường suy ngẫm ý kiến của hắn, rồi tiếp tục nói:

“ Anh Đào dấy binh gây rối vào biên giới nước Việt ta, tất sẽ sai thám mã xâm nhập vào nước Việt nghe ngóng tình hình. Chúng ta không ngần ngại mở cửa thành để hắn vào kiếm tìm tung tích Khánh Kỵ, rồi tung tin đi, nói rằng có người nhìn thấy một người giống Khánh Kỵ mang trọng thương lạc nhập vào nước Việt, Anh Đào nếu nhận được tin này, tất sẽ lo lắng, mà không tính toán lợi hại, tăng cường dẫn binh tìm kiếm trong lãnh thổ nước Việt, lúc đó…chúng ta bốn hướng mai phục, tiêu diệt tên Anh Đào này cùng đại quân của hắn thật dễ dàng như trở bàn tay thôi?”

Linh Cô Phù vỗ tay tán thành:

“ Diệu kế, đánh ra ngoài không bằng dụ vào trong, đây đúng là diệu kế, chỉ có vấn đề là Khánh Kỵ phải thật sự tăm tích bất minh thì mới trúng kế này thôi.”

Câu Tiễn cười nói:

“ Vậy thì như thế nào? Việc chúng ta cần làm, chỉ là tung tin đồn nhảm, rồi mở cửa đón địch mà thôi, đại quân ta vì phòng ngừa quân Ngô xâm nhập mà ngay từ đầu đã tập kết ở biên giới hai nước, như thế thì chúng ta có mất mát gì đâu”

Doãn Thường cùng quần thần, nhìn thấy tất thảy sắc mặt đều kì dị, rồi mới thì thầm trong miệng, không ai có thể nói rõ chủ ý của mình ra, hắn vỗ đùi một cái rồi nói:

“ Chúng ta làm theo cách này, Bá tướng quốc gấp rút tìm một người trong vương thất nước Ngô để làm Ngô vương, gây loạn cho nước Ngô. Vương nhi sẽ thực hiện kế sách dụ binh, rồi dụ dỗ tên Anh Đào kia đến, tiêu diệt đại quân của chúng!”

Câu Tiễn cùng với đám quần thần nhất tề chắp tay hành lễ, đồng thanh nói:

“ Thần, tuân chỉ.”

…………………….

Bên bờ hồ trong rừng, có một túp lều.

Phía trước lều có đặt một chiếc nồi trên bếp từ những viên đá xếp lại thành, bên trên bếp treo một chiếc giá, phía dưới khói tỏa ra nghi ngút.

Xung quanh là rừng cây xanh tốt, trong rừng rất ẩm ướt, không khí trong lành, thoang thoảng đâu đó mùi hương thơm của cỏ lá xanh tốt.

Một vị đại hán cao lớn thân hình vạm vỡ ngồi trên một phiến đá bên cạnh, đối diện hắn là một vị tiểu cô nương xinh đẹp lanh lợi, hai người trong tay cầm một chiếc bát bằng gốm.

“ Ài!”

Khánh Kỵ nhẹ thở một hơi

Đậu trộn cám nấu, hương vị đó, cảm giác đó, Khánh Kỵ nuốt ừng ừng một hơi giống như con vịt tìm mồi, hắn nổ lực nuốt bát thức ăn còn nóng hổi, khiến cho cổ họng hắn nóng rát hừng hực, hơn nữa vị của bát canh này quả là khó nuốt trôi với hắn. Nhưng đây là món ăn tốt nhất mà Thi đại ca có thể đem ra cho hắn dùng, Khánh Kỵ vì thế mà có thể khỏe mạnh không hề hấn gì, hắn chỉ sợ làm tổn thương đến lòng tự trọng của vị chủ nhân rất nhiệt tình cùng với cô bé dễ thương rất có lòng tự tôn này.

“ Ài!”

