tien hiep moi 2

By anhgau15

180K 178 10

ai muon daoc dau y phan 6 thi lay wattcode sau ma len2380725 More

tien hiep moi 2
thuong thien full 1
thuong thien full 2
thuong thien full 3
thuong thien full 5 het
thuong thien full 4
Tinh Không Chi Dực full 1
Tinh Không Chi Dực full 2
Tinh Không Chi Dực full 3
Tinh Không Chi Dực full 4
linh la gioi full 1
Linh La Giới full 2
Linh La Giới full 3
Linh La Giới full 4
tac dam
tac dam full 2
tac dam full 3
tac dam full 4
tac dam full 5
nhat ky duong sa tang <truyen cuoi>
Lôi Hỏa c1-40
<kiem hiep>thien dia can khon full
chung than chi nguyen full 1
Trùng Sinh Chi Tặc Hành Thiên Hạ c1-c96
chung than chi ngyen full 2 het
Thành Cát Tư Hãn full 1
Thành Cát Tư Hãn full 2 het
Thương Thiên Phách Tuyết full 1
Thương Thiên Phách Tuyết full 2
Thương Thiên Phách Tuyết full 3
Thương Thiên Phách Tuyết full 5 het
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 1
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 2
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 3
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 4
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 5
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full6
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 7
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 8
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 10
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 9
Hoán Kiểm Trọng Sinh (换脸重生) full 11 het
Đại Đường Tửu Đồ full 1
Đại Đường Tửu Đồ full 2 het
Đại Tranh Chi Thế full 1
Đại Tranh Chi Thế full2
DAI TRANH CHI THE FULL 3
Đại Tranh Chi Thế full 4
Đại Tranh Chi Thế full 5 het
Lưu Manh Lão Sư (流氓老师) full1 c1-c731
Lưu Manh Lão Sư (流氓老师) full 2
Lưu Manh Lão Sư (流氓老师) full 5
Lưu Manh Lão Sư (流氓老师) full6 c1-c731 het
Vô Địch Hắc Quyền full 1 hay
Vô Địch Hắc Quyền full 2
Vô Địch Hắc Quyền full 3
Vô Địch Hắc Quyền full 4
Vô Địch Hắc Quyền full 5
Vô Địch Hắc Quyền full 6
Vô Địch Hắc Quyền full full 7 het
Dị Giới Chí Tôn Lão Sư full 1 c1-c140
Kiếm Phệ Thiên Hạ full 1 q4-c191
kiem phe thien ha full 2 -q4c191
kiem phe thien ha full 3 -q4c191
kiem phe thien ha full 4q1-q4c191
Hỗn Nguyên Võ Tôn full 1
Hỗn Nguyên Võ Tôn full 2
Hỗn Nguyên Võ Tôn full 4
Hỗn Nguyên Võ Tôn full 3
dau y full 1 hay
dau y full 2
dau y full 3
dau y full 4
dau y full 5
dau y full 7 het
ngu nu tam kinh full 1
ngao kiem lang van full1
Ngạo Kiếm Lăng Vân full 2
Trọng Sinh Truy Mỹ Ký full1
Trọng Sinh Truy Mỹ Ký full 2
Trọng Sinh Truy Mỹ Ký full 3
Trọng Sinh Truy Mỹ Ký full 4
Trọng Sinh Truy Mỹ Ký full 5 het
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 1
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 2
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 3
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 4
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 5
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 6
Trọng Sinh Phong Lưu Thiếu Gia full 7 het
Cận Thân Bảo Tiêu full1
Cận Thân Bảo Tiêu full 2
Cận Thân Bảo Tiêu full 3
Cận Thân Bảo Tiêu full 4
Cận Thân Bảo Tiêu full 5
Cận Thân Bảo Tiêu full 6
Cận Thân Bảo Tiêu full 7
Cận Thân Bảo Tiêu full 8 het
Bất Diệt Kiếm Thể full 1
Bất Diệt Kiếm Thể full 2
bat diet kiem the full 3
bat diet kiem the full 4
bat diet kiem the full 5
bat diet kiem the full 6
bat diet kiem the full 7
bat diet kiem the full 8
bat diet kiem the full 9
bat diet kiem the full 10 het
Ngạo Kiếm Lăng Vân full 3
Ngạo Kiếm Lăng Vân full 4
ngao kiem lang van full 5
ngao kiem lang van full 6
ngao kiem lang van full 7
ngao kiem lang van full 8
ngao kiem lang van full 9 het
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 1
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 2
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full3
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full4
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 5
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 6
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 7
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 8
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 9
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 10
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 11
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 12
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 13
Giang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 14
Gi­ang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 16 het
Gi­ang Sơn Như Thử Đa Kiêu full 15
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full1
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full 2
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full 3
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full 4
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full5
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full 6
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则)full7
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full8
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full9
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full10
Ác Ma Pháp Tắc (恶魔法则) full 11 het
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 1
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 2
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 3
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 4
lang thien truyen thuyet full 5
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 6
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 7
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 8
Lăng Thiên Truyền Thuyết full 9 het
tac dam 6 full het
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full1
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full 2
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full3
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full 4
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full5
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full 6
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full 7
Võ Động Thiên Hà (武动天河) full 8 het
Tống Y (宋医) full1
Tống Y (宋医) full 3
Tống Y (宋医) full 4
Tống Y (宋医) full 5
Tống Y (宋医) full 6
Tống Y (宋医) full 7
Tống Y (宋医) full 8
Tống Y (宋医) full 9
Tống Y (宋医) full 10 het (hay)
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full1
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full2
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 3
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 4
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 5
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 6
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 7
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 8
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 9
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 10
Khí Trùng Tinh Hà (气冲星河) full 11 het
linh la gioi full 5
linh la gioi full 6
linh la gioi full 7
Linh la gioi full 8
Linh La Gioi full 9
Linh La Gioi full 10
Linh La Gioi full 11
Linh La Gioi full 12 het
Âm Công full
Thuong thien phach huyet full 4
Hon Nguyen Vo Ton full 5
Hon Nguyen Vo Ton full 6
Hon Nguyen Vo Ton full 7 het

Tống Y (宋医) full 2

655 0 0
By anhgau15

Chương 95: Nhị nữ học y.

Đỗ Văn Hạo nói: “Trước tiên cho nói qua cho các ngươi biết thầy thuốc xem bệnh như thế nào. Đầu tiên, muốn hiểu rõ người đó mắc bệnh gì, phải quan sát kỹ lưỡng toàn bộ, là phương pháp tổng hợp lại để chẩn bệnh. Chính là nhìn, nghe, hỏi, tiếp xúc, đây là bốn khía cạnh để kiểm tra bệnh tình, tổng hợp bốn phương diện này, cuối cùng phán đoán người bệnh có triệu chứng gì, mắc bệnh gì. Bệnh vị cùng bệnh tính là gì, sau đó tùy bệnh mà bốc thuốc . Cho nên, nhìn, nghe, hỏi, sờ bốn phương pháp chẩn trị này đều phải hiểu rõ, đều phải biết mới có thể thu được đầy đủ tin tức để hỗ trợ biện chứng”.

Nhị nữ gật đầu, Bàng Vũ Cầm nói: “Nhìn, nghe, hỏi, sờ là như thế nào?”

“Nhìn chính là quan sát tình huống của người bệnh, cả toàn thân cùng đầu, mặt, ngũ quan, tứ chi, nơi bài tiết, đặc biệt tình lưỡi tượng, chứng bệnh khác nhau sẽ có những biến hóa khác nhau, nghe chính là nghe âm thanh cùng mùi vị, kể cả hô hấp, nói chuyện ho khan, âm thanh trái tim, âm tràng vị cùng một số mùi vị đặc thù, những chứng bệnh bất đồng thì tạo thành những biến hóa bất đồng, nhìn ra được điều này, sẽ biết là chứng bệnh gì. Một lương y đối với những biến hóa này đều phải thuộc lòng. Hỏi chính là hỏi cảm giác chủ yếu thường có trong thời gi­an phát bệnh của người bệnh hỏi về nóng lạnh, đau đớn, giấc ngủ, ăn uống, và những điều khác… v.v… Sờ chính là sờ mạch tượng, đây là một trong những phương pháp chủ yếu để thầy thuốc hiểu rõ bệnh tình. Nhất thời bây giờ nói cũng không hết được, như vậy đi, gặp phải người bệnh cụ thể, ta sẽ tranh thủ giảng cho các ngươi”.

Tuyết Phi Nhi đương nhiên chưa đủ, nói: “Vậy trước tiên ngươi dạy ta các thiết chẩn (1) có được hay không? lần sau khi gặp một người bệnh, ta sẽ thử bắt mạch”.

“Được thôi”. Đỗ Văn Hạo tiện tay nắm lấy tay Bàng Vũ Cầm, chỉ vào cổ tay nàng nói: “Huyết mạch quán thông toàn thân, bên trong nối liền với tạng phủ, thông với các thớ thịt bên ngoài, cho nên mạch tượng có thể phản ánh toàn bộ chức năng của tạng phủ, khí huyết, tổng tình huống âm dương. Chủng loại tượng mạch, từ xưa đến nay kiế giải không giống nhau, Tây Tấn Vương Thúc Hòa cùng với (Mạch Kinh) phân thuật tam bộ cửu hầu, mạch pháp cổ tay, cùng với hai mươi tư loại mạch tượng. Minh triều…, ôi không phải thời đại…, nghiên cứu mạch tượng nhiều hơn một ít với hai mươi tám loại mạch tượng. Cũng đã qua nghiên cứu tỉ mỉ”.

Tuyết Phi Nhi sờ sờ mạch đập cổ tay, ngạc nhiên nói: “Chỉ sờ vuốt như vậy là có thể biết bệnh gì? thật là thần kỳ!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Đương nhiên không phải vậy, dựa vào nhắm mắt bắt mạch có thể biết là bệnh gì, đó là khoác lác. Thiết chẩn chỉ là một trong bốn phương pháp chẩn mạch, biện chứng nhất định phải tập hợp các phương pháp chẩn bệnh, không thể thu được dưa hấu thì bỏ hạt mè hiểu đầu thì bỏ qua cuối, như vậy sẽ trở thành đầu thừa đuôi thẹo chính là thầy thuốc lang băm đó. Trong tứ chẩn một loại cũng không thể thiết, chứng bệnh cụ thể có thể được biểu hiện rõ trong một hoặc vài phương pháp”.

“Hay là ngươi nói qua làm thế nào để chẩn mạch nha”.

“Ngươi nha, sốt ruột như vậy, tính cách này rất không phù hợp với nghề y, “À!” thầy thuốc phải Thái Sơn sụp đổ trước mắt mà vẫn bình tĩnh, gặp nguy tính toán không loạn, gặp phải bệnh nhân mắc bệnh nặng ngàn cân treo sợi tóc cũng không thể rối loạn chân tay, chỉ như vậy mới có thể xem bệnh chuẩn xác, tìm được biện pháp hữu hiệu để cứu chữa. Lại nói về thiết chẩn, phương pháp thiết chẩn ví dụ như Tố Vấn, thì có “tam bộ cửu hầu chẩn pháp” là kiểm tra toàn bộ nhịp đập của huyết mạch ở khắp thân thể, Y Thánh Tượng Trọng Cảnh ở trong Thương Hàn Tạp Bệnh Luận cũng có đưa ra mạch cổ tay, mạch dương, Thái Khê tam bộ chẩn y pháp mà thầy thuốc vẫn thường dùng chính là bắt mạch cổ tay chẩn bệnh. Mạch cổ tay từ bàn tay tới khuỷu tay gồm thốn, quan, xích ba bộ mạch, hai tay đều có ba bộ, tất cả là sáu bộ mạch”.

“Toàn thân có rất nhiều mạch máu, vì sao chỉ cần chẩn mạch ở cổ tay?”

“Hỏi rất hay! Kỳ thật đạo lý này rất đơn giản. Cổ tay thuộc về Thủ Thái Âm Phế Kinh mạch. Là nơi mà huyết lưu tuần hoàn lúc đầu, chạy dọc mười hai kinh mạch theo toàn thân sau đó lại quay về cổ tay. Cho nên cổ tay là nơi hội tụ mạch máu. Mà cổ tay mạch khí rất vượng. Mạch tượng cũng rất rõ ràng. Hơn nữa mạch cổ tay nằm ở trên cổ tay lúc bắt mạch cũng tương đối thuận tiện. Nếu như chẩn ở những vị trí khác, tỷ như Trương Trọng Cảnh nói về Phu dương, Thái Khê. Đây là hai huyệt đạo nằm ở trên chân. Nếu như là một lão hán thì còn tốt, cùng lắm là ở chân có mùi thối. Nhưng nếu như là một đại cô nương, hay tiểu tức phụ. Chung quy không thể ôm gót ngọc người ta mà sờ tới sờ lui được?”

“Hi­hi­hi…” Nhị nữ che miệng cười khúc khích.

Tuyết Phi Nhi khuôn mặt cổ quái nói: “Nếu Cầm tỷ bị bệnh. TIên sinh có thể cầm lấy gót sen của nàng chẩn Phu Dương, Thái Khê. Nàng không ngại ngùng mà còn rất vui ý chứ”.

“Ngươi, cái cô gái chết bầm kia! Đánh cho bây giờ!” Bàng Vũ Cầm xấu hổ đỏ mặt, đưa tay nhéo nàng.

Tuyết Phi Nhi cười khanh khách né tránh: “Được rồi đừng có náo loạn nữa. Tiên sinh đang truyền y thuật đó!”

Bàng Vũ Cầm hung hăng trừng mắt liếc nàng một cái rồi tiếp tục ngồi ngẩng khuôn mặt đỏ hồng nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo cũng hơi xấu hổ, ho nhẹ một tiếng rồi nói tiếp: “Bắt mạch cổ tay còn có một nguyên nhân nữa, chính là mạch cổ tay còn có thể phản ánh tổng quát cơ thể người là thịnh hay suy, phải biết rằng phế tỳ cùng với Thái Âm Kinh…”

“Cái gì là Thái Âm Kinh?” Tuyết Phi Nhi ngẩng khuôn mặt xinh xắn lên hỏi.

“Thái Âm Kinh chính là…, ta đang nói với ngươi về bắt mạch, ngươi lại đi hỏi về kinh mạch, sắp rối loạn rồi, phải tuần tự, nhiều như vậy nếu không hiểu phải giải thích thì cho đến sáng ngày mai cũng nói không xong về vấn đề bắt mạch”.

Bàng Vũ Cầm cười nói: “Đúng vậy Phi Nhi, đừng ngắt lời, nghe tiên sinh nói đi”.

“Được được, ta không ngắt lời, ngươi nói tiếp đi”.

“Ừm…, ta nói đến chỗ nào rồi nhỉ?”

“Phế tỳ cùng với Thái Âm Kinh!” Tuyết Phi Nhi cười nói: “Quên đi, ngươi đừung giải thích nữa, hay là trực tiếp nói cho chúng ta bắt mạch như thế nào, ta muốn thử xem bệnh”.

“Được, mạch cổ tay sáu bộ tạng phủ chia làm hậu, trung, tả, hữu, thốn, quan, xích tương ứng liên quan tới ngũ tạng lục phủ, thốn quan xích thay đổi là phản ánh sự thay đổi của ngũ tạng lục phủ”.

Tiếp theo Đỗ Văn Hạo tóm tắt cho nàng.

Đặc điểm của hai mươi tám loại mạch tượng cùng phản ứng từng chứng bệnh của chúng. Nói xong về mạch lại đơn giản giới thiệu về phần nội dung chẩn lưỡi, lưỡi hình cùng trạng thái lưỡi cùng mạch lạc ở dưới lưỡi về những điều trọng yếu trong chẩn lưỡi, lại vừa nói những loại hình đài lưỡi trọng điểm cùng những chứng bệnh chính, lại vừa giải thích tóm tắt bát cương biện chứng triệu chứng cơ bản cùng đặc điểm.

Vừa mới nói tới đây, liền trước sau hai bệnh nhân đi tới. Vừa hỏi tới, đều là cảm lạnh.

Người bệnh thứ nhất ngồi xuống không ngừng ho khan.

Đỗ Văn Hạo trước tiên bắt mạch cho hắn sau đó nói với nhị nữ: “Hai ngươi thử theo cách ta vừa dạy, xem bọn họ mắc chứng bệnh gì”.

“Được thôi!” Tuyết Phi Nhi hỏi người bệnh nọ: “Ngươi làm sao vậy?”

Người bệnh nọ nghi hoặc nhìn Đỗ Văn Hạo: “Không phải Đỗ đại phu tọa đường sao?… Khụ khụ”.

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Không sai, hai cô nương này theo ta học y. Để cho bọn họ xem xét. Yên tâm ta ở một bên nghe, chờ một lát sau đó ta sẽ tự mình khám lại cho các ngươi. Được chứ?”

“Ồ, được. Cảm ơn đại phu. Ta cảm thấy rất khó chịu… khụ khụ khụ…, tối hôm qua ta vào WC đi tiểu ban đêm, nhưng ăn mặc hơi mỏng manh, kết quả là bị cảm lạnh. Một ngày đêm liền nóng rần lên, cái trán nóng vô cùng, toàn thân lạnh lẽo, hai cái chăn bông cũng không đủ ấm, rất lạnh, lại còn ho khan…”

Bàng Vũ Cầm cũng hỏi: “Các đốt ngón tay cảm giác như thế nào?”

“Đau nhức! Bên trong các đốt ngón tay đau như muốn rớt ra”.

“Khụ khụ khụ…”

Tuyết Phi Nhi tiếp tục: “Có ra mồ hôi không?”

“Không ra mồ hôi chỉ là toàn thân nóng bỏng”.

Tuyết Phi Nhi chỉ chỉ cái gối chẩn mạch: “Ở đây, đặt lên đây, ta bắt mạch cho ngươi”.

Người bệnh duỗi cánh tay ra, Tuyết Phi Nhi dáng vẻ khoa trương đưa ba đầu ngón tay đặt lên cổ tay người bệnh, nhắm mắt cảm nhận mạch đập: “Cái này… hình như là…. Trầm mạch! Trầm biểu thị cái gì nhỉ? Đúng rồi, nội chứng! Hơn nữa, mạch này còn có… hơi rít! Hẳn là khí trệ, huyết ứ! Đỗ tiên sinh, ta nói có đúng không?”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười lắc đầu nói: “Nói bừa rồi! Vũ Cầm, ngươi nói xem”.

“Vâng!”

Bàng Vũ Cầm ngưng thần chẩn mạch sau đó nhìn Đỗ Văn Hạo chỉ chần chờ chốc lát rồi nói: “Hình như mạch tượng chuyển động như là gỗ nổi trong nước, thuyền trôi trên nước rất dễ dàng tiếp xúc, lặp lại bất thường, dựa theo lời vừa rồi của tiên sinh, hẳn là phù mạch! Hơn nữa, mạch như bị dây thừng kéo nên mạnh mẽ kháng lại, hẳn là khẩn mạch”.

Đỗ Văn Hạo tán thưởng mà gật đầu: “Vũ Cầm thật là thông minh hơn người, lan tâm tuệ chất, xem rất chuẩn”.

Tuyết Phi Nhi ở một bên chu miệng nói: “Ừ thì nàng lam tâm tuệ chất, ta là một đại ngốc!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Bảo ngươi ngốc nghếch quả thật không sai, lúc nãy ta đã nói qua, phải tổng hợp các phương pháp chẩn mạch lại, lúc trước ngươi hỏi cũng đã biết là hắn bị cảm lạnh, đã nói rõ là đi ra ngoài nên bị cảm lạnh, trong lúc chẩn mạch thì cần quan sát xem mạch của hắn có phù hợp với những đặc thù của ngoại cảm phong hàn không, mạch tượng của ngoại cảm phong hàn là mạch phù, nhưng ngươi lại bảo là mạch trầm, điều này không phải rất mâu thuẫn sao. Lại nói, ngoại cảm phong hàn, chủ yếu là do lạnh dẫn tới, huyết mạch tất nhiên là co lại, hiển nhiên chính là khẩn mạch, nhưng ngươi lại nhìn ra lá sáp mạch, lại còn cái gì khí trệ, huyết ứ, những cái đó ở đâu ra vậy!”

Khuôn mặt xinh xắn của Tuyết Phi Nhi đỏ ửng lên nói: “Làm bộ làm tịch, dù sao ta chỉ cùng Vũ Cầm tỷ học cho vui, ngươi dạy nàng là được rồi!”

“Không muốn học thì đừng học, muốn học phải có quyết tâm! Được rồi tiếp theo các ngươi xem lưỡi tượng, phiền ngươi lè lưỡi ra”. Người bệnh theo lời duỗi đầu lưỡi ra. Đỗ Văn Hạo nói: “Hai ngươi xem qua lưỡi tượng của hắn như thế nào?”

Tuyết Phi Nhi nhìn nhìn, giành nói: “Lưỡi màu bạc!”

Bàng Vũ Cầm cũng gật đầu.

Đỗ Văn Hạo khen: “Lần này có khá hơn”.

“hi­hi, xem lưỡi đài so với bắt mạch dễ hơn nhiều, mạch tượng lại có mấy chục loại, ai mà có thể thoáng cái là phân biệt rõ ràng a. Saux­em bệnh chỉ nhìn lưỡi tượng là được rồi”.

Bàng Vũ Cầm nói: “Không được, tiên sinh nói, phải tổng hợp các phương pháp để chẩn bệnh, nhìn nghe hỏi sờ đều phải dùng tới, không thể chỉ dùng một phương pháp, nếu không sẽ phạm sai lầm”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Đúng vậy, các ngươi tiếp tục, lưỡi đài trừ bạc ra, màu sắc đài như thế nào?”

“Cái này dễ thôi!” Tuyết Phi Nhi nói: “Ngươi vừa rồi có nói đài sắc có trắng, vàng, đen tro ba loại, đài lưỡi của hắn vừa nhìn là biết đài màu vàng rồi!”

Bàng Vũ Cầm đến gần nhìn kỹ lắc đầu nói: “Hình như có chút không đúng! Ngươi xem, hai bên đầu lưỡi của hắn màu trắng, chỉ có ở giữa màu vàng. A? Nhìn kỹ còn có cái hạt nhỏ màu vàng, là cái gì vậy?”

Người bệnh xấu hổ gãi đầu: “Xin lỗi, lúc trước ta nghe người ta nói tử bì có thể trị cảm lạnh ho khan cho nên ngậm một khối trong miệng, đi vào đây vừa mới nhả ra”.

Đỗ Văn Hạo hì hì cười một tiếng, chỉ vào Tuyết Phi Nhi nói: “Ngươi nha, đúng là không cẩn thận! Được rồi, các ngươi nói xem nên giải thích chứng bệnh của hắn như thế nào?”

Tuyết Phi Nhi ho nhẹ một tiếng, gật gù đắc ý nói: “Nhìn hắn tinh thần không vượng, vẻ mặt ốm yếu xanh xao, nghe hắn nói chuyện chậm chạp vô lực, hỏi hắn ban đêm ra ngoài chịu lạnh, sờ, mạch hắn là mạch phù, mạch khẩn. Cho nên thuộc về chứng ra ngoài vào ban đêm vô ý chịu lạnh làm cho bị cảm lạnh!”

Bàng Vũ Cầm cũng không nhịn được cười, đẩy nàng một cái: “Nói cái gì vậy? Nào có chứng bệnh nào là ra ngoài vào ban đêm không cẩn thận bị cảm lạnh”.

“Vậy ngươi nói hắn là bị chứng gì? Phải nói ra từ bốn phương pháp chẩn bệnh ‘nhìn nghe hỏi sờ’ ư”.

(1) Thiết chẩn: Sờ để chẩn bệnh.

Chương 96: Cùng bệnh trị khác nhau

Bàng Vũ Cầm gật đầu: “Đúng vậy! Nhìn, trán hắn không có mồ hôi, sắc mặt ửng hồng, thân thể bởi vì ác hàn mà phát run, lưỡi đài trắng bạc. Nghe, hắn thỉnh thoảng lại ho khan, nhưng tiếng hít thở không có đài âm. Hỏi, hắn thuật lại triệu chứng bệnh là do ác hàn sốt cao, đốt ngón tay đau nhức. Sờ, mạch phù và khẩn hữu lực. Tổng hợp lại, hẳn là thương hàn biểu thực chứng (1) mà tiên sinh vừa mới nói!”

Đỗ Văn Hạo vỗ tay nói: “Hoàn toàn chính xác! Tốt lắm, Vũ Cầm lan tâm tuệ chất, quả nhiên thông minh hơn người, rất thích hợp làm đại phu đó!”

Tuyết Phi Nhi cong môi phe phẩy trước khuôn mặt trứng của mình: “HÌ hì, người trong nhà tự khen người nhà mình, xấu hổ quá!”

Bàng Vũ Cầm xấu hổ đỏ mặt, cúi đầu nói: “Lúc trước tiên sinh dạy về bát cương biện chứng có nói: Người bệnh nếu như đồng thời cảm thấy nóng cùng lạnh lẽo, đây là biểu hiện đặc thù, vì có chia ra ác hàn thì cũng chia ra các triệu chứng khác nhau, cho nên bệnh sẽ biểu hiện ra bên ngoài. Mà ác hàn phát nhiệt là đặc thù của Thái Dương bệnh, bệnh sinh ra ở Thái Dương. Nguyên nhân mắc bệnh được kể lại là do đi tiểu tiện vào ban đêm gặp lạnh bị tà khí xâm nhập nghĩa là ngoại cảm phong hàn. Mới vừa rồi Đỗ tiên sinh cũng nói hắn là ngoại cảm phong hàn cho nên mới phán đoán là Thái Dương thương hàn biểu thực chứng. Ta phán đoán như vậy bất quá chỉ là đầu cơ trục lợi mà thôi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta vừa mới nói rất nhiều. Ngươi có thể linh hoạt ghi nhớ và sử dụng. Đây là điều cần thiết nhất đối với người học y. Xem ra, Vũ Cầm trời sinh là để học y mà”.

Tuyết Phi Nhi nói: “Được rồi, được rồi các ngươi nói nghe buồn nông quá! Ở đây còn có ta. Còn có hai bệnh nhân nữa! - Hay là ngươi nói cho chúng ta cái gì là Thái Dương thương hàn biểu thực chứng”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Thái Dương thương hàn biểu thực chứng là gió lạnh mang theo tà độc từ bên ngoài xâm nhập vào Thái Dương. Vệ Dương bị che làm tối tăm đình trệ. Hàn tà từ bên ngoài cản trở. Dương khí trong thân thể không thể phân tán thông suốt. Cho nên toàn thân nóng lên. Hàn chủ đóng lại. Lỗ chân lông cũng co lại. Tất nhiên sẽ không có mồ hôi do bị cản trở. Mất đi công năng thường trực chống đỡ hàn tà tất nhiên sẽ cảm thấy lạnh. Bởi vì trong khi hàn tà nhập thể đi vào kinh mạch thì dương khí không thông cho nên các đốt ngón tay sẽ đau đớn. Nói đơn giản, nếu như người bệnh cảm thấy bị lạnh sau đó trên người lại không có mồ hôi, tất cả các đốt ngón tay đau nhức. Hơn phân nửa chính là Thái Dương thương hàn biểu thực chứng. Hiểu chưa?”

“Cảm thấy hơi mơ hồ”. Tuyết Phi Nhi nghiêng đầu nhớ lại một chút. Quay đầu lại hỏi Bàng Vũ Cầm: “Ngươi thì sao? Đã hiểu chưa?”

Khuôn mặt xinh xắn của Bàng Vũ Cầm đỏ ửng. Chỉ chốc lát rồi gật đầu.

“Ngươi đã hiểu là được rồi. Dù sao ta cũng có thể miễn cưỡng hiểu. Được rồi, bây giờ là phương pháp biện chứng, ngươi dạy chúng ta làm thế nào đi?”

Bàng Vũ Cầm cũng mở to mắt nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: “Biện chứng luận trị, biện chứng phải chính xác, luận trị cũng phải chính xác, nếu biện chứng được rồi mà sử dụng kinh phương không đúng cũng không được. Trong các thời đại thông thường khi thầy thuốc trị liệu những chứng bệnh điển để lại rất nhiều rất nhiều phương thuốc quý giá, cung cấp cho chúng ta lựa chọn biện chứng mà áp dụng, chỉ cần căn cứ vào kinh phương này, tiếp theo dựa vào biện chứng tình huống cụ thể mà tiến hành thêm bớt cho thích hợp, là có thể cho ra đơn thuốc chính xác”.

“Vậy thì bệnh này cũng có kinh phương sao?”

“Tất nhiên là có! Trị liệu chứng bệnh này, y thánh Trương Trọng Cảnh có bài kinh phương nổi tiếng gọi là ‘ma hoàng thang’, phương thuốc dùng Ma Hoàng ba tiền, Quế Chi hai tiền, hạnh nhân bốn tiền, cứu cam thảo một tiền. Sắc uống”.

Đỗ Văn Hạo nói xong, Bàng Vũ Cầm dựa theo lời hắn mà viết phương, đưa đến quầy lấy thuốc, người bệnh nhận thuốc uống sau đó trả tiền chẩn bệnh, tạ ơn rồi đi.

Người bệnh thứ hai là một nông phu, khoảng ba mươi bốn mươi tuổi, vải thô áo ngắn, thắt lưng vấn dây thừng, lưng khoác áo bố xanh khâu vá chằng chịt, đi giày vải, một chân đầy bùn cuốn lấy ống quần, tùy tiện ngồi xuống ở bên cạnh bàn, không đợi Tuyết Phi Nhi nói chuyện, hắn liền tranh nói trước với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ tiên sinh, bệnh này của ta mặc dù cũng là cảm lạnh, nhưng mà không giống với vị kia, sợ rằng chỉ có ngài mới có thể chữa trị, các nàng cũng không nhìn ra!”

Tuyết Phi Nhi không phục lắm: “Thật ư? Cảm lạnh có gì đặc biệt hơn người khác, môn đồ cũng không thể nhìn ra? Ngươi cũng quá coi thường chúng ta rồi”.

“Cô nương, không phải là coi thường ngươi, ta mang bệnh này đã 2-3 năm nay, tìm tới không ít đại phu, cuối cùng chữa vẫn không khỏi. Nghe nói trong huyện này có một tọa đường đại phu họ Đỗ còn trẻ tuổi, am hiểu thần kỹ chữa thương của Hoa Đà, ngay cả thần y Tiền Bất Thu cũng bái ông ta làm thầy, cho nên ta mới tràn trề hy vọng đi tới đây. Ta tên là Hắc Tử, ở Hắc Ao thôn, các huyện thành đến bốn mươi dặm, sáng sớm tinh mơ ta đã xuất phát. Xem xét bệnh cho ta để còn trở về cho kịp”.

Tuyết Phi Nhi rất cao hứng, quay đầu nói với Đỗ Văn Hạo: “Tiên sinh,ngươi nghe không? Hắn đi hơn bốn mươi dặm từ nông thôn tới huyện thành”.

“Ừm, làm sao vậy?”

“Còn thế nào nữa?” Tuyết Phi Nhi mở to hai mắt nhìn hắn: “Mấy mươi dặm từ nông thôn! Như vậy rất xa đủ biết danh hào của ngươi thế nào, danh tiếng của ngươi càng ngày càng lớn, một ngày nào đó truyền tới kinh thành, vạn tuế mắc bệnh gì, tất nhiên sẽ gọi ngươi vào hoàng cung xem bệnh cho hắn!”

“Càng nói càng thái quá! Được rồi, nhanh chóng xem bệnh, người ta còn muốn đi về sớm… Chỉ là, vị đại ca này, bệnh của ngươi đã kéo dài hai đến ba năm nay, kéo dài thời gi­an quá lâu, chỉ sợ biện chứng có chút phức tạp, ngươi đừng có gấp, mới tới cần phải ổn định, xem xét cẩn thận mới tìm ra bệnh tật”.

“Ngươi đến tìm ta không phải vì vậy hay sao”.

“Vâng! Vâng! Đỗ tiên sinh, ta đã hiểu, trước tiên để cho hai vị cô nương này xem qua một chút, rồi Đỗ tiên sinh tiếp tục khám lại lần nữa”.

“Được rồi, hai vị đại phu xin mời!”

“Ta khám trước!” Tuyết Phi Nhi làm việc nhân đức không nhường ai, suy nghĩ, lẩm bẩm: “Nhìn nghe hỏi sờ, trước tiên là nhìn!” Nửa đứng dậy, xoay đầu nhìn quanh Hắc Tử loạn chuyển một hồi rồi nghi hoặc nói với Đỗ Văn Hạo: “Hắn… Hắn nhìn qua sắc mặt bình thường, không giống với bộ dạng của người bị mắc bệnh mà!”

Người bệnh nọ vẻ mặt khổ sở nói: “Cô nương, bây giờ ngươi xem ta không có bệnh tật gì, nhưng ta mang bệnh này cũng đã hai tay ba năm rồi, mỗi ngày từ nhiên nóng rần lên một hai lần, nhiệt độ cũng không cao nhưng thiêu đốt làm cho người mê man mờ mịt thiếu nước liên tục lại sợ lạnh, bao nhiêu y phục không dùng tới. Yết hầu lại đau nhức, các đốt ngón tay cũng đau đớn vô cùng!”

Bàng Vũ Cầm cẩn thận nhìn, nói: “Sắc mặt hắn cũng không phải là bình thường, ngươi xem miệng hắn hồng rất khác thường. Để cho ta xem đầu lưỡi của ngươi một chút”.

Người bệnh vội vàng thè lưỡi ra.

Bàng Vũ Cầm nhìn chằm chằm vào một hồi nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ tiên sinh, lưỡi tượng của hắn rất kỳ quái, nên biện chứng thế nào đây?”

Đỗ Văn Hạo cẩn thận nhìn rồi nói: “Lưỡi tượng hắn hơi phúc tạp, sở học của ngươi bây giờ xem chưa thể hiểu được. Ngươi xem, chất lưỡi hắn màu hồng mà trơn bóng, trắng bạc lại nhầy, đây là hiện tượng lạnh, chú ý xem sắc lưỡi xuất hiện vết nhỏ màu tím rất mờ, đây là chứng lạnh tích tụ duy trì liên tục trong thời gi­an quá dài. Các ngươi tiếp tục bắt mạch cho hắn xem”.

“Được!” Tuyết Phi Nhi hiển nhiên tranh làm trước, sau khi chẩn mạch, nói: “Mạch này cũng rất căng hơn nữa dựa theo bắt mạch kiểm tra thì phù mạch, cùng với người bệnh vừa rồi giống nhau”.

Sau khi Bàng Vũ Cầm chẩn mạch cũng gật đầu: “Đúng vậy, đúng là mạch giống nhau”.

Đỗ Văn Hạo trước tiên chẩn mạch cũng gật đầu: “Đúng vậy, đúng là mạch giống nhau”.

Đỗ Văn Hạo trước tiên chẩn mạch sau đó gật đầu: “Không sai, là giống nhau”.

Bàng Vũ Cầm nói: “Mạch giống nhau, chẳng lẽ vị bệnh nhân này cũng là thương hàn biểu thực chứng?”

Tuyết Phi Nhi lắc đầu nói: “Không đúng! Hắn hai đến ba năm nay vẫn phát nhiệt, dường như là nóng nhẹ, Đỗ tiên sinh nói, thương hàn biểu thực chứng là một loại biểu chứng, ngươi nghĩ xem có biểu chứng nào lâu như vậy không? Sợ rằng sớm trở thành nội chứng rồi”.

Bàng Vũ Cầm nghe nàng nói vậy cũng không có biện pháp, nhìn về phía Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thái Dương thương hàn biểu thực chứng là ngoại tà xâm nhập, cảm tà nặng nhẹ cùng chính tà thịnh suy khác nhau, triệu chứng nóng lạnh cũng sẽ nặng nhẹ khác nhau. Cảm tà nhẹ thì nóng lạnh cùng nhẹ, cảm tà nặng thì nóng lạnh cùng nặng, chính tà cùng thịnh thì nóng lạnh cùng nặng nặng, chính suy tà thịnh thì nóng lạnh cùng nặng; chính thịnh tà suy thì ác hàn nặng nhưng phát nhiệt thì nhẹ. Nhưng cho dù như thế nào, phát nhiệt cùng ác hàn đồng thời xuất hiện hay là luân phiên xuất hiện thì đều là đặc điểm của thương hàn biểu thực chứng, cũng không giới hạn trong thời gi­an ngắn dài. Kết hợp lưỡi tượng của hắn là chủ yếu do lạnh, ấn chứng chẩn mạch cùng vấn chẩn do đó Vũ Cầm nói đúng, bệnh này cùng với bệnh của người trước giống nhau đều là Thái Dương thương hàn biểu thực chứng”.

Tuyết Phi Nhi chu mỏ nói: “Lại là nàng đúng. Tại sao ta không thể đúng một lần vậy?” Nhã châu xoay một vòng, nói: Lần này ta khai phương - như lần trước dường Ma Hoàng thang! Đúng không?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Đúng, cũng không đúng hoàn toàn!”

“Tại sao?”

“Ma Hoàng thang là vị cay nóng đổ mồ hôi rất nhiều, mồ hôi ra quá nhiều nhất định tổn thương đến chính khí của hắn, hắn mắc bệnh thời gi­an đã lâu, vốn đã tổn thương đến chính khí, không thể vội vàng phục dược. Cho nên, trong phương thuốc cần điều hòa lượng cam thảo nhiều hơn. Trước kia chỉ dùng một tiền, lần nay tăng thêm sáu tiền, hơn nữa không châm cứu! Cố gắng giảm tối đa việc đổ mồ hôi quá mạnh, hơn nữa chỉ có thể phục hai thang. Hắn đi đường xa tới, không thể khám lại, vì vậy lấy tiếp phần sau phương thuốc - Phục hết hai thang dược này, sẽ đổ mồ hôi hạ sốt, nhưng Doanh Vệ sẽ bất thường, tiếp theo dùng quế chi thang gia tăng phân lượng, thông dương giải biểu, điều hòa Doanh Vệ”.

Đỗ Văn Hạo nói cách phối hợp các vị thuốc của quế chi thang, Bàng Vũ Cầm ghi lại, đi tới quầy bốc thuốc.

Tuyết Phi Nhi suy nghĩ một chút, ngạc nhiên nói: “Nếu là thương hàn biểu thực chứng, vì sao dùng phương thuốc khác nhau vậy?”

“Mặc dù hai người chứng bệnh giống nhau, nhưng tình huống thân thể khác nhau, phát bệnh thời gi­an ngắn dài không giống nhau, bệnh cơ khác nhau, phương pháp trị liệu tất nhiên không giống nhau. Đây là đạo lý ‘cùng bệnh mà cách trị liêu khác biệt’”.

Nông phu nọ nhận dược, thanh toán tiền chẩn bệnh, tạ ơn rồi đi về.

Đỗ Văn Hạo cùng nhị nữ vội vàng đi tới nhà ăn ở hậu đường dùng cơm trưa, làm đại phu lúc rảnh rỗi ăn cơm, thì ăn gấp, nếu không đợi người bệnh tới thì lại không thể ăn được, gặp phải chứng bệnh nặng cần cấp cứu, nhịn đói một ngày cũng là thường xuyên xảy ra.

Quả nhiên, hắn vừa mới ăn xong bát thứ nhất, chưa kịp xới thêm cơm thì Sỏa Bàn vội vàng chạy vào: “Đỗ tiên sinh, Tiền thần y tới!”

“Ồ”. Đỗ Văn Hạo cũng không ngẩng đầu lên mà tiếp tục ăn cơm.

“còn có một người bệnh, dùng xe ngựa chở tới”.

“Ồ!” Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, Tiền Bất thu râu mép đã mọc dày, cũng là người hành y, tất nhiên phải hiểu chuyện tới bải bỏng vào thời gi­an người ta đang ăn cơm là thế nào. Nếu tới, nhất định là có người bệnh nào đó, đưa tới cùng mình hội chẩn. Tiếp theo nuốt miếng cơm lớn, trước tiên ăn cơm no rồi hẵng tính.

“bệnh nhân nọ thổ huyết rất nhiều! Hình như sắp chết”.

Lần này Đỗ Văn Hạo không thể ăn vào nữa, vứt bát xuống, đứng lên.

Sỏa Bàn tiếp theo lại bồi thêm một câu: “Là từ phủ thành tới, có một phủ thành đại phu tới cùng”.

“Từ phủ thành tới?” Đỗ Văn Hạo sửng sốt. Phủ thành cách huyện thành một đến hai trăm dặm, có thể từ phủ thành tìm đến mình khám bệnh, chính là đường xa mà tới. Không ngờ danh tiếng của bản thân ngay cả những người ở phủ thành cũng đã biết rồi. Cũng có vài phần đắc ý đồng thời trong lòng lại mơ hồ có chút bất an. Ngay cả phủ thành đại phu cùng Tiền Bất thu cũng không chữa được, phải tìm đến mình, vậy khẳng định căn bệnh này không nhẹ rồi.

Sỏa Bàn lại nói thêm một câu, lời nói làm cho mọi người đều đứng lên: “Người bệnh là một ni cô!”

(1) Thương hàn biểu thực chứng: Bệnh cảm lạnh ngoại chứng theo chứng minh thực tế.

Chương 97: Tĩnh Từ sư thái

Tuyết Phi Nhi cũng Bàng Vũ Cầm hai người vừa nghe, vội vàng đặt bát đũa xuống, phủ thành đại phu, hơn nữa người bệnh lại là một ni cô, điều này quả thật rất mới mẻ, phải đi xem một chút.

Đỗ Văn Hạo cũng hơi sửng sốt, không hiểu sao trong đầu lại hiện ra khuôn mặt xinh đẹp tiểu ni cô Nghi Lâm trong tiểu thuyết của Kim Dung ‘Tiếu Ngạo gi­ang hồ’, dáng điệu mảnh mai nằm trên giường bệnh. Vội vàng bước nhanh đi ra ngoài. Mấy người Tuyết Phi Nhi cũng đi theo tới tiền đường.

Quả nhiên, trong tiền đường đứng đầy người, bốn năm người mặc cà sa ni cô, còn có bảy tám nam nhân khoác trường bào, mặc đoản sam (1), các loại trang phục đều có, chỉ là đều cùng một màu sắc màu trắng, đã có chút giống với các kiểu dáng đồng phục khác biệt. Mọi người đang cẩn thận nâng một cái giường gỗ, đem một bệnh nhân vào trong hiệu thuốc. Tiền Bất thu cùng một lão giả đang đứng ở một bên thấp giọng nói gì đó.

Thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào. Tiền Bất Thu vội vàng bước lên trước, khom người chắp tay nói: “Sư phụ, thật xin lỗi, quấy rầy người dùng cơm rồi, có một trọng bệnh rất khẩn cấp, từ phủ thành đường xa tới đây tìm người cứu trị”. Một ngón tay chỉ vào lão đầu gầy gò kia: “Vị này chính là đại phu tới từ phủ thành Cung Minh Cung đại phu, chính là chưởng quỹ kiêm tọa đường đại phu của Nhất Hoàn Đường lớn nhất thành phủ, bởi vì Minh đại phu lúc khám bệnh cho người ta thường thường chỉ dùng một quả dược hoàn là có thể trị khỏi bệnh, cho nên đường của hắn có tên là Nhất Hoàng đường, chính là thần y tiếng tăm lừng lẫy ở phủ thành”.

Sau khi cùng Đỗ Văn Hạo chào nhau, Cung Minh nói: “Tiền thần y quá khen rồi, có lẽ chúng ta nên trở lại chuyện chính đi, người bị bệnh chính là Tĩnh Từ sư thái trụ trì Bạch Vân am ở phủ thành”.

Đỗ Văn Hạo sửng sốt, liếc mắt một cái nhìn ni cô trên giường bệnh. Không sai, nhưng mà đó lại là một lão ni cô, mặt đầy nếp nhăn, xương gò má nhô cao, gương mặt hóp vào, ngay cả lông mi cũng đã hoa râm rồi. Nhớ tới suy nghĩ của mình vừa rồi không khỏi âm thầm buồn cười.

Cung Minh tiếp tục nói: “Bệnh của Tĩnh Từ trụ trì lão hủ đã chẩn sát qua, phủ thành đại phủ nổi danh hay không nổi danh cũng đã mời tới xem xét, lần lượt sau một ngày trời đánh đành bó tay với căn bệnh này, giờ đã hấp hối. Nghe nói quý huyện có Ngũ Vị Đường Đỗ Văn Hạo Đỗ đại phu am hiểu thần kỹ của thần y Hoa Đà ngay cả thần y Tiền Bất Thu cũng bái nhập môn hạ. Lão hủ cùng mấy vị đại phu thương lượng, vốn định phát thiếp thỉnh Đỗ đại phu tới thành phủ chẩn bệnh cho Tĩnh Từ sư thái, nhưng lại sợ chậm trễ trên đường đi, lại thêm lo lắng Đỗ đại phu ở đây có sự tình không thể đi ra ngoài, như vậy ngược lại càng chậm trễ việc điều trị. Vì thế ngay lập tức lên đường, hộ tống Tĩnh Từ sư thái tới nhà cầu y”.

Sợ Đỗ Văn Hạo không coi trọng, dừng một chút lại trầm giọng nói: “Đỗ đại phu, Tĩnh Từ trụ trì là một đời cao tăng, tại phủ thành tín đồ vượt qua vạn. Lần này bệnh nặng, chúng tín đồ trong lòng lo lắng, những tín đồ này hòa nhập vào cùng chúng đệ tử thành kính cố ý hộ tống đại sư từ nhà tới đây. Trong lòng thành kính mới có thể thấy được ánh sáng. Tất cả đều theo, hiện giờ toàn phủ thành tràn đầy tín đồ, mọi nhà dâng hương khấn vái cầu phúc, chờ đợi đại sư sớm ngày khỏe lại. Hiện giờ cuối cùng đã tới được đây, xin Đỗ đại phu cứu chữa cho Tĩnh Từ sư thái đi”.

Đỗ Văn Hạo cười khổ: “Các ngươi không có biện pháp, ta có thể có biện pháp gì chứ. Bà ta bệnh thế nào chứng ra sao?”

“Dạ dày đau đớn! Đã ngất đi rồi”.

Những người u mê này lẩm bẩm như vậy làm gì? Đỗ Văn Hạo cười khổ: ‘tu tiên khoáng choáng chắc!’ Vội vàng bảo Tuyết Phi Nhi lấy kim châm tới. Nếu là đau bụng cấp. Có khả năng dẫn tới thủng ruột thay đổi bệnh lý. Nên phải tuyệt đối cấm ăn uống. Vì vậy trước khi rõ tình huống không thể dùng thang thuốc cứu chữa. CHỉ có thể sử dụng châm cứu kháng đơn sốc.

Châm vào Đại Chuy, Khúc Trì, Nhân Trung, Thái Xung, Túc Lâm Khấp, các loại huyệt trên. Chỉ trong chốc lát Từ sư thái từ từ tỉnh lại.

Thừa dịp trong khi châm cứu kháng cơn sốc. Đỗ Văn Hạo bảo Cung Minh kể lại quá trình sinh bệnh.

Cung Minh nói: “Trước đó vài ngày Tĩnh Từ sư thái liên tục giảng kinh thuyết pháp cho tín đồ vì vậy vô cùng mệt mỏi. Bốn ngày trước trong lúc giảng kinh liền phát bệnh. Nhưng sư thái vẫn cố gắng giảng cho xong. Đau nhức tới mức té xỉu trên đài. Tín chúng đưa bà về thiện phòng. Phái người mời lão hủ xuất chẩn. Lúc ấy sư thái đã tỉnh táo, lão hủ vấn chẩn biết được: ‘Ngoài việc bụng đau dị thường còn không thể di động, sắc mặt tái nhợt, tứ chi lạnh lẽo, mồ hôi lạnh lẽo hơi thở đứt đoạn kèm theo nôn mửa. Nước tiểu ít và đỏ. Mạch hồng sổ’”.

“Ngươi biện chứng ra sao?”

“Lão hủ chẩn vì tà bệnh xâm nhập làm rối loạn dương minh vị phủ, dồn nén không thông mà sinh nhiệt, độc xâm nhập tạng phủ, là chứng nhiệt độc thịnh. Cần được thanh nhiệt giải độc, lương huyết khai thông thì dùng ‘hoàng liên giải độc thang’ cùng với ‘đại hoàng mẫu đơn bì thang’. Đồng thời châm cứu những huyệt Lương Môn, THiên Xu, Nội Quan cùng Túc Tam Lý. Nhưng mà…, ài!”

“KHông có hiệu quả sao?”

Lắc đầu cười khổ: “Không chỉ không có hiệu quả, bệnh tình ngược lại càng nặng hơn! Hôm qua vào giữa trưa, đại sư đột nhiên đau bụng, bộ dạng như dao cắt, nằm ngửa hai chân cong lên không thể di động, có hiện tượng hôn mê bất tỉnh. Lão hủ bất đắc dĩ đành mời đông đảo danh y thành phủ tới hội chẩn. Nhưng mà, sau khi mười vị đại phu tới chẩn sát, chia làm ba phái, không ai chịu nghe ai. Lão hủ chủ lực phái thứ nhất là nhiệt độc thịnh chứng; Thông Tân đường Kha Huyên Kha đại phu chủ lực phái ‘thấp nhiệt uẩn kiết chứng’, cho rằng phải thanh nhiệt hóa thấp tiêu trừ ứ đọng; phương thuốc là ‘cát căn hoàng cầm hoàng liên thang’ đã qua gia giảm; Quý Chi Đường Hà Vĩnh Lương đại phu một phái, chẩn là vì ứ nhiệt nội kết chứng, cho rằng cần hóa ứ thanh nhiệt, giải độc giảm đau; phương thuốc là “đại hoàng mẫu đơn bì thang’ cùng với ‘ngũ vị tiêu độc ẩm’ . Nhiều ý kiến rối ren, khó có thể kết luận. Cuối cùng, quyết định trước tiên dựa vào phương của lão hủ phục một thang, nếu không được thì đối phương đổi phương thuốc khác”.

Đỗ Văn Hạo trong lòng cười khổ, thật sự là? Nhiều công khó chống thuyền, chỉ sợ càng hội chẩn càng rối loạn.

Quả nhiên, Cung Minh lắc đầu nói: “Dùng xong thang thuốc của lão hủ, không tới nửa canh giờ, sư thái liền nhiệt vào càng sâu chết ngất đi, vội vàng dùng nhân sâm cứu chữa, sau đó thì tỉnh táo hơn, rồi lại phân biệt dùng thang thuốc của a đại phu cùng Hà đại phu. Kế quả đều như nhau, nhanh chóng bất tỉnh lần nữa. Mọi người lúc này mới trợn tròn mắt, thấy sư thái lúc này đã âm vong dương thoát (2) chi chứng, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, ngay cả dùng tới ’sinh mạch tán’ cứu âm hồi dương cũng không có tác dụng. Sau khi vội vã thương nghị, quyết định suốt đêm lên đường, đưa tới quý đường cầu y”.

Cung Minh nói xong, nữ ni cùng với cư sĩ tín chúng quỳ xuống một mảng, dập đầu cùng hô lên: “Cầu xin thần y cứu mạng!”

Đầy là lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo nghe thấy người ta chính thức gọi mình là thần y, nhìn xuống một phiến tín chúng cùng nĩ ni quỳ xuống, cảm thấy một loại ý thức trách nhiệm trước nay chưa từng có.- Nhưng mà loại cảm giác này rất có phần quá nặng nề. Dù sao, đã được mười mấy phủ thành đại phủ nổi danh hội chẩn cùng không thể chữa trị được chứng bệnh, bản thân mình cuối cùng cứu mệnh đạo thảo, loại áp lực này không thể coi thường.

Đỗ Văn Hạo vội vàng bảo mọi người đứng lên, suy nghĩ một chút, quyết định trước tiên nghe qua ý kiến của những người khác. Tại Tống triều không có thiết bị kiểm nghiệm hiện đại, rất nhiều căn bệnh phải dựa vào kinh nghiệm lâm sàng của thầy thuốc, nghe nhiều một chút cũng có lợi. Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn về phía Tiền Bất Thu: “Ngươi từng chẩn sát qua cho Tĩnh Từ trụ trì chứ?”

Tiền Bất Thu gật đầu: “Vừa mới chẩn sát qua”.

“Ngươi thấy thế nào?”

“Lão hủ nghĩ rằng, Tĩnh Từ cố gắng dùng ý chí duy trì chống lại cơn đau bụng một lúc lâu, càng ương ngạnh chống đỡ thì càng nghiêm trọng, cả phần bụng cứng như bàn thạch, hơi thở ngắn khó khăn, trên lưỡi khô và thiếu nước, lưỡi hồng, đài màu vàng, mạch trầm khẩn, đây là thủy nhiệt hỗ kết chi kết hung chứng. Lúc này nên dùng đại ‘hãn hung thang’ chủ trì để tả nhiệt trục thủy”.

Cung Minh cười khẩy nói: “Cái này nữa, lại thêm một ý kiến, làm sao bây giờ?”

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống ở bên người Tĩnh Từ sư thái, ngưng thần chẩn mạch, lại nhìn lưỡi tượng thấy chất lưỡi hồng, đài vàng cảm thấy theo như quan điểm của Cung Minh cùng Tiền Bất Thu đều có đạo lý nhất định. Nếu bàn về biện chứng luận trị, bản thân so với lão trung y thời Tống triều mà nói, chỉ sợ còn không bằng. Nếu muốn ra đơn thuốc cao minh hơn để phục dụng thì cũng không thể nghĩ ra được.

Trước kia, chứng đau bụng cấp chứng cần phải dùng phương pháp ngoại khoa giải phẫu mới có thể giải quyết, không dùng thuốc thang. Mà về điểm này mình có ưu thế tuyệt đối.

Vừa rồi hắn từ lời kể về tình huống bệnh của Tĩnh Từ sư thái, rất giống với triệu chứng viêm màng bụng cấp tính và mạn tính. lúc nãy, theo như giả thuyết của Tiền Bất thu là kết hung chứng, đã bao gồm chứng bệnh viêm màng bụng cấp tính và mạn tính, có thể dùng ‘đại hãm hung thang’ để trị liệu.

Phân tích của Tiền Bất Thu thêm một bước xác minh dự đoán của Đỗ Văn Hạo.

Nguyên nhân có thể gây ra viêm màng bụng cấp tính và mạn tính là rất nhiều. Giờ đây quan sát, Tĩnh Từ sư thái viêm màng ruột đã vô cùng nghiêm trọng, rất có thể là do nguyên nhân thủng ruột dẫn tới viêm màng ruột cấp tính, hơn nữa dường như thủng ruột còn rất nghiêm trọng, dược thang đã không còn có thể khống chế bệnh tình. Nhưng cuối cùng là do nguyên nhân gì thì bây giờ không có phương pháp cũng không có thời gi­an để hắn từ từ kiểm tra. Tĩnh Từ sư thái tùy lúc có thể chết đi. Nguyên nhân gây ra đau bụng cấp tính rất nhiều, chỉ có thể tiến hành phẫu thuật ở bụng để kiểm tra.

Đỗ Văn Hạo trong lòng cầu nguyện, hy vọng ông trời không quá làm khó bản thân, để cho mình có thể giải quyết bằng việc giải phẫu.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy cánh tay khô gầy của Tĩnh Từ sư thái, nhìn hô hấp của sư thái giống như ngọn đèn trong gió, như là khô mùa thu. Đột nhiên nhớ tới bản thân mình trước khi xuyên qua có một lần mẫu thân bệnh nặng, ở trên giường bệnh cũng là bộ dáng thê lương bất lực như thế này, trong lòng không khỏi có một loại cảm giác muốn khóc.

Sư thái thần trí nửa tỉnh nửa mê, lờ mờ nhìn thấy ánh mắt hắn, lại mỉm cười, môi giật giật, nhẹ nhàng nói một câu: “Không ngại sự tình…”.

Đỗ Văn Hạo thân thể chấn động, nhớ tới lúc ấy mẫu thân cũng trấn an bọn họ như vậy, vành mắt cũng không khỏi đỏ lên, hắn cầm lấy tay Tĩnh Từ sư thái, con ngươi trừng lên, thu nước mắt về, nhẹ giọng nói: “Đại sư, người cảm thấy thế nào? đau bụng phải không?”

Sư thái khẽ nhíu mi tâm, sau đó giãn ra, khẽ gật đầu.

Đỗ Văn Hạo biết viêm màng bụng cấp tính rất đau nhức, người bình thường không thể chịu đựng được, nhưng mà sư thái lại phảng phất như không có chuyện gì phát sinh, không biết đã dùng bao nhiêu nghị lực để chống đỡ sợ đau đớn, vẫn duy trì sự tôn nghiêm tới cùng, một loại sùng kính tự nhiên nảy sinh, nắm tay bà nhẹ giọng nói: “Sư thái, bệnh của người không cần lo lắng, ta có thể giúp người chữa khỏi! Nhưng mà, ta muốn phẫu thuật ổ bụng xem xét bệnh tình cho người, người đồng ý chứ?”

Tĩnh Từ sư thái nhẹ nhàng gật đầu: “Được, làm phiền ngài rồi…”. Dứt lời, chậm rãi khép hai mắt lại.

Cung Minh nghe được mấy câu đó, vừa mừng vừa sợ hỏi: “Đỗ đại phu, ngươi quả thật có thể dùng thần kỹ phẫu thuật chữa thương của Hoa Đà?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, hắn không rảnh để tán dóc vào lúc này. Bây giờ phải tranh thủ từng giây từng phút. Phân phó tuyết Phi Nhi cùng Bàng Vũ Cầm lập tức lấy ra dụng cụ để chuẩn bị giải phẫu.

Án theo chỉ thị của Lâm Thanh Đại, tín chúng đem Tĩnh Từ sư thái nâng tới phòng giải phẫu tạm thời ở hậu viện, nơi này ban đầu vốn là nơi Lưu bộ khoái sau khi thương thế lành xuất viện cho nên có phòng bệnh trống. Lâm Thanh Đại trước đó đã trừ độc chuẩn bị đầy đủ, cũng ra lệnh cho các công tượng thi công xây dựng phòng ốc tạm dừng, để tránh ảnh hưởng tới việc Đỗ Văn Hạo làm giải phẫu.

(1) Đoản sam: Áo ngắn.

(2) Âm vong là hiện tượng mất nước do ra mồ hôi, tiêu chảy nhiều. - Dương Thoát là hiện tượng dương khí bị thoát mất do trúng hàn, nhiệt tà quá mạnh.

Chương 98: Nhất ba vị bình nhất ba hựu khởi. (*)

Từ trong tủ hồ sơ, Tuyết Phi Nhi lấy ra “khế ước đồng ý giải phẫu”, trình bày và giải thích qua tác dụng của văn khế này, yêu cầu người thân thuộc ký tên đồng ý mới có thể giải phẫu. Một trung niên nữ ni thân thể mập mạp tiến lên nói: “Chúng ta là người xuất gia, lục căn thanh tịnh, trần duyên đã tuyệt, cùng thân thuộc không còn quan hệ, bần ni là Không Huệ thủ tọa đệ tử của trụ trì, sẽ do bần ni ký”.

Ký xong, Tuyết Phi Nhi giúp Đỗ Văn Hạo tiến hành chuẩn bị giải phẫu.

Lần trước sau khi giải phẫu xong cho Lưu bộ khoái, mấy người Đỗ Văn Hạo nhận định giải phẫu như vậy sau này không ít. Cho nên, những thiết bị liên quan, khí giới cùng thuốc viên đều chuẩn bị đầy đủ, tùy lúc có thể giải phẫu. Bởi vậy, lần này thời gi­an chuẩn bị cũng không lâu.

Chỉ chốc lát, Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi liền mặc vào áo dài giải phẫu, mang khẩu trang cùng bao tay, may là đúng lúc giữa trưa, ánh sáng đầy đủ, không cần lo lắng tới vấn đề chiếu sáng.

Đầu tiên do Bàng Vũ Cầm giúp Tĩnh Từ sư thái cắm vào vị quản cùng niǵ quản, sau đó cho Tĩnh Từ sư thái phục thuốc tê, Tĩnh Từ sư thái nhanh chóng mê man.

Đỗ Văn Hạo cầm trong tay liễu diệp giải phẫu đao, ổn định tâm thần, tại ổ bụng sư thái cắt thẳng vào thớ thịt, sâu tới ngoài màng bụng, phát hiện màng bụng có ứ máu, phù thũng biến đổi, điều này xác minh suy đoán lúc trước là viên màng bụng mạn tính. Màng bụng mở ra, có nồng đậm mùi dược thảo xuất ra, trong khoang bụng tràn đầy dịch tràng vị, màu đỏ của huyết thủy cùng màu đỏ sậm của dược thang.

Trong khoang bụng sao lại có dược thang?

Đỗ Văn Hạo trong đầu xoay chuyển, lập tức rõ ràng, rất có thể thực quản đã thủng, uống dược thang vào tất nhiên đều theo lỗ thủng chảy vào trong khoang bụng, làm cho khoang bụng bị lây nhiễm nặng hơn, chẳng trách mấy người Cung Minh đại phu, cả ba phái lúc trước dùng dược đều không có tác dụng gì, hơn nữa càng phục thuốc thì bệnh tình càng nặng.

Đỗ Văn Hạo lập tức dùng: ống xi-​phông thô sơ hút dược thang, huyết dịch vị tràng trong bụng ra. Sau khi cẩn thận dò xét tình huống thực quản, lại tiếp tục kiểm tra “thập nhị chỉ tràng” (1), thì phát hiện nùng đài cùng chảy dịch, Đỗ Văn Hạo trong lòng vui vẻ quả nhiên không ngoài dự đoán, rất có thể là thập nhị chỉ tràng bị thủng dẫn tới viêm màng bụng. Hơn nữa, nùng đái chính là vùng nhiễm bệnh!

Hắn vừa tiến hành kiểm tra toàn bộ thập nhị chỉ tràng phát hiện có một lỗ thủng. Thật sự là ông trời nể tình. Không có quá làm khó mình. Mặc dù lỗ thủng hơi lớn. Nhưng thuật vá lỗ thủng thập nhị chỉ tràng không làm khó được hắn.

Hắn tiếp tục xem xét từng cơ quan nội tạng trong khoang bụng. Không phát hiện thấy có hiện tượng biến đổi bệnh lý. Lúc này mới bắt tay vào việc tu bổ lỗ thủng thập nhị chỉ tràng.

Lỗ thủng này khá lớn. Nếu cứ miễn cưỡng khâu lại xung quanh vết thương dưới tình huống này cũng không thể khép lại được. Đỗ Văn Hạo quyết định toàn bộ khâu tầng lại. Buộc ga-​rô. Đem bó mỡ chày lấp đầy vùng chỗ thủng sau đó buộc ga-​rô vào bên ngoài. Sau khi hoàn tất việc khâu vá thì đã nhiễm trùng khắp vùng bụng. Đỗ Văn Hạo đặt ống dẫn xi-​phông tự chế, sử dụng dung dịch trừ độc bản thân đã chuẩn bị sẵn cẩn thận vệ sinh rửa sạch khoang bụng, đem tẩy dịch hút ra hết. Sau đó lại cắm ở miệng vết thương để dẫn lưu ra ngoài.

Lo lắng Tĩnh Từ sư thái do tuổi khá lớn mà trong bụng sẽ bị cảm nhiễm. Đỗ Văn Hạo đối với vết mổ ngoài màng bụng dùng thuật thiết khẩu giảm trương tránh sau này vết thương nứt miệng.

Giải phẫu tiến hành rất thuật lợi. Lúc giải phẫu xong thì đã sẩm tối.

Đỗ Văn Hạo dùng nước muối làm cho Tĩnh Từ sư thái tỉnh lại. Đồng thời chẩn sát mạch dập cùng hô hấp của Tĩnh Từ sư thái. Phát hiện triệu chứng bệnh ổn định. Lúc này mới yên lòng thở phào.

Trong lòng hắn cực kỳ cảm thán, thuật tu bổ thập nhị chỉ tràng bị thủng, trong y học hiện đại chỉ là một giải phẫu ngoại khoa phổ thông, bác sĩ ngoại khoa thông thường đều có thể thực hiện. Nhưng mà, thời cổ đại trước đó một ngàn năm, lại không có phương pháp chỉ có thể nằm chờ chết.

Đỗ Văn Hạo khai thang thuốc kháng khuẩn giảm nhiệt và duy trì thể dịch, để cho Tuyết Phi Nhi cùng Bàng Vũ Cầm giúp Tĩnh Từ sư thái phục dụng nhiều lần mỗi lần một lượng nhỏ, còn nói hiện tại ở ruột còn chưa thông khí, tuyệt đối cầm ăn cơm để tránh tạo thành bệnh tắc ruột. Bởi vì đối bệnh khuyết thiếu tĩnh mạch chỉ thì phải nhỏ vào hoặc tiêm vào, bây giờ chỉ có thể thông qua tràng vị cung cấp dược, cũng may tràng vị có thể hấp thu dược thang. Nhiều lần lượng ít cấp thuốc sẽ không phát sinh bệnh tắc ruột. Đợi sau khi thông khí sẽ tiếp tục gia tăng lượng thuốc phục dụng mỗi lần.

Đỗ Văn Hạo dạy Bàng Vũ Cầm dùng kim châm đâm vào các huyệt Tam Lý, Thiên Xu, Hợp Cốc, đẳng huyệt của Tĩnh Từ sư thái, thao tác này có thể trợ giúp chống bụng trước, tràng tê liệt.

Sau khi xử lý xong, Đỗ Văn Hạo cởi áo dài đẩy cửa đi ra. Trong quá trình giải phẫu, nữ ni cùng chúng tín đồ vẫn một mực ngồi trong hậu viện, yên lặng tụng kinh cầu khẩn, thấy Đỗ Văn Hạo đẩy cửa đi ra, cũng vội vàng đứng dậy tiếp đón.

Nhìn thủ tọa Không Huệ sư thái cùng đám người Cung Minh ánh mắt lo lắng, Đỗ Văn Hạo mỉm cười gật đầu: “Sư thái đã chuyển nguy thành an rồi!”

Mọi người kinh hỉ, cùng liên tục tạ ơn.

“A Di đà phật! Thiện tai! Thiện tại…” Chủ tọa đệ tử Không Huệ sư thái của Tĩnh Từ sư thái vui mừng vô cùng, chắp tay hành lễ, đọc lên một tràng pháp hiệu, đang muốn cảm tạ. Đột nhiên thân thể mập mạp của bà chơi vơi, từ từ vô lực ngã xuống đất.

Mọi người đang trong vui mừng tột độ, không ngờ Không Huệ sư thái đột nhiên té xỉu, cũng may nữ ni ở phía sau bà phản ứng nhanh, vội vàng đỡ lấy bà, chỉ là bà ta rất mập, phải mấy nữ ni mới có thể dìu đỡ được. Mọi người liên tục gọi lên, ai nấy quây tụ lại đây, chỉ thấy Không Huệ sư thái hai mắt nhắm nghiền, đã không còn biết việc gì bên ngoài. Vội vàng lay vai bà liên tục gọi, vừa lại ấn vào huyệt nhân trung giữa mũi và miệng nhưng trước sau vẫn bất tỉnh.

Cung Minh gấp giọng nói: “Nhanh! Nhanh đỡ nàng nằm xuống! Mấy ngày nay nàng cực nhọc ngày đêm hầu hạ Tĩnh Từ trụ trì, dẫn tới mệt nhọc hư thoát. Nhanh đi lấy một cốc nước đường!”

Một nữ ni cao lớn khỏe mạnh đỡ Không Huệ, ôm lấy bà cẩn thận đặt lên chiếc giường lúc trước nâng Tĩnh Từ sư thái tới đây. Sau khi nước đường được đưa tới, đang định cho bà uống. Tiền Bất Thu nói: “Khoan đã! Đỗ đại phu, người xem nàng mắt miệng méo xệch, tứ chi không động, chỉ sợ không chỉ hư thoát mà còn trúng gió nữa!”

Cung Minh trong lòng rùng mình, vừa rồi không cẩn thận xem xét bây giờ mới chú ý tới tình huống chân tay cùng vẻ mặt của Không Huệ sư thái quả thật là trúng bệnh phong. Vội vàng cầm lấy cổ tay bà, ngưng thần chẩn mạch, lại nhìn lưỡi đài của bà lấy ra “tam lăng kim châm”, châm vào Thập Tuyên Huyệt, ngoài ra còn châm vào ba huyệt Nội Quan, Tam Âm Gi­ao, Phong Trì.

Chỉ chốc lát, Không Huệ sư thái từ từ tỉnh dậy, lầu bầu mấy câu ai nghe cũng không hiểu.

Mọi người luôn miệng hỏi bà cảm thấy như thế nào, Không Huệ sư thái hai mắt nhìn trời cũng không đáp lại câu hỏi của mọi người, khuôn mặt méo mó biến dạng, sắc mặt thống khổ dị thường, miệng chỉ lầu bầu, lời nói lảm nhảm mà mơ hồ không rõ. Không người nào nghe hiểu bà ta nói gì.

Các nữ ni nóng nảy, Tĩnh Từ trụ trì bệnh nặng sinh tử còn chưa rõ, bây giờ thủ tọa đại đệ tử Không Huệ lại trúng gió bị bệnh, nhất thời không biết phải làm sao, cùng nhau quỳ xuống cầu Cung Minh đại phu cứu trị.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo thi triển kỹ thuật giải phẫu phần bụng chữa thương cứu sống Tĩnh Từ sư thái, nhưng Cung Minh đại sư ở phủ thành danh khí vang dội, cũng như tiếng tăm của Tiền Bất Thu ở trong huyện này. Gặp phải bệnh hoạn, các vị nữ ni cùng tín đồ vẫn không tự chủ được mà đều cầu khẩn Cung Minh cứu trị.

Cung Minh bảo mọi người dìu tới, vuốt chòm râu trắng ngưng thần chẩn mạch, chỉ chốc lát, nói: “Không Huệ sư thái miệng mắt vặn vẹo, ngôn ngữ không rõ ràng, đầu đau như xé, khuôn mặt hồng xích, xúc động, mạch huyền hoạt. Là ngoại tà xâm nhập vào cơ thể, tổn thương trong kinh lạc dẫn tới tắc nghẽnh, đờm và nước bọt bị ứ đọng.

Bây giờ dùng tê giác, bột ngọc trai, tiên linh tỳ, hoạt thạch, hồ hoàng liên, ác thực, nhân sâm địa đinh thảo, bạch, tàm sa, điềm tiêu, bản lam căn, úc kim, đại hoàng, ngưu hoàng, huyết kiệt, diên hồ sách, hổ thượng làm thuốc dẫn, tất cả hai mươi sáu vị, đem nghiền nhỏ dùng nước sạch hòa vào khuấy đều rồi phục thuốc. Nếu có thể ho khan, nửa đêm sẽ tỉnh lại. Nếu như phục dụng bốn lần mà không ho khan thì… ôi, chỉ sợ không thể chữa trị!”

Các đệ tử của Huệ Không sư thái nhất thời khóc lớn.

Người hầu đi theo Cung Minh dựa theo lời hắn, sau khi ghi lại phương thuốc muốn đưa lại cho lâm Thanh Đại lấy thuốc. Cung Minh gọi lại: “Khoan đã! Đỗ đại phu cùng Tiền đại phu, nhị vị cũng cùng hội chẩn xem xét một chút”.

Tiền Bất Thu gật đầu, chẩn mạch, nhìn lưỡi, nói: “Cung đại phu, lão hủ không cùng ý kiến với ngài”.

“Ồ? Xin thỉnh giáo?”

“Sư thái đột nhiên bất tỉnh, thần thức hôn muội, Doanh Vệ không thông, chóng mặt choáng váng, ngôn ngữ không rõ ràng, tâm thần không yên. Luận chứng là trúng gió nặng, phải dùng quan hoàn phương**, xạ hương đẳng cửu vị, đều nghiền nhỏ pha với một lít rượu, dùng lửa từ từ đun sôi, cho mật ong vào vừa đủ, sau đó làm thành viên, mỗi lần dùng ba mươi viên. Dùng kinh giới thang, bất kể thời gi­an”.

Cung Minh lắc đầu, nhìn Đỗ Văn Hạo: “Đỗ đại phu, theo ý kiến của ngài, triệu chứng của sư thái có phải thuộc về phong cấp?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Sư thái trúng phong, nhưng có thể nguyên nhân không phải do phong tà!”

Cung Minh cùng Tiền Bất Thu đều rất ngạc nhiên, nhìn qua lẫn nhau, Cung Minh hỏi: “Trúng phong còn có nguyên nhân khác?”

“Đúng vậy, trúng phong không chỉ bởi nguyên nhân phong tà, còn có thể gây ra bởi hỏa,đờm, ứ, hư thoát, bệnh hoạn xưa nay đều do khí huyết khue hư, tim gan thận mất cân đối âm dương, hoặc là do ưu tư tức giận thậm chí là do quá sức v.v… , đều có thể dẫn tới âm suy. Còn có dương kháng lên trên, nội phong thay đổi, đờm hỏa sinh ra, kinh lạc tán loạn, do suy nghĩ nhiều quá mà mụ mị, não mạch tê liệt, máu tràn vào não mạch gây ra trúng phong, tới mức khí huyết tán loạn, cơ quan thần kinh ở não tủy bị tổn thương…”.

Cung Minh nhíu mày cắt ngang lời Đỗ Văn Hạo, nói: “Đỗ đại phu nói lão phu nghe không hiểu. Linh Xu có nói: “Hư phong chi tặc (2) làm tổn thương người, thâm nhập sâu vào thân thể, không thể tự đi lại, hư tà làm liệt nửa người, từ ngoài thâm nhập vào cư trú trong Doanh Vệ, Doanh Vệ hơi suy yếu thì tà khí độc khách (3) phát tác gây ra bán bất toại”. Chưa từng nghe tới nguyên nhân gây phong do hỏa, đờm, ứ, hư? Tiền đại phu, ngài nghĩ sao?”

Tiền Bất Thu gật đầu, cũng nói: “Trọng cảnh y thánh trong Kim Quỹ Yếu Lược cũng có nói: “Phong gây bệnh, làm bán thân bất toại, hoặc cánh tay không thể cử động, đây là bệnh tê chi, mạch vi mà sổ làm cho trúng gió. Cũng không liên quan tới hỏa, đờm, ứ, hư. Chỉ là sư phụ ta biện chứng, phần nhiều là phương pháp khác biệt, Cung đại phu không nên kinh ngạc”.

“Thật vậy sao? Đỗ đại phu dùng dược luôn “kiếm tẩu thiên phong” (4), lão hủ cũng từng nghe qua. Nhưng mà, nói về thuật vừa rồi, e rằng… quá mức không thể tưởng tượng nổi rồi?”

Bệnh trúng phong còn có tên là tốt trung, liệt nửa người, bao gồm cả y học hiện đại xuất huyết não, xuất huyết não co rút, màng chu võng xuất huyết sinh ra nhiều loại hình xuất huyết não. Về việc luận nguyên nhân trúng phong cùng cơ chế gây bệnh, thời Tống triều không giống với sau này. Đường Tống trước kia lấy “nội hư tà trung” lập luận, cho rằng trúng phong là do ngoại phong, là thân thể khí huyết khụy hư, mạch lạc trống rỗng, sự bảo vệ bên ngoài không vững chắc, làm cho phong tà nhập vào mạch lạc gây nên bệnh trúng phong. Sau thời Đường Tống thì nghiêng về nguyên nhân bên trong, Kim Nguyên tứ đại gia đưa ra lý luận chữa bệnh “phong, hỏa, đờm, thấp, ứ, trở lạc” phát triển cho đến hiện đại, thì càng thêm tinh tế hơn.

Đỗ Văn Hạo đối với việc trị liệu bệnh trúng phong cũng không nắm chắc, mà bây giờ tranh luận về loại lý luận này cũng không có ý nghĩa, hơn nữa hiện tại trị liệu chứng bệnh trúng phong này lại chủ yếu dùng trung y truyền thống. Hai vị này y đạo cao minh khẳng định so với mình thông thạo hơn. Cũng không cần phải bêu xấu cho người ta chê cười, nên cũng không cần biện bác.

(*) Con sóng thứ nhất chưa qua, con sóng tiếp theo lại tới. Nó giống với câu “sóng gió chưa qua phong ba đã tới” của Việt Nam ta.

(1) Thập nhị chỉ tràng: Đoạn đầu ruột non nối với dạ dày.

(2) Hư phong chi tặc: Tên trộm hư phong, là chỉ gió xâm nhập gây ra bệnh.

(3) Tà khí độc khách: Vị khách không mời tà khí.

(4) Đại ý là cách làm đặc biệt không giống với bình thường.

Chương 99: Tuyết đã rơi nhiều.

Nhưng Cung Minh lại thấy hứng thú, dù sao Đỗ Văn Hạo cũng am hiểu thần kỹ của thần y Hoa Đà, cách giải thích cùng với bản thân mình khác biệt, làm cho hắn rất hiếu kỳ, chắp tay nói: “Đỗ đại phu, lão hủ thất lễ, xin mời Đỗ đại phu nói tiếp đi, lão phu muốn nghe kiến giả độc đáo của ngài, đường lối khác như thế nào”.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Hay là trước hết mời Cung đại phu cứu người trước đã”.

Cung Minh lắc đầu: “Trúng phong liên quan tới sinh tử, bệnh nặng lắm thì cũng chỉ đến thế mà thôi, phải biện chứng chuẩn xác mới có hiệu quả, vội vàng hạ dược, không chỉ có mất công vô ích mà còn làm lỡ bệnh tình. Lúc này ý kiến của lão hủ cùng Tiền đại phu không đồng nhất, ngài nói đi chúng ta cùng nhau tham tường, để biện chứng chuẩn xác”.

Đỗ Văn Hạo rùng mình, người này không hổ là danh y lâu năm, kinh nghiệm già dặn, lâm nguy bất loạn, tiếp theo cũng không từ chối nữa, sau khi chẩn mạch suy nghĩ một lát rồi nói: “Bệnh trúng phong biến đổi đa đoan, như gió thổi qua mấy lần. Nhưng mà tổng thể chia làm “cấp hậu và hoãn hậu” (1), trong tạng cấp hậu thì bệnh tình phát triển nhanh chóng, đau đầu kịch liệt, nôn mửa, trong một ngày sẽ bất tỉnh mấy canh giờ. Mà trong tạng hoãn hậu, thì ngất trong thời gi­an ngắn, thần trí lúc thì tỉnh táo lúc thì mơ hồ, bệnh tình phát triển từ từ, tứ chi và thân thể tê liệt tương đối nhẹ. Phải chuẩn xác phân biệt hai loại mới có thể phân ra cách dùng dược. Đối với trường hợp tạng cấp hậu thì không thể sử dụng phương pháp công thông phủ, nếu không bệnh tình sẽ gia tăng nặng hơn, sẽ càng nguy hiểm”.

Ngưng thần suy nghĩ chỉ chốc lát, Cung Minh nói: “Cách giải thích của Đỗ đại phu thật là khác biệt, làm cho người ta cảm thấy mới mẻ, theo cách nhìn của ngài, Không Huệ sư thái thuộc về loại nào?”

“Bệnh của Không Huệ sư thái còn chưa thể phán đoán, cần phải quan sát mấy canh giờ mới có thể xác định. Hiện tại là trúng phong vào gi­ai đoạn ban đầu, trước tiên chỉ có thể biện chứng điều trị đồng thời lưu tâm quan sát, tùy thời điều chỉnh dụng dược”.

“Vậy thì mời lão đệ biện chứng thử xem”.

“Được! Coi như là thân thể sư thái khỏe mạnh, nhưng đang thời kỳ trời đông giá rét, vì Tĩnh Từ trụ trì mà cực nhọc ngày đêm không nghỉ, sau khi biết được trụ trì chuyển nguy thành an tâm tình kích động, phong đờm quấy nhiễu ngăn trở kinh lạc, chân khí không thể tuần hoàn trong thân thể, nửa lưỡi hoạt động không còn nhạy làm cho ngôn ngữ không rõ ràng, nửa người tê liệt. Đối với bệnh chứng này, ta nghĩ cần phải ích khí thông lạc, trừ phong hóa đờm. Chọn phương thuốc khả dụng gia tăng thêm hoàng phong tán. Chờ xác định “tạng cấp hậu” hay là “hoãn hậu” lúc đó sẽ điều chỉnh dược dùng”.

Cung Minh hai tay vung ngang ra, cười khổ nói: “Thôi xong rồi, ba người cùng biện chứng, ba phương pháp. Nên theo ai?”

Trung y là như vậy, kinh nghiệm của từng cá nhân không giống nhau. Góc độ quan sát không giống nhau. Đối với việc phán đoán cơ chế gây bệnh cũng cho ra kết luận biện chứng bất đồng. Tất nhiên phương thuốc dùng cũng bất đồng.

Đỗ Văn Hạo nói: “Các vị sư thái đều chân thành mời ngài Cung đại phu chủ trì. Hiển nhiên việc này ngài làm chủ. Chúng ta cung cấp ý kiến tham khảo. Việc này không nên chậm trễ. Mời hạ phương đi thôi”.

“Được. Trước tiên trị theo phương pháp của ta. Nếu không thể chữa trị thì tới các ngài”.

Đỗ Văn Hạo nhìn thoáng qua mắt miệng đang méo xệch của Không Huệ sư thái. Trong lòng cười khổ. Mặc dù đại bộ phận trúng phong là do tắc động mạch não khiến cho thiếu máu trúng phong, nhưng cũng có một bộ phận là xuất huyết não máu rò rỉ tiến vào tổ chức não khiến cho xuất huyết trúng phong. Hai loại đều là cho tổ chức não tổn thương lâu dài. Nếu như cấp tính xuất huyết não làm cho trúng phong. Sẽ xuất huyết lượng rất lớn. Chỉ sợ cả ba phương dược cuối cùng cũng không có hiệu quả gì.

Cung Minh hạ phương để sư thái phục dụng vào, sau đó chỉ có thể chờ đợi kết quả.

Vốn giữa trưa ăn cơm xong phải đi chữa bệnh cho huyện thái gia. Đột nhiên có Tĩnh Từ trụ trì mang bệnh nặng được đưa tới. Vẫn bận rộn đến tối chạng vạng mới rảnh rỗi. Sau khi huyện thái gia mang tiểu kiệu tới. Đỗ Văn Hạo ngồi lên tiểu kiệu đi tới châm cứu cho huyện nha tri huyện xong liền trở lại Ngũ Vị đường. Trời đã tối đen.

Đỗ Văn Hạo tới trước phòng Tĩnh Từ trụ trì thấy bệnh tình vẫn ổn định, liền đi tới phòng bệnh Không Huệ sư thái xem xét.

Không Huệ sư thái nằm ở trên giường, bên giường có Cung Minh đang ngồi, đang vuốt vuốt chòm râu trầm tư suy nghĩ, mấy nữ ni hoặc ngồi hoặc đứng, ưu thương mà nhìn Không Huệ ở trên giường.

Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào, chúng nữ ni vội vàng đứng dậy chắp tay chữ thập chào. Đỗ Văn Hạo khoát khoát tay, hỏi Cung Minh: “Đại phu! Bệnh tình của Không Huệ sư thái như thế nào rồi?”

Cung Minh như trong mộng mới tỉnh lại, lắc đầu cười khổ: “Bệnh tình càng lúc càng trầm trọng! Đến bây giờ thần trí hôn mê bất tỉnh, nửa người không thể cử động, mắt miệng lệch nhiều hơn. Xem ra, đơn thuốc của lão hủ không dùng được rồi. Tiền đại phu vừa mới đi, sau khi hai người lão hủ thương nghị, quyết định tiếp theo sử dụng đơn thuốc của Tiền đại phu, nếu tới buổi tối mà không có gì thay đổi thậm chí là bệnh tình tăng thêm thì dùng đơn thuốc của Đỗ đại phu”.

Đỗ Văn Hạo nhìn bộ dáng của Không Huệ, trong lòng nặng nề, hahi vị lão trung y dùng phương dược cũng không có hiệu quả, không khỏi làm cho hắn một chút cũng không tin tưởng vào phương thuốc của chính mình.

Cả ngày hôm nay đều âm u, rồi ban đêm cũng tới, cuối cùng thì hoa tuyết lưa thưa nhẹ nhàng rơi rụng.

Trời đông giá rét mà, Anh Tử đã đem hỏa lò đến cho các phòng bệnh, ở phòng Đỗ Văn Hạo ngủ cũng gia tăng thêm một chậu than đỏ rừng rực.

Đã tới canh ba nhưng Đỗ Văn Hạo không một chút nào cảm thấy buồn ngủ, một mình ngồi cạnh hỏa lò sưởi ấm, trên bàn chất một đống sách y thuật, hắn đang tra điển tịch cùng bệnh án ghi chép lại về trúng phong, lục lọi trong một đống lớn, cảm giác thật sự là khi đọc sách chỉ hận thiếu phương.

Sau khi Tiền Bất Thu dụng dược một canh giờ, bệnh tình của Không Huệ sư thái cũng không có dấu hiệu chuyển biến tốt đẹp hơn. Tất cả mọi người rất sốt ruột, Đỗ Văn Hạo càng sốt ruột, hắn trở lại trong phòng bắt đầu tìm luận thuật về phương diện này. Nhưng là của thời Đường Tống.

Đối với bệnh trúng phong, các luận thuật đều trình bày theo “nội hư tà trung lập luận”, cùng sở học của hắn quá khác biệt, thật là khổ não.

Đêm đã khuya, Đỗ Văn Hạo còn đang tra y thuật, Anh Tử đến thúc giục mấy lần, Đỗ Văn Hạo lúc này mới rửa mặt đi ngủ. Nhưng mà một đêm này ngủ cũng không an ổn, nằm mơ cũng nghĩ đến làm thế nào để chữ bệnh trúng phong, cho đến khi trời sáng, mới nặng nề thiếp đi.

Sáng sớm ngày thứ hai, Đỗ Văn Hạo đang say mộng chưa tỉnh, mơ hồ có âm thanh ong ong truyền tới, còn tưởng rằng bản thân đang nằm mơ, trở mình một cái, chui vào tấm chăn ấm áp muốn tiếp tục ngủ một giấc nửa. Nhưng âm thanh nọ vẫn liên tục không ngừng, cũng không phải là ở trong mở mắt ra nghiêng tai lắng nghe, quả nhiên không sai, dường như là thanh âm niệm phật tụng kinh. Hắn cảm thấy rất là kỳ lạ, chẳng lẽ chúng nữ ni cùng tại gia cư sĩ đang lên lớp buổi sáng? Không đúng, nếu vậy mấy người kia không thể phát ra âm thanh lớn như thế.

Nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã sáng rõ. Nhớ tới bệnh tình của Tĩnh Từ trụ trì cùng Huệ Không ư thái, mặc dù hắn không nỡ rời khỏi ổ chăn ấm áp nhưng mà vẫn cố gắng bò dậy, lười nhác duỗi dài cái lưng, từ từ nhắm hai mắt hai chân lục lọi tìm giày dưới giường, không để ý đạp phải một vật gì đó rất mềm mại, vội vàng thu lại, con vật nọ “ngao” lên một tiếng, chạy vài bước, xoay lại nhìn, nghiêng cái đầu nhìn hắn. Đúng là tiểu hổ mà hắn đem về nuôi dưỡi Tiểu Khả.

Trời vừa sáng sớm con hổ này tỉnh dậy, từ ổ chó chui ra, đi dạo khắp nơi, nhìn thấy giày vải của Đỗ Văn Hạo liền coi nó là đồ chơi nghịch ngợm cắn xé. Đang cao hứng chơi đùa giày vải, Đỗ Văn Hạo dẫm một chân lên đầu nó làm cả hai giật mình.

“Tiểu Khả! Tới đây!” Đỗ Văn Hạo khom lưng, đưa tay vỗ vỗ.

Tiểu hổ chạy tới vài bước, vươn thân nhảy lên lòng bàn tay Đỗ Văn Hạo, thân mật mà liếm bàn tay hắn. Đỗ Văn Hạo mở miệng tiểu hổ ra nhìn tới nhìn lui, lúc này mới hơn một tháng, đầu lưỡi tiểu hổ đã bắt đầu trở nên thô ráp, răng nanh cũng đã nhú ra một đoạn nhỏ.

Đỗ Văn Hạo ôm lấy tiểu hổ, cúi xuống xỏ giày vải vào, đi tới bên cửa sổ, thanh âm niệm kinh tụng phật càng lớn hơn, dường như có rất nhiều người, lại đều đặn mà thấp giọng ngâm tụng, mặc dù thanh âm cũng không lớn nhưng nhân số đông đổi tất nhiên sẽ nghe rất lớn.

Không thể có nhiều hòa thượng tụng kinh như vậy chứ? Trong trí nhớ dường như ở phụ cận không có chùa miếu gì mà. Đỗ Văn Hạo đang nghi hoặc, một luồng hàn phong lạnh thấu xương thổ vào làm cho hắn không tự chủ được mà rùng mình một cái. Đưa tay khép cửa sổ lại một chút, chỉ thấy trời âm u, bông tuyết đang thưa thớt phiêu dật.

Giương mắt nhìn lên, xa xa là dãy núi, gần chỗ phòng ốc thụ mộc cùng với phía dưới sân cũng đã trở thành một mảnh mờ mịt trắng xóa.

Tuyết rơi! Tuyết rơi thật nhiều! Khó trách lại lạnh như vậy.

lúc này, cửa phòng “kẹt” một tiếng bị đẩy ra, nha hoàn Anh Tử bưng một chậu nước nóng hôi hổi tiến vào: “Tiên sinh, rửa mặt thôi! Người đứng ở nơi gió lùa, cẩn thận bị lạnh!”

Từ buổi tối mà Anh Tử giúp hắn tắm rửa kỳ cọ thân thể, Đỗ Văn Hạo ngủ đã không cài then cửa nữa, như vậy Anh Tử có thể thuận tiện ra vào, thỉnh thoảng có những buổi tối có người tới khám bệnh nặng cũng dễ dàng tiến vào gọi hắn xuất chẩn.

Anh Tử đặt chậu nước xuống, sau đó chạy tới đóng cửa sổ, tiếp lấy tiểu hổ trong tay Đỗ Văn Hạo, đặt vào ổ chó. Rồi lại chạy đến bình phong bên cạnh hỏa lò gỡ xuống một kiện trường bào dày cộm mới tinh đi tới giúp Đỗ Văn Hạo mặc vào. Trường bào này đã được làm ấm, khoác lên người rất thoải mái.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Tĩnh Từ sư thái như thế nào rồi?”

“Rất tốt, sáng sớm ta đã đi kiểm tra, thấy đã hoàn toàn tỉnh táo, những môn nhân trông nom sư thái nói, nửa đêm tối hôm qua Tĩnh Từ sư thái đã thông khí, theo phân phó của ngài thông khí có thể ăn vào một ít thức ăn lỏng, cho nên đã dùng một ít cháo, ăn non nửa bát, sáng nay tinh thần đã khá hơn nhiều. Nhưng mà Không Huệ sư thái bệnh tình thật sự không tốt, dùng xong thuốc dường như không có hiệu quả gì, hai tròng mắt với miệng vẫn đang méo xệch, đầu óc không tỉnh táo, ngay cả nói cũng không được”.

“Cung đại phu đã dậy chưa?”

“Đã dậy, nghe nói đã chẩn phục qua cho Không Huệ sư thái. Đúng rồi, Tiền thần y cũng đến, hai người cùng nhau hội chẩn”.

“Giờ đây có người bệnh tới không?”

“Tới, đã tới từ sớm rồi. Từ lúc chưa tới thời gi­an mở cửa hiệu, ngoài cửa cũng đã có người bệnh chờ mở cửa cầu y”.

“Ồ, tuyết rơi thế này, tại sao không mở cửa cho họ tiến vào?”

“Hì hì, tiên sinh, điều này không cần ngài khó nhọc phân phó, phu nhân đã sai người mở cửa rồi, để cho mọi người chờ ở trong phòng, đợi ngài rời giường, sẽ xem bệnh”.

“ha ha, phu nhân các ngươi thật chu đáo. Đúng rồi! Bên ngoài tại sao lại có nhiều người niệm kinh như vậy?”

“Nghe nói là tins chúng từ phủ thành đi tới, đến để tụng kinh cầu khẩn cho Tĩnh Từ trụ trì, ở ngay hai trên đường trước cửa hiệu chúng ta khoanh chân ngồi tụng- kinh. Tới vào lúc nửa đêm tối hôm qua, phu nhân để cho họ vào nhà nghỉ tạm, nhưng nhiều người lắm chứa không nổi, bọn họ đành phải thay phiên nhau tiến vào. Đứng ở cửa sổ nhìn qua Tĩnh Từ trụ trì sau đó lại đi ra ngoài, cả một đêm đều ngồi ở bên ngoài tụng kinh”.

“Nghe thanh âm thì không ít người nhỉ?”

“Đúng vậy, mới đầu chỉ có hai mươi đến ba mươi người, sau đó người tới càng lúc càng nhiều, lúc sáng sớm ta đi xem xét, lúc này chỉ sợ đã hơn một ngàn người rồi, vẫn đang xếp hàng cầu khẩn!”

(1) Cấp hậu và hoãn hậu: Thời gi­an chậm và thời gi­an nhanh.

Chương 100: Lý luận không thể tưởng tượng nổi.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Ôi chao! Nhiều người như vậy ư?”

Anh Tử nói: “buổi sáng hôm nay Ngô Thông còn nói, may mà tiên sinh có thần kỹ giải phẫu chữa thương của Hoa Đà, mới có thể chữa trị cho Tĩnh Từ trụ trì. Nếu không, những người này mà nổi giận thì không thể không đem hiệu thuốc của chúng ta hủy đi. Cho dù không đập phá cũng phải ở lại ăn uống cho chúng ta nghèo đói mới thôi”.

“Ha ha”. Đỗ Văn Hạo cười nói: “Các người bảo người ta là người xuất gia mà có thể đập phá ư!”

“Không phải là người xuất gia, đại bộ phận đi tới đều là tại gia cư sĩ, có đủ loại người, trong đó không thiếu những người có tướng mạo dữ tợn, cho nên Ngô Thông mới nói đùa như vậy.

“Không sợ!” Đỗ Văn Hạo sờ cái đầu của tiểu hổ, nói: “Tiểu Khả của chúng ta đã trưởng thành, răng nanh cũng đã mọc ra, ai dám gây sự với chúng ta, Tiểu Khả cắn hắn! Đúng không nào?”

Dường như tiểu hổ nghe và hiểu, ngửa đầu lên “Ngao! Ngao!” hai tiếng. Chỉ tiếc tiếng hổ gầm này khí lực không đủ, hoàn toàn không có cảm giác uy chấn sơn lâm mà giống như một tiểu miu miu đang nghêu ngao ca hát.

Nghe vậy Đỗ Văn Hạo có chút nhụt chí, đưa tay sờ sờ cái răng nanh nhỏ của nó: “Ngươi không cho Tiểu Khả ăn thịt hay sao vậy?”

“Cho ăn mà, mấy ngày trước ta nhìn thấy răng nó dài ra liền đưa canh thịt vụn cho nó ăn, nhưng mà tiểu gia hỏa này chỉ ngửi ngửi, cũng không chạm đến, tiếp theo liền chui vào ổ chó bú sữa. Ta lại làm thịt bò cho nó, nhưng nó ngậm miệng ngoe nguẩy cái đầu nhỏ không ăn giống như là độc dược. Quả thật không có biện pháp”.

“Tại sao lại như vậy?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên nói.

“Như vậy đó. Ta trước tiên giúp ngài rửa mặt. Chờ một lúc ta đi tìm khối thịt đưa đến. Để xem nó có ăn không”.

“Để ta tự mình rửa, ngươi đi tìm thịt đi. Ta cho nó ăn”.

Anh Tử đáp ứng liền xoay người ra khỏi cửa. Chỉ chốc lát nàng đến một cái giỏ xinh xắn mà tinh xảo tiến vào đặt trên bàn. Lấy ra vài món điểm tâm cùng cháo đặt trên bàn. Nói với Đỗ Văn Hạo: “Tiên sinh. Ăn điểm tâm nào”.

“Không vội. Cho ta một miếng thịt. Ta xem xét tiểu hổ này một chút”.

Anh Tử từ trong cái giỏ lấy ra một khối thịt bò đã luộc chín đưa cho Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo xé thịt bò thành sợi. Đưa tới bên mép tiểu hổ. Hổ ta ngửi ngửi, xoay đầu rồi không tiếp tục để ý tới nửa.

“A! Đây là thịt bò! Ngu ngốc! Ăn mau! Không ăn thịt thì có còn là lão hổ nửa không? Chẳng lẽ ngươi muốn làm bò dê ăn cỏ cây sao? Mau ăn!” Đem thịt bò nhét vào miệng tiểu hổ. HỔ ta lắc đầu xoay đông xoay tây tránh né. Cuối cùng dứt khoát đem đầu giấu vào giữa hai chân. Chỉ lộ ra hai con mắt nhỏ đen bóng mà nhìn Đỗ Văn Hạo.

“Tiểu gia hỏa này! Không ăn thịt sao được, chung quy lại ngươi cũng không thể bú sữa chó cả đời mà!” Đỗ Văn Hạo liếc mắt thấy bát cháo của mình, liền đem thịt bò đã xé nhỏ cho vào bát cháo dùng đũa khuấy đều, đặt trên mặt đất sau đó đem tiểu hổ đặt ở bên cạnh: “Này! Cháo thịt thơm mát ngào ngạt nhanh ăn đi!”

Tiểu hổ ngửa đầu liếc nhìn hắn một cái, duỗi cái đầu vào trong bát khịt khịt thử thăm dò, sau đó liền liếm “chèm chẹp”.

“Ha ha! Cuối cùng đã ăn rồi!”

“Vẫn là tiên sinh có biện pháp!” ANh Tử cao hứng mà ngồi xổm xuống quan sát tiểu hổ, chỉ chốc lát liền “A!” một tiếng: “Hình như không đúng vậy, như thế nào chỉ ăn cháo thôi, thịt xé nhỏ một sợi cũng không động tới!”

“Hả!” Đỗ Văn Hạo cẩn thận nhìn vào. Quả nhiên, trong bát cháo đã vơi non nửa nhưng thịt xé nhỏ vẫn còn nguyên trong bát: “Cái tên tiểu hoạt đầu (1) này! Tại sao lại chỉ ăn cháo không ăn thịt, chẳng lẽ nghe được bên ngoài tụng kinh niệm phật cũng biến tính muốn xuất gia làm hòa thượng sao? Không ăn thịt là không thể được, trên núi cũng không có bánh bao cho ngươi ăn”.

Anh Tử cất tiếng cười cười “hì hì”: “Tiên sinh đừng lo lắng, từ từ sẽ được, ta cho nó ăn nhiều lần, hẳn là sẽ ăn”.

Đỗ Văn Hạo vội vàng ăn xong điểm tâm, xuống lầu đi vào trong viện, liếc mắt nhìn vào hậu viện, trước đó vài ngày mới mua được chỗ đó, các công tượng đang thi công, phòng ốc đã xây cất được non nửa rồi, kết cấu hầu hết đều bằng gỗ, ước chừng một thời gi­an ngắn sẽ hoàn thành rồi.

Đỗ Văn Hạo đi tới phòng bệnh của Tĩnh Từ trụ trì, Tĩnh Từ sư thái đã tỉnh dậy, trong phòng có rất nhiều người, đại bộ phận là tại gia cư sĩ, hơn nữa xem trang phục họ mặc có thể thấy phần nhiều là những người có chút thân phận, đang hớn hở mặt mày cùng Tĩnh từ sư thái nói chuyện. Hiển nhiên, những người này vì Tĩnh Từ sư thái chuyển nguy thành an mà cao hứng.

Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào, vội vàng đứng dậy làm lễ.

Trong đó có một người trung niên vẻ mặt phúc hậu, xem bộ dáng như là một hỏa nhân tiểu mục đầu, tiến lên khom người, mỉm cười nói: “Đỗ đại phu, kẻ hèn này họ Phó, Phó Trường Hữu, là chưởng quỹ của của Thụy Đức Mễ Hành ở phủ thành, cũng là đại đệ tử tại gia cư sĩ của Tĩnh Từ sư thái, ngày hôm qua ta nghe nói phải sư phụ tới nơi này cầu y, liền thông báo với các sư huynh đệ tại gia cư sĩ chung quanh đi tới đây, cho nên mới đến chậm. Chúng ta đi cả đêm, nửa đêm mới tới đây, sáng nay biết được Đỗ đại phu thi triển thần kỹ giải phẫu của Hoa Đà cứu tính mạng của sư phụ ta, ta cùng sư huynh đệ cảm kích vô cùng, đoàn người cũng tự tụng kinh niệm phật, vì Đỗ đại phu mà cầu phúc”.

Đỗ Văn Hạo cực kỳ kinh ngạc: “Bọn họ ở cửa tụng kinh niệm phật, là để cầu phúc cho ta? Ha ha, ta còn tưởng là vì Tĩnh Từ trụ trì cơ”.

“Tối hôm qua tụng kinh niệm phật là vì sư phụ lão nhân gia mà cầu nguyện, sáng nay sau khi biết sư phụ đã bình an, mọi người liền vì Đỗ đại phu mà tụng kinh cầu phúc, để biểu đạt sự cảm kích”.

“Điều này thật không dám. Ha ha”.

“Đó là điều phải làm, mọi người đã thương nghị, muốn làm một cái gì đó để biểu đạt cảm kích đối với Đỗ đại phu”.

Đỗ Văn Hạo cuống quýt khoát tay bảo không cần khách khí, ngồi xuống ở bên giường, phục chẩn cho Tĩnh Từ sư thái. Sau khi chẩn mạch, nhìn lưỡi tượng, hỏi Tĩnh Từ sư thái cảm thấy như thế nào.

Tĩnh Từ sư thái nói: “Bần ni cảm thấy tốt hơn rất nhiều, đa tạ Đỗ tiên sinh đã cứu mạng”.

Đỗ Văn Hạo khách khí vài câu, rồi nói: “Tràng vị của đại sư bị thủng, chờ sau khi đại sư bình phục, ta sẽ khai thêm cho đại sư một đơn thuốc nữa, phục xong mấy thang này, là có thể trị khỏi, chỉ là bình thường phải chú ý điều dưỡng, không thể vì nóng vội mà làm việc quá sức mệt nhọc”.

Tĩnh Từ khẽ gật đầu: “Đỗ tiên sinh nói đúng, bần ni cảm ơn nhiều. Nghe nói, đệ tử Không Huệ của bần ni trúng phong, không biết bệnh tình ra sao rồi?”

“Không cần lo lắng, Cung Minh đại phu đã kê đơn, còn có Tiền Bất Thu đang ở đó, chắc là không có trở ngại gì, rất nhanh có thể khang phục”.

Đỗ Văn Hạo dặn dò nữ ni có trách nhiệm chăm sóc sư thái, bảo các nàng dìu đỡ Tĩnh Từ trụ trì rời giường, ở trong phòng chậm rãi đi lại để giúp tràng vị khôi phục công năng bình thường, tránh cho ruột dính liền.

Từ trong phòng đi ra, Đỗ Văn Hạo đi tới phòng Không Huệ sư thái.

Cung Minh và Tiền Bất Thu đang ở trong này, thấy hắn tiến vào, cùng đứng dậy nghênh đón.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Tình hình thế nào rồi?”

Cung Minh lắc đầu nói: “Tình huống không tốt, thần trí u mê, nằm mãi không tỉnh, mặt đỏ hơi thở đứt đoạn, trong cổ phát ra tiếng đờm khò khè, nửa người không thể cử động. Đỗ đại phu, ngài cũng hỗ trợ phục chẩn, nói ra ý kiến đi”.

Trong lòng Đỗ Văn Hạo trầm xuống, chứng bệnh này cùng loại với xuất huyết não, nếu như quả thật là xuất huyết bên trong, vậy thì sẽ rất phiền toái, hắn nghĩ tới thuật thanh trừ huyết thũng. Nhưng mà không có thiết bị chiếu quang quét hình định vị vùng huyết thũng, giải phẫu não là chuyện tình không thể tưởng tượng được, đại não cùng khoanh bụng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể phẫu thuật não như là phẫu thuật khoang bụng. Phải từ từ tra tìm từng vị trí. Hơn nữa, thuật mỗ não thanh trừ huyết thũng chỉ thích hợp với những phạm vi tương đối nhỏ, không thích hợp với chứng trúng phong. Xem ra, chỉ có thể sử dụng phi giải phẫu để chữa trị, trung y phi giải phẫu trị xuất huyết não cũng có rất nhiều bệnh án đã thành công, hơn nữa dự đoán bệnh tình thường so với giải phẫu dễ hơn rất nhiều.

Đỗ Văn Hạo ngồi bên cạnh, ngưng thần chẩn mạch, xem xét hai tròng mắt, phản xạ vành mắt đã tiêu thất, hai đồng tử lồi ra. Sở lên trán cảm thấy nóng bỏng.

Đỗ Văn Hạo lại hỏi mấy người đệ tử của Không Huệ sư thái về đồ ăn thức uống cùng thói quen xưa nay của bà, sau đó nói: “Sư thái chất lưỡi hồng, đài vàng đậm, mạch huyền đập nhanh liên tục, do phong hỏa đờm nhiệt, tà thực nội bế thần cơ chi tượng, chứng can dương hóa phong, cùng đờm hỏa cản trở thanh khiếu, dự đoán chính xác là do trong tạng cấp hậu!”

Cung Minh với Tiền Bất Thu đều cho rằng trúng phong là do ngoại phong, là do tầng bảo vệ bên ngoài không vững chắc làm cho phong tà xâm nhập vào mạch lạc, cho tới bây giờ vẫn chưa từng nghe nói tới loại đờm hỏa làm cho trúng phong mà Đỗ Văn Hạo vừa trình bày. Những kiến thức này cùng sở học của họ hoàn toàn khác biệt. Nhưng mà, Đỗ Văn Hạo liên tục thành công phẫu thuật chữa thương hai ca bệnh , làm cho bọn họ không thể không quan tâm tới quan điểm của Đỗ Văn Hạo.

Cung Minh hỏi: “Lão hủ đối với những lời Đỗ đại phu có chút khó hiểu, xin thỉnh giáo, đờm hỏa này gây ra trúng phong như thế nào?”

“Theo trường hợp của sư thái mà nói, ta đã hỏi sư thái thì thấy: về phương diện ẩm thực không tốt, thích đồ ngọt, nội thương tỳ vị, ẩm ướt tích lại mà sinh nhiệt, làm cho can dương tự động kháng lại, dương hóa thành nội phong, dẫn động tâm hỏa, cùng với đờm hỏa cùng tấn công làm kinh lạc trong não bị tổn thương, kinh lạc vỡ làm huyết tràn ra. Dẫn tới não thần không có dinh dưỡng, tới mức não khiếu không thông, bất tỉnh nhân sự, phong đờm dồn ứ làm mạch lạc ngưng trệ, đến mức mặt co quắp, khóe miệng méo xệch, phong tà cùng đờm nhiệt ở cạnh kinh mạch, khí huyết tắc trở. Tứ chi cùng thân thể mất dinh dưỡng, thân thể phía bên phải không thể động, phong hỏa kháng càng mạnh, dương thịnh thì sinh liệt, đột ngột bộc phát nhiệt mãnh liệt”.

Cung Minh liếc mắt nhìn Tiền Bất Thu một cái, nghi hoặc nói: “Đỗ đại phu lời ngài cũng có vài phần đạo lý, nhưng mà… ha ha, thật quá sức tưởng tượng. Xưa nay trong y điển đều nói là mạch lạc trống rỗng, phong thừa cơ mà xâm nhập dẫn tới trúng phong, chưa từng nghe qua…”.

Tiền Bất Thu nói chen vào: “Sư phụ ta đã từng nói, nói ngoài miệng, cho dù nghe rất đúng nhưng mà chưa chắc có thể chữa trị cho người bệnh. Hay là chúng ta không nên tranh luận nữa, để cho sư phụ kê phương chữa trị , xem có tác dụng hay không. Nếu là hữu hiệu, sau này trị trúng phong, chúng ta có nhiều hơn một phương thuốc”.

Cung Minh gật đầu, hai người sử dụng thuốc không phương nào có thể ngăn cơn sóng dữ, ngược lại bệnh tình càng thêm nghiêm trọng, chỉ có thể lui lại nhường cho người có tài.

Tối hôm qua cả một đêm Đỗ Văn Hạo đã cân nhắc chỉnh lý bệnh án này, trong đầu đã phải lần ra tất cả tri thức đã học qua về trúng phong. Chuyện đã tới trước mắt nhưng vẫn hoàn toàn mờ mịt, suy nghĩ một lúc, âm thầm cắn răng một cái, chắp tay nói: “Phương pháp này của ta chưa chắc có thể thành công, nói trước một chút để hai vị nghe, cùng nhau tham khảo, nếu không được, chúng ta lại đổi cách khác”.

Tiền Bất Thu cười khổ: “Sư thái bệnh tình phát triển nhanh chóng chỉ sợ không còn nhiều thời gi­an cho chúng ta từ từ điều chỉnh phương thuốc đâu”.

“Đúng vậy, ngày hôm nay chỉ có thể tuân theo mệnh trời, trước tiên nghe qua đơn thuốc của Đỗ tiên sinh, chúng ta cùng nhau thương lượng một chút, tìm một phương thuốc chính xác, toàn lực cứu chữa”.

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm chốc lát, âm thầm cắn răng, nói: “Dùng tam thất phấn cầm máu trừ ứ, tam thất phấn trị liệu trúng phong, bất kể là xuất huyết, hay là tắc động mạch não làm cho ứ trở, đều có thể trị. Mặt khác sử dụng an cung ngư hoàng hoàn cùng chí bảo đan thanh nhiệt trừ tà, thông suốt tinh thần, ba canh giờ sử dụng một lần, luân phiên sử dụng, trước tiên phải cầm máu, làm tỉnh thần trí, lui nhiệt, lại vừa chuyển nguy thành an”.

(1) Hoạt đầu: Giảo hoạt, dối trá.

Chương 101: Y thuật cổ quái.

Cung Minh liếc nhìn qua Tiễn Bất Thu, vẻ mặt đầy nghi hoặc: “Chí bảo đan này,…lão hủ,…chỉ là dùng bột tam thất cùng với ngưu hoàng, làm sao có thể phối chế được đây? Xin Đỗ đại phu chỉ giáo!”

Tam thất được biết đến sớm nhất trong cuốn Bổn thảo cương mục của Lý Thì Trân thời Minh. Còn an cung ngưu hoàng đứng đầu tam bảo về tác dụng trị liệu sốt cao do phong hàn, đề cập tới trong Ôn bệnh điều biện đời nhà Thanh. Cả hai loại dược liệu này đều chưa xuất hiện ở thời Tống này, đương nhiên Cung Minh không thể biết được. Lúc trước khi điều trị cho Lưu bộ khoái Đỗ Văn Hạo đã dùng tới ngưu hoàng, thấy hiệu quả rõ ràng. Tại thời điểm đó Tiễn Bất Thu có hỏi qua, Đỗ Văn Hạo cũng không tị hiềm gì giải thích cặn kẽ một hồi khiến lão cảm kích không thôi. Sau đó Đỗ Văn Hạo bị Hứa Tứ Hải vu khống, kiện lên tri huyện, Tiễn Bất Thu tới làm chứng giải oan cho Đỗ Văn Hạo cũng có nguyên nhân này bên trong.

Tuy nhiên, Tiễn Bất Thu cũng chưa bao giờ nghe tới bột tam thất, lần này cũng muốn tìm hiểu thêm một chút, chỉ là lão bây giờ là đồ đệ của Đỗ Văn Hạo, hiển nhiên muốn giữ gìn bí quyết của sư môn. Lão ho khan một tiếng, nói: “Cung đại phu, hay là để sư phụ ta dùng dược đã, cứu người quan trọng hơn. Luận bàn y thuật để sau này cũng không muộn mà.”

Cung Minh vừa rồi cũng chỉ là quá tò mò mà thôi, nghe câu nói của Tiễn Bất Thu đương nhiên hiểu ra ý tứ trong đó, cảm thấy có phần không phải, mặt thoáng ửng đỏ. Tự nhiên đi hỏi bí thuật của người khác thì thật là không ổn, vội cười cười xin lỗi, vuốt vuốt chòm râu gật đầu nói: “Đúng đúng, lão hủ thật hồ đồ. Giờ xin mời Đỗ đại phụ nhanh chóng dùng dược cứu người.”

Thời điểm này Đỗ Văn Hạo đã có những chuyển biến trong suy nghĩ, hắn không còn như lúc mới xuyên việt tới Tống triều, cái gì cũng muốn bộc lộ ra. Trải qua nhiều chuyện như vậy, hắn hiểu rõ y thuật cũng như tri thức y học của mình ở tại thời đại này có giá trị rất lớn, không thể ai hỏi gì cũng giải đáp hết. Hơn nữa, đơn thuốc này hắn cũng mới đọc được trong Thư thượng, cũng chưa có dùng qua nên không biết có hữu hiệu hay không. Nghe xong lời này, hắn cũng chỉ cười cười: “Vậy để ta lập tức đi phối dược.”

Lần trước thấy ngưu hoàng công hiệu rất tốt khi dùng cho trường hợp của Lưu bộ khoái, Đỗ Văn Hạo cho rằng sẽ hay phải dùng tới, nên đã để khá nhiều trong hòm thuốc của mình. Từ đó trong hòm thuốc của hắn ngưu hoàng cũng như bột tam thất luôn có sẵn. Mà chí bảo đan thì chỉ cần dùng một loại đan hoàn nào đó của dược phô là được, không phải là vấn đề gì.

Vì Không Huệ sư thái đã lâm vào trạng thái hôn mê, không thể nuốt thuốc được, Đỗ Văn Hạo phải tìm một cây nam qua đằng, xuyên từ mũi xuống thẳng dạ dày, rồi đem ba loại thuốc vừa rồi hòa tan vào nước đổ vào đó.

Cung Minh và Tiễn Bất Thu lần đầu tiên nhìn thấy cách cho uống thuốc như vậy vô cùng kinh ngạc. Ngẫm lại phương pháp này quả thật có chỗ xảo diệu hơn do với việc bọn họ dùng quán ngạnh khi người bệnh bị hôn mê. Khí và chất lỏng có chỗ đồng điệu, cho nên sẽ dễ dàng hơn khi cho chất lỏng đi theo đường dẫn khí, thông qua lỗ mũi, qua phế quản thẳng tới dạ dày. Phương pháp này giản tiện hơn nhiều so với việc dùng quán hồ. Hai người nghĩ vậy không tránh khỏi nhìn Đỗ Văn Hạo bằng ánh mắt kính nể.

Sau khi cho Không Huệ sư thái uống thuốc, Đỗ Văn Hạo đợi thêm một chút xem có gì xảy ra không rồi chạy qua phòng Chu bộ khoái xem xét.

Nhiệt độ cơ thể Chu bộ khoái cơ bản đã hồi phục bình thường. Chỗ thịt thối rữa ở các vết mổ đã bong hết, lộ ra các lớp thịt mới. Hiện giờ chỉ là cơ thể quá suy nhược, không còn chút sức lực nào. Đỗ Văn Hạo xem một lúc rồi điều chỉnh phương thuốc, sửa lại thành dùng ích khí để dưỡng âm, thanh nhiệt lợi thấp. Hắn nói không quá mấy ngày nữa Chu bộ khoái có thể xuất viện được rồi.

Nghe lời này của Đỗ Văn Hạo, nương tử của Chu bộ khoái cao hứng lệ rơi đầy mặt, vội vội vàng vàng lôi mấy đứa nhỏ hướng Đỗ Văn Hạo dập đầu cảm tạ liên hồi.

Bản thân Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy may mắn vô cùng. Hắn đã cố gắng hết sức, đến giờ một cảm giác đại công cáo thành tràn tới khiến hắn cũng thấy vui lây, xen lẫn chút tự hào.

Đỗ Văn Hạo sau đó cũng qua xem bệnh cho mấy người khác. Những người này bệnh tình nhẹ hơn so với Chu bộ khoái nhiều, đa phần đều đã khỏi hẳn. Hắn cũng chỉ cho thêm mấy liều thuốc củng cố rồi để bọn họ xuất viện.

Ở tại viện mấy ngày nay, đứa nhỏ bị động kinh kia không hề bị tái phát khiến cho vợ chồng nọ vô cùng cao hứng. Liên tục cảm tạ Đỗ Văn Hạo rồi nhận đơn ra dược phô lấy thuốc.

Rời phòng bệnh, Đỗ Văn Hạo đi tới đại sảnh, lúc này cũng đã chật kín người. Trong đó có mấy vị cư sĩ liên tục lẩm nhẩm niệm phật mà y phục đều là y bào trắng toát. Những người này nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào cùng một lượt niệm phật một câu to, đưa ánh mắt sùng kính về phía hắn. Đỗ Văn Hạo đột nhiên có chút không hiểu.

Hắn lại còn nghe thấy tiếng niệm phật ở phía ngoài, liền chạy tới cửa thì thấy phía ngoài đường có rất nhiều cư sĩ ngồi hai bên, trang phục mặc dù có khác nhau nhưng màu sắc đều là trắng. Nhìn thoáng qua, cảm giác như hai bên đường hiện giờ là những đống tuyết trắng cao cao có xen lẫn mấy điểm đen.

Lúc này vị Phó chưởng quỹ mập mạp cũng chính là tục gia đại đệ tử tiến tới, cao giọng: “Các vị sư huynh đệ, tỉ muội, sư phụ chúng ta đã thoát ly nguy hiểm, hiện giờ đã có thể ăn cơm, nói chuyện và tự xuống giường được rồi. Đỗ đại phu tới. Vị này chính là người đã cứu tính mạng của sư phụ, Đỗ đại phu Đỗ Văn Hạo.”

Đám cư sĩ thấy vậy nhất thời đứng dậy tiến đến trước cửa Ngũ Vị Đường, đồng thanh niệm phật cảm tạ.

Đỗ Văn Hạo từ khi hành y tới giờ, chưa bao giờ chứng kiến cảnh toàn tràng cảm ơn lớn như vậy. Tay chân hắn trở nên luống cuống, không biết làm thế nào cho phải, chỉ có thể cuống quít cúi đầu hoàn lễ.

Phó chưởng quỹ kia lại nói: “Sư phụ đã chuyển nguy thành an. Tại phòng Không Huệ sư thái, Đỗ đại phu cùng với Tiễn đại phu hội chẩn điều trị. Trước mắt chưa có chuyển biến tốt đẹp. Đề nghị mọi người đi tới sân rộng phía tây miếu tập trung thương nghị. Không tụ tập ở đây ảnh hưởng sư phụ và sư thái nghỉ ngơi. Đương nhiên cũng ảnh hưởng tới việc trị liệu của Đỗ đại phu. Sư huynh hiện cũng có chút bệnh, mời lưu lại để Đỗ đại phu xem qua giúp. Những người khác cũng nên đi thôi.”

Phó chưởng quỹ này thực có khả năng, hắn phân phó đâu ra đấy, mọi người cũng răm rắp theo đó mà làm. Mấy trăm cư sĩ lần lượt đi qua Đỗ Văn Hạo tạ ơn rồi rời qua thành hoàng miếu.

Cửa Ngũ Vị đường giờ mới có thể hạ xuống được.

Sáng hôm sau, Ngũ Vị Đường có vẻ như sinh ý ngày càng thịnh, người tới xem bệnh ngày một nhiều. Hơn nữa trong đó có không ít người ở rất xa Huyền thành này, nghe tiếng Đỗ Văn Hạo nên lặn lội phong sương tìm đến hắn. Nhiều người chỉ đi ngang qua Huyền thành, bị phong hàn, đau đầu, cảm mạo bình thường cũng chạy qua đây. Những người này đều là tới từ nơi xa, không có chỗ ở nên đều tạm trú trong dược đường.

Ăn xong cơm trưa, chiếc kiệu nhỏ đã đợi Đỗ Văn Hạo ở ngoài cửa. Hắn cũng nhanh chóng lên kiệu đi tới huyện nha.

Trang tri huyện cười ha hả nghênh đón hắn từ phòng khách. Sau vài câu mời trà hàn huyên, Trang tri huyện nói: “Đỗ đại phu quả nhiên y thuật hơn người. Bản huyện cùng với hai vị ái thiếp phòng sự so với trước đã ấm áp hơn nhiều, triển vọng phía trước cực kỳ sáng sủa. Tuy nhiên, cho tới nay, hết lần này tới lần khác cũng chưa qua được cái cửa cuối cùng. Thực khiến cho người ta sốt ruột mà.” Đỗ Văn Hạo cũng chỉ cười nhẹ. Hắn biết đây là điểm khó đột phá, cần thời gi­an, hơn nữa tâm lý của đại phu không sốt ruột như người bệnh. Chỉ là, mặc dù suốt ngày xem xuân cung đồ, mọi chiêu đều đã dùng đến, chẳng biết Trang tri huyện còn muốn chiêu gì nữa đây? Nghĩ vậy hắn miễn cưỡng cười nói: “Đại nhân xin hãy kiên nhẫn chờ đợi, ta sẽ cố hết sức nhưng nhất định không thể vội vàng được.”

“Được, được, bổn huyện sẽ bình tâm.”

“Giờ để cho ta xem thêm một chút”

Hai người đi vào phòng ngủ, dưới sự trợ giúp của nha hoàn, Trang tri huyện trút bỏ y phục, nằm dài trên giường. Đỗ Văn Hạo bắt đầu châm cứu trị liệu cho lão.

Trang tri huyện nói: “Bổn huyện nghe nói chủ trì Phủ thành Bạch Vân am Tĩnh Từ bệnh tình nguy hiểm, hôm qua suốt đêm đưa tới Ngũ Vị đường các người cầu y. Chính Đỗ đại phu đã thi triển phẩu phúc liệu thương thần kỹ, hiện đã qua cơn nguy kịch. Chính ngọ hôm nay, hơn một ngàn tín chúng tụ tập trước Ngũ Vị đường các ngươi tụng kinh niệm phật cảm tạ. Đỗ đại phu, danh khí của người cũng ra tới Phủ thành rồi. Thật đáng mừng!”

Đỗ Văn Hạo nghĩ lại chuyện hồi sáng cũng có chút cảm thán, cười cười: “Thực sự mới chỉ là giảm bớt một chút thôi, bằng không bọn họ đã hủy dược phô của ta đi rồi.”

“Ha ha. Làm sao có thể hủy đi dược phô được. Bọn hắn nhất định chuẩn bị tặng ngươi một cái bài phường.”

Đỗ Văn Hạo lại càng hoảng sợ. Một cây kim châm thiếu chút nữa xuyên nhầm chỗ. Trong ấn tượng của hắn, bài phường đều là dùng để tặng cho trinh khiết liệt nữ, có tặng nam nhân bao giờ đâu. Tưởng rằng mình nghe nhầm, hắn vội hỏi lại: “Tặng cho ta bài phường sao?”

“Đúng vậy, Công đức bài phường. Đây là biểu chương công đức ngươi cứu trị Chủ trì của họ. Tĩnh Từ chủ trì tại Bạch Vân là một người cực kỳ có địa vị, có thể nói là một phật gia tín đồ học xã, gọi là “Y xã”. Cái này đã có mười mấy năm rồi, tín đồ tới nay đã hơn vạn người, có ảnh hưởng cực kỳ lớn. Đỗ đại phu, lần này ngươi cứu tính mạng chủ trì của họ, công đức thực sự vô lượng mà. Để biểu dương công đức của ngươi, bọn họ đã xin và bổn huyện cũng đã phê chuẩn thỉnh nguyện của họ. Cũng là vinh quang của huyện ta mà. Bổn huyện cũng đã khẩn cấp trình lên phủ nha thẩm định. Chắc không có vấn đề gì. Tĩnh Từ chủ trì tại phủ thành đức cao vọng trọng, môn sinh tín đồ đông đảo, ngay cả phủ nha Tri phủ đại nhân cũng thường tới Bạch y xã nghe Chủ trì thuyết pháp. Nha môn quan lại khác thì đương nhiên không thiếu. Cho nên bổn huyện phỏng chừng bài phường phê xuống chắc chắn không thành vấn đề.”

Đỗ Văn Hạo lúc này mới hiểu sự tình. Kỳ thật, bài phường thời Tống có bốn loại. Chính yếu nhất là công đức bài phường, dùng để kỷ niệm, tụng dương công đức của quan viên hoặc danh nhân. Thứ hai mới là Trinh tiết đạo đức bài phường, biểu chương tiết phụ liệt nữ. Thứ ba là loại bài phường phong tặng thành tựu khoa cử. Loại thứ tư là bài phường cho các danh hiệu không quan trọng. Đối với hai loại đầu tiên, tuyệt đối không được loạn lập, phải có sự đồng ý phê chuẩn của quan phủ mới được. Đối với bài phường trinh tiết liệt nữ quan trọng, thậm chí còn phải báo lên triều đình, Lễ bộ thẩm hạch phê chuẩn mới được.

Giờ đây mình lại sắp được ban tặng công đức bài phường, Đỗ Văn Hạo không khỏi vừa mừng vừa sợ. Hắn nghĩ không ra chính mình ngày nào xuyên việt tới Tống triều, tự nhiên lại có người lập công đức bài phường cho mình. Cũng không biết cái bài phường này hình dáng thế nào. Không biết một ngàn năm sau có còn ở nhà mình nữa hay không. Mà nếu còn, chắc mình phải từng nhìn thấy hoặc nghe thấy rồi. Nhưng trong trí nhớ thì chẳng có cảm giác, ấn tượng gì cả.

Châm cứu cho Trang tri huyện xong, tâm tình của Đỗ Văn Hạo có vẻ thoải mái hơn nhiều. Trong khi ngồi kiệu đi về, đột nhiên thấy kiệu phu dừng lại rồi nghe tiếng cười ồn ào không dứt.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy kỳ quái, vén rèm kiệu lên nhìn ra ngoài. Nhưng đột nhiên hắn nhận ra đang ở trước cửa Miên Xuân viện, phía trước kiệu giờ có mấy cô nương đứng giữa đường cười duyên. Đương nhiên nổi bật nhất vẫn là một người, mà không phải Mị Nhi cô nương thì còn ai vào đây nữa?

Đỗ Văn Hạo cất tiếng: “Làm sao vậy? Các vị cô nương có chuyện gì sao?”

Mị Nhi lắc mông yểu điệu đi tới cười nói: “Lúc trước nhìn thấy kiệu nhỏ đi qua, biết là tiên sinh đi xem bệnh mới ở đây chờ, quả nhiên tiên sinh đã trở về. Tiên sinh xin mời xuống kiệu.”

“Làm cái gì?” Đỗ Văn Hạo cảm thấy mặt nóng lên.

“Lần trước Đỗ tiên sinh cho thuốc, sau khi Mụ Mụ của chúng ta uống thấy bệnh tình đã thuyên giảm rất nhiều nên vô cùng vui mừng cố ý sai chúng ta mời bằng được tiên sinh đến viện để tạ ơn. Chỉ là tiên sinh chẩn bệnh bận rộn không thôi, đi mời chắc chắn sẽ không thành công, nên chúng ta mới đợi ở chỗ này. Tiên sinh xin đừng tìm lý do để từ chối. Hì, hì,…ôi, tiên sinh, xin mời xuống kiệu.”

Chương 102: Mị Nhi đích tư vị.

Văn Hạo có chút sửng sốt: “Cái này,…, nói với Long mụ mụ, không cần phải khách sáo như vậy, Đỗ mỗ xin nhận và cảm ơn là được rồi! Tại đường hiện còn nhiều người bệnh đang chờ ta, thật sự không rảnh, thật xin lỗi. Khởi kiệu!”

Mị Nhi quay đầu hướng mấy cô nương kia nhìn một cái rồi nói: “Tiên sinh nếu không nể mặt, chúng ta thực không thể làm gì khác hơn là dùng sức mạnh!” Mấy cô nương liền tiến tới, người lôi, người kéo, người ôm, bằng mọi cách thúc Đỗ Văn Hạo xuống kiệu, rồi oanh oanh yến yến vây quanh đẩy hắn vào trong viện.

Đỗ Văn Hạo thấy bốn phía xung quanh đều là thân thể mềm mại, đẩy ra cũng không dám, động cũng không dám, chẳng mấy chốc đã bị mấy nữ nhân xúm nhau đưa tới trong vườn.

Thời Tống, văn nhân mặc khách nhiều người phong lưu, chốn thanh lâu kỹ viện luôn là nơi ra vào náo nhiệt, là nơi phát sinh đủ loại khoái sự. Mà mơ ước cháy bỏng của những người nơi đây chính là có thể lưng giắt mười vạn tiền, cưỡi hạc hạ Dương Châu, thỏa lòng tận hưởng. Trong thanh lâu trước nay không hẳn là chỗ nhơ nhớp bụi trần, không khí dụ hoặc dọa người, ngược lại nơi đây đầy vẻ phong lưu trang nhã, càng đi vào bên trong, tùy tiện có thể thấy được những văn nhân thân mặc trường bào, đầu đội khăn chít, tay phe phẩy chiết phiến. Đỗ Văn Hạo đối với văn nhân hiển nhiên có một loại nhận thức đồng cảm, cho nên tâm lý cũng thoáng an ổn thêm phần nào.

Chúng nữ vây quanh đẩy hắn lên cầu thang, đi tới lầu hai, chỉ thấy đứng án ngữ ngay trước mặt lúc này có một nhân ảnh to lớn, chính là lão bảo Long mụ mụ với vẻ mặt tươi cười đon đả: “Ôi chao, Đỗ đại gia, rốt cục ngài cũng đã tới! Đã từng hẹn nửa đêm cùng Mị Nhi cô nương thưởng nguyệt ca hát, tiên sinh vậy mà mãi không lộ diện, Mị Nhi của chúng ta đỏ mắt trông ngóng! Mau mau mời vào!”

Đi vào trong phòng chỉ thấy ở giữa là một chiếc bàn khá lớn, bên trên bày la liệt rượu và thức ăn. Các cô nương nhất loạt đẩy Đỗ Văn Hạo ngồi xuống rồi mới chia nhau ra, Mị Nhi ngồi ngay cạnh hắn.

Lão bảo vẻ mặt tươi cười: “Đỗ gia, chứng bệnh hồng băng của lão nhiều năm đã tìm bao nhiêu danh y, tốn kém không ít thời gi­an tiền bạc vậy mà cũng không có thuyên giảm. Chỉ sau khi ngài xem qua một chút, cho phương thuốc, lại là đại đồng tiểu dị (ý là chỉ thay đổi một chút ít), lão thân lúc ấy còn không tin tưởng đơn thuốc này, nhưng cũng là nhờ có Mị Nhi nói Đỗ tiên sinh ngay cả thần kỹ phẩu phúc (mổ bụng) chữa thương của thượng cổ thần y Hoa Đà đều tinh thông, nên đơn thuốc này không thể sai được, lão thân mới quyết dùng thử. Hắc! Ngài đoán xem kết cục thế nào. Thật không thể tin nổi, ngay trong ngày hôm đó đã có hiệu quả tức thì, hồng băng giảm bớt rất nhiều. Uống thêm một vài bữa nữa thì hồng băng cũng dừng hoàn toàn! Lão thân thực sự cao hứng không để đâu cho hết, trong ba năm qua, đây là lần đầu tiên lão thân không cần dùng đến điếm thảo chỉ khố tử, ha­ha!” (Kiểu băng vệ sinh thời cổ)

Lão bảo nói liên thiên một hồi rồi cười ha hả, các vị cô nương cũng hi hi ha ha cười theo.

Lão bảo cười xong rồi tiếp luôn: “Lão thân thật sự cao hứng tự trong trái tim, cho nên nói với các cô nương nhất định phải mời Đỗ đại gia ngài đến, chuẩn bị một chút rượu hảo hảo cảm ơn. Hơn nữa các cô nương ở đây ai cũng muốn đại khai nhãn giới, tận mắt nhìn thấy dung nhan thần y ngài, nhưng cũng sợ mời ngài không tới nên bần cùng bất đắc dĩ mới phải dùng cách này, mong tiên sinh thứ tội!”

Nói tới đó, lão bảo đứng dậy cúi mình thi lễ, các cô nương cũng theo đó đứng dậy nhẹ nhàng nói mấy câu tạ lỗi. Đỗ Văn Hạo chẳng biết phải làm sao chỉ vội vào đứng lên hoàn lễ.

Rồi một lần nữa nhất loạt cùng ngồi xuống. Lão bảo vỗ vỗ tay hai cái, bên ngoài có một người tiến vào, bưng theo một cái mâm được phủ kín bằng một tấm vải lụa hồng. Người này đi tới trước mặt Đỗ Văn Hạo, hơi cúi mình đưa mâm lên phía trước rồi lật tấm vải lên. Trên mâm trắng bóng một màu toàn là bạc trắng xếp ngăn nắp.

Lão bảo nói: “Đây là ba mươi hai ngân lượng. Lão thân thực lòng cảm kích, chỉ mong tiên sinh chê cười mà thu nhận.”

Ba mươi hai ngân lượng tương đương với ba vạn nhân dân tệ. Chỉ là chữa một chứng bệnh băng huyết phụ khoa thông thường mà nhận được ba vạn. Tuy nhiên Đỗ Văn Hạo lại không cảm thấy có gì phải lăn tăn khi nhận chỗ bạc này. Hắn cũng chỉ nói mấy câu tạ ơn rồi thu nhận.

Lão bảo vui mừng bưng chén rượu lên nói: “Đỗ đại phu, lão thân kính người một chén!” Đỗ Văn Hạo cuống quýt khoát tay: “Tâm ý của phu nhân Đỗ mỗ xin cảm tạ, thù kim cũng đã thu nhận. Nhưng rượu này xin thứ lỗi tuyệt đối không thể uống bởi còn phải hồi đường xem bệnh. Uống say thì thực không phải.”

“Vài chén rượu nhạt sao lại không thể uống? Cho dù có say một ngày thì cũng đâu có sao? Hôm nay dược phô của các người tổn thất bao nhiêu, lão thân xin bồi thường. Sẽ lập tức sai người mang tiền sang đó. Tiên sinh cứ yên tâm uống rượu!”

“Điều này không thể được. Thôi được rồi, nếu vậy chỉ đúng ba chén, bằng không Đỗ mỗ thật sự không thể. Bệnh tình của người như vậy nhưng vẫn còn phải tiếp tục điều trị, nếu không sẽ tái phát. Nếu người không thả ta đi, thực sự không muốn chữa khỏi bệnh hẳn sao?”

Lão bảo nghe vậy lại càng hoảng sợ: “Ôi chao, Đỗ tiên sinh, ngài nói vậy,…nếu tiên sinh thực muốn trở về đường xem bệnh, tốt lắm, chỉ ba chén! Bất quá uống hết ba chén, sau khi ngài cấp thuốc cho lão thân, vẫn còn một việc muốn phiền ngài.”

“Chuyện gì?”

“Lần trước người có nói, Mị Nhi ở ngực có bệnh, ban đầu chúng ta cũng không để ý, nhưng lão thân sau khi dùng thuốc của người, thấy thực sự hiệu quả, tất cả mọi người đều rất bội phục y thuật của tiên sinh, Mị Nhi hồi tưởng tới lời nói của người, không khỏi lo lắng, cho nên muốn nhờ tiên sinh xem bệnh cho Mị Nhi. Không biết tiên sinh có đồng ý không?”

“Cái này đương nhiên không vấn đề!”

“Thật cám ơn đại phu nhiều! Mị Nhi, chúng ta cùng nâng chén kính Đỗ đại phu!”

Nói rồi cả lão bảo cùng cới Mị Nhi đều kính Đỗ Văn Hạo ba chén, sau đó Mị Nhi đứng dậy dẫn hắn tới khuê phòng của mình.

Mị Nhi là hoa khôi của Miên Xuân viện, không chỉ có thiếp thân nha hoàn hầu hạ, ở cũng được ưu ái một khuê phòng tại hậu viện, có thể nói là một tiểu viện u nhã yên tĩnh. Khuê phòng lấy thạch lựu hồng làm tông màu chủ đạo, cảm giác ấm áp nhè nhẹ rất dễ chịu, trong phòng đặt một hỏa lò nhỏ, bên ngoài mặc dù gió lạnh căm căm nhưng bên trong lại ấm áp như mùa xuân.

Hai người vừa tiến vào, Mị Nhi đứng chắn phía sau, giúp Đỗ Văn Hạo đặt hòm thuốc xuống, cũng không dìu hắn ngồi xuống mà tiện tay ôm lấy cổ hắn.

Đỗ Văn Hạo chợt thấy một làn hương thơm mát theo một cái gì đó mềm mại quấn lên cổ mình, nhịn không được trống ngực đập thình thịch, mặt đỏ gay: “Cô nương, nàng không phải là muốn xem bệnh sao?”

“Ừm! Đúng vậy, người giúp ta giải khai vạt áo, rồi cứ vậy nhìn bệnh! Tim ta liên tục đau nhức, người sờ thử xem!” Nói rồi nắm tay Đỗ Văn Hạo đặt lên bộ ngực cao vút của mình.

Đỗ Văn Hạo giờ mới biết là bị trúng kế, cười khổ nói: “Ngươi thực sự là có bệnh, ngươi nghĩ rằng ta vừa nói chơi đùa sao?”

“Ta cũng nói ta có bệnh thực mà, cho nên mới nhờ người sờ xem”

Trong khi nói tay không ngớt day day tay Đỗ Văn Hạo, khiến hắn xoa xoa phía trên nhũ phong của mình.

Đỗ Văn Hạo vội rút tay lại, thản nhiên nói: “Nghe nói thân ngươi giá cả xa xỉ, ta thực không có tiền, mụ mụ các ngươi có cấp chẩn kim nhưng ta cũng không có chuẩn bị cho việc này, cho nên hay là để ta đi thôi.”

Mị Nhi ha ha cười duyên, hai tay nhu mì yểu điệu chạy khắp người Đỗ Văn Hạo, vẻ mặt tràn đầy mị lực, ghé sát lỗ tai hắn: “Đỗ gia! Yên tâm, Mị Nhi hôm nay tận lực hầu hạ người, một văn cũng không thu. Đây chính là lễ vật tạ ơn của Mụ Mụ chúng ta. Hôm nay người sẽ nghỉ ở nơi này, Mị Nhi muốn cho người hưởng thụ *** tư vị, làm cho người biết thế nào gọi là nữ nhân chân chính!” (Mấy cái dấu * này không biết có phải là chủ ý của tác giả không, thấy trong bản gốc có nên cứ để vậy)

Đỗ Văn Hạo không thể không thừa nhận Mị Nhi này thực sự rất hiểu nam nhân, biết rõ làm thế nào để khơi mào cho nam nhân, nàng mới chỉ vuốt ve trong chốc lát mà toàn thân hắn như muốn bốc dục hỏa. Hắn gi­an nan nuốt nước miếng một cái, mạnh mẽ kiềm chế cái khí thế hừng hực trong người, cố gằng không cởi quần áo của nàng, giọng không giấu nổi xúc động, trầm xuống: “Các ngươi thật là tốt, Đỗ mỗ xin lĩnh tâm, chỉ là, Đỗ mỗ,…”

“Ca ca…, đừng nói chuyện nữa, hãy nhắm mắt lại, chậm rãi hưởng thụ Mị Nhi nào…”

Thanh âm Mị Nhi như thôi miên, muốn đánh tan tuyến phòng ngự cuối cùng của Đỗ Văn Hạo, hai tay nàng không biết thế nào đã giải khai xong trường bào của hắn. Hai tay nàng giờ cũng không còn chạy toàn thân hắn nữa, mà đã bắt đầu tập trung vào những nơi quan trọng. Chiến mã của Đỗ Văn Hạo cũng đã sớm trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, chỉ đợi chủ nhân phân phó.

Mị Nhi bắt đầu dùng đầu lưỡi lướt lướt trên mặt hắn, giống như mỡ sôi trên lửa nóng, toàn thân hắn bốc lửa ngùn ngụt. Mị Nhi lại ha ha cười, nỉ non bên tai hắn: “Muốn biết tư vị của cái ở trong miệng Mị Nhi không…?”

Câu nói này thiếu chút nữa khiến cho cậu nhỏ của Đỗ Văn Hạo đính phá liễu khố (cái này lấy nguyên văn cho nó lành, độc giả tự hiểu nha). Dục hỏa làm cho hắn thực sự cháy bỏng muốn biết đáp án. Mị Nhi như đã hiểu ý nghĩ của hắn, chậm rãi từ từ đi xuống, thân người nàng cũng chậm rãi ngồi xổm xuống, mặt vẫn ngẩng lên nhìn hắn đầy dụ hoặc. Trên người hắn giờ chỉ còn mỗi cái quần mỏng, thỉnh thoảng lại bị gương mặt nàng đi qua đi lại khiến thẳng nhỏ không tự chủ được biểu tình mãi không thôi.

Không để cho phòng tuyến cuối cùng bị đánh tan, Văn Hạo tàn nhẫn cắn đầu lưỡi một cái thật mạnh, một cảm giác đau nhức hiện lên toàn thân khiến cái dục hỏa kia tạm thời bị dập xuống một cách điên cuồng. Thừa dịp này, mặc dù chỉ thanh tỉnh trong nháy mắt, Đỗ Văn Hạo đã chạy thoát khỏi, cất tiếng: “Chờ một chút! Ta có chuyện muốn nói! Rất trọng yếu!”

Mị Nhi hai mắt như tơ: “Chờ tới khi lên giường, tiểu muội nằm trong lòng ca ca, người chậm rãi nói cho muội có được không?”

Âm thanh hấp dẫn đầy mị hoặc này làm cho phòng tuyến cuối cùng của Đỗ Văn Hạo vừa mới được dựng lại như muốn banh ra bởi một nhát đao sắc lẹm. Hắn từ từ nhắm hai mắt, gấp giọng nói: “Nghe ta nói, ta muốn ngươi giúp ta, giúp một người,…mị lực của ngươi rất cao, giúp ta,…giúp ta đi giáo giáo hai tiểu thiếp của Trang tri huyện một chút nghệ thuật phòng the. Thành chuyện này, ngươi được thưởng không ít!”

Mị Nhi hì hì cười nói: “Cái này đơn giản, không phải chỉ là giáo hai người, hai cô gái về chuyện phòng the thôi sao? Quá dễ dàng. Chờ tiểu muội hầu hạ ca ca xong, chúng ta sẽ đi ngay!”

“Không, không! Bây giờ,…bây giờ đi ngay, đi lập tức! Huyện thái gia đang rất sốt ruột chờ ta…!” Đỗ Văn Hạo không mở mắt, xoay người đẩy cửa phòng, chạy trốn ra ngoài, đứng ở ngoài hành lang thở phù phù.

Mị Nhi chân thành đi ra, gục mặt vào người hắn, buồn bã nói: “Ca, tiểu muội thực sự không vừa mắt của người sao?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Không, không phải, cô nương đừng để ý, nói thật với cô nương, ta đã đính hôn, ta thật không biết phải ăn nói sao với vợ sắp cưới của mình.”

Mị Nhi ha ha cười: “Ca nói chính là Tam tiểu thư của Huyện úy đại nhân sao? Tiểu muội đã nghe nói qua. Bất quá, vẫn chưa thành thân thì không coi là vợ được, mà kể cả có là vợ đi nữa, cũng không dám quản việc phu quân phong lưu ở ngoài, tam tòng tứ đức này nàng đương nhiên hiểu mà. Ca, chỉ cùng tiểu muội một đêm thôi, có gì phương hại đâu? Hơn nữa, đây là công đạo của mụ mụ, không muốn không được, sau này muội biết ăn nói với mụ mụ sao đây?”

“Chỉ có thể thứ cho Đỗ mỗ đường đột từ chối ý tốt của cô nương, về phần lão bảo, ngươi tốt nhất là giúp ta giáo giáo tốt hai tiểu thiếp của Huyện thái gia, khiến người cao hứng là được. Chuyện này sợ rằng so với việc ngươi muốn đưa ta lên giường còn khó hơn rất rất nhiều lần, không biết ngươi có khả năng làm được không?”

Phép khích tướng nhỏ này xem ra lại có hiệu quả khiến Mị Nhi đổi đề tài, chỉ thấy nàng cười mị một tiếng: “Tiên sinh sao lại khinh thường Mị Nhi như vậy, nghĩ ta không đối phó được nam nhân sao? Được rồi, vậy tiên sinh muốn ta làm như thế nào?”

Đỗ Văn Hạo nhìn nhìn ra xung quanh, thấy không có ai mới hạ giọng nói: “Nói thiệt cho ngươi biết, chuyện này trước hết phải thật kín miệng, ngàn vạn lần không được nói cho người khác! Bằng không hai chúng ta không còn miệng mà ăn đâu!”

“Ừm, ca yên tâm, tiểu muội hiểu mà!”

“Vậy là tốt rồi, tri huyện đại nhân có hai tiểu thiếp, nhưng hai người này đầu óc cứng nhắc. Đại nhân phòng sự đã đến lúc đồng tước đèn cầy, muốn nhưng không dậy nổi, ta nghĩ bao nhiêu biện pháp, rồi mới nghĩ ra ngươi. Ngươi giúp ta chỉ bảo một chút cho hai tiểu thiếp này, khiến họ có thể sử dụng một vài nghệ thuật giúp cho Tri huyện đại gia phòng sự hài hòa hơn. Vậy là được. Hiểu chưa?”

“Dạ, tiểu muội đã hiểu. Bên ngoài thực là lạnh, để tiểu muội đỡ tiên sinh trở về phòng…”

“Không cần, chuyện này rất cấp bách, chúng ta đi ngay bây giờ!”

“Ôi! Đúng là trái tim nam nhi vô tình, tiểu muội thực muốn cѠmà làm. Chỉ là, ca ca đã đáp ứng xem khuyết điểm cho tiểu muội, vậy mà ngay lập tức có thể quên luôn được sao?”

“Cái này,…” Đỗ Văn Hạo có chút trù trừ, nếu như Mị Nhi lại như vừa rồi ôn nhu bẫy rập hắn, thì cũng không biết chính mình có thể ngăn cản nàng tiến thêm một bước nữa hay không.

Chương 103: Thượng mã phong

Mị Nhi thở dài thật sâu: “Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy tình ca, lòng tiểu muội đã in đậm bóng dáng đó, mãi tới hôm nay mới có cơ hội gặp mặt như vậy, thế mà tình ca nỡ tuyệt tình sao? Trái tim tiểu muội thực muốn vỡ nát rồi.”

Đỗ Văn Hạo cười khì khì một tiếng, lập tức nghiêm mặt nói: “Được! Để ta xem bệnh cho ngươi! Nói thật cho ngươi biết, lúc trước tại Ngũ Vị đường, ta nghe mạch của ngươi, phát hiện mạch tượng như phòng lậu hà du, lại thấy giọng điệu nói chuyện của ngươi khí đoản, nên đoán rằng trong ngực ngươi thực sự có bệnh mới nhắc nhở ngươi chú ý. Bây giờ đưa bàn tay đây để ta xem lại cẩn thận một chút.”

Mị Nhi một tay khẽ vén ống tay áo, vươn cánh tay mượt mà như búp sen tới trước mặt Đỗ Văn Hạo, “Đây, ca xem đi!”

Đỗ Văn Hạo vẻ mặt trầm ngâm, một tay nâng cổ tay nàng, tay kia đặt ba ngón lên chẩn mạch. Một lúc sau lại đổi tay, đồng thời nhìn xem cái lưỡi thơm tho của nàng một chút. Sau một hồi xem xét kỹ lưỡng, hắn suy nghĩ một lát rồi trầm giọng: “Ngươi có phải đôi khi có cảm giác đột nhiên trống ngực đập nhanh hơn, nhưng cũng ngay lập tức lại hết luôn không?”

Mị Nhi lộ vẻ kinh ngạc: “Đúng vậy, làm sao ca biết được vậy?”

“Vậy khi trống ngực đập nhanh hơn, có xuất mồ hôi hay có cảm giác gì khác lạ ở ngực không?”

Mị Nhi suy nghĩ một chút: “Có đôi khi xuất mồ hôi, miệng mơ hồ có chút đau nhức, nhưng không nhiều lắm, muội vẫn tưởng rằng chỉ do mệt mỏi đôi chút. Ca, chẳng lẽ ta có bệnh thật sao?”

“Đúng vậy, mạch của ngươi tiểu huyền, hư can vượng, chính là khí trong tim không đủ, tim mất sở dưỡng, thận âm thì hạ kiệt, thượng dương lại càng hư, đây gọi là chinh xung! (chứng bệnh tim đập nhanh)”

Mị Nhi nghe không hiểu mô tê ất giáp gì, lo lắng hỏi dồn: “Vậy sao? Có nguy hiểm lắm không?”

“Tạm thời thì không. Tuy nhiên, trái tim của ngươi đập nhanh liên tục, mạch tượng quái dị, giống như phòng lậu hà du, khó đoán định. Giọng nói thì khí đoản, dương khí tiêu tán, âm khí trong tâm có dấu hiệu háo kiệt. Vì vậy phải thập phần cảnh giác.”

Mị Nhi dựa hẳn thân mình vào lòng Đỗ Văn Hạo ngửa cổ nhìn hắn yêu kiều: “Ca, không được hù dọa muội mà!”

Đỗ Văn Hạo không kìm hãm nổi cảm xúc chợt dâng trong lòng, vỗ nhẹ eo lưng của nàng: “Không phải hù dọa. Chỉ muốn ngươi phải nhớ cho thật kỹ mà cẩn trọng hơn. Sau này, nếu gặp phải trường hợp trống ngực đột nhiên đập thật nhanh, tâm trạng hoảng hốt, lồng ngực buồn bực, hai mắt xuất hiện sắc đen, người muốn té xỉu thì lập tức phải dùng trâm đâm vào các huyệt Nội Quan, Thần Môn và Thái Khê. Như vậy mới có thể cứu được!”

Mị Nhi thanh âm êm ái: “Tiểu muội không biết mấy cái huyện gì đó ở chỗ nào.”

Đỗ Văn Hạo cầm cánh tay nàng, chỉ vị trí các huyện Nội Quan, Thần Môn rồi nói: “Huyệt Thái Khê là nơi tập trung kinh khí mạnh nhất (thái) của kinh Thận, lại nằm ở chỗ lõm giống hình cái suối (khê), vì vậy gọi là Thái Khê. Huyệt này nằm ở điểm gi­ao nhau giữa bờ sau mắt cá trong và mép trong gân gót, khe giữa gân gót chân ở phía sau. Nhớ kỹ chưa?”

Mị Nhi lắc lắc đầu nhìn hắn cười ha ha: “Ca phải chỉ cho muội chứ, nói vậy sao muội biết được. Sau này nếu có mệnh hệ gì, muội đâm nhầm huyệt vậy không phải ca ca đã hại muội sao?”

Nói rồi không ngừng giãy dụa trong lòng Đỗ Văn Hạo, khiến hắn cảm thấy dục hỏa trong lòng lại muốn bốc lên, vội vàng thối lui một chút, giơ gót chân của mình lên chỉ vào vị trí huyệt Thái Khê gần mắt cá: “Chính là chỗ này!”

Mị Nhi một tay bám trên vai Đỗ Văn Hạo, giơ gót sen của mình lên, mặt hơi ửng đỏ nói: “Ca phải chỉ trên chân của muội chứ.”

Đỗ Văn Hạo một tay đỡ lấy chân của nàng cúi xuống đang định chỉ thì đột nhiên Mị Nhi tựa hồ đứng thẳng không vững kêu lên một tiếng yêu kiều, ngửa mặt ra đằng sau muốn ngã. Đỗ Văn Hạo lúc đó cũng vô thức vội vàng ôm đỡ lấy phía sau lưng của nàng, Mị Nhi mượn dịp đó khẽ nhón mũi chân dưới đất, nhảy luôn vào lòng Đỗ Văn Hạo.

Mị Nhi thân thể nhẹ như chim yến, Đỗ Văn Hạo hai tay đỡ cả thân thể nàng không hiểu sao vẫn thấy hắn phải cố hết sức mới đứng vững được. Mị Nhi sóng mắt lưu chuyển, ánh mắt như tơ, liên tục phát ra tia sáng giết người, bắn phá khuôn mặt đỏ bừng của chàng trai kia, giọng run run đầy vẻ ôn nhu: “Ca…, m ta lên giường…”

Thanh âm này mềm mại như tiếng oanh đêm nỉ non, Đỗ Văn Hạo giống như bị ma chú, toàn thân máu chạy loạn hết cả lên, trong sâu thẳm thực muốn xé xiêm y của nàng thành từng mảnh nhỏ đem thân thể kia chà đạp dưới thân mình. Hắn ôm nàng bước nhanh vào phòng, đi tới chiếc giường rộng thùng thình, bụp một cái ném Mị Nhi lên giường, cúi xuống nắm lấy vạt áo của nàng. Trên mặt Đỗ Văn Hạo lộ vẻ giễu cợt rồi đột nhiên roẹt một cái, chiếc áo lót đỏ thắm hiện ra trước mắt, ẩn hiện sau đó là hai ngọn ngọc phong cao vút như muốn chọc thẳng vào hai mắt hắn.

Đỗ Văn Hạo đang muốn đưa tay xé tiếp áo lót của nàng, Mị Nhi đột nhiên lại như một con báo lượn mình tránh ra, mái tóc bù xù, giấu mình vào áo ngủ, cong người lại khiến kiều đồn vươn mãi ra xa. Rồi nàng chợt quay đầu lại phía hắn ha ha cười duyên, cái lưỡi thơm tho không ngừng liếm liếm đôi môi đỏ mọng. Tư thế này khiến đôi tuyết lê trắng tròn xoe như muốn bung ra khỏi cái áo lót đỏ thắm kia. Hai mắt Đỗ Văn Hạo muốn nổ tung.

Hắn thực sự đã bị bể dục bao phủ, vội vã xé y bào ném mạnh xuống đất.

Đúng lúc này, ngoài cửa bỗng truyền đến âm thanh bối rối của một nữ tử: “Đỗ tiên sinh!…Ngoài kia có một vị đại gia bị thượng mã phong, sắp chết rồi, mụ mụ mời người đi cứu mạng!”

Thượng mã phong cũng chính là một trong những căn bệnh có thể dẫn tới tử vong tức khắc. Đại đa số bệnh nhân có tiền xử bệnh tim, xuất huyết não, phòng sự lại hưng phấn quá mức dẫn tới trái tim chợt ngừng đập, nếu có thể kịp thời cứu chữa thì còn có hy vọng. Mấy lời này lọt vào tai Đỗ Văn Hạo như một chậu nước lạnh dội lên đầu hắn, dục hỏa toàn bộ tiêu tan, xoay người chạy tới cửa phòng gấp gáp hỏi: “Người đang ở đâu?”

Nha hoàn nọ liền chỉ ra phía sân trước: “Ở tiền điện, sương phòng của Lý cô nương!”

“Mau đưa ta tới đó!” Đỗ Văn Hạo vội vã mặc lại y bào, xoay người cầm lấy hộp thuốc chạy ra khỏi phòng. Phía sau truyền đến âm thanh lo lắng của Mị Nhi: “Ai da, ca, chờ tiểu muội một chút nào!”

Đỗ Văn Hạo đi theo nha hoàn tới phía sân trước, chân bước như chạy nhưng trong đầu nghĩ thầm, nếu như vị đại gia này bị thượng mã phong chậm một lát thôi thì xem như mấy chục năm cẩn trọng gìn giữ đời trai của mình đã đi tong rồi. Đối với việc này, thực trong lòng hắn cũng chẳng biết là phải cảm thấy may mắn hay là tức giận nữa.

Bị thượng mã phong chính là một lão đầu, lõa thể nằm trên giường, hai mắt đóng chặt, hơi thở toàn bộ không còn. Vị nữ tử hầu hạ lão ngồi nép vào góc giường, sợ hãi đến sắc mặt trắng bệch, hai tay che lấy miệng.

Ngoài cửa phòng hiện nay đông nghịt người, lão bảo gương mặt cũng căng như dây đàn, vừa nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tới, phảng phất như thấy cứu tinh, vội vàng dẹp đường đưa hắn tiến vào.

Đỗ Văn Hạo kiểm tra sơ qua, phát hiện lão già nọ đã không còn trống ngực, mạch cùng hô hấp không nghe được, lập tức đỡ ngửa đầu lão ra sau cho hô hấp dễ dàng hơn rồi tiến hành ấn đè trái tim, đồng thời hắn cũng yêu cầu cô nương nọ giúp đỡ hô hấp nhân tạo.

Nhờ được cứu chữa kịp thời, chỉ chốc lát sau, trái tim của lão già kia đã đập trở lại.

Những người xem xung quanh biết được vị đại phu kia chính là tọa đường trẻ tuổi của Ngũ Vị đường, am hiểu thần kỹ phẩu phúc chữa thương của Hoa Đà, đều dâng lên trong lòng sự kính sợ, không ngớt khen ngợi.

Đỗ Văn Hạo chẩn mạch cho lão già một lần nữa, rồi vỗ vỗ bả vai lão: “Lão nhân gia, người âm huyết háo thương, can dương thượng kháng, tâm khí suy nhược, máu không lưu thông tốt, chứng bệnh này gọi là hung tý, ta sẽ khai cho người một đơn thuốc, chịu khó điều dưỡng, sau này khi phòng sự, tuyệt đối phải cẩn thận, không được quá kích động, cũng không để quá hưng phấn. Lão phải biết rằng tánh mạng so với phụ nữ trọng yếu hơn nhiều, trái tim người đã thật sự không còn chịu nổi xúc động mạnh, nếu như sau này không sửa được tật xấu tầm hoa vấn liễu, chỉ sợ lại chết tại đây bởi chứng thượng mã phong này. Hôm nay người có thể nói là vận khí tốt, đúng lúc ta đang ở đây, nhưng lần sau sợ cũng không có được may mắn như vậy đâu.”

Lão già mệt mỏi chỉ có thể cố gắng gật gật đầu, tỏ vẻ cảm tạ.

Lão bảo lúc này mới thở dài một hơi, cứ nghĩ đến việc đột nhiên có khách nhân chết trong viện của mình vì thượng mã phong, mặc dù cũng không phải trách nhiệm của mình nhưng chuyện này truyền ra ngoài thì cũng chẳng dễ nghe chút nào, đạo nghĩa đơn giản và nhẹ nhàng nhất cũng là bồi hoàn một số ngân lượng không nhỏ cho người ta. Bây giờ mắt thấy một hồi tai họa tan thành mây khói, vẻ mặt lão lộ rõ sự hân hoan, miệng cũng hòa theo khách nhân tán dương y thuật của Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo từ trong hòm lấy bút khai một đơn thuốc, gi­ao cho lão già nọ, yêu cầu lão nằm nghỉ ngơi thêm một hồi chờ bình phục hẳn mới được đi về.

Lúc này những người tập trung xem náo nhiệt cũng đã tản i nhiều, lão bảo ha ha cười: “Đỗ tiên sinh, hôm nay thực là may có ngài tại đây, nếu không mệnh của lão hán kia chỉ sợ không còn ha­ha. Ai da, nhưng cũng thật vô cùng xin lỗi, sự vụ này xảy ra không đúng lúc chút nào, quấy rầy ngươi cùng Mị Nhi cô nương. Giờ xin mời quay trở về tiếp tục, nơi này để ta xử lý nốt được rồi.”

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đa tạ hảo tâm của ngài, ta cùng với Mị Nhi cô nương cũng đã xong hết việc rồi, đúng không Mị Nhi?”

Mị Nhi vừa tới một lúc, cũng đã kịp nghe thấy cả quá trình vừa rồi, lúc này sắc mặt tái nhợt, hai tay ôm ngực, không biết đang suy nghĩ gì, cũng không có nghe rõ ràng câu nói của Đỗ Văn Hạo, chỉ thấy loáng thoáng hắn hỏi mình, vô thức gật đầu hỏi lại: “Đỗ tiên sinh,…lão hán kia…, cái đó,…có phải giống chứng chinh xung của ta không?”

Đỗ Văn Hạo sửng sốt, lập tức rõ ràng trái tim của chính nàng cũng đang có vấn đề, cười cười nói: “Không phải, cái này của lão gọi là hung tý, so với bệnh của ngươi còn nghiêm trọng hơn nhiều, đương nhiên, nếu chứng bệnh của ngươi không được chăm sóc tốt, sau này phát triển xấu đi hoàn toàn có khả năng trở thành chứng hung tý này.”

“Hả…?” Mị Nhi lại càng hoảng sợ.

“Đừng lo lắng, ta cho ngươi một đơn thuốc, ngươi theo phương bắt dược, chậm rãi điều trị, có thể trị tốt, không cần phải hoảng sợ.”

“Ồ…, cám ơn tiên sinh!”

“Tốt lắm, vậy bây giờ chúng ta bây giờ đi huyện nha luôn.”

Mị nhi còn có chút hoảng hốt, không tự chủ được gật đầu.

Đỗ Văn Hạo hướng lão bảo nói: “Ta muốn mang Mị Nhi đi tới Huyện nha, Huyện thái gia có chút việc cần, có thể mất một chút thời gi­an. Ngươi xem được không?”

Lão bảo không suy nghĩ gì vội vàng đáp ứng nói: “Vậy hả! Đi thôi đi thôi! Lão thân lập tức phân phó người chuẩn bị kiệu cho các ngươi!”

Cũng không mất mấy thời gi­an, một cỗ kiệu nhỏ đã chờ ở trước cửa, đưa hai người thẳng tới huyện nha.

Đỗ Văn Hạo biết Huyện thái gia rất nghiêm khắc, có phần cổ hủ, chưa chắc đã đồng ý việc này, vậy nên đã cố tình tìm đến Hầu sư gia trước nói chuyện với hắn. Hầu sư gia cũng là khách quen của thanh lâu, hiển nhiên biết nghệ thuật phòng the của phụ nữ đối với cảm xúc của namquan trọng thế nào, liên thanh tán thưởng. Hai người ngay lập tức đi tới cầu kiến Trang tri huyện, giải thích hết một lượt. Huyện thái gia nghe Đỗ Văn Hạo nói đi tìm nữ nhân thanh lâu tới chỉ dẫn cho tiểu thiếp của mình về phòng thuật, tâm lý có chút không vừa lòng, nhưng chỉ là Đỗ Văn Hạo lặp đi lặp lại rằng đây chỉ là vì muốn chữa tốt bệnh cho lão, cần một chút thủ đoạn, cũng coi như là một liều thuốc dẫn. Trong khi đó Hầu sư gia ở bên không ngừng góp lời, tri huyện dù sao cũng là đang rất sốt ruột cầu khỏi bệnh, nên cuối cùng cũng gật đầu đáp ứng.

Đỗ Văn Hạo còn đề nghị Trang tri huyện trong khi phòng sự tuyệt đối phải buông thả hết mình, phối hợp tốt với tiểu thiếp của mình mới có thể thành chuyện tốt được.

Mị Nhi lúc này cũng đã phục hồi tinh thần, không còn tâm lý hoảng sợ lúc trước nữa. Nàng bắt đầu tiến hành chỉ dẫn cho hai vị tiểu thiếp tại khuê phòng của họ. Mọi chuyện đã đi vào quỹ đạo, Đỗ Văn Hạo liền cáo từ Trang tri huyện rồi ngồi kiệu nhỏ quay về Ngũ Vị đường.

Vừa về tới nơi, Ngốc béo đã cười ha ha nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ tiên sinh, công trường phía sau đào hai ổ chuột rất lớn, ở đó có rất nhiều lương thực. Đại chưởng quỹ nói chờ người về thương lượng, người mau tới xem.”

“Ổ chuột?” Đỗ Văn Hạo nhíu nhíu mày rồi bước nhanh tới công trường phía sau.

Trên mặt đất công trường bừa bộn khắp nơi bao nhiêu là chuột con, hiển nhiên sau khi ổ chuột bị móc ra, đám chuột đã đào tẩu tứ tán khắp nơi, hầu hết đã bị công nhân đánh chết. Phía trước có một khối đất trống đùn lên một đống lớn ngũ cốc.

Lâm Thanh Đại cùng với Ngô Thông, Anh Từ và các tiểu nhị khác đang bàn luận công chuyện, thấy Đỗ Văn Hạo tới cũng đi lại. Lâm Thanh Đại nói: “Ngươi nhìn xem, đây là đống lương thực móc ra từ ổ chuột, làm sao bây giờ?”

Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói: “Thiêu hủy! Kể cả đám chuột kia cũng thiêu hủy nốt!”

Chương 104: Bạch Y xã.

Ngô Thông cả kinh nói: “Tại sao? Chỗ lương thực này nhiều như vậy, sợ không dưới trăm cân, đủ cho một nhà ba người ăn trong nửa năm!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Cái ổ chuột kia, trong đó khẳng định lây dính một lượng rất lớn vi khuẩn…, à không, tà độc, cũng đã nhiễm sang chỗ lương thực này rồi, nếu có người ăn vào, nhẹ thì đổ bệnh, nặng thì mất mạng! Ngươi nếu không sợ chết, có thể ăn!”

Ngô Thông rụt rụt cổ, miễn cưỡng cười: “Không, không ăn! Bây giờ thiên hạ thái bình, có tiền bạc là có thể mua được lương thực, tội gì phải ăn chỗ lương thực dính tà độc đó. Thiêu hủy! Đúng là phải thiêu hủy sạch! Ha­ha!”

Lâm Thanh Đại gật đầu: “Đỗ tiên sinh nói rất có đạo lý, nếu lương thực này có tà độc, hãy mang hết đến góc kia, kể cả xác những con chuột này nữa, cùng nhau đốt sạch.”

Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại phân phó xong rồi rời công trường, đi tới phòng Không Huệ sư thái để xem xét.

Lúc này Tiễn Bất Thu đã quay về Tể Thế đường, chỉ còn có Cung Minh, mấy nữ nhân tu sĩ và Phó chưởng quỹ cùng một số đệ tử tục gia chờ ở trong phòng.

Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào, Cung Minh tỏ rõ sự cao hứng, đứng dậy chắp tay nói: “Lão đệ y thuật quả nhiên tuyệt diệu, buổi sáng nay sau khi dùng thuốc ngươi cho, Không Huệ sư thái mặc dù tới giờ chưa tỉnh lại, nhưng ánh mắt đã có thần, mạch tượng tăng cường, đờm trong cổ họng cũng ít đi rất nhiều. Xem ra hiệu quả chắc chắn không sai!”

Đỗ Văn Hạo cũng là vừa mừng vừa sợ, nghĩ lại chính mình đã phải cân nhắc cả đêm xem nên dùng thuốc gì, rốt cục cũng đã có hiệu quả. Hắn ngồi xuống bên cạnh, cẩn thận chẩn mạch thấy đúng như những lời Cung Minh nói. Chỉ là Không Huệ sư thái trước sau vẫn hôn mê bất tỉnh, trong lòng hắn cũng không hết lo lắng, dặn dò Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi theo dõi chặt chẽ, đúng thời gi­an quy định thì cho sư thái uống thuốc qua đường mũi.

Sau đó hắn tới phòng bệnh của Tĩnh Từ chủ trì xem xét, nhìn thấy sư thái lúc này đã có thể xuống giường chậm rãi đi lại với sự dìu đỡ của các đệ tử. Bà cũng đã tới phòng Không Huệ xem qua, biết được nhờ Đỗ Văn Hạo cứu trị, bệnh tình đã có chuyển biến tốt, hết sức cao hứng. Lúc này vừa nhìn thấy Đỗ Văn Hạo đến, vội lôi kéo tay hắn tới ngồi bên cạnh mình.”

Tĩnh Từ cười nhẹ nói: “Đỗ tiên sinh, đại ân đại đức của người cứu tính mạng hai thầy trò ta, thực không biết lấy gì báo đáp.”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Không phải Phó chưởng quỹ đã xin cấp cho ta một cái công đức bài phường rồi sao? Ta quả thật rất không dám nhận. Hay là đại sư khuyên bọn họ không nên làm vậy. Cái này thực sự là quá khoa trương mà.”

Tĩnh Từ sư thái lên tiếng: “Không có gì là khoa trương cả. Việc cứu tính mạng bần ni chỉ là chuyện nhỏ, nếu chỉ vì thế thì đích xác không đáng để lập công đức bài phường. Nhưng đây lại là thần kỹ phẩu phúc chữa thương của thượng cổ thần y Hoa Đà. Thế gi­an rộng lớn vậy mà có ai am hiểu đâu. Căn bệnh của bần ni lại không phải là hiếm trên thế gi­an này. Nếu mỗi người bệnh đều biết tìm đến Đỗ đại phu điều trị, chẳng phải là công đức vô lượng sao? Chính vì vậy, bần ni hoàn toàn tán thành việc lập công đức bài phường. Vừa để xưng tụng công đức của tiên sinh, cũng vừa để cho mọi người biết tới thần kỹ của tiên sinh. Sau này bần ni thuyết pháp cũng sẽ tuyên cáo tới mọi người, khiến những ai bị chứng bệnh giống bần ni có thêm một hy vọng sống.”

Nguyên lai bọn họ lập bài phường chủ yếu để quảng cáo cho mình, cho nhiều người biết mà tìm đến chữa bệnh. Nói gì đi nữa thì đây cũng là một chủ ý không tồi.

Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bề bộn chắp tay nói: “Như vậy xin đa tạ chủ trì đại sư.”

“Không nên khách khí!” Tĩnh Từ đại sư cười nói. Dừng một chút, bà đưa mắt nhìn Đỗ Văn Hạo hỏi: “Tiên sinh liệu có muốn gia nhập Bạch Y xã?”

Đỗ Văn Hạo sửng sốt: “…Bạch Y xã?”

“Đúng vậy, Bạch Y xã là do bần y sáng lập nên, do ta liên hợp thổ tông tín chúng lại mà thành, mọi người ở cùng một chỗ đồng lòng tụng kinh niệm Phật tích pháp, đồng thời có thể giúp đỡ, chiếu cố cho nhau. Bởi vì ở trong xã mọi người đều mặc đồ trắng nên mới gọi là Bạch Y xã. Giáo chúng ở bên ngoài Bạch Y xã cũng có rất nhiều, bên cạnh Phó chưởng quỹ còn có Cung Minh đại phu, đều do ta đứng đầu.”

“Ồ” Đỗ Văn Hạo nhớ lại lời Trang tri huyện có nói, Tĩnh Từ là người sáng lập Bạch Y xã, số lượng tín chúng đã qua vạn người. Với một xã đoàn mạnh mẽ như vậy, nếu gia nhập tự nhiên cũng có một chỗ dựa tốt.

Tĩnh Từ thấy hắn trầm ngâm không nói, liền cười cười nhẹ nhàng: “Tiên sinh có ân cứu mạng với bần ni, cho nên, nếu tiên sinh gia nhập xã của ta, bần ni xin thay mặt sư phụ nhận tiên sinh làm đồ đệ, như vậy tiên sinh là đồng lứa, cùng hàng chữ “Tĩnh” với ta, là sư đệ của ta, trong y xã cũng chỉ dưới một người mà thôi. Tiên sinh cũng không nhất định phải lạc phát tại y xã mà có thể tu hành tại gia, về phần giới luật, chỉ cần nghiêm thủ không sát sinh là được.”

Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ. Như lời của Tĩnh Từ vừa nói, nếu như mình gia nhập Bạch Y xã, Tĩnh Từ thay mặt sư phụ nhận mình làm đồ đệ, cùng bà ngang hàng. Vậy giữa vạn người đó, trừ bà ra, mình chính là người cao nhất rồi, những người khác chính là đồ tử đồ tôn của mình, địa vị như vậy mơ cũng chưa dám. Hơn nữa, tu cũng không cần phải đi đâu, không cần phải ăn chay, không phải kiêng sắc giới, chỉ cần không sát sinh là được. Cái này thực sự là quá tiện nghi mà, may mắn như vậy đúng là có đốt đèn lồng mỏi mòn tìm cũng không ra.

Đỗ Văn Hạo trong đầu nghĩ mông lung nhưng không biết nói sao. Thực tế từ những lời Trang tri huyện nói ra, tâm lý hắn đã có chút mơ hồ bất an. Xã đoàn này với hơn vạn tín chúng, thậm chí đang phát triển mạng mẽ không ngừng, chính là một đơn vị lực lượng không nhỏ, chỉ sợ triều đình không vừa mắt. Sự thật hiển nhiên là tín đồ càng nhiều, tầm ảnh hưởng cũng càng lớn, đương nhiên cũng sẽ càng thu hút sự chú ý của triều đình. Đôi khi chỉ vì không thuận mắt, chỉ cần một lý do đơn giản cũng đủ để đàn áp tiêu diệt chi lực lượng này. Mà đến khi đó, với thân phận của mình, chỉ sợ chưa kịp hưởng thụ vinh quang đã rước lấy đủ tai họa rồi.

Mà nói gì đi nữa mình là một người hành nghề y, chữa bệnh ngày một bận rộn, làm sao có thời gi­an theo bọn họ tụng kinh niệm phật. Hơn nữa, cái Bạch Y xã này không khỏi khiến mình liên tưởng tới Bạch Liên giáo. Hình như Bạch Liên giáo cũng khởi nguyên từ Bắc Tống, sau bị chèn ép thành một tổ chức của toàn các thành viên nằm dưới lòng đất. Nếu là như vậy, mình càng không thể theo chân bọn họ được.