Tiểu Quang cô nương cũng thở một hơi dài, cô bé hớp một hớp cơm rồi đưa mắt nhìn Khánh Kỵ, sau đó cô bé lại nhăn nhăn đôi mi dài giống như một vị tiểu đại nhân húp sột soạt.

Hai người thi nhau thở một tràng dài, cuối cùng Khánh Kỵ chịu không được nói:

“ Này! Tiểu Nhã đầu, cháu nhỏ như vậy, có chuyện buồn gì mà cứ thở dài hoài vậy?”

“ Hầy! Cháu không thể buồn được sao? Đồ ăn của nhà cháu thực tại rất ít, thúc lại to lớn như vậy, ăn nhiều như vậy, bắp ngô này, vốn đủ ăn trong ba ngày, nhưng thúc một loáng đã…, vậy cháu không buồn được sao, vậy phải làm sao cho được đây…?

Khánh Kỵ: “…”

Tiểu Quang đưa mắt nhìn hắn một cái, bỗng nhiên cô bé giương mặt cười:

“ Được rồi, được rồi, không buồn nữa, đợi hai ngày nữa cha đưa thúc quay về, lúc đó thúc sẽ không ăn hết thức ăn của gia đình cháu rồi.”

Khánh Kỵ áy náy nói:

“ Việc này…thực khó xử quá, đợi thúc quay về, thúc chắc chắn sẽ sai người tặng cho gia đình cháu một số lễ vật lớn để tạ ơn cứu mạng.”

Tiểu Quang lại nhìn hắn, đáp:

“ Tùy tâm của thúc thôi.”

Cô bé linh động nhìn trái phải hai hướng, rồi nói nhỏ:

“ Này, đợi tí nữa, cháu sẽ cho thúc đồ ăn ngon.”

“ Đồ ăn gì ngon?”

Tiểu Quang cười thần bí:

“ Một lát nữa thúc sẽ biết, nhưng…thúc phải giữ bí mật đấy nhé, không được nói cho bố cháu biết.”

Khánh Kỵ bị điệu bộ chân thành của cô bé khiến hắn phì cười:

“ Ha ha, được rồi, có cần ngoéo tay không?”

“ Ngoéo tay là sao?”

“ À…không có gì, một câu tục ngữ. ha ha…”

Tiểu Quang hoài nghi đưa mắt nhìn hắn, cô bé cúi đầu húp cơm. Rồi đưa mắt liếc nhìn hắn, cô bé húp một húp cơm, rồi mới khẽ nói:

“ Thúc thúc xấu, nhất định không phải là người tốt.”

Khánh Kỵ mặt mũi không vui nói:

“ Không có căn cứ gì cả, ta có vẻ gì mà giống người xấu lắm sao?”

“ Người xấu thì nhất định phải có chữ ‘xấu’ viết trên mặt hắn sao?”

Tiểu Quang vui vẻ cười tươi, sau đó lại vội vàng ngậm miệng lại. Cô bé đang trong gi­ai đoạn thay răng, nên hiện tại răng mọc không đều. Thiếu nữ Gi­ang Nam dậy thì sớm, mười ba mười bốn tuổi đã có thể sinh con được rồi, Tiểu Nhã đầu này mặc dầu mới khoảng 6, 7 tuổi, nhưng so với những người phụ nữ đã xuất giá thì không hơn nhau bao nhiêu, ngày thường tiếp xúc với nhau, cô bé giờ đây đã biết làm đẹp, trang điểm nữa kia.

Thi đại ca vốn là người Việt, trong chiến tranh bị gãy một chân, lúc này mới quay trở về quê hương làm một ngư dân bình thường. Do ở đây giáp ranh với nước Ngô, nên vợ hắn là người Ngô. Do địa bàn hai nước tiếp giáp, nên cư dân hai nước sống lẫn lộn, lại thường phải sống trong cảnh chiến loạn, nên điều kiện gia đình ai nấy cũng nghèo hèn cả. Thi đại ca sớm đã muốn chuyển nhà đến vùng phụ cận Chư Ký, nơi đó tương đối phì nhiêu. Ở đó nếu đánh cá thì cũng bán được với giá tốt, nhưng vợ hắn lúc này lại mang trọng bệnh, bệnh kéo dài đến lúc này chưa khỏi.