Suy nghĩ cho cùng, ổn thỏa một chút, tốt nhất là kính nhi viễn chi thì hơn, Đỗ Văn Hạo cười nhẹ xin lỗi: “Đa tạ ý tốt của chủ trì, chỉ là, Đỗ mỗ không tin vào thần phật, cho nên thật không thể gia nhập.”

Tĩnh Từ có chút sửng sốt, miễn cưỡng cười nói: “Như vậy…”

Phó chưởng quỹ ở bên cạnh cười bồi nói thêm: “Cái này thực cũng không sao, Đỗ tiên sinh trước hết có thể tới xã nghe chủ trì tụng kinh thuyết pháp, xem thêm một chút kinh điển phật gia, có lẽ…”

Đỗ Văn Hạo lên tiếng chặn ngang lời hắn: “Thật cảm ơn thịnh tình của chư vị, nhưng Đỗ mỗ có rất nhiều người tới tìm xem bệnh, thật sự bận rộn không có thời gi­an, hôm nào rảnh rỗi, nhất định sẽ tới bái phỏng.”

Tĩnh Từ cũng nhìn ra Đỗ Văn Hạo không hề có hứng thú gì với y xã bọn họ, cười nhẹ nói: “Không sao, tiên sinh dù gì cũng là ân nhân cứu mạng của bần ni, bỉ xã luôn luôn rộng cửa chờ đón tiên sinh đại giá quang lâm.”



Sang ngày thứ hai, bầu trời đã xuất hiện nhiều tuyết rơi hơn, phảng phất những cơn gió phần phật khiến cho cả thế giới tràn ngập một màn bạch vụ.

Trời giá rét có lẽ đã khiến cho nhiều người bệnh không muốn ra khỏi nhà, vậy nên cả ngày hôm đó cũng không có nhiều khách tới đường xem bệnh.

Từ khi biết Tĩnh Từ đã hồi phục, những tín chúng từ Phủ thành tới cầu phúc ngoài ba bốn trăm người còn ở lại chờ hộ tống chủ trì hồi Phủ thành, đại bộ phận đã cáo từ trở về rồi.

Anh Tử hôm nay mang tới cạnh bàn của Đỗ Văn Hạo một cái lò nhỏ, chỗ Ngô Thông và Ngốc béo cũng có một cái. Đỗ Văn Hạo cùng với Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi ngồi cạnh lò sưởi, nhìn bông tuyết bay phất phơ ngoài đường, trong lòng ai cũng trầm ngâm, một không khí yên lặng bao trùm sảnh đường.

Bàng Vũ Cầm phá tan bầu không khí tĩnh mịch: “Tiên sinh, hôm nay có không ít người bị phong hàn tìm tới đây, ta nhớ kỹ lúc xế chiều có một người, cũng là vì bị lạnh mà nóng lên, không đổ mồ hôi, nhưng tại sao tiên sinh lại nói rằng do âm hư, không cùng chứng bệnh những người kia là từ doanh vệ bất hòa?”

“Hai người biểu hiện chứng bệnh không quá giống nhau, một người bệnh do ác hàn bị nóng lên, không đổ mồ hôi ở ngoài, đầu óc choáng váng, nuốt khô, bộ ngực cảm thấy đau nhức, mặt khác, mồ hôi vừa xuất lại lập tức tiêu tan, lưỡi tượng cùng mạch tượng cũng không giống với phong hàn thông thường. Một người còn lại thì lưỡi đài dày, trắng, mạch tế hơi lỏng, di động thất thường, đây là do âm hư nóng lên không cùng chứng với doanh vệ.”

“Như vậy, người bị nóng lên mấy tháng không lùi, lúc cao lúc thấp, cùng với người nông phu kia mà bị nóng lên trong mấy tháng liền, sao ngài lại biện chứng là do huyết hư mà nóng lên?”

“Đều đồng dạng là nóng lên, nguyên nhân bệnh bất đồng hiển nhiên biểu hiện sẽ khác nhau. Với người bệnh do huyết hư mà nóng lên, tinh thần uể oải, choáng váng đầu óc, thân thể không còn sức lực, hàm răng thường xuyên xuất huyết, ăn nhiều một chút có thể khiến trái tim đập loạn, người xuất mồ hôi, chất lưỡi lãnh đạm, bạch tế vô lực. Những triệu chứng này không giống với biểu hiện của việc thương phong thụ hàn nóng rần lên, mà do thân thể có khuyết điểm, chính là do huyết hư mà nóng lên.”

“Cái gì là huyết hư?”

“Huyết hư chính là lượng máu suy giảm dẫn tới giảm khả năng dưỡng tạng phủ kinh lạc, biểu hiện đặc thù chính là sắc mặt lãnh đạm trắng bệch. Nguyên nhân dẫn tới huyết hư có rất nhiều, ngoại trừ các trường hợp không còn chút máu nào hoặc là bệnh nặng âm huyết ám háo ở ngoài, còn đa phần là máu sinh hóa không đủ, máu cũ không đi máu mới cũng không sinh ra, đơn giản mà nói chính là công năng tạo máu của thân thể có vấn đề.”

Tuyết Phi Nhi ngáp một cái lắc đầu nói: “Rất phức tạp, chỉ đơn giản là một người bị nóng lên, vậy mà lúc thì do thương hàn biểu hư, khi lại là âm hư doanh vệ không cùng, một hồi lại là huyết hư nóng lên, loạn hết cả đầu.”

Đỗ Văn Hạo cười: “Thực ra việc cơ thể bị nóng lên không chỉ do ba loại này, ngoài ra còn rất nhiều, sau nay ta sẽ nói với các ngươi về bát cương biện chứng, tạng phủ biện chứng, vệ khí doanh huyết biện chứng, khi đó các ngươi sẽ hiểu rõ hơn.”

Tuyết Phi Nhi nghe được câu đó đầu tưởng như muốn to ra hơn một chút, nhụt chí nói: “Ta vẫn tưởng rằng xem bệnh hành y chỉ đơn giản nhìn qua một chút nơi đầu lưỡi, nghe mạch một chút sau đó là khai một đơn thuốc, vậy là xong, nguyên lai lại phức tạp như vậy sao?”

“Đương nhiên là vậy, không phải mất ít nhất ba năm năm công phu, làm sao mơ tưởng sờ tới cánh cửa đó đây? Mà muốn có thể ứng phó tự nhiên thuần thục không mất tám mười năm thì đừng có hy vọng.”

“Ngươi nói gì? Vậy như ngươi đã học bao nhiêu năm rồi?”

“Ha ha, nói cho ngươi nghe, bá phụ ta là một đại phu, từ khi ta bắt đầu tập tễnh học đi, bá phụ đã ôm ta hướng dẫn cách nhận thức dược liệu, lúc đó bá phụ dùng cách đố gạt để ta có hứng thú. Ta vẫn tiếp tục theo lão nhân gia học y cho tới khi vào đại học,…uh, thẳng đến khi ta trưởng thành, lại luôn học hỏi thêm từ nhiều người khác, tính ra từ lúc bắt đầu đó tới nay đã gần hai mươi năm rồi!”

Phía sau truyền đến một tiếng than thở: “Nguyên lai Đỗ đại phu là kỳ thuật thế gia gia truyền, khó trách y thuật lại cao minh như vậy!”

Ba người quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Cung Minh vuốt vuốt chòm râu bạc trắng mỉm cười từ hậu đường đi đến.

Đỗ Văn Hạo vội vàng đứng dậy chắp tay: “Cung tiên sinh, xin mời ngồi!”

Tuyết Phi Nhi chạy lại mang tới một chiếc ghế dài, đặt ở gần hỏa lò, Cung Minh tạ ơn rồi qua ngồi xuống. Nhìn Đỗ Văn Hạo, trên mặt lão đầy vẻ than thở: “Đỗ lão đệ, ha­ha, lão hủ năm nay đã hơn bảy mươi rồi, nhưng thực sự muốn gọi ngươi một tiếng Đỗ lão đệ, ngươi nếu nể mặt lão hủ, gọi ta một tiếng lão ca, như vậy có được không?”

Đỗ Văn Hạo chắp tay cười nói: “Đa tạ người coi trọng, lão ca!”

“Tốt, sảng khoái, thật là sảng khoái, ha­ha!” Cung Minh vuốt vuốt chòm râu cười to, “mới vừa rồi Đỗ lão đệ nói chuyện, lão ca cũng nghe thấy được, nói về hành y thường nhật, lão ca ta cũng có điểm tương tự. Mới đầu học y cũng là đố gạt, tính đến giờ không sai biệt lắm cũng đã được bảy mươi năm rồi. Thời gi­an hành y so với lão đệ nhiều hơn gấp ba lần có dư, nhưng năng lực so ra lại kém ngươi nhiều!”

“Ha ha, lão ca quá khen!”

“Không phải vậy, ta không hề nói quá, những lời này đều là thật, Không Huệ sư thái sau khi dùng thuốc của ngươi giờ đã tỉnh lại rồi.”

Chương 105: Tuyết dạ xuất chẩn*.

(* Đội tuyết ra ngoài xem bệnh)

Đỗ Văn Hạo lộ rõ vẻ vui mừng lẫn sợ hãi: “Thật sao?”

Một tiếng cười ha ha đáp lời hắn: “Đúng vậy, cũng vừa mới tỉnh lại thôi, mặc dù là chưa nói chuyện được như trước nhưng đã có thể gật hay lắc đầu khi được hỏi, thần trí về cơ bản đã hồi phục rồi! Thật sự làm cho người ta vui mừng và kinh ngạc không thôi!”

Đỗ Văn Hạo và nhị nữ cũng thật sự cao hứng.

Cung Minh thở dài nói: “Lão ca ta quan sát ngươi mấy ngày nay, không chỉ kiến thức về thần kỹ phẩu phúc chữa thương của thượng cổ thần y Hoa Đà mà ngay cả biện chứng y thuật, với bảy mươi năm hành y của ta cũng không thể thắng được ngươi, a…!”

Đỗ Văn Hạo đang muốn nói vài câu khách khí, chợt thấy ngoài cửa có hai người tiến vào, chính là Tiễn Bất Thu cùng với Hàm Đầu. Hắn vội đứng dậy ra nghênh đón.

Cung Minh ha hả cười: “Hay quá, đến thật đúng lúc, nói luôn cho các ngươi một tin tốt, Không Huệ sư thái sau khi dùng thuốc của Đỗ lão đệ đây đã tỉnh lại rồi, cơ bản thần trí đã hồi phục!”

“Thật không vậy?” Tiễn Bất Thu tỏ rõ vẻ kinh ngạc, “đi, ta muốn xem!”

Mọi người đồng loạt đứng dậy tiến vào phòng Không Huệ sư thái.

Không Huệ nhìn thấy bọn họ, ánh mắt có vài nét rung động nhưng trong miệng chỉ mấp máy không thành tiếng. Một nữ đệ tử ở bên cạnh ghé sát tai vào nghe rồi nói: “ư phụ nói, đa tạ ân đức của mấy vị đại phu cứu mạng.”

Tiễn Bất Thu cười nhẹ, chỉ chỉ Đỗ Văn Hạo: “Vị này mới chính là ân nhân cứu mạng!”

Lúc này Tĩnh Từ chủ trì cũng đã nghe được tin tức, được nữ đệ tử dìu đỡ chậm rãi đi tới, sau câu chào hỏi ngắn gọn, ngồi xuống bên giường Không Huệ, nét mặt lộ rõ vẻ vui mừng.

Đỗ Văn Hạo nói vài câu khách sáo, dặn dò tiếp tục dùng thuốc theo đúng chỉ định. Sau đó mấy người cũng nhanh chóng trở về sảnh đường.

Rõ ràng là nếu dùng thuốc do Đỗ Văn Hạo cho có kết quả thì những gì hắn chẩn đoán lúc trước là hoàn toàn chính xác. Cung Minh cùng Tiễn Bất Thu trong lòng không khỏi cảm thấy tâm phục.

Ổn định chỗ ngồi Đỗ Văn Hạo mới nhìn sang Tiễn Bất Thu hỏi: “Các ngươi tới tìm ta có chuyện gì không vậy?”

“Dạ, sư phụ, lão hủ tới là muốn xin người trợ giúp. Vừa hay có Cung đại phu ở đây, lão hủ có một vấn đề nan giải mong hai vị cùng cho kiến giải.”

“Không cần khách khí, cứ nói ra xem nào.”

“Lão hủ mới có một bệnh nhân tên là Bồ Sơn, người ở thôn Ba Cây Liễu (Tam Khỏa Liễu) ngoại thành, gia cảnh khó khăn, mới hơn hai mươi tuổi đầu, thân thể vốn tráng kiện nhưng mắc phải chứng huyết khô, bệnh tình đã tới lúc nguy kịch nhưng không tìm ra phương pháp chữa trị, mong hai vị hội chẩn. Ôi! Hắn là trụ cột duy nhất trong nhà, nếu mất đi, chỉ sợ rằng cả nhà này muốn sống cũng không nổi.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Người bệnh hiện đang ở Tể Thế đường sao? Để chúng ta cùng sang đó.”

“Không, ở tại nhà hắn, thôn Ba Cây Liễu ngoại thành. Bệnh tình hắn rất nặng, không thể đi được, hai vị liệu có thể tranh thủ qua chỗ đó được không?”

Cung Minh và Đỗ Văn Hạo nhìn nhau một cái rồi cùng gật đầu. Cung Minh lên tiếng: “Vậy cũng được! Tĩnh Từ chủ trì hiện đã bình phục, Không Huệ sư thái cũng đã tốt hơn nhiều, cứ tiếp tục dùng thuốc của Đỗ lão đệ là được, ta nghĩ hiện đi một lúc cũng không sao.”

Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi hiển nhiên muốn đi theo, Đỗ Văn Hạo cũng không từ chối. Mấy người cùng ngồi lên một chiếc xe hai trâu, chậm rãi đi ra khỏi thành.

Sau một đêm tuyết rơi nhiều dị thường, đường đi trở nên ẩm ướt lầy lội, xe trâu đi rất chậm. Tuy nhiên, Anh Tử đã sắp xếp một lò sưởi nhỏ, gắn chặt trên xe, xung quanh có mấy miếng đồng che chắn nên mặc dù xe lắc lư xóc nảy liên tục nhưng không khí bên trong vẫn rất ấm áp.

Dọc đường đi tuyết rơi mỗi lúc một nhiều, Tuyết Phi Nhi vén nhẹ tấm màn che nhìn ra bên ngoài, miệng khe khẽ hát, dáng vẻ đầy nhàn nhã sảng khoái.

Đột nhiên Tuyết Phi Nhi kêu lên một tiếng sợ hãi: “Chuột! Chuột kìa, nhiều chuột quá!”

Mọi người không hẹn mà nhất loạt nhìn ra ngoài theo hướng Tuyết Phi Nhi chỉ. Quả nhiên trên mặt tuyết, ngay phía trước xe, có rất nhiều chuột đang chạy tán loạn, nhiều con chạy băng qua đường ngay dưới bánh xe, chúng thậm chí còn tỏ ra không sợ sệt gì.

Đỗ Văn Hạo cau mày nói: “Tiết trời lạnh như vậy tại sao chuột lại chạy ra nhiều vậy? Liệu có phải sắp có địa chấn không đây?”

“Địa chấn?” Bàng Vũ Cầm tò mò hỏi hắn, “chuột chạy ra khỏi hang thì có địa chấn sao?”

“Cũng không nhất định là vậy, chỉ là ta nghe nói động vật đều rất mẫn cảm với các dấu hiệu bất thường của trời đất, nên cũng chỉ đoán mò vậy thôi.”

Mấy người trong xe cứ vậy nói chuyện rôm rả, cũng không biết bao lâu sau phía trước đã là thôn Ba Cây Liễu, Tiễn Bất Thu chỉ tay về phía xa xa cho biết đó là Bồ gia.

Đi một lúc nữa hiện ra một khu vườn nhỏ, xung quanh được rào bằng những bụi gai. Phía trước căn nhà tranh lụp xụp, nơi mái hiên nhỏ có hai con gà mái đang cuộn mình nằm co ro cạnh một đĩa đồ ăn đã đông lạnh thành băng tự bao giờ.

Tiễn Bất Thu đẩy cánh cửa ghép bằng những thanh củi đi vào, kêu lớn: “Có ai ở nhà không? Bồ lão hán!”

“Có có, mời vào, ồ, là thần y sao?” Phía sau truyền tới một thanh âm già nua, trong chốc lát tại cửa nhà xí xuất hiện một ông lão già cả, chống một cây gậy cong queo, thân thể khắc khổ, một làn gió lạnh khẽ thổi qua như muốn xô đổ cái thân thể chỉ có da bọc xương kia. Mất một lúc ông lão mới có thể đứng vững, vội vàng mà khó nhọc đi tới, nhìn thoáng thấy có mấy người đi cùng Tiễn thần y, không khỏi lộ chút kinh ngạc nhưng cũng không hỏi nhiều, vội khom lưng hướng mọi người mời vào trong nhà.

Mấy người cùng tiến vào trong, thấy phía bên cạnh là một cái bếp lò ngoài hơi ấm tỏa ra còn có một mùi Trung dược nồng đẠtràn ngập cả căn nhà. Trước cái bếp trên đang đặt nồi thuốc là hai nam hài tử mặt đỏ hồng ngồi xổm vừa kéo kéo một vật gì dính đầy bùn đất từ trong lò ra, đập đập rồi mang tới cái chậu gỗ rửa sạch sẽ, cắt thành từng đoạn rồi bỏ vào trong nồi.

Bàng Vũ Cầm nhìn về phía hai đứa nhỏ chăm chú, cái vật chúng đang cầm nhìn như là một loại củ hay rễ cây gì đó, tò mò quay sang hỏi Đỗ Văn Hạo: “Trong tay mấy hài tử là gì vậy?”

“Cát căn! Cũng gọi là phấn cát. Đây là một loại thảo dược, có tác dụng giải cơ thối nhiệt, mùa đông có thể dùng chống thương phong, cũng có thể dùng thay lương thực.

“Dùng thảo dược thay lương thực?”

“Đúng vậy, dù sao so với bị đói vẫn còn hơn nhiều.”

“Hả? Vậy cả cái nồi kia đều là cát căn sao?”

“Không phải, trong đó còn có nước gạo và một chút rau.”

Bàng Vũ Cầm trên mặt hiện rõ một tia bất nhẫn, ngồi xổm xuống, sờ sờ khuôn mặt hai đứa nhỏ, nhất thời xúc động không biết nói gì.

Tuyết Phi Nhi có vẻ như phát hiện ra điều gì: “Sao trong phòng lại nhiều tuyết như vậy?” ngẩng đầu nhìn lên mới thấy tuyết rơi từ trên nóc nhà xuống. Nguyên lai mái nhà được lợp bằng các loại cây cỏ tạp nham, chống đỡ yếu ớt bởi mấy cây gỗ nhỏ, sau những trận tuyết rơi lớn cùng với gió mạnh không chịu nổi đã lộ ra nhiều lỗ hổng, những bông tuyết nhỏ mới cùng với tuyết đọng từ trước lọt qua đó mà xuống.

Lão hán nọ vất vả chống vào cây gậy tất bật mời bọn họ tiến vào gi­an trong. Căn phòng này không lớn lắm, bày đặt sơ sài vài dụng cụ bằng gỗ, nổi bật nhất là một chiếc giường to chiếm tới nửa không gi­an bên trong. Cạnh giường có đặt một cái lò sưởi nhưng đã tắt lửa từ bao giờ, trên giường là một tấm chăn bông cũ nát vá chằng chịt phủ lên người một thanh niên trẻ tuổi. Người này thoạt nhìn không ai nghĩ mới có hai mươi tuổi đầu, thân mình nằm nghiêng, khuôn mặt lúc trắng lúc hồng nhưng lộ rõ sự nhợt nhạt, râu mép hơi rậm rạp, hai mắt vô thần. Chiếc giường nằm sát cửa sổ được che bằng tấm vải thô dày, cố gắng ngăn cản những cơn gió lạnh, nhưng nó cũng đồng thời chặn lại những tia sáng từ bên ngoài khiến cho căn phòng trở nên tối tăm ảm đạm.

Nhìn thấy Tiễn Bất Thu và mấy người tiến vào, người thanh niên vội lật tấm chăn ra muốn ngồi dậy, trên người hắn chỉ mặc hai tấm áo sơ sài, thân thể khẽ run lên, không ngừng ho khan. Tiễn Bất Thu vội vàng tiến đến đè bờ vai hắn xuống: “Bồ Sơn, ngươi không được nhúc nhích, nằm xuống!”

Người thanh niên cảm kích cười gượng, cuống quít ho khan nói: “Đa tạ thần y, mời người ngồi…khụ khụ khụ”

Lão hán cũng vội vàng: “Đúng vậy thần y, mời mấy vị mau ngồi xuống giường, để ta lập tức nhóm lửa!”

Lão vừa định quay ra lấy củi thì bị Bàng Vũ Cầm cùng với Tuyết Phi Nhi ngăn lại. Lúc mới tiến vào, mọi người đã nhìn quanh sân chẳng còn tí củi nào, thôn này địa thế trống trải, những gì có thể đốt đều đã được dùng hết, giờ muốn có thêm củi chắc chỉ còn cách lên núi kiếm. Nhưng với gia cảnh nhà này thì thật là không tưởng, hán tử duy nhất đang nằm kia, lạnh run lên mà không dám đốt lò đủ biết khó khăn như thế nào.

Lão hán thấy vậy bèn đến chỗ bếp lấy ra một nồi nước nóng, đổ ra mấy cái bát đất nung, giọng nói run run: “Bà lão nhà này cùng với con dâu lên núi chặt củi và đào phấn cát, lão hủ chân yếu, không lên núi được, đành ở nhà trông người ốm và mấy đứa nhỏ,…xin mời uống nước!”

Tiễn Bất Thu vuốt vuốt chòm râu nói: “Không cần phải khách khí, lão cũng ngồi xuống nghỉ ngơi một chút, chúng ta tới đây không phải là khách mà là tới xem bệnh. Vị này là chưởng quỹ của Nhất Hoàn đường ở Phủ thành Cung Minh Cung đại phu, còn vị này là nhị chưởng quỹ của Ngũ Vị đường ở Huyền thành chúng ta Đỗ Văn Hạo Đỗ đại phu. Cả hai vị đều là danh y, lão hủ mời tới đây để cùng hội chẩn.”

Lão hán gật đầu cúi người chào.

Tiễn Bất Thu âm thầm hướng Cung Minh và Đỗ Văn Hạo liếc mắt một cái đầy thâm ý, lộ vẻ an nhàn, vuốt vuốt chòm râu: “Hai vị trước hết hãy xem qua tình trạng của hắn, nhưng như lão hủ thấy thì hắn cũng không có gì nguy hiểm, cùng lắm uống vài thang thuốc, điều dưỡng một thời gi­an ngắn là tốt rồi…Ha ha, hay là Cung đại phu xem trước đi.”

Nhìn cái liếc mắt của Tiễn Bất Thu, cả Cung Minh và Đỗ Văn Hạo đều có chút hiểu ý. Cung Minh không khách khí, ngồi tại mép giường hỏi: “Ngươi có chỗ nào không thoải mái?”

“Đầu choáng váng…, tim hoảng loạn,…khụ khụ khụ, toàn thân,…lúc nóng lúc lạnh, khụ khụ khụ…”

“Có muốn uống nước không?”

“Vâng! Cảm ơn…đại phu, khụ khụ khụ”

“Nóng hay lạnh?”

Bồ Sơn do dự chốc lát: “Ừm,…lạnh.”

Bàng Vũ Cầm nghe vậy đi ra khỏi phòng, tiến đến chỗ bếp lấy chút nước lạnh vào một cái bát rồi cầm trở về đưa cho Bồ Sơn. Người thanh niên đưa tay ra đón nhưng vừa chạm ngón tay vào cái bát liền rụt tay về, Bàng Vũ Cầm nói: “Để ta pha thêm một chút nước nóng!” Nói rồi đổ một chút nước nóng từ cái nồi Bồ lão hán mang tới vào bát.

“Đa tạ cô nương…khụ khụ”. Bồ Sao tiếp nhận, gắng gượng nở một nụ cười, đưa bát nước tới bên mép, hớp nhẹ một ngụm, ngậm trong miệng một lúc lâu mới chậm rãi nuốt xuống, “không uống nữa,…khụ khụ khụ,…cám ơn…khụ khụ khụ”

Thấy hắn nói chuyện khó khăn như vậy, Cung Minh khoát khoát tay: “Ngươi thôi hãy nghỉ đi, để ta hỏi phụ thân ngươi cũng được…Hài tử của lão bệnh tình như thế nào, lão nói ta nghe một chút!”

Bồ lão hán cất giọng trả lời: “Trong khoảng thời gi­an này hắn thường thấy lạnh nhưng toàn thân nóng bỏng, cũng đã hơn một tháng rồi nhưng không thấy thuyên giảm. Thân thể khi nóng khi lạnh, nhiều lần ngất đi không biết gì, khi tỉnh lại thì miệng và mũi đều xuất huyết, ước chừng được một bát lớn mà không ngừng lại được. Đại tiện cũng xuất huyết.”

“Màu gì?”

“Màu đỏ thẫm.”

“Còn xuất huyết ở chỗ nào khác không?”

“Có, phía trước bắp đùi.”

“Ăn uống thì sao?”

“Không tốt, không muốn ăn gì, cho nên người mới thành như vậy.”

“Để ta xem mạch một chút.” Cung Minh ngưng thần chẩn mạch, nhìn kỹ cái lưỡi, sắc mặt lão trở nên âm trầm, một hồi lâu mới nói: “Ừm…có vẻ là thương hàn phát nhiệt.” Lão vuốt vuốt râu liếc qua Tiễn Bất Thu một cái, nói: “Vấn đề này không nghiêm trọng, dùng vài loại thuốc đơn giản là được…Đỗ lão đệ, ngươi đến xem sao.” Dứt lời, vỗ vỗ bả vai Đỗ Văn Hạo, vẻ mặt thâm trầm đầy ý vị.

Chương 106: Hư lao huyết khô.

Đỗ Văn Hạo thấy ánh mắt của hắn có vài phần quái lạ, hơi kỳ quái, ngồi xuống nhìn lưỡi, trong lòng không khỏi trầm xuống, lại đưa tay ra lật mí mắt của hắn lên, đang muốn nói thì Cung Minh ho khẽ hai tiếng: “Đỗ lão đệ, hôm nay trời lạnh quá, lão ca ta tay chân già cả chịu không nổi nữa rồi, nói tóm lại, dẫu sao bệnh này cũng không có gì quá nặng, nói xong rồi thì chúng ta về đi, để cho Bồ huynh đệ nghỉ ngơi.”

Đỗ Văn Hạo như hiểu ra gì đó, gật đầu: “Ừm…, bệnh này là cảm lạnh nên sốt thôi…, không có gì, uống thuốc là khỏi thôi…”

Tiền Bất Thu gật đầu: “Lão hủ cũng thấy vậy. Hai vị đã chẩn sát rồi thì chúng ta về thôi. Bồ lão hán, ta đã thay thuốc để thanh nhiệt giải độc rồi, ông cho hài tử uống đi, phải nhớ, hơi đổ mồ hôi một cái là ngừng uống thuốc ngay, nhất thiết không được để cho đổ nhiều mồ hôi! Đợi sau khi chúng ta về hội chẩn, sáng sớm mai, ta gọi vợ ông tới đường của ta lấy thuốc. Chúng ta đi đây!”

Mấy người đứng dậy ra khỏi cửa, Đỗ Văn Hạo bước tới cửa thì dừng lại, nghĩ ngợi một chút, từ trong ngực lấy ra mấy mẩu bạc vụn, đặt lên giường, nói với Bồ lão hán: “Tiền này để mua một chút gạo và mì, không thể ăn phấn cát thêm được nữa, đặc biệt là không được cho bệnh nhân ăn. Hắn mắc chứng huyết khô, bình thường xuất huyết không ngừng, mà rễ sắn có thể làm tăng nhanh tốc độ chảy của mạch máu, sẽ xuất huyết nguy kịch hơn. Hắn hiện tại phải cố gắng tránh xuất huyết, nếu không…, ừm…cái này, kỳ thật cũng không có gì, đừng ăn phấn cát nữa là được rồi.”

“Đa tạ đại phu! Đa tạ!” Bồ lão hán cầm mấy miếng bạc, cảm kích gật đầu liên tục: “Lần trước Tiền thần y cũng nói đừng ăn phấn cát, nhưng cũng chẳng có cách nào khác, nhà nghèo quá, năm nay thu hoạch không tốt, lương thực dự trữ cũng không còn đủ ăn, mà còn phải giữ lại một ít cho năm sau, cho nên cũng không làm khác được.”

Bàng Vũ Cầm cũng lấy ra chút bạc vụn, đại khái được khoảng một hai lượng gì đó, đưa cho lão hán: “Ở đây cũng có chút bạc vụn, lão cầm đi mua gạo. Phải nhớ lời của Đỗ tiên sinh nhé!”

“Đây…, thật tốt quá!”

Tiền Bất Thu, Hàm Đầu và Cung Minh cũng đưa tiền, duy chỉ có Tuyết Phi Nhi là không, nàng ta đỏ mặt ngượng ngập nói: “Cha ta không cho ta cầm tiền…”

Đỗ Văn Hạo vỗ vai nàng: “Có lòng là được rồi. Chúng ta đi thôi.”

Ra khỏi viện tử, lên xe, đợi ra khỏi cửa thôn, Bàng Vũ Cầm mới hỏi Đỗ Văn Hạo: “Tiên sinh, bệnh của Bồ Sơn kia nặng lắm sao?”

Tuyết Phi Nhi chen vào nói: “Khẳng định là vậy rồi. Nhìn bộ dạng ấp a ấp úng, cố làm ra vẻ nhẹ nhàng của họ là biết.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Nặng vô cùng, với tình trạng này, tùy tiện cảm lạnh rồi ho nhiều hơn một chút thôi cũng có thể lấy mạng hắn rồi!”

“Nghiêm trọng vậy ư? Sao không lập tức cho thuốc?”

Đỗ Văn Hạo, Tiễn Bất Thu và Cung Minh nhìn nhau, đều cười khổ lắc đầu. Cung Minh nói: “Ài! Chứng bệnh này nếu dễ trị như vậy, Tiễn thần y sớm đã ra tay xong lâu rồi, cần gì phải tìm chúng ta? Chỉ là, bệnh nặng như thế này, ít nhất thì ta cũng chịu rồi, chỉ còn trông vào Đỗ lão đệ thôi.”

Đỗ Văn Hạo cười khổ: “Hai vị đều không có biệt pháp thì ta càng chịu!”

Bàng Vũ Cầm nói: “Chứng bệnh đó là bất trị sao? Cái hư lao huyết khô này rốt cuộc là bệnh gì?”

Hư lao huyết khô chính là chứng thiếu máu không thể tái tạo trong Tây y, là tế bào gốc và điều kiện tạo máu trong cốt tủy của thân thể bị thương tổn, dẫn tới một loại tổng hợp chứng là công năng tạo máu bị suy kiệt, tiêu chuẩn phân chia không giống nhau, có thể chia thành cấp tính và mãn tính, hạng nặng, hạng trung và hạng nhẹ.

Đỗ Văn Hạo đương nhiên không thể dùng góc độ Tây y để giải thích, nghĩ một chút, nói: “Hư lao huyết khô là do một loại nguyên nhân nào đó dẫn tới tim gan tỳ thận của bệnh nhân bị thương tổn, từ đó dẫn tới tinh huyết không thể tái sinh, ‘Hoàng Đế nội kinh’ có nói: ‘Tinh khí nội đoạt thì tích hư thành tổn, tích tổn thành lao. ‘ Đặc biệt là tỳ thận lưỡng tạng bị tổn thương dẫn tới hư lao là nghiêm trọng nhất, bởi vì thận là chủ cốt sinh tủy, thận chứa tinh, mà huyết chính là do tinh hóa thành. Ngoài ra, tỳ cũng sinh huyết, cái gọi là huyết cũng chính là thủy cốc chi tinh, sinh hóa ở tì. Cho nên thận tinh hao tổn, tinh tủy cũng không đủ, mà nếu tủy bị hư tổn, tinh huyết cũng sẽ không thể tái sinh. Một khi thận dương của con người không đủ thì không thể làm ấm các tạng phủ khác. Cho nên, chỉ cần thận có bệnh, công năng tái sinh tinh huyết bị tổn thương, tim gan tỳ đều cũng sẽ bị thương tổn mà thành hư lao. Tỳ tạng bị thương tổn cũng là đạo lý này.”

Tuyết Phi Nhi và Bàng Vũ Cầm nghe mà như lạc trong sương mù, hỏi: “Vậy chắc chắn sẽ chết ư?”

“Đương nhiên rồi! Tim chủ huyết, gan giữ huyết, tỳ thông huyết, ba nội tạng này bị thương tổn sẽ xuất hiện huyết hư, xuất huyết và ứ huyết. Khí huyết không thể hấp thu, âm hư nội nhiệt, cảm lạnh dẫn tới sốt cao, nhiệt làm tổn thương huyết lạc, hoặc bách huyết vận hành không theo quy luật, đều có thể dẫn tới xuất huyết. Cho nên mồm miệng hắn mới hay xuất huyết, mà mất máu quá nhiều cũng dẫn tới khí huyết bị suy yếu, tinh khí nội đoạt, dần dần dẫn tới cảm nhiễm. Bởi vì hư lao khiến sức đề kháng của con người giảm xuống rất nhiều, rất dễ bị cảm lạnh trúng gió, đều dẫn tới phổi bị cảm nhiễm nghiêm trọng. Loại cảm nhiễm biến chứng này là nguyên nhân chủ yếu khiến người bị hưu lao huyết khô rồi tử vong.”

Nhị nữ nghe hiểu mà như không hiểu, Bàng Vũ Cầm nói: “Vậy…còn cứu được không?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Rất khó, bệnh của hắn rất nặng, đã biến chứng làm cảm nhiễm phổi, đối với người bình thường mà nói, ho thôi không tính là gì, rất dễ chữa, nhưng đối với người bị chứng hư lao huyết khô nặng, ho thôi cũng khiến hắn mất mạng rồi. Hơn nữa, hắn xuất huyết rất nặng, mất máu quá nhiều, thân thể cực kỳ thiếu máu, hay hôn mê, một khi xuất hiện cơn sốc, dù nhẹ cũng chắc chắn chết. Vừa rồi ta kiểm tra mí mắt của hắn, phát hiện dưới da đã chảy máu, đây chính là triệu chứng báo trước sắp xuất huyết trong não. Đây cũng là một nguy cơ nữa dẫn tới khả năng tử vong của hắn, cứu thế nào đây?”

Bàng Vũ Cầm nói: “Đỗ tiên sinh, ngài nhất định có biện pháp mà! Nghĩ biện pháp đi! Bọn họ đáng thương lắm, đặc biệt là hai hài tử đó, hắn nếu chết, vậy thì người nhà sẽ sống thế nào đây? Ngài cố nghĩ biện pháp đi, ngài biết thần kỹ Hoa Đà, nghe nói Hoa Đà thần y có thể bổ đầu ra để chữa trị cho bệnh nhân mà, trị xong thì khâu lại, người vẫn khỏe mạnh. Ngài nhất định cũng biết thần kỹ này mà, hắn cho dù bị chảy máu trong não, ngài cũng có thể chữa được, đúng không?”

Đỗ Văn Hạo cười khổ: “Nàng thật sự coi ta là Hoa Đà sao? Bệnh này của hắn không thể dùng phương pháp phẫu thuật mổ đầu để chữa đâu, bởi vì không chỉ là xuất huyết não, các chỗ khác xuất huyết quá nhiều cũng có thể sẽ chết. Nàng đừng gấp, ta và hai vị đại phu suy nghĩ một chút, xem xem có biện pháp nào không.”

Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi lập tức bình tĩnh lại, để tránh làm phiền bọn họ hội chẩn.

Cung Minh vuốt râu, nói với Tiền Bất Thu: “Tiền đại phu, ông thấy thế nào?”

Tiễn Bất Thu thân hình hơi lắc lư theo xe trâu đang đi, cũng vuốt râu, từ từ nói: “Bệnh này lão hủ đã trị liệu khoảng chừng hơn hai tháng. Biện chứng ban đầu là gan thận âm khuy, hư hỏa nội sinh. Phương thuốc dùng bát trân thang, bổ khí bổ huyết. Nhưng, tới nay cũng không có hiệu quả gì, hơn nữa hắn vẫn sốt cao không dứt, xuất huyết không ngừng, khiến ta đau đầu không thôi!”

Đang nói tới đây, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng ồn ào, có người la hét: “Ê! Xe bò ở phía trước nhường đường đi, chúng ta vào thành cứu mạng đây!”

Một người khác nói: “Huynh, hắn chảy máu nhiều như vậy, có thể tới được Tể Thế đường tìm Tiền thần y không?”

Nghe thấy câu này, mấy người đều kinh ngạc, vén rèm cửa nhìn ra ngoài, chỉ thấy phía sau có một chiếc xe trâu, mấy đại hán đang sốt ruột ra sức đánh trâu để nó đi nhanh hơn. Nhưng con trâu vẫn không nhanh không chậm lững thững đi, từng bước từng bước tiến về phía trước.

Hàm Đầu hét lên: “Sao thế? Có người bị bệnh à? Sư phụ Tiền thần y của ta đang ở trên xe!”

“Ối!” Mấy người đó vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vội vàng nói: “Thần y đang ở đây ư? Tốt quá! Thần y cứu mạng với, huynh đệ của ta bị thương rồi!”

Nói xong câu này, mấy người đó đều nhảy xuống xe.

Hàm Đầm chạy lên trước hỏi: “Bị thương ở đâu? Có chuyện gì vậy?”

“Ở bắp đùi! Chúng ta là người của đoàn luyện trong thôn Ba Cây Liễu. Nông nhàn rồi (thời gi­an rảnh rỗi sau vụ mùa), mấy người chúng ta cọ xát võ nghệ, lỡ tay bị thương, một kiếm đâm vào bắp đùi của huynh đệ ta, chảy máu rất nhiều, không thể ngăn lại được, Tiền thần y đang ở đâu?”

Mấy người Tiễn Bất Thu cũng chạy tới: “Người đâu?”

“Ở trên xe!”

Vén rèm cửa lên, chỉ thây một nông hán đang nằm bên trên. Bắp đùi phải của người bị thương được quấn băng, nhưng hiển nhiên không thể ngăn máu chảy. Huyết dịch màu đỏ vẫn không ngừng từ vải băng chảy ra. Nhìn bộ vị bị chảy máu, chính là động mạch đùi! Sắc mặt của hán tử trắng bệch, túm chặt lấy đùi mình: “Đại ca…, ta…, ta lạnh quá…! Lạnh quá…, lạnh quá…”

Đỗ Văn Hạo trong lòng trầm xuống, động mạch đùi bị đứt, người bị thương sẽ vì mất máu, dẫn tới bị choáng mà tử vong. Nếu không cầm được máu, chắc chắn sẽ đi đời nhà ma.

Tiền Bất Thu nói: “Rịt thuốc chưa?”

“Rịt thuốc kim sang rồi, nhưng không cầm được máu! Mau cứu hắn đi!”

Hàm Đầu vội vàng nói Tiền Bất Thu: “Nơi đây là vùng dã ngoại hoang vu, không có thuốc và dụng cụ, sư phụ, làm sao đây?”

Tiễn Bất Thu nói: “Mau đi tìm một số thuốc cầm máu như tiểu kế, địa du lại đây để cầm máu!”

“Vâng!” Hàm Đầu quay người đi tìm thuốc.

Cung Minh nói: “Chảy máu quá nhiều, lại bị thương ở động mạch chủ, những thuốc này chỉ sợ không có tác dụng!”

Tiền Bất Thu thở dài, thấp giọng nói: “Đúng, bị thương ở động mạch chủ trên đùi, thuốc kim sang chỉ sợ không có hiệu quả! Người đã sắp hôn mê bất tỉnh rồi, chỉ có thể cố gắng hết sức mà thôi.”

Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói: “Hòm thuốc xuất chẩn của ta có thuốc cầm máu! Để ta tới xử lý!”

Mấy nông hán đó không nhận ra Đỗ Văn Hạo, vội vàng cản lại, hỏi: “Ngươi đừng làm loạn! Để Tiền thần y tới đi!”

Tiễn Bất Thu vội vàng nói: “Ngài ấy là sư phụ của ta! Mau! Để sư phụ ta xử lý! Còn chậm trễ là chết người đó!”

Tráng hán đó vừa nghe thấy đây là sư phụ của thần y, vậy tuyệt đối là không tồi rồi, vội vàng nhường đường.

Bàng Vũ Cầm đã chạy về xe ngựa mang hòm thuốc của Đỗ Văn Hạo tới, hắn mở hòm, lấy bột tam thất ra.

“Mau! Lấy thuốc cho hắn uống!” Đỗ Văn Hạo mở bao giấy ra, đổ một ít vào miệng người bị thương, trên xe trâu còn có ấm nước, vội vàng cầm tới rót cho người bị thương uống.

Đỗ Văn Hạo xé ống quần của người bị thương ra xem, vội vàng sờ vào động mạch đùi ở giữa háng hắn. Dùng hai ngón tay cái đè lên nhau, ra sức ấn xuống, nói: “Không sai, rất có thể đã bị thương ở động mạch chủ trên đùi rồi, hòm xuất chẩn của ta cũng không có dụng cụ phẫu thuật, chỉ có thể tạm thời xử lý vết thương, đợi quay về mới phẫu thuật!” Quay đầu nói với Bàng Vũ Cầm: “Mau, cắt băng ra, đổ tam thất lên vết thương!”

Mấy đại hán chưa từng nghe qua bột tam thất, vội vàng hỏi: “Thuốc này có được không đó?”

“Tốt hơn thuốc kim sang bình thường!”

Bàng Vũ Cầm cắt băng ra, chỉ thấy máu trên vết thương vẫn ùn ùn chảy, sợ đến nỗi mặt trắng bệch, cố ổn định lại tâm thần, đổ bột tam thất lên vết thương, nhưng rất nhanh liền bị máu từ vết thương trào ra xối đi.

Chương 107: Quân nhu phẩm.

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Tìm một miếng vải, để thuốc lên trên mặt vải, sau đó nhét vào vết thương, rồi lại dùng băng buộc chặt vào!”

Lúc này tìm đâu ra vải sô, Bàng Vũ Cầm vén vạt áo lên, roẹt một tiếng xé ra làm hai, quấn một mảnh lại, đổ tam thất lên trên, sau đó nhét vào trong vết thương, dùng một mảnh khác bó chặt vết thương lại.

Mọi người lên xe, ra sức giục trâu đi nhanh, xe trâu lắc lư chòng chành, cuối cùng cũng tới Ngũ Vị đường.

Cung Minh thấy người bị thương thần trí đã có chút không tỉnh táo, nhưng vẫn rên hừ hừ chưa chết, phi thường kinh ngạc. Lão hành y mấy chục năm, bị thương nặng mà kéo dài như thế này, đổi lại là bình thường sớm đã chết ở nửa đường rồi, không ngờ thuốc của Đỗ Văn Hạo lại thần kỳ như vậy, căn bản có thể trì hoãn được xuất huyết. Vết thương ở động mạch chủ trên đùi có thể trì hoãn lâu như vậy mà không mất máu rồi tử vong, lão từ trước đến giờ chưa từng thấy qua.

Không đợi Đỗ Văn Hạo phân phó, hai người Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đã chạy vào Ngũ Vị đường chuẩn bị phẫu thuật.

Ba người chuẩn bị xong cho phẫu thuật, rót thuốc mê cho người bị thương, Đỗ Văn Hạo không tháo vết thương ra ngay, liền dùng dao phẫu thuật rạch một đường nhỏ trên vết thương, để lộ ra đoạn gần động mạch bị thương, sau khi tách rời, dùng một sợi vải sô nhỏ quấn lên, dùng kìm cầm máu cặp sợi vải sô để ngăn máu chảy. Sau đó mới dỡ băng, lấy mảnh vải nhét trong vết thương ra, thanh trừ dị vật ở vết thương, bước đầu rửa vết thương. Sau đó dùng dao rạch xuôi theo huyết quản của vết thương kéo dài xuống dưới và lên trên, để lộ huyết quản ra hết mức, tách rời đoạn gần và đoạn xa của động mạch và tĩnh mạch, kẹp huyết quản không bị tổn thương để khống chế xuất huyết, sau đó tháo vải sô cầm máu trong vết thương vừa cắt ra.

Kiểm tra tình hình huyết quản, phát hiện đã hoàn toàn đứt đoạn, Đỗ Văn Hạo tiến hành tu chỉnh đối với hai đầu bị đứt đoạn, để đề phòng tắc động mạch, hắn cắt rời bộ phận bị tổn thương, sau đó dùng kìm kẹp màng ngoài của hai đầu huyết quản bị đứt lôi ra ngoài, rồi cắt sửa chỉnh tề lại hai đầu bị đứt, dùng nước thuốc súc rửa máu ứ trong huyết quản ra, sau đó mới tiến hành khâu lại động mạch.

Sau khi khâu lại, Đỗ Văn Hạo buông kìm ra, phát hiện miệng vết khâu có chút máu rỉ, đây là vì nguyên do chỉ dùng để khâu thương tương đối thô ráp. Dùng vải sô đã diệt trùng khẽ áp lên một lúc, máu liền ngừng chảy. Vết thương cũng sạch sẽ trở lại, cho nên lập tức tiến hành khâu vết thương và cắt một lỗ nhỏ để đặt đường dẫn lưu.

Phục hồi vết thương hoàn tất, đổ nước muối vào, sau đó viết phương thuốc để cho uống, phòng ngừa vết thương bị cảm nhiễm, căn dặn phải để bệnh nhân ở lại để quan sát hai ngày, sau đó mới có thể về.

Người bị thương một lúc sau mới tỉnh dậy, biết rằng Đỗ Văn Hạo, đại phu của Ngũ Vị đường thông thạo thần kỹ của Hoa Đà đã cứu mạng hắn, lúc này mới có thể từ Quỷ môn quan quay trở về, trong lòng cảm kích Đỗ Văn Hạo đến rơi nước mắt, cũng thầm nhủ rằng cái vận rắm chó của mình thật không tồi, gặp được quý nhân, nếu không thì thì mạng này đã đi tong rồi.

Cung Minh và Tiễn Bất Thu ở ngoài cửa sổ nhìn thấy cả quá trình Đỗ Văn Hạo xử lý vết thương ngoại khoa, kỹ thuật này họ chưa từng thấy qua, tự nhiên phi thường kinh ngạc và hiếu kỳ.

Lúc này đã gần canh ba, do trên đường gặp phải cấp cứu cần xử lý, ba người đã chậm trễ thương lượng phải trị liệu bệnh của Bồ Sơn như thế nào. Đỗ Văn Hạo sau khi vội vàng hoàn thành phẫu thuật, thu xếp cho bệnh nhân xong, ba người lại tới khám cho Không Huệ sư thái. Thần chí của bà so với lúc trưa thì tỉnh táo hơn một chút, bệnh tình đang có chuyển biến tốt, ba người mới ngồi xuống thương nghị tiếp.

Cung Minh hưng phấn nói: “Bột Tam thất này của lão đệ thật là lợi hại, hôm qua trong lúc chữa bệnh trúng gió cho Không Huệ sư thái, ta còn nhớ rõ rằng ngươi đã nhắc tới việc dùng vị thuốc thần kỳ này. Hôm nay dùng lại cứu được một người bị thương ở động mạch chủ trên đùi. Nói thật bị thương nặng và kéo dài lâu như vậy mà vẫn còn sống, thật sự là kỳ tích! Lão hủ từ trước đến giờ chưa thấy qua. Đỗ lão đệ, tam thất này của ngươi đúng là thần kỳ đó!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ha ha! Bột Tam thất là một loại thuốc chữa thương rất hữu hiệu. Có thể nói một cách không quá là, so với tất cả các loại thuốc mà chúng ta đã sử dụng trước đây đều tốt hơn rất nhiều. Không chỉ cầm máu nhanh chóng một cách hữu hiệu, tan ứ sinh tân, hơn nữa còn có đặc điểm cầm máu mà không để lại ứ máu. Đối với các loại xuất huyết, vô luận là có bị ứ đọng hay không đều có thể sử dụng. Đặc biệt là chuyên dùng để chữa trị cho người bị ứ đọng, tắc nghẽn máu.”

Tiễn Bất Thu mỉm cười nói: “Bột Tam thất này của sư phụ có thể nói là đánh đâu thắng đó, hiệu quả trị liệu các loại huyết chứng rất rõ rệt. Nghe nói lần trước cứu chữa cho Lưu bộ khoái bị thương ở tỳ tạng, cũng đã dùng cái này, trì hoãn chảy máu trong, kéo dài thời gi­an mổ bụng liệu thương của sư phụ. Ha ha, nếu tương lai có chiến sự, cho trên chiến trường sử dụng rộng rãi, không biết bao nhiêu tướng sĩ sẽ nhờ nó mà sống sót trở về. Thế không phải là công đức vô lượng sao?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Không chỉ đơn thuần dùng cho ngoại thương do đao kiếm, bột Tam thất này còn có thể phối hợp với các dược liệu khác như Ngũ Long cốt, Huyết Kiệt, chế thành Thất Bảo tán, hiệu quả càng tăng thêm nhiều!”

“Vậy ư? Thế thì đúng là thuốc quý rồi! Ha ha!”

Cung Minh vỗ đùi: “Không sai, lời nói của Tiền đại phu đã nhắc nhở ta, Bạch Y xã của chúng ta có không ít tướng quân trong quân đội, đợi sau khi ta về sẽ nói chuyện với bọn họ, để binh doanh đặt mua một số lượng lớn bột tam thất của ngươi, à không, phối ngũ mà ngươi vừa nói tên là gì ý nhỉ?”

“Thất Bảo tán!”

“Đúng! Thất bảo tán! Đặt mua một lượng lớn của Ngũ Vị đường, để chuẩn bị cho tác chiến, ý ngươi thế nào?”

Đỗ Văn Hạo mừng rơn, đây đúng là một thương vụ lớn, vội vàng chắp tay nói: “Đa tạ lão ca! Việc này nếu làm được, ta sẽ trích một phần hoa hồng cho huynh!”

“Ha ha! Ngươi coi lão huynh ta là loại người gì vậy? Ngươi cứu sống Tĩnh Từ chủ trì, ta còn không biết phải cảm ơn ngươi như thế nào. Hơn nữa còn có thể tạo phúc cho tướng sĩ, trước mắt triều đình đang dụng binh đối với Tây Hạ, nếu những thuốc này được dùng trên chiến trường, biết bao nhiêu tướng sĩ sẽ được lợi nhờ nó. Mua thuốc của ngươi, song phương cùng có lợi mà. Ha ha ha.”

Ba người đều bật cười.

Tiễn Bất Thu vuốt bộ râu trắng, nói: “Nhưng không biết tam thất này của sư phụ có thể trị chứng hư lao huyết khô của Bồ Sơn không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Đương nhiên có thể, chỉ cần là huyết chứng, bất kể là xuất huyết ngoại thương, các loại nguyên nhân thổ huyết, băng lậu, ho ra máu, đại tiện và tiểu tiện ra máu, nội ngoại xuất huyết, bất kể ứ đọng, tắc nghẽn máu như thế nào, đều có thể dùng! Hơn nữa, còn có thể trị liệu té ngã bị thương, ứ máu sưng đau, ta đã dùng bột này để chữa khỏi vết bầm ở khớp xương khuỷu tay cho Lôi bộ đầu. Đối với sự xuất huyết của chứng hư lao huyết khô, Tam thất cũng có thể dùng thêm với Đan Tham, Mẫu Đan bì, cầm máu trừ ứ. Cầm máu không có vấn đề, quay về ta sẽ phối thuốc rồi đưa ngươi chuyển cho bọn họ.”

“Ta thay bọn họ đa tạ sư phụ!”

Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một chút, nói: “Chỉ cầm máu không thì không trị được bệnh của Bồ Sơn, chỉ có thể kéo dài thêm một thời gi­an mà thôi. Hư lao huyết khô của hắn vô cùng nghiêm trọng, phải nghĩ biện pháp trị liệu triệt để từ gốc mới được!”

Cung Minh lắc đầu nói: “Lời này của Đỗ lão đệ ta không tán thành, đã gọi là cấp giả trị tiêu, hoãn giả trị bản (chữa cho người bệnh gấp thì trị từ ngọn, cho người bệnh không gấp thì chữa từ gốc). Hiện tại chứng bệnh của Bồ Sơn chủ yếu có hai điểm, thứ nhất là xuất huyết không ngừng, điểm này bột tam thất của lão đệ có thể giải quyết, nhưng điểm thứ hai cũng chính là sốt cao không giảm, Tiền thần y đã trị liệu hơn một tháng vẫn không có hiệu quả. Đây là điều mà chúng ta phải giải quyết trước tiên, chỉ sau khi cầm được máu, đẩy lui được cơn sốt, giải quyết được vấn đề trị ngọn, sau đó mới trị gốc.”

Tiễn Bất Thu nói: “Lời này rất có lý. Bồ Sơn sốt cao không giảm, cái này gọi là nhiệt giả hàn chi (ý nói bị sốt thì phải làm lạnh để giảm nhiệt), nhưng lão hủ dùng hết các loại thuốc thanh nhiệt giải độc, bao gồm cả cam hàn, khổ hàn giải độc đều không có hiệu quả. Sư phụ có cao kiến gì không?”

Đỗ Văn Hạo nghĩ một chút, nói: “Sốt mãi không giảm, cái này có chút phiền phức, ngươi dùng những thuốc nào?”

“Ngân hoa, Liên kiêu, Công anh, Thạch cao, Tri mẫu, vân vân…hầu hết các loại dược liệu công dụng thanh nhiệt đều đã dùng tới rồi.”

“Cái này…, để ta nghĩ đã, xem xem có thuốc nào khác có thể dùng không.” Trong đầu Đỗ Văn Hạo cố tìm những loại thuốc thanh nhiệt xuất hiện sau Tống triều, những loại thuốc mới này có lẽ có thể có hiệu quả.

Vào lúc Đỗ Văn Hạo đang suy nghĩ, Cung Minh vuốt bộ râu trắng, nói: “Tuy hắn sốt mãi không giảm, nhưng các ngươi có nhớ không, ở trong nhà hắn, chúng ta đã từng cho hắn uống thuốc, hắn lại muốn uống nước lạnh, mùa đông lạnh lẽo như thế này, hắn không ngờ vẫn muốn uống nước lạnh, điều này chúng tỏ hắn trong người rất nóng, nhưng, sau khi chạm vào bát nước lạnh, lại cảm thấy lạnh, lập tức rụt lại, chứng tỏ hắn thật sự rất lạnh, nhiệt trong người chỉ là hư nhiệt. Sao không dùng Phụ tử, Kiền khương, Hồng tham và Cam thảo thử xem?”

Tiễn Bất Thu ngây người, cười ha hả: “Đúng đúng! Ta sao lại bỏ qua những thứ này! Đúng! Hư nhiệt chân hàn! Thật sự là hàn chứng, nhưng lại thấy nóng! Một tháng nay đều dùng các loại hàn dược như Ngân hoa, Liên kiều, Công anh, Tri mẫu, mà không biết hắn thực sự lại bị lạnh, lạnh càng thêm lạnh, tất nhiên không trị được sốt rồi, sư phụ, người cho rằng nên thế nào?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Chỉ sợ không được! Hư lao huyết khô biến chứng cảm nhiễm, dẫn tới sốt cao, đã có nhiệt chứng, nhiệt giả hàn chân, không dùng thuốc lạnh là đúng, bởi vì hắn cảm nhiễm dẫn tới sốt cao, đại phu chủ trương đi ngược lại đạo hành của nó, dùng Phụ tử, Kiền khương. Phụ tử này cay ngọt nóng ấm, có công hiệu bổ nguyên dương, ích hỏa tiêu âm. Kiền khương cay nóng khô gắt, đều là thuốc cực nóng, hắn vốn sốt cao không giảm, có phải là đổ dầu vào lửa không!”

Cung Minh cũng lắc đầu nói: “Sai rồi! Thương Hàn luận có viết, “người sốt cao, ngược lại càng muốn mặc thêm áo, nóng ở trên da, lạnh thì ở trong xương tủy, cái này chính là âm thịnh dương phù. Cho nên, phải hàn giả nhiệt chi.”

Tiễn Bất Thu cũng gật gật đầu.

Đỗ Văn Hạo vốn muốn phản bác, nhưng mở miệng ra thì lại không biết nói như thế nào. Bởi vì hắn cũng đã suy xét cẩn thận những lời nói của Cung Minh, phát hiện bản thân mình không ngờ lại không thể nào phản bác. Lúc trước tình cảnh Bồ Sơn nhận nước sờ sờ trước mắt, đối chiếu với nhận định trong ‘Thương Hàn luận’ của Trương Trọng Cảnh đích xác là hư nhiệt chân hàn, nên dùng nhiệt dược chứ không phải là hàn dược. Mình lại cứ giới hạn trong mê hồn trận của Tây y là do thiếu máu và ngăn cản máu tái sinh dẫn tới cảm nhiễm, dùng suy nghĩ Tây y để chỉ đạo dùng thuốc Trung y, mà lại không có dùng Trung y để biện chứng, không khỏi có chút xấu hổ. Thầm nghĩ, hai lão Trung y này kinh nghiệm lâm sàng hơn xa mình, biện chứng tỉ mỉ chuẩn xác, mình sau này phải học tập thêm nhiều từ chỗ bọn họ.

Nghĩ tới đây, Đỗ Văn Hạo xấu hổ chắp tay nói: “Đúng đúng! Là ta đã nghĩ sai. Vậy chúng ta sẽ dùng phương thuốc này của Cung đại phu đi!”

Tiễn Bất Thu nói: “Sau khi cầm máu, làm giảm sốt, làm sao để trị liệu chứng hư lao huyết khô của hắn, chúng ta cũng phải thương lượng một chút. Trước tiên ta nói những loại thuốc mà ta trước kia đã dùng. Dụng phương chủ yếu là bổ cho tim tỳ và bổ huyết bổ khí, dụng thuốc hơn một tháng rồi, vẫn không có hiệu quả gì.”

Cung Minh liếc Đỗ Văn Hạo, cười nói: “Đỗ lão đệ dụng phương độc đáo, ngươi nói sau cùng đi, để tránh cho ta nghe xong cách dụng phương biện chứng của ngươi, bản thân lão ca ta lại trở nên hồ đồ.”

Tiễn Bất Thu và Đỗ Văn Hạo đều cười.

Chương 108: Phu nhân bị đau khớp.

Cung Minh vuốt râu, nói: “Bệnh do xuất hiện lâu ngày mà thành huyết hư là điều tất nhiên, nhưng người đã bị thương quá mức, chứng huyết khô của hắn đã có hiện tượng âm dương thoát li, không cứu nghịch thì không được. Trừ bổ huyết bổ khí ra, lão hủ thật sự không nghĩ ra được biện pháp nào khác có thể trị bệnh này.”

Tiễn Bất Thu gật đầu nói: “Có đạo lý, cứu nghịch và đồng thời bổ khí bổ huyết. Sư phụ, người thấy thế nào?”

Cung Minh ha hả cười nói: “Không cần phải hỏi, cách nghĩ của hắn khẳng định là khác với hai lão gia hỏa chúng ta.”

Đỗ Văn Hạo cười cười, nói: “Xấu hổ quá, cách nghĩ của ta và của hai vị đích thực là có chút không giống nhau. Ta cho rằng, huyết hư chỉ là biểu hiện của bệnh này mà thôi, là hậu quả của hư lao chứ không phải là nguyên nhân. Nếu chỉ bổ huyết khí, thì là trị ngọn chứ không phải trị gốc.”

Tiễn Bất Thu và Cung Minh nhìn nhau, Cung Minh cười nói: “Thấy chưa? Ta nói có sai đâu? Đỗ lão đệ, ngươi nói tiếp đi, như thế nào mới có thể trị cả ngọn lẫn gốc?”

Trị liệu chứng thiếu máu không thể tái sinh luôn luôn là một nan đề lớn phải đối mặt trong cộng đồng Trung Tây y. Trung y đối với việc trị loại bệnh này đã trải qua một quá trình phát triển dài đằng đẵng, từ cổ đại đến hiện tại, trong một thời kỳ lịch sử rất dài, tận đến khi Trung Quốc hiện đại được thành lập, phương pháp gần như đều lấy bổ dưỡng khí huyết làm chủ. Về sau, theo sự phát triển của khoa học nghiên cứu Trung y, xuất hiện thêm phương pháp bổ tì thận hoặc là bổ gan thận.

Sau này Trung Tây y kết hợp khai triển, phát hiện cơ chế phát bệnh thiếu máu không thể tái sinh chủ yếu là có liên quan tới thận, đại đa số thuộc về thận âm hao tổn, khí huyết đều hư nhược. Thế là, xuất hiện phương pháp lấy việc tư âm bổ thận làm chủ, kiêm bổ khí dưỡng huyết. Đây là cách nghĩ chủ yếu trong cách trị liệu của Trung y, cho nên Đỗ Văn Hạo quyết định bắt đầu từ quan điểm này.

Đỗ Văn Hạo nói: “Bệnh này tim đập nhanh và bị hụt hơi, cả người vô lực, sắc mặt trắng xanh, môi nhợt nhạt, giáp sàng (lớp da dưới móng tay và móng chân) trắng bệch, tay chân nóng rực, đổ mồ hôi trộm, răng, mũi, và dưới da bị chảy máu, mạch đập yếu, lưỡi nhạt. Huyết thuộc âm, âm hư bao gồm cả huyết hư, tâm huyết không đủ, tâm dương lại cao, cho nên tim đập nhanh. Huyết lại là mẹ của khí, huyết hư thì khí cũng hư, cho nên bị hụt hơi, vô lực. Máu không đủ cung cấp cho da, cho nên sắc mặt trắng xanh, môi nhợt nhạt, giáp sàng trắng bệch; âm hư huyết hư sinh ra nóng trong cho nên thấy chân và tay đều nóng; hư nhiệt tổn thương tuyến nước bọt, cho nên khát nước. Nhiệt làm tổn thương huyết lạc hoặc bức máu chảy lung tung, cho nên nhiều bộ vị bị xuất huyết. Mạch đập yếu là vì hiện tượng âm hư nội nhiệt. Tổng kết lại các chứng trên, biện chứng là thuộc thận âm hư nhược.”

Cung Minh và Tiễn Bất Thu liên tục gật đầu. Cung Minh hỏi: “Đỗ lão đệ chỉ nói biện chứng, chưa nói phải trị cả gốc lẫn ngọn như thế nào?”

“Tư âm bổ thận!”

“Tư âm bổ thận?” Cung Minh và Tiền Bất Thu hai người đều ngây ra.

“Không sai! Dùng tư âm bổ thận phương phối hợp với đương quy bổ huyết thang gia giảm. Các gọi là âm không sinh thì dương không trường, dương sinh thì âm trường. Cho nên trong phương thuốc dùng bổ âm làm chủ, còn cần phải thêm một ít thuốc bổ dương. Ý ở dương sinh âm trường.”

Cung Minh gi­ang hay tay ra, cười nói: “Hay cho một câu tư âm bổ thận! Dùng phương pháp này trị chứng hư lao huyết khô lão ca ta lần đầu tiên nghe thấy. Đỗ lão đệ đúng là dám đi trước thiên hạ đó! Phương pháp của Tiền đại phu và dụng phương của ngươi đều là thay thang không thay thuốc. Cách làm bổ khí huyết đã không được, không bằng chúng ta cứ thử làm theo cách của Đỗ lão đệ xem sao?”

Tiễn Bất Thu gật đầu mỉm cười: “Ừ, phương pháp này của sư phụ tuy chưa từng được nghe thấy, nhưng lại rất có lý, cứ thử một lần xem!”

Ba người thỏa thuận trước tiên cứ cầm máu, sau đó tư âm bổ thận để trị hư lao huyết khô. Sau khi đã quyết định phương pháp sử dụng, hiển nhiên Tiễn Bất Thu là người đi chuẩn bị.

Ban đêm tuyết rơi nhiều, sáng ngày hôm sau rốt cuộc cũng ngừng rơi, chỉ là sắc trời vẫn âm u.

Ngô Thông và Ngốc Béo sáng sớm đã dậy xúc tuyết ở ngoài cửa, nền đá xanh ngoài cửa đã phủ một lớp băng mỏng, rất nguy hiểm, phải phá băng ra sớm đễ tránh cho bệnh nhân bị ngã. Bệnh nhân và gia thuộc đến lấy số cũng giúp đỡ quét tuyết, rất nhanh liền dọn ra được một con đường.

Anh Tử nhóm ba chiếc lò ở đại đường, môt lò để Đỗ Văn Hạo khám bệnh, một lò cho Ngốc Béo, Ngô Thông đứng ở quầy, còn một lò lớn thì để cho các bệnh nhân đang xếp hàng khám bệnh.

Sau khi Đỗ Văn Hạo ngủ dậy, liền xem xét và khám lại cho bệnh nhân nằm viện. Nhi tử Ngật Đáp của Diêm Diệu Thủ đã có thể xuống giường hoạt động, chỉ là vết thương của nó thuộc về bệnh truyền nhiễm, trước khi hoàn toàn bình phục không thể rời khỏi phòng bệnh cách ly. Vết thương đã thối rữa của Chu bộ khoái là nghiêm trọng nhất, cho nên khôi phục cũng rất chậm, nhưng thần trí đã tỉnh táo hơn, cũng có thể ngồi dậy, nói chuyện và ăn cơm rồi. Tĩnh Từ chủ trì đã có thể ăn uống như bình thường, không cần ai đỡ cũng có thể đi lại chầm chậm.

Chỉ là Không Huệ bị trúng gió có chút phiền phức, cho dù người đã tỉnh tảo, nhưng bệnh liệt nửa người và nói năng hàm hồ rõ ràng vẫn chưa có chuyển biến tốt. Loại bệnh này không phải chỉ hai ba ngày là có thể chữa khỏi. Đỗ Văn Hạo căn cứ vào biện chứng phục chẩn, tiến hành điều chỉnh dược phương.

Lâm Thanh Đại vẫn luôn phụ trách công trường ở hậu viện, trước mắt tất cả đều tiến triển thuật lợi. Vợ của Bồ Sơn sáng sớm đã tới Tể Thế đường để lấy thuốc mà hôm qua ba người bọn Đỗ Văn Hạo đã kê.

Hai ngày sau, Đỗ Văn Hạo và Tiễn Bất Thu, Cung Minh mang thuốc tư âm bổ thận mà Đỗ Văn Hạo đã kê đến thôn Ba Cây Liễu, phục chẩn cho Bồ Sơn.

Sau khi uống thuốc lần trước đã kê, Bồ Sơn đã giảm sốt, hơn nữa xuất huyết cũng rõ ràng đã giảm bớt. Bồ lão hán dùng tiền mà lần trước bọn Đỗ Văn Hạo quyên tặng mua một chút gạo về nấu cháo cho Bồ Sơn ăn, đã không còn ăn rễ sắn nữa rồi.

Sau khi ba người phục chẩn, đều cho rằng phương thuốc kê rất đúng, liền để Bồ Sơn bắt đầu phục dùng thuốc tư âm bổ thận.

Bồ lão hán mặt tươi cười nói: “Tiền thần y, có thể kê thêm ít thuốc không?”

“Vì sao?” Tiễn Bất Thu hỏi.

“Là thế này, lão hán ta có một đệ đệ, sống nhờ ở Lưu gia, hôm qua nhờ người mang thư đến nói rằng hắn bị bệnh, bệnh rất nặng, muốn gặp ta, nhưng bên kia lại không cho đi ra ngoài. Sau khi thương lượng, quyết định cả nhà sang đó sống ít ngày, cũng để chiếu cố cho hắn, đến hết năm mới về. Cho nên, ta muốn xin thêm một ít thuốc để mang theo, khỏi phải chạđi chạy lại vào thành để lấy thuốc.”

Tiễn Bất Thu nói: “Kê thêm ít thuốc cũng được, nhưng không thể quá nhiều, bởi vì phải căn cứ vào tình hình của bệnh nhân để tùy thời điều chỉnh dùng thuốc, không thể chỉ dựa vào một phương thuốc để chữa khỏi triệt để bệnh của nhi tử lão. Đợi một chút lão sai người theo ta về thành, lão hủ sẽ kê thêm mấy thang cho lão, đợi bệnh tình đỡ hơn một chút, có thể hoạt động thì lại vào thành một chuyến. Chúng ta phục chẩn và điều chỉnh dùng thuốc.”

Bồ lão hán luôn miệng cảm tạ.

Sang ngày thứ ba.

Sáng sớm, sau khi Đỗ Văn Hạo ngủ dậy liền tới phục chẩn cho những người nằm viện. Phát hiện nhi tử Ngật Đáp của Diêm Diệu Thủ và vết thương của Chu bộ khoái đã khép lại, không còn dấu hiệu viêm nhiễm nữa, sau khi dặn dò những việc cần chú ý thì cho bọn họ ra viện về nhà điều dưỡng.

Trong đường chỉ còn lại Tĩnh Từ chủ trì và Không Huệ sư thái nằm viện để trị liệu.

Đỗ Văn Hạo tới đại đường bắt đầu khám bệnh. Hôm nay thời tiết rất lạnh, bệnh nhân không nhiều, Đỗ Văn Hạo liền vừa khám bệnh vừa giải thích y lý cho nhị nữ.

Bệnh nhân đầu tiên là một phu nhân trung niên ba mươi tuổi, dưới sự giúp đỡ của người nhà từ sáng sớm đã xếp hàng đợi khám bệnh, lấy số đầu tiên, rên rỉ ngồi cạnh bàn.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Không khỏe chỗ nào?”

Phu nhân trung niên hơi hé miệng, hàm hàm hồ hồ nói: “Đau khớp! Đau muốn chết luôn…, ối trời…”

“Khớp nào đau?”

“Cả người đều đau! Dưới cằm, tay, cả đầu gối nữa!”

Đỗ Văn Hạo sờ vào cằm bà ta, khẽ động một cái, phu nhân trung niên lập tức rên to hơn: “Ái chà…!”

“Không há miệng to ra được à?”

“Không…”

Đỗ Văn Hạo cầm tay của phu nhân trung niên đó, chỉ thấy khớp xương ở ngón giữa và ngón chỏ bàn tay phải của bà ta to như cái chày gỗ nhỏ, xương cổ tay sưng phù biến hình, sờ vào cảm thấy nóng rực, ấn một cái, phu nhân trung niên đau đến nỗi hét toáng lên, vén ống quần lên thấy đầu gối cũng sưng phù biến hình.

“Khớp xương của bà sưng bao lâu rồi?”

“Ba bốn tháng rồi.”

“Sao giờ mới tới khám bệnh?”

“Lúc đầu không nặng, ta cho rằng chỉ là bị cảm lạnh mà thôi, uống thuốc cũng không thấy đỡ, đau lắm, tới Nhân Nghĩa đường tìm Hứa đại phu, kê một ít thuốc, đau nhức cũng đỡ đi một chút. Nhưng uống hết rồi lại đi khám, mới biết Hứa đại phu cũng bị bệnh, trong thời gi­an ngắn không thể tọa đường khám bệnh. Những đại phu khác trong Nhân Nghĩa đường ta không tin tưởng, cho nên cứ chiếu theo phương thuốc đã kê mà lấy thuốc về uống. Kết quả là không có hiệu quả, càng lúc càng đau. Hôm qua trời đổ tuyết, đau đớn vô cùng, ta nghe người ta nói, Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường ngài thông thạo thần kỹ mổ bụng liệu thương của Hoa Đà, hơn nữa còn giỏi trị liệu các chứng nan y, cho nên sáng nay đến đây.”

“Ừ, còn chỗ nào không khỏe nữa?”

“Sốt, đau họng…, miệng khô.”

Đỗ Văn Hạo sau khi chẩn mạch và nhìn lưỡi cho bà ta, giải thích cho Bàng Vũ Cầm ở bên cạnh: “Lưỡi đỏ, bựa lưỡi vàng, mạch đập yếu, đây là phong hàn xâm nhập vào kinh lạc, lưu lại ở khớp xương, hóa thành nhiệt tý.”

Tuyết Phi Nhi ở bên cạnh nói: “Không đúng, trời lạnh thế này, phong hàn thấp tà xâm nhập, phải lạnh mới đúng chứ, sao lại sốt?”

Đỗ Văn Hạo bật cười, nói: “Ngươi tưởng là giống như tưới nước, lúc tưới nước lạnh vào thì là lạnh sao? Tý chứng (bệnh đau khớp xương do phong, hàn, thấp khớp) ngoại trừ loại nhiệt tý ra thì quả thực còn hàn tý và hàn nhiệt hỗn hợp nữa. Loại khác nhau thì cách chữa cũng khác nhau. Sự khác nhau của ba loại này chính là có phát sốt hay không, loại nhiệt tý thì phải thanh nhiệt giải độc làm mát máu, loại hàn tý thì làm ấm kinh mạch, trừ đi cái lạnh và thông kinh mạch.”

Bàng Vũ Cầm nói: “Ta nghĩ mau trị cho bà ta trước đã, nhìn bà ta đau quá kìa.”

Tý chứng cũng chính là loại viêm khớp mãn tính, là một loại bệnh bản thân có tính miễn dịch, từ góc độ Tây y mà nhìn, nguyên nhân của bệnh này luôn không rõ ràng. Từ phương diện trị bệnh, bất kể là Trung y hay Tây y đều thuộc vào loại bệnh chứng khó chữa, cho đến nay vẫn chưa có phương pháp trị liệu đặc biệt. Trị liệu cũng chỉ giới hạn trong làm thuyên giảm các triệu chứng như khớp xương đau nhức và thần cương (sáng sớm thức dậy hoặc khi lâu không hoạt động thì các khớp xương bị tê cứng), khống chế bệnh tình phát triển, bảo trì và khôi phục công năng của khớp xương. Do Tây dược sẽ dẫn tới việc làm tổn thương nghiêm trọng dạ dày, gan, thận và thần kinh, nên ở phương diện này Trung y so với Tây y hiệu quả trị bệnh rõ rệt hơn nhiều, tác dụng phụ cũng ít hơn.

Đỗ Văn Hạo nói với phu nhân trung niên: “Ta trước tiên sẽ châm cứu giảm đau cho bà, sau đó dùng thuốc và từ từ điều dưỡng, bệnh ngày không được gấp, đau đớn vô cùng, bà sẽ phải thường tới để châm cứu giảm đau, kiên trì dùng thuốc, một đoạn thời gi­an sau sẽ có thể thuyên giảm.”

“Hay quá! Đa tạ Đỗ đại phu.”

Đỗ Văn Hạo bảo bà ta nằm lên giường, châm cứu các huyệt như Hạ quan ở khớp xương hàm, Dương trì, Dương cốc, Dương khê ở khớp xương cổ tay, Bát tà ở khớp ngón tay, Tất nhãn, Khúc tuyền, Tất dương quan, Dương lăng tuyền ở khớp đầu gối. Châm cứu khoảng một nén hương thì thu châm lại.

Phu nhân trung niên hoạt động cổ tay: “Ối, không đau nữa rồi. Ha ha, Đỗ đại phu ngài đúng là thần đó! Ấy, ta nói cũng lưu loát hơn rồi.”

Chương 109: Xà trùng dược.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Bà đi thử xem!”

Phu nhân trung niên ngồi dậy bước xuống giường, từ đi mấy vòng, vui mừng nói: “Thoải mái lắm! Đã lâu rồi không được thoải mái như thế này! Tuy vẫn hơi đau, nhưng so với đêm qua thì tốt hơn nhiều rồi. Cám ơn Đỗ đại phu!”

“Ha ha, đây chỉ là giảm đau tạm thời, chỉ đỡ được mấy ngày thôi, phải kê thuốc uống, chỉ có thuốc mới có thể làm giảm đau đớn từ tận gốc rễ.”

“Được!” Phu nhân trung niên tự mình đi tới cạnh bàn rồi ngồi xuống.

Đỗ Văn Hạo đọc đơn thuốc, Bàng Vũ Cầm chép lại, đưa tới quầy thuốc để lấy thuốc.

Đi theo giúp đỡ phu nhân trung niên là một tiểu hài tử bảy tám tuổi, đang nhoài người lên quầy thuốc để nhìn Ngô Thông lấy thuốc, thấy Ngô Thông từ trong quầy lấy ra mấy con rắn năm màu sặc sỡ quấn lại thành vòng, sợ đến nỗi chạy ngược về nấp sau người mẫu thân: “Mẹ! Rắn, có rắn!”

Phu nhân đó giật nảy mình, mặt trắng bệch nhìn xung quanh: “Rắn ở đâu?”

Tiểu hài chỉ lên bàn: “Ở đó! Trong thuốc ý!”

Phu nhân lúc này mới biết là phương thuốc có dùng rắn làm thuốc. Có điều sắc mặt càng trắng hơn, nói với Đỗ Văn Hạo: “Đại phu, thuốc này…, phải dùng rắn à?”

“Ừ. Sao vậy?”

“Ta…Cái này…Có thể đổi thuốc không?”

“Vì sao?”

“Ta từ nhỏ sợ nhất là rắn…”

“…”

Tiểu hài tử đó thấy con rắn không động đậy, cũng biết là đã chết rồi, được dùng làm thuốc. Thu hết can đảm bước tới quầy thuốc, ngẩng cái đầu nhỏ lên nhìn Ngốc béo, hỏi: “Đây là rắn gì vậy?”

“Rắn hoa trắng và rắn độc.”

Tiểu hài tử chăm chú nhìn con rắn đó một lúc, vừa khẩn trương vừa hiếu kỳ, quay đầu lại thì thấy Ngốc Béo từ trong quầy thuốc nhấc ra mấy con rết dài dài và bò cạp cong cong, sợ hãi chạy về nấp sau mẫu thân: “Mẹ! Còn có…, còn có rết và bò cạp nữa!”

Phu nhân đó sợ đến nỗi sắc mặt lại trắng bệch, run rẩy nói: “Đại phu…thuốc…, thuốc này ta không dám uống…”

Đỗ Văn Hạo xòe hai tay ra: “Chẳng có cách nào khác cả, bệnh của bà là nhiệt tý, trị bệnh này phải loại bỏ hết phong hàn trong kinh lạc, loại xà trùng dược này không thể thiếu được.”

“Không thể dùng thuốc khác à? Ta thật sự là sợ xà trùng lắm. Không dám uống đâu!”

“Thuốc khác ta cũng kê rồi, thang bạch hổ gia quế gia giảm, thanh nhiệt táo thấp, khư phong tán hàn.”

Trượng phu của phu nhân đó cười bồi, nói: “Đại phu, không uống thang thuốc này thì không được à? Xà trùng dược đó, trước đây Hứa đại phu khám bệnh, cũng chỉ kê thuốc cho lão bà của ta, không có kê xà trùng gì đó cả. Bởi vì bà ta thực sự rất sợ xà trùng, nhìn thấy thôi là cả người run rẩy rồi. Được không?”

“Đương nhiên không được! Bệnh tà của lão bà nhà ông đã thâm nhập vào kinh toại, nếu như chỉ dùng thuốc khư phong tán hàn trừ thấp, sẽ không có hiệu quả gì, ngược lại còn làm bệnh tình nặng thêm. Phương thuốc mà Hứa Tứ Hải trước kia kê cho bà ta không có những xà trùng này, nếu không phải là y thuật thuật của hắn tầm thường, thì cũng là lúc đó tà độc của bà ta chưa thâm nhập vào kinh toại, có thể không dùng xà trùng được để thấu cốt sưu phong, hơn nữa, thuốc của hắn không phải là không có tác dụng sao? Cho nên xà trùng dược này không thể thiếu được.”

Phu nhân đó bật khóc: “Nhưng…ta thật sự rất sợ xà trùng…”

“Bệnh của bà rất nặng, phải dùng xà trùng dược mới có thể đạt được hiệu quả, rắn hoa trắng và rắn độc này đều có thể trục gió và làm thông kinh lạc, đối với bệnh cứng và sưng khớp xương và của bà, phải sử dụng xà trùng dược để thấu cốt sưu phong, bớt sưng giảm đau. Không có những loại thuốc này, không trị khỏi được bệnh của bà!”

Bàng Vũ Cầm ở bên cạnh nói ra chủ ý: “Tiên sinh, không bằng xay vụn số thuốc này ra, không nhìn thấy thì không sợ nữa!”

Phu nhân đó trù trừ một hồi, hỏi Đỗ Văn Hạo: “Thế được không?”

“Làm thành thuốc bột cũng được!” Đỗ Văn Hạo quay đầu nói với Ngốc Béo: “Lấy xà trùng dược ra, xay vụn rồi dùng vải sô quấn lại bỏ vào trong thuốc.”

Ngốc Béo vâng lời, chạy đi bào chế.

Phu nhân nghe nói đã xay vụn ra còn dùng vải sô gói lại, nhìn không thấy xà trùng, mới hơi yên tâm, dẫu sao nghĩ tới bên trong có xà trùng, trong lòng vẫn có chút sợ sệt. Nhưng đại phu đã nhiều lần nhấn mạnh, đây là thuốc bắt buộc để trị bệnh cho mình, không thể bỏ đi, nếu không thì không chữa được bệnh. Tới lúc uống chỉ đành bịt mũi mà nuốt thôi.

Sau khi cầm thuốc và trả tiền, cám ơn Đỗ Văn Hạo, phu nhân cũng không cần trượng phu đỡ nữa, chầm chậm bước đi.

Bệnh nhân thứ hai cũng một phu nhân trung niên, chỉ là béo gấp đôi so với vị trước. Bà ta bước tới, nói: “Đỗ đại phu, ta cũng bị tý chứng, ta không sợ xà trùng, ngài cứ kê đi!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Không phải mọi bệnh chứng đều cần dùng xà trùng dược, ta khám cho bà đã rồi nói. Bà không khỏe chỗ nào?”

“Bảo rồi, ta cũng bị tý chứng như bà ta, có điều thời gi­an mắc bệnh thì lâu hơn, khớp xương của ta sưng tấy đã hơn ba năm rồi, cầu y vấn dược rất nhiều, đỡ rồi lại đau, đau rồi lại đỡ, cứ thế mãi, gần một tháng nay thì đặc biệt đau đớn, cũng nghe nói là Đỗ tiên sinh có thể trị nan tạp chứng, cho nên tới tìm ngài khám.”

Phu nhân này tính cách rất thoải mái, Đỗ Văn Hạo cười nói: “Bà nói cụ thể một chút, đau ở đâu?”

“Lúc mới đầu thì khớp xương tay trái sưng tấy, không nắm tay lại được. Sau khi dùng khăn ấm đắp lên thì đỡ hơn một chút, nhưng không lâu sau thì cả hai cổ tay, ngón tay đều sưng tấy. Ngài xem!”

“Có sốt không?”

“Sốt thì không có, tìm đại phu lấy một ít thuốc cũng không tốt hơn. Qua mấy tháng thì đau vô cùng, khớp xương ở hai tay và hai chân đều đau, đặc biệt là sáng sớm, khi ngủ dậy khớp xương đều cứng ngắc, hai tiếng sau mới đỡ dần, không làm được gì cả. Lại đi tìm đại phu khám, uống thuốc một đoạn thời gi­an, không có hiệu quả gì. Năm nay vừa đầu năm đã bắt đầu, khớp xương toàn thân trên dưới đều sưng đau muốn chết người, đi lại là đau, nằm thì còn đỡ hơn một chút. Tới Tể Thế đường tìm Tiền thần y khám, uống thuốc vào thì đỡ được một đoạn thời gi­an. Nhưng gần một tháng nay lại bị lại, đau đớn hơn nhiều, chân tay đau nhức không dám hoạt động, toàn thân phát nhiệt, còn bị rụng tóc nữa. Tiếp theo uống thuốc của Tiền thần y cũng không có hiệu quả gì, vốn muốn lại tới tìm Tiền thần y khám, nhưng nghe nói Tiền thần y còn bái Đỗ đại phu ngài làm sư phụ, sau khi thương lượng, không bằng trực tiếp tới tìm ngài khám. Cho nên mới tới đây.”

“Ngủ thế nào?”

“Ngủ không ngon, cảm giác khô nóng, trong khi ngủ còn đổ mồ hôi nữa.”

“Kinh nguyệt nhiều hơn hay ít hơn? Mùi vị thế nào?”

“Lượng kinh nguyệt nhiều và màu đậm hơi, có mùi khó ngửi.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Đây đúng là tý chứng, là phong thấp nhiệt tý hơn nữa còn có khí hư. Ta sẽ kê cho bà Đương quy niêm thống thang gia giảm.”

“Không kê xà trùng dược à? Có được không đó?”

“Bệnh của bà cho dù thời gi­an rất dài, nhưng không cần dùng xà trùng dược.”

“Vì sao?”

“Trị tý chứng không nhất định phải dùng xà trùng dược, phải căn cứ vào tình huống biện chứng. Bà yên tâm đi, cho dù không dùng xà trùng dược, vẫn có thể trị được bệnh của bà. Hiện tại nếu quá đau đớn, ta có thể châm cứu giảm đau cho bà.”

“Vậy thì tốt quá!”

Đỗ Văn Hạo sau khi giúp bà ta dùng châm cứu, đau đớn quả nhiên giảm bớt đi rất nhiều, sau khi kê thuốc, phu nhân mập này mới ra về.

Bệnh nhân tiếp theo là một người trẻ tuổi, mặt sưng phù như đầu heo, hổn hà hổn hển bước tới ngồi xuống ghế, chỉ vào khuôn mặt sưng tấy biến hình, mắt híp lại thành một đường của mình, lớn tiếng nói: “Đỗ đại phu kê thuốc gì cho ta đấy, sao uống vào lại thành thế này?”

Đỗ Văn Hạo nhìn hắn: “Ngươi đã từng tới khám bệnh à?”

“Đương nhiêu rồi, trước đây đã từng đến khám, chính là ngươi kê thuốc đấy!”

“Ngươi đừng gấp, để ta xem đã.” Đỗ Văn Hạo tra lại bản đăng ký, “Ngươi tên là gì? Được kê thuốc lúc nào? Bệnh gì?”

“Ta tên là Từ Huyền, khám khoảng năm sáu ngày trước. Ngươi lúc đó nói ta bị khí huyết lưỡng hư.”

“À, tìm thấy rồi, không sai, Từ Huyền, khí huyết lưỡng hư, kê tiểu kiến trung thang, sao lại thành thế này?”