Thi đại ca vốn là người thật thà nhân hậu, vả lại con người lúc đó ít có khái niệm quốc gia, quốc, đó là quốc nhân và chỉ những tầng lớp quý tộc mới xem quốc là chuyện đại sự, còn những người nhà quê thì chỉ cần người thống trị tương đối hiểu rõ nhân tình thế thái là được rồi, họ hoàn toàn không để ý vua họ Cơ hay là họ Tự. Khánh Kỵ được người này cứu mạng, nhưng hắn không thể gọi người đến trọng thưởng người này được, hơn nữa Khánh Kỵ ở đây đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn của từ hắn, hắn đã đáp ứng rằng hai ngày nữa sẽ đưa Khánh Kỵ quay về nước Ngô.

Hai ngày nay, hắn mang một số tài sản đã tích cóp bấy lâu nay vào thành, để dễ dàng chữa bệnh, vợ của hắn tạm thời trú ngụ tại nhà một người quen, đợi cho mọi việc sắp xếp ổn thoải, hắn sẽ đem cô con gái gởi vào trong thành, rồi sau đó dẫn Khánh Kỵ quay về. Do thôn trang này rất nhỏ, sợ trong nhà chứa một người lạ sẽ dễ bị người khác phát hiện, nên Thi đại ca dẫn hắn vào một khu rừng ít người qua lại trú ngụ, rồi sai con gái chăm lo thức ăn nước uống cho hắn.

Ăn cơm xong, Tiểu Quang cô nương bỏ thức ăn, chén bát vào giỏ trúc, đem xuống hồ nước bên cạnh rửa sạch, sau đó vội vã quay lại, đặt những thứ đó vào trong lều, sau đó cô bé nói với Khánh Kỵ:

“ Cháu đỡ thúc vào trong lều nghỉ ngơi nhé.”

“ Ah…cháu chẳng phải bảo cho thúc đồ ăn ngon sao?”

Tiểu Quang nhíu mày bỡn cợt hắn một cái, rồi nói:

“ Cháu bảo thúc, thúc đã giúp được cho cháu chưa? Thúc cứ nghỉ ngơi cho khỏe đã, đợi tới bữa cơm tối, cháu nhất định có đồ ăn ngon cho thúc.”

Khánh Kỵ cười một lúc, cô nương này còn nhỏ tuổi như vậy, có thể làm được gì, đi săn chắc chắn không được rồi, hắn đoán rằng có thể cô bé này hái được một số rau rừng có mùi vị rất dễ ăn mà thôi. Chắc nó cũng giống như đậu nấu, trái cây có mùi vị không kì dị thì có thể dễ ăn hơn, tóm lại đây là ý kiến của Tiểu Nhã đầu này, Khánh Kỵ cũng không nói rõ ra, chỉ đợi cho cô bé mang cho hắn sự ngạc nhiên vui sướng gì thôi.

Khánh Kỵ quay về lều rồi nằm xuống dưới manh chiếu bằng cỏ, trò chuyện cùng cô nương bé nhỏ, hắn kể cho cô bé nghe một câu chuyện cười, cô bé chăm chú, ngồi bên cạnh lắng nghe, trò chuyện được một lúc, Khánh Kỵ mệt mỏi rồi từ từ chìm vào giấc ngủ.

“ Này!”

Tiểu Quang nhẹ nhàng lay động gọi hắn một tí, Khánh Kỵ phát một tiếng ngáy nhẹ nhẹ, Tiểu Quang cười vui, rồi rón ra rón rén bước ra ngoài.

“ Tiểu Quang…”.