“Ta còn muốn hỏi ngươi đây?” Người trẻ tuổi này rất nóng tính, chỉ vào đầu mình, nói: “Chính là uống thuốc của ngươi mới biến thành đầu heo thế này đấy!”

Đỗ Văn Hạo chăm chú nhìn đầu hắn: “Ngươi đây là quá dị…, à không phải mụn gió, ngươi trước đây từng chạm vào hoặc là ăn thứ gì mà thành thế này không?”

“Không có! Mấy ngày trước vẫn khỏe, đột nhiên lại thành thế này, ngươi kê thuốc kiểu gì vậy? Ta sẽ kiện các ngươi đó!”

Đỗ Văn Hạo chăm chú nhìn đơn thuốc được ghi trên bản đăng ký: “Không đúng! Ta kê hai thang thuốc cho ngươi, bảo ngươi uống hai ngày, theo đạo lý thì ngày hôm kia đã uống xong rồi chứ. Sau khi uống xong ngươi có tới khám lại không?”

“Không! Uống thuốc xong, ta cảm thấy hiệu quả không tồi, tinh thần tốt hơn, chân tay cũng không đau mỏi nữa, cũng ăn ngon ngủ ngon, cho nên, ta lại lấy thêm hai thang nữa để uống, kết quả thành thế này!”

“Ngươi lấy thuốc ở đâu?”

“Ở…ở nhân Nhân Nghĩa đường…”

“Nhân Nghĩa đường của Hứa Tứ Hải?” Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Ngươi khám bệnh ở đây, sao lại tới chỗ hắn lấy thuốc?”

“Cái này…Đỗ đại phu, thật xin lỗi.” Người trẻ tuổi lắc cái đầu sưng tấy, áy náy nói: “Nhà ta ở gần Nhân Nghĩa đường, ta lười đi, cho nên tới chỗ gần để lấy thuốc. Ha ha, ta xin lỗi. Đỗ đại phu, ngài giúp ta chữa cái đầu heo này đi, phì phì, sưng tấy thế này, ta sẽ bồi thường gấp đôi tiền khám bệnh!”

“Không cần phải thế, chúng ta cũng không phải là không cho bệnh nhân lấy thuốc ở chỗ khác, bệnh nhân tự nguyện lấy thuốc ở đâu cũng được. Ta hỏi ngươi, ngươi ở chỗ hắn lấy thuốc cũng án theo phương thuốc của ta chứ?”

“Đó là đương nhiên rồi! Ta đưa phương thuốc cho bọn họ án theo mà chọn thuốc!” Người trẻ tuổi đó hơi chững lại, bồi thêm một câu: “Có điều, trong tiệm thuốc của bọn họ không có đường mạch nha, tên phục vụ nói có thể dùng mật ong để thay thế, cho nên chọn phong mật.”

“Thuốc khác thì sao? Có đổi không?”

“Không! Tuyệt đối án theo phương thuốc để chọn. Chỉ là không có đường mạch nha, cho nên đổi thành mật ong, đều ngọt cả mà, có quan trọng gì đâu.”

Đỗ Văn Hạo cười khổ, thở dài: “Không quan trọng ư? Quan trọng lắm đó! Ta hỏi ngươi, ngươi có phải là phục dụng thuốc lấy từ đường của bon họ về cho nên mới phát bệnh, đúng không?”

Người trẻ tuổi nghĩ một lát, gật đầu: “Ừ, lần đầu tiên uống mặt bắt đầu hơi ngứa, ta cũng không để ý, uống lần thứ hai thì nặng hơn.”

“Vậy thì đúng rồi, ngươi trước đây có phải dị ứng với mật ong không? Ăn xong thì trên mặt bị sưng tấy đúng không?”

“Ta chưa từng ăn, trong nhà ăn còn không đủ, làm gì có tiền mà mua đồ ăn sang thế.”

“Ngươi trách sai ta rồi, bệnh này chính là do mật ong dẫn tới mắc bệnh ngoài da. Bởi vì các thuốc khác đều không thay đổi, duy chỉ có đường mạch nha đổi thành mật ong. Khi ngươi uống đường mạch nha thì không sao, đổi thành mật ong thì mặt mới sưng tấy. Chứng tỏ rất có khả năng chỉ là vì mật ong mà có vấn đề. Ngươi không nên tự mình đổi thuốc. Đường mạch nha là đường mạch nha, tuyệt đối không thể đổi thành mật ong, như vậy không chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả của thuốc, nói không chừng còn xảy ra sự cố, mặt ngươi chính là kết quả của việc đổi thuốc linh tinh đó!”

Người trẻ tuổi gật đầu liên tục, áy náy xin lỗi luôn miệng, rồi hung hăng nhìn ra phía Nhân Nghĩa đường ở ngoài cửa: “Chính là vì tên tiểu nhị của Nhân Nghĩa đường đã xúi giục ta, mẹ nó, các ngươi không xong với lão tử đâu!”

Chương 110: Danh y khởi bộ.

Đỗ Văn Hạo kê thuốc chống dị ứng cho hắn, bảo phải lập tức uống ngay. Sau khi được Ngốc Béo giúp đỡ uống thuốc một lúc, bệnh trạng trên mặt, trên người hắn bắt đầu giảm bớt, khiến hắn hết sức vui mừng.

Sau đó Đỗ Văn Hạo lại chẩn mạch, kê thuốc bổ khí huyết cho thanh niên nọ. Bệnh nhân này cảm tạ luôn miệng, trả tiền thuốc rồi ôm túi thuốc bước đi.

Lúc này, ngoài đường chợt vang lên tiếng vó ngựa, ngay lập tức có mấy cỗ xe ngựa đi đến, dừng ở trước cửa.

Có thể ngồi trên xe này, không phải là người trong quân đội thì cũng là quan lại. Đỗ Văn Hạo ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy từ trên xe có mấy người bước xuống, chính là thần y Tiền Bất Thu và hai đồ đệ, ngoài ra còn có mấy nam nhân tay đong đưa phất trần, dưới cằm nhẵn thín, rất giống thái giám trong điện ảnh.

Đỗ Văn Hạo rất kinh ngạc, đứng dậy nghênh đón.

Tiền Bất Thu sau khi tiến vào và làm lễ với Đỗ Văn Hạo, vội vàng giới thiệu song phương với nhau. Quả nhiên, mấy vị này chính là thái giám trong cung. Mấy vị thái giám nghe nói Đỗ Văn Hạo còn trẻ như vậy mà không ngờ lại là sư phụ của Tiền Bất Thu, đều rất kinh ngạc, tỏ ra rất kính cẩn với Đỗ Văn Hạo.

Tiền Bất Thu nói: “Sư phụ! Mấy vị công công từ trong cung tới này nói, hài tử của Kỳ Quốc Trường công chúa bị bệnh, nghe nói lão hủ thiện trường nhi khoa, đặc biệt mời lão hủ tới khám bệnh cho hài tử. Lão hủ không dám tùy tiện đáp ứng, đặc biệt tới hỏi ý sư phụ.”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười, người đọc y sử đều biết, Tiền Ất chính là từ việc chữa khỏi cho nữ nhi của vị Kỳ Quốc Trường công chúa này mà bắt đầu vang danh thiên hạ, trở thành danh y một đời, không ngờ mình lại được chứng kiện sự thành danh lão, nói: “Trị bệnh cứu người là điều phải làm, huống chi lại là hài tử của Kỳ Quốc Trường công chúa, ngươi đi đi, chữa bệnh cho tốt.”

“Vâng, sư phụ” Tiền Bất Thu chắp tay, “Lần này lão hủ mang theo Diêm Diệu Thủ vào kinh, trong đường chỉ còn lại Hàm Đầu, hắn nếu có bệnh án không xử lý được, xin sư phụ chiếu cố nhiều hơn.”

“Ngươi yêu tâm, ta sẽ làm vậy.”

“Đa tạ sư phụ, không biết sư phụ còn có chỉ thị gì không?”

Đỗ Văn Hạo nhớ tới sử liệu có ghi chép, thần y Tiền Ất này sau khi chữa khỏi bệnh cho nữ nhi của Kỳ Quốc Trường công chúa thì sẽ trị bệnh động kinh cho Hoàng Thái tử. Mà bệnh này của Hoàng Thái tử rất kỳ quái, tất cả thái y đều thúc thủ vô sách. Ban đầu Tiền Ất cũng tìm không ra biện pháp trị liệu, nóng ruột lo lắng tới mức miệng bỏng rộp lên, liền chạy tới thái y viện trù phòng muốn nấu canh đậu xanh để tiêu hỏa, vừa hay kệ bếp bị hỏng đang được sửa lại. Thấy trong kệ bếp tối đen như mực, Tiền Ất nhớ tới Ngũ Hành biện chứng nên quyết định dùng hoàng thổ than của táo tâm hoàng thổ phối ngũ để trị bệnh. Sau cùng dựa vào phương thuốc này mà trị khỏi bệnh cho Hoàng Thái tử. Đỗ Văn Hạo quyết định chỉ điểm cho lão, để tránh cho lão khỏi phải lo lắng.

Đỗ Văn Hạo nói: “Bất Thu! Ngươi có biết ta trị bệnh vì sao có thể nghĩ ra những cái mà ngươi không thể không?”

“Lão hủ không biết. Xin sư phụ chỉ điểm.”

“Âm Dương Ngũ Hành! Cái này chính là căn bản của tất cả biện chứng!” Đỗ Văn Hạo cố làm ra vẻ thần bí, lắc đầu ngâm nga giống như ông cụ non: “Đông phương sinh phong, tại địa vi mộc, tại thể vi cân, tại tạng vi can; Nam phương sinh nhiệt, tại địa vi hỏa, tại thể vi mạch, tại tạng vi tâm; Trung ương sinh thấp, tại địa vi thổ, tại thể vi nhục, tại tạng vi tì; Tây phương sinh táo, tại địa vi kim, tại thể vi bì mao, tại tạng vi phế; Bắc phương sinh hàn, tại địa vi thủy, tại thể vi cốt, tại tạng vi thận. (*) Ngũ hành sinh sinh tương khắc, đạo lý trong đó, ngươi lúc nào cũng phải ghi nhớ.”

(*) Ý nói: Gan và gân thuộc mộc, mạch và tim thuộc hỏa, thịt và lá lách thuộc thổ, da lông và phổi thuộc kim, xương và thận thuộc thủy.

“Vâng! Sư phụ.” Tiền Bất Thu không biết Đỗ Văn Hạo lúc này nhắc tới Ngũ Hành với lão làm gì, cung kính trả lời.

Đỗ Văn Hạo tiếp tục lúc lắc đầu, nói: “Đạo lý Ngũ Hành tương khắc áp dụng trên thuật Kỳ Hoàng phải ‘ức cường phù nhược’, ví dụ như can khí quá vượng, can mộc thừa tì thổ (can khí quá nặng, phạm tới tì vị, ảnh hưởng tới công năng tiêu hóa), thì phải sơ can bình can. Lại như tì thổ vũ can mộc, thì phải vận tì hóa thấp. Còn như tì hư thủy vũ, phải kiện tì lợi thủy. Ghi nhớ rồi chứ?”

Những cái này đều là lý luận Trung y căn bản, Tiền Bất Thu tám tuổi đã biết rồi, có điều vẫn cung kính đáp: “Nhớ rồi, sư phụ.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Vi sư biết rằng những thứ này ngươi kỳ thật đã biết từ lâu rồi, nhưng hiện tại nhắc lại những thứ cơ bản này, chính là để ngươi ghi nhớ rằng vấn đề mà biện pháp phức tạp nhất không giải quyết được, thì dùng cách nghĩ đơn giản nhất để suy nghĩ lại, có lẽ sẽ có thể nghĩ ra biện pháp. Ngươi lần này đi, nếu gặp phải nan bệnh chứng không giải quyết được, phải suy nghĩ từ Ngũ Hành biện chứng, nghĩ nhiều về các biện pháp như ức mộc phù thổ, bồi thổ chế thủy, tá kim bình mộc, tả nam bổ bức, có lẽ sẽ có thể khai thông bế tắc.”

Tiền Bất Thu trong lòng sợ hãi, quỳ xuống dập đầu: “Đa tạ sư phụ chỉ điểm, Bất Thu ghi nhớ trong lòng.”

“Được rồi, ngươi đi đi!”

“Vâng, sư phụ bảo trọng!”

Tiền Bất Thu khấu đầu thêm mấy cái, đứng dậy dắt Diêm Diệu Thủ lên xe.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo đang ngồi ở đại đường khám bệnh, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi theo lệ cũ ở bên cạnh chép phương thuốc và chọn thuốc.

Bệnh nhân vừa tới nhìn như một tên ăn mày, vừa mắm môi mắm lợi dùng tay gãi khắp người, vừa hổn hển nói: “Đỗ đại phu, ngài cứu mạng ta với!”

Đỗ Văn Hạo nhìn hắn từ trên xuống dưới, cười nói: “Ngươi khỏe mạnh thế thì cứu mạng cái gì?”

“Ngứa quá! Toàn thân trên dưới đều ngứa muốn chết! Ngủ cũng không ngủ được, ăn cũng không ăn được, cứ ngứa thế này thì không chết cũng không xong!”

“Cởi quần áo ra ta xem.”

Tiểu hóa tử vộ vàng cởi quần áo, chỉ thấy toàn thân đều phát ban màu đỏ.

Đỗ Văn Hạo chẩn mạch xem lưỡi cho hắn, hỏi tình huống sau khi phát bệnh, ngạc nhiên nói: “Ngươi là bị bệnh sởi, trời lạnh thế này sao lại bị sởi nhỉ? Bệnh sởi bình thường đều phát bệnh khi trời nóng cơ mà. Ngươi làm gì vậy?”

“Ta là học đồ của lò rèn, từ sáng tới tối đều vào cầm chùy lớn mà gõ, cho dù trời lạnh thì trong lò rèn của chúng ta cũng nóng như mùa hè.”

“Vậy ư? Ngươi bị bệnh mấy ngày rồi?”

“Năm sáu ngày rồi.”

“Lúc trước đã tới đại phu khám chưa?”

“Tới rồi, Tân đại phu của Huệ Trạch đường đã khám cho ta. Bọn họ ở ngay bên cạnh lò rèn của chúng ta, thấy gần thì khám, nhưng không khỏi.”

“Kê thuốc gì rồi?”

“Ta cũng không biết, kê mấy phương thuốc nhưng đều chẳng có hiệu quả gì. Đơn thuốc ta cũng chép lại mang đến đây, ngài xem đi.” Nói rồi lấy ra mấy đơn thuốc đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo liếc nhìn, đều là cái loại thuốc làm mát máu, giảm ngứa…Đỗ Văn Hạo cười cười, lắc đầu: “Phương thuốc này chỉ có hình tượng, không nắm được căn bản của bệnh này, cho nên không có hiệu quả. Không sao, ta sẽ kê phương thuốc cho ngươi uống, đảm bảo không có vấn đề.”

“Tốt quá, đa tạ đại phu, ai cũng nói ngài là Hoa Đà tái sinh, tôi ban đầu không tin, vì trông ngài trẻ thế này, tin làm sao được. Biết vậy tôi đã sớm đến tìm ngài rồi, ha ha.”

Đỗ Văn Hạo không khỏi cười thầm, người này quả thật rất thẳng tính. Sau đó hắn đọc cho Bàng Vũ Cầm chép lại phương thuốc, nhưng chép xông nhìn một cái, nàng nghi hoặc hỏi: “Tiêu sinh, đây là Ma hoàng liên kiều xích tiểu đậu thang ư?”

“Đúng, sao vậy?”

“Mấy ngày nay ta đọc y thư, vừa hay đọc tới phương thuốc này, hình như thang thuốc này là thuốc tân ôn giải biểu mà, hắn không bị cảm mạo, sao cũng dùng thuốc này được?”

Tuyết Phi Nhi nói: “Có lẽ Ma hoàng liên kiều tiểu đậu thang không chỉ trị ngoại cảm phong hàn, còn có thể trị bệnh khác.”

Đỗ Văn Hạo khen: “Không sai! Lần này Tuyết Phi Nhi nói đúng.”

Tuyết Phi Nhi đắc ý mỉm cười.

Bàng Vũ Cầm nói: “Không phải ư? Ta…, ta hiểu rồi, hắn khẳng định đồng thời bị ngoại cảm phong hàn, dẫn tới bệnh sởi!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Vậy nàng chẩn mạch cho hắn xem.”

“Được!” Bàng Vũ Cầm chẩn mạch cho tiểu hỏa tử, ngẩng mặt lên nghĩ ngợi: “Mạch nhẹ, giơ lên thì có dư, ấn vào thì thiếu lực, giống như nước đẩy gỗ, chắc là phù mạch. Cái này không sai đâu!” Bàng Vũ Cầm hỏi tiểu hóa tử: “Hai ngày nay bị cảm mạo thân thể có đau không?”

“Không có! Chỉ toàn thân phát ngứa, ngứa vào đến tận tim, gãi thế nào cũng vô dụng.”

Bàng Vũ Cầm trợn tròn mắt.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Bệnh này không thể gãi được đâu, càng gãi càng ngứa, bởi vì huyết mạch ở chỗ ngươi gãi càng khẩn trương hơn, sẽ phóng thích tà độc càng nhiều hơn, chỗ gãi sẽ dẫn tới bệnh sởi, cho nên toàn thân đều ngứa. Nhớ là sau này không được gãi.”

“Nhưng ngứa lắm!”

Đỗ Văn Hạo nói với bàng Vũ Cầm: “Tình huống nàng chẩn mạch thế nào?”

“Thuốc mà ngài dùng là ngoại cảm phong hàn thanh nhiệt giải độc, mạch tượng cũng rõ ràng là phù mạch. Nhưng hắn nói là không bị cảm lạnh, chuyện này là sao? Kỳ quái quá!”

“Không cảm lạnh thì không thể có phù mạch à?” Đỗ Văn Hạo cười nói, “Trong thân thể hắn ngứa hay là ngứa bên ngoài?”

“Bên ngoài.”

“Đã ở bên ngoài, mạch lại là phù mạch, đó không phải là biểu chứng thì là gì? Đã là biểu chứng, tất nhiên phải dùng thuốc phát biểu rồi. Phải nhớ, thuốc phát biểu không phải chỉ dùng cho thương hàn ngoại cảm, chỉ cần là biểu chứng, đều có thể đối chứng dùng thuốc.”

Bàng Vũ Cầm đỏ mặt, gật đầu nói: “Ừ, ta nhớ rồi.”

Bàng Vũ Cầm đưa đơn tới dược quỹ để lấy thuốc. Đỗ Văn Hạo lại căn dặn thanh niên nọ: “Thuốc này ban ngày khi ngươi vung chùy lớn để gõ thì đừng uống, uống cũng không có kết quả đâu, đợi đến tối lúc đi ngủ hãy uống, sau khi uống xong thì uống thêm một bình nước ấm, sau đó đắp chăn dày lên bụng để toát mồ hôi, liên tục trong ba ngày! Hiểu chưa?”

“Hiểu rồi?” Thanh niên gật đầu, cầm thuốc trả tiền, cảm ơn rồi đi.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo đứng dậy đi vệ sinh, một lúc sau thì quay về, vừa hay nghe thấy Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đang tranh luận.

Tuyết Phi Nhi nói: “Cô ta rõ ràng là hoạt mạch! Là có thai rồi! Đỗ tiên sinh nói, mạch đi lại linh hoạt, ứng chỉ viên hoạt, mới là hoạt mạch.”

Bàng Vũ Cầm nói: “Hoạt mạch là hoạt mạch, chỉ là, hoạt mạch của cô ta quá lớn, đây chưa chắc đã là có thai, mà là có bệnh, vừa rồi người ta cũng đã nói, vẫn có kinh nguyệt mà, đó là có thai à?”

“Hiện tại mới có thai mà, sau khi có mang mới thôi có kinh chứ?”

“Cô ta rõ ràng là có bệnh mà, hơn nữa, ngươi xem cô ta sốt cao không giảm, ho và thở dốc, rõ ràng là bị bệnh.”

“Bệnh nhân cũng có thể đã mang thai rồi!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Tranh luận gì thế?”

Tuyết Phi Nhi nói: “Ngươi về đúng lúc lắm, ngươi tới nhận xét đi, bệnh nhân này có phải là có mang không.”

Chỉ thấy có một thiếu phụ đang ngồi trên ghế, bộ dạng bất mãn, một nông hán đứng bên cạnh, trên mặt đầy vẻ lo lắng nhìn thiếu phụ này.

Đỗ Văn Hạo sau khi chẩn mạch, cười nói: “Không sai, là hoạt mạch, không phải là có thai. Vũ Cầm nói đúng rồi.”

“Là là nàng ta đúng! Không thể để ta đúng một lần ư?”

“Vậy thì ngươi phải nỗ lực học thêm nữa mới được! Được rồi, ta khám bệnh cho bệnh nhân đã, xem bệnh này của cô ta không nhẹ đâu.” Đỗ Văn Hạo quay người nhìn tỉ mỉ sắc mặt của thiếu phụ, chỉ nghe thấy thiếu phụ này ho không ngừng, hơn nữa hô hấp rất gấp rút, nhăn cả mặt lại, mặt thì ửng hồng, ho rất kịch liệt, cong lưng một cái, nhổ một miếng đờm vào ống nhổ, Đỗ Văn Hạo nhìn kỹ, trong lòng không khỏi sợ hãi - trong đờm có bọt máu!

Chương 111: Tử thần hàng lâm.

Đỗ Văn Hạo đưa khăn cho nàng ta: “Khi ho thì dụng khăn che miệng lại. Cảm thấy thế nào?”

Thiếu phụ nhận lấy khăn che miệng, sau khi ho một tràng mới hổn hển trả lời: “Ngực đau lắm, ho, không thở được…”

“Bắt đầu bị từ khi nào?”

Nam nhân đó thấy vợ ho quá kịch liệt, liền giúp nàng trả lời, nhưng y cũng ho rất nhiều: “Bắt đầu từ tối qua, mẹ của hài tử hôm qua đi đến nhà mỗ mỗ gia (ông bà ngoại) của hài tử để thăm người thân, khụ khụ khụ…, khi về thì bắt đầu sốt và ho, cho tới tận khi trời sáng mới đến tìm đại phu, nghe nói Đỗ đại phu ngài y thuật như thần, khụ khụ khụ…, ngay cả Tiền thần y cũng phải bái ngài làm sư phụ, cho nên mới tới tìm ngài. Ngài giúp ta khám bệnh cho nàng đi. Khụ khụ khụ…”

Đỗ Văn Hạo nhìn y: “Ngươi cũng ho rất kịch liệt đó.”

Nam nhân ôm ngực nói: “Vâng, cũng ho, ho đến tức ngực…khụ khụ, phiền ngài một chút nữa cũng khám bệnh cho ta luôn.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, cầm cổ tay phu nhân đó để bắt mạch, sau khi nhìn lưỡi, trầm giọng nói: “Bựa lưỡi vàng, lưỡi đỏ tím, mạch yếu, sốt cao, ho tức ngực, đờm có bọt, khạc ra máu, bệnh chứng thuộc về nhiệt độc làm tắc phổi, dùng Ma hạnh thạch cam thang phối hợp với Vi hành thang.”

Bàng Vũ Cầm ở bên cạnh đã căn cứ vào những gì mà Đỗ Văn Hạo đọc, chép lại phương thuốc rồi đưa đến quầy.

Đỗ Văn Hạo đang muốn chẩn mạch cho nam nhân thì đúng vào lúc này, phu nhân đó đột nhiên ôm ngực, một tay vịn vào bàn, cong người há to miệng thở hổn hển, cấp bách nói: “Cha của hài tử ơi…, ta không thở được…, khụ khụ khụ…”

Đỗ Văn Hạo cúi người nhìn, thấy bộ dạng vô cùng đau khổ của phu nhân này, vội vàng bảo nam nhân đó đỡ nàng ta tới nằm xuống giường ở bên cạnh. Thiếu phụ hô hấp càng lúc càng gấp rút, đau khổ nằm quằn quại ở trên giường, hai tay ôm lấy cổ họng, sắc mặt vì trở nên tím ngắt vì không thở được.

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Nàng ta thở không được, mau! Cõng nàng ta tới hậu viện. Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, lập tức chuẩn bị phẫu thuật họng! Ta phải cắt mở khí quản của nàng ta để tiến hành cắm ống!”

Nam nhân đó cũng nóng ruột, cõng thiếu phụ theo bọn Đỗ Văn Hạo tới hậu viện, Tuyết Phi Nhi bảo hắn đặt thiếu phụ lên giường phẫu thuật, cởi áo trên của thiếu phụ ra, dùng nước thuốc để khử trùng phần họng, chà rửa bộ phận cần thấm thuốc mê, sau đó đặt khăn đã khử độc lên.

Phẫu thuật cắt mở khí quản là kỹ thuật y liệu mà ngoại khoa thường dùng cho nên Đỗ Văn Hạo đã tiến hành khử trùng những dụng cụ cần thiết từ trước rồi.

Thiếu phụ hô hấp càng lúc càng khó khăn, Đỗ Văn Hạo không kịp rửa tay sát trùng, chỉ vội vàng đeo găng tay vào, dùng dao phẫu thuật rạch một vết nông từ dưới xương sụn giáp trạng xuống tới vết cắt của xương ngực, rồi cắt màng gân ra, tách phần thịt ở trước tuyến giáp trạng, để lộ ra phần eo của tuyến giáp trạng và lôi lên trên. Sau đó lại dùng mũi dao cắt mở vòng khí quản thứ ba, móc lên trên, dùng khoách trương khí mở rộng vết cắt, đặt ống chèn khí quản vào để cố định, đẩy ống chèn, hút đờm máu bên trong khí quản ra.

Hô hấp của thiếu phụ lập tức được khôi phục, dần dần bình ổn trở lại, trên mặt cũng từ từ bớt tím.

Đỗ Văn Hạo rất kỳ quái, hắn lúc trước phán đoán thiếu phụ chỉ là bị viêm khí quản cấp tính, nhưng, viêm phế quản cấp tính bình thường không thể phát sinh hô hấp khó khăn trong một đoạn thời gi­an ngắn như vậy. Hơn nữa, trượng phu của thiếu phụ này rõ ràng cũng bị truyền nhiễm, bệnh chứng cũng tương đồng, điều này khiến Đỗ Văn Hạo càng thêm bất an. Sau khi cho thiếu phụ và trượng phu của nàng dùng thuốc, quyết định cho bọn họ ở lại lưu chẩn. Bảo Tuyết Phi Nhi và Bàng Vũ Cẩm rửa tay sát trùng thật lỹ, cách ly gi­an phòng không cho người ngoài vào, dặn dò phải chú ý quan sát tình huống của thiếu phụ và trượng phu của nàng ta. Sau đó tiếp tục tới tiền đường khám bệnh.

Buổi trưa, Trang tri huyện phái kiệu nhỏ tới đưa Đỗ Văn Hạo đi châm cứu và nói với Đỗ Văn Hạo rằng huyện thái gia muốn mời hắn ăn cơm trưa.

Đỗ Văn Hạo đang chuẩn bị lên kiệu, từ bên ngoài có một chiếc xe trâu vội vàng đi đến, trên xe nhảy xuống hai người, một người cõng một tiểu hài trên lưng, tiểu hài cũng không ngừng ho. Dẫn đầu là một lão hán, sải bước tiến vào Ngũ Vị đường: “Xin hỏi, nhi tử và nhi tức phụ (con dâu) của ta có ở đây không?”

Ngốc béo hỏi: “Nhi tử và nhi tức phụ của ông là ai?”

“Là người tới Ngũ Vị đường của các ngài khám bệnh đó, sáng sớm đã tới rồi. Nhi tức phụ của ta bị bệnh, nó tên là Xuân Nữu.”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy vậy, bước tới nói: “À, là đôi phụ phụ sáng nay ho ra máu, bọn họ đang nằm ở hậu viện để quan sát, bệnh tình rất nặng.”

“Hả, ở đâu? Ta có thể vào thăm không?”

“Ta hoài nghi nhi tử và nhi tức phụ của ông bị mắc bệnh truyền nhiễm, trước khi chưa xác định rõ, không thể vào thăm. Ông yên tâm, bệnh tình của bọn họ trước mắt đã được coi là ổn định.”

“Ái chà! Ngài chính là Đỗ đại phu à? Cám ơn ngài.” Lão hán chỉ vào tiểu hài đang nằm trên lưng nam tử, “Đây là cháu của ta, nó cũng bị bệnh, ho nhiều lắm. Ngài khám cho nó trước đi.”

Đỗ Văn Hạo bảo nam nhân nọ đặt tiểu hài lên giường để chẩn sát. Tiểu hài cũng không ngừng ho, trong đờm có máu, tức ngực, mạch tượng và thiệt tượng đều giống với cha mẹ nó, chỉ là vẫn chưa xuất hiện hiện tượng hô hấp khó khăn.

Đỗ Văn Hạo rất kỳ quái, nhìn nam tử đó, phát hiện sắc mặt của hắn cũng ửng đỏ, hỏi: “Ngươi là gì của hài tử?”

“Ta là đại cữu (bác, anh của mẹ) của nó.”

“À, ngươi hình như cũng không khỏe, có chỗ nào khó chịu không?”

Nam tử đó lắc đầu: “Không có, chỉ là ngực hơi đau, đầu hơn choáng, có thể là vừa rồi cõng hài tử vào đây…”

Đỗ Văn Hạo sờ trán hắn, thấy nóng hổi liền bảo: “Ngồi xuống, ta chẩn mạch cho ngươi.”

Mạch yếu, bựa lưỡi vàng, lưỡi đỏ tím! Bệnh trạng cũng giống như những người kia.

Chẳng lẽ hai người này cũng bị truyền nhiễm? Đỗ Văn Hạo tim như thắt lại, hỏi: “Các ngươi biết còn có ai mắc bệnh này không?”

Lão hán thở dài, chỉ vào người trung niên cõng hài tử: “Ài! Đại cữu cữu của hài tử hôm qua tới báo tin, nói…, nói mỗ mỗ (bà ngoại) và mỗ gia (ông ngoại) của hài tử xảy ra chuyện lớn, mỗ mỗ tối qua đã bệnh chết, tam cữu, tứ cữu lúc trời chưa sáng cũng đã chết, mỗ gia và những người khác bệnh rất nặng. Khi mẹ của hài tử rời thôn cũng bị bệnh, đại cữu cữu lo lắng liền tới thăm mẹ của hài tử thì bọn họ đã vào thành rồi, vừa hay thấy đứa cháu cũng có bệnh, hắn và ta liền lấy xe trâu đưa hài tử vào thành khám bệnh, thuận tiện xem xem cha mẹ của hài tử thế nào.”

Nam nhân trung niên đó vẻ mặt u ám: “Đúng vậy, trong thôn có rất nhiều người bị bệnh, bệnh này rất kinh khủng, ngày đầu mắc bệnh, ngày hôm sau là chết. Đã hơn chục người bị chết rồi, đều là chết vào tối qua. Khi ta đi, nghe nói có mấy hộ gia đình đã có người chết.”

Đỗ Văn Hạo kinh hãi, rốt cuộc là bệnh gì vậy? Nếu những gì nam nhân này nói là sự thật, một ngày đêm đã chết nhiều người như vậy, loại bệnh truyền nhiễm này đúng là quá đáng sợ. Thiếu phụ đó vừa rồi nếu không phải được mình phẫu thuật cắt mở khí quản, lúc này chắc cũng chết vì tắc thở rồi! Phải điều tra rõ ràng xem rốt cuộc là bệnh gì.

Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: “Trừ thôn của các ngươi ra, thôn khác có ai chết vì bệnh này không?”

“Có! Mấy ngày trước mấy thôn đó có người cũng trong một ngày đêm là chết, sau đó thôn của chúng tôi mới có người mắc bệnh này mà chết.”

“Người bệnh của thôn các ngươi và thôn khác có triệu chứng gì?”

“Ừm…giống như muội muội của ta, cũng chính là mẹ của hài tử này, toàn thân đau đớn, ho ra máu, không thở được.”

“Thi thể của người bị bệnh chết thì thế nào?”

“Người bệnh khác thì ta không thấy, có điều khi mẹ và hai đệ đệ của ta chết, trên mặt, trên tay, toàn thân đều có những khối sẹo màu tím đen, móng tay cũng màu đen!”

Hắc tử bệnh?

Đỗ Văn Hạo cảm thấy nặng trĩu trong lòng.

Hắc tử bệnh cũng chính là bệnh dịch hạch, hơn nữa nó lại chính là “phế thử dịch” (dịch hạch phổi) nghiêm trọng nhất trong các loại dịch hạch, người chết vì bệnh này sẽ xuất hiện xuất huyết dưới da trên diện tích lớn, khiến cho da của thi thể lộ ra màu đen, cho nên mới gọi là “hắc tử bệnh”.

Là một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hại nhất, ngoại trừ lây nhiễm từ chuột ra, còn có thể lây nhiễm thông qua đường hô hấp.

Hắc tử bệnh ở thời trung cổ đã hoành hành khắp Châu Âu, nhiều lần bạo phát, ước chừng đã tước đi mạng sống của hai ngàn năm trăm vạn người, chiếm một phần ba dân số Châu Âu thời bấy giờ. Trong lịch sử Trung Quốc cũng nhiều lần bạo phát bệnh dịch hạch, gây tử vong cho một lượng lớn dân số. Trong cổ văn gọi là “lệ dịch”, “hạch ôn”, “đại đầu ôn”…

Đỗ Văn Hạo từ trước đến giờ chưa có kinh nghiệm trị bệnh dịch hạch, cũng chưa từng trải qua loại chuyện này, nếu trước mắt những bệnh nhân này quả thực mắc bệnh này thì hắn thật sự không biết nên làm thế nào.

Đã hoài nghi là bệnh có tính truyền nhiễm mạnh, tất phải lập tức cách ly dịch khu! Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: “Ngươi là người của thôn nào?”

“Lưu Gia Loan ở ngoài thành cách đây ba mươi dặm.”

Cái tên ngày nghe rất quen, Đỗ Văn Hạo khẽ trầm ngâm, sau đó thì nhớ ra, mấy ngày trước khám bệnh cho Bồ Sơn ở thôn Ba Cây Liễu, Bồ lão hán đã nói ông ta có một đệ đệ ở Lưu Gia Loan bị mắc bệnh, hơn nữa bệnh rất nặng, người nhà muốn tới Lưu Gia Loan ăn tết, chẳng lẽ đệ đệ của Bồ lão hán cũng bị bệnh này ư?

Nếu là như vậy, chứng tỏ phế thử dịch đã bạo phát từ mấy ngày trước rồi, chỉ là không được mọi người chú ý mà thôi! Không ai biết ôn dịch này bạo phát thì đáng sợ như thế nào!

Đỗ Văn Hạo trong lòng sốt ruột như có lửa đốt, vội vàng bảo lão hán và trung niên đó đưa hài tử vào phòng bệnh cách ly của phụ mẫu nó ở hậu viện, dặn dò bọn họ không được đi lại tùy tiện, viết phương thuốc và sắc thuốc cho ba người uống. Sau đó Đỗ Văn Hạo chạy như bay tới công trường ở hậu viện tìm Lâm Thanh Đại.

Lâm Thanh Đại đang bận rộn giám sát các thợ xây đang tu sửa các phòng bệnh, liên tục thi công, công trình đã hoàn thành một nửa rồi.

Lâm Thanh Đại thấy hắn tới, rất cao hứng, chỉ vào mấy tòa nhà lâu đã được dựng lên, nói: “Ngươi xem, khu phòng bệnh cách ly đã xây xong rồi! Bộ phận nằm viện cũng sửa được một nửa rồi, một tháng nữa thôi là ước chừng có thể làm xong.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Rất tốt, ta có chuyện muốn nói cùng ngươi đây!”

Lâm Thanh đại thấy vẻ mặt nghiêm túc của hắn, vội vàng hỏi: “Gì thế?”

“Mấy bệnh nhân ở tân khu, ta hoài nghi là bị mắc bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng, phải lập tức cách ly, nhưng phòng bệnh ở hậu viện của chúng ta không phù hợp với điều kiện cách ly, ngươi lập tức thu dọn mấy gi­an phòng đã được sửa xong để làm khu cách ly, sau đó chuyển bệnh nhân vào trong đó. Nghiêm ngặt án chiếu theo hướng dẫn trước đó mà tiến hành cách ly.”

Lâm Thanh đại sắc mặt lo lắng: “Bệnh nghiêm trọng lắm à?”

“Phi thường nghiêm trọng, có bệnh nhân trong một ngày đêm là chết! Truyền nhiễm rất nhanh, trong thôn đã chết rất nhiều người rồi!”

Lâm Thanh Đại biến sắc, thấp giọng hỏi: “Là…, là lệ dịch à?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Rất có khả năng, nhưng vẫn chưa thể khẳng định.”

Chương 112: Mặt nạ phòng độc.

“Hả?” Lâm Thanh Đại biến sắc, nàng tự nhiên biết bệnh dịch có ý nghĩa gì, “Vậy…, ngươi nhất định phải cẩn thận đó!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ừ, ta suy nghĩ xem phải đối phó với bệnh này như thế nào.”

Đang nói chuyện thì từ tiền đường có người chạy đến, chính là Ngốc béo, thấy Đỗ Văn Hạo, nói: “Đỗ tiên sinh, Hàm Đầu Hàm đại phu của Tế Thế đường tới tìm ngài, có chuyện gấp!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng chạy tới tiền đường, Hàm Đầu sắc mặt có chút trắng bệch, gấp giọng nói: “Sư tổ, đường của chúng ta có ba bệnh nhân bị bệnh nặng, một người vừa đến đã chết, hai người kia tính mạng nguy kịch, người có thể giúp đỡ hội chẩn không?”

Đỗ Văn Hạo trong lòng sợ hãi: “Bệnh trạng thế nào? Có phải là sốt cao, ngực đau, ho, trong đờm có máu không?”

“Vâng, sao sư tổ biết?”

“Đường của chúng ta cũng có cấp chứng này. Mau! Đi xem nào!”

Đỗ Văn Hạo cả hòm xuất chẩn cũng không mang theo, hắn biết, bệnh nặng thế này có mang theo hòm thuốc cũng chẳng có chỗ dùng, cùng Hàm Đầu chạy tới Tế Thế đường.

Còn chưa vào cửa, liền nghe thấy trong Tế Thế đường có tiếng khóc, bước vào thì thấy trên đất có một cái ván cửa, một thi thể nam nhân nằm bên trên, hai nữ tử đang quỳ xuống phục lên thi thể khóc nức nở. Trên hai chiếc giường ở bên cạnh có hai bệnh nhân đang nằm, rên rỉ vì đau đớn.

Đỗ Văn Hạo hỏi Hàm Đầu: “Bệnh nhân có bệnh chứng thế nào?”

“Sốt cao, tinh thần lúc mê lúc tỉnh, tứ chi lạnh buốt, ngực đau ho nhiều, trong đờm có máu, mạch đập yếu. Ba người đều như vậy, người nằm trên đất là nặng nhất, vừa khiêng tới đường, đồ tôn vừa chẩn sát xong, kéo dài được một chút thì lỗ mũi chảy ra một lượng máu lớn, không thể thở được, rất nhanh liền đoạn khí.”

Đỗ Văn Hạo lấy khăn tay ra che miệng mũi, ngồi xuống quan sát thật kỹ thi thể này. Phát hiện khóe miệng thi thể, trên cổ áo đầy là máu, môi nứt nẻ, dưới da nơi những bộ phận lộ ra ngoài như mặt, cổ, bàn tay đều ứ máu và có khối ban. Từ miệng đang há ra của thi thể có thể nhìn thấy một nửa đầu lưỡi đã đen xì.

Đỗ Văn Hạo trầm giọng hỏi: “Ngươi biện chứng thế nào?”

“Nhiệt chứng trong thiếu âm thương hàn.”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Chỉ sợ không phải là nhiệt chứng đơn giản, mà là…” hắn nhìn xung quanh, kéo Hàm Đầu lại gần, ghé sát vào tai nói: “Là lệ dịch!”

Trung y cổ đại đối với bệnh có tính truyền nhiễm mạnh không phân chia cụ thể, đều gọi là ôn dịch. Trong đó nhóm bệnh lợi hại nhất như bệch dịch hạch, dịch tả đều gọi là lệ dịch. Loại bệnh này một khi bạo phát đều lan truyền rất nhanh. Thường thường hàng ngàn hàng vạn người chỉ trong một ngày đêm là chết, thi thể khắp đồng, có thôn trấn thậm chí còn chết hết.

Cổ nhân từng miêu tả lệ dịch như bệnh dịch hạch là: “Người chết ban ngày, trời u ám mây nặng trĩu. Ba người đi được hơn chục bước, đột nhiên hai người tắc thở. Người chết ban đêm, không dám khóc, thắp đèn lên, đột nhiên gió thổi tắt đèn, thây người nằm trong quan tài, nhà tối om. Người chết đầy đồng, xương người dần dần bị gió thổi khô.” Hiện tại đọc lại vẫn khiến người ta dựng tóc gáy.

Hàm Đầu nghe thấy câu này, cả người run rẩy nhìn Đỗ Văn Hạo: “Không…không phải chứ?”

Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Đường của chúng ta cũng có mấy người bệnh nặng tới, bệnh trạng cũng giống như những người ở chỗ ngươi! Có một người suýt nữa thì chết, căn cứ vào những gì bọn họ nói, thôn Lưu Gia Loan cách huyện thành ba mươi dặm đã có nhiều người mắc bệnh trong một ngày đêm là chết, bệnh chứng cũng giống thế này! Ngươi nghĩ xem có bệnh nào mà lan truyền nhanh như vậy không?”

Hàm Đầu rùng mình ớn lạnh, quay đầu nhìn thi thể đang nằm trên đất, thấp giọng hỏi: “Bây giờ phải làm thế nào?”

“Ta bây giờ lập tức đi tìm Trang tri huyện, báo cáo chuyện này với lão gia, ngươi lập tức đưa hai người bệnh này tới phòng bệnh cách ly của Ngũ Vị đường. Chỗ đó đã được sửa chữa xong rồi, sau này gặp bệnh này đều tập trung tới đường của chúng ta! Nếu bệnh nhân nhiều quá không kịp chẩn sát, có thể án chiếu theo chứng nhiệt độc làm tắc phổi để xử lý, dùng Ma hạnh thạch cam thang kết hợp với Vi hành thang để trị liệu!”

“Được! Thi thể này thì làm thế nào?”

“Trước tiên cũng chuyển tới đường của chúng ta, ở đó ta đã thiết kế phòng khâm liệm rồi, tạm thời đặt trong phòng liệm đi. Nhớ đóng chặt cửa, phàm là người đã tiếp xúc với bệnh, lập tức rửa tay thật kỹ, đồng thời uống ma hạnh thạch cam thang và vi hành thang để đề phòng. Người chữa trị và hộ tống bệnh nhân đều phải mặc đồ cách ly toàn thân. Ta đã sai người làm rồi, tới lúc đó các ngươi cũng cầm mấy bộ mà dùng.”

Hàm Đầu hoảng hốt gật đầu, lại nói: “Ta lập tức đi các tiệm thuốc ở toàn thành xem xem có ai bị mắc bệnh này nữa không, nếu có thì sẽ bảo bọn họ đưa bệnh nhân tới đó.”

“Tốt!”

Đỗ Văn Hạo chạy về Ngũ Vị đường, vừa vào tới đường, liền thấy trên đại đường có hai tấm ván cửa, hai bệnh nhân đang nằm trên đó rên rỉ. Hắn liền hỏi qua loa, thấy bệnh chứng hoàn toàn tương đồng, cũng là ở Lưu Gia Loan cách đây ba mươi dặm đưa tới.

Đỗ Văn Hạo vội vàng đưa vào khu cách ly, chiếu theo phương thuốc đã kê từ trước để cho uống, sau đó chạy tới hậu viện tìm Lâm Thanh Đại, gấp giọng nói: “Mấy bệnh nhân ở Tế Thế đường cũng giống như bệnh nhân ở chỗ chúng ta, hiện tại có thể nhận định sơ bộ là lệ dịch. Ta lập tức đi tìm Trang tri huyện.”

“Cần ta làm gì không?” Lâm Thanh Đại gấp giọng nói.

“Ngươi trước tiên bảo công nhân ngừng việc về nhà đi, sau đó giúp ta làm mấy chuyện này: Thứ nhất, tới tất cả các tiệm may ở toàn thành đặt may quần áo cách ly liền thân, khẩu trang dày, găng tay da dê, càng nhiều càng tốt. Thứ hai, lập tức phối chế một lượng lớn ma hạnh thạch cam thang kết hợp với vi hành thang, tất cả mọi người ở tiệm thuốc phải lập tức uống vào, ngoài ra phải phối chế một lượng lớn nước thuốc tiêu độc để đề phòng, nước thuốc tiêu độc lần này khác với trước, dược phương phối ngũ là hoàng liên, khổ tham, thiên kiều, đại hoàng, sinh đại, tri mẫu…, dùng bình xịt thuốc mà ta đã làm từ trước phun những chỗ bị nghi là có tà độc; Thứ ba, mua tất cả ruột bông về, lập tức bố trí cách li khu phòng bệnh, càng nhiều càng tốt!”

Lâm Thanh Đại vội vàng gật đầu đáp ứng, đang muốn chạy đi bố trí thì Đỗ Văn Hạo gọi lại: “Đợi đã, còn một chuyện quan trọng nữa, đặt mua mặt nạ phòng độc đơn giản!”

“Mặt nạ phòng độc?”

“Ừ, dùng để cách ly tà độc trong không khí, ta sẽ vẽ bản mẫu cho ngươi, ngươi chiếu theo đó để đi đặt làm là được.”

Đỗ Văn Hạo lấy bút ra vẽ một sơ đồ phác thảo, giải thích: “Dùng vôi sống và đất sét, mỗi thứ một nửa hỗn hợp thật đều, sau đó lấy nước thuốc trộn lại, nặn thành một một viên cỡ hạt đậu xanh, sau đó phơi khô. Nước thuốc là quan trọng nhất, phối ngũ cũng giống như nước thuốc tiêu độc lúc trước, nước thuốc này có công hiệu tiêu diệt tà độc của lệ dịch này.”

“Hiểu rồi.”

“Tìm một lò rèn đặt làm một lượng lớn cốc nhỏ nhỏ mỏng và nhẹ, ở phần đáy có lỗ để không khí tiến vào, đầu kia phải khớp với hình mũi và miệng, bên cạnh thì dùng vải bông mềm bao lại, đề phòng bay hơi. Ở phía dưới, chỗ tiếp cận với miệng thì mở một lỗ thở, dán da dê lên. Lần lượt đặt những thứ này ở trong hũ: “Lưới, vải sô, mạt cưa, bông vải, viên đá vôi và đất, bông vải, lưới, sau đó gắn dây kẽm vào để cố định, khâu ở bên trên mặt nạ, buộc dây để cố định là được.”

Đỗ Văn Hạo vừa vẽ vừa giảng giải, Lâm Thanh Đại rất nhanh liền hiểu ra. Gấp bản vẽ lại nhưng không đi, muốn nói gì lại thôi. Đỗ Văn Hạo nghi hoặc nhìn nàng: “Sao thế?”

Lâm Thanh Đại nói: “Ta biết lệ dịch này nguy hiểm vô cùng, mặt nạ phòng độc mà ngươi thiết kế này thật sự có thể phòng lệ dịch ư?”

“Lệ dịch lần này chủ yếu là lây truyền qua đường hô hấp, loại mặt nạ phòng độc này đương nhiên không thể ngăn cản hoàn toàn, nhưng so với không mang gì hoặc là dùng khăn để che thì tốt hơn nhiều, có thể giảm thiểu khả năng truyền nhiễm ở phạm vi rộng.”

“Ta có một ý kiến, không biết có thỏa đáng không.”

“Ngươi mau nói đi, thời gi­an cấp bách lắm.”

“Được, ta muốn đặt làm nguyên liệu mang về rồi tự mình lắp ráp, trước tiên cấp miễn phí cho đại phu trị bệnh và những bộ khoái phụ trách kiểm tra, sau khi bọn họ sử dụng thấy hữu hiệu, ta nghĩ có rất nhiều người tới tìm chúng ta để mua…”

Đỗ Văn Hạo lập tức hiểu ý của Lâm Thanh Đại, cách nghĩ này cũng không sai, tri thức hiện đại của mình không thể tặng không mà không lấy một văn nào được, phải đổi được lợi ích thỏa đáng cho bản thân, trị bệnh cứu người phòng dịch là nghĩa vụ nghĩa bất dung từ, nhưng cũng không thể để thâm hụt vốn được, chế tác mặt nạ phòng độc rồi bán ra, đối với mình hay đối với bệnh nhân đều có lợi, khi cần thiết còn có thể dùng tiền kiếm được để phòng dịch và cứu chữa cho bệnh nhân.

Cho nên, Đỗ Văn Hạo lập tức gật đầu nói: “Chủ ý của ngươi rất tốt, bản vẽ và phối phương không được truyền ra ngoài, đặt mua bộ phận rồi chúng ta tự mình lắp ráp. Trước tiên tặng miễn phí cho những người tham gia công tác phòng dịch, sau khi chứng minh được công hiệu, nếu những người khác đến mua, chúng ta liền bán ra để lấy tiền, chuyện này ngươi phụ trách làm đi, ta không có thời gi­an rảnh để làm.”

Lâm Thanh Đại gật đầu nói: “Được, ta đi làm đây!”

Đỗ Văn Hạo uống ma hạnh cam thang kết hợp với vi hành thang, sau đó ngồi kiệu nhỏ vội vàng tới huyện nha.

Khi đi qua Miên Xuân viện, bị mấy cô nương bọn Mị Nhi cản lại. Đỗ Văn Hạo nào có tâm tư để khua môi mua mép với bọn họ, gấp giọng nói: “Xin nhường đường, ta có chuyện gấp tìm huyện thái gia, chuyện phi thường khẩn cấp!”

Mị Nhi rảo bước tới cạnh kiệu, giọng hờn dỗi: “Ái chà! Chuyện làm xong rồi thì trở mặt không nhận người à?”

Đỗ Văn Hạo ngây người, thấp giọng nói: “Ngươi là nói chuyện của Trang tri huyện…?”

“Đương nhiên! Ta dạy hai người bọn họ lâu như vậy, mỏi hết cả miệng, sáng sớm hôm nay, ta mới đi, hai tiểu ny tử đỏ mặt nói với ta là chuyện đã thành, huyện thái gia và bọn họ cuối cùng cũng viên phòng rồi, làm cả một đêm, khiến cho hai người bọn họ xương cốt mỏi nhừ, hi hi hi, ngươi phải cảm ơn ta thế nào đây?”

Chuyện này nếu là bình thường, Đỗ Văn Hạo nghe nói đã trị khỏi bệnh liệt dương cho Trang tri huyện, tất nhiên rất cao hứng, nhưng hiện tại xảy ra chuyện lớn, nào có tâm tư để quản chuyện này, vội vàng nói: “Được, sau này sẽ cảm tạ, ta hiện tại thực sự có chuyện gấp tìm Huyện thái gia, các ngươi nhường đường đi, thật sự là rất gấp!”

Mị Nhi thấy vẻ mặt của hắn trịnh trọng, không giống như đang thoái thác, vội vàng phất tay, bảo mấy vị cô nương nhường đường.

Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói với Mị Nhi: “Ngươi mau bảo mụ mụ của các ngươi lập tức đóng cửa ngừng kinh doanh, tất cả mọi người đừng ra ngoài! Nhớ lời của ta!”

Mị Nhi ngây người: “Sao? Xảy ra chuyện gì à?”

“Người đừng quản, không lâu nữa ngươi sẽ biết theo, nhớ lời của ta! Đi mau!”

Hai kiệu phu khênh kiệu đi về phía trước, không lâu sau thì tới huyện nha nội nha.

Đỗ Văn Hạo đợi ở phòng khách, lát sau, huyện thái gia dẫn sư gia vui vẻ từ bên ngoài tiến vào, từ xa đã chắp tay nói: “Ái chà Đỗ đại phu! Đa tạ đa tạ! Chuyện tốt đã thành! Ha ha ha, vẫn là biện pháp cao minh của ngài, châm cứu giúp cho cái ấy của bản huyện ngẩng đầu. Tối qua bản huyện và hai ái thiếp ôn nhu như nước, phục thị bản huyện rất sung sướng, nói chuyện thôi mà nó cũng ngỏng dậy, cùng viên phòng với hai vị ái thiếp, hương hỏa của bản huyện có hi vọng rồi, cao hứng quá! Hôm nay mời ngài tới, chính là muốn thiết yến khoản đãi để cảm ơn ngài! Ha ha ha!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng: “Cung hỷ đại nhân! Tửu yến này để sau hẵng nói đi. Ta có một chuyện rất gấp muốn thông báo cho ngài!”

Chương 113: Y Quan.

Trang tri huyện cười rất vui vẻ, nói: “Chuyện gì thì cũng để sau tửu yến đáp tạ của bản huyện rồi hãy nói! Bản huyện và ngài cùng uống một chén! Người đâu, bày tửu yến!”

Hầu sư gia cũng vui vẻ nói: “Đỗ tiên sinh, ngài giúp tri huyện đại nhân nối tiếp được hương hỏa, công lao thật rất lớn, tri huyện đại nhân nói nhiều lần rồi, phải cảm tạ ngài thật hậu! Không chỉ là tiền bạc, còn có ý đề bạt ngài…”

Đỗ Văn Hạo gấp giọng ngắt lời hắn: “Xin lỗi, đại nhân! Nghe ta nói đã, chuyện này vô cùng quan trọng…!”

Trang trị huyện lúc này trên mặt vui như nở hoa, liên tục phất tay tay nói: “Quan trọng gì cũng từ từ đã, uống rượu lúc này mới là quan trọng nhất! Bản huyện hôm nay rất cao hứng!”

Hầu sư gia cũng cười nói: “Đúng rồi, không bằng cứ để trên bàn rượu rồi hãy nói đi, cái huyện thành nho nhỏ này có chuyện gì lớn chứ, chẳng lẽ trời sập sao? Ha ha!”

“Không sai! Chuyện cực lớn! Quan hệ tới mũ ô sa của đại nhân!”

Vẻ tươi cười trên mặt Trang tri huyện và Hầu sư gia liền cứng lại, quay sang nhìn nhau, Trang tri huyện trừng mắt nhìn Đỗ Văn Hạo: “Rốt cuộc là có chuyện gì quan trọng như vậy?”

“Ở Lưu Gia Loan cách huyện thành ba mươi dặm có mười bệnh nhân cấp cứu được đưa tới, một người trong đó đã chết, căn cứ theo những gì đã biết, Lưu Gia Loan đã có mấy chục người chết vì chứng bệnh này. Hơn nữa, thôn trấn ở gần Lưu Gia Loan mấy ngày trước cũng đã phát hiện trường hợp tử vong vì bệnh này, rõ ràng là lây truyền rất nhanh và mạnh! Loại bệnh này phi thường lợi hại, có khả năng sẽ nhanh chóng lan ra khắp huyện, nếu không áp dụng biện pháp dứt khoát, sẽ dẫn tới hàng vạn người chết chỉ trong vòng một ngày một đêm!”

Trang tri huyện ngây người: “Bệnh…bệnh gì mà ghê thế?”

“Lệ dịch!”

Trang tri huyện chân mềm nhũn, suýt chút nữa thì ngã xuống đất. Hầu sư gia vội vàng đỡ lấy lão, quay đầu hỏi Đỗ Văn Hạo: “Ngài, ngài không đoán nhầm đấy chứ?”

“Từ những người bệnh được đưa đến có thể thấy tính truyền nhiễm của bệnh này rất mạnh, người đưa bọn họ tới cũng có triệu chứng giống của bệnh nhân, ăn khớp với đặc tính của lệ dịch, chắc là không sai đâu!”

Trang tri huyện hỏi: “Lưu Gia Loan va thôn trấn phụ cận chết nhiều người như vậy. Sao không thấy lý chính của bản địa báo cáo?”

Hầu sư gia ho khẽ một tiếng, nói: “Thôn trấn phía dưới không có danh y giống như Đỗ đại phu, bọn họ cũng không biết là lệ dịch. Hơn nữa, lý chính của thôn trấn thì ngài cũng biết rồi, từ trước để giờ chỉ báo hỉ chứ không báo ưu, đợi tới khi sự tình không thể thu thập được thì mới báo lên.” Hầu sư gia nghĩ ngợi một chút rồi quay lại hỏi Đỗ Văn Hạo: “Đỗ tiên sinh sao biết Lưu Gia Loan và thôn trấn phụ cận bạo phát lệ dịch khiến nhiều người chết?”

“Ta cũng là nghe người đưa bệnh nhân đến nói, vẫn chưa có gì chứng minh.”

Trang tri huyện thở phào một hơi: “Thì ra là vậy, chuyện còn chưa chứng minh sao lại kết luận bừa?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Thế đến của lệ dịch hung mãnh dị thường. Từ mấy bệnh nhân được đưa đến, ta thấy rằng có thể là phi mạt truyền nhiễm (là một trong những phương thức truyền nhiễm của bệnh. Vi khuẩn gây bệnh từ trong đường hô hấp của người bệnh hoặc người mang vi khuẩn, theo nước bọt khi ho, hắt xì hoặc là nói chuyện phun ra mà truyền sang người khỏe mạnh), nếu đợi điều tra rõ thực hư mới có biện pháp xử lý thì e rằng lệ dịch đã cuốn sạch toàn huyện thành rồi! Tương lai truy cứu trách nhiệm, đại nhân giải thích thế nào đây? Cho dù đại nhân có thể thoát trách nhiệm, nhưng thân là quan phụ mẫu một huyện, sao xứng đáng với hàng ngàn hàng vạn tử dân đã chết?”

Trang tri huyện sững sờ, lắp bắp nói: “Không…, không nghiêm trọng vậy chứ?”

Hầu sư gia nhíu mày suy nghĩ, xoẹt một tiếng mở quạt xếp ra theo thói quen, che giữa mặt hai người, thấp giọng nói: “Nếu quả thật là lệ dịch, những lời này của Đỗ t không phải là dọa suông đâu. Khánh Lịch năm thứ tám, Hà Bắc gặp tai họa lớn, năm đó lệ dịch bạo phát, thành trấn hương thôn, người chết đến bảy tám phần mười! Hơn chục người của phủ huyện do phòng dịch bất lực mà bị cách chức và xét xử!”

Trang tri huyện là một con mọt sách thuần chất, thiếu hụt năng lực ứng phó những sự kiện đột phát, nghe nói có thể là lệ dịch, sớm đã hoảng hốt, vừa nghe thấy phòng dịch bất lực cũng có thể bị cách chức, không khỏi run rẩy nói: “Cái…, cái này phải làm thế nào đây? Không bằng, nhanh chóng báo lên phủ thành đi?”

“Trước khi chưa được xác minh thì không thể báo lên, báo cáo sai tình hình bệnh dịch, dẫn tới khủng hoảng hỗn loạn, tội này cũng không nhỏ.”

“Vậy…, vậy phải làm thế nào?”

“Trước tiên nghe ý kiến của Đỗ tiên sinh đã.”

“Được!” Trang tri huyện ho một tiếng, hỏi: “Đỗ tiên sinh, chuyện đã thế này thì phải làm thế nào mới tốt?”

“Lập tức giới nghiêm toàn thành, cấm tất cả mọi người đi lại, để hết sức giảm thiểu tiếp xúc truyền nhiễm. Ở ngoài thành xây dựng khu cách ly, nghiêm ngặt kiểm tra tất cả những người ra vào, phát hiện người có triệu chứng lệ dịch như sốt cao, ho, tức ngực, lập tức cách ly trị liệu. Đồng thời, phái tổ y liệu tới Lưu Gia Loan điều tra và xác minh tình huống.”

Trang tri huyện không có chủ ý, nhìn Hầu sư gia.

Hầu sư gia nghĩ một chút, nói: “Bốn cửa tra xét nghiêm ngặt thì có thể, phái người tới điều tra tất nhiên là phải làm, chỉ là, giới nghiêm toàn thành…e rằng có chút khó khăn, trong thành không có quân đội đóng quân, quân đội đóng quân gần này nhất cũng tới hơn năm mươi dặm. Ba ban nha dịch thêm dân phòng, tổng cộng không quá năm mươi người, không đủ sức để đảm đương trách nhiệm giới nghiêm toàn thành. Hơn nữa, giới nghiêm toàn thành, tất nhiên sẽ dẫn tới bách tính hoang mang suy đoán, một khi phát sinh dân biết, e rằng…”

“Nhưng, lệ dịch này phán đoán sơ bộ là phi mạt truyền nhiễm, nếu không giới nghiêm, sẽ theo sự di chuyển của mọi người mà mau chóng lan truyền khắp toàn thành! Sự khủng hoảng của việc người chết trong thành e rằng so với khủng hoảng do suy đoán mang tới còn nghiêm trọng hơn rất nhiều, phải không?”

Hầu sư gia gấp quạt lại, trầm giọng nói: “Đỗ tiên sinh có thể khẳng định chắc chắn là lệ dịch ư?”

Đỗ Văn Hạo ngẩn ra một lúc, chính xác, căn cứ vào những gì mà sáu bảy bệnh nhân tới Ngũ Vị đường và Tế Thế đường cùng với người hộ tống đã nói, bên trong có hai vấn đề vẫn chưa thể xác định. Thứ nhất, rốt cuộc có phải là phế thử dịch hay không? Hiện tại chỉ là dựa vào triệu chứng của bệnh để suy đoán, chưa được kiểm nghiệm chính xác, không thể phán đoán. Thứ hai, Lưu Gia Loan có phải xuất hiện rất nhiều người chết trong một đêm không? Trước mắt chỉ có một mình cữu cữu của hài tử đó chứng minh. Cho nên, nếu bảo Đỗ Văn Hạo tự mình khẳng định rằng bệnh này chính là lệ dịch thì rất khó vì chứng cứ không đủ nên vẫn không thể nói như vậy.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thế này đi, xin nha môn điều tám con chiến mã, ta và y quan của nha môn cùng nhau lập tức đến Lưu Gia Loan tra xét!”

Hầu sư gia nói: “Đại nhân đang chuẩn bị nói chuyện này với ngài ở tiệc rượu, đại nhân có ý đề bạt ngài làm y quan của bản huyện. Cái này thật đúng lúc.”

“Hả?” Đỗ Văn Hạo có chút kinh hỉ nhìn về phía Trang tri huyện.

Trang tri huyện gật đầu nói: “Đúng vậy, y quan của bản huyện theo luật là phải có năm người, mấy ngày trước Ngô đại phu cáo lão hoàn hương, có một chỗ trống. Đỗ đại phu ngài y thuật như thần, chữa khỏi bệnh liệt…ừm, bệnh nhỏ của bản huyện, ta rất vừa lòng, có ý đề bạt ngươi lấp vào chỗ trống này, làm y quan của bản huyện, vừa hay gặp phải chuyện này, ngài có thể danh chính ngôn thuận đi điều tra, không biết ý ngài thế nào?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng cúi người, nói: “Đa tạ đại nhân đề bạt!”

Tống triều lịch triều hoàng đế đều rất chú ý tới y học, ngoại trừ ban bố y liệu pháp lệnh, in ấn y thuật ra, còn ra sức tăng cường kiến thiết cơ cấu y liệu, phân biệt thiết lập y sự hành chính, cơ cấu giáo dục y học và cơ cấu quản lý dược liệu.

Y quan thuộc về quản lý hành chính y liệu kiêm quan viên của của cơ quan y liệu. Chia làm hai cấp trung ương và địa phương. Tại triều đinh là Hàn lâm Y quan cục, phụ trách cung phụng y dược của triều đình, khám và chữa bệnh cho triều thần và hoàng thân quốc thích trong cung, một khi quân đội, dân gi­an phát sinh tình hình bệch dịch quy mô lớn, cũng sẽ phái ra tổ đội y quan của triều đình tới trị liệu.

Nha môn của mỗi phủ huyện cũng có y quan cục, hạn ngạch được quy định, thuộc về hàng ngũ quan lại của triều đình, ăn bổng lộc triều đình, y quan địa phương một người là y bác sĩ, một người là trợ giáo, làm chức chính và ph của y cục, Y quan bình thường nếu trải qua thi cử y học mới có thể được tuyển dụng, nhưng cũng phải do trưởng quan hành chính của địa phương tiến cử bổ nhiệm trực tiếp.

Y quan cục địa phương chức năng chủ yếu là phụ trách quản lý các sự vụ trên phương diện y liệu của bản địa, đồng thời có có một chức năng quan trọng chính là khống chế tình hình bệnh dịch, y quan của y quan cục có thể đồng thời kiêm nhiệm đại phu của tiệm thuốc, chẩn bệnh cho bách tính.

Hầu sư gia nói: “Cung hỉ Đỗ tiên sinh! À không, phải gọi là Đỗ y quan.” Quay người nói với Trang tri huyện: “Đại nhân, phòng trị bệnh dịch không được dây dưa, lập tức bắt tay vào tiến hành ngay, truyền lệnh cho Bàng huyện úy, bốn cửa tăng cường trạm gác, kiểm tra thương khách ra vào, thiết lập khu cách ly ở ngoại thành, lập tức thông tri cho bác sĩ Khâu và trợ giáo Thang của y quan cục, bảo bọn họ triệu tập y quan cùng Đỗ y quan tới Lưu Gia Loan kiểm tra tình hình bệnh dịch. Đồng thời, phái ra tin khẩn cấp tám trăm dặm, báo cáo với phủ thành, Lưu Gia Loan có thể đã xuất hiện lệ dịch, đang phái y quan tới kiểm tra thực hư. Đây là tiến thoái đều thích hợp.”

Trang tri huyện gật đầu nói: “Được! Ngươi lập tức làm đi!”

Đỗ Văn Hạo thực sự rất bội phục sự quyết đoán và ứng phó lão luyện trên quan trường của Hầu sư gia.

Hầu sư gia trước tiên đưa Đỗ Văn Hạo tới y quan cục, bên trong chỉ có hai y quan đang ngủ gật, một người gọi là Hồng Quốc Lương, một người gọi là Khiếu Vương Tường. Cục trưởng Khâu bác sĩ và Thang trợ giáo - phó cục trưởng của y quan cục cả cái bóng cũng không thấy, hỏi ra mới biết, hai lão đầu này đã đến trà lâu rồi. Hầu sư gia sau khi giới thiệu, bảo Vương Tường mau đi gọi hai vị lãnh đạo về, sau đó tự mình đi tìm Bàng huyện úy.

Đợi khoảng nửa canh giờ, Đỗ Văn Hạo sốt ruột đi bắt đầu đứng dậy đi lòng vòng trong y quan cục, lúc này mới thấy Khâu bác sĩ và Thang trợ giáo trở về.

Vương Tường y quan sau khi giới thiệu, Đỗ Văn Hạo vội vàng đi lên chắp tay nói: “Đỗ Văn Hạo bái kiến bác sĩ, trợ giáo đại nhân!”

Khâu bác sĩ tai to mặt lớn, rất béo, từ từ đi tới phía sau bàn, ngồi lên ghế thái sư, chớp chớp cái mí mắt dầy cộp nhìn Đỗ Văn Hạo từ trên xuống dưới: “Ngươi chính là y quan Đỗ Văn Hạo mới đến ư?”

“Chính vậy.”

“Ừ, đã nghe nói, Hứa Tứ Hải lần trước đánh trống minh oan từng kiện ngươi, nói ngươi có tội lang băm cố ý giết người, cũng không biết sau này xoay đi xoay lại thế nào ngươi lại không có tội, ha ha, xem ra ngươi thật sự có chút bản lãnh đó.”

Đỗ Văn Hạo nghe những lời này của hắn rất không thoải mái, nhưng lúc này không rảnh để nói về chuyện này, chắp tay nói: “Đại nhân, dịch tình khẩn cấp, chúng ta lập tức động thân thôi!”

“Dịch tình? Đúng rồi, vừa rồi bọn họ chạy tới nói rằng ngươi phát hiện Lưu Gia Loan có lệ dịch?”

“Đúng vậy.”

Khâu bác sĩ kéo dài giọng, tràn đầy vẻ hách dịch và châm trọc: “Lệ dịch không phải là tùy tiện nói ra được đâu, những năm nay thiên hạ thái bình, bản huyện không có phát sinh tai ương gì lớn, lấy đâu ra đại dịch? Ngươi rốt cuộc có hiểu cái gì gọi là lệ dịch không? Hừ, lão hủ nói cho ngươi biết, Tố Vấn nói, nếu là nhiễm dịch, không hỏi lớn nhỏ, bệnh trạng đều giống nhau. Lục Nguyên chính kỷ đại luận viết bệnh ôn lệ đại hành, xa gần đều yếu, thì là ôn lệ…”

Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng nhịn không được, ngắt lời hắn: “Đừng nói nữa, những cái này Đỗ mỗ đều biết!”

Chương 114: Tử vong thôn trại.

Khâu bác sĩ bị Đỗ Văn Hạo ngắt lời, rất không vui, hừ lạnh một tiếng, nói: “Hoang báo lệ dịch có thể là trọng tôi! Nhẹ thì bị cách chức, nặng thì chém đầu!”

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Phòng dịch bất lực, tội càng nặng hơn!”

“Ái chà! Tiểu tiểu y quan như ngươi, không ngờ dám giáo huấn lão hủ ư?”

“Đại nhân! Dịch tình mạnh như hổ! Một khi bạo phát, hàng ngàn hàng vạn người sẽ chết! Tri huyện đại nhân bảo chúng ta lập tức tới Lưu Gia Loan kiểm tra xem có phải là có dịch tình thật không, nhưng người vẫn ở đây đàm luận viển vông, đúng là…, người không đi thì ta đi!”

Đỗ Văn Hạo phất tay áo, quay người bỏ đi, dẫu sao hắn cũng chẳng thích cái chức y quan nho nhỏ này, tội gì mà phải chịu đựng tính khí khó chịu của lão béo đó.

Thang trợ giáo ở bên cạnh vội vàng giữ lại: “Đợi đã, Đỗ y quan, đừng gấp, làm rõ chuyện đã rồi hãy đi cũng chưa vội.”

“Cái người cứ từ từ làm rõ đi, ta nhận lệnh của tri huyện đại nhân, phải lập tức tới Lưu Gia Loan điều tra, xin lỗi không thể phụng bồi!”

Đỗ Văn Hạo đẩy tay trợ giáo ra, lao ra ngoài y quan cục.

Khâu bác sĩ tứ giận đến nỗi râu rung rinh, chỉ ra cửa: “Tên này…đúng là…!”

Thang trợ giáo nói với Khâu bác sĩ: “Đại nhân, chúng ta hay là nhanh theo đi, vừa rồi Hầu sư gia tới phân phó, bất kể là có dịch tình hay không, cũng phải tới điều tra một lượt.”

“Vậy…, được rồi!” Khâu bác sĩ bất đắc dĩ đứng dậy.

Thang trợ giáo chạy nhanh ra ngoài gọi Đỗ Văn Hạo: “Đỗ y quan, đợi chúng tôi đã, cùng đi đi!”

Đỗ Văn Hạo đã phi thân lên ngựa, quay đầu nói: “Được, các ngươi mang theo thuốc, đợi ta ở Tây thành, ta trước tiên về lấy một ít đồ đã.” rồi giật cương, lao ra khỏi nha môn.

Mặc dù đây là lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo cưỡi ngựa một mình, nhưng lần trước hắn đã cưỡi cùng Bàng Vũ Cầm nên cũng biết phải điều khiển như thế nào. Ngựa của nha môn đều trải qua huấn luyện, dễ điều khiển, cho nên rất nhanh đã về tới Ngũ Vị đường.

Gi­ao ngựa cho Ngốc béo, vội vàng vào đại đường, nghe Ngô Thông nói lại có thêm bệnh nhân cấp cứu nghiêm trọng tới, cũng giống như những người trước đều án theo yêu

cầu của Đỗ Văn Hạo chuyển tới khu phòng bệnh cách ly.

Đỗ Văn Hạo vội vàng chạy tới khu cách ly, vừa vào đã trợn tròn mắt. Trên mắt đất của khu cách ly đặt bảy tám chiếc cáng cứu thương đơn giản được làm bằng ván cửa, bệnh nhân nằm trên đó đều là những người được Hàm Đầu chuyển tới từ các tiệm thuốc khác trong huyện thành. Đã được chẩn sát, toàn bộ chứng trạng đều giống nhau, toàn thân đau đớn, da tím tái, sốt cao và ho, trong đờm có máu.

Hàm Đầu cùng Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi hi vội vàng cứu trị cho bệnh nhân.

Thiếu phụ mà Đỗ Văn Hạo đã cứu chữa lúc trước cùng trượng phu và tiểu hài của nàng sau khi dùng thuốc bệnh tình đã khá ổn định. Những bệnh nhân mới chuyển đến, một bộ phận sau khi dùng thuốc thì không còn có hiện tượng trầm trọng thêm nữa, còn lại phần lớn, đặc biệt là những người bị nặng, sau khi dùng thuốc không có chuyển biến tốt, bệnh tình tiếp tục trầm trọng đi, có hai người đã chết.

Đỗ Văn Hạo tâm tình nặng nề. Từ góc độ Trung y biện chứng, bệnh này ở gi­ai đoạn khác nhau sẽ có những chứng trạng khác nhau, cách chữa trị theo đó cũng khác nhau. Thang thuốc trước đây chỉ hữu hiệu đối với những bệnh nhân được đối chứng, cho nên để nâng cao xác suất khỏi bệnh, phải tự mình chẩn sát và luận trị cho mỗi bệnh nhân. Nhưng bệnh này một khi bạo phát thì sẽ truyền nhiễm trên quy mô lớn, có hàng ngàn hàng vạn bệnh nhân, mình căn bản không đủ sức để xem xét cho từng người một. Hơn nữa, lệ dịch này từ lúc phát bệnh cho đến lúc tử vong, bình thường không quá hai ngày, không thể kịp chẩn trị cho mỗi người.

Làm thế nào đây? Đỗ Văn Hạo lần đầu tiên trải qua loại chuyện này, khẩn trương đến nỗi đầu tóc dựng đứng.

Lúc này, lượng quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc đợt thứ nhất do Lâm Thanh Đại đặt mua đã được làm xong và đưa đến. Đỗ Văn Hạo mừng rỡ, bảo bọn Hàm Đầu lập tức đeo mặt nạ phòng độc vào rồi mới chữa trị, nói khái quát công dụng và cách sử dụng mặt nạ phòng độc. Đám người Hàm Đầu hiện tại Đỗ Văn Hạo bảo sao thì nghe nấy, án chiếu theo yêu cầu mà mặc vào, sau đó tiếp tục cứu chữa.

Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại tổ chức người đem thi thể chuyển tới phòng ở dưới đất, sau đó sử dụng nước thuốc để tiến hành khử trùng nghiêm ngặt khu cách ly, đồng thời cũng nói với bọn họ là mình phải đến Lưu Gia Loan để điều tra dịch tình, báo cáo lên triều đình.

Bàng Vũ Cầm nghe vậy liền nôn nóng, vội vàng nói: “Đỗ tiên sinh, ta đi cùng ngài!”

“Nàng đi làm gì? Nàng hiện tại còn chưa đối phó được với loại bệnh này!”

“Không! Ta…, ta phải đi cùng ngài…!” Bàng Vũ Cầm kéo Đỗ Văn Hạo không chịu buông ra, chỉ sợ hắn không để mình đi, không biết nói gì, nôn nóng tới mức mắt ứa lệ.

Đỗ Văn Hạo vỗ vai nàng, nói: “Vậy cũng được, chúng ta đi!”

Bàng Vũ Cầm lau nước mắt gật gật đầu.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm đeo mặt nạ phòng độc vào, lại lấy mấy bộ dùng vải bọc lại rồi đeo lên lưng, dắt Bàng Vũ Cầm ra khỏi cửa, bảo Bàng Vũ Cầm lên ngựa trước, mình thì ngồi ở phía sau, cưỡi ngựa tới thành tây.

Lôi bộ đầu đã dẫn các bộ khoái tiến hành điều tra giám sát người ra vào, đám người Khâu bác sĩ cũng đợi ở cửa, thấy Đỗ Văn Hạo tới, mắt lộ vẻ tức giận: “Ngươi nói là khẩn cấp, sao còn lề rề làm gì nữa?”

Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói: Đại nhân, Ngũ Vị đường của chúng ta vừa có một số bệnh nhân được đưa tới, chứng trạng giống nhau, rất giống với lệ dịch. Đã có hai người tử vong! Những bệnh nhân khác cũng rất nghiêm trọng! Ta lo lắng trong thành có thể rất nhanh sẽ bạo phát dịch tình, hai vị đại nhân cần phải có một vị ở lại để tọa trấn chỉ huy, không cần phải đi hết đến Lưu Gia Loan.”

Khâu bác sĩ nghe vậy, sắc mặt có chút biến đổi, nói: “Lời ngươi nói là thật chứ?”

“Đại nhân tốt nhất là nên ở lại tọa trấn, thuận tiện tới Ngũ Vị đường xem một lần là có thể biết được thật giả.”

“Vậy được!” Khâu bác sĩ vừa hay mượn cớ để xuống ngựa, nói với Thang trợ giáo: “Ngươi cùng Hồng Quốc Lương tới Lưu Gia Loan, Vương Tường, ngươi theo ta tới Ngũ Vị đường xem xét tình huống.”

Đỗ Văn Hạo nói với Lôi bộ đầu, phái người tới Ngũ Vị đường lấy quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc để mặc, Lôi bộ đầu biết bọn Đỗ Văn Hạo phải tới Lưu Gia Loan, dắt một con ngựa đến cho Bàng Vũ Cầm. Ba mươi dặm đường không phải là gần, hai người ngồi một con ngựa chỉ sợ nó sẽ không chịu nổi.

Đỗ Văn Hạo cảm tạ, đổi ngựa, sau đó dẫn Bàng Vũ Cầm, cùng Thang trợ giáo, Hồng Quốc Lương phi ngựa ra khỏi cửa thành.

Trên đường, thỉnh thoảng lại gặp những đoàn người dắt người nhà chạy nạn, hỏi ra mới biết, họ đến từ những thôn khác nhau, nhưng ở những thôn tử đó có không ít người bị bệnh chết, trong đó đương nhiên có người của Lưu Gia Loan.

Tai nghe là giả, mắt thấy là thật, loại sự tình này không thể chỉ nghe lời đồn, vạn nhất chỉ là nghe nhầm đồn bậy, vậy thì sẽ tạo thành hỗn loạn. Mấy người tiếp tục đánh ngựa phi về phía trước.

Khi tới gần Lưu Gia Loan, lờ mờ đã thấy có hai ba thi thể nằm chết bên đường, toàn thân tím đen, tình trạng rất khủng khiếp, Bàng Vũ Cầm sợ hãi không dám nhìn.

Lưu Gia Loan ở ven một con sông nhỏ, nhìn từ xa là một địa phương phong cảnh thơ mộng, trận tuyết rơi hai ngày trước đã tan phần lớn, để lộ ra bùn đất lầy lội trên đường. Bọn họ đánh ngựa vung roi, thẳng đường mà phi, cuối cùng cũng tới nơi.

Cửa thôn có mấy con trâu đang gặp cỏ, nhưng không thấy mục đồng, nhìn từ xa thấy thôn đầy tử khí nặng nề, cũng không thấy có khói bếp dập dềnh, bốn người nhìn nhau, trong lòng trầm xuống.

Đỗ Văn Hạo nói: “Mọi người mau mặt quần áo cách ly, đeo mặt nạ phòng độc vào!”

Mấy người học theo Đỗ Văn Hạo mặc đồ cách ly, đeo mặt nạ phòng độc, Đỗ Văn Hạo nói những việc cần chú ý, sau đó mấy người lại lên ngựa phi vào trong thôn.

Vừa vào thôn Bàng Vũ Cầm đã giật nảy mình hét lên thất thanh, chỉ thấy nàng chỉ vào một gi­an nhà: “Ở đó…, ở đó hình như có một người!”

Đỗ Văn Hạo nhìn theo phương hướng mà Bàng Vũ Cầm chỉ, thấy ở cửa một căn nhà nhỏ ngay đầu thôn có một người đang nằm sấp, tư thế rất quái dị, từ tư thế cứng đờ co quắp đó, Đỗ Văn Hạo có thể phán đoán, người này chắc đã chết. Mọi người giục ngựa tới, chỉ thấy người đang nằm là một lão đầu. Đỗ Văn Hạo nhảy xuống ngựa, bước đến lật người ông ta lại, thấy sắc mặt tím tái, hai mắt mở trừng trừng nhìn về phía trước, thi thể đã cứng ngắc.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy nhìn vào trong nhà, phát hiện còn có một người đang nằm, đó là một lão thái tóc bạc trắng, vội vàng chạy vào xem, phát hiện bà ta cũng đã chết.

Đỗ Văn Hạo bước ra con đường lớn trong thôn, hét lớn: “Có ai không?”

Giọng nói của hắn vang đi rất xa, nhưng không nghe thấy tiếng ai trả lời.

Mấy người khác cũng hét lớn theo, những vẫn không có hồi âm.

Đỗ Văn Hạo nói: “Mọi người chia ra tìm, xem xem có ai còn sống không! Sau đó lại tập trung ở đây! Chú ý an toàn, tuyệt đối không được cởi quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc, cũng không được chạm vào thi thể!”

Thang trợ giáo và Hồng Quốc Lương tìm hai bên trái phải, Đỗ Văn Hạo dắt Bàng Vũ Cầm tìm ở giữa.

Bước chưa được mấy bước, ở bên đường lại phát hiện ra mấy thi thể ngã chết, toàn thân tím đen. Hai người bọn họ dọc đường cưỡi ngựa mà đi, vừa đi vừa hô lên, đi tới tận đầu kia của thôn, ngoại trừ những thi thể ngã bên đường ra, không nghe thấy tiếng trả lời của bất kỳ người sống nào.

Hai người xuống ngựa, bắt đầu lần lượt sục sạo mỗi nhà mỗi hộ. Mở cửa một nhà, liền thấy có thi thể ngã trong phòng, hoặc là trên giường, hoặc là dưới đất, hoặc là ở cạnh cửa, nam nữ già trẻ đều có. Thi thể mà hai bọn họ tìm được có đến cả trăm. Rất nhiều nhà bị lục lọi vô cùng ngổn nang, một số đồ đáng giá đều không thấy đâu. Đỗ Văn Hạo trong lòng trầm xuống, điều này chứng tỏ người­may mắn sống sót trong thôn dưới cơn hoảng loạn đã chạy ra khỏi thôn! Điều này cho thấy, dịch tình sẽ lan rộng thêm một bước.

Hiện tại không có biện pháp để hồi báo cho bọn Trang tri huyện, Đỗ Văn Hạo dắt Bàng Vũ Cầm tiếp tục tìm người may mắn sống sót.

Trong một căn nhà tương đối lớn đầy người chết, Đỗ Văn Hạo phát hiện Bồ Sơn của thôn Ba Cây Liễu, còn có phụ thân của hắn là Bồ lão hán và hai hài tử, đều đã chết.

Đỗ Văn Hạo tâm tình rất trầm trọng, không ngờ, mình đang nghĩ biện pháp chữa trị chứng thiếu máu không thể tái sinh của hắn thì hắn đã chết trước vì dịch hạch.

Tiếp đó lại đi tìm xem còn có người may mắn sống sót hay không. Cuối cùng, trong một căn nhà lá nhỏ, phát hiện có một nam tử trẻ tuổi, đang nghiêng người dựa vào góc tường, mắt vô thần nhìn ra cửa, miệng thở hổn hển.

Đỗ Văn Hạo nhanh chân chạy lên, cúi người hỏi: “Vị đại ca này? Chúng ta là y quan của huyện nha, trong thôn phát sinh chuyện gì vậy?”

“Chết rồi…, khụ khụ khụ, đều bệnh chết rồi…, không tới hai ngày, người trong một thôn đều chết hết, khụ khụ khụ…, những người còn lại…, đều chạy hết rồi…khụ khụ khụ!”

“Ngươi có biết gần đây còn có thôn nào xuất hiện bệnh này không?”

“Không biết…khụ khụ khụ, ngực…đau quá…”

Nói tới đây, người này hô hấp càng lúc càng gấp.

Đỗ Văn Hạo mắt thấy hắn lập tức sắp mất tri giác, vội vàng từ trong hòm xuất chẩn lấy ra kim châm định chữa trị cho hắn, nhưng, vừa lấy kim châm ra, miệng nam tử đã ứa máu màu đỏ sẫm, hai mắt trợn lên, từ từ mềm oặt ngã xuống đất, đến đây thì không động đậy nữa.

Chương 115: Nguy cơ.

Lúc này, đột nhiên nghe thấy trên đường lớn truyền tới tiếng hô hoán của Thang trợ giáo và Hồng Quốc Lương: “Đỗ y quan! Tam tiểu thư! Các ngươi ở đâu?”

Hai người vội vàng chạy ra khỏi căn nhà, đi tới đường chính: “Chúng ta ở đây…!”

Thang trợ giáo và Hồng Quốc Lương giục ngựa chạy tới, Thang trợ giáo là một lão đại phu, làm y quan đã nhiều năm, trước đây đã từng tham gia phòng trị n dịch, chỉ là, ôn dịch mãnh liệt như thế này, lão từ trước đến giờ chưa từng thấy, thậm chí còn chưa từng nghe qua, thanh âm nói ra cũng trở nên run rẩy: “Chết rồi…! Tất cả mọi người đều…đều chết rồi! Một người sống cũng…cũng không có!”

Hồng Quốc Lương cũng khẩn trương gật gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chúng tôi phát hiện ra rất nhiều nhà đều có dấu vết lục lọi, đồ đạc có giá trị đều đã bị mang đi hết, còn các người?”

“Cũng phát hiện thế. Trong cái địa phương này, chỉ sợ là không ai có đủ dũng khí để vào mà trộm đồ đâu, cho nên, rất có thể là do những người sống sót đã mang đồ châu báu chạy thoát thân.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Đúng, chúng ta tìm thấy một người may mắn sống sót, đáng tiếc, vừa rồi cũng đã chết, ta không cứu kịp. Trước khi chết còn nói một câu, người sống đều chạy hết rồi, những người này có thể đem dịch tình lan truyền ra, chúng ta phải lập tức trở về báo cao, cách ly toàn bộ khu này, đề phòng dịch bệnh có thể phát triển rộng hơn!”

Bốn người lập tức quất roi phi ngựa về huyện thành.

Lúc này trời đã tối, đường tối đêm khó đi, khi nhìn thấy tường thành thì đã là đêm khuya.

Chỉ thấy bên ngoài cửa thành đốt mấy đống lửa trại, ngọn lửa bốc lên cao. Không biết đã phát sinh chuyện gì. Bốn người cưỡi ngựa tới dưới thành, phát hiện ngoài sông hộ thành (sông nhỏ bao quanh tường thành) đầy là bách tính chạy nạn, có người đứng, có người nằm, còn dùng ván cửa để khiêng người. Những tiếng hét và tiếng van cầu vang lên, xen lẫn với tiếng ho, tiếng rên thống khổ, khóc cha gọi mẹ.

Cổng thành lúc này đã được đóng chặt. Trên thành lâu có bộ khoái, dân tráng, toàn bộ đều trang bị vũ khí, tay cầm cung tên, đèn đuốc sáng chưng.

Cầu treo bắc qua sông hộ thành sau mấy chục năm yên bình đã mất đi ý nghĩa chiến tranh của nó. Sông hộ thành cũng nhiều năm không sửa chữa, chỉ có khi trời đổ mưa lớn vào mùa hè mới có thể miễn cưỡng gọi là sông, còn mùa đông thì khô cằn, cạn trơ đáy.

Trên thành lâu có một bộ khoái đang hét lớn: “Các vị hương thân, tri huyện đại nhân có lệnh, từ hôm nay sẽ đóng cửa thành. Người nào tự tiện qua sông hộ thành để vào thành đều giết không cần hỏi! Xin mọi người tản đi, đừng tụ tập lại cùng nhau, để tránh ôn dịch lan rộng!”

Thanh âm vừa dứt, ở bên dưới đã vang lên tiếng van xin: “Cầu xin lão gia mở cửa để chúng tôi vào! Chúng tôi phải tìm đại phu để trị bệnh…cầu xin ngài…cầu xin ngài đại phát từ bi, để chúng tôi vào thành đi!”

Những người này nói vậy, nhưng không qua ai dám qua cầu treo để vào thành.

Đỗ Văn Hạo chăm chú nhìn, mới phát hiện trước cửa lớn và trên cầu treo của cửa thành có mấy chục thi thể đang nằm, trên người đầy là mũi tên, hiển nhiên là lúc trước liều mạng xông vào thành nên bị các bộ khoái trên thành bắn chết. Cho nên, thời điểm này bách tính chỉ có thể đứng ngoài sông hộ thành mà lên tiếng kêu xin, không ai dám qua cầu.

Chính vào lúc này, trong đám đông có người nôn ra máu. Người bên cạnh hét lên: “Ái chà, có người phát bệnh rồi!”

Những người ở xung quanh lập tức tản ra, để lại một khoảng trống khá rộng xung quanh người nọ. Mấy tráng hán chạy tới nắm tay chân người đó, kéo tới ném vào vào trong rãnh đầy bùn lầy của sông hộ thành.

Đỗ Văn Hạo vội vàng giục ngựa tới cạnh sông hộ thành, mượn bó đuốc rồi nhìn vào trong sông hộ thành, chỉ thấy trong rãnh bùn của sông hộ thành ngổn ngang đầy xác người, có người không động đậy, có người thì đang co quắp phát ra tiếng rên thống khổ.

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên hỏi mấy tráng hán: “Vì sao lại ném vào trong rãnh? Hắn còn sống mà!”

Đỗ Văn Hạo mặc quần áo cách ly, đeo mặt nạ phòng độc, bộ dáng rất quái dị, mấy tráng hán nhìn hắn từ trên xuống dưới, vừa ho vừa hét lên: “Ngươi là ai? Ăn mặc kỳ dị thế này là muốn là trò quỷ gì? Không muốn bị đánh thì cút sang một bên! Khụ khụ khụ!”

Bàng Vũ Cầm nói: “Vị này là Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường! Không được vô lễ!”

Lời này vừa được nói ra, trong trường lập tức xôn xao, tráng hán kinh ngạc nói: “Ngài đúng là Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường, thông thạo thuật mổ bụng liệu thương của Hoa Đà?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Chính là Đỗ mỗ! Mau kéo hắn lên đi, người còn chưa chết, phải ra sức cứu trị!”

Lúc này, một lão hán không ngừng ho ở bên cạnh đã kéo một tiểu hài tới quỳ trước mặt Đỗ Văn Hạo: “Đỗ đại phu, cầu ngài cứu tôn tử của ta, nó bị bệnh rất nặng…” Hài tử đó cũng không ngừng ho.

Nhiều người vừa nghe thấy vị này đúng là Đỗ đại phu nổi danh với thuật mổ bụng liệu thương, ào ào lao tới, quỳ xuống đất dập đầu: “Đỗ đại phu, cứu ta với, ta sắp chết rồi…” “Cứu mẹ ta với…” “Cầu xin ngài cứu nhi tử của ta đi…”

Thì ra những người ở ngoại thành này đại bộ phận đều nhiễm bệnh muốn vào thành tìm thầy thuốc, những người không có bệnh hoặc tự thấy mình không có bệnh thì đều chạy tứ tán rồi.

Đỗ Văn Hạo thúc thủ vô sách, cũng không dám cởi mặt nạ phòng độc xuống, nói: “Mọi người mau đứng lên, ta sẽ nghĩ biện pháp cứu chữa cho mọi người, nhưng hiện tại trong tay ta không có thuốc, phải vào thành, về tới đường mới có thuốc.”

“Đúng đúng! Vào thành! Vào thành mới có thuốc!” Mọi người ào ào nói.

Lúc này, Thang trợ giáo cũng giục ngựa lên, cởi mặt nạ phòng độc ra, hét lên với người ở trên thành lâu: “Người bên trên nghe đây, ta là Thang trợ giáo của nha môn! Phụng mệnh cùng Đỗ đại phu xuất thành đã về rồi đây, mau mở cửa để chúng ta lấy thuốc cứu trị cho bệnh nhân!”

Người trên lầu nghe thấy vậy, kinh hỉ cao giọng nói: “Đỗ đại phu, Thang trợ giáo, xin đợi một chút, tiểu nhân lập tức đi bẩm báo!”

Mấy tráng hán sau khi nghe nói quả nhiên đúng là Đỗ Văn Hạo, liền vội vàng xin lỗi, Đỗ Văn Hạo bảo bọn họ mau xuống rãnh kéo người còn sống lên để chuẩn bị trị thương. Những tráng hán này cũng đều là tới cầu thầy thuốc, nào dám nói nửa câu, gọi thêm hơn chục người nữa đi xuống rãnh, khênh những người còn thở lên.

Đỗ Văn Hạo lập tức đứng dậy, cao giọng gọi: “Mọi người nghe đây! Tất cả những người sốt và ho, cảm thấy không khỏe toàn bộ tập trung ở cạnh đống lửa, ta lập tức sẽ tổ chức cứu trị. Những người không có bệnh thì lập tức đứng cách một trăm trượng ở đầu gió, đợi trời sáng! Nhớ là phải bảo trì cự ly với nhau, dùng khăn che mũi và miệng, để tránh truyền nhiễm cho nhau!”

Đỗ Văn Hạo vẫn đeo mặt nạ phòng độc không dám tháo ra, lời nói ồm ồm nghe không rõ, chỉ có mấy người bên cạnh mới nghe thấy, những người khác thì vẫn tiếp tục rên rỉ cầu khẩn.

Mấy tráng hán đó nhắc lại những lời Đỗ Văn Hạo vừa nói, lúc này đại bộ phận người đều đã nghe thấy. Nhưng người không có bệnh thì không nỡ rời khỏi thân nhân bị bệnh, đều không nguyện ý để bệnh nhân ở cạnh đống lửa còn mình thì rời đi. Nhất thời khung cảnh lại ầm ĩ hỗn loạn.

Đỗ Văn Hạo nói: “Trước tiên để người đã hôn mê ở cạnh đống lửa, cứu người bị bệnh nặng trước!”

“Nhi tử của ta hôn mê rồi! Cứu nhi tử của ta trước đi!”

“Cứu nãi nãi của ta! Đỗ tiên sinh, cứu nãi nãi của ta trước!”

“Tướng công của ta thổ huyết, sắp không xong rồi, cầu xin ngài cứu tướng công của ta trước!”



Đỗ Văn Hạo cao giọng nói: “Ta hiện tại không có thuốc, chỉ có thể dùng kim châm cứ người hôn mê, đợi thuốc đến rồi sẽ cứu chữa cho mọi người!” Nói xong liền nhảy xuống ngựa, lấy kim châm ra, trước tiên dùng kim châm độ huyệt cứu tỉnh những người đã hôn mê.

Đang lúc bận rộn, đột nhiên từ đằng sau có hai đại hán giống như là hai cây cột sắt lừng lững chen lên, những người trước mặt bọn họ bị hai người này chen cho ngã sang hai bên. Hai đại hán lao đến trước mặt Đỗ Văn Hạo, một người túm lấy cánh tay của Đỗ Văn Hạo kéo lên, giọng ồm ồm nói: “Đi! Giúp trị bệnh cho mẫu thân ta trước!”

“Ngươi làm gì vậy?” Cái nắm tay này khiến cho cánh tay Đỗ Văn Hạo muốn gãy, hét lên: “Bỏ ta ra! Tay ta sắp gãy rồi!”

“Buông Đỗ tiên sinh ra!” Bàng Vũ Cầm nôn nóng, giục ngựa tới hét lên, mắt thấy Đỗ Văn Hạo đau tới mức mặt nhăn nhúm liền quất roi ngựa vào tráng hán đó.

Nhưng cái quất này chỉ giống như là gãi ngứa cho tráng hán đó, hắn quay người lại, bỗng dưng đấm một quyền lên tuấn mã mà Bàng Vũ Cầm đang cưỡi, con ngựa hí dài, nghiêng sang một bên rồi ngã xuống đất, miệng thổ huyết không đứng lên được nữa. Con ngựa này đột nhiên ngã xuống, đè lên không ít người, may mà Bàng Vũ Cấm trên lưng ngựa cũng phản ứng rất nhanh, mượn thế lăn một cái mới không bị thương.

Đai hán kia một tay túm lấy cổ Đỗ Văn Hạo quát to: “Ngươi dám loạn động ta sẽ vặn gãy cổ ngươi! Đi! Xem bệnh cho mẫu thân ta! Trị không khỏi thì ngươi cũng đừng hòng sống!” Nói xong, tay kia nắm hông Đỗ Văn Hạo, hét lên mọt tiếng, nhấc hắn lên không rồi cất bước đi ra ngoài, đại hán còn lại thì đi trước dùng tay gạt ngang, những người đứng cản trước mặt lập tức bị đẩy sang hai bên.

Bàng Vũ Cầm bò dậy muốn đuổi theo, nhưng bị đám người cản lại, lo lắng đến nỗi bật khóc thành tiếng.

Chính vào lúc này, một tiếng quát lanh lảnh vang lên: “Đứng lại! Không được làm tổn thương Đỗ đại phu!”

Mọi người giật mình nhìn lên, chỉ thấy từ trên thành lâu một người mặc quần áo cách ly màu trắng, vung tay đoạt lấy một thanh trường thương trong tay một dân tráng ở bên cạnh, tung người nhảy ra khỏi tường thành trong tiếng hô kinh ngạc xen lẫn sợ hãi của những người dưới đất, giống như một viên lưu tinh màu trắng, lao đầu xuống phía dưới thành lâu.

Khi sắp đụng vào mặt đất, trường thương trong tay người đó chống một cái xuống đất, lập tức cong thành một hình cung, mượn lực rơi xuống và sự đàn hồi của trường thương, thân hình khẽ rung một cái, vạch ra một đường cong, nhẹ nhàng nhảy qua sông hộ thành, rơi xuống bờ bên kia, nhấp nhô mấy cái giống như đại bàng đã đến trước mặt hai đại hán nọ.

“Cút đi!” Tráng hán đi trước đá một cước về phía người kia, chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái, người đó đã không thấy đâu, một cước của đại hán đá vào khoảng không.

Hắn đặt chân xuống đang muốn quay đầu để tìm liền cảm thấy một lực đạo rất mạnh từ hông truyền tới, sau đó thân hình nặng hơn hai trăm cân của mình xoay tròn lên trên, tiếp theo thì đầu lộn xuống dưới, “bốp” một tiếng, nặng nề nện xuống đất, mắt nổ đom đóm, sau đó, “rắc rắc” một tiếng, đầu bị một chiếc giày thêu giẫm lên, có thể nghe thấy tiếng xương đầu vang lên cạch cạch, tựa hồ như tùy thời muốn vỡ ra, tráng hán một chân vẫn dựng lên cao, bị người đó dùng một tay nắm chặt, toàn thân giống như bị rút hết gân cốt, mềm oặt vô lực không thể phản kháng.

Sau khi đại hán đó bị chế trụ, mắt thấy một tay của đại hán kia còn lại đang đè lên cổ Đỗ Văn Hạo, người áo trắng nọ cũng không dám vọng đông, một tay xách chân của tráng hán, một chân giẫm lên đầu hắn, nghiêm nghị nói: “Buông Đỗ tiên sinh ra, nếu không ta sẽ dẫm nát đầu huynh đệ ngươi!”

Đại hán kia tay đang túm lên cổ Đỗ Văn Hạo đột nhiên run rẩy, rống lên như hổ: “Buông huynh đệ của ta ra! Nếu không ta sẽ bóp chết hắn, đằng nào thì mẹ của ta cũng sắp bệnh chết rồi, mọi người cùng chết vậy!”

Chương 116: Tự cứu.

Đỗ Văn Hạo bị bóp cổ đau đến tái mặt, hai mắt trắng bệch, đầu lưỡi cũng lè hết ra ngoài. Người nọ thấy vậy vội nhấc chân lên, đá mạnh một cái đẩy bay đại hán này về phía người kia, tay phải vung nhẹ một cái, lộ ra một thanh đoản đao sáng ngời, lạnh nói: “Đừng có hành động gì ngu ngốc! Nếu ngươi đả thương Đỗ tiên sinh, ta sẽ lấy mạng ngươi!”

Đại hán vừa bị đá hừ lạnh một tiếng, lồm cồm bò dậy, phủi phủi quần áo, đại hán còn lại trên mặt không hề lộ sợ hãi nào, nhìn đồng bọn của mình nói: “Huynh đệ, ngươi thế nào…?”

Đỗ Văn Hạo vừa rồi mới châm cứu trị liệu cho người ta xong, trong tay vẫn còn cầm hai cái kim châm, thừa dịp đại hán này bị phân tâm, trong nháy mắt vung một tay còn lại lên một cái đã đâm vào hai huyệt Khúc trì ở cổ tay và Kiên Tỉnh ở gần cổ của đại hán!

Đây chính là hai huyệt đạo chi phối sự vận động của toàn bộ cánh tay. Đại hán này ngay lập tức thấy tay phải cùng cả thân thể nhói lên cảm giác tê nhức, mất khả năng điều khiển, nhất thời buông lỏng tay ra. Đỗ Văn Hạo nhân cơ hội này vội kêu to: “Thanh Đại tỷ, cứu ta!”

Người nọ phản ứng cực kỳ mau lẹ, thân vụt lên như thiểm điện, chỉ thấy một tia sáng chợt lóe lên, tay phải của đại hán đang nắm cổ Đỗ Văn Hạo đã bị cắt thành hai đoạn, máu bắn tung tóe.

Đại hán này hét lên một tiếng thảm thiết, nhưng ngay lập tức lại nhận thêm một cước vào giữa ngực, thân mình bay ra xa mấy trượng, nặng nề rơi bịch xuống đất, đau quá đã ngất đi rồi.

Đỗ Văn Hạo lúc này cũng mất chỗ dựa, rơi từ trên không xuống nhưng người nọ đã kịp thời đưa tay đỡ lấy hắn, nhẹ nhàng đặt trên mặt đất. Rồi cũng ngay lập tức, người này thoáng bay lên một cái, đại hán còn lại vốn chưa kịp đứng lên đã lãnh thêm một ngọn cước nữa, bay thẳng một mạch tới chỗ huynh đệ của mình, nằm thẳng cẳng. Xem chừng muốn đứng lên được chắc cũng mất mấy canh giờ nữa.

Lúc này người nọ mới quay sang Đỗ Văn Hạo, gấp giọng hỏi: “Có bị thương không?”

“Không sao, không bị thương!” Đỗ Văn Hạo ném phần còn lại của bàn tay đại hán kia vẫn dính phía sau cổ hắn xuống đất, mừng rỡ ngẩng đầu lên nói: “Cảm ơn ngươi, Thanh Đại tỷ!”

Người này đúng là Lâm Thanh Đại!

Nàng mặc dù lúc này đang mặc y phục cách ly trên người, lại đeo mặt nạ phòng độc, chỉ lộ ra đôi mắt nhưng tiếng hét xé gió thể hiện công phu tuyệt đỉnh của nàng vừa rồi thừa đủ để Đỗ Văn Hạo nhận ra.

Đỗ Văn Hạo mặc dù không biết gì về công phu điểm huyệt, nhưng hắn hiểu rất rõ vị trí cũng như đặc điểm­các huyệt đạo trên cơ thể.

Thực ra lúc đó hắn hoàn toàn có thể dùng châm đâm vào các tử huyệt của đại hán kia ví dụ như Kỳ môn (dưới nhũ căn, ở xương sườn thứ 6), đây là nơi hắn dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên, kim châm dù sao cũng rất nhỏ, không được như đao kiếm, nhiều khả năng đối phương không chết ngay mà thậm chí vẫn kịp phản kích lại mình. Khi đó chính mạng mình sẽ khó giữ. Thêm vào đó, dù sao thì hai đại hán kia cũng chỉ vì muốn mình cứu mạng mẫu thân của họ, vì sốt ruột quá mà xúc động, không kiềm chế được bản thân. Chính vì vậy, Đỗ Văn Hạo mới chỉ đâm vào hai huyệt Kiên Tỉnh (ở điểm giữa của đường nối dưới gai đốt sống lưng với đỉnh xương bả vai, chỗ cao nhất phần vai) và Khúc Trì (co khuỷu tay vào ngực thì huyệt này nằm ở đầu lằn chỉ nếp gấp khuỷu tay). Hai huyệt này vừa không nguy hiểm tới tính mạng lại có tác dụng trong nháy mắt làm tê liệt tay của đại hán kia. Bản thân hắn vốn tin tưởng tuyệt đối vào võ công của Lâm Thanh Đại nên cũng xác định chỉ cần một giây lát đó là đủ cho nàng hành động.

Trong một cái nháy mắt đó, Lâm Thanh Đại đã kịp thời chế trụ đối phương đồng thời cứu được Đỗ Văn Hạo. Cũng may bản tính nàng thiện lương, ra tay dung tình, chỉ tước đi bàn tay của đại hán kia, nếu không chưa chắc giờ này đầu và thân mình của đại hán đó còn ở cùng một chỗ như vậy.

Lúc trước, nhìn thấy Đỗ Văn Hạo rơi xuống từ trên cao, mọi người ở xung quanh ai cũng thét lên kinh sợ, giờ thấy Đỗ Văn Hạo đã bình an thì tất cả đều thở phào nhẹ nhõm.

Đại hán bị chém đứt tay lúc này máu vẫn chảy ròng ròng, nhưng người còn lại thì đã bị trật khớp tay sau cú đá của Lâm Thanh Đại, không thể giúp hắn băng bó vết thương được. Trong khi đó, mọi người xung quanh ai cũng oán hận bọn họ vì lợi ích của mình mà đi bắt cóc đại phu nên cũng không có ai tiến lên băng bó đoạn cổ tay đó cho hắn.

Đỗ Văn Hạo nhìn hắn chảy máu như vậy, sợ rằng chỉ một lúc nữa sẽ chảy hết máu mà chết, động lòng quay sang nói: “Bọn họ dù sao cũng chỉ là sốt ruột cứu mẫu thân, tội không đáng chết, hay là cứu họ một mạng đi. Có được không, Lâm chưởng quỹ?”

Ánh mắt Lâm Thanh Đại chợt có chút biến đổi, giọng trầm xuống: “Mới vừa rồi muốn ta cứu mạng, gọi ta Thanh Đại tỷ, sao bây giờ lại sửa thành chưởng quỹ?”

Đỗ Văn Hạo có chút ngượng ngùng: “Thanh…Thanh Đại!”

Cách xưng hô này nghe thực sự quá mức thân thiết, Lâm Thanh Đại lúc này không hiểu sao vẫn chưa phát hiện mặt mình đã nóng lên một chút.

Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi rốt cục cũng chạy tới nơi, màn nguy hiểm vừa rồi khiến cho Bàng Vũ Cầm sợ muốn ngất đi, giờ đây thấy Đỗ Văn Hạo không có việc gì, nước mắt nàng tuôn rơi ào ào, nức nở nói cũng không nên lời.

Đỗ Văn Hạo vỗ vỗ tay nàng: “Khóc cái gì, không phải ta vẫn bình an vô sự sao? Đừng khóc, khóc nhiều thế lại thành con mèo mướp bây giờ!”

Bàng Vũ Cầm nghe vậy lau vội nước mắt, mỉm cười nhẹ nhàng đánh hắn một cái.

Lâm Thanh Đại tiến lên phía trước, bồi thêm một cước vào cái tay còn lại của đại hán bị trật khớp, khiến cho cả hai tay hắn đều không hoạt động được. Lúc này mới nói với Đỗ Văn Hạo: “Người tốt, ngươi tới cứu hắn đi!”

Tuyết Phi Nhi nhìn Đỗ Văn Hạo, giọng đầy căm hận: “Mới vừa rồi hắn còn muốn giết ngươi! Giờ tại sao ngươi lại còn muốn cứu hắn?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Quên đi, dù sao hắn cũng vì sốt ruột muốn cứu mẹ mình, về tình có thể tha thứ, hơn nữa tay hắn cũng đã bị chặt đứt, coi như đã bị trừng phạt rồi.” Vừa nói hắn vừa cầm hòm thuốc đi lại phía đại hán nọ, dùng dây buộc chặt phía trên cổ tay để máu không chảy nữa rồi lấy một tấm vải xô, đổ bột tam thất lên đó, buộc vào vết thương, sau đó băng bó cẩn thận lại. Tiếp theo hắn cạy miệng đại hán ra, dùng thủy hồ đổ một ít thuốc bột vào mũi đại hán.

Hắn dùng tay lăn qua lăn lại trên hai thái dương đại hán một lúc thì người này tỉnh lại. Vừa nhìn thấy Đỗ Văn Hạo đang băng bó vết thương cho mình, đang định mở mồm nói cái gì thì đột nhiên phát hiện Lâm Thanh Đại đứng ở bên cạnh, mặt lạnh như băng chằm chằm nhìn vào mình, lập tức im miệng, không dám nói gì.

Mọi người thấy Đỗ Văn Hạo lấy đức báo oán, không những tha chết mà còn chữa thương cho đại hán nọ, ai cũng thở dài một tiếng.

Đỗ Văn Hạo lạnh nhạt nói: “Vừa rồi ta đâm ngươi bằng kim châm đã dùng để chữa trị người bệnh khác, kim này đã nhiễm tà độc, ngươi chờ một lát có thuốc mang tới thì phải dùng ngay, nếu không nội trong ba ngày ngươi sẽ chết!”

Đại hán mặt đỏ lựng, liên thanh vâng dạ tạ ơn mà không dám ngẩng mặt nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo đứng dậy quay sang hỏi Lâm Thanh Đại: “Trong thành giờ thế nào rồi?”

Lâm Thanh Đại nói: “Sau khi ngươi đi một lúc, Y quan của nha môn Khâu bác sĩ dẫn người tới xem xét, tiếp đó lại có rất nhiều người bệnh được đưa tới, một số người vừa đưa vào đến nơi đã hộc máu mà chết, toàn thân thâm đen. Khâu bác sĩ nhìn thấy vậy sợ hãi quá đã bỏ chạy rồi. Tới lúc buổi tối, lại có thêm rất đông bệnh nhân, nhiều người đã chết trên đường đi. Phòng cách ly của chúng ta giờ đã đầy kín rồi.”

Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Không phải ta đã nói, đối với những người từ ngoài thành thì lập một khu cách ly ở ngoài thành luôn sao?”

“Không làm được!”

“Tại sao?”

“Ta nghe Long bộ đầu nói, khi mới bắt đầu thực hiện, bọn bộ khoái thủ thành vì chưa từng làm việc này bao giờ, cũng không biết lệ dịch chính xác nó là như thế nào, thường chỉ kiểm tra, liếc qua một cái, hỏi một câu, cảm thấy không nguy hiểm liền cho vào thành hết. Chính vì vậy, khi xế chiều và buổi tối nay đã có rất nhiều người bệnh đi vào trong thành. Ta thấy tình hình diễn biến quá nguy hiểm mới vội vàng chạy tới nha môn bẩm báo Trang tri huyện, nhắc lại lời của ngươi rằng lệ dịch này cực kỳ nghiêm trọng. Trang tri huyện khi đó mới hạ lệnh đóng cả bốn cửa thành, chỉ cho phép ra, không cho phép vào, đồng thời tiền trảm bất cứ người nào không tuân thủ.”

“Trong thành đã ban lệnh giới nghiêm chưa?”

“Không có! Trong thành hiện nay cũng đang náo loạn, tất cả bộ khoái và dân tráng đều đã được điều động tới bốn cửa thành rồi, ai thực hiện giới nghiêm được đây?”

“Trong thành đã có người phát bệnh chưa?”

“Rồi, những người đưa tới Ngũ Vị đường phần nhiều là người trong thành!”

“Không xong rồi! Sớm biết tình hình xấu như vậy thì đáng lẽ nên lập một khu cách ly trị liệu ngay ở ngoài thành từ chiều.”

“Không kịp!” Lâm Thanh Đại trầm giọng, “nghe Lôi bộ đầu nói, xế chiều hôm qua và buổi sáng hôm nay đã có rất nhiều người tiến vào trong thành, phần lớn là từ Lưu Gia Loan và các thôn phụ cận. Xế chiều khi chúng ta nhận được tin tức về tình hình lệ dịch thì trong thành đã có khá nhiều người bị nhiễm rồi, những người phát bệnh đưa tới Ngũ Vị đường đa phần thuộc nhóm này.”

“Như vậy tức là hiện nay trong thành đã có rất nhiều người bệnh rồi sao?”

“Rất nhiều! Toàn bộ hậu viện của chúng ta đã đặc kín người bệnh, Hằng Tường khách điếm đối diện cũng vậy. Vừa rồi, khi ta tới đây cũng nhìn thấy rất nhiều người đang được chuyển tới. Dọc đường phố cũng có không ít thi thể thâm đen mà không có ai nhận. Tất cả mọi người trong thành giờ đây vô cùng hoảng loạn, toàn thành đâu đâu cũng rộ lên những tin đồn thất thiệt, một số nơi phát sinh hỏa hoạn, trộm cắp cướp giật bùng phát khắp nơi.”

Đỗ Văn Hạo nghe trong đầu phát ra những tiếng ong ong, run lên một chập, những lời Hầu sư gia lo lắng quả không sai, một khi tin tức về lệ dịch được xác minh, chỉ sợ trong dân sẽ sinh biến. Hắn gấp giọng hỏi tiếp: “Vậy người của Ngũ Vị đường chúng ta sao rồi?”

“Cả thành đều biết đường của chúng ta là nơi có rất nhiều người bệnh, ai cũng trốn không kịp, làm sao dám tới mà gây chuyện nữa đây? Hơn nữa, hiện vẫn còn Tĩnh Từ chủ trì và bốn năm trăm tín đồ vẫn chưa rời đi, Phó chưởng quỹ đã sai tín chúng bảo vệ Ngũ Vị đường của chúng ta, những người này cầm gậy gộc vũ khí đứng gác xung quanh bốn phía, không ai dám tới đường chúng ta làm càn!”

“Vậy thì tốt quá!” Đỗ Văn Hạo lại nói, “thế người của đường có ai đổ bệnh không?”

“Hiện tại thì không, tất cả mọi người đều được trang bị quần áo cách ly cùng mặt nạ phòng độc rồi.”

“Bây giờ ngươi có thể quay trở lại trong thành không?”

Lâm Thanh Đại quay đầu lại nhìn tường thành nhẩm tính toán rồi gật đầu: “Không thành vấn đề, ta có thể vượt qua tường thành để vào bên trong.”

“Tốt lắm! Vậy giờ ngươi hãy lập tức trở về giúp ta làm một số việc: Thứ nhất, trước tiên về dược đường lấy thêm Ma hạnh thạch cam thang phối với Vi hành thang mang tới đây, có được bao nhiêu mang bấy nhiêu, cũng dặn mọi người chuẩn bị thêm thật nhiều để cần dùng tới sau này. Thứ hai, đưa Phó chưởng quỹ tới nha môn gặp Trang tri huyện và Bàng huyện úy, nói ba người hợp sức giới nghiêm toàn thành. Hiện nay nếu cứ để người dân chạy loạn lên như vậy, vừa dễ sinh biến lại tạo cơ hội cho bệnh dịch lan truyền nhanh hơn. Thứ ba, nói Trang tri huyện trao quyền cho Phó chưởng quỹ, điều động vài trăm tín chúng, lập thành một đội tuần tra, đi khắp trong thành, nơi nào thấy thi thể bị bỏ không ai nhận thì lập tức đưa ra ngoài thành hỏa thiêu. Thứ tư, cũng sử dụng đám người Bạch y xã, hướng dẫn họ tại những nơi phát hiện thi thể thực hiện phun vụ khí tiêu trừ tà độc, dùng thuốc nước lần trước ta đã kê đơn. Nhớ kỹ chưa?”

“Nhớ kỹ rồi!” Lâm Thanh Đại trả lời gọn một câu rồi quay người định rời đi.

“Khoan, chờ một chút!” Đỗ Văn Hạo vội gọi giật lại, “quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc thế nào rồi?”

“Đã hoàn thành xong mấy chục bộ, hiện vẫn đang cho làm tiếp.”

“Tốt! Những cái đó cũng phân chia cho các tín chúng làm nhiệm vụ xử lý thi thể. Được rồi, thêm việc này nữa, nói Bàng huyện úy điều động các dược phô trong thành ngay lập tức tiến hành nấu Ma hạnh thạch cam thang, phân phát miễn phí cho toàn dân trong thành, phòng ngừa lệ dịch.”

Lâm Thanh Đại đắn đo một chút rồi thấp giọng nói: “Từ xế chiều tới giờ, việc điều trị bệnh với cùng một thang thuốc xem chừng không có hiệu quả nhiều lắm, một bộ phận không nhỏ bệnh nhân ở đường chúng ta vẫn bị ác hóa sau khi dùng thuốc. Liệu có nên nói các đại phu chẩn bệnh trước khi cho thuốc không?”

Đỗ Văn Hạo cười khổ: “Ta đương nhiên biết điều này, nhưng ngươi biết đại phu có bao nhiêu, mỗi người cũng chỉ có một đôi tay thôi, sợ không có khả năng theo kịp tốc độ lây lan của bệnh dịch!”

Chương 117: Hiển lộ chân tình.

Y học nói chung đều yêu cầu đại phu trước khi cấp thuốc phải tự mình xem bệnh, bởi vì kể cả khi cùng một chứng bệnh, nhưng với mỗi người lại có mỗi cách dùng thuốc khác nhau. Lúc trước Đỗ Văn Hạo tự mình xem bệnh đơn giản là do khi đó cũng chỉ có một vài người bệnh mà thôi, sau đó số lượng người bệnh tăng mạnh, hắn không có cách nào khác đành phải cho tất cả mọi người dùng cùng một đơn thuốc. Chỉ là loại phế thử dịch này có nhiều gi­ai đoạn phát triển, mỗi gi­ai đoạn biện chứng khác nhau, đương nhiên phương cách điều trị cũng khác nhau. Do đó, trước khi cho thuốc phải chẩn bệnh là vậy.

(Chỗ này tác giả có đôi lời bàn thêm. Lịch sử thế giới đã chứng kiến không ít lần dịch hạch chuột - thử dịch - bùng phát trên quy mô lớn, cướp đi sinh mạng của mấy chục triệu người ở khắp châu Âu. Trung Quốc mặc dù cũng đã từng bùng phát dịch hạch từ chuột này nhưng số tử vong thấp hơn rất nhiều so với châu Âu và các quốc gia khác, nguyên nhân chính yếu nằm ở khả năng phòng dịch của Trung Y.

Trung Y vốn đã nhận thức được sự nguy hiểm của thử dịch này từ rất lâu rồi. Hoàng đế nội kinh cùng nhiều y thư khác cũng có đề cập tới khá nhiều phương pháp điều trị cũng như phòng ngừa dịch bệnh này. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các y giả của Trung Quốc từ xa xưa đã có những nhận thức nhất định về dịch hạch. Tuy nhiên, do Trung Y có đặc điểm là “biện chứng luận trì”, tức là trước tiên sẽ xem thể trạng người bệnh thuộc “chứng” gì, tiếp đó mới xem căn bệnh đó thuộc chủng loại “chứng” nào, cuối cùng mới căn cứ hai điều đó để cho phương thuốc điều trị. Điểm này khác với Tây y, xác định chứng bệnh rồi cho phương thuốc điều trị. Cách điều trị của Trung Y có thể nói là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, cho dù là bệnh tật thiên biến vạn hóa đều luôn có biện pháp ứng phó. Cho nên, việc Trung Y nổi danh với câu trên đời không có chứng bệnh gì là không thể cứu cũng không nằm ngoài đạo lý trên.

Trung Y nhiều khi không trị được bệnh đa phần không phải ở bản thân Trung Y mà do y thuật của các đại phu không tinh. Đương nhiên ở đây còn một nguyên nhân quan trọng nữa đó là tính chất trừu tượng của việc biện chứng trong Trung Y. Vẫn nói là phương pháp chẩn bệnh của trường phái y học này khó chuẩn xác bởi nó không lượng hóa được các tính chất của bệnh tật, điều này cũng khiến cho việc học Trung Y khó, trở nên tinh thuần còn khó hơn.

Có học giả đã từng nói: Học Tây Y đến hai mươi tuổi sẽ có thể trị được rất nhiều bệnh nhưng học Trung Y bốn mươi tuổi mà đối với nhiều bệnh cũng chưa chắc biết trị như thế nào).

Lâm Thanh Đại nói: “Ngươi hiện giờ rất bận rộn ở đây, hay là cứ để chúng ta động viên các đại phu trong thành tới chẩn giúp ngươi xem sao? Được tới đâu hay tới đó!”

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Cách này được, cứ như vậy đi. Ngươi về đề nghị Trang tri huyện sai nha môn Y quan cục Khâu bác sĩ tổ chức toàn bộ đại phu trong thành lại, chia làm hai tiểu đội, phân ra trong và ngoài thành xem bệnh cho mọi người. Trước khi cho thuốc phải chẩn bệnh đã, trong thành hiện có khá nhiều đại phu kinh nghiệm phong phú, hy vọng có thể giúp được phần nào.”

“Khâu bác sĩ? Ta sợ giờ này hắn đang sợ vỡ mật, trốn biệt ở nhà không dám ra ngoài. Hay là gọi Hàm Đầu đi, dù sao hắn cũng là đệ tử của Tiền thần y uy tín khắp thành.”

“Tổ chức y liệu đội không chỉ nhờ vào uy tín mà còn cần tài lực từ nha môn quan phủ nữa!”

Thang trợ giáo ở bên cạnh cũng lên tiếng: “Đỗ y quan, để ta! Ta làm việc này được.”

Ấn tượng của Đỗ Văn Hạo đối với Thang trợ giáo này khá tốt, hắn gật đầu: “Như thế đành để trợ giáo khổ cực một phen rồi! Xin nhớ kỹ, yêu cầu tất cả đại phu tham gia đều phải mặc y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc. Đại phu tuyệt đối không thể bị nhiễm bệnh, nếu không tất cả mọi người trong thành đều xong đời. Mặc khác, trở về báo với tri huyện đại nhân, đã xác minh Lưu Gia Loan quả thật xảy ra lệ dịch, đề nghị sai người khẩn cấp báo lên Phủ thành. Thỉnh cầu tiến hành phong tỏa chặt chẽ khu vực bệnh dịch, đề phòng tình hình phát triển xấu thêm một bước. Đồng thời, cũng thỉnh cầu tri huyện đại nhân điều thêm dược liệu, lều vải cùng các vật liệu phòng dịch khác; điều động Y quan y liệu đội đi vào nơi có dịch bệnh cứu giúp mọi người và tiến hành trừ độc luôn.”

Đỗ Văn Hạo dù sao cũng chỉ là cấp dưới, Thang trợ giáo thực không muốn để hắn lãnh đạo mình. Tuy nhiên, Thang trợ giáo cũng biết rằng Đỗ Văn Hạo am hiểu thần kỹ của Hoa Đà, vốn đã có ý kính sợ, lại thêm Bàng huyện úy đã hứa gả con gái cho hắn, có vẻ rất coi trọng hắn. Như vậy rõ ràng Đỗ Văn Hạo này có hậu thuẫn không nhỏ. Hơn nữa, lúc này đây xử lý bệnh dịch là quan trọng nhất, vậy nên Thang trợ giáo cũng tỏ ra rất quyết đoán, trên mặt tràn đầy kính nể, lập tức chắp tay đáp ứng: “Được!”

Đỗ Văn Hạo lại quay sang Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm nói: “Hiện giờ diễn biến bệnh dịch rất nghiêm trọng, trước hết chúng ta ở đây phải ổn định tình hình ở ngoài thành này. Nếu như những người ở đây chạy tán loạn đi khắp nơi thì cực kỳ nguy hiểm, mà để họ có thể an tâm ở lại chính là phải có dược liệu cùng chỗ ở tạm thời. Chuyện dược liệu Ngũ Vị đường chúng ta có thể làm được.”

Lâm Thanh Đại gật đầu nói: “Được, vậy chúng ta sẽ tặng miễn phí dược liệu. Dù sao cũng là một cơ hội Ngũ Vị đường của chúng ta tăng thêm danh khí.”

Bàng Vũ Cầm cũng gật đầu tán thành.

Đỗ Văn Hạo nói: “Không sai! Chữa bệnh cứu người, mở rộng danh khí, lợi mình lợi người, nhất cử lưỡng tiện. Cứ thống nhất như vậy đi! Thanh Đại tỷ, lúc nữa vào thành thử liên lạc các dược phô khác một chút, xem liệu bọn họ có nguyện ý tặng thuốc miễn phí không.”

“Tốt, trừ Nhân Nghĩa đường của Hứa Tứ Hải khó nói được, các dược phô khác ta nghĩ sẽ đáp ứng thôi.”

Đỗ Văn Hạo lúc này phi thân lên ngựa, hướng tới dân chúng xung quanh kêu lớn: “Mọi người xin hãy nghe, Ngũ Vị đường chúng ta đã quyết định sẽ tiến hành nghĩa chẩn (chẩn bệnh miễn phí) cho mọi người ở ngoài thành đồng thời tặng thuốc miễn phí. Cho nên mọi người không được hoảng sợ, kiên nhẫn chờ đợi! Dược liệu sẽ được đưa tới rất nhanh thôi.”

Lời vừa nói xong, một trận hoan hô náo nhiệt nổi lên.

Đúng lúc này, trên thành lầu có người kêu lớn: “Huyện thái gia xin mời Đỗ tiên sinh qua điếu kiều vào thành! Những người khác chờ ở ngoài sông hộ thành, loạn động bắn chết không tha!”

Nghe thanh âm đúng là của Bàng Huyện úy!

Bàng Vũ Cầm hưng phấn kêu to: “Cha! Chúng con ở đây! Mau mở cửa cho chúng con vào!”

Nàng đang đeo mặt nạ phòng độc, thanh âm không xuyên ra ngoài được nhiều, hơn nữa ở phía dưới đang náo loạn nên ở trên thành không nghe thấy gì.

Đỗ Văn Hạo nói: “Các ngươi hãy lập tức đi vào thành, mình ta ở bên ngoài chữa bệnh cứu người.”

Bàng Vũ Cầm vội la lên: “Không, muốn vào thì mọi người cùng vào!”

“Không được! Cả trăm, ngàn người bệnh hiện ở đây, nếu ta đi bọn họ sẽ mất hết hy vọng! Ta nhất định phải ở lại để ổn định tâm tình bọn họ!”

“Ta cũng muốn ở lại! Ta muốn ở cùng một chỗ với ngươi!”

Những lời này nếu là vào lúc bình thường, Bàng Vũ Cầm đánh chết cũng không dám nói, nhưng lúc này là thời điểm sinh tử, nàng cảm giác sinh mạng con người trở nên yếu ớt, mắt thấy người khỏe mạnh bình thường đương nhiên có thể lăn ngay ra chết, trong tâm cực kỳ kích động, giờ thấy người trong lòng nhất định lưu lại nên không kìm được mà thốt ra lời này.

Đỗ Văn Hạo trong lòng cảm thấy vô cùng ấm áp, cầm lấy tay nàng nắm thật chặt: “Vậy cũng được! Ngươi ở lại với ta! Những người khác mau đi đi! Nhanh chóng mang dược liệu và y liệu đội tới đây! Chúng ta chờ!”

Lâm Thanh Đại hơi chần chờ, nhìn hai người một cái rồi hướng sang hai đại hán lúc trước: “Để ta trước tiên phế hai người này đã, không cho bọn họ tổn thương các ngươi!”

Hai đại hán nghe vậy đều quỳ xuống dập đầu: “Cô nương! Xin cô nương tha mạng!”

Thanh Đại không nói lời nào, lẳng lặng tiến tới trước mặt, nghe rắc rắc vài cái, mấy cánh tay của cả hai người kia đều đã biến dạng.

Xem chừng cả cánh tay bị cụt kia cũng đã trật khớp hết rồi, không thể hành hung gì được nữa.

Hai người này trong tình thế cấp bách dùng mạng mình để bức người, nhiều khả năng mẫu thân bọn họ bệnh tình thực sự nghiêm trọng, xem ra cũng là những người con có hiếu. Đỗ Văn Hạo nói: “Mẫu thân các ngươi ở đâu? Để ta qua xem một chút.”

Hai đại hán kia nghĩ không ra bọn họ đối đãi với Đỗ Văn Hạo như vậy mà Đỗ Văn Hạo không những không đáp trả mà còn nguyện ý giúp cứu trị mẫu thân, cảm kích rơi nước mắt cuống quýt tạ ơn rồi hai tay buông thõng đưa Đỗ Văn Hạo tới chỗ mẫu thân.

Lão phụ này nằm trên một cánh cửa, tóc đã bạc nhiều, hiện giờ đang bất tỉnh nhân sự.

Đỗ Văn Hạo dùng kim châm một lúc, rất nhanh lão phụ đã tỉnh dậy.

Đỗ Văn Hạo nói: “Hiện giờ dược liệu chưa tới, đợi lát nữa có thì lập tức cho mẫu thân các ngươi dùng.”

Hai đại hán cảm kích không thôi, quỳ xuống dập đầu đông đông cảm tạ.

Đúng lúc này, cửa thành chợt mở, từ trong lao ra hai nhóm bộ khoái tay lăm lăm cung tên, đều mặc y phục cách ly, đầu đội mặt nạ phòng độc, nửa ngồi nửa quỳ thành hai hàng trước cửa thành, cung tên giương sẵn hướng về phía đám đông. Ngay sau đó có thêm mẫy người mặc y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc, tay cầm đơn đao chạy lên phía trước. Một tráng hán vung đơn đao sáng loáng, tiếng kêu xé gió úng khí phát ra: “Những người không phận sự mau tản ra! Đỗ tiên sinh ở đâu?”

Nghe thanh âm đúng là Lôi bộ đầu.

Mọi người đều tránh ra nhường đường, đám người Đỗ Văn Hạo dắt ngựa đi tới đầu cầu: “Là Lôi bộ đầu sao? Tại hạ ở đây!”

“Đỗ tiên sinh, ta vâng mệnh Huyện úy đại nhân, đặc biệt tới đón ngươi vào thành. Đi nhanh đi!”

Đỗ Văn Hạo đem chủ ý mình và Bàng Vũ Cầm ở lại nói cho Lôi bộ đầu.

Lôi bộ đầu hơi trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thôi được, vậy để những người kia vào, ta và các huynh đệ ở đây bảo vệ ngươi cùng Tam tiểu thư ở ngoài thành cứu người. Lâm chưởng quỹ, Thang trợ giáo các người mau vào thành.”

Thấy đã có người bảo vệ cho Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm, đám người Lâm Thanh Đại cũng yên tâm hơn, bước nhanh vào thành. Cung thủ cũng ngay lập tức rút lui, cửa thành nhanh chóng được đóng lại.

Những người ngoài thành thấy Đỗ Văn Hạo không đi, lưu lại chữa bệnh cho mọi người, vừa mừng vừa sợ lại vừa cảm kích không thôi, không ít người quỳ xuống cầu khẩn Đỗ Văn Hạo chữa bệnh cho người thân của mình.

Đỗ Văn Hạo lại nói thêm một lần nữa, yêu cầu mọi người chia làm hai nhóm, tách xa những người bị bệnh. Lôi bộ đầu cùng các bộ khoái la hét vung đao nhưng hiện ở đây rất nhiều người, ai cũng kêu loạn lên không muốn tách người thân của mình ra nên cũng chưa có động tĩnh gì.

Hai đại hán bị kéo trệch khớp tay chạy tới quỳ trước mặt Đỗ Văn Hạo: “Đỗ tiên sinh, huynh đệ chúng ta nguyện ý theo sự điều khiển của người, xin giúp chúng ta nối xương lại, chúng ta sẽ phụ trách việc tách người.”

Đỗ Văn Hạo bây giờ đã có Lôi bộ đầu cùng bọn bộ khoái bảo vệ, mà mình cũng vừa cứu mẫu thân bọn họ nên không sợ hai người này gây chuyện, nghe họ nói vậy liền cao hứng tiến tới giúp nắn lại khớp cánh tay cho hai người.

Hai đại hán này thân cao hơn hai thước, tiếng quát xé gió như chuông đồng: “Đỗ đại phu có lệnh! Mọi người chi làm hai nhóm, có bệnh lưu lại xung quanh đống lửa, không có bệnh rời xa một trăm trượng! Ai không nghe đừng trách lão tử nắm tay không có mắt!”

Nói xong thì chạy vào giữa đám đông, vừa túm vừa đẩy, không ít người chống đối ăn liền mấy cú đấm cú đá. Nhờ vậy rất nhanh mọi người đã tản ra thành hai nhóm, tất cả những người bệnh đều được tập trung ở quanh đống lửa, những người khác đứng cách xa trăm trượng cũng chia nhau nhặt củi nhóm lên một đống lửa nữa.

Đỗ Văn Hạo lại nói với những người bệnh tình nhẹ một chút, yêu cầu họ tới bên rãnh sông hộ thành đem những thi thể kia lên tụ tập lại một chỗ chất củi đốt đi. Lại nói tất cả những ai tham gia vận chuyển tử thi lúc nữa sẽ được ưu tiên trị liệu. Cái này quả nhiên tích cực, hầu hết những người có thể đi lại được đều đứng lên, hợp nhau đưa các thi thể kia ra ngoài một trăm trượng, chất thêm ít củi đốt thành một đám cháy lớn.

Đỗ Văn Hạo chỉ thị hai đại hán kia dẫn mấy người đi chặt một ít bụi gai mang tới quây thành một tường rào cách ba trượng xung quanh đám người bệnh. Hai tráng hán cùng một số người tình nguyện được gi­ao nhiệm vụ canh gác, tuyệt đối nghiêm cấm đi lại tùy tiện, không ai được phép tiến vào khu trị liệu. Thực ra ngoài việc sốt ruột lo lắng cho người thân, mấy người ở ngoài cũng không ai có hứng thú tiến vào khu vực này.

Chương 118: Thu nhập ngoài ý muốn.

Những người bên ngoài lúc này đối với cách ăn mặc của Đỗ Văn Hạo cùng nhóm Lôi bộ đầu cảm thấy hết sức tò mò, đưa ánh mắt quái dị mà nhìn bọn họ. Rốt cục cũng có người quen biết Lôi bộ đầu không nhịn được, kéo hắn hỏi: “Lôi bộ đầu, các người đang mặc trang phục gì trên người vậy?”

Lôi bộ đầu đắc ý dào dạt nói: “Y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc! Chuyên dùng để phòng bị lệ dịch!”

“Thật sao?” Những người xung quanh được câu nói của hắn cũng xúm lại gần, “mặc như thế này có thể phòng chống lệ dịch sao?”

“Đương nhiên là được, đây là do Ngũ Vị đường Đỗ tiên sinh tự mình thiết kế, Đỗ tiên sinh, biết chưa?”

“Biết biết! Chính là vị đại phu am hiểu thần kỹ phẩu phúc chữa thương của Hoa Đà kia đúng không, nhân gia có thể vào thành mà không vào, tình nguyện lưu lại chữa bệnh cho chúng ta, thực sự là lương y mà, Đỗ tiên sinh thiết kế thì đương nhiên không sai!”

“Đương nhiên rồi! Các người không phát hiện ra tiên sinh cũng đang mặc một bộ như vậy sao?” Lôi bộ đầu vỗ vỗ bả vai người này, “với chứng bệnh này, không ai dám trực tiếp chạm tay vào người bệnh cũng như tử thi, dũng khí của chúng ta đều tới từ trang phục này cả! Huynh đệ chúng ta từ hôm qua đụng chạm, vận chuyển thi thể không phải là ít nhưng đến giờ cũng chưa thấy ai có chút dấu hiệu gì của bệnh cả.”

“Ồ, đúng là bảo bối mà!” Nghe được hai người nói chuyện, những người xung quanh tiến lại càng nhiều, nhất loạt cùng nghị luận không thôi.

Có người còn cẩn thận hỏi: “Cái này chắc là đắt lắm đây?”

“Huynh đệ chúng ta đều được Ngũ Vị đường tặng miễn phí. Trong thành tất cả bộ khoái huynh đệ, các đại phu chữa bệnh, còn có những người phụ trách tuần tra, vận chuyển người bệnh, Bạch y tín chúng, tất cả những người tham gia phòng dịch cứu người đều được Ngũ Vị đường tặng miễn phí, mỗi người một bộ!”

Người kia không kìm hãm được nuốt nước miếng ực một cái, cười gượng nói: “Có thể thương lượng với Ngũ Vị đường cấp cho ta một bộ không vậy?”

Một người đứng bên cạnh liền day day hắn: “Ngươi tưởng mình là ai vậy? Không nghe Lôi bộ đầu nói sao? Chỉ những người tham gia phòng dịch cứu tai mới được tặng miễn phí mà. Hơn nữa, ngoài thành này có mấy ngàn người, mỗi người một bộ, đập nồi bán sắt vụn đi cũng không đủ cho các ngươi. Ngươi muốn nhà người ta khuynh gia bại sản sao?

“Như vậy…Vậy thì chúng ta mua cũng được mà!”

Lôi bộ đầu nói: “Cái này ta không biết được, các ngươi chờ một lát nữa Lâm chưởng quỹ của Ngũ Vị đường tới hãy hỏi nàng.”

“Lâm chưởng quỹ là ai vậy?”

Lúc trước Lôi bộ đầu ở trên lầu thành đã thấy Lâm Thanh Đại cứu Đỗ Văn Hạo mới lớn tiếng nói: “Chính là người lúc trước bay từ trên lầu thành xuống chế phục hai tên đại hán kia cứu Đỗ đại phu đó!”

“Ồ, hình như là một nữ nhân.”

“Nói nhảm! Lâm chưởng quỹ đương nhiên là nữ rồi.” Lôi bộ đầu suy nghĩ một chút rồi lớn tiếng nói: “Như vậy đi, ta sẽ phái người đi thông báo cho nàng, để xem nàng có thể mang một vài bộ tới đây bán cho mọi người hay không!”

“Thật tốt quá!”

Tin tức này rất nhanh được truyền ra xung quanh. Mọi người nghe nói có trang bị có thể chống đỡ được lệ dịch đáng sợ này ai cũng trở nên hưng phấn, chỉ mong Lâm chưởng quỹ trở về thật nhanh để có thể mua được trang bị. Miễn là có thể chống được dịch bệnh, tốn tiền một chút cũng không sao.

Đỗ Văn Hạo trong lúc này đang tất bật cứu tỉnh cho những người bị hôn mê ở xung quanh đống lửa chính. Cách duy nhất hắn có thể làm chỉ là châm cứu mà thôi.

Tuy nhiên, phần lớn những người bệnh ở đây đều đã vào gi­ai đoạn nguy kịch, khả năng của hắn chỉ cứu tỉnh được một phần, nhiều người cứu trị không có hiệu quả đã chết, cũng có không ít người khác không đợi được tới lượt mình được cứu trị cũng đã tắt thở rồi. Đối với những người chết, Đỗ Văn Hạo chỉ thị mọi người lập tức đưa đi hỏa thiêu.

Đang lúc bận rộn, cửa thành một lần nữa lại mở, cung thủ tiến ra hai bên thủ hộ, từ phía trong xuất hiện một hàng hơn mười xe trâu lừng lững đi ra, dẫn đầu là một chiếc xe ngựa kéo. Có mấy xe được căng vải bao kín, nghiêm nghiêm mật mật không biết có gì bên trong. Một xe trâu chất đầy lều vải được buộc sơ bằng dây thừng, có xe chở đầy củi, lại có hai xe chở mấy nồi thuốc to đùng đặt trên mấy cái lò đang bốc khói nghi ngút tỏa ra một mùi thuốc thơm nồng tràn ngập khắp nơi.

“Thuốc tới!” Không biết ai là người hô lên đầu tiên, chỉ biết ngay lập tức sau đó là một loạt tiếng xôn xao không ngớt.

Mọi người xung quanh nhất thời xúc động mạnh mẽ, hoan hô ầm trời.

Đi theo xe ngựa hiện là Hàm Đầu cùng mười mấy đại phu, ai cũng mặc y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc. Lại có cả Thang trợ giáo cùng mấy dân tráng nữa.

Thuốc do Hàm Đầu đưa tới đều căn cứ theo hướng dẫn của Đỗ Văn Hạo mà nấu, chủ yếu để cấp cho những người bệnh để duy trì tính mạng khi đại phu chưa kịp chẩn bệnh.

Mục đích chính của chỗ thuốc này là khi vừa đến nơi, tất cả những người bệnh ở đây mỗi người sẽ lập tức được cấp một chén, không phân biệt nặng nhẹ.

Thang trợ giáo, Hàm Đầu cùng mấy đại phu nhanh chóng nhảy xuống xe ngựa quay ra cùng mấy đinh tráng tiến đến chỗ những xe trâu được quây kín, gỡ vải quây ra, nhẹ nhàng nâng đỡ những người trên đó xuống. Đỗ Văn Hạo lúc này mới phát hiện, thì ra những xe trâu đó chở toàn người bệnh!

Đỗ Văn Hạo chạy vội tới giúp Thang trợ giáo: “Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Tri huyện đại nhân có lệnh chuyển toàn bộ những người mang bệnh ra ngoài thành điều trị.”

Đỗ Văn Hạo có chút sửng sốt, nhưng nghĩ lại quyết định này mặc dù có chút bất nhân nhưng dù sao cũng vì an toàn của dân chúng trong thành, có thể thông cảm được với Trang tri huyện, liền hỏi thêm: “Những người bệnh ở Ngũ Vị đường của chúng ta cũng đưa cả tới đây rồi sao?”

“Cũng đều đưa tới đây cả. Tri huyện đại nhân hạ lệnh bộ khoái đi khắp thành tập trung những người có bệnh đến Ngũ Vị đường, lại tổ chức đội tìm kiếm những người bị nóng, ho khan, khi phát hiện cũng lập tức đưa tới Ngũ Vị đường, sau đó mới dùng xe trâu chuyển hết tới đây.”

“Có bao nhiêu người bệnh tất cả?”

“Cả những người bệnh cũ ở Ngũ Vị đường, hiện tổng cộng có hơn ba trăm. Nhưng đây mới chỉ là nhóm đầu tiên, vẫn chưa chuyển hết, trong thành hiện vẫn đang đi tìm thêm. Chuyển những người này xuống xong chúng ta sẽ quay lại chuyến tiếp những người khác.”

“Bên ngoài thành tuyết lớn như vậy, lại không có lều vải, nhiều người như thế này ở ngoài thành, ta chỉ sợ không chết vì bệnh thì cũng chết vì lạnh thôi!”

Thang trợ giáo thở dài nói: “Đúng vậy, nhưng cũng không có biện pháp, lều vải không đủ chỉ có thể chuyển thêm củi đến đốt lửa sưởi ấm thôi, cố gắng qua đêm nay. Chỗ củi này là do tri huyện đại nhân hạ lệnh khắp các khách điếm, quán cơm phải lập tức cung cấp, chờ sau khi cứu dịch xong xuôi sẽ bồi thường bọn họ.”

Thang trợ giáo nói xong lại tiếp tục an bày việc đưa người bệnh xuống xe, dựng lều vải và đốt mấy đống lửa lớn.

Lúc này, Hàm Đầu cùng mười mấy vị đại phu tiến lại chỗ Đỗ Văn Hạo, chào hỏi giới thiệu sơ qua, rồi nói với Đỗ Văn Hạo: “Sư tổ, những đại phu này đều tự nguyện tới đây cứu trị cho người bệnh, bọn họ trước kia đều đã có kinh nghiệm về ôn dịch, đều có một chút bí phương, hay là để họ chẩn bệnh trước rồi sẽ tiến hành cho thuốc?”

Đỗ Văn Hạo vui vẻ trả lời: “Tốt quá, được như vậy là hay nhất. Xin thỉnh các vị đại phu thi triển tuyệt kỹ cùng cứu người.”

Các vị đại phu cũng không có hàn huyên thêm, lập tức bắt tay vào trị bệnh.

Lúc trước người của Lôi bộ đầu đã nói cho Lâm Thanh Đại việc nhiều người ở ngoài thành muốn mua y phục cách ly và mặt nạ phòng độc. Lâm Thanh Đại cho mang mấy chục bộ trang phục còn lại ở Ngũ Vị đường sau khi đã quyên tặng cho những người tham gia phòng dịch, cho lên một xe trâu cùng với dược liệu của Ngũ Vị đường vận chuyển tới đây. Đoàn xe đi đầu là lều vải, thuốc, củi cùng với người bệnh, cuối cùng mới tới xe của bọn Lâm chưởng quỹ.

“Lâm chưởng quỹ tới rồi kìa!” Có người mắt tinh, nhìn kỹ một cái nhận ra liền hét to lên một tiếng. Chỉ trừ những người bệnh ở trong khu cách ly, còn lại những người bình thường đều chạy xô tới, vây quanh Lâm Thanh Đại, tranh nhau nói:

“Chưởng quỹ, ta muốn mua y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc! Giống như của Lôi bộ đầu và mấy người kia!”

“Bán cho ta trước, ta trả năm lượng bạc!”

“Ta trả mười lượng!”

“Hai mươi lượng! Bán cho ta!”

“Năm mươi lượng!”

“Tám mươi!”



Lâm Thanh Đại trước tình cảnh này cũng thấy không biết phải làm sao, bản thân nàng cũng là người mềm lòng, mặc dù đã có chuẩn bị từ trước nhưng nhất thời không nói được gì. Lúc này Ngốc béo theo đúng kế hoạch đã bàn ở nhà, nhảy lên trên xe trâu, la lớn: “Mọi người không nên gấp gáp! Hiện giờ số lượng ở đây có hạn, chỉ có mấy chục bộ thôi, không đủ phân cho mỗi người một bộ, cho nên, sẽ bán cho những ai trả giá cao trước! Vô cùng xin lỗi. Nhưng mọi người cũng không cần quá lo lắng, chúng ta đang cho chế tạo thêm, sẽ cung cấp đủ cho mọi người! Bây giờ bắt đầu trả giá, ai mua đều phải đưa tiền ngay!”

Lập tức tiếng ra giá xé gió liên tiếp, ai cũng muốn sớm một chút có được trang bị phòng chống bệnh dịch. Những ước muốn cơ bản nhất của con người, cả những bản chất xấu nhất, tham lam nhất lúc này đều lộ ra.

Trong số dân chạy nạn ở đây có không ít người là địa chủ, phú nông, còn có cả những người làm ăn ở trong thành nữa, nhờ vậy, cuối cùng thì giá bán cao nhất của y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc cũng được đẩy lên tới một trăm hai mươi lăm lượng một bộ. Ngốc béo phụ trách bán, Anh Tử thu tiền, Ngô Thông hướng dẫn cho những người mua cách thức sử dụng cùng các lưu ý cần thiết.

Chẳng mấy chốc, mặc dù giá rất cao nhưng mấy chục bộ đồ phòng chống bệnh dịch đã được bán hết veo, thu về hơn hai ngàn lượng bạc! Lâm Thanh Đại thật cao hứng, mang tin này tới nói cho Đỗ Văn Hạo nghe. Đỗ Văn Hạo biết số y phục cách ly và mặt nạ phòng độc kia bán được với giá cao như vậy thì cũng rất cao hứng. Hiện giờ trong tay có ngân lượng, vạn bất đắc dĩ có thể lấy ra để sử dụng cho việc phòng dịch cứu tai.

Lúc này Hàm Đầu kéo Đỗ Văn Hạo sang một bên thấp giọng nói: “Sư tổ, lần này lệ dịch thật là hung mãnh, người bệnh quá nhiều, theo đồ tôn phỏng chừng sơ bộ trong và ngoài thành đã có không dưới ngàn người. Ngũ Vị đường của sư tổ, Tế Thế đường của sư phụ con cùng với các dược phô khác trong thành có vét sạch cả kho thuốc cũng không đủ. Hiện nay người bệnh đang được chuyển tới, chuyện này phải giải quyết nhanh, nếu không sẽ không kịp trở tay.”

“Trong thành có dược liệu thô chưa bào chế của những người bán buôn không?”

“Không có, dược liệu thô chưa bào chế chỉ ở phủ thành mới có. Trong thành tất cả dược liệu ở các dược phô đều đã được huy động rồi, nhưng cũng không đủ. Giờ này chỉ có cách duy nhất là tới phủ thành hoặc các địa phương khác để mua về. Số tiền đó khẳng định không phải là nhỏ, chúng ta dù có táng gia bại sản cũng không gánh được.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Ta biết, chuyện này để ta làm, ngươi cứ lo chẩn bệnh đi đã.”

Đỗ Văn Hạo chạy lại tìm Thang trợ giáo lúc này vừa mới đưa mấy xe trâu nữa tới. Đi cùng có hai nha môn y quan và những dân tráng lúc trước. Vải che được tháo ra, lần lượt những người bệnh cũng được đỡ xuống đưa tới khu cách ly xung quanh đống lửa lớn.

Thang trợ giáo nghe Đỗ Văn Hạo nói về vấn đề dược liệu, trên mặt lộ vẻ xấu hổ, thấp giọng nói: “Đỗ y qua, ngươi vừa tới nên không biết một số chuyện. Ngân lượng cấp cho nha môn rất ít, phần lớn dùng cho các công việc nha dịch, thư lại và tiền lương, lấy đâu ra mà mua dược liệu đây? Ngay cả chỗ lều vải này cũng là do Trang tri huyện, Bàng huyền úy cùng với nha dịch, thư lại quyên tiền để mua đó.”

“Nha môn không có khoản thu nào khác sao? Ví dụ như thuế chẳng hạn?”

Thang trợ giáo giật mình hoảng hốt, ghé sát vào tai hắn nói nhỏ: “Cái này tuyệt đối không được, các khoản thu từ thuế tuyệt đối không được động vào, dù với bất kỳ lý do gì, bởi đó là tham ô, là tử tội đó!”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Như vậy khoản tiền triều đình cấp xuống cho công tác phòng dịch thì sao? Còn được bao nhiêu?”

Thang trợ giáo cười khổ nói: “Ngươi đừng có hy vọng gì vào khoản này!”

Chương 119: Cho nha môn vay tiền.

Đỗ Văn Hạo hỏi lại: “Tại sao?”

Thang trợ giáo nhìn hắn một chút, ánh mắt lộ rõ vẻ chán nản: “Ta làm y quan tại nhiều địa phương hơn ba mươi năm rồi, tham gia phòng dịch cứu người cũng không phải là lần đầu tiên, chỗ nào cũng là sấm to mà mưa nhỏ hết thôi. Mặc cho tình trạng dịch bệnh nghiêm trọng đến mức nào đều phải tuần tự tầng tầng báo lên triều đình. Bởi vì đến cả phủ châu cũng không có quyền sử dụng khoản tiền này, phải báo lên xin triều đình hạ bát phòng ngự dịch. Từ khi dịch tình bắt đầu bùng phát tới khi công văn báo cáo lên tới được triều đình rồi tài vật được gửi về nhanh nhất cũng mất bốn tháng. Nửa năm mới đến cũng là chuyện không hiếm. Hơn nữa, khoản tài vật đó cũng đi qua tầng tầng cấp cấp, mỗi nơi bớt lại một chút, cuối cùng khi đến khu cần dùng cho phòng dịch, mười không còn nổi một!…ai da…!”

Đỗ Văn Hạo cảm thấy việc này thực sự ngoài ý muốn. Hắn cũng rõ ràng việc thời cổ đại không có các công cụ thông tin truyền thông hiện đại, gi­ao thông không thuận tiện, nhưng bốn tháng mới tới thì quá chậm mà. Hơn nữa, tầng tầng bị khấu trừ, cái này thì thời nào cũng có nhưng khấu đến hơn chín phần thì không khỏi quá tham lam.

Đỗ Văn Hạo la lên: “Vậy thì phải làm sao bây giờ? Không có dược liệu thì không trị bệnh được!”

Thang trợ giáo nhún vai xòe hai tay: “Ta cũng không có biện pháp!”

“Ngươi đã tham gia phòng ngự cứu tai nhiều lần rồi, có kinh nghiệm phong phú, ngươi tính cho ta, lần này cần ít nhất bao nhiêu tiền?”

Thang trợ giáo lẩm nhẩm bấm bấm tay, trầm tư một hồi rồi nói: “Hiện giờ tất cả người bệnh đều tập trung ở ngoài thành, phải ăn, phải ở và hơn nữa cần dược liệu lại còn việc hỏa thiêu, chôn cất xử lý thi thể, vệ sinh trừ độc,…ít cũng hết một vạn lượng bạc trắng!”

“Một vạn lượng?” Đỗ Văn Hạo lại càng hoảng sợ.

“Đây chỉ là mức thấp nhất trong điều kiện chi tiêu cực kỳ tiết kiệm. Mà đây cũng chỉ là tính cho một ngàn người bệnh, chúng ta căn bản không biết rốt cuộc có bao nhiêu người đã nhiễm bệnh, nếu như số người bệnh gia tăng, con số này đương nhiên sẽ gia tăng tương ứng!”

Đỗ Văn Hạo gật gật đầu. Một vạn lượng, tính ra tương đương khoảng mười triệu nhân dân tệ. Một khoản tiền lớn như vậy làm sao chuẩn bị được đây? Dù sao cũng không thể cướp của người giàu để lấy tiền cứu dịch được. Xem ra chỉ còn trông đợi vào triều đình mà thôi. Đỗ Văn Hạo cắn răng một cái, nói: “Đi! Chúng ta đi tìm Trang tri huyện thương lượng!”

“Thương lượng cái gì?”

“Nói nhảm, đương nhiên là về chuyện lấy tiền từ đâu chứ còn sao? Mau đi thôi! Thời gi­an gấp lắm rồi!”

Hai người nhảy lên ngựa hướng thẳng vào trong thành.

Bọn mấy người Lâm Thanh Đại sau khi bán hết số thiết bị phòng dịch thì trở về trong thành. Dọc đường đi gặp những người phụ trách tuần tra giới nghiêm, chính là một số bộ khoái và Bạch y tín chúng, đều được họ cho biết có rất nhiều người trong thành muốn mua thiết bị phòng dịch này. Không ít phú thương nhà cửa ở dọc hai bên đường nhìn thấy bọn Lâm Thanh Đại quát to lên đòi trả giá thậm chí còn cao hơn ngoài thành, những người này giờ chỉ hận không thể chạy ra ngoài đường để đưa ngay tiền cho Lâm Thanh Đại.

Lâm Thanh Đại cảm thấy rất kỳ quái, những người này làm sao biết Ngũ Vị đường có trang bị phòng chống dịch bệnh. Nghe ngóng thêm một hồi mới phát hiện. Thì ra dân trong thành từ trong nhà nhìn thấy những người tuần tra, vận chuyển người bệnh đa phần là bộ khoái cùng Bạch y tín chúng ai cũng mặc y phục trắng với cái mặt nạ lạ hoắc, tò mò hỏi thăm rồi biết được. Vậy nên họ thấp thỏm chờ người của Ngũ Vị đường đi qua để ngỏ ý muốn mua.

Lâm Thanh Đại trở về Ngũ Vị đường, vội vàng sai mọi người gấp gáp chế tạo thêm trang bị. Bởi vì các bộ phận đều đã được đặt làm từ trước, hiện giờ bọn họ chỉ việc pha chế nước thuốc tẩm vào bông, cho vào mặt nạ, rồi lắp ráp đơn giản các bộ phận lại là được. Tốc độ lắp ráp rất nhanh. Lâm Thanh Đại lại nhờ các bộ khoái tuần tra thống kê giá cả từ những nhà muốn mua, nói rõ những nhà nào trả cao sẽ được mua trước, bọn họ thì thức suốt đêm để chế tạo.

Hiện những người bệnh của Ngũ Vị đường đều đã được chuyển ra ngoài thành, hai mươi mấy loại dược liệu cần dùng cho phòng dịch cũng đã được vét sạch để đem hiến tặng rồi. Chính vì vậy bọn Lâm Thanh Đại hoàn toàn rảnh rỗi, toàn lực tập trung chế tạo thiết bị, chỉ là không được ngủ mà thôi.



Đỗ Văn Hạo cùng Thang trợ giáo đi tới nha môn. Ở phía trong đại sảnh Trang tri huyện mặc y phục cách ly trắng tinh, lại đeo mặt nạ phòng độc đang tự mình xử lý công việc, nhìn thấy bọn Đỗ Văn Hạo tới, chào hỏi một câu rồi hấp tấp hỏi hắn: “Đỗ đại phu, ngươi gọi trang phục bản huyện đang mặc và cái mặt nạ này là gì nhỉ? Có thực sự phòng được dịch bệnh không vậy?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Là y phục cách ly và mặt nạ phòng độc. Mặc dù không dám nói là hoàn toàn có thể phòng ngừa nhưng chắc chắn giảm khả năng bị lây nhiễm xuống cực nhỏ.”

“Ồ, vậy là tốt rồi.” Trang tri huyện nhất thời thở phào nhẹ nhõm, “Đỗ tiên sinh, ngươi phán đoán rất chuẩn, quả nhiên là lệ dịch, bản huyện căn cứ vào kết quả xác minh của các ngươi đã sai người khẩn cấp hướng phủ thành báo cáo dịch tình, thỉnh cầu điều vật chất phòng dịch cứu tai.”

“Thế còn việc phong tỏa khu vực dịch bệnh thì sao?”

“Cái này ta không rõ lắm, chúng ta thực không có đủ năng lực làm việc này, chỉ có thể báo lên trên xem Tri phủ đại nhân điều độ thế nào thôi. Khi lệ dịch bùng phát chính ngươi là người có công đầu, kịp thời cấp báo, sắp xếp kế hoạch chu đáo, lại trực tiếp ra tay cứu chữa người bệnh, công lao không nhỏ, tương lai bản huyện nhất định đề bạt ngươi!”

“Đa tạ đại nhân! Tuy nhiên hiện giờ việc phòng ngự dịch của chúng ta gặp rất nhiều vấn đề.”

“Có vấn đề gì? Không phải mọi chuyện đều theo kế hoạch của ngươi từ ban đầu sao? Bản huyện đã hạ lệnh giới nghiêm toàn thành, sai dân tráng cùng Bạch y tín chúng lập thành các đội tuần tra, không cho phép ai khác tùy ý đi lại, cũng tiến hành tìm kiếm khắp nơi, gặp bất kỳ kẻ nào có dấu hiệu của bệnh đều lập tức cho lên xe trâu, đưa ra ngoài thành cách ly. Đây đều là chủ ý của ngươi còn gì?”

Đỗ Văn Hạo nghĩ thầm, mấy cái sau kia đâu phải chủ ý của ta, nhưng dù sao nó cũng là một ý kiến hay, ít nhất có thể đảm bảo an toàn cho người dân trong thành, cũng là vạn bất đắc dĩ mà thôi. Nghĩ vậy nên gật đầu nói: “Mấy cái này không có vấn đề gì, nhưng mà đại nhân, sau khi chuyển hết người bệnh ra ngoài thành, số lượng người bệnh đã là hơn ngàn người, hơn nữa những người chưa mắc bệnh cũng có vài ngàn nữa, việc phòng dịch chính vì vậy gặp phải hai vấn đề rất lớn: Thứ nhất, khí hậu giá lạnh, cái này có thể bù đắp lại bằng đốt lửa, dùng thực phẩm và uống nước ấm. Tuy nhiên, vấn đề thứ hai mới thực sự nghiêm trọng, thiếu dược liệu!”

Trang tri huyện cười khổ, liếc nhìn sang Hầu sư gia ở bên cạnh.

Hầu sư gia nói: “Đỗ đại phu, mấy vấn đề này tri huyện đại nhân sớm đã nghĩ tới, trong công văn cấp báo lên phủ thành cũng đã đề cập rồi, giờ chỉ cần chờ triều đình điều vật chất phòng dịch cứu tai là có thể giải quyết được.”

“Vậy phải đợi bao lâu?”

“Cái này,…cần một khoảng thời gi­an.”

“Vậy hiện giờ phải làm sao? Ngoài trời tuyết rơi lớn như vậy, gió rét căm căm, đốt mấy đống lửa không phải là một giải pháp hữu hiệu. Hơn nữa, đốt lửa rất tốn củi, với chỗ củi hiện tại, nhiều nhất chỉ có thể kiên trì trong hai ngày mà thôi. Mà phòng ngự dịch công hiệu cũng mất mấy tháng. Một khi không có chỗ ở và lương thực, những người bệnh đó chắc chắn sẽ bỏ đi tứ tán, mang dịch bệnh lan truyền khắp nơi!”

Hầu sư gia thở dài, thấp giọng nói: “Tiên sinh, không giấu gì ngươi, chiều nay chúng ta đã cho người đi điều tra thêm, lúc này mới nhận được tin tức, các vùng phụ cận vài ngày trước cũng đã phát hiện dấu hiệu của bệnh dịch, nhưng không thấy cấp trên thông báo gì, như vậy có thể nói các châu huyện cũng chưa biết xảy ra lệ dịch, tình hình này chỉ sợ sẽ lan rất nhanh.

Thời gi­an phát bệnh từ Huyền thành chúng ta so các châu huyện khác cũng không sai lệch nhiều! Cho nên, việc lo sợ người bệnh chạy tứ tán khắp nơi làm bệnh tình lây lan cũng không quá nghiêm trọng.”

Đỗ Văn Hạo tâm lý có chút hẫng hụt, đây cũng chính là vấn đề hắn đã từng nghĩ tới, bức xúc nói: “Cho dù không lo lắng việc bọn họ đi ra ngoài, nhưng chúng ta cũng không thể thấy chết mà không cứu!”

Hầu sư gia thu chiết phiến lại, giọng nói trở nên chắc nịch: “Đỗ tiên sinh nói vậy có hơi quá lời, ai có thể thấy chết mà không cứu đây? Nha môn quan lại từ tri huyện đại nhân đến nha dịch, phu canh, mỗi người đều thắt lưng buộc bụng, nhịn ăn nhịn tiêu, dồn tiền quyên góp mua lều vải đưa ra ngoài thành giúp người bệnh chống lạnh. Tri huyện đại nhân thương dân như con, chính mình đã góp năm mươi lượng bạc trắng! Như thế nào ngài lại nói là thấy chết mà không cứu?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng chắp tay cúi thật thấp: “Xin lỗi đại nhân, ta nói sai rồi, ý của ta thực không phải như vậy, ta muốn nói là việc quyên góp cứu nạn chỉ là chén nước xe củi, sợ tác dụng không được mấy hồi. Thang trợ giáo vừa rồi cũng đã đánh giá sơ bộ, cứu dịch lần này cần ít nhất một vạn lượng bạc. Số tiền này liệu có thể xuất ra được không?”

Trang tri huyện giơ cả hai tay lên: “Nha môn bây giờ muốn xuất ra một trăm lượng cũng không thể chứ nói gì tới một vạn lượng, chỉ có thể chờ triều đình hạ chỉ cung cấp tài vật phòng dịch mà thôi. Hiện giờ cũng chỉ có thể dựa vào chính chúng ta mà nghĩ biện pháp!”

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lúc, nghĩ lại lúc trước Lâm Thanh Đại có nói với mình việc bán y phục cách ly và mặt nạ phòng độc được lời hơn hai ngàn lượng bạc, nếu thật sự không còn cách nào thì chỉ còn có thể dùng số tiền này. “Đại nhân, khoản tiền cần cho cứu dịch Ngũ Vị đường chúng ta có thể tạm thời cấp cho huyện nha dùng, chỉ là ta phải về thương lượng với hai vị chưởng quỹ thêm một chút. Hơn nữa,…đại nhân phải bảo đảm cho ta, sau khi tài vật cứu tai được chuyển tới, người phải bồi hoàn cho chúng ta đầu tiên.”

Cái này đối với Trang tri huyện mà nói có thể gọi là hỉ sự trăm năm có một, phòng ngự dịch kịp thời, tương lai sẽ là một kỳ công, không thể đong đếm được. Lão đương nhiên vui mừng khôn xiết, liên thanh nói: “Không thành vấn đề! Thật sự là tốt quá! Bản huyện cam đoan với ngươi, nếu Ngũ Vị đường các ngươi cho chúng ta mượn tiền, một khi tài vật của triều đình chuyển tới, lập tức hoàn trả cho các ngươi đầu tiên! Hơn nữa còn có thể tính lợi tức cho các ngươi theo tỷ lệ của các hiệu cầm đồ!”

Hầu sư gia cũng tỏ ra vô cùng cao hứng, cuống quít khen ngợi Đỗ Văn Hạo trượng nghĩa sơ tài, thật sự là Cập thì vũ (cái này chắc ám chỉ Cập thì vũ Tống Gi­ang trong Thủy Hử).

Lúc trước khi nói chuyện với Thang trợ giáo, Đỗ Văn Hạo cũng đã hiểu được những sự vụ hắc ám phía sau nha môn, chỗ tiền này mình xuất ra cũng không thể để họ chiếm hết tiện nghi được, nhân tiện nói luôn: “Đại nhân, ta còn có một điều kiện, việc chi tiêu như thế nào đối với chỗ tiền này hoàn toàn do ta quyết định, đương nhiên tri huyện đại nhân có thể phái người đi theo ghi chép sổ sách, cam đoan toàn bộ các khoản chi tiêu chỉ dùng cho phòng dịch.”

Trang tri huyện cùng Hầu sư gia thoáng đưa mắt nhìn nhau. Lo lắng của Đỗ Văn Hạo bọn họ đương nhiên có thể hiểu được, với Trang tri huyện mà nói, chỉ cần làm tốt công việc phòng dịch, tại các dịch khu giảm số người chết một chút, dân chúng không loạn, đây chính là công lớn nhất rồi, không chừng lại có thể được tính là kỳ tích rồi. Tiền tài và những thứ khác đương nhiên không còn quan trọng.

Chính vì vậy, Trang tri huyện cũng ngay lập tức gật đầu: “Cái này không thành vấn đề. Như vậy đi, lão Khâu tuổi đã cao, sức khỏe yếu, đã sớm có ý muốn cáo lão hồi hương, lần này phòng dịch lại sợ chết trốn ở nhà, thế thì gọi gì là bác sĩ đứng đầu nha môn y khoa đây? Bản huyện ngay bây giờ chính thức miễn nhiệm hắn, bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo ngươi vào vị trí Bác sĩ* của Y quan cục.”

(*bác sĩ ở đây hiểu là một chức vụ đứng đầu, không phải là tên của một nghề. Nguyên gốc để là Y bác sĩ, nhưng gọi Đỗ y bác sĩ thì nghe không thuận).

Xế chiều mới bổ nhiệm làm Y quan, tới nửa đêm đã đứng đầu cả Y quan cục, Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ quan vận của mình có phải quá tốt hay không, đáng tiếc rằng mặc dù nắm cả Y quan cục trong tay nhưng cũng chưa thể chính thức nếm trải cảm giác của một bác sĩ rồi. Hắn vội vàng khom người tạ ơn.

Trang tri huyện nói: “Y quan cục phụ trách phòng ngự dịch bệnh, sau này toàn bộ sự vụ liên quan tới phòng ngự dịch do mình ngươi gánh chịu, bản huyện bây giờ cho phép ngươi mượn tiền của Ngũ Vị đường, toàn quyền sử dụng tổ chức phòng ngự dịch bệnh và trị liệu cứu giúp bá tánh! Nhưng ngươi phải nhớ sổ sách minh bạch, hãy để nha môn áp ti làm việc này.”

Tại Tống triều, áp ti phụ trách ghi nhận tiền thuế, ghi chép sự vụ kiện cáo vân vân, nói chung là những người đảm nhiệm công việc sổ sách của nha môn. Cũng chính là việc của Tống Gi­ang trong Thủy Hử truyện.

Chỉ một lát, áp ti đã được gọi tới sảnh đường, nghe Trang tri huyện chỉ thị theo tân y quan cục trưởng Đỗ Văn Hạo Đỗ bác sĩ quản lý tài vật dùng phòng dịch cứu tai, vội vàng tiến đến tham kiến.

Chương 120: Chiến đấu với lệ dịch.

Đỗ Văn Hạo mang theo áp ti trở về Ngũ Vị đường tìm Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm. Hắn nói với hai người chuyện cho nha môn mượn tiền để phòng dịch cứu tai. Đây một là chủ ý của Đỗ Văn Hạo hai là lợi nhuận thu được từ y phục cách ly và mặt nạ phòng độc kia cũng do Đỗ Văn Hạo thiết kế chế tạo, đương nhiên Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm vui vẻ đồng ý.

Trong lúc Đỗ Văn Hạo cùng Thang trợ giáo đi tìm Trang tri huyện, Bàng Vũ Cầm trở về Ngũ Vị đường, mọi người cũng đã kịp bán thêm được một lượng đáng kể trang bị, lợi nhuận thu được hiện tại đã lên tới ba nghìn sáu trăm lượng bạc. Đỗ Văn Hạo cùng áp ti trở về báo lại với Trang tri huyện tình hình thảo luận của ba người, Trang tri huyện sai làm giấy mượn tiền, Đỗ Văn Hạo điền tên mình vào rồi Trang tri huyện lấy ấn của mình đóng lên tờ giấy đó. Tào áp ti nhất nhất đi theo Văn Hạo ghi lại tỉ mỉ mọi sự vụ.

Việc Trang tri huyện bổ nhiệm Đỗ Văn Hạo vào vị trí bác sĩ y quan cục toàn quyền phụ trách phòng ngự dịch đã ngay lập tức được thông tri tới phủ thành cũng như hạ phát tới các nha môn, khu cách ly ngoài thành và cả Khâu bác sĩ. Khâu bác sĩ cũng không lấy làm phiền, lão bây giờ cần gì chức vị nữa, chỉ cầu bảo trụ được tính mệnh là tốt rồi.

Đỗ Văn Hạo lập tức triệu tập Y quan cục Thang trợ giáo, Vương Tường và Hồng Quốc Lương tiến hành thương nghị ngắn gọn. Mọi người đều nhất trí cho rằng số dược liệu trong thành quyên góp hiện có thể đủ dùng nên sẽ ưu tiên mua lều vải, chăn bông chống lạnh và lương thực. Sau khi tính toán số tiền cần thiết, thấy còn thừa một phần, Đỗ Văn Hạo quyết định phái Thang trợ giáo cùng dân tráng suốt đêm đi phủ thành mua thêm dược liệu.

An bài mọi chuyện xong xuôi thì trời cũng đã sáng, tuyết rơi suốt một đêm cuối cùng cũng ngừng, tuyết đang rơi chưa lạnh khi rơi xuống lại hóa lạnh hơn, cũng may mọi người đã có hơn mười đống lửa lớn, suốt đêm lạnh cũng chưa có người nào chết cóng. Tuy vậy, số người chết vì bệnh dịch đã lên tới vài trăm.

Hơn chục đại phu có danh tiếng trong thành miệt mài cứu trị cả đêm cũng đã xem qua được một lượt tất cả những người bệnh tại đây, cũng đã cấp thuốc mỗi người một lượt. Tuy nhiên, dù gì thì những vị đại phu ở đây y thuật không đồng đều, thêm vài chuyện xui xẻo, chỉ có một bộ phận nhỏ người bệnh có chuyển biến tích cực, bệnh tình được khống chế không trở nên xấu hơn, còn lại đại bộ phận không có hiệu quả gì, đều thêm một bước ác hóa. Theo đà này, phỏng chừng nhân số tử vong sẽ tiếp tục gia tăng.

Đỗ Văn Hạo ở trong một căn lều vải được sử dụng làm nơi chỉ huy toàn bộ việc phòng chống dịch ở ngoài thành này. Hiện giờ hắn là người phụ trách toàn bộ công tác phòng ngự lệ dịch cùng cấp cứu trị liệu cho người bệnh tại Huyền thành. Vừa rồi đi xem một chút, nghe các đại phu báo lại về tình hình bệnh dịch, hắn cảm thấy vô cùng lo lắng, liền gọi Hàm Đầu cùng các vị đại phu, cả Lôi bộ đầu cùng Y quan vào lều chỉ huy để thương nghị đối sách phòng ngự dịch.

Trong số các đại phu ở đây, kể ra thì đại phu tọa đường của Bảo Nguyên đường Hoàng Lập Đạt là người cao tuổi nhất, đã tám mươi tuổi rồi. Mọi người đều đẩy lão lên tiếng trước.

Hoàng Lập Đạt cũng không chối từ, vuốt vuốt đoạn chòm râu trắng như tuyết thò ra qua mặt nạ, lắc đầu ảo não nói: “Trọng Cảnh thánh y trong Thương hàn luận có nói, khi đồng thời tiết giá lạnh dễ gây nên thương hàn, bệnh không phát ngay mà ẩn tàng trong da thịt, càng ngày càng nhiều, chờ đợi khi khí trời thay đổi mà biến thành ôn dịch, nghịch hàn thành nhiệt, cái này phải tùy theo chứng mà trị. Trước hết phải giải trừ thương hàn, cho nên, lão hủ lần này dùng Quế chi thang làm chủ tăng giảm tùy người. Chư vị nghĩ thế nào?”

Lão mang mặt nạ phòng độc, nói chuyện tiếng úng úng, lại lắc lắc đầu ảo não liên tục, nhìn bộ dạng có chút tức cười, tuy nhiên quan điểm của lão lại được nhiều y giả gật đầu đồng ý.