Khánh Kỵ tỉnh dậy gọi một tiếng, nhưng không nghe thấy tiếng trả lời. Vài ngày nay hắn nằm trên giường nghỉ ngơi, lúc tỉnh lúc mê, nhưng ngủ thì ngủ rất lâu. Do lúc bị thương hắn mất máu quá nhiều, nên hắn không hẳn là buồn ngủ, nên cũng rất nhanh tỉnh dậy.

Hắn thở một hơi dài, rồi từ từ ngồi dậy. Trong rừng vắng vẻ, gió thổi hiu hiu, nhưng hắn không thấy Tiểu Quang đâu.

“ Tiểu Quang…”

Khánh Kỵ lại kêu một tiếng, trong lòng cảm thấy vô cùng lo lắng, nơi đây mặc dầu cách trong thôn không quá xa, nên chắc không có mãnh thú, nhưng nó chỉ là một đứa trẻ….

“ Tiểu Quang, Tiểu Quang…”

Khánh Kỵ vội gọi lớn, nhưng vẫn không có tiếng ai trả lời, bất đắc dĩ, Khánh Kỵ đành phải chống cây gậy, cố gắng chịu đau, đi vào trong rừng tìm kiếm:

“ Tiểu…”

Hắn còn chưa nói xong. Đột nhiên dưới mặt hồ bình lặng kia một âm thanh bập bõm, Khánh Kỵ đưa mắt nhìn xuống, chỉ nhìn thấy một mỹ nhân ngư đang bơi dưới hồ, sau đó lại lặn xuống dưới nước, Khánh Kỵ chỉ có thể nhìn thấy nàng trong chớp mắt đã lặn xuống dưới dòng nước, chỉ thấy một vệt nước dài, cảm thấy có gì đó óng ánh lung linh dưới dòng nước kia.

Khánh Kỵ đứng bên hồ, nước hồ trong xanh lấp lánh có thể nhìn thấy đáy, nó giống một miếng mĩ ngọc dịu dàng. Mặt trời chiếu sáng xuống dòng nước, lấp lánh lấp lánh những gợn sóng mê li lòng người.

Bỗng nhiên, hắn căng mắt nhìn thấy mỹ nhân ngư kia bơi qua. Trong dòng nước trong xanh kia, cái thân thể kia linh hoạt vô cùng, hình bóng đó bơi nhanh vào bờ. Do người chỉ cách bờ chỉ khoảng một trượng, hơn nữa tốc độ bơi lại rất nhanh, trên dòng nước bình lặng như tờ kia hắn nhìn thấy một vệt nước vụt qua.

Thật đẹp! Đúng là một mĩ nhân rất nguyên thủy, rất tự nhiên. Gió nhẹ bay qua, rừng cây khẽ dao động, dòng nước tĩnh lặng, cô gái dưới dòng nước bơi qua để lại một vệt dài, tự nhiên để lại những gợn sóng lăn tăn. Cảnh tượng đó cấu thành một bức tranh tĩnh động kết hợp tuyệt vời, khung cảnh đẹp đẽ này, cho dù nàng có là một nữ tử trưởng thành xinh đẹp xao động lòng người, cũng tuyệt không khiến người khác chứng kiến khung cảnh này mà có dã tâm khác, đó là một cô gái xinh đẹp thuần khiết, một thân hình tràn trề nhựa sống.

Hơn nữa nàng khuất vào dòng nước rất nhanh, Khánh Kỵ như đang chứng kiến một khung cảnh thần tiên vội vàng tỉnh lại, hắn gấp rút quay người, trong đầu hắn định quay về lều trại, nhưng vết thương trên người khiến hắn không thể đi nhanh được. Hắn càng nóng lòng, nên quay đầu nhìn về cánh rừng phía sau túp lều, cất tiếng gọi lớn:

“ Tiểu Quang, cháu ở đâu?”

“ Rào!”

Phía sau lưng hắn vọng đến một âm thanh lạ. Khánh Kỵ cũng không quay đầu lại, tiếp tục gọi:

“ Tiểu Quang, trong rừng rất nguy hiểm, cháu đi đâu rồi?”