Tụ Nhân đường đại phu Chu Kiến Vinh gật đầu nói: “Lão hủ cho rằng, nhiệt độc này không thể so với các nhiệt độc khác được. Uống thuốc giải độc không bằng trực tiếp rút ra máu độc. Lão hủ đã xem cho nhiều người, dùng cùng một phương pháp, lấy phong châm để chích xuất máu độc. Vu huyệt Bách Hội xuất ra sáu bảy giọt, Chuy huyệt ra hai mươi giọt, Ủy trung huyệt, Thước trạch huyệt cũng được bảy tám giọt, thêm tay chân mười bốn huyệt đạo khác đều xuất huyết bốn năm giọt nữa.

Tại những chỗ bị đau, đau đầu thì phong châm Ấn đường xuất huyết bốn năm giọt, tiếp đó đâm huyệt Thái Dương chích bốn năm giọt nữa. Sau đó dùng Thanh huyết thang phá ứ, trong ngoài cùng thực hiện. Hiệu quả thần tốc rõ ràng!”

Huê Trạch đường đại phu là một lão phụ tên gọi Tân Ngả Nương, lên tiếng: “Lão thân dùng phương có chút khác biệt. Phương của lão thân là tổ truyền chuyên trị nhiệt chứng. Phương này dùng Hồng Cáp thỉ, Diệp khỏa, Tán Huyến đan diệp, cộng với mỡ, Tao giáp trùng. Thang này dùng với Xích tiểu đậu được chưng cất tới khi cạn nước, lọc qua một lượt, phơi ba bốn nắng. Kết quả cũng đều công hiệu!”

Hoàng Lập Đạt cười nói: “Phương thuốc của Tân đại phu cũng kỳ lạ, lúc nào lão hủ phải thử mới được.”

Một đại phu tọa đường khác của Huệ Trạch đường lên tiếng: “Lão hủ tưởng rằng lệ dịch do âm táo. Âm táo thì phải cần âm dùng dương. Nhiệt tượng cùng với ngoại cảm không thể dùng tân ấm để phát nhiệt, mà khi nhiệt thịnh cũng không thể dùng khổ hàn để tẩy rửa. Phế vị cao nhất, táo tiên thương phế, phế lại chủ khí, đương trì khí phân. Lão hủ khi chẩn bệnh thấy rất rõ là táo cứu phế thang này có tác dụng tốt.”

Tiếp theo, các đại phu khác cũng nói lên kinh nghiệm chữa trị của chính mình.

Nghe xong một lượt, Đỗ Văn Hạo cười khổ trong lòng, các đại phu ở đây đa phần đều theo Thương hàn luận của Trọng Cảnh. Bộ y điển này hiện nay đương nhiên là vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất rồi, nhưng mà, tại phương diện nghiên cứu về ôn dịch, đây không thể là lựa chọn tốn nhất. Tuy nhiên, do vấn đề của lịch sử, hắn cũng không thể nói rõ nguyên nhân của căn bệnh này. Trên thực tế, dịch hạch này, còn gọi là phế thử dịch - dịch chuột, là do vi khuẩn lây lan từ chuột, nhưng các y giả ở đây lại cứ chủ trương “lệ khí”, theo Thương hàn luận coi nó nhưng là hàn tà. Hiện giờ phải tìm cách giải thích đúng cho họ, nếu không khi biện chứng, chữa trị sẽ gặp vấn đề, cái này liên quan tới tính mạng con người, không thể không cẩn thận.

Đỗ Văn Hạo đang muốn nói thì nhìn thấy Hàm Đầu cúi cúi lắc nhẹ đầu tỏ vẻ không tán thành ý kiến của Hoàng Lập Đạt, đột nhiên nhớ ra vừa rồi Hàm Đầu vẫn chưa có lên tiếng, trong lòng liền động, hỏi một câu: “Hàm Đầu, ngươi nói một chút đi!”

“Dạ, sư tổ!” Hàm Đầu suy nghĩ một chút rồi nói: “Nếu là trước đây thì đồ tôn cũng có cùng quan điểm với Hoàng đại phu và đa phần các đại phu ở đây, nhưng hôm qua, khi mới phát hiện dấu hiệu của lệ dịch, sư tổ từng nói qua, lệ dịch này không giống với chứng thương hàn nhiệt kia. Tại lúc đó thời gi­an gấp gáp, cũng không có điều kiện hỏi lại sư tổ tỉ mỉ hơn. Vừa rồi mọi người đều đã tham gia chẩn bệnh và cho thuốc, theo như đồ tôn thấy, Ma hạnh cam thang hợp vi thang của sư tổ là có hiệu quả nhất, trừ những người bệnh nặng ở bên ngoài, đa số sau khi dùng bệnh tình đều có cải thiện ở mức độ khác nhau.”

Cái này đúng là như vậy nên các đại phu đều gật đầu tán thành.

Hàm Đầu nói tiếp: “Hiện giờ dịch tình khẩn cấp, sắp tới còn có nhiều người bệnh được đưa tới, chúng ta không có nhiều thời gi­an để chậm rãi thảo luận như vậy, cho nên, đồ tôn thiển nghĩ hay là mời sư tổ chỉ điểm một chút phương pháp của người, mọi người ở đây cùng nghe và tham tường hội chẩn, Mọi người nghĩ thế nào?”

Hoàng Lập Đạt vuốt râu gật đầu nói: “Ừm, lão hủ nghe nói Đỗ tiên sinh am hiểu thần kỹ phẩu phúc chữa thương của Hoa Đà, hơn nữa lại am hiểu cả việc chữa trị tạp chứng nan y. Ôn dịch lần này thực tế có chút khác biệt, chưa từng thấy qua, có thể coi là một tạp chứng nan y, lão hủ cũng muốn nghe một chút cao kiến của Đỗ tiên sinh!”

Các vị đại phu khác cũng gật đầu nhìn về phía Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo hiểu được phòng ngự dịch là khẩn cấp, thời gi­an chậm rãi nghiên cứu dùng dược thì không có nhiều, hiện giờ các đại phu bị giới hạn bởi Thương hàn luận, đem phương pháp chữa trị những ôn dịch trước đây áp dụng cho lần này, hiển nhiên là không ổn. Việc bị bó hẹp trong những khuôn mẫu sách vở, mặc dù do yếu tố lịch sử, nhưng cũng là nguyên nhân lớn nhất khiến phòng dịch gặp khó khăn. Trước hết cần phải đổi mới ý nghĩ của mọi người về ôn dịch, từ đó mới có thể thay đổi phương pháp trị liệu.

Đỗ Văn Hạo từng cùng với Tiền Bất Thu luận bàn hội chẩn nhiều lần, biết rằng khi trao đổi y thuật với các y giả thời cổ đại này thì không thể dùng các tri thức hiện đại để thuyết phục họ, khi đó họ không những không thể tiếp nhận mà còn hoài nghi mình nói bậy. Vấn đề là phải đi từ những kiến thức họ biết để giải thích, dần dần gợi mở hướng dẫn thêm cho họ về những lý luận y học tiên tiến.

Chính vì vậy, Đỗ Văn Hạo không trực tiếp nói về việc truyền nhiễm khuẩn mà lựa chọn các quan điểm ôn dịch đương đại để bắt đầu: “Ôn dịch đích xác không giống với chứng thương hàn nhiệt. Chứng ôn dịch hiện nay không phải phong, cũng không phải hàn, không phải thử cũng không phải ẩm, mà do trong không khí có một loại khí khác biệt gây nên!”

Lời này vừa nói ra, nhất thời tiếng nghị luận xôn xao, Hoàng Lập Đạt lắc đầu nói: “Tất cả các chứng bệnh thương hàn đều không nằm ngoài sáu yếu tố, hàn - thử - táo - thấp - phong - nhiệt. Sáu yếu tố này theo khí trời bốc lên, trước tiên chảy vào kinh lạc, xâm nhập tạng phủ, mới gây nên bệnh, đều là nguyên nhân bên ngoài, sao lại không phải lệ khí?”

Về nguyên nhân gây bệnh, lúc trước Hàm Đầu cùng sư phụ Tiền Bất Thu khi trị chứng bệnh lây nhiễm từ vết th của Vương bộ khoái đã từng tranh luận với Đỗ Văn Hạo. Bọn họ khi đó cũng không tin quan điểm của Đỗ Văn Hạo, nhưng sau này chứng kiến một loạt bệnh nhân mới, lại thấy Đỗ Văn Hạo chữa trị khỏi cho họ rồi chỉ bảo cách dùng thuốc cho hai người, từ đó Tiền Bất Thu và Hàm Đầu với tâm phục khẩu phục.

Bây giờ nghe Đỗ Văn Hạo nói lại vấn đề này một lần nữa, quan điểm của các đại phu ở đây cùng với hai thầy trò mình lúc trước giống nhau, Hàm Đầu cảm thấy có chút buồn cười, cất cao giọng: “Chư vị, về sáu yếu tố này cũng là mới xuất hiện gần đây, rõ ràng trong Kim quỹ yếu lược của Trọng Cảnh thánh y không hề nhắc tới, vậy tại sao không thể xuất hiện thêm yếu tố mới?”

Mọi người nghe xong cũng cảm thấy có lý, đều gật đầu.

Đại phu Chu Kiến Vinh của Tụ Nhân đường lên tiếng: “Không sai, lời của Hàm Đầu đại phu rất có đạo lý, nếu đã có thể xuất hiện sáu yếu tố kia, vậy thì hoàn toàn có thể xuất hiện thêm một loại lệ khí khác nữa. Chúng ta là y giả thì không nên quá bảo thủ, lắng nghe Đỗ đại phu nói thêm về lệ khí mới này đi, sau đó nghị luận thêm cũng không muộn.”

Hoàng Lập Đạt cũng không phải là người cố chấp, gật đâu nói: “Không sai, lão hủ cũng đang cảm thấy rất sốt ruột đây, mời Đỗ đại phu nói tiếp!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ôn dịch là do cảm thụ lệ khí trong trời đất, nhiều khi lệ khí có chứa tà độc, nhiệt độc, ngoài tính chất thần tốc, thường kèm theo độc vụ, chướng khí, chờ khi thân thể yếu đuối thì xâm nhập, cùng với sáu yếu tố trên mà so sánh thì cái này hung mãnh hơn nhiều. Thế tới đột ngột, mạnh mẽ, biến hóa khôn lường, người bệnh nhiều khi thân nhiệt nóng lên, thần tình không tỉnh táo, máu chảy không thông, sinh ra cảm hàn, nôn mửa, ngày một nghiêm trọng. Bởi vì lệ khí gây nên ôn dịch bất đồng, nên lệ dịch mỗi lần bùng phát cũng bất đồng. Từ những gì ta quan sát được, lệ dịch trước mắt có ba gi­ai đoạn phát triển, lần lượt là nhiệt độc bế phế, nhiệt nhập doanh huyết và âm kiệt dương thoát.”

Các đại phu ở đây đều chưa có trải qua phế thử dịch, lại càng không có các kiến thức lây nhiễm của y học hiện đại, tuy nhiên, Đỗ Văn Hạo không nói tới lý luận của Tây y mà đơn thuần bắt nguồn từ góc độ Trung Y, giải thích bằng ba gi­ai đoạn phát triển của chứng bệnh. Các đại phu đều đã chẩn bệnh cho nhiều người ở đây nên lập tức hiểu rõ.

Đỗ Văn Hạo phân biệt giới thiệu qua về ba gi­ai đoạn điển hình đó xong, nói tiếp: “Với nhiệt độc bế phế chứng, chữa trị dùng Ma hạnh thạch cam thang hợp với Vi hành thang gia tăng Ngân hoa để giải độc cho phế. Âm kiệt dương thoát là gi­ai đoạn nguy kịch nhất, phải dùng Sinh mạch tán hợp với Tứ nghịch thang gia giảm, cố âm hồi dương. Ngoài ra, còn có doanh huyết chứng, là gi­ai đoạn nhiệt nhập vào doanh huyết, phương thuốc điều trị dùng Thanh doanh thang hợp với Tê giác địa hoàng thang gia giảm hoặc An cung ngưu hoàng hoàn. An cung ngưu hoàng hoàn này Ngũ Vị đường chúng ta có, chờ một lát ta sẽ trở về lấy.”

“Đỗ lão đệ, An cung ngưu hoàng hoàn này cũng có công dụng đặc biệt, nhưng không nghĩ ra giờ đây cứ trị lệ dịch lại phải dùng tới.”

Ps. / Tung 10c mừng noel, chúc các bạn một tối noel vui vẻ!

Chương 121: Lấy của người dùng cho người.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Có một việc cần làm rõ. Chữa bệnh chỉ là hành động phát sinh sau khi dịch đã bùng phát, căn bản không thể tiêu diệt tận gốc dịch bệnh. Chúng ta muốn diệt trừ tận gốc nạn dịch thì phải thực hiện tốt công tác phòng dịch. Tiêu diệt nguồn gây bệnh thì mới có thể giành thắng lợi trong cuộc chiến với dịch bệnh này”.

Lôi bộ đầu cao giọng hỏi: “Đỗ tiên sinh, ngài bây giờ là bác sĩ phụ trách y quan cục của nha môn, tri huyện đại nhân ủy thác cho ngài toàn quyền phụ trách công tác phòng dịch. Ngài cứ trực tiếp hướng dẫn cho chúng ta phương pháp phòng dịch hiệu quả nhất”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Theo Đỗ mỗ quan sát mặc dù nguồn bệnh bị gió phát tán nhưng nguyên nhân ban đầu là do chuột. Chuột mang theo nguồn bệnh, bởi vì chuột có mặt khắp nơi khi con người chạm vào chuột đương nhiên sẽ bị nhiễm bệnh, từ đó chuột lây sang người, người nhiễm bệnh lại làm lây sang người khác nên cứ thế dịch bệnh bùng phát. Nên muốn tiêu diệt dịch bệnh trước tiên phải diệt chuột, vệ sinh môi trường”.

Dịch bệnh phát sinh từ chuột. Đây là quan điểm hoàn toàn mới mẻ. Hoàng Lập Đạt ho khẽ rồi nói: “Con chuột truyền bệnh, không biết Đỗ đại phu có bằng chứng không?’

Đỗ Văn Hạo nói: “Không còn thời gi­an để tranh luận về vấn đề này đúng hay sai nhưng ta có thể chịu trách nhiệm về những gì ta nói với mọi người. Trước tiên chúng ta phân công nhiệm vụ. Ta là người phụ trách chung, nếu sau này chứng minh ý kiến của ta sai, ta sẽ hoàn toàn gánh chịu trách nhiệm”.

Hoàng Lập Đạt vội khoát tay nói: “Lão hủ không có ý trách cứ Đỗ tiên sinh. Lão hủ chỉ tò mò thôi, không nên tranh cãi nữa. Mời Đỗ tiên sinh chỉ cho lão hủ biết giờ phải làm sao”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thứ nhất, chuột là nguyên nhân gây nên dịch, phải diệt chuột. Tất cả các gia đình trong thành phải được phát thuốc diệt chuột. Đặc biệt là ở những tụ điểm tập trung đông người như quán ăn, khách điếm, vân vân. Việc diệt chuột phải làm thường xuyên. Thứ hai, phải ngay lập tức tổ chức đội chôn cất tử thi đi tới các khu vực xảy ra dịch để chôn cất các xác chết. Thứ ba, phải ngay lập tức tẩy trùng trong, ngoài thành, thành lập hệ thống chống dịch thống nhất. Thứ tư, đối với những khu vực nghi ngờ có ổ dịch phải tiến hành trừ độc. Thuốc nước Ngũ Vị đường của ta sẽ cung cấp cho mọi người. Thứ năm, tiếp tục lệnh giới nghiêm toàn thành. Nếu sau mười ngày liên tiếp không phát dịch mới được bãi bỏ.

Lôi bộ đầu nói: “Diệt chuột, vệ sinh môi trường cùng giới nghiêm thì không vấn đề gì nhưng thành lập đội chôn cất thì e rằng không ai muốn tham gia. Việc này rất mệt và nguy hiểm”.

Cung Minh nói chen vào: “Lão từng tham gia nhiều lần phòng dịch trước kia. Cách làm lúc đó là tăng lữ cùng cư sĩ tại gia đi chôn thi thể, cứ chôn hai trăm thi thể thì được cấp giấy chứng nhận. Tất cả mọi người rất hăng hái, nhiệt tình tham gia”.

Triều Tống quản lý tăng lữ rất nghiêm ngặt, thực hiện chế độ đăng ký. Chỉ khi có được chứng nhận của quan phủ thì mới được chính thức coi là tăng lữ, khi đó giới tăng lữ sẽ được miễn thuế và các chế độ lao dịch khác.

Đỗ Văn Hạo nói: “Biện pháp này rất hay. Ai tham gia chôn cất tử thi thì Ngũ Vị đường sẽ cung cấp y phục cách ly và mặt nạ phòng độc miễn phí. Bạch y xã có rất nhiều cư sĩ tại gia, họ nhất định sẽ hứng thú với quy định này. Ta chỉ sợ quan phủ không phê chuẩn thôi”.

Quan đại phu của y cục Vương Tướng nói: “Đỗ đại phu không nên lo lắng. Đây là thời kỳ phòng chống dịch bệnh. Triều đình trước kia đã ban bố quy định về việc này rất rõ ràng, chỉ cần lập một danh sách đăng ký, Huyện nha sẽ đóng dấu gửi quan phủ phê chuẩn”.

“Tốt lắm! Như vậy cứ dán bố cáo đi. Ta sẽ đi gặp Tĩnh Từ sư thái thương lượng việc này. Lôi bộ đầu, Thang trợ giáo, hai người lập tức tổ chức triển khai các công việc phòng dịch. Hàm Đầu, người tiếp tục cùng mọi người chẩn bệnh. Ta sẽ đi pha chế An cung ngưu hoàng rồi quay lại”.

Phân công công việc xong xuôi Đỗ Văn Hạo cưỡi ngựa quay lại Ngũ Vị đường.

Ý Đỗ Văn Hạo muốn để cho Tĩnh Từ sư thái phụ trách mọi việc, chiếm được sự ủng hộ mạnh mẽ của bà. Bà lập tức cho Phó chưởng quỹ đi thông báo toàn bộ các đệ tử và cư sĩ tại gia tham gia vào ông việc tuần tra trong thành. Kết quả mọi người nhiệt tình đăng ký tham gia. Bởi vì Huyện thành đã ban lệnh giới nghiêm không cho rời thành, cho nên mỗi nhóm đi chôn tử thi chỉ cần chôn đủ hai trăm thi thể thì có thể quay về làm công việc tuần tra để thay thể cho các cư sĩ khác đi chôn tử thi. Mọi người rất tán thành biện pháp này. Đội chôn cất nhanh chóng được tổ chức, sử dụng y phục phòng dịch và mặt nạ phòng độc miễn phí do Ngũ Vị đường cung cấp, đi ra ngoài thành đến các hương thôn tiến hành chôn cất thi thể.

Lâm Thanh Đại vội chỉ đạo mọi người sản xuất y phục cách ly và mặt nạ phòng độc. Nàng nhìn thấy Đỗ Văn Hạo thì vui mừng kéo hắn đến bên cạnh, vui vẻ nói với hắn: “Trang bị bảo hộ của chúng ta bán chạy lắm, tất cả đều là công lao của ngươi. Sau này phần lớn lợi nhuận sẽ là của ngươi”.

“Không nên nói thế. Ta chỉ phác thảo thôi, chủ yếu do mọi người vất vả làm ra. Cách chia lợi nhuận cũng đã thống nhất rồi, cứ theo ước định ban đầu”.

Lâm Thanh Đại cười rồi khẽ nói với hắn: “Nhưng nếu chúng ta cho nha môn mượn số tiền đó thì chúng ta đừng có hy vọng nhận được tiền lãi vào cuối năm”.

“Ngươi có ý kiến gì không?”

“Chữa bệnh cứu người đương nhiên là quan trọng nhất. Tóm lại không thể giương mắt đứng nhìn mấy ngàn dân chúng ngoài thành chết dần chết mòn vì dịch bệnh được. Vấn đề là mấy dược đường đã ngừng cung cấp miễn phí dược liệu. Tính theo thời giá hiện hành, hiện tại chỉ còn dược đường của chúng ta là đang chữa bệnh, phòng chống dịch miễn phí. Ta lo lắng là chúng ta cứ chữa bệnh phòng dịch thế này mà cuối cùng vẫn không nhận được khoản tiền đã bỏ ra”.

“Có lý!” Đỗ Văn Hạo nói: “Nhưng chúng ta khác với bọn họ. Lúc này chúng ta bán trang bị phòng hộ kiếm lời không ít thì cũng nên xuất ra một chút.

Phòng dịch cứu người, đó chính là tạo phúc cho dân chúng. Hơn nữa triều đình đã cứu trợ một khoản tiền cho chúng ta, chắc chắn nha môn sẽ không quịt nợ chúng ta. Nhưng lo lắng của tỷ cũng có lý, phòng chống dịch bệnh vẫn là chuyện của nha môn, không phải là việc của Ngũ Vị đường. Chúng ta làm thế chỉ là do đạo nghĩa, vì vậy cũng nên cẩn thận suy xét xem cần khoảng bao nhiêu tiền. Không chậm trễ cứu người nhưng cũng phải căn cứ vào thực lực của mình. Có khả năng đến đâu thì làm đến đó”.

“Ừ, ta nghe tiên sinh. Chúng ta đi tới chỗ thợ rèn đặt rèn mặt nạ phòng độc. Tiểu nhị của lò rèn bởi vì lệnh giới nghiêm nên không thể ra ngoài. Hắn nhờ ta chuyển lời cám ơn tới ngài. Hắn nói hắn uống thuốc của ngươi bệnh đổ mồ hôi của hắn đã khỏi”.

“Đúng không? Thế thì tốt rồi”.

Lâm Thanh Đại suy nghĩ một lát rồi khẽ nói: “Hơn nữa còn có chuyện rất kỳ lạ”.

“Chuyện gì?”

“Ta phát hiện mấy ngày nay bên ngoài Ngũ Vị đường có người âm thầm theo dõi, hơn nữa những người này hình như biết võ công”.

“Hả? Bọn chúng muốn gì? Cướp tiền à?”

Lâm Thanh Đại lắc đầu nói: “Không giống! Bọn họ quan tâm đến người ra vào Ngũ Vị đường của chúng ta chứ không phải tiền bạc của chúng ta. Ta đã âm thầm theo dõi, phát hiện thấy bọn họ theo dõi người bệnh của Ngũ Vị đường, thậm chí còn tiến hành tra hỏi. Không biết bọn họ có mục đích gì, nhưng ta thấy bọn họ không có ác ý với chúng ta”.

“Chỉ cần không có ác ý là được” Đỗ Văn Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: “Trong khoảng thời gi­an này ta cũng phát hiện có người theo dõi ta, hơn nữa thân thủ cũng rất khá. Có lẽ Tĩnh Từ sư thái chủ trì Bạch Y xã phái người bảo vệ chúng ta”.

“Ừ, có khả năng”.

Mấy ngày sau, một lượng lớn dân chạy nạn đổ tới Đống Đạt huyện bởi vì nghe nói ở đây có đại phu cứu chữa người bị dịch bệnh miễn phí, lại còn có bán thiết bị phòng dịch chuyên dụng có thể ngăn ngừa dịch bệnh.

Khu cách ly ngoài thành đã đông gấp hai lần, ở đó tập trung rất nhiều người đợi mua sắm y phục phòng dịch và mặt nạ phòng độc. Lâm Thanh Đại đã thuê thêm nhiều người giúp việc, ngày đêm tăng cường sản xuất trang bị. Vấn đề quan trọng nhất là các đường nối thì do nàng và Anh Tử phụ trách, bí mật vẫn được bảo toàn. Vì vậy có người cũng làm giả mang đi bán nhưng không nhận được sự ủng hộ của dân chúng, chỉ dùng hàng của Ngũ Vị đường, trong dân chúng lan truyền rằng bên trong các thiết bị này thần y Đỗ Văn Hạo, người am hiểu các tuyệt kỹ của Hoa Đà đã cho thuốc vào nên chỉ y phục và mặt nạ của Ngũ Vị đường mới dùng được.

Mà trên thực tế, khi làm giả mặt nạ phòng độc bởi vì không biết bên trong bỏ loại thuốc gì cùng cách điều chế nên mặt nạ giả mạo không có tác dụng phòng độc. Một số người mua phải mặt nạ loại này đeo vào vẫn mắc bệnh nên đến đòi lại tiền, lại còn đánh cho người bán một trận nên sau này không ai dám làm giả nữa.

Sau một thời gi­an, việc tiêu thụ mặt nạ phòng độc và y phục cách ly của Ngũ Vị đường vẫn rất khả quan, giá lại rất cao. Hàng sản xuất tới đâu lập tức có người đến mua tới đó. Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại không ngờ bây giờ người có tiền trong dân chúng cũng không ít. Tuy nhiên vậy cũng tốt, nhờ vậy mới có tiền để dùng cho công việc phòng dịch.

Cùng với sự phát triển của dịch bệnh, công việc phòng dịch bên ngoài thành cũng ngày một khẩn trương. Bởi vì số lượng người bệnh tăng vọt, dược liệu của các dược đường có liên quan trong thành đều đã dùng sắp hết. Đám người Đỗ Văn Hạo nóng ruột như kiến bò trong chảo nóng.

Lúc này mọi người cũng mới thở phào nhẹ nhõm khi Thang trợ giáo được cử đi Phủ thành mua dược liệu cũng đã về cùng với một xe trâu lớn đầy dược liệu, đáp ứng nhu cầu cấp bách hiện nay.

Thang trợ giáo đang ở trong lều vải của Đỗ Văn Hạo báo cáo tình hình mua dược liệu. Hắn trầm giọng nói: “Phủ thành cũng đã xuất hiện dịch bệnh, đã có hơn một ngàn người tử vong. Trong thành rất náo loạn. Rất nhiều người đã trốn ra khỏi Phủ thành. Nghe nói ở các châu, huyện phụ cận đều cũng đã xuất hiện dịch bệnh. May mắn chúng ta đã đi sớm, dược liệu cũng đã mua được, giá cả cũng phải chăng. Bây giờ thì có tiền cũng không mua được dược liệu”

Đỗ Văn Hạo cả kinh hỏi: “Tại sao?’

“Phủ thành và các châu, huyện phụ cận đều bị náo động bởi dịch bệnh. Còn ai dám vận chuyển dược liệu đến đây đâu nên giá cả dược liệu tăng vọt lên”.

“Thì ra là thế, chúng ta còn đủ dược liệu để dùng không?”

“Vấn đề là còn bao nhiêu người bệnh?”

“Hiện nay trong khu cách ly ngoài thành còn gần ba nghìn bệnh nhân”.

“Ba nghìn?” Thang trợ giáo cười khổ, hắn lắc đầu nói: “Nhiều nhất chỉ đủ dùng trong một tháng”

“Hả?” Đỗ Văn Hạo trợn tròn mắt: “Vậy làm sao bây giờ? Đi mua thêm dược liệu à?”

“Mua thì phải mua nhưng bây giờ giá cả dược liệu tăng cao, đã tăng gấp mấy lần so với trước. Nhiều tiền vậy thì lấy đâu ra?’

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói: “Vậy không có cách nào ngoài mua dược liệu giá cao à? Trước chúng ta cứ cho nha môn mượn tiền, sau này chúng ta sẽ được cấp một khoản tiền phòng chống dịch”.

Thang trợ giáo nhìn quanh rồi hắn dè dặt nói: “Đỗ tiên sinh, ngài rất thành thật. Có một điều ta muốn cho người biết mặc dù hơi bất nhân nhưng cũng không thể không nói. Chữa bệnh cứu người theo lý thường thì phải làm. Chúng ta hành nghề y càng không thể thấy chết không cứu, điều này đúng. Nhưng nếu ngài vẫn tiếp tục chữa bệnh miễn phí như thế, Ngũ Vị đường của ngài sớm muộn cũng sẽ bị thua lỗ hết vốn”

Chương 122: Hiệu quả.

Điều này đương nhiên Đỗ Văn Hạo hiểu rõ, nhưng hoàn cảnh hiện nay không còn cách nào khác.

Thang Trợ giáo lại nói: “Đỗ tiên sinh, chúng ta nói thật, khoản tiền cứu trợ dịch bệnh của nha môn không biết khi nào mới tới, cũng không biết sẽ được bao nhiêu, chắc chắn không quá một vạn, chuyển tới tay chúng ta chỉ còn một ngàn. Tri huyện đại nhân không hoàn lại tiền cho ngài, đến lúc đó ngài chỉ có nước kêu trời thôi”.

“Theo ý kiến của ngươi thì phải làm gì?”

“Không thể trả tiền như thế được.” Thang Trợ Giáo khoát tay nói: “Trên đường ta quay về phủ thành nghe người qua lại nói khắp nơi, họ nói các dược đường khác trong huyện thành đã ngừng cung cấp dược liệu miễn phí, chỉ còn Ngũ Vị đường của ngài đang cung cấp dược liệu miễn phí để cứu chữa cho bệnh nhân bị dịch bệnh, chữa khỏi cho rất nhiều người. Mọi người đều khen ngài là phật sống tái sinh. Nói thật danh tiếng của Ngũ Vị đường đã lan truyền khắp nơi, kể cả nữ nhân và trẻ nhỏ ở các châu, huyện lân cận cũng biết. Nhưng danh tiếng này chỉ do bỏ tiền ra mà có được. Ngài nên dừng lại trước khi quá muộn”.

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm không nói.

Thang trợ giáo nói: “Ta hiểu ý của ngài, ngài đúng là người có trái tim nhân hậu. Nhưng dù sao thì dược đường cũng vẫn là dược đường không phải là nơi làm từ thiện. Mục đích của dược đường cũng là kiếm tiền, Ngũ Vị đường của ngài có hai chưởng quỹ. Ngài buôn bán chỉ muốn thu được lợi nhuận, không muốn bỏ vốn ra mà không thu về được. Nói thật, cho đến bây giờ Ngũ Vị đường của ngài đã đóng góp rất lớn cho việc phòng chống dịch bệnh. Ngài đã hết lòng, hết sức, nhìn ngài phải bỏ ra số tiền lớn như vậy, ta cũng rất đau lòng, đó là tiền mồ hôi công sức của ngài. Phòng chống dịch bệnh là chuyện của triều đình. Ngài không thể cứ đi lo việc triều đình mãi được. Đến khi xong việc, cùng lắm thì triều đình cũng lập cho ngài một cái bia công đức, lúc đó thì ngài sẽ làm gì đây?”

“Vậy ngươi nói xem nên làm gì?”

“Một câu thôi! Thu tiền! Ngài chẩn bệnh có thể miễn phí nhưng thuốc thì phải thu tiền. Nói thật việc này cũng rất công bằng. Ta biết ngài lúc trước chữa bệnh, phát thuốc miễn phí, chính là đồng cảm với nỗi khổ đau của nhân gi­an, mặt khác cũng là y đức, cũng là vì danh tiếng của dược đường nên ai mà chả thế, đúng không? Nếu không liệu có ai tự giác quyên góp dược liệu, cử đại phu đến chữa bệnh miễn phí không? Nhưng những người khác đã bỏ cuộc trong khi ngài vẫn tiếp tục, dù gì đi nữa thì chuyện này qua rồi. Lần này y phục cách ly và mặt nạ phòng độc của Ngũ Vị đường đã mang đến cho dược đường của ngài danh tiếng mà các dược đường khác không thể có được, trang bị này đã cứu tính mạng của biết bao người dân, tránh cho biết bao người không bị lây bệnh. Chỉ riêng điểm này danh tiếng của Ngũ Vị đường đã trùm thiên hạ, ngài không cần chữa bệnh, phát thuốc miễn phí để gây danh tiếng nữa”.

Vấn đề này Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại cũng đã từng thảo luận qua nhưng không biết rõ nha môn có thể nhận được bao nhiêu tiền cứu trợ dịch bệnh của triều đình nên cũng không biết sẽ nhận được bao nhiều tiền của nha môn. Bây giờ Thang trợ giáo có ý tốt nhắc nhở hắn, lại hỏi về quyết định của hắn. Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Thang trợ giáo, cảm tạ những lời tâm huyết của ngươi. Ngươi đã tham gia vào nhiều lần phòng dịch, cũng hiểu biết nhiều, ngươi có thể cho ta biết một điều: Lần chống dịch này, triều đình sẽ cứu trợ cho huyện thành chúng ta nhiều nhất là khoảng bao nhiêu tiền không?”

Thang trợ giáo nhìn hắn rồi xòe ra năm đầu ngón tay.

“Năm ngàn?”

“Ngài nghĩ gì vậy? Năm ngàn?” Thang trợ giáo bĩu môi nói: “Triều đình cấp tiền xuống qua mỗi cấp đều bị khấu trừ. Tới tay chúng ta năm ngàn đã bay mất phần lớn. Nói thật cho ngài biết năm ngàn này dù có chính thức chuyển cho chúng ta thì cũng không bao giờ chuyển hết toàn bộ ho Ngũ Vị đường, theo thông lệ thì những người tham gia công tác phòng chống dịch của nha môn sẽ được nhận tiền. Gia đình của những người tử vong cũng được trợ cấp, bên cạnh đó còn đủ thứ khác cũng phải chi tiền. Số tiền còn lại mới đến tay ngài, lúc đó thì đã gần hết rồi, ít nhất cũng phải mất hai ngàn hai. Đến tay ngài chỉ còn khoảng một nửa là chắc”.

“Một nửa? Hai ngàn năm trăm?” Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ngũ Vị đường chúng ta đã cho nhan mô mượn bảy ngàn hai trăm mà tiền y phục phòng dịch và mặt nạ phòng độc cho nha môn cũng phải bằng con số đó nữa”.

“Vậy sao ngài không dừng lại? Ngài muốn mất hết vốn sao? Đỗ tiên sinh. Ngài làm được như thế này đã là hết lòng rồi”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Có lý. Dù sao thì đã mua đủ lều vải cho khoảng hai đến ba nghìn người bệnh. Dược liệu cần dùng để làm thuốc. Bán thuốc thu tiền cũng chỉ để phục vụ phòng chống dịch thôi”.

Thang trợ giáo cười nói: “Vậy là được rồi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Nhưng dược liệu chỉ còn đủ dùng trong vòng nửa tháng. Dù sau nửa tháng người bệnh tình nguyện trả tiền thuốc thì cũng không có dược liệu để chữa trị”.

“Từ phủ thành không có phương tiện để vận chuyển về đây. Ta có ý kiến này, nghe nói Đỗ đại phu đã cứu mạng của Tĩnh Từ sư thái, chủ trì Bạch y xã, đại phu nên đi tìm sư thái đề nghị hỗ trợ. Bạch y xã có tín đồ ở khắp nơi, chắc chắn họ sẽ có cách mua được dược liệu với giả cả phù hợp”.

“Được! Ta đi tìm Tĩnh Từ sư thái thương lượng”.

Đỗ Văn Hạo trở lại Ngũ Vị đường tìm Tĩnh từ sư thái, nói rõ sự việc cho bà. Tĩnh Từ sư thái lập tức triệu tập các đầu lãnh cùng nhau thương nghị.

Phó chưởng quỹ nói: “Việc này rất đơn giản, ta có một đội vận chuyển lúa gạo riêng. Đỗ đại phu muốn vận chuyển dược liệu thì ngài cần kê một danh sách, ta sẽ trực tiếp vận chuyển cho ngài”.

Trừ Phó trưởng quỹ ở bên ngoài, Bạch Y xã có rất nhiều chuyện làm ăn. Một số là các phú thương lớn, có các thương đội vận chuyển hàng hóa, tất cả đều đồng ý giúp đỡ, giá cả và phương thức thanh toán rất hợp lý.

Đỗ Văn Hạo rất vui mừng, hắn lập một danh sách các loại dược liệu liên quan đến việc phòng chống dịch bệnh. Hắn không ngờ đến thời khắc quan trọng Bạch Y xã lại có tác dụng lớn đến vậy.

Tình hình dịch bệnh càng lúc càng trầm trọng. Người bệnh từ khắp nơi đổ về càng lúc càng nhiều. Bệnh nhân ở khu cách ly nhiễm bệnh nặng cũng chết rất nhiều. Hàng ngày đều có hơn trăm thi thể bị hỏa táng, đống lửa thiêu tử thi không lúc nào tắt. Tiếng rên rỉ đau khổ lan tràn khắp nơi, suốt ngày đêm.

Nhưng so với các khu cách ly khác thì vẫn khá hơn nhiều. Đỗ Văn Hạo dựa vào Trung y hiện đại đã chế ra phương thuốc, sau khi thử nghiệm rất hiệu quả. Các đại phu cứ căn cứ vào chỉ dẫn của Đỗ Văn hạo mà điều trị cho bệnh nhân. Hiệu quả của việc chữa trị rất cao. Số người tử vong giảm rõ rệt, trị khỏi cho hơn nửa bệnh nhân. Đối với loại dịch hạch lợi hại nhất trong các loại ôn dịch, tỷ lệ chữa khỏi bệnh chỉ hoàn toàn dựa vào Trung y như thế là đặc biệt cao rồi.

Vì vậy khi Đỗ Văn Hạo tuyên bố chữa bệnh miễn phí cho tất cả các người bệnh thì người bệnh khắp nơi đổ về càng lúc càng nhiều. Ngoại trừ có một lượng người tới mua y phục phòng hộ và mặt nạ phòng độc của Đỗ Văn Hạo còn tất cả đều là người bệnh tới đây mong được điều trị, cứu mạng. Do đó trong vòng nửa tháng, không tính số người khỏi bệnh đã đi khỏi, chỉ riêng ở khu cách ly ngoài thành số bệnh nhân cần điều trị đã vượt qua con số năm nghìn người.

Thang trợ giáo từ phủ thành quay lại thì dược liệu cũng dã dùng hết. Trong khoảng thời gi­an đó sức khỏe của Tĩnh Từ sư thái đã bình phục hoàn toàn, bà được Không Huệ sư thái, Phó chưởng quỹ và các thuộc hạ thân tín hộ tống quay về phủ thành. Cung Minh đại phu ở lại giúp Đỗ Văn Hạo phòng chống dịch bệnh.

Trở lại Phủ thành, Tĩnh Từ sư thái, chủ trì Bạch y xã toàn tâm toàn ý ủng hộ Đỗ Văn Hạo phòng chống dịch bệnh. Thông qua Bạch y xã các thương đội vận chuyển từ các nơi chuyên trở dược liệu thô với giá cả phải chăng không ngừng đổ về Ngũ Vị đường khiến cho công việc phòng chống dịch của Đỗ Văn Hạo tiến triển rất thuận lợi.

Dưới sự chỉ đạo của Tĩnh Từ sư thái, các phú thương của Bạch y xã ở Phủ thành đã quyên góp tiền, hiến tặng lều vải, chăn bông giải quyết vấn đề ăn ở cho người bệnh, đứng trên lâu thành nhìn xuống thấy bên ngoài thành bạt ngàn lều vải, cái nọ nối tiếp cái kia. Bên trong lầu có đốt lửa để sưởi ấm, khung cảnh rất ấn tượng.

Mặc dù Đỗ Văn Hạo đã báo cáo tình hình dịch bệnh nhưng do thông tin liên lạc và gi­ao thông lạc hậu. Từ lúc triều đình nhận được tin tức dịch bệnh cho đến lúc điều động quan binh phong tỏa, cách ly các khu dịch bệnh đã mất hơn một tháng. Bởi vì người ở những khu vực dịch bệnh hoảng sợ chạy trốn nên bệnh dịch lan đi rất nhanh, lan tới hơn mười châu, huyện phụ cận, tổng cộng khoảng một vạn người chết. Những người may mắn sống sót đều rời bỏ quê hương bản quán. Nhiều thành thị ngoài tử thi và chuột ra thì đã biến thành một tòa thành trống.

Trong toàn bộ địa phận Dịch châu, chỉ có Đống Đạt huyện của Đỗ Văn Hạo vì đã ban lệnh giới nghiêm kịp thời, giảm thiểu được sự lan truyền của dịch bệnh, hơn nữa toàn thành được trừ độc, tiến hành diệt chuột, một bước cơ bản để có thể dẩy lui dịch bệnh. Nhưng vấn đề cơ bản là Đỗ Văn Hạo đã chế ra y phục cách ly và mặt nạ phòng độc, cứu được tính mạng của bao người dân trong và ngoài thành. Công việc phòng chống dịch cuối cùng cũng đạt hiệu quả, con số tử vong của toàn huyện thành chưa tới một ngàn người, thấp hơn rất nhiều so với các châu huyện khác.

Mấy ngày nay Đỗ Văn Hạo bận rộn với công việc phòng chống dịch nhưng hắn cũng không quên xem bệnh cho các bệnh nhân.

Sau khi được Đỗ Văn Hạo chữa trị, Bàng mẫu đã khôi phục được thị lực, thích lực cũng đã trở lại bình thường làm cho bà rất vui mừng. Nhị nãi nãi cũng hoàn toàn bình phục. Cả gia đình mấy lần mang mặt nạ phòng độc tới thăm Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm. Tiểu hài tử Hổ tử bị bệnh dạ đề (khóc đêm) cũng được Tiền Bất Thu chữa khỏi.

Bệnh viêm khớp ngón tay của phụ nhân sau khi uống thuốc cũng có chuyển biến rõ rệt. Đỗ Văn Hạo tới khám lại hai lần, thay đổi phương thuốc, các ngón tay đã đỡ bị sưng lên, các cơn đau cũng biến mất. Vị phụ nhân đó cũng rất cảm kích hắn.

Bệnh liệt dương của Trang tri huyện đã khỏi, mặc dù công việc phòng dịch rất bận rộn nhưng mỗi khi tối đến ông ta đều tranh thủ quay về bồi tiếp hai vị ái thiếp, chuyện phòng the rất mãn ý. Trang tri huyện rất vui mừng khi đến lúc tuổi già lại có được hy vọng có người nối dõi.

Dưới sự đốc thúc của Trang tri huyện, công tác phòng chống dịch bệnh đã đạt hiệu quả to lớn. Cuối cùng Bạch Y xã cũng xin được lập bia công đức để ghi công của Đỗ Văn Hạo, các thợ điêu khắc đã làm suốt ngày đêm rồi đem dựng bia ở trước cổng của khu cách ly bên ngoài thành.

Sau gần một năm, dịch bệnh cũng bị đẩy lui, những người bệnh nặng thì đã chết chỉ còn những người bệnh nhẹ, sau một thời gi­an điều trị phần lớn đã khỏi bệnh, ở khu cách ly số lượng người bệnh ngày một giảm.

Ở khu vực cách ly của Đỗ Văn Hạo đã bảy ngày không có thêm bệnh nhân mới đưa tới. Đương nhiên điều này là do bọn họ đã thực hiện rất hiệu quả lệnh giới nghiêm, cách ly, chôn cất tử thi, diệt chuột và tẩy trùng cùng một loạt các công việc phòng dịch có hiệu quả khác nữa.

Đỗ Văn Hạo phòng dịch có hiệu quả cuối cùng cũng gây sự chú ý của quan binh.

Chương 123: Quan lớn tới thăm.

Một buổi sáng, trong lúc Đỗ Văn Hạo cùng Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi, Hàm Đầu mặc y phục cách ly đang ở trong khu lều vải chẩn bệnh cho bệnh nhân thì Lôi bộ đầu đang đảm nhận công việc cách ly vội vã chạy đến nói: “Đỗ tiên sinh, Cung đại phu dẫn người tới tìm ngài”.

Đỗ Văn Hạo vội đi ra ngoài lều vải. Hắn nhìn thấy mấy người mặc y phục cách ly, mang mặt nạ phòng độc đang tiến lại, vội đi tới nghênh đón.

Cung Minh cười ha hả nói: “Vị này chính là người lão hủ đã nói tới, Đỗ Văn Hạo, Đỗ tiên sinh, bác sĩ của y quan cục của nha môn Đống Đạt huyện, phụ trách việc chống dịch của huyện thành. Đỗ lão đệ, để ta giới thiệu với lão đệ” Cung Minh chỉ tay về phía người to béo, bụng phệ nói tiếp: “Vị này chính là Đô thống chế Cao Kim Vĩ, Cao tướng quân, phụ trách quân nhu, lương thảo dưới quyền Tây chinh Tây Hạ An phủ sứ Vương Thiều, Vương đại nhân. Vị này bộ tướng của Cao tướng quân, Ân đô thống, còn vị này là Tuần kiểm của Đống Đạt huyện chúng ta, Lương đại nhân”.

“Đô thống chế” là cấp bậc tương đương với Thiếu tướng hiện nay. Thống chế quân nhu, lương thảo tương đương với Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần trong quân đội hiện nay. Đô thống tương đương với cấp lữ đoàn nhưng về chức vị thì chỉ thấp hơn chức Đô thống chế mà thôi.

Biên chế quân đội của Tống triều rất hỗn lọan, Đỗ Văn Hạo cũng không biết nhiều lắm nên hắn cũng không rõ vị thống chế này là quan chức gì. Dù sao hắn thấy người này bụng phệ thì biết chức quan của người này cũng không nhỏ.

Nghe nói người của quân đội, Đỗ Văn Hạo nhất thời nhớ ra Cung Minh đã đồng ý giới thiệu cho người của quân đội mua bột tam thất của hắn. Nhưng khi dịch chuột xuất hiện hắn đã quên mất việc này. Giờ hắn nghĩ những người này có thể đến vì chuyện đó.

Lương tuần kiểm cũng chắp tay nói với Đỗ Văn Hạo: “Đại phu, ngài khỏe chứ. Đã sớm nghe danh tiếng của ngài mà chưa có cơ hội gặp mặt”.

Bàng Vũ Cầm cũng theo Đỗ Văn Hạo ra ngoài, nàng thấy Lương tuần kiểm chủ động bắt chuyện trước nên vội nói với Đỗ Văn Hạo: “Đây là nhị tỷ phu của ta”

Lương tuần kiểm mỉm cười nói với Bàng Vũ Cầm: “Nghe nói muội theo Đỗ đại phu học y thuật, hay lắm”.

Nghe thế Đỗ Văn Hạo mới biết vị Lương tuần kiểm này này là hôn phu của nhị tỷ của Bàng Vũ Cầm nên hắn vội chắp tay chào. Hắn đã từng nghe Bàng mẫu nói Lương tuần kiểm là chưởng giáp binh của huyện nha, giống như trung đội trưởng cảnh sát thời nay. Nhưng thuộc hạ dưới trướng của Lương tuần kiểm thì nhiều hơn rất nhiều so với trung đội cảnh sát.

Lương tuần kiểm nói: “Đỗ đại phu. Đại Tống và Tây Hạ xảy ra nạn binh đao. Cao tướng quân nghe nói Ngũ Vị đường các người có loại kim sang dược trị thương rất hiệu quả. Cho nên đích thân tướng quân tới đây bàn với người về thủ tục mua bán kim sang dược” Nói tới đây, hắn mỉm cười đầy hàm ý.

Đỗ Văn Hạo không hiểu là chuyện gì nên hắn chỉ ậm ừ cho qua chuyện rồi hắn dẫn ba người đi vào trong lều của hắn.

Sau khi phân chủ khách ngồi xuống xong, Cao tướng quân nhìn dò xét Đỗ Văn Hạo, rồi nói với hắn: “Ta nghe Ân đô thống nói ngươi có một loại kim sang dược trị ngọai thương rất hiệu quả, gọi là bột tam thất. Kim sang dược trị ngoại thì lọai nào trả giống nhau. Bản tướng quân không tin nên muốn đến xem”.

Cung Minh nói: “Bột tam thất của Đỗ lão đệ trị thương rất hiệu nghiệm. Điều này lão hủ có thể chứng thực”.

Cao tướng quân mang mặt nạ phòng độc, ông ta khẽ lắc đầu rồi đưa mắt lườm Cung Minh một cái: “Ngươi đứng ra đảm bảo với bản tướng quân. Thế còn ai đứng ra đảm bảo cho ngươi?”

Ân đô thống sửng sốt đưa mắt nhìn Cao tướng quân.

Ân đô thống cũng là tín đồ của Bạch y xã. Cung Minh bảo hắn đến mua kim sang dược trị thương là bột tam thất do Đỗ Văn Hạo chế ra. Nhưng ông ta không ngờ lại có một vị đại quan đi cùng nên không kịp báo cho Đỗ Văn Hạo. Ông ta cũng không biết tính cách của vị tướng quân này ra sao. Lúc này xem ra ông ta cũng không phải là thượng cấp tốt.

Đỗ Văn Hạo không quen nhìn vị tướng quân bụng phệ như thế hắn đang định nói mấy câu chợt nghe bên ngoài có tiếng gọi: “Đỗ tiên sinh! “.

Âm thanh đó đúng là của Lâm Thanh Đại.

Đỗ Văn Hạo vội lên tiếng: “Ta ở đây, cứ vào đi”.

Lâm Thanh Đại liền vén màn bước vào. Nàng sửng sốt nhìn thấy đám người của Cao tướng quân rồi nói: “Tiên sinh đang có khách, để lát nữa ta đến” Nói rồi nàng xoay người muốn đi ra ngoài.

“Chờ một chút!” Đỗ Văn Hạo nói. Hắn không muốn bàn bạc chuyện làm ăn với vị tướng quân bụng phệ này, nhất là hắn không muốn có liên quan gì với bên quân đội. Vì khi dính dáng tới quan binh, tiền chưa chắc đã kiếm được, ngược lại còn gặp phiền toái. Vị tướng quân này e rằng đến đây cũng không có hảo ý. Hắn muốn mượn cơ hội thoát thân nên đứng dậy nói: “Có trường hợp cấp cứu à? Ta phải đi rồi. Xin lỗi tướng quân, ta phải đi chữa trị cho bệnh nhân”.

Thấy Đỗ Văn Hạo muốn đi, Cao tướng quân sa sầm mặt. Hắn nói: “Đỗ đại phu, bổn tướng quân đường đường là thống chế triều đình. Ta tự mình tới đây thảo luận mua bán bột tam thất của Ngũ Vị đường các ngươi thế mà ngươi lại muốn phủi tay bỏ đi. Như thế liệu có hợp tình hợp lý không?’

Lâm Thanh Đại dường như cũng hiểu biết về hệ thống quân đội của triều đình. Nàng vừa nghe người đó nói là thống chế thì biết đây chính là quan quân cao cấp. Nàng cũng đã biết chuyện Cung Minh của Bạch Y xã hứa giúp Đỗ Văn Hạo bán bột tam thất cho quân đội, nghe hắn nói thế nàng biết Đỗ Văn Hạo không thông thạo về việc làm ăn nên vội nói: “Thì ra tướng quân tới dược đường của chúng tôi mua kim sang dược. Đỗ tiên sinh, nếu người bận cứ đi đi để ta ở lại bàn bạc với tướng quân”.

Đỗ Văn Hạo đương nhiên sẽ không để Lâm Thanh Đại một mình dính vào chuyện như thế này nên hắn nói: “Nếu không có gì cấp bách thì chúng ta cứ cùng ở lại bàn bạc”.

Cao tướng quân liếc nhìn Lâm Thanh Đại: “Ngươi là ai?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng giới thiệu hai bên với nhau.

Cao tướng quân nhìn nàng nói: “Ồ, thì ra là đại chưởng quỹ của Ngũ Vị đường. Bột tam thất của các ngươi có hiệu quả thật không? Bản tướng quân muốn mua nhưng sẽ không tùy tiện xuất ra ngân lượng. Hiện có tờ ngân phiếu một vạn tám ngàn lượng bạc trắng. Kim sang dược của các ngươi như thế nào, ta cũng mới chỉ nghe nói lại. Ta vẫn chưa quyết định có mua hay không”.

Phụ mẫu của Lâm Thanh Đại là thương nhân. Từ nhỏ nàng đã nghe phụ mẫu của mình bàn bạc chuyện làm ăn. Nàng vừa nghe Cao tướng quân nói thì hiểu ngay ẩn ý của ông ta nên nàng vội nói: “Ta sẽ đi lấy một ít bột mẫu cho tướng quân xem. Sau khi xem xong, cam đoan tướng quân sẽ hài lòng”.

“Đúng không?” Cao tướng quân vỗ vỗ bụng: “Vậy để bản tướng quân xem qua một chút”.

Lâm Thanh Đại kéo Đỗ Văn Hạo sang bên cạnh. Nàng khẽ nói với hắn: “Đây chính là một thương vụ lớn, người cứ đàm đạo với hắn, đừng đắc tội với ông ta. Để ta đi làm cho”.

Đỗ Văn Hạo cũng hiểu ý tứ của tướng quân, hắn cười, khẽ nói: “Cứ yên tâm. Có ai chê tiền bạc đâu”.

Lâm Thanh Đại đi rồi, Đỗ Văn Hạo ôm quyền tạ lỗi rồi ngồi xuống.

Cao tướng quân đưa tay sờ mặt nạ phòng độc trên mặt mình rồi nói: “Đỗ tiên sinh, cái mặt nạ này cũng do Ngũ Vị đường chế tạo đúng không?”

“Đúng”

Có thể ngăn ngừa dịch bệnh không?”

“Cũng gần hai tháng rồi, chỉ cần đi hỏi người sử dụng thiết bị này là biết hiệu quả của nó như thế nào. Cho đến bây giờ vẫn chưa có ai nói khi đeo mặt nạ của Ngũ Vị đường lại bị lây dịch bệnh”.

“Ha, ha, ngươi rất tự tin. Nói thật trên đường tới đây ta cũng gặp người mang mặt nạ của ngươi, họ rất khen ngợi. Bản tướng quân cũng rất hứng thú liền cho mua mấy cái để đeo xem hiệu quả ra sao.”

Đỗ Văn Hạo chủ động nói sang chuyện tam thất: “Chờ một lát đại chưởng quỹ của chúng tôi mang thuốc mẫu đến, ngài chỉ cần xem qua là biết chất lượng của thuốc”.

“Đúng không? Ta nghe nói ngươi phụ trách việc chống dịch ở Đống Đạt huyện rất hiệu quả. Huyện thành của các ngươi là nơi có ít người chết nhất. Ngươi có bí quyết gì hãy nói cho bản tướng quân nghe một chút”.

Đỗ Văn Hạo liền thuật lại chi tiết biện pháp phòng, chống bệnh dịch hạch. Cao tướng quân chăm chú nghe, thi thoảng lại ngắt lời hỏi một câu.

Sau thời gi­an độ một tuần trà. Lâm Thanh Đại ôm một cái rương nhỏ đi vào. Nàng đặt cái rương lên trên cái bàn cạnh Cao tướng quân. Nàng mở cái rương ra rồi nói: “Cao tướng quân. Đây chính là mẫu bột tam thất gia truyền của Ngũ Vị đường chúng tôi. Xin mời tướng quân xem qua”.

Cao tướng quân cúi đâu nhìn. Ông ta thấy trong rương chỉ có năm trăm lạng bạc trắng, tương đương với năm mươi vạn nhân dân tệ” Ông ta hớn hở, gật đầu nói: “Ừ, đúng thật. Hàng tốt lắm. Tốt, bản tướng quân rất hài lòng. Ta đã quyết định mua hàng. Thế giá cả thế nào đây?”

Lâm Thanh Đại liếc nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo thấy vị tướng quân này thấy tiền thì sáng mắt lên nên hắn rất ghê tởm. Hắn nói giọng khó chịu: “Bột tam thất này của ta chỉ còn có hai bình sứ. Mỗi bình có giá…, một lượng bạc”.

Một lượng bạc tương đương một ngàn nhân dân tệ. Một bình nhỏ bột tam thất bán giá một ngàn tệ, đó chính là giá trên trời. Hắn cố ý ra một cái giá trên trời để trêu chọc Cao tướng quân mà thôi. Hắn không ngờ Cao tướng quân gật đầu nói: “Được! Giá cả đã thỏa thuận xong! Đợt đầu tiên ta đặt mười ngàn bình. Được không?”

Đỗ Văn Hạo càng nghĩ càng sợ. Hắn không ngờ Cao tướng quân này không cần mặc cả, hơn nữa đặt ngay một vạn bình, một vạn lạng bạc trắng, tương đương với một trăm vạn nhân dân tệ.

Đỗ Văn Hạo nhất thời ngây người, lần đầu tiên thực hiện một giáo dịch lớn, tim hắn đập loạn xạ nhưng hắn lại thầm kêu khổ trong lòng. Hắn không ngờ Cao tướng quân lại đồng ý với cái giá trên trời của hắn, hắn lại càng không ngờ ông ta lại đặt luôn một vạn bình, số bột tam thất còn lại của hắn cũng chưa đến một trăm bình. Vẫn còn may là Cao tướng quân không nói tới thời điểm gi­ao hàng, nên hắn làm ra vẻ ngu ngơ không hỏi đi hỏi lại nữa chỉ gật đầu nói: “Không thành vấn đề”.

Cao tướng quân cười nói: “Tốt lắm, như vậy được rồi. Ân đô thống, ngươi và Lâm chưởng quỹ cùng làm khế ước đi. Lương tuần kiểm, các ngươi ra ngoài một lát. Ta muốn mời Đỗ tiên sinh xem bệnh cho ta”.

“Dạ” Ân đô thống và đám người Lâm Thanh Đại khom người trả lời rồi đi ra ngoài. Đám thân binh cũng ra theo.

Chờ tất cả mọi người ra khỏi lều. Cao tướng quân tươi cười, khẽ hắng giọng rồi đẩy cái rương đựng bạc đến trước mặt Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo sửng sốt: “Tướng quân, đây là…?”

“Ta trả lại số bạc này cho ngươi. Ha, ha, ngươi nghĩ bản tướng quân là kẻ tham tài, đúng không? Vừa rồi là ta thử dò xét ngươi đó”.

“Thử dò xét ta?” Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên.

“Ừ, bản tướng quân muốn thử một chút xem ngươi có phải là người thành thật không, xem ngươi có đáng tin cậy không. Từ sự việc vừa rồi xem ra ngươi rất căm ghét việc nhận hối lộ của quan phủ, ngươi cũng không biết đó chính là thông lệ nơi chốn quan trường, chỉ có đại chưởng quỹ mới hiểu được. Ngươi đúng là người trung thực. Bản tướng quân tin tưởng ngươi. Ha, ha, hôm nay ngươi may mắn gặp bản tướng quân, nếu là người khác chỉ e ngươi đã rước họa vào thân rồi”.

Lúc này Đỗ Văn Hạo mới hiểu vị Cao tướng quân này nhận được lệnh thử dò xét hắn. Cũng may sự việc hôm nay chỉ xảy ra như vậy. Nếu đổi lại viên quan khác thì không những công việc làm ăn đổ bể, vẻ mặt chán ghét, ghê tởm của hắn e rằng cũng đã đắc tội với người và gây ra họa lớn. Nghĩ vậy hắn vội đứng dậy, khom người tạ lỗi.

Cao tướng quân khoát tay ra hiệu cho hắn ngồi xuống: “Nếu chỉ vì loại kim sang dược tam thất của các ngươi, bản tướng quân đã không thân chinh đến đây. Bản tướng quân tới đây tìm ngươi là có chuyện quan trọng”.

Chương 124: Vi khuẩn chiến.

Đỗ Văn Hạo rùng mình. Hắn chắp tay khẽ nói: “Cao tướng quân, có chuyện gì xin cứ phân phó”.

Cao tướng quân nhìn ra ngoài cửa lều, thấy không còn ai ở đó ông ta mới nghiêm mặt nói tiếp: “Đỗ tiên sinh nên biết sau khi Lương thái hậu và ngoại thích nắm quyền Tây Hạ, Tây Hạ đã nhiều lần xuất binh xâm phạm biên giới Đại Tống, xâm chiếm đất đai, giết hại chúng dân. Lần này triều đình xuất binh đánh Tây Hạ phải giải quyết triệt để cái họa tâm phúc này trước, để sau đó còn tập trung binh lực đối phó với Đại Liêu ở phía Bắc. An phủ sứ Vương Thiều đại tướng quân thống lĩnh binh mã, thu phục biên cương. Quân tiên phong tiến tới Khánh Châu nhưng tấn công không thuận lợi. Vương đại tướng quân rất sốt ruột.

Quân tình dò xét biết ở huyện thành các ngươi xảy ra bệnh dịch hạch, ở đây xuất hiện một loại trang bị giúp người mặc không bị lây dịch bệnh. Đại tướng quân yêu cầu ta đến đây điều tra. Bản tướng quân đã điều tra, quả có chuyện này nên mới tìm đến ngươi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Chẳng lẽ trong đại quân cũng xuất hiện bệnh dịch hạch?”

Cao tướng quân lắc đầu: “Đại quân của ta đang ở Tây Hạ, không bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Bản tướng quân lúc nãy hỏi ngươi chi tiết chuyện chống dịch cũng chỉ là tò mò chứ không có ý gì khác. An phủ sứ Vương đại nhân đã ra lệnh: Nếu như trang bị này của ngươi thực sự có hiệu quả thì nó sẽ là thứ vũ khí lợi hại nhất. Nếu như thành Tây Hạ bị dịch bệnh tấn công, dân chúng sẽ náo loạn, thành trì sẽ tự sụp đổ. Mang dịch bệnh đến lây lan trong đại quân Tây Hạ, đại quân chúng ta sử dụng trang bị của ngươi không bị tổn hại gì, đánh đâu thắng đó, không ai có thể ngăn cản được”.

Đỗ Văn Hạo chợt hiểu, bọn họ muốn chuẩn bị một cuộc chiến vi khuẩn.

Thời cổ đại việc sử dụng vũ khí bệnh tật đã có tiền lệ. Khi đại quân của Thành Cát Tư Hãn tấn công thành Con­stantino­ple ở Châu Âu. Lúc đó trong quân cũng xảy ra nạn dịch hạch, Thành Cát Tư Hãn đã hạ lệnh vứt thi thể của binh lính bị dịch bệnh vào trong thành làm cho trong thành cũng mắt bệnh dịch hạch và cuối cùng đã hạ được thành. Vấn đề quan trọng là lúc đó không có phương tiện tự bảo vệ mình nên sử dụng vũ khí dịch bệnh rất dễ rơi vào thế lưỡng bại câu thương nên không dám tùy tiện dùng. Bây giờ nếu trang bị của Đỗ Văn Hạo có thể bảo vệ được tướng sĩ thì lọai hình tác chiến này lập tức phát huy giá trị to lớn. Đây mới là nguyên nhân chính của chuyến viếng thăm của vị thiếu tướng Tống triều này.

Vẻ mặt của Cao tướng quân rất đắc ý nhưng thanh âm của ông ta càng lúc càng nhỏ: “Bản tướng quân lần này tới tìm ngươi có ba việc. Mục đích đầu tiên là xác minh độ tin cậy của trang bị của ngươi, điều này đã được kiểm chứng, rất hữu hiệu. Mục đích thứ hai là hỏi ngươi xem có cách nào làm cho bệnh dịch hạch lan tràn nhanh chóng trong quân Tây Hạ mà không hại đến đại quân của ta, cũng hỏi ngươi xem kế hoạch này của An phủ sứ đại nhân có thực hiện được không? Mục đích thứ ba là thương lượng với ngươi về việc mua trang bị này. Ha, ha, tiên sinh, bây giờ mới thực sự là đại gi­ao dịch”.

Đỗ Văn Hạo đã hiểu, cung cấp trang bị phòng dịch cho hơn mười vạn đại quân, thương vụ này hoàn thành hắn sẽ trở thành một đại phú ông trong thành. Nhưng chiến tranh vi khuẩn khác với chiến tranh thông thường. Vi khuẩn sẽ không phân biệt được đâu là binh lính địch quân, đâu là dân thường. Một khi xảy ra, rất nhiều thường dân sẽ thiệt mạng.

Hơn nữa không thể nói đây là cuộc chiến với Tây Hạ mà chỉ là cuộc nội chiến của Trung Quốc. Dùng vũ khí vi khuẩn với người một nhà thì hắn không có hứng thú.

Cao tướng quân lại nói: “Đỗ đại phu, kim sang dược bột tam thất của ngươi, giá trên trời là một lượng bạc một bình nhỏ, bản tướng quân không phải là kẻ ngốc mà không hiểu bụng ngươi nghĩ gì, ha, ha. Nhưng bản tướng quân đồng ý mức giá đó là có dụng ý của ta”.

Điều này đương nhiên chính là đưa cho hắn chút lợi ích để hắn không thể cự tuyệt mà cũng cho thấy thành ý của bọn họ. Điểm này Đỗ Văn Hạo có thể hiểu được sau khi suy nghĩ lại hắn cười gượng gạo rồi nói: “An phủ sứ đại nhân muốn sử dụng bệnh dịch hạch để chống lại địch quân, trên lý thuyết thì có thể dùng được. Vấn đề là, tướng quân ngài cũng thấy sẽ có mấy vạn dân thường bị chết vì bệnh dịch hạch này khi nó lan truyền vào Tây Hạ. Rất nhiều thường dân vô tội sẽ chết vì cuộc chiến này”.

Cao tướng quân gật đầu: “Tiên sinh là người có trái tim nhân hậu, điều này ta đã nghe qua. Hôm nay chứng thực đúng là như vậy. Đỗ tiên sinh, có chuyện này không biết tiên sinh có nghĩ đến không? Nếu chúng ta thấy trang bị của tiên sinh hiệu quả, chúng ta cũng sẽ không cần nói cho tiên sinh biết kế hoạch tác chiến, chỉ cần dùng thân phận của một phú thương đến đặt mua số lượng lớn trang bị, bí mật trang bị cho đại quân. Sau đó đem tử thi mắc bệnh vứt vào trong thành của địch quân, đợi khi địch quân xảy ra đại loạn thì đại quân sẽ tấn công, đánh chiếm thành trì. Cần gì phải tốn lời thương lượng với ngươi, đúng không?”

Đỗ Văn Hạo kinh ngạc, hắn thấy điều đó rất đúng.

Cao tướng quân nói tiếp: “Đỗ tiên sinh, ngươi là người nhân hậu. Kỳ thật An phủ sứ Vương đại nhân cũng thế, đại nhân rất lo lắng bệnh dịch hạch sẽ lan tràn, hại cho dân chúng nên mới sai bản tướng tới gặp ngươi thương lượng xem sử dụng bệnh dịch hạch thế nào tốt nhất, vừa có thể khắc chế được địch quân, vừa không gây hại cho dân thường vô tội. Nói thật cho ngươi biết, kế hoạch tấn công địch quân bằng bệnh dịch hạch Vương đại nhân đã lên xong. Gần đây bệnh dịch đã giảm nhẹ, chúng ta ở đây mua y phục cách ly và mặt nạ phòng độc của Ngũ Vị đường với giá cao cũng được tới mấy ngàn bộ, đã vận chuyển ra tiền tuyến trang bị cho quân tiên phong. Việc này không thể dừng lại được. Vương đại nhân bảo ta đến gặp ngươi xem có biện pháp nào khống chế bệnh dịch hạch để tránh gây tai họa cho người vô tội”.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới hoàn toàn thấu hiểu vì sao dịch bệnh đã bị đẩy lui mà giá cả của loại trang bị này vẫn rất cao. Sản xuất ra đến đâu đều có người đến mua tới đó với giá cao ngất ngưởng. Hắn cứ tưởng dân chúng có nhiều tiền, thì ra quân Tống cho người đến thu mua.

Giờ đây hắn đã hiểu, cuộc chiến vi khuẩn này là không thể tránh được, kế hoạch tác chiến đã xác định, bên quân đội đã có đủ trang bị dành cho quân tiên phong. Bây giờ bọn họ mới tìm đến hắn để hỏi về biện pháp khống chế không cho cuộc chiến vi khuẩn này lan rộng. Bọn họ rõ ràng không sợ hắn không giúp đỡ. Mà dù hắn không giúp đỡ quân đội thì chỉ với số y phục cách ly và mặt nạ phòng độc đã mua được, cuộc chiến vi khuẩn chắc chắn sẽ diễn ra.

Có thể khẳng định bọn họ tới tìm hắn chính để hỏi về biện pháp khống chế bệnh dịch hạch cùng với nỗi lo lắng dịch bệnh sẽ làm hại tới dân chúng vô tội. Chính xác phải nói là bọn họ lo bệnh dịch hạch sẽ quay lại làm hại chính dân chúng Đại Tống. Làm cho dân chúng của chính mình bị chết vì dịch bệnh là tội ác không thể dung thứ, nên bọn họ mới đến hỏi hắn về biện pháp khống chế loại dịch bệnh này.

Cao tướng quân thấy Đỗ Văn Hạo trầm ngâm không nói liền nói tiếp: “Chuyện này không thể làm khác được. Tiên sinh cũng biết Tây Hạ là mối đại họa trong lòng của Đại Tống. Tây Hạ đã nhiều lần tập kích, giết hại dân chúng, chiếm đóng thành trì. Khánh Lịch năm thứ năm, Tây Hạ đã xâm chiếm biên giới Đại Tống. Đã xảy ra đại chiến ở Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, Định Xuyên, quân Đại Tống chúng ta đều đại bại, binh sĩ tử vong rất nhiều. Lần này Tây Hạ lại ngang nhiên khiêu chiến, xâm phạm biên giới. Bất đắc dĩ triều đình phải dùng biện pháp động binh”.

Đỗ Văn Hạo biết rất ít về cuộc chiến tranh giữa Đại Tống và Tây Hạ. Cuộc chiến giữa Đại Tống, Đại Kim, Đại Liêu hắn cũng chỉ biết sơ qua trong sách vở. Hắn thực sự không biết quân đội Đại Tống lại yếu nhược đến thế.

Cao tướng quân ưỡn ngực nói: “Lần xuất binh này triều đình đã hạ quyết tâm, không ca khúc khải hoàn không thu binh. Phải đánh bại Tây Hạ, giải trừ mối họa trong lòng để rảnh rang đối phó với Đại Liêu. Cuộc chiến này không chỉ quan hệ tới sự vinh nhục của gi­ang sơn xã tắc Đại Tống, mà còn quan hệ tới sự an nguy của dân chúng vùng biên cương. Nếu như tiên sinh có thể nghĩ ra biện pháp khác chế dịch bệnh mà không làm phương hại tới dân thường, địch quân không có khả năng chống cự tất sẽ nhanh chóng đầu hàng. Không cần gi­ao chiến mà đánh bại địch quân, chiến tranh nhanh chóng kết thúc, sẽ giúp cho dân chúng hai nước thoát được nạn binh đao. Đây chính là công đức không gì sánh nổi, thậm chí còn lớn hơn việc tiên sinh hành y tích đức”.

Đỗ Văn Hạo đột nhiên cảm thấy nhiệt huyết trong người dâng trào. Kỳ thật lúc đó cả Tây Hạ và Đại Tống đều thuộc về Trung Quốc, là một bộ phận của dân tộc Trung Hoa, trên thực tế đây là một cuộc nội chiến. Nhưng truyền thống đề cao người Hoa Hạ làm cho hắn có cảm giác bị ngoại tộc khuất phục, một cảm giác như muốn cầm vũ khí ra trận.

Ngẫm lại thấy Cao tướng quân nói cũng đúng, đại chiến thế giới thứ hai năm đó, Mỹ thả bom nguyên tử xuống làm cho Nhật Bản đầu hàng, loại vũ khí này được sử dụng sẽ nhanh chóng chấm dứt chiển tranh, Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Được ta giúp! Nhưng không được gây thiệt hại cho dân thường, cũng nhất định phải mau chóng chấm dứt cuộc chiến này”.

“Tốt quá!” Cao tướng quân cười nói: “Xin nghe chỉ dẫn của tiên sinh”.

Vấn đề đầu tiên là chế tạo vi khuẩn. Đỗ Văn Hạo nhớ lại chương trình “Mặt trời đen 7311″, Nhật Bản hình như sản xuất vũ khí vi trùng từ bệnh dịch hạch, sau đó dùng đạn pháo bắn ra. Nhưng cái này không thể tìm ra trong một thời gi­an ngắn, hơn nữa chính hắn cũng không hiểu biết gì về điều này. Vấn đề cơ bản là bọn họ chỉ muốn biết biện pháp khống chế bệnh dịch hạch lan truyền chứ không phải là phát huy hiệu quả của bệnh dịch hạch. Vì vậy Đỗ Văn Hạo cũng không đề xuất ý kiến gì về vấn đề này.

Làm thế nào khống chế bệnh dịch hạch? Tấn công và chiếm giữ thành trì bị bệnh dịch hạch, tiến hành trừ độc, diệt khuẩn là vấn đề mấu chốt với Đỗ Văn Hạo. Phương thuốc Trung y dùng để chống lại bệnh dịch hạch mà Đỗ Văn Hạo điều chế rồi tẩm vào mặt nạ phòng độc, diệt khuẩn đã có hiệu quả rất tốt. Trong công việc phòng dịch hắn đang sử dụng thuốc nước để trừ độc, khống chế dịch bệnh lây lan cũng cho hiệu quả rất rõ ràng.

Đỗ Văn Hạo hắng giọng nói: “Kỳ thật biện pháp khống chế dịch bệnh cũng rất đơn giản. Binh sĩ mặc y phục phòng dịch và mặt nạ phòng độc, cách ly khu vực dịch bệnh, hỏa thiêu tất cả các thi thể, tiến hành diệt chuột, dọn sạch rác bẩn sau cùng dùng nước thuốc tẩy trùng tòan bộ khu vực. Trong vòng mười ngày nếu như không phát sinh thêm bệnh nhân thì chứng tỏ dịch bệnh đã bị loại trừ”.

Cao tướng quân liên tục gật đầu: “Tốt lắm, tiên sinh nói không sai. Bản tướng quân điều tra biết ngươi cũng đã làm thế khi phòng chống dịch ở huyện thành. Vừa rồi ngươi nói phương pháp đó, vấn đề quan trọng nhất chính là thuốc nước, đúng không? Nói thật chúng ta đã từng xem xét cẩn thận mặt nạ phòng độc của ngươi, cũng cho người làm thử, nhưng hiệu quả phòng độc rất kém. Sau đi điều tra mới biết mặt nạ phòng độc của Ngũ Vị đường có tẩm thuốc nước, có thể tiệu trừ được bệnh dịch hạch, vì vậy chúng ta mới phải đi mua mặt nạ phòng độc của Ngũ Vị đường”.

Đỗ tiên sinh, hy vọng người có thể bán cho chúng ta phương thức điều chế loại thuốc đó. Bao nhiêu tiền tiên sinh cứ nói. Bản tướng quân sẽ không mặc cả một đồng nào”.

Chương 125: Biến mất khỏi nhân gi­an.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Tướng quân đừng nghĩ Đỗ mỗ là kẻ không hiểu biết. Phương thuốc này ta chế ra, nếu bán cho ngài thì đương nhiên ta cũng có thể bán cho địch quân, các người không lo lắng sao? Môt khi bán phương thuốc cho các người thì ta khó có thể giữ được mạng của mình. Dù các người không giết ta thì cũng sẽ tống ta vào ngục suốt đời. Ta chắc chắn không chịu nổi điều này, vì thế các người không biết cách điều chế thì mới chịu bảo vệ sự an toàn của ta”.

Cao tướng quân nhìn Đỗ Văn Hạo đầy ẩn ý. Hồi lâu sau ông ta cười nói: “Tiên sinh là người thật thà, tính tình thẳng thắn, nghĩ nào nói thế đủ thấy tiên sinh là người có thể tin cậy được”.

Đỗ Văn Hạo chợt nhớ Lâm Thanh Đại đã từng nói có nhiều người theo dõi Ngũ Vị đường, chính hắn cũng đã từng có cảm giác đó. Bây giờ hắn nghe Cao tướng quân nói mới hiểu mọi chuyện thì ra chính ông ta đã phái người giám sát hắn. Hắn bật cười gượng gạo rồi nói: “Ta không thật thà, đáng tin cậy ư? Người của tướng quân luôn theo sát ta và người của Ngũ Vị đường. Chạy trốn cũng không thoát, bỏ đi cũng không đi được thế thì chỉ còn cách hợp tác với tướng quân thôi”.

Cao tướng quân sửng sốt rồi ông ta cười nói: “Tiên sinh rất cảnh giác, ha, ha, đúng là chúng ta phái người bảo vệ tiên sinh. Tiên sinh chính là nhân tố quyết định để đại quân ta đánh bại Tây Hạ. Chúng ta sao có thể để xảy ra bất cứ điều gì cho tiên sinh được?”

“Thôi được chúng ta cứ nói thẳng mọi chuyện ra đi. Ta muốn biết vì sao tướng quân không cưỡng ép để lấy cách điều chế phương thuốc của ta? “.

Cao tướng quân cuống cuồng nói: “Tiên sinh nói quá lời. Chúng ta không thể đối đãi với tiên sinh như vậy. Trong tương lai, đại quân của ta dùng trang bị của tiên sinh đánh bại Tây Hạ, tiên sinh là người lập công đầu. Người chính là công thần của Đại Tống. Đến lúc luận công ban thưởng, chắc chắn sẽ có tiên sinh. Chúng ta sao dám đối xử như vậy với tiên sinh chứ?”

“Vậy các người cũng nên gi­am lỏng ta để tránh ta tiết lộ bí mật. Các ngươi không sợ địch nhân biết được đến bắt cóc ta, hoặc ta tham tài, bí mật bán cho địch nhân để bọn chúng dùng biện pháp này quay lại đối phó với Đại Tống ta ư?”

Cao tướng quân cười, khẽ nói: “Tiên sinh nói không sai. Thật ra lần này bản tướng quân tới đây còn có một nhiệm vụ đó là hộ tống tiên sinh tới kinh thành để bảo vệ an toàn cho tiên sinh”.

“Hừ, các người định gi­am lỏng ta?”

“Không dám. Dù thế nào chúng ta cũng không làm thế với tiên sinh. Xin tiên sinh cứ yên tâm. Nhưng có ba điều yêu cầu với tiên sinh: Thứ nhất, tiên sinh phải che giấu tung tích, lặng lẽ đi tới kinh thành. Thứ hai, tiên sinh không được rời khỏi kinh thành, còn lại tiên sinh có thể tự do đi lại, vẫn có thể tọa đường chẩn bệnh, hành y cứu người. Thứ ba, chúng ta sẽ phái một đội nhân mã tới bảo vệ tiên sinh”.

Hả? Biến mất khỏi nhân gi­an? Đỗ Văn Hạo thầm cười trong lòng, nhưng nghĩ lại hắn thấy có gì đó không hợp lý. Hắn lạnh lùng nói: “Không phải vậy. Các người rõ ràng không cần mạo hiểm như thế. Cứ gi­am lỏng ta là an toàn nhất. Chắc chắn ở đây còn có nguyên nhân khác, cứ nói thẳng ra đi”.

Cao tướng quân cười nói: “Tiên sinh rất sáng suốt, chúng ta cứ thẳng thắn với nhau nhé. Tiên sinh có đồ đệ nào gọi là Tiền Bất Thu không?”

Đỗ Văn Hạo không biết hắn nói thXࠣó mục đích gì, gật đầu nói: “Đúng, tháng trước ông ta đi tới kinh thành để chữa bệnh cho hài tử của đại công chúa”.

“Thế đúng rồi. Tiên sinh vẫn chưa biết gì ư? Đồ đệ của tiên sinh rất lợi hại. Ông ta chữa khỏi bệnh cho nữ nhi của đại công chúa. Hoàng thượng rất tán thưởng y học của ông ta. Ngay sau đó, cửu hoàng tử, Nghi quốc công bị bệnh nặng, thái y không chữa được. Đồ đệ Tiền Bất Thu của tiên sinh đã dùng Hoàng phố thang chữa khỏi bệnh. Phải biết rằng các hoàng tử trước cửu hoàng tử tất cả đều đã không may qua đời. Bây giờ trong số chín hoàng tử chỉ còn duy nhất cửu hoàng tử là người nối ngôi. Đồ đệ của tiên sinh có công cứu Thái tử điện hạ. Công lao to lớn. Ha, ha, cho nên Hoàng thượng đã phong ông ta chức thái y thừa của thái y viện, ban thưởng tử y kim bài”.

“Đúng vậy sao?” Đỗ Văn Hạo vui mừng hỏi. Điều này hắn đã biết trước do đọc sử y, nhưng lúc này nghe xong hắn lại thấy rất vui mừng thay cho Tiền Bất Thu.

“Đúng thế. Chuyện này Vương an phủ sứ đại nhân cũng đã biết rồi. Trước khi bản tướng quân đến đây, Vương đại nhân cũng đã triệu tập mọi người thương nghị về vấn đề này. Có người đề nghị với Vương đại nhân gi­am lỏng tiên sinh. Hắn đã bị Vương đại nhân bạt tai. Vương đại nhân còn nói tiên sinh là đại công thần của Đại Tống nhất định phải lấy lễ mời tiên sinh. Ai dám có hành vi bất kính với tiên sinh Vương đại nhân sẽ xử theo quân pháp”.

Đỗ Văn Hạo đã rõ thì ra bọn họ không dám bắt giữ hắn, dùng gia hình bức cung, cũng không dám gi­am lỏng bởi vì đồ đệ của hắn đã cứu mạng của cửu hoàng tử. Bọn họ sợ nếu đắc tội với hắn thì một khi cửu hoàng tử lên làm hoàng thượng thì sẽ bắt tội bọn họ. Hắn cũng biết loại việc này chỉ để trong lòng, không được nói ra làm đối phương xấu hổ, hắn cười nói: “Ta đã hiểu, cách làm trang bị và điều chế thuốc ta sẽ không bán, nhưng ta sẽ bán thuốc và trang bị cách ly cho các ngài, bao nhiêu cũng được”.

“Chúng ta đồng ý với tiên sinh. Giá cả sẽ làm tiên sinh hài lòng” Dừng một lát rồi Cao tướng quân nói khẽ: “Nhưng vì sự an toàn của tiên sinh. Chúng ta bắt buộc phải mời tiên sinh bí mật chuyển tới kinh thành” Nói tới đây Cao tướng quân rất sợ Đỗ Văn Hạo cự tuyệt, ông ta nhìn hắn vẻ lo lắng.

Không ngờ Đỗ Văn Hạo hào hứng nói: “Được, tướng quân nói xem ta nên làm thế nào?”

Cao tướng quân vui mừng, xen lẫn nét sợ hãi hỏi lại hắn: “Tiên sinh đồng ý rồi đúng không?”

Sao lại không đồng ý chứ? Bây giờ ta còn nắm giữ phương thuốc trừ độc cùng cách chế tạo mặt nạ phòng độc thì đúng là kẻ ngu. Một khi các ngươi sử dụng bệnh dịch hạch tấn công địch nhân. Địch nhân tất sẽ nghĩ đến việc bắt giữ ta để tìm thuốc phòng dịch. Ta không tìm sự bảo vệ của các ngươi thì còn biết làm gì bây giờ? Cứ ở Huyện thành chờ bọn chúng tới bắt ta ư?

“Thật tốt quá. Tiên sinh yên tâm. Chúng ta cam đoan bảo vệ an toàn cho tiên sinh”.

“Các người đã chuẩn bị để ta đi như thế nào?”

“Chúng ta đã sắp đặt một kế hoạch, tạo ra một vụ hỗn loạn rồi tiên sinh sẽ bị giết, Ngũ vị đường cũng sẽ bị hỏa hoạn thiêu cháy. Cùng lúc đó chúng ta sẽ phái người hộ tống tiên sinh tới kinh thành. Ở kinh thành chúng ta đã chuẩn bị chu đáo mọi thứ cho tiên sinh. Tiên sinh chỉ việc mang theo trang phục cá nhân, mọi tổn thất của tiên sinh chúng ta sẽ bồi thường cho tiên sinh”.

Cao tướng quân vỗ vỗ tay, lát sau từ ngoài một hộ vệ tiến vào, trong tay người đó cầm một cái rương nhỏ. Hắn khom người đặt cái rương lên bàn, đi thụt lùi mấy bước rồi mới xoay người đi ra ngoài.

Cao tướng quân mở chiếc rương ra rồi đẩy đến trước mặt Đỗ Văn Hạo: “Đây là gi­ao tử, trị giá sáu vạn quán. Tiên sinh có thể đổi ra bạc trắng ở bất cứ hiệu buôn tiền nào ở kinh thành”.

Đỗ Văn Hạo học lịch sử nên biết được “gi­ao tử” là tiền giấy thời Bắc Tống, cũng là loại tiền giấy đầu tiên trên thế giới, lấy quán làm đơn vị. Thời kỳ Tống Nhân Tông có hai loại giấy bạc là năm quán và mười quán, giá trị tương đương với bạc trắng. Sáu vạn quán này cũng chính là sáu vạn lạng bạc trắng, tương đương với sáu mươi triệu nhân dân tệ.

Lần đầu tiên Đỗ Văn Hạo nhìn thấy nhiều tiền như thế, hắn kinh hãi kêu lên: “Đây là…?”

“Một vạn dùng để mua kim sang dược của tiên sinh, bốn vạn còn lại là để mua y phục phòng dịch, mặt nạ phòng độc và thuốc nước tẩy trùng. Một vạn còn lại là bồi thường cho tổn thất của Ngũ Vị đường. Bản tướng quân biết lần này Ngũ Vị đường của tiên sinh bán y phục phòng dịch lời mấy ngàn nhưng một văn tiền ở Ngũ Vị đường cũng không thể mang đi nếu không mọi chuyện sẽ bị lộ tẩy. Ở kinh thành bản tướng quân đã sắp xếp chỗ ở cùng nơi mở dược đường mới cho tiên sinh. Đó là ở phía đông hoàng thành, phố Điềm Thủy, dược đường của tiên sinh ở phía sau doanh trại của Ngự lâm quân kiêu kỵ binh. Khi tình hình khẩn cấp, tiên sinh có thể rút vào quân doanh, bảo vệ an toàn cho tiên sinh”.

Cao tướng quân cười nói: “Bản tướng quân biết Lâm Thanh Đại võ công cao cường, đủ để bảo vê cho sự an toàn của tiên sinh nhưng cẩn trọng vẫn hơn, có một số việc mà phận nữ lưu của nàng không thể can dự vào cho nên bản tướng cử hai người đến làm hộ vệ cho tiên sinh, chỉ huy đội hộ vệ, ở dược đường giả làm tiểu nhị hoặc gia nhân, cam đoan sẽ bảo vệ an toàn cho các người. Hai người này võ công rất cao cường, cả hai được chọn ra từ ngàn người của đội hộ vệ. Mặt khác bản tướng quân cũng cử đến cho tiên sinh một người quản gia rất thạo việc, người này rất quen thuộc với các dược đường và nha môn ở kinh thành, ông ta sẽ trở thành trợ thủ đắc lực cho tiên sinh. Để ta gọi vào gặp mặt tiên sinh”.

Cao tướng quân vỗ vỗ tay, lát sau ba người tiến vào bên trong. Một trung niên nhân có vẻ mặt tươi cười, một lão hán người khô gầy, một phụ nhân trung niên. Cả ba khom người thi lễ với Cao tướng quân.

Cao tướng quân trước tiên giới thiệu Đỗ Văn Hạo, sau đó ông ta chỉ vào vị trung niên trông béo tốt nói: “Vị này là Cổ Vượng Long sẽ là quản gia cho người, giúp người giải quyết các công việc kinh doanh” Hắn lại chỉ tay vào lão giả và phụ nhân nọ nói: “Hai vị này là Hô Duyên Trung và Cửu nương là hộ vệ thân tín của tiên sinh.

Hai người phải tận tâm bảo vệ sự an toàn tuyệt đối của Đỗ tiên sinh và những người khác trong Ngũ Vị đường. Hãy nhớ ký lời của An phủ sứ đại nhân, nếu có chuyện gì hãy mang đầu tới gặp đại nhân”.

“Dạ. Thuộc hạ ghi nhớ”.

Ba người cúi đầu thi lễ với Đỗ Văn Hạo.

Vị quản gia trung niên nhìn rất hòa nhã, giống như người đã từng trải trong công việc kinh doanh. Lão giả cùng phụ nhân nọ lại không có gì ấn tượng, không giống như cao thủ võ công. Vấn đề là bề ngoài càng bình thường thì bên trong lại tiềm ẩn võ học kinh người nên Đỗ Văn Hạo vội khom người đáp lễ.

Đỗ Văn Hạo hỏi Cao tướng quân: “Ta có thể mang theo người của Ngũ Vị đường không?”

“Lâm chưởng quỹ cũng biết cách điều chế nên nàng ta phải đi cùng tiên sinh, còn những người khác không ai được đi theo. Càng ít người biết tung tích của tiên sinh càng tốt”.

Đỗ Văn Hạo nghĩ tới Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi. Lúc trước hắn không nhận ra nhưng giờ sắp ra đi hắn phát hiện trái tim mình đã in sâu hình bóng của nhị nữ. Bây giờ phải rờ bỏ các nàng hắn thực không nỡ. Hắn lại càng không nỡ rời bỏ Anh Tử, nàng đã quan tâm chăm sóc hắn rất chu đáo. Hắn buột miệng nói ra: “Ta muốn mang theo ba nữ nhân. Một người là hôn thê của ta, một người đang học y thuật của ta, người còn lại là nha hoàn thân tín. Nếu các nàng không đi, ta cũng không đi”.

Cao tướng quân bất đắc dĩ phải suy nghĩ một lát rồi ông ta khẽ nói: “Được, có thể mang các nàng theo nhưng từ nay về sau các nàng không được có liên lạc gì với gia đình. Tiên sinh cũng phải giữ bí mật cho các nàng, không được tiết lộ bất cứ điều gì của kế hoạch tác chiến cho các nàng”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Được. Ta biết rồi. Tới kinh thành ta có thể liên lạc với đồ đệ Tiền Bất Thu không?”

“Vì sự an toàn tuyệt đối của tiên sinh, trước mắt thì không được, địch quân biết được quan hệ của hai người, chúng sẽ giám sát ông ta, qua đó tìm ra tiên sinh”.

“Ta hiểu. Thôi quên đi, dù sao thì ông ta cũng là thái y thừa của Hoàng cung, ra ngoài cũng khó khăn. Dù sao không gặp vẫn hơn”.

Chương 126: Không thể xa rời.

Cao tướng quân vui vẻ nói: “Đạ tạ sự cảm thông của tiên sinh. Lần này Hô Duyên Trung sẽ cùng tiên sinh lên kinh thành. Bản tướng quân bận việc quân không thể đi cùng. Khi tới kinh thành sẽ có người đón tiên sinh. Các nguyên liệu để chế tạo trang bị phòng dịch và dược liệu để chế tạo thuốc phòng dịch chúng ta đã sắp xếp bên quân dược cung cấp cho tiên sinh. Tới kinh thành tiên sinh không được dùng tên cũ, cũng không được gi­ao thiệp rộng rãi”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy ta có bị hạn chế hành y không?”

“Bản tướng quân biết tiên sinh am hiểu tuyệt kỹ phẫu thuật chữa thương của Hoa Đà nhưng lạm dụng quá mức sẽ gây sự chú ý của người khác nên tuyệt kỹ này tạm thời không nên sử dụng. Đợi đến khi đại quân dẹp xong Tây Hạ và Đại Liêu, tiên sinh sẽ giống như cách chim giữa trời cao tha hồ thi triển tuyệt kỹ”.

Đỗ Văn Hạo cười buồn. Mặc dù hắn không hiểu nhiều về lịch sử nhưng những bộ phim lịch sử trên ti vi hắn xem nhiều nên cũng biết được trong lịch sử Đại Tống không tiêu diệt được Tây Hạ. Đối với Đại Liêu hay Đại Kim sau này Đại Tống càng bị o ép, một nửa gi­ang sơn bị chiếm, càng không nói đến việc tiêu diệt chúng. Hắn không biết việc hắn xuyên thời gi­an đến đây có làm thay đổi được đoạn lịch sử này không?

Đêm đó, khu phố của Ngũ Vị đường trong thành phát sinh hỗn lọan, lửa cháy ngút trời.

Ngày hôm sau một tin tức chấn động lan ra khắp thành: Tối hôm qua bọn lưu manh cướp phá Ngũ Vị đường, chúng đã giết nhiều người ở đó. Sau khi bộ khoái đi tuần tra và đội cứu hỏa chạy tới dập được đám cháy, trong đống đổ nát người ta phát hiện ra mấy thi thể bị thiêu cháy không phân biệt được nam nhân hay nữ nhân. Sau khi kiểm tra tử thi, dựa vào y phục còn sót lại cùng với vật dụng tùy thân thì phát hiện người chết chính là thần y Đỗ Văn Hạo cùng hôn thê Bàng Vũ Cầm ngoài ra còn có đại chưởng quỹ của Ngũ Vị đường Lâm Thanh Đại, tiểu thư của chưởng quỹ khách điếm đối diện Tuyết Phi Nhi, còn có nha hoàn Anh Tử. Tiểu nhị Ngốc béo, Ngô Thông cùng vợ chồng lão Vương đầu may mắn chạy thoát.

Trước thảm cảnh này gia đình Bàng huyện úy cùng Tuyết chưởng quỹ khóc lóc đến chết đi sống lại.

Trên đường quan đạo cách thành mười dặm có một chiếc xe trâu đang đi chậm như rùa bò. Gió đông thổi lạnh thấu xương. Chiếc xe được gắn mui che chắn rất kín đáo.

Bên trong xe, Đỗ Văn Hạo đang ngồi khoanh chân, ngoài ra còn có Lâm Thanh Đại, Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi và nha hoàn Anh Tử đang ôm tiểu hổ, mặc trang phục nam nhân đang ngồi bên cạnh hắn.

Tuyết Phi Nhi nói: “Đỗ tiên sinh, chúng ta đi đâu vậy? Người nói ra khỏi thành mười dặm sẽ cho chúng ta biết, bây giờ nói được chưa?”

Bàng Vũ Cầm nói: “Đúng vậy. Tối qua người đột nhiên bảo chúng ta thay quần áo rồi lên xe đi. Dù sao thì cũng phải cho chúng ta biết chuyện gì đang xảy ra chứ?”

Khuôn mặt xinh đẹp của chúng nữ cùng ngẩng lên nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta cùng Thanh Đại tỷ muốn chúng ta mai danh ẩn tích sống một cuộc sống thanh bình”.

“Hả?” Chúng nữ kinh ngạc hỏi: “Tại sao?”

Lâm Thanh Đại lại càng ngạc nhiên nhưng nàng vẫn không nói gì chỉ yên lặng nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo nói: “Thứ lỗi cho ta. Việc này liên quan đến cơ mật quốc gia ta không thể nói cho mọi người biết được. Ta chỉ có thể nói ta phải mai danh ẩn tích, đây là việc bất đắc dĩ. Mọi người đừng làm khó dễ cho ta khi ta không nói rõ cho mọi người. Sau này cũng đừng hỏi về vấn đề này nữa vì ta cũng sẽ không nói đâu”.

Anh Tử lo lắng nói: “Dù có đi chúng ta cũng phải thu thập hành lý chứ, ngoại trừ con hổ này chúng ta không mang theo vật gì cả, bây giờ ai trông nom dược đường?”

“Đúng vậy” Bàng Vũ Cầm nóng nảy nói: “Ta vẫn chưa nói cho phụ mẫu ta biết”.

Tuyết Phi Nhi cũng nói: “Phụ thân ta không thấy ta tất sẽ rất lo lắng”.

Lâm Thanh Đại nói: “Mọi người đừng nóng vội, cứ nghe Văn Hạo nói, chắc chắn phải có lý do gì đó”.

Tứ nữ yên lặng nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo cười buồn nói: “Bởi vì ta và Thanh Đại tỷ phải mai danh ẩn tích, thay đổi nơi ở, ta lại muốn ba người các nàng theo ta nên ta nhờ mấy vị bằng hữu kiếm mấy thi thể tương đối giống với chúng ta, cho mặc quần áo của chúng ta rồi các vị bằng hữu đó giả trang là quân trộm cướp đến cướp bóc Ngũ Vị đường, nổi lửa đốt cháy Ngũ Vị đường cho nên trên danh nghĩa mọi người đều nghĩ tất cả chúng ta đã chết, kể cả người nhà của mấy người”.

Tin này làm tất cả chấn động. Tứ nữ ngây người nhìn hắn.

Đỗ Văn Hạo dừng xe lại. Mặt hắn méo xệch, cười gượng nói lời xin lỗi: “Xin lỗi. Ta bắt buộc phải làm như vậy. Trừ Lâm Thanh Đại tỷ phải theo ta cùng nhau mai danh ẩn tích, những người khác nếu không muốn thì bây giờ có thể xuống xe quay về. Nhưng phải giữ bí mật cho chúng ta, không nên nói ra nếu không thì ta và Lâm Thanh Đại tỷ sẽ phải chết”.

Lâm Thanh Đại kinh ngạc nhìn hắn nhưng nàng không hỏi lý do tại sao phải cùng hắn ẩn cư. Gương mặt xinh đẹp của nàng thoáng ửng hồng.

Tuyết Phi Nhi nói: “Vậy ta có thể nhắn tin về nhà cho phụ thân ta không? Ta sợ người lo lắng”.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Tuyệt đối không được. Chúng ta phải mai danh ẩn tích. Chắc chắn trong nhiều năm tới không thể cho người nhà chúng ta biết bất cứ tin gì, cũng không được nhắc tới bất cứ điều gì có liên quan đến người nhà. Nói cách khác, sau này dù bị đao chém làm hai đoạn cũng không được nói bất cứ điều gì, kể cả khi chỉ có mấy người chúng ta thì cũng không thể nói, đề phòng tai vách mạch rừng. Đây chính là điều kiện kiên quyết. Nếu ai không làm được thì cứ xuống xe quay về. Muốn quay về thì nhớ giữ bí mật cho ta. Ta nói lại lần nữa điều này có liên quan đến sống chết của ta và Thanh Đại tỷ. Không phải chuyện đùa đâu”.

Anh Tử ôm tiểu hổ trong lòng nói: “Nô tỳ là thị nữ của phu nhân, phu nhân đi đâu ta đi đó”.

Lát sau Bàng Vũ Cầm quỳ gối xuống hướng về phía huyện thành dập đầu lạy ba lạy. Khi nàng đứng dậy đã thấy hai mắt đẫm lệ. Nàng xoay người nhìn Đỗ Văn Hạo rồi nghẹn ngào nói: “Nãi nãi cùng phụ mẫu đã hứa gả Vũ Cầm cho tiên sinh, Vũ Cầm giờ đây sống là người nhà tiên sinh, chết là ma nhà tiên sinh. Tiên sinh đi đâu Vũ Cầm sẽ theo đó”.

Đỗ Văn Hạo thấy lòng ấm áp. Hắn khẽ kéo nàng ngồi xuống bên hắn, hai tay dịu dàng ôm lấy đôi vai gầy của nàng. Bàng Vũ Cầm rúc đầu vào ngực hắn, thổn thức khóc.

Đỗ Văn Hạo nói: “Cầm muội, đợi đến khi chúng ta ổn định chúng ta sẽ thành thân, được không?”

Bàng Vũ Cầm mừng vui nhưng xen lẫn nỗi sợ hãi, nàng giương đôi mắt đẫm lệ nhìn hắn: “Thành…, thành thân?”

“Ừ, những ngày gần đây, nàng đã cùng ta vào sinh ra tử. Bây giờ nàng lại theo ta tha phương. Chúng ta không thể sống thiếu nhau nữa, ta muốn cưới nàng, nàng nguyện ý lấy ta không?”

“Thiếp…, thiếp nguyện ý” Bàng Vũ Cầm ngượng ngùng gật đầu. Nàng vẫn chờ đợi ngày này. Nhưng khi giây phút này tới nàng lại thấy bối rối, xấu hổ không biết phải làm gì nữa.

Lâm Thanh Đại và Anh Tử liền chúc mừng hai người.

Tuyết Phi Nhi hết nhìn Đỗ Văn Hạo lại quay sang nhìn Bàng Vũ Cầm rồi nàng gượng cười nói: “Thanh Đại tỷ, tỷ là người hùn vốn cùng Đỗ đại phu. Bây giờ Vũ Cầm tỷ là phu nhân của người thì đương nhiên phải đi theo. Còn muội? Muội không có danh nghĩa gì, vậy đi theo để làm gì?”

Đỗ Văn Hạo vỗ nhẹ vai nàng, áy náy nói: “Hay là ngươi trở về đi. Dù sao thì ngươi cũng không biết chúng ta đi đâu. Chỉ cần ngươi giữ kín không nói là được”.

“Không được, ta rất mau miệng, sợ rằng có thể tiết lộ ra ngoài, gây hại cho ngươi và Thanh Đại tỷ” Tuyết Phi Nhi cắn răng, nàng liếc nhìn Đỗ Văn Hạo rồi thở dài nói: “Ôi, dù sao ngươi cũng đã đưa ta tới đây. Ta cũng đi theo ngươi. Phụ phân ta cũng chuẩn bị gả ta cho người khác. Ta cảnh cáo ngươi không được nghĩ lệch lạc. Ta chỉ muốn nhận ngươi làm ca ca thôi. Nếu hai chúng ta chính thức kết bái huynh muội thì sau này chúng ta có thể danh chính ngôn thuận ở chung một chỗ”.

“Hay, hay, muội muội” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ kêu lên.

Tuyết Phi Nhi nói tiếp: “Ở đây không có hương án. Không sao người gi­ang hồ lấy đất trời làm nhà. Chúng ta cũng gần giống như người gi­ang hồ, có thiên địa chứng giám, dập đầu kết bái huynh muội có được không?”

“Được! “.

Đỗ Văn Hạo cùng Tuyết Phi Nhi hai người quỳ gối, hướng vào nhau dập đầu ba lạy. Tuyết Phi Nhi là muội muội nên chỉ dập hai lạy. Hai người nắm tay nhau khẽ gọi ” ca’, ” muội”! Trong lòng cả hai đều thấy ấm áp.

Chắc chắn nhiều năm sau Đỗ Văn Hạo sẽ hỏi Tuyết Phi Nhi tại sao lúc đó nàng nguyện ý rời huyện thành bỏ đi cùng hắn. Câu trả lời của nàng sẽ là: “Chàng lừa đem thiếp bỏ chạy, thiếp còn mặt mũi quay về gặp người khác sao? Thiên hạ còn ai nguyện ý lấy thiếp? Thiếp không thể gả cho ai nên chỉ còn cách đi theo chàng”.

Giờ phút này Tuyết Phi Nhi dập đầu kết bái cùng Đỗ Văn Hạo, sau đó nàng quay về hướng huyện thành, dập đầu lạy ba cái: “Phụ thân, hài nhi theo ca ca mai danh ẩn tích. Phụ thân hãy bảo trọng. Sau này hài nhi sẽ quay về tìm phụ thân”.

Trong khi những chuyện này xảy ra, xe trâu vẫn tiếp tục chậm rãi thẳng hướng kinh thành.

Tuyết Phi Nhi nói: “Ca, bây giờ có thể cho chúng ta biết đang đi đâu không?”

“Đông Kinh, Khai Phong phủ”.

“Kinh thành?” Tứ nữ nghe nói đến kinh thành tất cả đều rất cao hứng. Anh Tử nói: “Nhưng chúng ta không mang theo bất cứ cái gì, ngay cả một văn tiền cũng không có, tới kinh thành chúng ta sẽ sống như thế nào?”

Đỗ Văn Hạo cười cười. Hắn lấy trong người một cái rương nhỏ, mở rương ra và nói: “Bằng này tiền có đủ cho cuộc sống sau này của chúng ta không?”

Tứ nữ ngây người nhìn rương tiền.

Tuyết Phi Nhi nói: “Cái này…, e rằng phải đến mấy vạn”.

“Sáu vạn! Có đủ bồi thường cho thiệt hại vừa rồi không?”

“Ở đâu ra nhiều tiền vậy?”

“Một số là do Cung đại phu giới thiệu người mua bột tam thất. Phần còn lại là do có người đặt mua y phục cách ly và mặt nạ phòng độc, thuốc nước trừ độc. Khi chúng ta tới kinh thành, vấn đề nhân lực để chế tạo trang bị rất đáng ngại. Đi sau xe của chúng ta có hơn mười tiểu nhị bằng hữu tặng cho ta, rất đáng tin cậy. Dược đường và nơi ở bằng hữu cũng đã tìm cho chúng ta. Chúng ta chỉ cần đến ở”.

Lâm Thanh Đại cười nói: “Bằng hữu của người đúng là rất chu đáo”.

“Đúng vậy, ở nhà dựa cha mẹ khi ra ngoài phải dựa vào bằng hữu. Ha ha! “.

“Sống ẩn cư? Vậy sau này chúng ta còn được hành nghề y không?”

“Có thể! Nhưng chúng ta không được dùng tên thật của mình. Điều quan trọng là trong bất kỳ tình huống nào cũng không được tiết lộ quá khứ của mình. Chúng ta cùng nhau ẩn cư, đương nhiên phải sống cùng một chỗ. Ta nghe nói mua toàn bộ nơi ở và dược đường cũng không vượt qua ba vạn. Ba vạn còn lại ta đề nghị chia như lúc ở Ngũ Vị đường. Theo tỷ lệ cổ phần hiện tại, Thanh Đại tỷ sáu phần, ta cùng Vũ Cầm mỗi người hai phần”.

“Không được!” Lâm Thanh Đại lắc đầu nói: “Tiền này là từ bán trang bị phòng dịch và thuốc phòng dịch. Tất cả đều là công sức của người. Người chiếm sáu phần, ta và Vũ Cầm mỗi người hai phần”.

“Không, trước đây chúng ta đã thỏa thuận rồi”.

“Cái này khác”.

Tuyết Phi Nhi nói: “Được rồi, đừng cãi cọ nữa. Dù gì Vũ Cầm tỷ cũng gả cho ca ca. Hai người bọn họ tính làm một bên. Thanh Đại tỷ là một bên, mỗi bên một nửa”.

Chương 127: Ẩn cư ở kinh thành.

“Chủ ý này tốt!”

Bàng Vũ Cầm vỗ tay nói, ngoái đầu nhìn lại phía Đỗ Văn Hạo:

“Có được không?”

Đỗ Văn Hạo cười nói:

“Ngươi nói được thì là được! Cứ như vậy đi.”

Lâm Thanh Đại vội nói:

“Không không, một mình ta lại chiếm một nửa, vậy không được!”

Đỗ Văn Hạo nói:

“Được rồi đừng tranh cãi nữa, chưởng quỹ ba chúng ta bỏ phiếu quyết định, hai bọn ta có hai phiếu, ngươi một phiếu, hai so với một, thiểu số phục tùng đa số, phải nghe lời bọn ta!”

Lâm Thanh Đại cười cười:

“Được rồi, có điều không thể chia hết toàn bộ, ngoài tiền mua dược phô ra, còn phải giữ một phần vốn để lưu động. Như thế này đi, ngoại trừ tiền mua dược phô, xuất ra tiền hoa hồng là một vạn, còn lại để lưu động. Được không?”

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm nhìn nhau rồi cùng gật đầu tán thưởng.

Đỗ Văn Hạo lúc này mới gọi Cổ Vượng Long, Hô Duyên Trung và Tân Cửu Nương tới gặp mặt mọi người, rồi tiếp tục lên đường.

Bởi vì tất cả bệnh dịch đã bị quân đội phong tỏa cách ly, cho nên dọc đường đi xe trâu của bọn họ trải qua vô số trạm kiểm soát. Có lệnh bài của Hô Duyên Trung, trên đường không hề gặp trở ngại đáng kể, nhưng xe trâu cũng phải trải qua nhiều phen phun thuốc trừ độc.

Bởi vì chế tạo Thất Bảo Tán cần vị thuốc chính là bột Tam Thất, ở triều Tống còn chưa sử dụng, không người nào biết cũng không chỗ nào cung cấp, cho nên Đỗ Văn Hạo dừng lại ở trên đường, dẫn mọi người lên núi đào bới một ít, gi­ao nguyên dạng cho Cổ quản gia để hắn phái người đưa tới kinh thành cho Dược Hành ở cấm vệ quân phái người phụ trách đào bới. Vì đề phòng lộ bí mật, Đỗ Văn Hạo còn đào thêm mấy chục loại dược liệu còn chưa phổ biến ở triều Tống, một loạt đưa đi.

Đi một mạch không nói chuyện gì, chưa hết một ngày đã tới phủ Khai Phong ở kinh thành.

Từ cửa sông Hoàng Hà ở phía Nam vào thành, băng qua cổng Bảo Khang, qua chùa Đại Tướng Quốc, Điềm Thủy phồn hoa, cuối cùng bọn Đỗ Văn Hạo đi tới khu vực Đông Thập Tự náo nhiệt ở phía đông thành, dừng xe trước một dược phô lớn.

Dược phô này so với Ngũ Vị Đường lớn hơn một chút nhưng ở chốn kinh thành phồn hoa này thì chỉ được xem là một cửa hiệu nhỏ. Trên cửa chính của dược phô có một bảng hiệu ghi “Phù Vân đường”. Bảng hiệu có chút cũ kỹ, xem ra dược phô này tuổi tác không thấp. Có điều cái tên này rất phù hợp với thân phận bọn họ hiện giờ. Thân như phù vân, phiêu bạc kinh thành.

Cao tướng quân để Đỗ Văn Hạo đảm nhiệm chức chưởng quỹ của dược phô. Thương vụ mua bán này do quản gia Cổ Vượng Long đứng ra thực hiện. Số tiền bỏ ra là hai vạn sáu nghìn quan tiền, mua đứt dược phô, kể cả trạch viện phía sau.

ởi vì mục đích chính là mai danh ẩn tích cho nên Đỗ Văn Hạo đổi họ của mình đi, tên cũng đổi, sửa lại gọi là “Văn Thủy Cáo”. Tên mấy nàng Lâm Thanh Đại cũng đều sửa đổi.

Cổ quản gia tìm chưởng quỹ đương nhiệm của dược phô để cùng Đỗ Văn Hạo ký văn tự mua bán. Hai bên sau khi đọc lại các điều khoản, cùng đồng ý mới ký tên vào văn khế.

Sau khi thủ tục mua bán hoàn tất, tiền cũng thanh toán xong, Cổ quản gia dẫn bọn Đỗ Văn Hạo đi xem toàn bộ dược phô và trạch viện phía sau. Trạch viện này ở kinh thành chỉ tính là bình thường nhưng so với ở huyện thành thì lớn hơn nhiều.

Ngoài một cửa chính thẳng ra đường lớn, dược phô này còn có một cửa khác thông với Điềm Thủy hạng náo nhiệt. Hai bên cửa là hai tòa sư tử uy vũ bằng đá, tường gạch xanh cao hơn hai trượng bao quanh toàn bộ trạch viện, phía sau bức tường bên ngoài đại viện là nơi người làm và các hộ vệ ở, còn có phòng bào chế dược liệu và kho dược liệu.

Ở phía trong có một số tiểu viện riêng biệt, nhưng để thuận tiện cho vấn đề an toàn, đồng thời cũng vì mọi người không quen sống buồn tẻ, nên tất cả đều dọn đến khu viện chính cùng Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo ở phòng chính, Lâm Thanh Đại và Anh Tử ở gi­an phòng bên trái, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi ở gi­an phòng bên phải. Hô Duyên Trung và Tân Cửu Nương làm tùy tùng nên cũng dọn đến ở khu viện chính, còn lại toàn bộ hộ vệ ở khu bên ngoài.

Nha hoàn cùng tôi tớ đều được Cổ quản gia lựa chọn kỹ càng, phân vào ở trong trạch viện. Toàn bộ dược phô cũng đã được dọn dẹp ngăn nắp sạch sẽ, không cần bọn Đỗ Văn Hạo phải lo nghĩ nữa.

Cách thức chế tạo y phục cách ly cùng mặt nạ phòng độc, linh kiện và nguyên liệu để bào chế nước sát trùng, kể cả lọ sứ chứa Thất Bảo Tán, Đỗ Văn Hạo đã viết lại hết từ lúc đi trên đường, gi­ao cho Cổ quản gia, để hắn phái người đi trước một bước, đến kinh thành đặt hàng. Bọn họ tới kinh thành sau khi mua dược phô, đã đặt mua linh kiện và nguyên liệu tốt, kể cả dược liệu bị cấm cũng phái người tìm kiếm, ngay sau đó bí mật đưa đến trạch viện của Đỗ Văn Hạo.

Phần lớn thời gi­an chế tạo trang bị và nước khử trùng là dồn vào việc mua linh kiện và nguyên liệu, công việc của bọn Đỗ Văn Hạo cũng không nhiều, quá trình lắp ráp chủ yếu do các hộ vệ giả dạng làm tiểu nhị hoàn thành, bọn Đỗ Văn Hạo chỉ khống chế phân đoạn quan trọng nhất…phối chế nước thuốc và nước khử trùng.

Nước thuốc khử trùng bởi vì phải vận chuyển đến tận tiền tuyến, nếu sau khi pha xong nước thuốc lại phải trải qua một đoạn đường dài như vậy thì vừa mất thời gi­an vừa mất sức, lại ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng. Chính vì vậy, bọn Đỗ Văn Hạo sau khi phối xong dược liệu, dùng đá nghiền thành bột phấn, khi được vận chuyển tới tiền tuyến chỉ cần pha thêm nước là có thể sử dụng được ngay. Cách làm này không những bảo toàn được phương pháp, công thức pha chế thuốc, thuận tiện vận chuyển mà còn gia tăng công hiệu sử dụng.

Mặc dù Cao tướng quân dặn dò không được sử dụng kỹ thuật phẫu phúc chữa thương để tránh khoa trương quá mức khiến cho gi­an tế của quân địch chú ý, nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn cho đặt mua đầy đủ dụng cụ giải phẫu, bông băng giải phẫu, toàn bộ các loại nước khử trùng và gây tê, trang phục, găng tay, khăn phẫu thuật, còn đặt làm cả nồi áp suất dùng để khử trùng.

Dùng da động vật đã lọc hết mỡ, tẩm thêm một số dược liệu tẩy trùng rồi dán kín xung quanh tường trong phòng là đã có được một gi­an phòng giải phẫu đạt yêu cầu. Để ứng phó với trường hợp có ca bệnh nặng vào buổi tối, ánh sáng chính là vấn đề quan trọng nhất cần giải quyết. Ở đây Đỗ Văn Hạo đã sử dụng một loại đèn đặc biệt sử dụng thuốc pháo làm nguyên liệu đốt để tạo ra ánh sáng mạnh và lâu dài đồng thời thiết kế thêm một số gương đồng để tăng cường độ sáng.

Trên đường Đỗ Văn Hạo đã nói cho Cổ quản gia chuyện muốn cùng Bàng Vũ Cầm thành thân, cho nên vừa tới kinh thành, Cổ quản gia liền bắt tay ngay vào lo liệu chuyện này.

Cổ quản gia rất quen thuộc đối với kinh thành, cũng hiểu rõ những điều lệ phong tục lễ cưới ở đây. Tuy nhiên do hoàn cảnh đặc thù hiện nay, Cổ quản gia chỉ thực hiện những tục lệ bắt buộc cơ bản nhất, lão cho mời một bà mối, treo dải lụa hồng trước cửa, còn những thứ lằng nhằng như hộ tống kiệu hoa đều bỏ đi hết. Quan trọng nhất chính là chọn một ngày hoàng đạo để thành thân.

Lâm Thanh Đại bảo nàng không cần nha hoàn hầu hạ, dù sao Anh Tử trong khoảng thời gi­an này săn sóc tận tình cũng khiến Đỗ Văn Hạo rất vừa ý, liền chính thức gi­ao Anh Tử cho vợ chồng Đỗ Văn Hạo làm thiếp thân nha hoàn.

Mấy ngày nay kể từ khi tới kinh thành, ngoại trừ Đỗ Văn Hạo tọa đường xem bệnh, những người khác đều là cửa chính không ra cửa phụ cũng không tới. Thời cổ đại có một điểm rất lợi đó là không có máy ảnh, TV, báo chí, in­ter­net, cho nên ngoại trừ hàng xóm, không ai nhận biết được người kia là ai. Bởi vậy, Hoàng thượng mới có khả năng cải trang ra ngoài, lãnh đạo quốc gia thời hiện đại cũng không có biện pháp nào làm được, vừa ra khỏi cửa đã bị người ta nhận ra. Đỗ Văn Hạo mặc dù ở huyện Đổng Đạt danh nổi như cồn, nhưng mà, cũng chỉ có ít người gặp qua hắn, những người khác chỉ là danh của hắn mà thôi, cho dù có gặp ngay trước mặt cũng không biết được. Hơn nữa, sinh ý của dược phô Phù Vân đường này cũng tương đối thấp, một ngày hiếm lắm mới có vài người bệnh tới xem. Cho nên, Đỗ Văn Hạo thay tên đổi họ ngồi ở nhà xem bệnh mấy ngày này, gió êm sóng lặng, không người nào nhận ra hắn chính là danh y am hiểu thần kỹ Hoa Đà kia. Cũng may bọn họ bây giờ căn bản không kinh doanh vì tiền nên cũng không lấy làm buồn phiền chuyện này.

Việc tìm bà mối cuối cùng cũng đã xong.

Tham gia hôn lễ chỉ có mấy nàng Lâm Thanh Đại cùng với quản gia, hộ vệ, tôi tớ trong trạch viện, khách mời cũng chỉ có hậu viện Ngự Lâm Quân kiêu kỵ binh Văn thống lĩnh dẫn theo hai phó thống lĩnh tham gia mà thôi.

Bàng Vũ Cầm mặc bộ đồ cô dâu đỏ thắm, trùm kín mặt bằng một chiếc khăn đỏ. Trong tiếng ồn ào của mọi người, Đỗ Văn Hạo cũng một thân y bào đỏ rực, một dải lụa hồng buộc quanh lưng, sánh vai cùng Bàng Vũ Cầm đi vào đại đường. Người chủ trì xướng lễ, hai người cầm lụa hồng bái thiên địa. Đến lúc bái phụ mẫu cao đường, hai người chỉ có thể hướng về phía huyện thành dập đầu.

Sau tiệc rượu, Văn thống lĩnh và một phó thống lĩnh uống say bí tỉ cáo từ về trước.

Trong sự ồn của chúng nữ, Đỗ Văn Hạo vén khăn đỏ che mặt Bàng Vũ Cầm. Tuyết Phi Nhi cùng Anh Tử la hét nhao nhao đòi hai người vào động phòng. Đỗ Văn Hạo cũng hơi say, cười nói:

“Lúc này sắc trời còn sớm, như vậy mà ép chúng ta lên giường ngủ, thì còn gì là nhân đạo nữa đây? Dù gì cũng là lần đầu tiên tới kinh thành, nghe nói kinh thành rất phồn hoa, chúng ta mấy ngày nay cũng buồn chán ở trong phòng chưa đi đâu cả. Hay là, nhân tiện đêm nay đang vui vẻ, tất cả cùng nhau đi ra ngoài dạo chợ đêm xem hoa đăng được không? Trước tiên phải mừng năm mới đã, chúng ta còn chưa sắm đồ tết. Ý các ngươi thế nào?”

Bàng Vũ Cầm vỗ tay:

“Hay quá, hay quá! Hôm nay là hai mươi tư tháng chạp, sẽ có viết câu đối, chúng ta sao không dạo chợ đêm, mua vài bộ câu đối trở về dán cho náo nhiệt?”

Anh Tử cũng nói:

“Còn cả đốt pháo nữa! Lễ mừng năm mới mà không đốt pháo thì không thể gọi là mừng năm mới được.”

Lâm Thanh Đại nói:

“Đúng vậy, chúng ta cũng nên mua sắm một ít đồ tết, bây giờ sắc trời còn sớm, như vậy thì đi dạo chơi đi, chỉ là đừng chậm quá, tránh cho người ta động phòng hoa chúc chậm trễ.”

Bàng Vũ Cầm đỏ mặt xấu hổ, liếc trộm Đỗ Văn Hạo một cái.

Thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung vẫn cảm thấy như vậy không quá an toàn, nhưng Cao tướng quân đã dặn dò, Đỗ Văn Hạo chỉ cần không ra khỏi kinh thành, tất thảy hành động đều tự do. Tuy nhiên, chỉ sợ mấy mỹ nữ quá xinh đẹp này sẽ gây chú ý, ông ta liền đề nghị mấy nàng cải thành nam trang.

Đề nghị này chiếm được sự tán đồng của chúng nữ, đổi thành nam trang đi dạo phố lại càng tự do thoải mái, vì vậy cũng thay đổi trang phục, đi theo Đỗ Văn Hạo ra cửa. Hô Duyên Trung cùng Tân Cửu Nương dẫn theo mấy hộ vệ cũng mặc thường phục đi theo.

Cổ quản gia dẫn đường, mọi người ra khỏi cửa, dọc theo đường lớn Đông Thập Tự đi tới phố ở cửa phía nam hoàng thành.

Kinh thành quả nhiên phồn hoa, huyện thành Đổng Đạt nho nhỏ còn lâu mới có thể sánh bằng, giờ này trời đã tối, hai bên đường đều treo đèn lồng đỏ, dọc theo đường đi chiếu sáng trưng. Trên đường người đi như thoi đưa, đến đến đi đi, mặc áo gấm, tốp năm tốp ba, nói nói cười cười rất là náo nhiệt.

Đi ngang qua một cửa hàng châu báu lụa là, Đỗ Văn Hạo dẫn theo Bàng Vũ Cầm đi vào, mua một chuỗi dây chuyền trân châu vô cùng xa xỉ đeo cho Bàng Vũ Cầm, khối trân châu trợn mịn, tỏa ra ánh sáng nhu hòa, hòa cùng vẻ đẹp rạng ngời của Bàng Vũ Cầm càng khiến nàng trở nên mỹ lệ hơn.

Đỗ Văn Hạo lại mua cho Tuyết Phi Nhi một vòng ngọc xanh biếc, cũng là ở mức giá người thường khó mơ tới, làm tín vật kết bái huynh muội, hắn cũng giúp nàng mang vào tay, Tuyết Phi Nhi hài lòng cười toe toét mãi mới đưa miệng trở lại trạng thái bình thường được.

Hai bên đường treo đầy đèn lồng, mặc dù gió mùa đông lạnh đến thấu xương, nhưng du khách vẫn rộn ràng đi lại, khung cảnh rất náo nhiệt.

Bên cạnh có không ít tự quán bán câu đối xuân. Cả bọn tìm một tiên sinh thư pháp mua mấy bộ câu đối cầm theo. Tuyết Phi Nhi la hét muốn ăn quà vặt ở quán ven đường, mấy người liền chọn một quán ngồi xuống.

Còn chưa kịp ăn, phía sau một lão hán đẩy xe chở nước tới, nói với với chủ quán:

“Đại ca, có nước không?”

“Có có! Chờ một chút!” Rồi một người từ bên cạnh quán ăn xách một thùng nước rửa chén lớn đi ra, đổ vào thùng sắt ở trên xe chở nước của lão hán.

Chương 128: Quan cách chi chứng.

Đỗ Văn Hạo nhìn kỹ một chút vào thùng nước, chỉ thấy bên trong toàn là gà vịt thịt cá, những đồ ăn vẫn còn khá nguyên vẹn, trông tất cả giống như một bát hỗn tạp nhiều loại thức ăn mà thôi. Hắn cảm thấy khá kỳ quái, không kìm lòng được cất tiếng hỏi: “Lão nhân gia, chỗ nước lèo này người mang về làm gì vậy?”

“Cho heo ăn!”

“Cho heo ăn? Thịt cá gà vịt bên trong nhìn vẫn còn tốt mà, ngon như vậy cho heo ăn không phải phí lắm sao?”

“Ha ha, tửu lâu bàn lớn bàn nhỏ, đồ ăn la liệt, ăn không hết rồi bỏ đi, những đồ này chẳng cho heo thì sao? Làm gì có người nào nguyện ý ăn đây?”

Đỗ Văn Hạo đang muốn nói thêm ăn thừa mà ăn lại thì đã sao, dù gì cũng là đồ ăn mới, mà tại sao khi gọi món không bớt đi một chút nhưng lời ra tới mép lại nuốt xuống.

Người Trung Quốc có thói quen khi mời khách ăn thì phải mời một bàn lớn rượu và thức ăn thì mới được gọi là háo khách. Từ cổ chí kim phong tục này vẫn không đổi, huống chi tại thời Tống này có thể coi là quốc thái dân an, phong tục xa hoa cầu kỳ cũng thịnh hành nên càng không có gì lạ.

Lão hán đẩy xe đi thì đồ ăn cho bọn Đỗ Văn Hạo cũng được mang tới. Tất cả mọi người đều dùng đồ nóng, chỉ duy nhất có Tuyết Phi Nhi muốn dùng một chén canh lạnh, lại còn nói rằng mùa đông ăn đồ lạnh mới đã nghiền.

Đang ăn đột nhiên Tuyết Phi Nhi “ách” một tiếng, vội vàng che miệng, nhưng cũng chỉ vài tích tắc sau, lại ách một tiếng nữa. Tất cả mọi người đều nhìn nàng cười, Đỗ Văn Hạo trêu chọc: “Bị nấc hả?”

“Ừm! Đều do cái chén cạnh rất lạnh này…ách!”

Chúng nữ ai cũng cười lên một tiếng.

Tuyết Phi Nhi trừng mắt: “Cười cái gì? Chẳng lẽ các ngươi chưa bị nấc bao giờ sao?…Ách!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Uống ngay mấy ngụm nước nóng, uống liên tục vào!”

Tuyết Phi Nhi bưng bát trà nóng lên, mắm môi mắm lợi uống một hơi khá dài, cảm giác­có chút thoải mái hơn, cười nói: “Cái này không thành vấn đề…” Vừa dứt lời, liền “ách” một tiếng, mặt đỏ rần vì xấu hổ.

Lâm Thanh Đại nói: “Ngươi hít thật sâu một hơi, nén lại trong người, không thở ra thử xem nào!”

“Được!” Tuyết Phi Nhi hít thật sâu một hơi, sau đó cố gắng giữ không thở ra, mãi đến lúc mặt đỏ tới tận mang tai, không nhịn được nữa mới thở ra một hơi. Nhưng lập tức lại một tiếng “ách” theo đó xuất hiện.

Đến lúc này thì cả chủ quán đứng gần đó cũng cười, mấy người đang ngồi ăn xung quanh cũng nhìn nàng cười cười.

Tuyết Phi Nhi đỏ mặt nói: “Đi đi!…ách”

Đỗ Văn Hạo cười: “Cứ nấc một hồi sẽ tự hết thôi!” Thanh toán tiền xong, mọi người đứng dậy tiếp tục đi dạo phố.

Thế nhưng đi mãi mà Tuyết Phi Nhi vẫn không khá hơn chút nào, cứ một lúc lại ách một cái. Trên đường đi khá đông, người đi qua đi lại nườm nượp, trong đó có không ít cặp mắt lén nhìn nàng với đầy tiếu ý.

Tuyết Phi Nhi dậm chân giận dỗi nói: “Ca! Ngươi mau nghĩ biện pháp gì giúp ta đi chứ!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ai bảo ngươi đi ăn đồ lạnh? Chứng của ngươi hiện nay là do ăn đồ lạnh, hàn khí tập trung nơi dạ dày, tác động lại phổi gây trở ngại cho việc lưu thông khí. Theo Kim quỹ yếu lược thì có thể dùng Quất bì thang để trị bệnh này. Đi, tìm một dược phô mua vài vị uống thử xem có khỏi không.”

Đi thêm một đoạn nữa thì cả bọn nhìn thấy một dược phô trên biển đề “Huệ Nhân đường”. Nhìn cửa vào to lớn như vậy, chắc hẳn quy mô lớn hơn Phù Vân đường của bọn hắn không ít. Trong đường có mấy vị đại phu đang ngồi xem bệnh, còn người bệnh thì xếp một hàng khá dài đợi tới lượt. Đã buổi tối mà vẫn còn có nhiều người tới xem bệnh như vậy chứng tỏ sinh ý của dược phô này rất tốt.

Tuy nhiên, hiện nay không khí trong dược phô này có chút hỗn loạn. Nguyên nhân chính là một đứa nhỏ ba bốn tuổi đang nằm trên giường bệnh, ôm bụng kêu cha gọi mẹ, bên cạnh là một đôi vợ chồng không ngừng dỗ dành an ủi đứa nhỏ. Người chồng mặc bộ đồ hắc sam của bộ khoái, thắt lưng đeo một thanh đơn đao.

Bọn Đỗ Văn Hạo vừa đi vào liền có một tiểu nhị chạy tới đón tiếp: “Mấy vị tới xem bệnh hay lấy thuốc?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Lấy thuốc, Quất bì thang. Quất bì hai tiền, Sanh khương bốn tiền. Ngươi bốc thuốc rồi sắc luôn cho ta, bọn ta đợi xong thì uống luôn.”

Tiểu nhị kia nghe những lời của Đỗ Văn Hạo đoán hắn chắc cũng là người hành nghề y, lại nhìn thấy Tuyết Phi Nhi ở bên cạnh cứ liên tục nấc lên nấc xuống nên cũng đoán được những thứ này mua để làm gì. Hắn nhanh chóng tính toán, thu tiền rồi lập tức chạy đi lấy thuốc.

Lúc này, ở tại chỗ của các vị đại phu tọa đường có hai lão lang trung tóc bạc trắng đang tranh luận sôi nổi. Một người nhìn có vẻ hơi mập hơn nói: “Hài tử này trong bụng đau nhức, đại tiện không thông, lưỡi trắng, mạch huyền ứng với chứng quan cách, trong bụng có trùng (giun), phải cho dùng thuốc tẩy trùng!”

“Quan cách” là cách nói khác của chứng táo bón hoặc tràng ngạnh trở. Đại phu gầy cau mày: “Cũng không hẳn là như vậy, âm dương quan cách nhưng cũng có thể là chứng tam tiêu ước chi, trong ruột không tiêu sinh nhiệt, quan cách bất thông, suyễn cấp mà nôn ngược, cái này phải dùng Đại hoàng thang làm chủ.”

“Ngươi mới là không đúng, rõ ràng là trùng tích, sao lại là ruột sinh nhiệt được?”

Hai người vuốt râu càng tranh cãi càng đi vào bế tắc.

Bộ khoái nọ thì cảm thấy vô cùng sốt ruột và thống khổ, rống lên một câu: “Đừng cãi cọ nữa, mau nghĩ biện pháp đi! Hai người ai chữa trị trước nào? Mau lên! Dù sao cũng phải làm gì đó cho con ta đỡ đau đi đã!”

Đại phu gầy lên tiếng: “Vậy hay là để ta dùng dược trước!” Nói rồi đề bút viết một đơn thuốc đưa cho tiểu nhị.

Đại phu béo tuy vậy cũng không chịu nhường: “Lão hủ sẽ xem xem có thể tẩy bớt trùng tích hay không!”

Đại phu béo đỡ lấy hài tử, làm cho hắn chống hai tay xuống giường, quỳ gối hơi chổng mông lên. Sau đó ông tay ôm lấy bụng, kéo thẳng lên cao, đột nhiên buông ra, xóc xóc ngày một mạnh đồng thời hỏi: “Có cảm thấy muốn đại tiện không?”

Hài tử nọ đã đau tới nói không nên lời, chỉ thống khỏ mà lắc lắc đầu.

Đại phu béo bất đắc dĩ vừa lấy tay ấn ấn nơi rốn, một tay còn lại xoa xoa miết miết nơi tỳ, dạ dày, đại tràng. Lăn qua lăn lại hơn một nén nhang, hai mắt hài tử đã trở nên trắng dã, mà vẫn không có cảm giác muốn đại tiện, đau đớn cũng không hề suy giảm. Không còn cách nào khác ông ta phải ngừng tay.

Lúc này thuốc do đại phu gầy cấp đã được đưa tới, hài tử uống vào.

Tuyết Phi Nhi hơi một chút lại ách một cái khiến cho mọi người trong dược phô chú ý, không ít người bệnh cùng tiểu nhị thỉnh thoảng cứ lén nhìn nàng cười. Cảm giác ngày càng xấu hổ lẫn khó chịu, Tuyết Phi Nhi liền kéo bọn Đỗ Văn Hạo đi ra ngoài cửa dạo lòng vòng.

Tuyết Phi Nhi vẫn không ngừng nấc, ánh mắt nàng trở nên khó chịu, hung hăng nhìn mọi người đi đường, chỉ muốn phát hỏa với những ai nhìn nàng.

Một lát sau, phỏng chừng chén thuốc đã xong, mấy người liền quay lại Huệ Nhân đường.

Điếm tiểu nhị nhìn thấy bọn Đỗ Văn Hạo tiến vào, vội vàng chạy lại bắt chuyện chào hỏi sơ sài rồi đi vào trong hậu đường bưng tới một chén thuốc. Mặc dù vẫn còn hơi nóng nhưng Tuyết Phi Nhi vẫn cố gắng uống liền một hơi, chép chép miệng, yên lặng nghe ngóng một hồi. Ồ! Không còn thấy tiếng nấc nữa rồi!

Tuyết Phi Nhi vô cùng cao hứng: “Ca! Ngươi thật là giỏi!”

“Chuyện nhỏ!” Lúc này mọi sự chú ý của Đỗ Văn Hạo đều đã tập trung lên người tiểu hài tử kia. Nhìn thì rõ ràng tình huống của tiểu hài tử này đã trở nên nghiêm trọng hơn nhiều rồi.

Hắn một bên nghe hai đại phu kia tranh luận, một bên lưu tâm quan sát hài tử. Đứa nhỏ này đã bắt đầu nôn mửa kịch liệt, muốn lộn ruột ra ngoài, ban đầu chỉ là những cơn đau từng trận, giờ đã chuyển thành đau nhức liên tục, mặt đỏ rần, có hiện tượng ngày một nóng lên.

Đỗ Văn Hạo quan sát trong lòng cũng không dám chắc chắn, nhưng hắn đoán rằng hài tử không phải là quan cách, sợ rằng bị tràng kết (ung thư ruột già). Nếu như tràng bị tắc, ngăn trở lưu thông, người bệnh sẽ nhanh chóng bị nôn mửa, cái này ứng với phía trên tràng bị ngăn trở không thoát được nên ứ ngược lên. Hiện nay đứa nhỏ kia đau đớn kịch liệt liên tục, thường xuyên nôn mửa, hơn nữa ngoại hình của bụng nhìn không đối xứng, có hiện tượng ứ khí bên trong, rất có thể đã bị tràng ngạnh trở, cái này cực kỳ nguy hiểm, nếu không giải phẫu kịp thời khiến cho độc tính mạnh lên gây sốc, nhiều cơ quan nội tạng công năng suy kiệt, chất thủy điện giải trong cơ thể bị rối loạn, tử vong là chuyện khó tránh khỏi.

Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, cũng không thể chắc đó là chứng bệnh tràng ngạnh trở, bởi vì những chứng bệnh đau bụng có rất nhiều nguyên nhân, có thể kể ra như viêm ruột, viêm túi mật, tràn dịch dạ dày, viêm ruột thừa,…Những chứng bệnh này đối với tràng ngạnh trở có chút khác nhưng đôi khi rất khó nhận biết, nhất là trong điều kiện thiếu các thiết bị chẩn đoán hiện đại.

Đỗ Văn Hạo chính vì vậy cũng không dám ra mặt hỗ trợ hội chẩn, Cao tướng quân đã nhấn mạnh ý muốn hắn không được hiển lộ bản thân quá nhiều, hơn nữa đây lại là dược phô của người khác nên càng không tiện ra mặt.

Đứa nhỏ bây giờ đã lộ vẻ bệnh tình ác hóa, điều này khiến Đỗ Văn Hạo cảm thấy vô cùng bất an. Tuyết Phi Nhi ở bên cạnh nói phải đi, hắn khoát khoát tay chỉ chỉ vào hài tử ý muốn qua xem một chút.

Người bệnh trong sảnh đường không phải là ít, ai đi ngang qua nghe tiếng kêu khóc của hài tử đều nhìn qua xem náo nhiệt cho nên cũng không ai chú ý tới bọn Đỗ Văn Hạo.

Sau khi uống chén thuốc kia vào, hài tử vẫn như trước không có chuyển biến tốt đẹp gì, điều này làm cho đại phu gầy cũng có chút mờ mịt không hiểu. Hai người lại tiếp tục tranh cãi xem rốt cục là chứng bệnh gì. Tranh luận thêm một hồi, quyết định dùng Đại thừa khí thang.

Sau khi chén thuốc mới được uống vào, đau đớn cũng không giảm, sắc mặt đứa nhỏ ngược lại còn trở nên tái nhợt, hai mắt lõm sâu. Hai đại phu cùng tiến lại sờ vuốt, tứ chi hài tử lạnh buốt, tựa hồ có hiện tượng dương thoát, nhất thời luống cuống.

Đỗ Văn Hạo cũng cảm thấy gấp gáp đến độ hai tay chà xát. Cổ quản gia mắt thấy Đỗ Văn Hạo nóng lòng muốn thử, vội ghé vào tay hắn thấp giọng: “Thiếu gia, bộ khoái kia là người của Khai Phong phủ, tên Đổng Bằng, đứa nhỏ là con hắn. Nếu ra tay, mặc kệ người có thể chữa cho hắn hay không nhưng cũng sẽ gây sự chú ý của hắn!”

Đỗ Văn Hạo cũng thấp giọng nói: “Nhưng nếu ta không chữa trị thì đứa nhỏ này sẽ nguy hiểm đến tính mạng!

Cổ quản gia suy nghĩ một chút, nói: “Hay là, thiếu gia dạy cho ta, ta đi tới nhắc nhở bọn họ một chút, hai đại phu này ta cũng có chút quen biết.”

“Tốt lắm!” Đỗ Văn Hạo kéo hắn đến bên, thấp giọng nói vào tai hắn mấy câu, Cổ quản gia liên tiếp gật đầu.

Cổ quản gia đi tới bên hai vị đại phu, chắp tay nói: “Trang đại phu, Tiếu đại phu đang xem bệnh à?”

Hai người nhìn sang hắn một chút, vị đại phu béo họ Trang lên tiếng: “Ồ, là Cổ chưởng quỹ, có việc gì sao?”

“Không có việc gì, chẳng qua đi qua nơi này, nghe tiếng kêu thê lương của tiểu hài tử mới tiến vào xem. Nghe nói là quan cách, tình huống thế nào? Xem bộ dáng có vẻ không tốt lắm.”

Trang đại phu thở dài, lắc lắc đầu: “Mọi biện pháp đều đã dùng hết, thật sự không còn cách nào.”

Cổ quản gia nói: “Ta nghe người ta nói, quan cách có thể dùng châm cứu trị liệu, sao không thử xem?”

“Châm cứu?” Trang đại phu nghi hoặc nhìn hắn: “Châm cứu thì làm sao trị quan cách đây?”

“Trước hết đâm vào Đại tràng du, sau khi cảm giác truyền vào hết khoang bụng, dùng châm pháp niệp chuyển tả trong thời gi­an một chén trà, đâm đủ ba lượt, lưu châm chừng một bữa cơm nếu như khí lưu thông tốt thì dừng lại.”

Trang đại phu nghe hắn nói đạo lý rõ ràng, có chút kinh ngạc, nhìn thoáng qua Tiếu đại phu chắp tay nói: “Cổ quản gia hiểu về châm cứu?”

“Không, không, chỉ là dạo này sinh ý dược phô chỗ ta không tốt, hay đi ra ngoài xem xét, hôm trước có nhìn thấy một lang trung trị liệu chứng bệnh này như vậy mà thành công, ta tò mò hỏi, nhân gia cũng không có e ngại gì mà nói cho ta, nên ta nhớ kỹ.”

Trang đại phu lắc đầu: “Quan cách có vô số loại, phải chẩn chính xác mới có thể đưa ra phương pháp trị liệu, chỉ là lời nói của một lang trung không quen biết, làm sao có thể tin được!”

Chương 129: Cầu thần y.

Đổng bộ khoái ở bên nghe hai vị đại phu nói không có cách nào. Hắn sốt ruột nói: “Nhị vị, hay là thử cách này đi. Dù sao thì châm cứu cũng không gây nguy hiểm gì”.

Trang đại phu trừng mắt nói: “Ai nói châm cứu không nguy hiểm? Nếu châm không tốt sẽ gây chết người đó! “.

“Nhưng các vị cũng phải dùng biện pháp gì đi chứ. Không thể cứ giương mắt nhìn con ta chết! “.

“Ai đứng nhìn con ngươi chết? Không thấy chúng ta đang tìm biện pháp à?” Tiếu đại phu tức giận nói rồi quay sang Trang đại phu: “Nếu hắn đã nói vậy thì chúng ta cứ thử biện pháp đó xem sao không hắn lại bảo chúng ta không cố gắng. Dù sao thì mấy huyệt đạo đó cũng không gây nguy hiểm gì”.

Trang đại phu gật đầu, lấy kim châm, dựa theo phương pháp Cổ quản gia đã nói, bắt đầu châm cứu.

Lát sau đứa nhỏ tên Đông Đông bắt đầu có chuyển biến, tiếng rên rỉ giảm dần, hơi thở không còn nặng nhọc như trước nữa.

Đổng bộ khoái mừng rỡ. Hắn đưa tay sờ trán con, kêu khẽ: “Đông Đông, con thấy thế nào? Có đau không?”

Đông Đông gật đầu, nó cất giọng yếu ớt nói: “So với lúc trước có đỡ hơn”.

“Ha ha, biện pháp này thật là hay!” Vợ chồng Đổng bộ khoái mừng rỡ, mặt mày hớn hở.

Trang đại phu và Tiếu đại phu nhìn nhau. Lúc trước hai người giận dỗi nên không nghĩ biện pháp này có hiệu quả. Trang đại phu xoay người nhìn Cổ quản gia một lát rồi ông ta chắp tay nói: “Ha ha, không ngờ Cổ chưởng quỹ thâm tàng bất lộ, là cao thủ châm cứu! “.

Cổ quản gia cười khan. Ông ta chắp tay hoàn lễ: “Không phải, chỉ là tình cờ thôi. Ngoại trừ chiêu này ra, ta không có gì nữa hết”.

Trang đại phu nhìn Cổ quản gia một lần nữa rồi quay sang nói với Đổng bộ khoái: “Hơi thở của con ngươi đã trở lại bình thường. Ta sẽ kê một đơn thuốc, ngươi về cho nó uống là không sao hết”.

Đổng bộ khoái liên tục nói cám ơn hai vị đại phu, rồi lại nói cám ơn Cổ quản gia. Sau một lát mặc dù bụng Đông Đông vẫn còn đau nhưng đã đỡ hơn nhiều. Hai vợ chồng Đổng bộ khoái liền thanh toán tiền, cầm thuốc rồi bế con đi ra về.

Đỗ Văn Hạo cũng theo bọn họ đi ra ngoài. Hắn thấy vợ chồng Đổng bộ khoái đi về phía tây thành. Xem ra nhà của Đổng bộ khoái ở gần nha môn, ngược hướng với Phù Vân đường của Đỗ Văn Hạo.

Mấy người Bàng Vũ Cầm thấy biện pháp của Đỗ Văn Hạo rất hiệu quả, cao minh nhưng lại thấy hắn đứng ở cửa nhìn theo bóng của Đổng bộ khoái, ánh mắt hiện lên vẻ suy tư, tất cả đều rất kinh ngạc.

Cổ quản gia không phát hiện ra sắc mặt đăm chiêu của Đỗ Văn Hạo, ông ta cười nói: “Thiếu gia, biện pháp của người rất hiệu quả”.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Vẫn không được, châm cứu làm gia tăng chức năng của dạ dày, dạ dày hoạt động nhiều hơn làm cho đứa bé cảm thấy đỡ đau hơn mà thôi. Châm cứu có hiệu quả rõ ràng với triệu chứng đau bụng nóng nhưng xem bộ dáng của đứa trẻ này không phải là đau bụng nóng. Nguyên nhân đau bụng không tìm được, không trừ được tận gốc chỉ e bệnh sẽ lại tái phát”.

Mấy người Tuyết Phi Nhi không hiểu câu nói nửa hiện đại, nửa cổ đại của Đỗ Văn Hạo nên trợn mắt nhìn hắn hỏi: “Cái đó có ý gì?”

“Châm cứu chỉ để giảm đau, không tìm ra được nguyên nhân chính gây bệnh, như vậy rất nguy hiểm. Ta lo rằng châm cứu có thể giảm đau cho đứa bé nhưng lại che dấu triệu chứng bệnh của nó, làm chậm trễ việc cứu chữa. Nếu đúng như thế thì rất nguy hiểm! “.

Bàng Vũ Cầm nôn nóng hỏi: “Vậy làm sao bây giờ? Tướng công, hay chàng đi xem bệnh cho đứa bé đó đi?”

Đỗ Văn Hạo cười gượng, hắn khẽ nói: “Không được, như vậy sẽ làm bại lộ thân phận của chúng ta, rất nguy hiểm”.

Tuyết Phi Nhi cười nói: “Đừng lo, lúc trước đứa bé đau thế mà Hạo ca hướng dẫn châm cứu đã khỏi ngay. Chúng ta chỉ lo chuyện không đâu”.

Nhìn thấy đám người Đổng bộ khoái sắp lẫn vào đám đông trên phố, Đỗ Văn Hạo cắn răng quyết định. Hắn quay sang nói với đội trưởng đội hô vệ Hô Duyên Trung: “Ngươi phái hai người đi theo bọn họ về nhà, chờ ở bên ngoài đến canh tư đêm nay nếu không có động tĩnh gì thì đứa bé không sao, còn nếu có gì xảy ra lập tức quay về báo cho ta biết”.

Hô Duyên Trung lập tức phái hai hộ vệ đuổi theo Đổng bộ khoái.

Cổ quản gia trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi hắn khẽ nói: “Thiếu gia, chuyện này phải cẩn thận”.

“Ta biết nhưng ta không thể thấy chết mà không cứu được! “.

Lâm Thanh Đại cau mày nói: “Tiên sinh đã xem xét tình hình của đứa nhỏ. Nếu như đứa nhỏ thực sự lại phát bệnh, chúng ta nên nghĩ biện pháp gì vừa dấu kín tung tích mà vẫn có thể cứu đứa nhỏ! “.

Gặp phải chuyện này tâm trạng ai nấy đều rất nặng nề, không ai còn hứng thú đi dạo phố nên tất cả quay về Phù Vân đường.

Trở lại phòng Đỗ Văn Hạo trước hết chuẩn bị các thiết bị để giải phẫu sau đó mới cùng Bàng Vũ Cầm vào động phòng.

Hôm nay là lễ tân hôn, không thể mang bộ mặt đau khổ. Ba người Lâm Thanh Đại vào trong phòng hoa làm cho không khí náo động, uống rượu chúc mừng.

Đêm khuya, mọi sự náo nhiệt rồi cũng qua. Tam nữ lúc này mới cười hì hì đi ra khỏi phòng hoa.

Bàng Vũ Cầm rực rỡ xinh đẹp dưới ánh nến đỏ, Đỗ Văn Hạo không nhịn được chạy lại ôm lấy nàng, hắn đặt nàng lên giường và buông màn.

Cả hai người là lần đầu tiên nên chân tay luống cuống. Đỗ Văn Hạo đã học y thuật, lại đến từ xã hội hiện đại nên đối với chuyện quan hệ nam nữ này cũng có hiểu biết nên rốt cục cả hai đều cảm thấy thoải mái, cùng nhau hoan ái đến tận canh tư mới kết thúc.

Cả hai ôm nhau ngủ.

Trong lúc hai người đang chìm đắm trong giấc ngủ, đột nhiên có tiếng kẹt nhẹ nhàng. Anh Tử đẩy cửa tiến vào, nàng chạy đến trước giường, vừa thở vừa nói: “Tiên sinh, hộ vệ báo lại, bệnh của đứa bé rất nặng. Đổng bộ khoái đã đánh xe đưa nó tới Huệ Nhân đường, bọn họ hỏi bây giờ phải làm gì?”

Đỗ Văn Hạo vội ngồi dậy, vén màn nói: “Mau giúp ta mặc quần áo. Ta sẽ đi xem bệnh cho nó”.

Bàng Vũ Cầm cũng ngồi dậy cùng Anh Tử giúp Đỗ Văn Hạo mặc y phục. Đúng lúc đó ngoài cửa có người gọi: “Văn Hạo”.

Đó là giọng của Lâm Thanh Đại. Đỗ Văn Hạo vội nói: “Thanh Đại, vào đi”.

Lâm Thanh Đại đẩy cửa tiến vào: “Ta đã biết rồi. Ngươi không thể đi. Nếu bại lộ thân phận sẽ rất nguy hiểm”.

“Nhưng bệnh của đứa bé đó rất nguy hiểm”.

“Đừng vội. Ta có một cách, cứ lắng nghe xem sao đã!” Lâm Thanh Đại đi tới nói khẽ vào tai Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo vui vẻ nói: “Được, được! Cách rất hay. Vậy phải làm phiền tỷ rồi! “.

Huệ Nhân đường.

Trang đại phu và Tiếu đại phu đã dùng lại thủ pháp châm cứu Đỗ Văn Hạo chỉ dẫn lúc ban ngày thông qua Cổ quản gia nhưng cả hai thấy không hiệu quả…đứa bé vẫn lăn lộn đau đớn trên giường, mồ hôi chảy ra, tứ chi lạnh toát, có dấu hiệu hôn mê. Cả hai đại phu đều không còn cách nào nữa, ánh mắt lộ vẻ xấu hổ.

Phu nhân của Đổng bộ khoái nhìn thấy hai vị đại phu không có cách nào bèn nói với phu quân của mình: “Phu quân, hay là chúng ta thử đi tìm đại phu khác xem sao?”

Đổng bộ khoái giận dữ nói: “Ở thành Đông Kinh này, Huệ Nhân đường là một trong hai dược đường có tiếng tăm nhất. Bọn họ không chữa được, ai có thể chữa đây?”

“Nhưng phải mau nghĩ ra cách gì chứ, không thể cứ đứng nhìn con của chúng ta…, ô, ô, ô”.

“Ai chẳng biết điều đó” Đổng bộ khoái đi lại trong phòng, tâm trạng sốt ruột, đột nhiên hắn đứng lại hỏi hai đại phu: “Hay chúng ta lại đến cầu Cổ chưởng quỹ, hỏi xem ông ấy có cách nào nữa không?”

Trang đại phu lắc đầu: “Cũng vô dụng, Cổ chưởng quỹ chỉ buôn bán dược liệu thô, không nghe nói hắn có biết y thuật. Hắn cũng nói chiêu châm cứu đó cũng chỉ là ngẫu nhiên. Hơn nữa ông ta cũng đã nói châm cứu không trị tận gốc căn bệnh được”.

Đổng bộ khoái tuyệt vọng hỏi: “Vậy con ta không cứu được?”

Tiếu đại phu nói chen vào: “Nghe nói tân thái y thừa của thái y viện Tiền Bất Thu rất am hiểu bệnh nhi. Trước đó ông ta đã chữa khỏi bệnh cho nữ nhi của đại công chúa. Ông ta lại dùng Hoàng thổ thang chữa khỏi bệnh cho Cửu Hoàng tử, danh tiếng lẫy lừng. Hai người chúng ta cùng nhau đến thái y viện cầu Tiền thái y cứu đứa nhỏ này đi?”

Ở triều Tống, Thái y viện ngoài việc chữa bệnh cho Hoàng thượng, Hoàng hậu, các phi tần cùng hoàng thân quốc thích thì khi nhàn rỗi cũng xem bệnh cho bệnh nhân ở bên ngoài. Có một quy định là quan viên triều đình có thể trực tiếp mời thái y xem bệnh. Còn nếu là bá tánh bên ngoài thì phải có sự tiến dẫn của đại phu tọa đường bên ngoài mới được xem. Nói cách khác, bá tánh bị bệnh không thể trực tiếp gặp thái y xem bệnh, trước tiên phải được đại phu ở kinh thành xem bệnh trước, nếu đại phu đó không chữa được, dẫn tới cầu thái y chẩn bệnh, thái y lúc đó mới xem bệnh.

Đương nhiên cho dù là quan viên hay dân thường thì cũng như nhau đều có thể tìm thái y xem bệnh. Điều kiện duy nhất là lúc đó thái y rảnh rỗi không phải đi xem bệnh cho Hoàng thượng và hoàng thân quốc thích.

Đổng bộ khoái tất nhiên biết quy định này. Hắn nghe hại vị đại phu nguyện ý tiến dẫn tới Thái y viện cầu y, vui mừng khôn xiết, đoán chắc con hắn sẽ được cứu nên rối rít chắp tay tạ ơn.

Lúc trước Đổng bộ khoái đưa con đến Huệ Nhân đường bằng xe lừa, xe đang đợi bên ngoài nên hắn vội ôm con ra xe cùng hai vị đại phu đi tới Thái y viện.

Bởi vì Thái y viện có thể chữa bệnh cho người bên ngoài nên nó nằm cạnh Hoàng thành. Đến cổng Thái y viện, mọi người xuống xe nói có bệnh nhân nặng thỉnh cầu Tiền thái y xem bệnh.

Tiền Bất Thu lúc này đã là Thái y thừa, chính là phó viện trưởng Thái y viện, lại được hoàng thượng ngự ban tử y kim ngư túi. Phải hiểu rằng là quan hàm tam phẩm trở lên mới được đeo cái đó. Nhưng Tiền Bất Thu xuất thân từ tầng lớp bình dân nên ông ta không để ý tới phẩm hàm. Ai đến xem bệnh ông ta cũng xem cho cho dù là đêm khuya. Vì vậy Tiền Bất Thu vội rời giường đi tới phòng chẩn bệnh của Thái y viện.

Sau khi hỏi qua tình trạng bệnh tật của Đông Đông. Tiền Bất Thu ấn tay vào bụng kiểm tra, bắt mạch, xem đầu lưỡi. Xem xong sắc mặt ông ta thay đổi, trầm ngâm một lúc rồi ông ta tới bên bàn, lấy bút kê một đơn thuốc rồi gi­ao cho dược đồng đi lấy thuốc.

Đổng bộ khoái vội hỏi: “Tiền thái y, bệnh của con ta thế nào?”

“Hài tử bị đau ở gần bụng dưới, ấn vào rất cứng, cứng như đá vậy, gần như hôn mê, người nóng, đầu lưỡi khô, màu hồng. Mạch trầm. Lão hủ đã dùng phương thuốc đại hãm hung thang”.

Đổng bộ khoái không hiểu gì, hắn gật đầu hỏi: “Vậy…, có nghiêm trọng không?”

Tiền Bất Thu sửng sốt. Ông ta khẽ thở dài rồi nói: “Nói thật, bệnh của đứa bé này rất nặng. Thuốc của lão hủ có hiệu quả hay không thì lão hủ không dám chắc. Loại chứng bệnh đau bụng này, chỉ có sư phụ của ta…, nhưng…, ôi”.

“Ai là sư phụ của Tiền thái y? Người đang ở đâu?”

Chương 130: Cứu tinh hắc y.

Tiền Bất Thu buồn bã lắc đầu nói: “Quên đi, giờ này nói ra cũng vô ích”.

Trang đại phu cẩn thận hỏi lại: “Tiền thần y, ban đầu có phải nó bị đau bụng táo bón không?”

Tiền Bất Thu liếc mắt nhìn ông ta rồi nói: “Không sai, ban đầu thì đúng là táo bón, phân khô đóng cục làm tắc ruột, không lưu thông được. Ăn uống không tiêu, ảnh hưởng lục phủ ngũ tạng. Đứa bé sau khi bị nôn mửa làm cho thân thể suy nhược, nguyên dương mất dần. Bây giờ bệnh đã biến chứng, táo bón không phải là chủ yếu nữa mà đã chuyển sang chứng viêm màng bụng làm cho khí huyết ngưng trệ, ngưng lâu hóa nhiệt, nhiệt hóa độc, âm thịnh dương suy, ngay bây giờ đã ó triệu chứng hôn mê”.

Tiền Bất Thu chẩn bệnh rất đúng. Ban đầu Đông Đông bị chứng đau bụng táo bón, nhưng bây giờ đã chuyển sang chứng viêm màng bụng, đây là tuyệt chứng. Nhưng Tiền Bất Thu không thể phẫu thuật chữa bệnh được, đương nhiên ông ta không còn cách nào cứu trị.

Đổng bộ khoái mặc dù không biết y dược nhưng nghe mấy câu cuối cùng của Tiền Bất Thu hắn cũng hiểu bệnh tình nguy hiểm của con mình. Hắn vội vàng hỏi: “Tiền thái y, vậy làm sao bây giờ?”

“Trước tiên dùng thuốc, nếu không hiệu quả. Xin thứ cho lão hủ vô năng, không trị được bệnh của nó”.

Đổng thị nghe vậy bật khóc nức nở. Đổng bộ khoái quay đầu trừng mắt nhìn nàng, quát lên: “Khóc cái gì mà khóc? Đây là Hoàng cung, không phải phòng ngủ của chúng ta đâu”.

Đổng thị vội ngừng khóc nhưng tiếng nấc nghẹn liên tục của nàng lại càng làm cho khung cảnh thêm thê lương.

Lát sau dược đồng bưng bát thuốc lên. Tiền Bất Thu liền cho Đông Đông uống thuốc.

Nhưng cũng không có hiệu quả, sau một lúc Đông Đông lại rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê, thỉnh thoảng lại nôn mửa, thần trí lúc tỉnh táo, lúc mê sảng. Tiền Bất Thu vội ngồi xuống bắt mạch. Lát sau ông ta lắc đầu nói: “Mạch rất khẽ, nguyên dương sắp hết. Tính mạng không còn bao lâu nữa. Ôi, mang về nhà đi, chuẩn bị hậu sự đi thôi”.

Phu nhân của Đổng bộ khoái không nhịn được nhào vào ôm Đông Đông khóc lóc. Đổng bộ khoái cũng choáng váng đứng chết lặng, đau đớn nhìn con, hai hàng nước mắt từ từ rơi xuống.

Trang đại phu thấy Tiền Bất Thu xoay người bước đi. Ông ta đột nhiên nhớ ra điều gì nên vội kêu lên: “Tiền thái y. Ngài nói trừ phi sư phụ của ngài ở đây mới cứu được, phải không?”

Đổng bộ khoái cũng nhớ ra điều này. Hắn đưa tay gạt nước mắt quỳ xuống: “Tiền thái y. Ngài nói cho ta biết sư phụ ngài là ai được không? Người đang ở nơi nào. Ta sẽ đi cầu người. Dù có mất hết mọi thứ ta cũng cầu xin người cứu con ta!” Phu nhân của Đổng bộ khoái cũng quỳ xuống, dập đầu lạy.

Tiền Bất Thu khẽ thở dài, hay tay đỡ Đổng bộ khoái đứng dậy. Hai mắt ông ta đỏ hoe, ông ta khẽ nói: “Sư phụ của lão hủ là Đỗ Văn Hạo của Ngũ Vị đường ở Đống Đạt huyện”.

Trang đại phu và Tiếu đại phu cùng lên tiếng: “Đỗ Văn Hạo? Chẳng lẽ là người am hiểu thần kỹ phẫu thuật chữa thương của Hoa Đà, tuổi trẻ mà tài cao đó ư?”

“Đúng vậy.”

Trang đại phu nói: “Ta nghe nói Đỗ đại phu am hiểu thần kỹ của Hoa Đà, thì ra là sư phụ của Tiền thái y, nhưng tương truyền Đỗ đại phu mới chỉ ngoài hai mươi. Tiền thái y sao…”.

Tiền Bất Thu nói: “Tài không đợi tuổi, sư phụ ta y thuật như thần, đến lúc này ta mới hiểu được. Lần này ta đến kinh thành chữa bệnh cho cửu Hoàng tử, dùng hết các phương thuốc đều không hiệu nghiệm. Ta nhớ trước khi đi sư phụ có dặn dò là khi ta gặp khó khăn cứ dựa vào âm dương biện chứng. Ta làm theo lời của sư phụ, kiểm tra lại bệnh của cửu Hoàng tử sau ta nghĩ đến hoàng thổ thang. Ta dùng phương này quả nhiên trị hết bệnh cho Hoàng tử”.

Sư phụ ta không chỉ am hiểu thần kỹ của Hoa Đà, người còn biết trước tiên cơ, liệu việc như thần. Lão hủ có phúc phận mới được bái làm thầy”.

Trang đại phu vội hỏi: “Sao Tiền thần y biết tôn sư có thể trị chứng bệnh này?”

“Trước khi lão hủ đến đây, Bạch Vân am chủ Tĩnh Từ sư thái cũng mắc phải chứng bệnh này. Sư phụ ta đã dùng tuyệt kỹ phẫu thuật chữa bệnh của Hoa Đà để cứu mạng Tĩnh Từ sư thái. Chứng bệnh của đứa nhỏ này giống hệt với chứng bệnh của Tĩnh Từ sư thái. Trên đời này chỉ có sư phụ ta có thể trị chứng bệnh này thôi”.

Đổng bộ khoái vốn đã cực kỳ tuyệt vọng, giờ nghe nói Tiền thái y còn một sư phụ có thể cứu tính mạng con hắn. Hắn vui mừng như điên vội hỏi: “Tiền thái y, xin hỏi tôn sư ở đâu? Ta lập tức mang con ta đến cầu người chữa trị”.

Tiền Bất Thu thở dài, nước mắt tràn mi, ông ta nức nở nói: “Ân sư người…, người đã đi về cõi tiên…”

“Hả?” Mọi người hoảng sợ đến ngây người.

Trang đại phu nói: “Tôn sư còn trẻ tuổi, sao có thể…?”

“Lão hủ vừa nhận được tin của sư đệ nói huyện thành xảy ra bệnh dịch hạch. Ân sư làm ra một loại trang bị có thể phòng bệnh dịch hạch, nhưng số lượng có hạn, rất nhiều người không mua được trang bị này. Loạn dân liền tụ tập lại đang đêm tập kích dược đường của ân sư, sát hại ân sư, phóng hỏa đốt dược đường. Ôi…”.

Phu thê Đổng bộ khoái nhất thời ngây người, tâm trạng vừa từ bi thương chuyển sang mừng vui giờ lại sang bi thương. Nỗi khổ đau của con người cũng chỉ đến như vậy thôi.

Trang đại phu thở dài nói: “Ôi! Tài hoa bạc mệnh. Đáng tiếc quá”.

Tiếu đại phu nói: “Tiền thái y, tôn sư có truyền lại thần kỹ cho ngài không? Dù chỉ một ít thôi thì cũng có hy vọng. Xin ngài cứu lấy đứa bé này”.

Tiền Bất Thu lau nước mắt, cười buồn nói: “Ta không muốn cứu đứa nhỏ này ư? Thần kỹ của Hoa Đà ai cũng sử dụng được sao? Ta bái sư chưa lâu, chưa được ân sư truyền cho tuyệt kỹ này. Mặc dù ta đã từng xem sư phụ dùng tuyệt kỹ này. Nhưng khi nghĩ lại, ta vẫn không biết phải làm như thế nào. Ôi! Xin thứ cho lão hủ vô năng”.

Tiền Bất Thu thở dài, lắc đầu quay vào trong.

Vợ chồng Đổng bộ khoái đành khóc lóc bế con ra về.

Chiếc xe lừa ở sân thái y viện từ từ rời đi. Khi về tới Huệ Nhân đường, Trang, Tiếu hai vị đại phu chắp tay bái biệt rồi xuống xe.

Phu nhân của Đổng bộ khoái vừa ôm con đang hôn mê bất tỉnh và khóc lóc thảm thiết. Đổng bộ khoái thở ngắn thở dài, lắc đầu buồn bã. Chiếc xe lừa lại tiến về phía trước.

Tuyết rơi dày khắp nơi, mặt đường lầy lội. Chiếc xe xa xuống một cái hố xóc nảy lên, đứa bé đột nhiên tỉnh dậy. Cơn đau làm cho nó cau mày, nhăn trán, nhưng nó lại làm bộ mạnh mẽ nhìn mẫu thân cười nói: “Nương! Nương đừng khóc, hài nhi không đau đâu”.

Đổng thị như đứt từng khúc ruột, chỉ biết ôm chặt con vào lòng, không biết nói gì mà khóc cũng không thành tiếng.

Đúng lúc này, chiếc xe lừa đột nhiên dừng lại, màn xe bị vén lên. Một hắc y nhân lắc mình chui vào trong xe, người này mang khăn che mặt màu đen. Bên trong xe lại rất tối, Đổng bộ khoái và phu nhân chưa kịp nhận ra chuyện gì thì đã cảm thấy toàn thân tê cứng không nhúc nhích được.

Hắc y nhân nhẹ nhàng bế Đông Đông rồi nói khẽ: “Ta đi tìm người cứu nhi tử của các người. Năm ngày sau dù nó còn sống hay đã chết ta cũng sẽ đem trả lại cho các người. Nhớ kỹ không được nói cho ai biết”.

Nói rồi hắc y nhân ôm đứa bé nhảy xuống xe biến mất.

Một hồi lâu sau, Đổng bộ khoái và phu nhân mới có thể cử động được, cả hai kinh hãi nhảy xuống xe nhìn xung quanh nhưng không thấy bóng dáng của người đó.

Đổng thị nắm tay trượng phu của mình. Nàng khóc lóc nói: “Phu quân, Đông Đông bị người cướp đi rồi, chúng ta làm gì bây giờ? Chúng ta có báo quan không?”

“Cái rắm. Lão tử ta không phải là quan nha sao?”

“Hắn ta có phải là người bắt cóc trẻ con không? Nàng đem Đông Đông đi bán thì chúng ta làm sao bây giờ? Ô, ô, ô…”

“Người bắt trộm trẻ con, bắt trộm đứa bé sắp chết à?” Đổng bộ khoái cẩn thận suy xét lại rồi hắn khẽ nói: “Nghe âm thanh thì người đó là nữ nhân. Nàng ta không có ác ý. Nếu không dựa vào thân thủ của mình việc giết ba người chúng ta dễ như trở bàn tay. Nàng nói nàng mang Đông Đông đi tìm người cứu chữa. Có lẽ đó là sự thật”.

“Nàng ta có thể tìm được người cứu được Đông Đông của chúng ta ư?” Trong lòng Đổng thị đột nhiên nổi lên tia hy vọng.

“Chỉ mong Bồ Tát phù hộ cho lời nàng ta nói là sự thật”.

Đổng thị giơ hai tay lên trời, ngẩng đầu nhìn trời thầm cầu nguyện.

Năm ngày sau.

Ngày hôm sau chính ba mươi tết, nhà Đổng bộ khoái vẫn lạnh lẽo, không có dấu hiệu của việc đón mừng năm mới.

Không dán câu đối tết, không lau dọn nhà cửa, không làm bánh tết.

Bây giờ là thời gi­an ước hẹn trả lại Đông Đông của nữ nhân hắc y. Hai cánh cửa khép hờ để mặc gió lạnh thổi qua, những bông tuyết bên ngoài thỉnh thoảng bay vào trong nhà. Vợ chồng Đổng bộ khoái lặng lẽ ngồi trên giường, ánh mắt lo lắng nhìn ra ngoài cửa. Bọn họ đã ngồi như thế từ sáng sớm, đến lúc tối đêm này chỉ để đợi tiếng bước chân vang lên bên ngoài, nhưng cả hai lại sợ hãi tiếng bước chân đó. Họ sợ nữ nhân hắc y sẽ mang đến cho họ thi thể của Đông Đông, khi đó thì mọi hy vọng đều tan biến.

Trời tối, Đổng thị thắp đèn, ngọn lửa run rẩy, chập chờn dưới những cơn gió lạnh lách qua khe cửa. Bóng cửa hai người cũng chập chờn hắt lên tường.

Sau cùng ngoài sân vang lên tiếng bước chân nhẹ nhàng, giẫm lên tuyết nghe lạo xạo.

Đổng thị vội chạy ra cửa, nàng đưa tay giật mạnh cánh cửa. Quả nhiên nàng thấy một hắc y nữ tử đứng trước cửa, nàng vẫn quấn một cái khăn đen che khuất hơn nửa khuôn mặt, chỉ để lộ ra một đôi mắt sáng, trong suốt, hai tay nàng ôm một đứa bé quấn trong một tấm áo bông dày.

Đứa bé vẫn không nhúc nhích, không biết còn sống hay đã chết. Đổng thị cảm thấy như đất dưới chân sụp đổ. Đúng lúc đó nàng chợt nghe tiếng gọi yếu ớt: “Nương! “.

“Con. Con trai của ta” Đổng thị nghe đúng tiếng con của mình mừng rỡ như điên. Nàng lảo đảo bước tới, ôm cổ Đông Đông, nàng gạt tuyết rơi bên trên rồi vén tấm áo bông dầy làm lộ ra một khuôn mặt nhỏ bé, trắng bệch, đôi mắt to, đen láy đang nhìn nàng, môi khẽ cử động thốt ra tiếng gọi: “Nương! “.

Nước mắt tràn mi, Đổng thị vội ôm chặt con vào lòng, hai chân nàng khụy xuống tuyết, vừa khóc vừa nói: “Con của ta. Đúng là con của ta. Cám ơn Bồ Tát sống! Cám ơn! Ô, ô, ô…Tướng công, Đông Đông còn sống. Đông Đông đã trở về”.

Thật ra Đổng bộ khoái đã đứng sau lưng phu nhân của mình. Hắn vui mừng vô hạn, nước mắt trào ra, hai chân mềm nhũn. Hắn quỳ rạp xuống đất.

Hắc y nhân đỡ Đống thị dậy: “Không cần cám ơn ta. Cứu con các người là người khác. Ta chỉ có nhiệm vụ đưa đón thôi”.

Đổng bộ khoái cũng đứng dậy, hắn nói với vợ mình: “Để ta xem Đông Đông một chút nào”.

Đổng bộ khoái tiếp nhận con, ôm chặt nó vào lòng, chưa nói câu nào đã nghe tiếng con mình kêu lên: “Ôi chao! Đau quá”.

“Hả? Con đau chỗ nào?” Đổng bộ khoái hoảng sợ hỏi lại.

“Tay của phụ thân đặt lên bụng làm con đau” Đông Đông nhăn nhó nói.

“Ha, ha” Đổng bộ khoái cực kỳ phấn khích. Hắn vội buông Đông Đông ra nói: “Xin lỗi! Con ngoan, con thấy thế nào?”

“Bụng không đau. Vết thương vẫn còn đau”.

“Vết thương?”

Hắc y nhân cười nói: “Đúng, đại phu phẫu thuật chữa bệnh cho Đông Đông, bụng Đông Đông có vết thương vẫn chưa lành, phải cẩn thận đấy”.

Chương 131: Vụ án nuốt vàng mưu sát.

10c mừng năm mới 2011

Đổng bộ khoái kinh ngạc nói: “Phẫu thuật chữa bệnh? Là Đỗ thần y sư phụ của Tiền thái y ư? Không phải ông ấy đã…”.

Hắc y nhân cười nói: “Ta không biết Đỗ thần y ngươi nói là ai. Cứu con ngươi là một gi­ang hồ ẩn sỹ”.

“Hả? Ân công cứu con ta ở đâu? Vợ chồng chúng ta muốn đến gặp, dập đầu tạ ơn cứu mạng”.

“Không cần!” Hắc y nhân cười lắc đầu: “Ông ta là cao nhân thế ngoại, không muốn người khác quấy rầy mình”.

“Vậy có thể cho chúng ta biết tên húy của ân công không? Ông ấy cứu mạng con chúng ta. Chúng ta muốn mỗi ngày thắp nhang cầu khấn ông trời phù hộ cho ân công phúc lớn, mệnh lớn”.

Hắc y nhân cười nói: “Không cần, vào trong nhà, ta có chuyện cần nói với ngươi”.

Đổng bộ khoái vội nói: “Đúng, đúng! Chúng ta thật hồ đồ. Mời cô nương vào trong nhà nói chuyện”.

Sau khi vào nhà. Đổng bộ khoái đặt Đông Đông lên giường, hắn bỏ chiếc áo trùm bên ngoài, cởi áo cẩn thận quan sát Đông Đông. Hắn thấy quanh bụng Đông Đông quấn băng gạc, hắn vội kéo áo che lại rồi lấy một cái chăn đắp lên người Đông Đông. Hắn xoay người nói với vợ: “Nàng nhóm lửa sưởi ấm. Chúng ta có thể chịu lạnh được chứ không thể để Đông Đông và ân nhân chịu lạnh”.

“Dạ!” Đổng thị vui mừng lau nước mắt chạy ra sân ôm một ôm củi vào trong nhà nhóm lửa sưởi ấm.

Hắc y nhân ngồi xuống giường rồi lấy từ trong người một bọc nhỏ đặt trên bàn cạnh giường, hắc y nhân mở cái bọc ra, trên nền vải màu xanh nước biển là một chiếc kim vàng nhỏ. Hắc y nhân khẽ nói: “Đổng bộ khoái, chiếc kim này khi đại phu phẫu thuật chữa thương đã lấy ra từ trong bụng của Đông Đông. Nguyên nhân đau bụng của Đông Đông là do nuốt chiếc kim này, nó không thể tự bài trừ ra ngoài, gây tắc trong ruột, sau cùng nó đâm thủng ruột, chỉ chậm một chút là Đông Đông đã mất mạng”.

Hắc y nhân này chính là Lâm Thanh Đại. Người phẫu thuật chữa bệnh cho đứa nhỏ này đương nhiên là Đỗ Văn Hạo. Vì tránh bị tiết lộ tung tích, Lâm Thanh Đại bày cho Đỗ Văn Hạo một cách. Chính nàng bắt cóc đứa bé về cho Đỗ Văn Hạo chữa bệnh. Khi chữa khỏi lại mang trả lại.