Nói xong hắn loạng choạng bước đi, từng bước từng bước hướng vào trong rừng mà đi.

Phía sau, Tiểu Nhã đầu ngạc nhiêu trân mắt đứng nhìn, một tay che miệng, còn tay kia cầm một con cá, ngón tay cầm ngay lấy cái mang của con cá, nửa thân hình cô bé chìm dưới nước. Cô bé không chạm chân tới đáy hồ, nhưng đôi chân nhỏ kia đạp đạp liên tục nên vì thế mà cô bé nổi lên trên mặt nước, bờ vai cô bé cũng không hề cử động, khả năng bơi đứng của cô bé này cũng không phải là tầm thường.

Khánh Kỵ mang điệu bộ giống như một lão thái thái đứng chống gậy rồng, từ từ bước vào trong rừng, nhìn thấy Khánh Kỵ đã khuất bóng, Tiểu Quang mới nhẹ nhàng thở một hơi dài, lúc này cô bé mới phát hiện mình toàn thân không mảnh vải che thân, trong lòng hoảng hốt, cô bé vội vàng ngập xuống nước, trong lúc vội vàng như thế khó tránh khỏi uống một bụng no nước…

Lúc Khánh Kỵ quay lại, thì Tiểu Quang đã mặc áo quần rồi, hiện cô bé đang bận bịu phía ngoài lều, một chiếc nồi nghi ngút treo trên giá, phía dưới lửa cháy bập bùng, bên cạnh là một chiếc bát lớn, bên trong vài con cá tươi đã làm sạch thơm phức, ngoài ra còn có một ít rau rừng phía trên.

Nhìn thấy Khánh Kỵ quay về, Tiểu Quang nhìn hắn cười hồn nhiên, cô bé sau khi tắm xong, khuôn mặt trắng bỗng trở nên hồng hào, cặp mắt đen như hai quả hồng đào ướt lệ nhìn hắn, cô bé ôm ngực cười đắc ý, điệu bộ lúc này giống như một đứa trẻ được người lớn khen ngợi vậy.

Khánh Kỵ lúc này đã hiểu rõ cô bé nói tối nay cho hắn ăn thức ăn ngon là ý gì rồi, nhưng hắn vẫn cố làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi:

“ Tiểu Quang, cháu đi đâu về vậy, trong rừng này nói không chừng có ác thú đó, làm cho ta lo lắng…, cá này từ đâu ra vậy, cha cháu quay về rồi sao?”

Khánh Kỵ vừa nói vừa nhìn đông nhìn tây, Tiểu Quang cười lên một tiếng nói:

“ Đừng tìm nữa, cha cháu vẫn chưa về, cá này do cháu bắt đó.”

“ Cháu…”

Khánh Kỵ biết, nhưng giả vờ không tin, cô bé càng tỏ vẻ đắc ý, càng vui vẻ, hơn nữa mặc dầu còn nhỏ, nhưng thân thể cũng không thể tùy tiện để người khác nhìn được, trong lòng hổ thẹn, hắn cố gắng phối hợp lời nói với cử nhỉ, nét mặt hắn trầm ngâm, rồi nghiêm mặt nói:

“ Cháu bé như vậy, làm sao có thể chèo thuyền, thả lưới bắt cá được chứ? Tiểu Quang, cháu bắt trộm cá của nhà ai, mau đem trả lại cho họ mau, ta không ăn cá này đâu.”

“ Cái này…”

Tiểu Quang hai tay ôm bụng, cười hả hê, cô bé vui vẻ nói tiếp:

“ Cá này thật do chính tay cháu dùng tay bắt được, thúc xem, tóc của cháu còn ướt đây này, khả năng bơi lội của cháu thì bọn trẻ con trong thôn này không đứa nào bì được đâu, tài năng bắt cá của cháu cũng thuộc hàng nhất của thôn này.”

“ Thật vậy sao, lợi hại vậy sao!”

tien hiep moi 2Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