Lâm Thanh Đại đem đứa bé về Phù Vân đường. Đỗ Văn Hạo và nhị nữ đã chuẩn bị tiến hành phẫu thuật. Khi phẫu thuật phát hiện trong khoang bụng có một miếng vàng. Thì ra là do nuốt vàng tự tử. Bởi vì miếng vàng quá to nên nó xuyên thủng bụng gây ra chứng viêm màng bụng cấp tính.

Việc giải phẫu diễn ra rất thuận lợi. Mấy người Đỗ Văn Hạo cảm thấy có chuyện gì mờ ám ở đây. Đây có thể là vụ án mưu sát, nhưng lại không có chứng cứ gì. Đến khi Đông Đông tỉnh lại, hỏi qua hỏi lại nó cũng không nói cho Lâm Thanh Đại chút đầu mối nào. Giờ mang Đông Đông trả lại nàng nhân tiện hỏi thăm xem có điều tra được manh mối gì không.

Đổng bộ khoái kinh ngạc nhìn miếng vàng: “Con ta nuốt vàng? Nhà ta chỉ có mấy miếng bạc vụn và mấy văn tiền. Không có vàng. Sao con lại nuốt vàng? Sao con không nói cho phụ thân biết chứ?”

Đông Đông lắc đầu, nó nói giọng yếu ớt: “Hài nhi…, không biết”.

“Con không biết? Nuốt cả một miếng vàng lớn như vậy mà lại không biết?”

Lâm Thanh Đại nói: “Ngươi đừng vội, chúng ta đã cẩn thận hỏi lại con của ngươi, nó thật sự không biết đã nuốt kim, rất có thể ai đó muốn hại các ngươi”.

Đổng bộ khoái kinh hãi hỏi: “Ân công nói có người muốn giết con của ta?”

Đổng thị đang ngồi nhóm lửa nghe nói thế sợ đến run bắn cả người, nàng vội vứt thanh củi lại chạy đến ngồi ở đầu giường, hai tay ôm chặt con vào lòng như muốn bảo vệ, mắt nàng nhìn trượng phu vẻ lo lắng.

Lâm Thanh Đại gật đầu: “Gia cảnh các ngươi bần hàn. Miếng vàng này không phải của nhà. Đông Đông lại nói nó không nuốt vàng. Đây rõ ràng là có người muốn sát hại Đông Đông. Đây chính là chuyện ta muốn nói với ngươi”.

“Là ai? Ai muốn giết con ta? Đổng bộ khoái ta làm việc quang minh lỗi lạc. Không hãm hại ai bao giờ, không đắc tội với ai. Vì sao muốn hại con ta?”

“Cũng nên dựa vào cương vị bộ khoái của ngươi để điều tra tìm ra thủ phạm” Lâm Thanh Đại nói: “Đại phu nói có mấy đầu mối có thể trợ giúp cho ngươi phá án. Trong dạ dày của Đông Đông đại phu phát hiện miếng vàng và bã thuốc tẩy giun. Đại phu đoán miếng vàng được gói trong hoàn thuốc tẩy giun để lừa Đông Đông ăn vào. Các ngươi có cho Đông Đông ăn thuốc tẩy giun không?’

Đổng bộ khoái và phu nhân nhìn nhau, cả hai cùng lắc đầu nói: “Không”.

“Chúng ta hỏi Đông Đông. Nó nói có một lão bà cho nó ăn một viên đường. Các ngươi nên hỏi nó xem sao”.

Đổng bộ khoái vội cúi đầu hỏi con: “Đông Đông. Có người cho con ăn cái gì à?”

Đông Đông gật đầu: “Hôm đó vào buổi chiều, hài nhi đang ở sân nghịch tuyết, có một lão thái thái gọi hài nhi đến bên bờ rào rồi đưa cho con một miếng kẹo mạch nha. Con ăn thấy rất ngọt, ăn xong người đó lại đưa cho con một viên đường và nói đường phải nuốt chứ không được nhai. Sau khi con nuốt người đó liền bỏ đi. Lát sau con liền bị đau bụng”.

Đổng bộ khoái lạnh lùng hỏi: “Tại sao lúc đó con không cho phụ thân biết?”

Đông Đông hiển nhiên rất sợ phụ thân, nó sợ đến run bắn cả người, miệng méo xệch muốn khóc.

Đổng thị vội ôm con an ủi: “Chàng làm Đông Đông sợ rồi! Cứ bình tĩnh hỏi con đi. Đông Đông ngoan, nói cho nương, vì sao hôm đó con không nói cho chúng ta biết?”

Đông Đông gật đầu nói: “Hài nhi sợ phụ thân đánh. Phụ thân đã nói không được lấy đồ của người lạ”.

“Thế mà con còn nhận à?” Đổng bộ khoái hừ một tiếng rồi nói.

“Hài nhi lần sau không dám nữa…”.

“Vậy hình dáng bà lão đó như thế nào?”

“Dạ…” Đông Đông suy nghĩ hồi lâu rồi nói: “Bà ấy dùng khăn che mặt nên con không nhìn rõ”.

“Vậy giọng nói?”

Đông Đông suy nghĩ một lúc cũng không biết mô tả hình dáng và giọng nói của người đó như thế nào nên nó chỉ lắc đầu.

Sau hồi lâu Đông Đông vẫn không mô tả được hình dáng cụ thể của bà lão.

Lâm Thanh Đại nói: “Thôi được, Đông Đông nhỏ quá, nhớ được như thế là tốt rồi. Các ngươi cũng nên cản thận suy nghĩ xem hung thủ có thể là ai? Đại phu nói dùng miếng vàng gói trong hoàn thuốc cho trẻ nhỏ ăn là thủ pháp giết người làm cho đứa bé rất đau đớn mà cũng chính là hành hạ bậc làm cha làm mẹ các ngươi. Hung thủ cùng các ngươi chắc chắn có mối thù rất sâu đậm. Điều quan trọng là hung thủ dùng cây kim vàng nói lên gia cảnh người đó rất giàu có, tiền bạc không quan trọng. Đại phu bảo các ngươi cứ từ từ suy nghĩ”.

Đổng bộ khoái cùng phu nhân cau mày suy nghĩ. Đổng thị tự nhủ: “Người kết oán với chúng ta là người giàu có. Là ai nhỉ? Có phải phu quân chàng làm gì đắc tội với người giàu có nên họ mới hại chúng ta không?”

Đổng bộ khoái lắc đầu nói: “Mấy năm nay ta chỉ bắt giữ mấy tên ăn cắp vặt, tiểu tặc. Chúng ta sao dám động tới nhà giàu chứ? Hơn nữa nếu có nhà giàu nào phạm tội đó là chuyện lớn của nha môn. Tri phủ phủ doãn đại nhân đích thân phụ trách, không quan hệ gì với đám bộ khoái chúng ta. Vì sao lại đổ lên đầu chúng ta?”

Lâm Thanh Đại nói: “Đại phu đã kiểm tra cẩn thận cây kim này, phát hiện cây kim này có dấu hiệu đặc biệt, có thể dùng nó để điều tra. Chúng ta đã phái người điều tra nguồn gốc của cây kim vàng này, hy vọng có thể từ đó tìm ra hung thủ”.

Đổng bộ khoái ngạc nhiên nói: “Dựa vào miếng vàng này cũng xác định được hung thủ ư? Làm thế nào?”

“Các ngươi không cần lo lắng, việc này đã có người điều tra. Các ngươi chỉ cần xem ai có khả năng mưu hại Đông Đông là được”.

“Các người giúp ta điều tra?”

“Ừ, nói thế cũng được. Lúc này ngươi có thể nghĩ ra ai chưa?”

“Ta nghĩ, người đó biết ta rất rõ, có oán thù với ta, rất giàu có, bỏ vàng giết người…” Đổng bộ khoái đứng dậy, đi lại trong nhà, vừa đi vừa cúi đầu suy nghĩ, sau cùng hắn lắc đầu trả lời: “Ta thật không nghĩ ra được ai”.

Lâm Thanh Đại gói miếng vàng bỏ vào trong người rồi nàng đứng dậy nói: “Đừng vội, cứ từ từ nghĩ đi. Nếu nghĩ ra điều gì ngươi cứ treo một mảnh vải xanh trước cửa, ta sẽ tới tìm các ngươi. Thêm nữa không nên báo quan. Nha môn không điều tra ra điều gì lại còn bứt dây ộng rừng. Hãy chú ý bảo vệ an toàn cho Đông Đông”.

Đổng bộ khoái vội gật đầu đồng ý.

Lâm Thanh Đại lấy ra một đơn thuốc đặt ở trên bàn: “Đây là đơn thuốc của Đông Đông. Hôm nay nó đã uống thuốc. Ngày mai mua thuốc theo đơn này, uống liên tục năm ngày. Nhớ không được dùng nước rửa vết thương. Cho nó ăn nhẹ thôi. Thôi được, ta đi đây”.

“Cô nương, chờ một lát” Đổng bộ khoái đưa mắt nhìn vợ. Đổng thị hiểu ý, nàng chạy tới góc nhà, mở một cái rương, lấy ra một cái túi vải màu xanh rồi chạy lại đưa cho Đổng bộ khoái.

Đổng bộ khoái mở cái túi vải ra, bên trong có vài miếng bạc vụn và bảy, tám điếu tiền. Hắn đẩy túi vải tới trước mặt Lâm Thanh Đại rồi nói: “Cô nương, đây là thành ý của phu thê chúng ta gửi cho ân công. Cảm tạ ân công đã cứu mạng Đông Đông”.

“Không cần! Đại phu nói ông ta là ẩn sĩ, không phải đại phu tọa đường, không lấy tiền. Hơn nữa ông ta không thiếu tiền”.

“Không, không, đây là thành ý của chúng ta. Nếu ân công không nhận, chúng ta rất áy náy”.

“Tốt lắm. Ta thay mặt đại phu nhận tiền” Lâm Thanh Đại cầm lấy cái bọc vải rồi không đợi vợ chồng Đổng bộ khoái gì nàng lại đẩy bọc vải trở lại và nói: “Ngươi trả tiền ta đã lấy. Bây giờ ta dùng tiền này làm lễ vật tặng cho con ngươi, coi như tiền lì xì năm mới. Mua thêm cho nó mấy bộ quần áo mới”.

Đổng bộ khoái bất ngờ, hắn đang muốn nói gì đó thì Lâm Thanh Đại đã đứng dậy nói: “Được rồi, ta đi đây. Đông Đông rất kén ăn như vậy không tốt cho sức khỏe của nó. Các ngươi cưng chiều nó như vậy là làm hại chính nó đấy”.

“Dạ, dạ” Vợ chồng Đổng bộ khoái vội vàng trả lời.

Lâm Thanh Đại cúi đầu sờ trán Đông Đông nói: “Tiểu tử, cố gắng dưỡng bệnh nhé. Sau này không được lười ăn nữa nhé”.

“Cám ơn cô cô!”

“Không cần”.

Vợ chồng Đổng bộ khoái cung kính tiễn Lâm Thanh Đại ra về.

Lâm Thanh Đại lẩn vào bóng tối. Nàng nhìn lướt qua góc tường nhà Đổng bộ khoái nơi có hai người nấp ở đó rồi quay người đi về hướng Phù Vân đường.

Đỗ Văn Hạo, Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi và Anh Tử đang ngồi sưởi ấm trong phòng và nói chuyện, mọi người nhìn thấy Lâm Thanh Đại tiến vào vội bảo nàng ngồi xuống.

Lâm Thanh Đại nói: “Xong rồi, đã trả lại đứa bé, vợ chồng nhà đó rất cảm ơn ngươi. Nhưng bọn họ không biết ai là hung thủ”.

Tuyết Phi Nhi nói: “Thật kỳ quái! Nếu ai đó có oán cừu với bọn họ, thì trực tiết bắt cóc đứa bé hoặc cho nó một đao là xong. Tại sao phải cố làm như vậy, cho đứa bé nuốt kim? Tên hung thủ này cũng thật kỳ lạ! “.

Đỗ Văn Hạo nói: “Rất kỳ quái, nhưng chính đây lại là chìa khóa để giải quyết vụ này. Vợ chồng họ không tìm ra hung thủ thực sự nhưng chúng ta đã nắm được hai sơ hở của hung thủ. Thứ nhất là dấu ấn đặt biệt ở miếng vàng, hy vọng các hộ vệ được phái đi điều tra có thể tìm ra nguồn gốc của miếng vàng. Thứ hai sau khi hung thủ biết đứa bé không chết tất tìm cơ hội ra tay lần nữa. Chúng ta đã phái người ôm cây đợi thỏ ở đó. Không biết hai người hộ vệ chúng ta phái ra ngoài đó bản lãnh thế nào. Bọn họ có bắt được hung thủ không?”

Lâm Thanh Đại nói: “Cao tướng quân phái người đó đến làm hộ vệ cho ngươi, võ công của hắn cũng rất khá, bản tính lại cẩn thận. Nói tóm lại bà lão đó cũng không phải là cao thủ gì đâu. Nếu không đã chẳng phải lừa trẻ con nuốt kim. Nếu muốn hành hạ kẻ khác, cao thủ sẽ có biện pháp khác”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Thanh tỷ là võ lâm cao thủ, nói vậy tỷ cũng có cách hành hạ người phác phải không?”

Lâm Thanh Đại cười chúm chím nói: “Ta chỉ là một thấp thủ, ta cũng không hành hạ người khác”.

Chương 132: Lại thấy thần kỹ.

Lâm Thanh Đại đi rồi. Cả nhà Đổng bộ khoái vui mừng xen lẫn sự lo lắng.

Đổng thị nói: “Phu quân, có người muốn giết con chúng ta. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Hay chúng ta đi báo quan đi?”

“Ân công nói không nên báo quan. Vì cuối cùng tri phủ đại nhân cũng phái bộ khoái chúng ta điều tra nên báo quan cũng không giúp gì được. Nếu ân công đã xác định phạm vi của hung thủ, chắc chắn người đã xác định được đối tượng. Chúng ta cứ cẩn thận suy nghĩ. Trước khi bắt được hung thủ, Đông Đông không được phép rời xa chúng ta”.

Đổng thị ôm con nói: “Được, thiếp sẽ không rời Đông Đông nửa bước. Bà ta muốn giết con mình phải bước qua xác của thiếp!”

“Nói hươu nói vượn gì vậy?” Đổng bộ khoái khẽ giậm chân trên mặt đất: “Chúng ta thử tìm xem ân công của chúng ta là ai. Người nói không cần báo ân nhưng chúng ta không thể không báo. Đây chính là ân nhân cứu mạng của chúng ta”.

Đổng thị gật đầu. Nàng vuốt đầu con rồi hỏi: “Đông Đông, con có nhớ mặt đại phu đã cứu con không?”

Đông Đông lắc đầu: “Bọn họ đều dùng khăn che mặt!”

“Vậy con có biết họ ở đâu không?”

“Không biết, lúc vào cũng như lúc ra họ đều dùng quần áo che mặt con!”

Vợ chồng Đổng bộ khoái tròn mắt suy nghĩ. Đổng bộ khoái nói: “Hay chúng ta đi tìm Trang đại phu, Tiếu đại phu và cả Tiền thái y xem bọn họ có thể giúp chúng ta tìm ân nhân không? Hơn nữa trời còn sớm, các cửa hàng vẫn còn mở, khi trở về chúng ta tiện thể sắm tết luôn. Ngày mai là ba mươi tết nhiều cửa hàng sẽ đóng cửa.”

Đổng bộ khoái che xe lừa lại rồi ôm con ngồi lên xe đến Huệ Nhân đường trong gió và tuyết lạnh.

Trên đường đi, lúc dừng lại mua sắm. Đổng thị hỏi con: “Đông Đông, con đói không? Có muốn ăn gì không? Nương mua cho con.”

“Con muốn ăn cháo đại mạch!”

“Được! Nương mua cho con!”

Ba người ngồi ở quán ven đường ăn cháo đại mạch. Đông Đông ăn hai thìa rồi lắc đầu, bỏ bát xuống nói: “Không ngon. Con muốn ăn bánh.”

Đổng bộ khoái nói: “Vậy còn bát cháo của con thì sao? Con cứ ăn hết cháo đi đã, ngoan nào”.

“Không! Con muốn ăn bánh!”

“Ngoan nào! Cô cô trước lúc ra về đã nói con không được lười ăn thì mới chóng lớn được”.

“Con ứ!” Tay Đông Đông đẩy bát cháo đại mạch một cái làm cái bát sóng sánh, hơn nửa cháo đổ ra bàn: “Con muốn ăn bánh”.

“Trời ơi! Đứa bé này thật là! Không ăn thì thôi, sao lại đánh đổ như thế? Cháu nhìn cái bàn đây này”.

Chủ quán vội dùng khăn lau sạch cái bàn.

Đổng bộ khoái nói: “Vết thương của con chưa khỏi hẳn. Cô cô nói con chỉ được ăn ít một thôi…”.

“Con mặc kệ. Con muốn ăn bánh”.

Đổng thi vội nói: “Được, mua. Ông chủ, cho một cái bánh bột lọc”.

Đông Đông nhận cái bánh. Nó cắn một miếng rồi lập tức nhổ ra, miệng thổi phì phì: “Có mùi! Không ăn được! Con muốn ăn bánh bột”.

“Có mùi?” Đổng thị cầm lấy cắn một miếng: “Không có, vẫn còn thơm mà”.

Đông Đông giơ tay giằng cái bánh trong tay Đổng thị ném xuống đất: “Không ăn được. Con muốn ăn bánh bột”.

Đổng bộ khoái quát lên: “Con hư quá! Dám ném cái bánh xuống đất. Không ăn thì cầm về nhà để ăn sau chứ”.

“Có mùi! Không ăn được. Con muốn ăn bánh bột. Con muốn ăn bánh bột”.

Đổng thị vội vàng nói: “Ngoan nào ăn đi con”.

Cứ như thế chỉ trong chốc lát, trước mặt Đông Đông có mấy loại bánh ăn, trên mặt đất cũng có vài loại bánh chỉ cắn một miếng rồi vất đi. Chủ quán lắc đầu cười khổ. Đổng thị rất kiên nhẫn, tất cả các loại bánh của quán đều lấy cho Đông Đông thử qua, sau bao cố gắng mới ép Đông Đông uống hết non nửa bát cháo rồi lên xe đi tới Huệ Nhân đường.

Trang đại phu và Tiếu đại phu biết Đông Đông vẫn còn sống, biết nó được một người bịt mặt phẫu thuật chữa bệnh thì sợ đến ngây người. Cả hai quyết định cùng đi tới thái y viện gặp Tiền thái y.

Người gác cổng thái y viện không vào thông báo. Hắn nói các thái y đã nghỉ khám chữa bệnh để ăn tết.

Trang đại phu nóng lòng, ông ta vội lấy ra một ít bạc vụn đưa cho người gác cổng rồi nói khẽ: “Phiền ngài thông báo cho Tiền thái y một tiếng, nói rằng đứa bé do hai vị đại phu của Huệ Nhân đường lần trước đưa tới đã được người khác cứu sống. Hai vị đại phu còn có chuyện quan trọng khác cần thương lượng với Tiền thái y”.

Tiền có thể xui khiến cả ma quỷ. Người gác cổng cầm tiền rồi chạy ngay vào báo cho Tiền Bất Thu. Tiền Bất Thu và đồ đệ Diêm Diệu Thủ đang ở thư phòng sưởi ấm, nói chuyện. Nghe được tin này Tiền Bất Thu không kịp mặc áo khoác, bước vội ra cổng. Diêm Diệu Thủ vội cầm theo cái áo lông cừu chạy theo khoác lên vai Tiền Bất Thu.

Hai người ra tới cổng. Tiền Bất Thu nhìn thấy Đông Đông, ông ta không nói câu nào vội vàng vén quần áo của nó lên, cởi miếng băng quanh bụng xem xét vết thương. Ông ta vừa mừng vừa sợ quay đầu lại nhìn Diêm Diệu Thủ.

Đúng là phẫu thuật chữa bệnh. Chẳng lẽ ở thế gi­an còn có người thứ hai biết thần kỹ này?

Tiền Bất Thu ngồi ở cạnh giường. Vẻ mặt hiền từ hỏi Đông Đông: “Cháu có nhớ đại phu phẫu thuật chữa bệnh cho cháu như thế nào không?”

Đông Đông lắc đầu trả lời: “Lúc đó cháu đau lắm nên không nhớ gì cả”.

“Vậy sau lúc cháu tỉnh lại thì sao? Gia gia rất tò mò, cháu nói cho gia gia nghe đi”.

“Ui! Cháu chỉ nhớ uống một chén thuốc rất đắng. Sau đó ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy bụng cháu không đau nữa, chỉ có vết thương hơi nhói đau. Ở mũi cháu có một cái ống, ở chỗ đi tiểu của cháu cũng có một cái ống như thế. Vết thương ở bụng cũng có luồn một cái ống như thế, khó chịu lắm. Cháu không chịu được bật khóc. Một tỷ tỷ nói gạt cháu rằng đó là để chữa bệnh, sau đó kể cho cháu nghe câu chuyện về sợi râu bạc của thần tiên, cháu nghe xong lại ngủ thiếp đi. Khi cháu tỉnh lại thì trời đã sáng, cháu thấy khó chịu nên lại khóc. Lần này có một ca ca tới lấy cái ống ở mũi và chỗ đi tiểu của cháu ra, cháu liền thấy rất dễ chịu. Chỉ còn mỗi cái ống ở bụng cháu nhưng cái ống ấy không làm cháu đau nữa”.

Tiền Bất Thu và Diêm Diệu Thủ đưa mắt nhìn nhau rồi Tiền Bất Thu hỏi tiếp Đông Đông: “Vậy cháu có nhìn thấy hình dáng chiếc ống đó không?”

“Dạ thấy rõ. Ở bụng và lỗ mũi hình như là ống nam qua đằng. Ở chỗ đi tiểu hình như là ống hành”.

Tiền Bất Thu thấy chấn động trong lòng, ông ta hỏi lại: “Sau đó thì sao?”

“Sau đó cháu lại uống một chén thuốc nữa, ít nhất một ngày một chén thuốc. Đại tỷ nói không được uống nhiều nếu không bụng cháu lại đau nữa. Sau đó lại dìu cháu ra khỏi giường đi quanh nhà. Đại tỷ nói như thế sau này bụng cháu mới không đau nữa. Khi cháu đi vết thương ở bụng đau lắm, đại tỷ lại kể chuyện thần tiên cho cháu nghe. Tỷ ấy còn nói khi nào cháu đánh hơi thì phải cho tỷ ấy hay, tỷ ấy sẽ nấu cháo cho cháu ăn. Vào buổi tối khi cháu đánh hơi cháu bảo với tỷ ấy, tỷ ấy liền mang cho cháu một bát đại mạch, bảo cháu ăn từ từ”.

Tiền Bất Thu vừa mừng vừa sợ nói với Diêm Diệu Thủ: “Sao thủ pháp của người này và sư phụ lại giống nhau thế nhỉ?”

Diêm Diệu Thủ cũng nói: “Chẳng lẽ sư tổ vẫn chưa chết?”

Tiền Bất Thu thở dài, ông ta lắc đầu nói: “Không thể nào. Không chỉ sư đệ của con đã nhận dạng thi thể của sư tổ. Nha môn cũng gửi thông báo cho ta nói ngỗ tác cũng đã kiểm nghiệm người chết đúng là sư tổ. Liệu người này có phải là sư huynh đệ của sư tổ không nhỉ?”

“Ngài không nghe nói sư phụ của ngài có sư huynh đệ à?”

“Không nghe không phải là không có. Không cần biết là gì. Thủ pháp giải phẫu của người này rất giống với của sư tổ. Có thể người này có quan hệ gì đó với sư tổ. Nếu đúng như thế thì việc chữa khỏi bệnh cho đứa bé này là đương nhiên. Chúng ta nhất định phải tìm được người này, phải lưu lại thần kỹ này, không được để thất truyền, tính mạng của rất nhiều người sẽ được cứu nhờ thần kỹ này”.

Tiền Bất Thu lại hỏi Đông Đông về đại phu chữa bệnh. Trước sau Đông Đông đều nói khi ra, vào ngôi nhà đó nó đều bị che mặt, mà mọi người khi tiếp xúc với nó cũng đều che mặt nên ông ta rất thất vọng.

Đổng bộ khoái suy nghĩ một lát rồi nói: “Tiền thái y, đem con ta quay lại là một cô nương. Nàng nói nếu có chuyện gì thì ta cứ treo một mảnh vải xanh trước cửa nàng sẽ tới”.

Tiền Bất Thu vui mừng nói: “Tốt lắm! Chúng ta quay về treo vải xanh lên. Chúng ta ở trong nhà chờ cô nương đó tới. Lão hủ muốn nói chuyện với nàng ta”.

Mọi người vội vã lên xe rồi đi.

Bọn họ vừa ra khỏi cổng một lát thì lại có người gõ cổng thái y viện. Người gác cổng hùng hổ mở cánh cổng ra nói: “Người nào đấy? Đêm hôm khuya khoắt này làm cho người ta…”.

Bốp.

Người gác cổng bị ăn một cái tát. Hắn vội ôm mặt quỳ xuống nói: “Xin lỗi, tiểu nhân không để ý. Thì ra là Chiêm gia, ngài tới đây là…?”

Vị này là Chiêm quản gia của Khảo công ti lang trung Chiêm Đề, Chiêm đại nhân. Khảo công ti của bộ Lễ phụ trách việc khảo hạch quan viên. Khảo công ti lang trung tương đương với cán bộ cấp cục trưởng, hàm ngũ phẩm. Ở kinh thành chức vụ này mặc dù không lớn nhưng có thực quyền nên rất có uy.

Chiêm quản gia vội vàng đẩy hắn ra rồi đi vào trong kêu lên: “Tiền thái y có ở nhà không? Mau gọi ông ấy ra đây”.

Người gác cổng che mặt nói: “Chiêm gia, ngài tới không đúng lúc. Tiền thái y vừa đi ra ngoài. Trong thái y viện còn có các thái y khác. Để tiểu nhân vào gọi cho ngài”.

Chiêm quản gia tức giận nói: “Thái y khác? Hừ! Lần này lão thái thái của chúng ta ngã bệnh. Lão thái thái vừa làm lễ đại thọ bảy mươi tuổi. Hôm nay thái thái bị bệnh. Đại nhân nói phải tìm Tiền thái y tới xem bệnh cho lão thái thái. Nói đi Tiền thái y ở đâu?”

“Tiểu nhân cũng không rõ lắm. Nhưng Tiền thái y vừa đi theo Trang đại phu và Tiền dại phu của Huệ Nhân đường, còn một vị bộ khoái của Khai Phong phủ nữa, Tiền thái y không nói đi đâu”.

Bốp.

Người gác cổng lại bị ăn thêm một cái tát của Chiêm quản gia. Chiêm quản gia lạnh lùng nói: “Đồ ngu xuẩn. Đại nhân của thái y viện đi đâu mà ngươi cũng không biết”.

Người gác cổng bị hai cái tát đau, má đã sưng lên. Hắn thầm nghĩ nếu không tìm cách đuổi người này đi thì lại bị ăn đòn nữa nên vội nói: “Bọn họ đi bằng xe lừa về hướng đông, đường Thập Tự. Xe lừa đi chậm, bọn họ chỉ vừa mới đi. Ngài đi xe ngựa chắc chắn sẽ đuổi kịp”.

“Thế sao không nói sớm?” Nói rồi Chiêm quản gia giơ tay lên. Người gác cổng sợ hãi rụt cổ, lùi lại nhưng Chiêm quản gia không đánh nữa, hắn chỉ mắng mấy câu rồi vội vã chạy ra cổng, lên xe ngựa đuổi theo.

Chương 133: Càng chữa càng nặng.

Mặc dù mấy người Tiền Bất Thu ngồi xe lừa còn Chiêm quản gia đi xe ngựa nhưng bây giờ là cuối năm, dòng người đi xem hoa đăng đông nghịt như trẩy hội, đường phố nhộn nhịp, xe lừa và xe ngựa không sao chạy nhanh được, tốc độ cũng không hơn nhau là mấy. Hơn nữa Chiêm quản gia vừa đi vừa phải hỏi thăm xem có chiếc xe lừa đi qua không nên bọn Tiền Bất Thu về tới nhà Đổng bộ khoái trước.

Đổng bộ khoái vội treo miếng vải xanh lên cổng.

Nhìn thấy bọn họ trở về, nhiều hàng xóm nghe nói bệnh của Đông Đông đã khỏi nên ân cần sang hỏi thăm. Thời cổ đại đây là một điều tốt đẹp, hàng xóm láng giềng chiếu cố, quan tâm lẫn nhau, tình cảm thắm thiết. Trong phòng không đủ chỗ ngồi, mọi người ngồi ra cả ngoài sân nói chuyện.

Đổng thị đang ôm Đông Đông kể lại chuyện nữ nhân thần bí cướp Đông Đông đi làm cho vợ chồng nàng hoảng sợ ra sao thì Đông Đông đột nhiên kêu to lên: “Mẹ! “.

“Gì vậy?” Đổng thị hỏi lại.

Đông Đông nằm trong lòng mẫu thân, nó nắm vạt áo mẫu thân, rụt rè nói: “Là bà ta! “.

“Ai?”

Đông Đông giơ ngón tay nhỏ bé chỉ ra ngoài cổng: “Bà lão đã cho con ăn viên đường đó…”.

Đổng bộ khoái vội nhìn theo hướng chỉ của Đông Đông. Hắn thấy ngoài cửa có bóng người nhưng nhoáng một cái đã biến mất tăm. Đổng bộ khoái vội chạy ra cổng, ngoài đường có mấy đứa nhỏ đang nghịch pháo hoa, không thấy một lão bà nào cả. Đổng bộ khoái chạy tới hỏi mấy đứa trẻ xem vừa rồi chúng có nhìn thấy một bà lão vừa đứng ở cổng không. Mấy đứa bé lắc đầu nói chúng mải đốt pháo hoa nên không chú ý.

Đám người Tiền Bất Thu cũng chạy đến, hỏi hắn chuyện gì. Đổng bộ khoái không muốn nói chuyện Đông Đông bị mưu sát nên hắn chỉ ậm ừ giải thích rằng tưởng nhìn thấy bằng hữu nhưng hóa ra lại nhầm.

Mặc dù vậy, Đổng bộ khoái vẫn cẩn thận quan sát xung quanh. Nhưng bởi vì hàng xóm xung quanh đều đến thăm Đông Đông nên trên mặt tuyết ngổn ngang dấu chân. Hắn không thể nhận ra dấu chân nào là mới nhất.

Tiền Bất Thu thấy nhiều người ở trong sân như thế chắc chắn nữ nhân che mặt sẽ không đến gặp, ông ta vội đi theo Đổng bộ khoái nói hắn bảo hàng xóm ra về trước để các đại phu xem bệnh cho Đông Đông. Những hàng xóm tốt bụng nghe vậy mới lục tục kéo nhau ra về.

Mấy người Tiền Bất Thu tiếp tục ngồi đợi nữ nhân thần bí nhưng mãi không thấy nàng xuất hiện đâm ra lo lắng. Trong lúc đó Chiêm quản gia sau bao công sức hỏi đường cũng tìm được nhà của Đổng bộ khoái nơi Tiền Bất Thu đang ở đó. Hắn bước nhanh vào khom người nói: “Tiền đại nhân! Tiểu nhân là quản gia của Lại bộ khảo công ti lang trung Chiêm Đề, Chiêm đại nhân. Lão thái thái của Chiêm đại nhân bệnh nặng. Lão gia của tiểu nhân mời đại nhân đến chữa trị cho lão thái thái!”

“Nhưng…, lão hủ đang bận chút việc! Lão thái thái mắc bệnh gì? Ngươi kể sơ qua cho ta nghe xem.”

“Rất nặng!” Chiêm quản gia sợ Tiền Bất Thu từ chối không đi nên hắn vội trả lời: “Lão thái thái bị đau bụng, bắt đầu từ hôm qua. Khi bắt đầu thì đau từng cơn, nhưng cả tối hôm nay đau dữ dội, đau đến phát khóc, lại còn nôn mửa không ngừng. Lão gia tiểu nhân rất sốt ruột, phái tiểu nhân đi mời đại nhân!”

Tiền Bất Thu vừa nghe lão thái thái đau bụng. Ông ta không còn cách nào khác là thương lượng với Trang đại phu và Tiếu đại phu, hai người sẽ ở lại chờ nữ nhân thần bí xuất hiện. Nếu nàng xuất hiện thì nói cho nàng biết thân phận của ông ta để xem có cơ hội gặp mặt vị đại phu thần bí am hiểu thần kỹ phẫu thuật chữa bệnh không.

Sau khi gi­ao phó mọi chuyện cho hai người, Tiền Bất Thu và Chiêm quản gia ngồi xe ngựa đi tới Chiêm phủ.

Trong Chiêm phủ, Chiêm mẫu đang lăn lộn đau đớn trên giường. Khảo công ti lang trung Chiêm Đề nóng ruột, hai tay xoắn vào nhau. Vừa nhìn thấy Tiền Bất Thu đi vào ông ta vội cúi đầu thi lễ: “Tiền đại nhân, Mời ngài mau cứu mẫu thân của bản quan!”

Tiền Bất Thu là thái y thừa, hàm bát phẩm, kém xa so với Khảo công ti lang trung Chiêm Đề, hàm ngũ phẩm. Nhưng Tiền Bất Thu lại được Hoàng thượng ngự ban Tử y kim ngư túi, cái này chỉ có quan lại hàm tam phẩm trở lên mới được đeo. Chiêm Đề rõ ràng không dám khinh thường, huống chi lúc này ông ta đang lúc cầu người, chấp nhận thi lễ bái kiến.

Tiền Bất Thu vội chắp tay đáp lễ, rồi cũng không nói nhiều, ngồi xuống bên giường. Một nha hoàn dìu Chiêm mẫu ngồi dậy, đưa tay ra. Tiền Bất Thu ngưng thần chẩn mạch, chậm rãi quan sát Chiêm mẫu một lượt. Ông ta thấy bà tóc bạc trắng liền hỏi tuổi thì biết bà ta vừa làm lễ đại thọ bảy mươi hôm qua.

Ông ta nhìn kỹ sắc mặt Chiêm mẫu thấy da mặt vàng, tái, hai má phù thũng, sắc mặt ảm đạm liền hỏi: “Lão phu nhân, người bị làm sao?”

“Đau bụng!” Chiêm mẫu chỉ tay vào bụng mình.

“Đau như thế nào? Đau từng cơn hay là đau liên tục? Có đau từ bụng rồi lan đến các vùng khác không?”

Chiêm mẫu cẩn thận suy nghĩ rồi nói: “Đau từng cơn, đau ở chỗ này!”

“Bắt đầu đau từ lúc nào?”

“Từ hôm qua, buổi tối bắt đầu đau. Lão thân cứ tưởng rằng đau bụng do ăn nhiều quá. Nhưng kể cả khi lão thân đã đi đại tiện mà vẫn đau từng cơn một. Tới trưa này thì đau khủng khiếp. Đến tối thì lão thân không chịu nổi nữa.”

“Ừm, vậy còn chỗ nào không thoải mái nữa không?”

“Lão thân còn bị nôn…” Vừa nói đến đây Chiêm mẫu lại muốn nôn ra, nha hoàn vội bưng tới một cái chậu đồng. Lão thái thái cong người nôn ra chậu.

Tiền Bất Thu không nề hà gì, ông ta cúi đầu xem xét bãi nôn trong chậu. Chiêm mẫu nôn ra rất nhiều, hơn nửa là thức ăn đã tiêu hóa.

Sau khi nôn mửa, Chiêm mẫu nằm ngửa thở hổn hển, ánh mắt lộ vẻ thoải mái.

Tiền Bất Thu hỏi: “Lão nhân gia, sau khi nôn người cảm thấy thế nào?”

“Khi nôn hết thì cảm thấy rất dễ chịu được một lát, nhưng sau đó lại rất khó chịu!”

“Thế một ngày nôn mửa mấy lần?”

“Bốn, năm lần.”

Đầu có thấy choáng váng không?”

“Không rõ lắm!”

“Hôm nay ăn cái gì?”

“Ta không muốn ăn! Miệng đau nhức!”

Tiền Bất Thu sờ trán Chiêm mẫu, rồi lại sờ tay bà ta, cảm giác lạnh giá. Ông ta lại hỏi: “Hôm nay lão nhân gia người đại tiểu tiện thế nào? Có đánh khí không?”

“Không đại tiện được, tiểu tiện bình thường, không đánh hơi”.

“Nước tiểu mầu gì?”

“Ừm,…mầu vàng!”

Tiền Bất Thu đứng dậy nói: “Để lão hủ kiểm tra bụng của lão nhân gia!”

Nha hoàn vội giúp Chiêm mẫu cởi xiêm y. Tiền Bất Thu quan sát bụng Chiêm mẫu một lát rồi ông ta ấn nhẹ vào bụng, không thấy chuyển động, bụng vẫn có vẻ mềm, ấn tay lên vùng bụng đau nhức thì không thấy đau, không thấy nổi u, cục trong khoang bụng. Can, tỳ cũng không có dấu hiệu bất thường, khu vực thận ấn vào không đau. Ép tai vào bụng nghe thì không thấy có dấu hiệu độc tính, trọc âm, không nghe tiếng sôi bụng. Hai chân không có dấu hiệu phù thũng.

Tiền Bất Thu ngồi xuống, ông ta cầm cổ tay Chiêm mẫu bắt mạch. Dáng vẻ buồn bực, tay vuốt râu, trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi đi tới bàn, viết một đơn thuốc. Viết xong ông ta đứng dậy, đưa mắt nhìn Chiêm Đề rồi cầm đơn thuốc đi ra phía cửa.

Chiêm Đề vội vàng đi theo, thấy sắc mặt của Tiền Bất Thu nghiêm trọng. Ông ta nóng ruột hỏi: “Tiền thái y, mẫu thân của bản quan bị bệnh gì?”

Tiền Bất Thu đưa đơn thuốc cho Chiêm Đề, ông ta vuốt râu rồi nói: “Chứng bệnh của lão thái thái xuất phát từ tỳ vị ách tắc, ngăn trở lưu thông khí huyết. Khí ứ lâu ngày trong ruột sinh đau nhức, cái này không giống với chứng chúc tỳ vị là khí hư huyết ứ. Đây là đơn thuốc, gọi người đi lấy thuốc theo đơn này là được. Chỉ là…”

Chiêm Đề vốn đã khấp khửi mừng nhưng nghe đến đây ông ta vội hỏi lại: “Có chuyện gì? Bệnh mẫu thân của bản quan nặng lắm phải không?”

Tiền Bất Thu than nhẹ rồi khẽ lắc đầu: “Cái này có thể coi là táo bón, nhưng với chứng bệnh này đa số chỉ đơn giản là lục phủ không thông, phương pháp điều trị đều là dùng dược để công hạ. Nếu là người bình thường, cũng không có gì nguy hiểm, chỉ là lão nhân gia tuổi đã cao, công hạ sẽ rất nguy hiểm, thậm chí đe dọa tính mạng!”

Chiêm Đề nghe vậy nóng nảy hỏi: “Vậy phải làm thế nào?”

Tiền Bất Thu trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Lão hủ khi dùng thuốc đã chú ý tới việc hộ vệ chánh khí, dùng Tử phối ngũ hậu phác, thật, thuật, khoan tràng lý khí, tiêu bí phá kết, lánh gia nguyên hồ hành khí chỉ thống. Về phần Đại hoàng, công hạ trừ ẩm, tẩy rửa tràng vị. Phương thuốc này nói vậy nhưng không thể không dùng, sau này phải để ý, thận trọng quan sát, nếu lão nhân gia thân thể không chịu nổi, có gì bất ổn thì lập tức dừng lại, cho người đến báo ta!”

“Tốt!”

“Trong đơn thuốc của lão hủ có một loại dược hoàn gọi là Mộc hương thuận khí hoàn dùng để trị chứng buồn nôn, nấc, nghẹn. Đợi lát nữa đại nhân cho người theo ta về thái y viện lấy thuốc.”

“Tốt quá! Đa tạ thái y!”

Chiêm Đề vội lấy tiền trả tiền thuốc rồi sai Chiêm quản gia đi theo Tiền Bất Thu quay về thái y viện lấy Mộc hương thuận khí hoàn, nhân tiện lấy thuốc ở dược phòng của thái y viện.

Xong việc, Tiền Bất Thu quay lại nhà của Đổng bộ khoái.

Đổng bộ khoái, Trang đại phu và Tiếu đại phu ở trong phòng quan sát động tĩnh ngoài sân qua cửa sổ, chờ thần bí nữ nhân xuất hiện. Nhưng từ lúc Tiền Bất Thu quay trở lại đến giờ đã một canh giờ mà nàng vẫn chưa xuất hiện.

Đợi đến tận canh ba nửa đêm vẫn không thấy bóng dáng nữ nhân thần bí đâu. Đông Đông đã ngủ thiếp trong lòng mẫu thân.

Mấy người Tiền Bất Thu đã cảm thấy nản lòng, đang bàn định xem nên làm gì tiếp theo thì chợt nghe bên ngoài có tiếng gọi: “Tiền thái y! Tiền thái y!”

Tiền Bất Thu vội chạy tới bên cửa nhìn ra ngoài, trong sân có mấy người đang đứng. Một người đưa hai tay bắt lên mồm gọi lớn, người đó đúng là Chiêm quản gia của Chiêm phủ.

Chiêm quản gia vừa thấy Tiền Bất Thu vội vàng chạy tới. Hắn dậm chân nói: “Thái y! Cực kỳ…nghiêm trọng!”

“Có chuyện gì vậy?” Tiền Bất Thu thấy căng thẳng: “Lão thái thái lại lên cơn đau à?”

“Có…lão thái thái không muốn uống thuốc của ngài nhưng sau sau khi thuyết phục thái thái cũng uống. Tuy nhiên khi uống xong được một lúc, lão thái thái thấy bụng đau như dao cắt, lăn lộn trên giường, chết đi sống lại. Lão gia vội bảo tiểu nhân tới tìm thái y trở lại xem bệnh cho thái thái. Có phải thuốc có vần đề gì không?”

“Thuốc này không phải ngươi lấy ở thái y viện sao? Không thể có chuyện được. Đừng làm loạn lên như vậy, để ta đi xem sao!” Tiền Bất Thu dặn dò đám người Trang đại phu tiếp tục ngồi chờ rồi ông ta vội theo đám người Chiêm quản gia ra xe ngựa đi tới Chiêm phủ.

Lần này Chiêm mẫu không lăn lộn đau đớn. Không phải bà ta không đau mà là đau quá đã ngất đi.

Tiền Bất Thu vội vàng châm cứu. Lát sau Chiêm mẫu tỉnh lại nhưng bụng vẫn rất đau.

Tiền Bất Thu vội ấn tay vào bụng kiểm tra, xem mạch, đầu lưỡi. Sau khi xem xong sắc mặt ông ta thay đổi. Ông ta đưa mắt nhìn Chiêm Đề rồi đi ra ngoài hành lang.

Chương 134: Đội tuyết cầu y.

Chiêm Đề không yên tâm, ông ta đi theo Tiền Bất Thu ra ngoài. Ông ta khẽ hỏi: “Tiền thái y! Bệnh của mẫu thân bản quan thế nào?”

Tiền Bất Thu trầm giọng nói: “Rất nguy hiểm. Nếu đêm nay không kịp thời chữa trị, e rằng không thể sống tới bình minh!”

“Hả?” Chiêm Đề run giọng hỏi: “Tại sao lại như vậy? Lúc trước thái y đã nói bệnh không có gì mà? Mời thái y mau cứu chữa đi.”

“Cứu chữa? Tiền Bất Thu lắc đầu. Ông ta thở dài nói: “Bệnh của lão thái thái bây giờ đã chuyển sang kết hung chứng. Lão hủ đã cho lão thái thái dùng Đại hãm hung thang. Nhưng chứng bệnh của lão thái thái mấy hôm trước lão hủ đã từng gặp qua. Mỗi lần dùng Đại hãm hung thang thì bệnh của lão thái thái càng nặng thêm nên lão hủ không thể dùng lại thang thuốc đó được nữa!”

“Vậy bây giờ phải làm sao?” Chiêm Đề sợ đến tái cả người.

“Đến rạng sáng ngày mai không tìm được người này. Tính mạng của lão thái thái nguy mất!”

Chiêm Đề vội hỏi: “Là ai?”

“Người này là một ẩn sĩ, y thuật cao thâm khó lường, lại am hiểu việc trị bệnh đau bụng. Lúc trước lão hủ nhắc tới bệnh này bởi vì mấy ngày trước đây con trai của Khai Phong phủ Đổng bộ khoái cũng bị đau bụng giống như lão thái thái. Trang, Tiếu hai vị đại phu không chữa được, đưa tới cho lão hủ xem. Bệnh của đứa nhỏ này cũng chuyển thành kết hung chứng. Lão hủ cũng cho nó dùng Đại hãm hung thang, không có hiệu quả. Đến khi mạch gần tuyệt, nguyên dương cạn kiệt, tính mạng sắp mất, lão hủ bất lực nên bảo hắn mang con về nhà chuẩn bị hậu sự.

Đứa trẻ trên đường quay về hạnh ngộ vị ẩn sĩ này. Vị ẩn sĩ đã thi triển thần kỹ phẫu thuật chữa thương của Hoa Đà, cứu mạng đứa nhỏ!”

“Thần kỹ phẫu thuật chữa thương của Hoa Đà?” Chiêm Đề trợn tròn mắt: “Dùng thần kỹ của Hoa Đà cứu mạng?”

“Người này có thể cứu mạng đứa bé đó thì cũng có thể cứu được lão thái thái. Tối nay Đổng bộ khoái cùng Trang, Tiếu hai vị đại phu đã mang đứa bé tới thái y viện tìm lão hủ. Họ đã nói cho lão hủ biết chuyện này. Lão hủ cũng muốn bái kiến vị kỳ nhân này. Người đó nói nếu có chuyện gì Đổng bộ khoái có thể treo một mảnh vải xanh ở cổng, người đó sẽ tới. Nên lúc trước lão hủ ở nhà Đổng bộ khoái chờ người đó. Khi nghe lão thái thái bệnh nặng mới về đây, sau khi chẩn bệnh cho lão thái thái xong lão hủ lại đến đó nhưng người đó vẫn không xuất hiện. Giờ lão hủ ở đây không biết người đó đã xuất hiện chưa?”

“Ta hiểu rồi, Tiền thần y. Nhưng người này là thần long, không ai biết ở đâu, làm thế nào tìm được? Thần y nói mẫu thân ta chỉ sống được đến sáng mai. Nếu đến sáng mai không tìm được người này, mẫu thân của ta…”

“Nên việc này không chậm chễ được. Chúng ta cứ đưa lão thái thái tới chờ ở nhà Đổng bộ khoái. Chờ khi người đó xuất hiện chúng ta sẽ cầu xin người đó cứu mạng!”

“Đúng đúng!”

Chiêm Đề vội lệnh cho gia nhân che kín xe ngựa, mang theo thê thiếp, đội tuyết đưa Chiêm mẫu đến nhà Đổng bộ khoái.

Vợ chồng Đổng bộ khoái cùng Trang, Tiếu đại phu đang kiên nhẫn chờ trong nhà. Nhưng nữ nhân che mặt thần bí vẫn không xuất hiện. Bất chợt bên ngoài vang lên tiếng người huyên náo. Trong sân đột nhiên xuất hiện rất nhiều người. Biết có Khảo công ti lang trung đại nhân đến, đám người Đổng bộ khoái vội đi ra ngoài nghênh đón.

Khi biết được nữ nhân thần bí vẫn chưa xuất hiện Chiêm đề thấy rất thất vọng. Ông ta ra lệnh đưa xe ngựa có Chiêm mẫu vào trong sân rồi đi đi lại lại trong sân với dáng vẻ bồn chồn, lo lắng.

Tiền Bất Thu nói: “Đại nhân, những lần trước người đó xuất hiện đều dùng khăn che mặt, rõ ràng không muốn người khác nhận ra mình. Ngài cứ đi lại trong sân như thế chỉ sợ nữ nhân đó sẽ không xuất hiện!”

Chiêm Đề nóng nảy nói: “Các ngươi vẫn trốn trong phòng mà người đó cũng không xuất hiện. Bây giờ đã là canh tư rồi chỉ còn hai canh giờ nữa là trời sáng. Người đó không xuất hiện, mẫu thân của ta…”

Một tiếng “Bịch” vang lên, Chiêm Đề quỳ gối xuống tuyết, hai tay ông ta giơ lên trời cất giọng bi thương nói: “Ông trời ơi! Hãy làm cho ân công xuất hiện đi. Ân công! Cầu xin người cứu mẫu thân của ta. Bệnh của mẫu thân ta giống bệnh con Đổng bộ khoái. Tiền thái y nói trên đời này chỉ có người mới chữa được. Mẫu thân ta từ khi còn trẻ đã thủ tiết nuôi dưỡng ta nên người. Ta vẫn chưa báo hiếu được cho mẫu thân. Người vẫn chưa có nhiều ngày hưởng phúc. Ta cầu xin người…”.

Mấy thê thiếp của Chiêm Đề cũng quỳ xuống khóc lóc cầu khấn: “Ân công, ngàn lần cầu xin người cứu mẫu thân của chúng ta…”.

Các gia đinh, tùy tùng đi theo cũng quỳ xuống.

Chiêm Đề nước mắt vòng quanh. Ông ta xoay người quát đám gia nhân: “Các ngươi đi ra ngoài. Núp ngoài ngõ, không cho bất kỳ ai vào đây. Chỉ cần mình ta ở đây cầu xin ân công cũng được. Đi! Mau đi! Tiền thái y, mọi người cũng đi vào nhà đi! Mau đi!”

Đám gia nhân vội vàng ra cổng trốn vào trong ngõ nhỏ còn mấy người Tiền Bất Thu cũng đi vào trong nhà. Bên ngoài sân chỉ còn Chiêm Đề cùng mấy thê thiếp. Tất cả quỳ dưới tuyết, cất tiếng bi thương cầu xin ân công cứu mạng.

Tuyết rơi rất dày, tuyết rơi dính trên mi và tóc của mấy người, khắp người tất cả đều là tuyết trắng. Cả người là màu trắng giống như một người tuyết. Mấy người nhà Chiêm gia đau khổ nhìn trời cầu khấn.

Phù Vân đường. Lâm Thanh Đại và mọi người đang ngồi nói chuyện, chợt nghe tin báo từ các hộ vệ mai phục ở nhà Đổng bộ khoái nói trước cổng nhà Đổng bộ khoái có treo mảnh vải xanh.

Đoán rằng Đổng bộ khoái đã biết hung thủ là ai, Lâm Thanh Đại vội vã đi ra ngoài.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm đang ngồi trong phòng sưởi ấm, nói chuyện. Lâm Thanh Đại gõ cửa rồi tiến vào. Đỗ Văn Hạo vội cầm một cái ghế đưa cho nàng ngồi cạnh lò sưởi. Hắn thấy nụ cười trên mặt nàng nên tò mò hỏi: “Đi nhanh thế. Sao quay về lại cười toe toét vậy? Đổng bộ khoái đã nghĩ ra hung thủ là ai chưa?”

Lâm Thanh Đại lắc đầu.

“Vậy treo vải xanh làm gì?”

“Bọn họ có chuyện!”

Lâm Thanh Đại không nói tiếp, nàng hỏi ngược lại: “Đoán xem ta đã nhìn thấy ai nào?”

“Ai?”

“Là đồ đệ của ta?” Đỗ Văn Hạo sửng sốt, ngay lập tức hắn hiểu ra: “Tỷ nói chính là Tiền Bất Thu hả? Sao hắn lại tới đó nhỉ?”

“Không rõ. Nhưng chắc chắn Đổng bộ khoái đã nói chuyện chúng ta cứu con hắn. Tiền Bất Thu rất thông minh, ông ta biết trên đời này chỉ có ngươi biết phẫu thuật chữa thương. Chắc chắn ông ta đoán đại phu cứu đứa bé có quan hệ với ngươi, nên ông ta bảo Đổng bộ khoái treo vải xanh lên để ta xuất hiện. May mắn khi ta đến, ở đó đang có mấy người dân nói chuyện nên ta không tiện xuất hiện. Khi quan sát kỹ ta phát hiện ở đó có Tiền Bất Thu và đồ đệ Diêm Diệu Thủ nữa. Ta biết ngay không phải là bọn họ đã tìm ra hung thủ mà chỉ muốn gặp ta nên ta quay trở về.”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Đúng! Không nên xuất hiện. Xem ra chúng ta phải cẩn thận, không được để lão hồ ly đó tìm ra chúng ta. Ít nhất là bây giờ chúng ta không thể lộ diện!”

Chúng nữ cùng gật đầu.

M幠người ngồi nói chuyện phiếm cả giờ liền. Đây là điều mọi người ưa thích nhất. Mấy cô gái líu lo nói chuyện không ngừng. Đỗ Văn hạo không muốn xen vào câu chuyện của họ. Hơn nữa có những thứ hắn không muốn nói ra như sắp đến ba mươi tết mà không khí ảm đạm, mùa xuân đến muộn cho nên hắn chỉ ngồi nghe chúng nữ nói chuyện. Vừa nghe hắn vừa nghĩ thì ra ở thời cổ đại cũng có nhiều cách ăn mừng năm mới.

Nói chuyện một lát đã đến nửa đêm, lúc này mọi người mới quay về phòng nghỉ ngơi.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm là tân phu thê, tình cảm sâu đậm, mỗi đêm đều hoan ái rất lâu mới ôm nhau ngủ.

Nhưng đêm nay mới chỉ được ba hiệp, Anh Tử đã chạy đến bên giường, giọng gấp gáp nói: “Mau! Có bệnh nhân nặng.”

Dục hỏa của Đỗ Văn Hạo bị lời nói của Anh Tử dập tắt giống như người đang nóng bị giội một chậu nước lạnh. Hắn cảm thấy rất lo lắng về chuyện này, không chừng sau này sẽ ảnh hưởng đến chuyện phòng the của vợ chồng. Nhưng hắn lại không có cách nào giải quyết bởi vì chính hắn đã chọn nghề đại phu rồi.

Đỗ Văn Hạo trong tư thế trần như nhộng rời khỏi người Bàng Vũ Cầm, hắn không kịp thu dọn chiến trường, vén màn lên và vội vã mặc quần áo. Bàng Vũ Cầm cũng vội vã mặc quần áo. Nàng hiểu bệnh nhân nặng rất cần phẫu thuật. Nếu không phải phẫu thuật nàng muốn tướng công của mình ở lại bồi tiếp nàng. Nàng vừa mặc y phục vừa hỏi Anh Tử: “Ai vậy?”

Anh Tử đến bên giúp Đỗ Văn Hạo mặc quần áo. Nàng nói: “Một lão thái thái. Thanh Đại tỷ vừa ở bên ngoài về nói lão thái thái bị ốm rất nặng, đã được đưa về phòng phẫu thuật.”

Đỗ Văn Hạo vội mặc hắc y cùng Bàng Vũ Cầm ra khỏi phòng, bất chấp tuyết rơi dày đi đến phòng giải phẫu. Tuyết Phi Nhi đã đợi ở đó.

Lâm Thanh Đại toàn thân hắc y. Nàng gấp gáp nói với Đỗ Văn Hạo: “Lúc trước hộ vệ của chúng ta theo dõi nhà Đổng bộ khoái báo lại. Khảo công ti lang trung Chiêm Đề mang theo mẫu thân bị bệnh nặng đến nhà Đổng bộ khoái. Toàn bộ Chiêm gia quỳ trên tuyết cầu xin ngươi cứu mạng. Ta liền đi tới đó. Đồ đệ Tiền Bất Thu của ngươi trốn ở trong phòng, dáng vẻ rất lo lắng. Ông ta không chữa được bệnh của Chiêm mẫu, đoán chỉ có ngươi mới cứu được. Ta liền lên tiếng bảo bọn họ lui ra ngoài. Sau đó ta xuống bế Chiêm mẫu lên lưng đưa về đây. Ta nói mười ngày sau dù Chiêm mẫu sống hay chết ta cũng trả lại cho bọn họ.”

Trước tiên Đỗ Văn Hạo châm cứu chống sốc, lát sau Chiêm mẫu tỉnh lại hắn chỉ hỏi qua loa tình trạng bệnh của Chiêm mẫu rồi vội bắt mạch, xem lưỡi.

Chiêm mẫu đau đớn ôm bụng rên rỉ. Bà ta nhìn thấy mấy người đều mặc y phục màu đen, khăn che mặt đen liền cảm thấy sợ hãi. Chiêm mẫu nhăn nhó hỏi: “Các ngươi…, các ngươi là ai? Sao ta lại ở đây?”

Bàng Vũ Cầm ngồi bên giường. Nàng nắm tay Chiêm mẫu nói khẽ: “Nãi nãi, bà yên tâm ở đây rất an toàn. Chúng cháu là người tốt. Chúng cháu sẽ chữa bệnh cho bà. Bà yên tâm đi!”

“Ôi…, đại phu ơi…, ta đau quá…, đau bụng quá…”.

Chiêm mẫu giãy giụa đau đớn. Bàng Vũ Cầm nắm tay bà, nàng muốn an ủi bà mà không biết nói gì. Nàng nhìn mái tóc bạc, dáng vẻ đau đớn lại liên tưởng đến nãi nãi của mình. Nàng thấy đau xót vô cùng, nước mắt bất chợt rơi xuống, nàng nức nở khóc.

Chiêm mẫu nghe thấy nàng khóc nức nở, bà mở mắt nhìn nàng hỏi: “Cô nương, sao cô lại khóc?”

“Không, không sao, nãi nãi. Bà yên tâm. Tướng công của cháu sẽ chữa khỏi bệnh cho bà!”

Đỗ Văn Hạo chẩn bệnh xong, sắc mặt hắn biến đổi, hắn vội nói: “Lập tức chuẩn bị phẫu thuật!”

Chương 135: Lại một miếng vàng.

Tuyết Phi Nhi khẽ hỏi: “Đại ca đã nói là không được giải phẫu cho người cao tuổi mà?”

Giải phẫu cho người cao tuổi rất nguy hiểm bởi vì ở người cao tuổi chức năng cơ quan hô hấp giảm, khả năng chịu đựng phẫu thuật rất kém. Ngoài ra, người già thường bị chứng cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch hoặc chức năng thận kém,…Vì vậy, phẫu thuật cho người già rất dễ gây ra loạn nhịp tim, bị sốc, chức năng thận suy kiệt, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Trong đó nguy hiểm nhất là các chứng bệnh về tim phổi.

Hơn nữa người già sau khi giải phẫu bình phục rất chậm, rất dễ bị nhiễm trùng, khả năng xảy ra di chứng và biến chứng cao hơn so với người bình thường. Cho nên, trong những trường hợp thông thường, việc giải phẫu chữa bệnh cho người già không được khuyến khích.

Nghe Tuyết Phi Nhi nói xong, Đỗ Văn Hạo cười khổ. Hắn nghĩ ổ bụng của Chiêm mẫu đã bị nhiễm trùng nghiêm trọng, nếu không mổ ngay thì bà ta sẽ không sống được tới sáng. Bây giờ chỉ còn cách còn nước còn tát thôi. Nhưng những điều này không thể nói trước mặt Chiêm mẫu được nên hắn khoát tay nói: “Không nói nữa! Mau chuẩn bị phẫu thuật!”

Kỹ thuật giải phẫu hiện đại không phải là không làm được, cũng không phải cứ mổ ra là chết. Đúng ra, vấn đề mấu chốt của giải phẫu không nằm ở tuổi tác mà là tình trạng sức khỏe. Nếu sức khỏe không tốt thì dù bệnh nhân chỉ hai, ba mươi tuổi cũng có thể chết, sức khỏe tốt thì giải phẫu cho bệnh nhân chín mươi, một trăm tuổi cũng thành công. Mấu chốt là chức năng của tim, phổi, hoạt động của thận, lượng đường trong máu, huyết áp của người bệnh, vân vân. Chiêm mẫu chắc chắn có thể chịu đựng được cuộc giải phẫu, bà ta đã sống đến bảy mươi tuổi thì sức khỏe rất tốt. Hơn nữa cứ nhìn cơ thể của Chiêm mẫu thì thấy chế độ ăn uống của bà cũng rất tốt, điều này làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy khá an tâm.

Phẫu thuật diễn ra rất thuận lợi, khi mở khoang bụng ra thì đúng Chiêm mẫu bị viêm màng bụng cấp tính.

Nhưng khi tháo hết dịch chất trong khoang bụng, Đỗ Văn Hạo và mấy người ngây người hoảng sợ. Trong bụng của Chiêm mẫu có một miếng vàng óng ánh.

Đõ Văn Hạo lấy miếng vàng ra. Hắn nảy ra một nghi vấn khi nhìn miếng vàng. Tại sao mẫu thân của Khảo công ti lang trung đại nhân lại cũng có miếng vàng trong bụng?”

Đỗ Văn Hạo không có thời gi­an để suy nghĩ chuyện này. Hắn cần phải nhanh chóng kết thúc giải phẫu, giải phẫu càng nhanh, càng chắc chắn thành công.

Sau mấy lần phẫu thuật mở khoang bụng thành công, Đỗ Văn Hạo cùng nhị nữ đã thành thục hơn nhiều. Khi khâu lại phần ruột bị tổn thương, tẩy trùng và khâu lại khoang bụng, các thao tác được thực hiện theo đúng trình tự, không lộn xộn. Sau khi giải phẫu thành công, tính mạng của Chiêm mẫu tạm thời được bảo đảm. Không thấy xuất hiện những triệu chứng mà Đỗ Văn Hạo lo lắng. Xem ra thường ngày chế độ ăn uống của Chiêm mẫu rất tốt. Lúc này thế mạnh về sức khỏe đã được phát huy tối đa.

Sau khi được làm cho tỉnh bằng nước muối, Chiêm mẫu mở mắt nhìn xung quanh, cất giọng yếu ớt hỏi: “Ta…, ta đang ở đâu? Sao ở mũi ta lại có cái ống này? Còn có…”

Bàng Vũ Cầm nói: “Nãi nãi, mũi, bụng và hạ thân của người có xuyên một cái ống để chữa bệnh. Chờ mấy ngày nữa người hồi phục sức khỏe, cháu sẽ lấy ra cho bà. Bà cố gắng chịu đựng nhé. Bây giờ bụng bà thế nào rồi?”

“Cám ơn…bụng…không đau nữa…Cám ơn cô nương!”

“Không cần cám ơn! Nãi nãi đừng nói nhiều, cứ nghỉ ngơi cho khỏe đi, mọi chuyện để sau hãy nói!”

Sau khi chuyển Chiêm mẫu về phòng bệnh. Anh Tử và Tuyết Phi Nhi thay nhau chăm sóc Chiêm mẫu.

Đỗ Văn Hạo ngồi ở trong phòng, tay cầm hai miếng vàng, hắn đang so sánh miếng vàng lấy ra từ bụng Chiêm mẫu và miếng vàng lấy từ bụng Đông Đông - con của Đổng bộ khoái. Lâm Thanh Đại và Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh hắn.

Đỗ Văn Hạo cẩn thận so sánh hai miếng vàng, mặt ngoài đều có một sa mắt, hơn nữa vị trí của sa mắt tương tự nhau. Một ý nghĩ lóe lên, hắn lấy mực quét lên bề mặt hai miếng vàng và chỗ nứt đó. Sau đó hắn dùng hai tờ giấy điệp nhỏ lần lượt gói hai miếng vàng lại, rồi hắn lại mở gói giấy lấy hai miếng vàng ra. Hắn cầm hai mảnh giấy có in bề mặt của hai miếng vàng so sánh cẩn thận, mắt hắn sáng lên, nói to: “Mọi người xem này! Sa mắt của chúng hoàn toàn trùng khớp. Hai miếng vàng chắc chắn là từ một khuôn đúc”.

Nhị nữ quan sát kỹ lưỡng cũng nhận thấy như thế.

Lâm Thanh Đại khẽ nói: “Chẳng lẽ hung thủ muốn sát hại Chiêm mẫu và Đông Đông là một người?”

“Rất có thể!”

“Việc này rất lạ! Đông Đông chỉ là con của một bộ khoái bình thường, Chiêm mẫu lại là mẫu thân của Khảo công ti lang trung đại nhân. Hai người không có bất cứ liên hệ gì với nhau. Vì sao hung thủ lại muốn giết cả hai người này?”

Đỗ Văn Hạo cau mày suy nghĩ một lúc rồi hắn lắc đầu nói: “Ta không nghĩ ra nguyên nhân. Chúng ta cứ chờ khi lão thái thái khỏe lại sẽ hỏi bà ấy. Có thể chúng ta sẽ tìm ra đầu mối nào đó. Bây giờ trời sắp sáng rồi, quay về phòng ngủ đi.”

Bàng Vũ Cầm khẽ cắn môi nói: “Phu quân, để thiếp đi chăm sóc lão thái thái. Thiếp thấy bà ấy bị ốm lại nghĩ đến nãi nãi của thiếp. Ở bên cạnh chăm sóc bà ấy thiếp thấy mình được an ủi ít nhiều!”

Đỗ Văn Hạo ôm vai nàng, khẽ vỗ vai nhẹ nhàng nói: “Ta biết nàng nhớ nhà! Ngày đầu tiên sau phẫu thuật là thời điểm nguy hiểm nhất của lão thái thái. Ta và nàng hãy cùng nhau chăm sóc lão thái thái!”

Bàng Vũ Cầm cảm kích cầm tay Đỗ Văn Hạo, ứa lệ nói: “Phu quân đã không ngủ một đêm rồi. Không biết bệnh của lão thái thái có xảy ra điều gì không? Thiếp mệt mỏi sẽ có người thay, chàng mệt sẽ không ai thay chàng được. Nhân lúc lão thái thái chưa có vấn đề gì, chàng cứ đi nghỉ đi. Có gì thiếp sẽ gọi chàng!”

Đỗ Văn Hạo thấy nàng nói đúng nên cũng không từ chối, quay về phòng ngủ.

Bàng Vũ Cầm tới phòng bệnh của Chiêm mẫu.

Nàng cùng Anh Tử hai người ở lại chăm sóc Chiêm mẫu.

Vài ngày đau bụng liên tục bị mất ngủ, lúc này lại bị ảnh hưởng của thuốc gây mê, Chiêm mẫu cứ nửa tỉnh nửa mê. Nhưng vết mổ ở bụng rất đau, nhất là ống thông vào dạ dày và ống dẫn nước tiểu ở hạ thể làm bà vô cùng khó chịu. Ống thông dạ dày luồn qua cơ quan hô hấp không chỉ làm cho sự bài tiết tăng lên mà còn gây ho khan. Nhưng càng ho khan lại càng đau đớn. Hơn nữa việc giảm áp của dạ dày cũng làm cho Chiêm mẫu không dám ho, không có cách nào để trục đờm ra nên Chiêm mẫu bắt đầu thở khò khè, hơi thở trở nên khó khăn.

Đỗ Văn Hạo đã dạy cho Bàng Vũ Cầm các kiến thức về hộ lý nên nàng biết cần phải làm gì.

Do phẫu thuật ổ bụng nên không nằm nghiêng được. Bàng Vũ Cầm liền sử dụng một cái đệm gối bông đặt sau lưng Chiêm mẫu để bà có thể nằm nghiêng. Sau đó nàng nhẹ nhàng vỗ vào lưng Chiêm mẫu đẩy đờm ra.

Lỗ mũi của Chiêm mẫu luồn ống thông dạ dày làm cho bà rất khó chịu, không ngủ được, không ngừng rên rỉ cầu xin: “Cô nương…, giúp ta với…, lấy cái ống này ra…, cầu xin cô nương!”

Bàng Vũ Cầm dịu dàng nói: “Nãi nãi, tướng công của cháu phẫu thuật chữa bệnh cho bà. Bây giờ sức khỏe bà chưa hồi phục. Khí trong dạ dày chỉ có mỗi cách thoát ra theo ống này. Cái ống này giúp dạ dày của bà giảm bớt áp lực. Nếu bây giờ rút cái ống này ra, khí trong dạ dày của bà không thoát ra ngoài được, lúc đó phải luồn ống qua mồm thì còn khó chịu hơn nhiều. Cái này là để chữa bệnh cho bà. Bà cố gắng chịu đựng một lúc!”

Chiêm mẫu nghe đã hiểu ra nhưng trong cổ họng có rất nhiều đờm không nhổ ra được, vẻ mặt bà ta hết sức thống khổ.

Bởi vì bây giờ Chiêm mẫu không được ăn uống gì, ngay cả thuốc cũng không được uống nên Bàng Vũ Cầm không thể cho bà uống thuốc tiêu đờm. Bàng Vũ Cầm nói: “Nãi nãi, cháu dạy bà một cách khạc đờm ra. Trước tiên bà hít sâu hai lần, sau đó bà nhả khí từ bụng lên lồng ngực ra hai lần. Lần đầu nhẹ, sau đó khạc mạnh đờm ra, quan trọng là không được ho mạnh để tránh làm rách vết mổ!”

Chiêm mẫu thử ho khan mấy lần, hiểu được cách làm nhưng bởi vì ảnh hưởng của ống thông dạ dày nên không khạc được nhiều đờm ra. Ngược lại còn thấy đau đớn dữ dội, bà khổ sở lắc đầu nói: “Không được…, cô nương. Ta không khạc ra được!”

Bàng Vũ Cầm ở bên cạnh vừa nhẹ nhàng vỗ lưng Chiêm mẫu giúp tiêu đờm vừa dịu dàng nói: “Nãi nãi, không khạc đờm ra là không tốt đâu. Tướng công của cháu nói nếu bà không khạc đờm ra, đờm sẽ tích tụ ngày một nhiều trong khí quản của bà. Nếu hít xuống phổi thì sẽ rất nguy hiểm!”

Chiêm mẫu biết để thế không tốt nên cố gắng theo cách Bàng Vũ Cầm dạy khạc đờm ra, sau mấy lần thử vẫn không khạc ra được mà khí thoát ra càng lúc càng nhiều làm cho bà bị kích động, không thể chịu đau được nữa đưa tay định rút ống thông dạ dày ra. Bàng Vũ Cầm vội giữ tay Chiêm mẫu: “Nãi nãi, bà mà rút ra là lại phải luồn vào đấy!”

“Tránh ra!” Chiêm mẫu bực tức nói, bà ta không rút tay ra khỏi tay Bàng Vũ Cầm được liền dùng tay còn lại cào cấu. Ở thời cổ đại móng tay của các lão thái thái rất ít khi cắt nên rất dài. Mu bàn tay của Bàng Vũ Cầm bị cào đến chảy máu nhưng nàng vẫn đè lấy tay của Chiêm mẫu và khuyên nhủ Chiêm mẫu không được rút ống thông dạ dày ra.

Chiêm mẫu trợn tròn mắt, bà ta cố gắng nói thành tiếng: “Buông…ra. Ta chết mất…! Cứu mạng…! Khụ, khụ, khụ…”.

Bàng Vũ Cầm ôn nhu trấn an bà: “Không sao đâu, y thuật của tướng công cháu rất cao minh, đã giải phẫu chữa khỏi bệnh cho nhiều người, những người đó đều sống rất khỏe mạnh. Bà đừng lo lắng!”

“Không! Ta muốn gặp con ta! Con ơi…, con ở đâu? Mẫu thân sắp chết rồi…, con ơi…, khụ khụ.”

Chiêm mẫu càng lúc càng kích động. Bỗng nhiên bụng bà ta sôi lên, ” ọa” Chiêm mẫu há miệng nôn ra, bởi vì lúc trước đã nôn nhiều nên đã nôn hết những gì có trong dạ dày, giờ chỉ còn mỗi nước dịch.

Tiếp theo Chiêm mẫu lại nôn thốc nôn tháo. Ống thông dạ dày lại kích thích cuống họng và thanh quản gây nên ho khan làm cho Chiêm mẫu càng đau đớn. Nước mắt trào ra, bà ta không ngớt gọi tên con trai của mình.

Anh Tử thấy thế cũng luống cuống, nàng nói với Bàng Vũ Cầm: “Phu nhân, để nô tỳ đi gọi thiếu gia!”

Bàng Vũ Cầm luống cuống gật đầu nói: “Được! Đi nhanh lên!”

Đỗ Văn Hạo đang mơ màng trong giấc ngủ thì bị Anh Tử gọi dậy. May mắn là hắn để cả y phục mà ngủ nên hắn cúi xuống đi giầy rồi chạy đến phòng bệnh.

Đỗ Văn Hạo chỉ hỏi qua loa, sau khi bắt mạch hắn nhận ra mạch hư, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng nhợt, đó là chứng can hỏa thượng viêm, hậu quả của việc lo lắng về bệnh tật, lại rơi vào hoàn cảnh hoàn toàn lạ lẫm. Phẫu thuật chữa bệnh là phương pháp chữa bệnh xa lạ càng làm cho Chiêm mẫu lo lắng, gây nên sự bất ổn, sợ hãi, huyết áp tăng lên, nhịp tim đập nhanh hơn, nhất là ống thông dạ dày kích thích cuống họng nên gây ra nôn mửa.

Thêm vào đó, do Chiêm mẫu không thể khạc đờm nên cũng sinh ra nôn mửa, điều này càng nguy hiểm. Bởi vì nếu như trong khi nôn mửa không khạc được đờm ra ngoài, theo hoạt động của cơ quan hô hấp khi nôn mửa sẽ vô tình nuốt đờm xuống phổi, tạo nên chứng viêm phổi thì sẽ cực kỳ nguy hiểm. Phải nhanh chóng cầm nôn và hướng dẫn Chiêm mẫu cách khạc đờm ra khỏi cổ họng.

Bây giờ Chiêm mẫu vẫn chưa đánh hơi được, không thể uống thuốc, nếu không sẽ làm tắc ruột. Không uống thuốc thì lại không thể cầm nôn được.

Chương 136: Trung y có thể dùng trong cấp cứu.

Đỗ Văn Hạo chợt nghĩ ra một biện pháp. Hắn vội nói: “Mau! Lấy Ngô thù (một loại cây thuốc), nghiền nhỏ, trộn với dấm chua, xoa ngoài da chỗ huyệt Dũng tuyền!”

Anh Tử vội vàng chạy đi chuẩn bị dược liệu. Khi nàng mang Ngô thù tới, Đỗ Văn Hạo tự mình nghiền nhỏ ra, trộn với dấm chua rồi đưa cho Bàng Vũ Cầm xoa ở vị trí huyệt Dũng tuyền của Chiêm mẫu.

Thật kỳ diệu, không đến thời gi­an ăn xong bữa cơm, Chiêm mẫu đã ngừng nôn mửa.

Nhìn mọi người trong phòng vất vả vì mình, tâm lý của Chiêm mẫu đã kiên định hơn. Bà thấy vị đại phu trẻ tuổi dùng thuốc xoa vào huyệt đạo ở lòng bàn chân của mình một lúc thì không nôn mửa nữa nên cảm thấy rất tin tưởng Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo lại dùng Long đờm tả can thang đã được gia giảm, điều hòa khí dạ dày, chống nôn mửa.

Anh Tử lo chuẩn bị Long đờm tả can thang. Lát sau Bàng Vũ Cầm dùng một cái thìa bón từng thìa cho Chiêm mẫu. Cùng lúc đó nàng vừa đấm lưng Chiêm mẫu vừa dùng bông lau đờm chảy ra ngoài.

Bàng Vũ Cầm giống như một người cháu gái, quan tâm chăm sóc Chiêm mẫu làm cho Chiêm mẫu cảm thấy ấm áp như đang ở nhà. Bà nhìn thấy trên tay áo Bàng Vũ Cầm dính đờm mà mình vừa nôn mửa ra, lại thấy trên mu bàn tay nàng bị mình cào xước xát nhiều chỗ, xúc động, lệ viền quanh mi, giọng nức nở nói: “Cô nương…, lão thân…Xin lỗi!”

Bàng Vũ Cầm cười nói: “Bà đừng khách sáo. Bà cũng giống như nãi nãi của cháu. Chăm sóc bà cũng như chăm sóc nãi nãi của cháu. Bà cứ nghỉ ngơi, đừng nói chuyện nhiều!”

“Ừ…” Chiêm mẫu gật đầu giống như một đứa bé ngoan.

Đỗ Văn Hạo và mấy người ở bên cạnh Chiêm mẫu cũng nói chuyện phiếm làm giảm bớt sự căng thẳng của bà.

Tới xế chiều Chiêm mẫu lại có triệu chứng xúc động trở lại. Hơi thở trở nên dồn dập. Chiêm mẫu cố gắng ho khạc ra đờm giống như bọt biển. Hơi thở khò khè mang theo nhiệt. Tứ chi bắt đầu có hiện tượng phù thũng, co quắp. Môi trở nên tím, mạch trầm. Đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Chức năng tim suy giảm. Triệu chứng này còn tên gọi thông dụng khác là “tâm lực suy kiệt” hay suy tim.

Thoạt nhìn cơ thể Chiêm mẫu rất khỏe mạnh, nhưng trước kia chắc chắn đã mắc các bệnh về tim phổi và các loại bệnh khác. Phẫu thuật đã dẫn tới tâm lực suy kiệt. Bởi vì lúc đó phải mổ cấp cứu nên không kịp áp dụng các biện pháp kiểm tra tiền phẫu thuật. Sau khi giải phẫu đã xuất hiện chứng suy tim cấp tính.

Làm sao bây giờ? Y học hiện đại trị chứng suy tim cấp tính chủ yếu dùng tây y. Ví dụ như thở oxi. Nhưng ở Tống triều làm sao có thể tìm được các thiết bị hỗ trợ và thuốc kích thích hô hấp? Vì vậy Đỗ Văn Hạo bắt buộc phải sử dụng Trung y.

Mặc dù rất sốt ruột nhưng hắn đã loại trừ dùng tây y, hắn lại không nghĩ ra được phương thuốc Trung y nào phù hợp. Đầu óc hắn hoàn toàn trống rỗng.

Bởi vì thuốc tây y đa dạng, phương pháp dùng thuốc thuận tiện, nhanh gọn, được dùng rộng rãi. Cho nên người hiện đại bất kể là bệnh gì hay thầy thuốc nào cũng đều có thói quen “chậm thì dùng Trung y, cấp cứu dùng tây y”. Khi cấp cứu bệnh nhân các bác sĩ đều dùng tây y. Trong bệnh viện rất hiếm khi sử dụng Trung y để cấp cứu bệnh nhân. Các bác sĩ Trung y cũng không nghiên cứu cách dùng Trung y để cấp cứu bệnh nhân nặng. Vì vậy gặp phải trường hợp này Đỗ Văn Hạo nghĩ nát óc cũng chỉ nghĩ được các biện pháp tây y mà không tìm ra biện pháp Trung y nào.

Đỗ Văn Hạo đi lại không ngừng trong phòng, hai tay vỗ trán. Hắn cố làm cho mình tỉnh táo để suy nghĩ tìm ra cách điều trị chứng suy tim bằng Trung y.

Đối với Trung y thì suy tim là bệnh “tâm quý”, thuộc phạm trù tâm bệnh, cách điều trị đa dạng, đơn giản nhất có thể là thông máu hoặc bổ ích tâm khí (bổ khí dưỡng tâm). Cuối cùng thì Đỗ Văn Hạo cũng tìm ra biện pháp, nhưng hắn lại không biết nên sử dụng phương thuốc nào để cứu chữa cho Chiêm mẫu.

Nhìn dáng vẻ khổ sở của Chiêm mẫu, hơi thở càng lúc càng dồn dập. Bàng Vũ Cầm như thấy chính nãi nãi của nàng đang chịu khổ, nước mắt trào ra, tay nàng liên tục dùng bông để lau nước dãi và đờm trào ra hai bên mép Chiêm mẫu. Nàng ngẩng đầu muốn gọi Đỗ Văn Hạo mau cứu Chiêm mẫu nhưng nhìn thấy dáng vẻ lo lắng cực độ của Đỗ Văn Hạo nàng không dám nói nữa. Nàng biết tướng công của nàng đang tập trung cao độ để tìm ra cách cứu Chiêm mẫu.

Ánh mắt lo lắng của Bàng Vũ Cầm càng làm cho Đỗ Văn Hạo khẩn trương. Trong đầu hắn hiện lên bảy, tám phương thuốc thông máu, bổ ích tâm khí nhưng hắn không biết chọn cái nào.

Khi Chiêm mẫu ho khan cơn đau lại càng dữ dội. Đờm trong cổ họng như bị dính vào đó không khạc ra được, càng lúc càng khó thở. Bàng Vũ Cầm vội nói với Anh Tử: “Mau đi lấy ít bông tăm đến đây!”

Anh Tử vội chạy đi lấy bông tăm. Bàng Vũ Cầm dùng cây bông tăm đưa vào trong miệng Chiêm mẫu để gạt đờm dính trong đó ra.

Thấy tình cảnh này, một ý nghĩ lóe lên trong đầu Đỗ Văn Hạo. Bệnh suy tim cấp tính sẽ sinh ra rất nhiều đờm dưới dạng bọt biển. Cái này gọi là đờm chứng. Liệu có thể dùng phương thuốc Trung y cổ truyền điều trị theo hướng đó không nhỉ?

Mặc dù suy tim thuộc về tâm bệnh nhưng cũng có nguyên nhân do chức năng của phế, tỳ, thận mất cân bằng. Bởi vì phế là chủ khí, tỳ chủ vận hóa cơm nước, thận nạp khí, can chủ sơ tiết. Nếu can (gan) gây ứ khí, tỳ không vận hóa, chất lưu (chất nước và chất khí) không thể vận chuyển khắp cơ thể sẽ tích tụ thành đờm. Đờm làm bẩn phế, làm phế khí không thông dẫn tới khí huyết không thông. Suy tim căn bản là do đờm và ứ huyết gây nên. Muốn trị suy tim phải trị đờm và ứ huyết trước.

Nhưng đờm ứ đọng rất nhiều. Bây giờ phải xác định đúng căn nguyên của triệu chứng thì mới có thể dùng phương chính xác được.

Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa chăm chú bắt mạch, xem lưỡi cùng xem da và hỏi Chiêm mẫu về tình trạng thân thể, miệng khô, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch trầm, triệu chứng suy tim là do đờm ứ làm ứ huyết, sinh ra nhiệt. Rõ ràng phải thanh nhiệt, trục đờm, thông khí.

Đó là Dương tán kết!

Đã tìm ra nguyên nhân, nhưng dùng phương thuốc nào là tốt làm cho Đỗ Văn Hạo trầm ngâm suy nghĩ, sau cùng hắn quyết định dùng Bạch bán hạ thang gia giảm.

Tình huống khẩn cấp, lại không có phương tiện truyền tĩnh mạch. Xem ra hắn chỉ có thể mạo hiểm dùng cách đưa thuốc tực tiếp vào dạ dày.

Cũng may Chiêm mẫu đã có ống thông dạ dày luồn qua thực quản nên nước thuốc có thể từ mũi chảy thẳng xuống dạ dày, tránh được nguy cơ tắc ruột. Đồng thời triệu chứng suy tim vẫn chưa làm cho Chiêm mẫu hôn mê sâu và nguy hiểm đến tính mạng, vẫn còn thời gi­an cấp cứu vì vậy Đỗ Văn Hạo quyết định bắt chước phương pháp truyền dịch vào tĩnh mạch, nhỏ thuốc theo từng giọt liên tục làm cho dạ dày từ từ hấp thu được thuốc.

Một chén thuốc Bàng Vũ Cầm đã phải nhỏ liên tục trong mấy canh giờ. Sau đó nàng bắt đầu nhỏ chén thứ hai, lần này chuyển sang dùng Tham phụ long mẫu thang. Sau khi nhỏ hết chén thứ hai lại tiếp tục dùng Ngô thù nghiền nhỏ trộn với dấm chua xoa ngoài da ở huyệt Dũng tuyền.

Lâm Thanh Đại và Tuyết Phi Nhi nghe nói bệnh tình nguy cấp của Chiêm mẫu cũng chạy tới hỗ trợ. Đỗ Văn Hạo phân người lấy thuốc, người xoa thuốc cho Chiêm mẫu. Tới rạng sáng ngày ba mươi tết, chứng suy tim của Chiêm mẫu mới rút.

Sau khi Đỗ Văn Hạo thông báo cho mọi người, chúng nữ mới thở phào nhẹ nhõm.

Khi bệnh tình của Chiêm mẫu dần ổn định, Bàng Vũ Cầm rất đau lòng khi nhìn thấy hai mắt Đỗ Văn Hạo đỏ khè sau một đêm không ngủ, nàng vội giục hắn quay về phòng ngủ.

Đỗ Văn Hạo đồng ý với Vũ Cầm. Hắn muốn thừa dịp bệnh tình Chiêm mẫu tạm thời ổn định, quay về ngủ, lấy lại sức để sau này còn ứng phó với các trường hợp khẩn cấp.

Nhưng hắn vừa chợp mắt được một lát thì nghe tiếng Anh Tử gọi dồn dập: “Thiếu gia! Không ổn rồi, lão thái thái sắp chết rồi!”

Đỗ Văn Hạo giật mình, hắn vội ngồi dậy, vừa đi giầy hắn vừa hỏi: “Chuyện gì xảy ra?”

“Mắt lão thái thái trắng dã, chỉ thở ra thôi!”

“Hả? Sao không nói sớm cho ta biết?”

“Vừa phát bệnh là nô tỳ chạy ngay đến thiếu gia” Anh Tử ủy khuất nói.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy rất nặng nề. Tại sao bệnh lại chuyển biến nhanh như thế? Ngay cả giầy cũng không kịp đi cho ngay ngắn, Đỗ Văn Hạo cứ để thế chạy trên tuyết tới phòng bệnh. Bàng Vũ Cầm vừa đấm lưng cho Chiêm mẫu vừa khóc.

Đỗ Văn Hạo thấy Chiêm mẫu bị kích động, môi thâm tím, hơi thở hổn hển, trán toát mồ hôi lạnh. Bắt mạch, xem lưỡi thì thấy mạch hư, chất lưỡi hồng, triệu chứng âm kiệt, dương thoát.

Không được rồi, đây là hội chứng suy hô hấp cấp tính.

Đỗ Văn Hạo thấy lòng trầm xuống. Hắn chắc chắn lúc trước Chiêm mẫu ho khan và nôn đã hít xuống phổi nhiều đờm, tạo nên viêm phổi, đến giờ mới phát tác.

Trong tình huống này, phương pháp cấp cứu hiệu quả nhất là thở oxi và điều căn bản phải là oxi tinh khiết. Nhưng vấn đề là bây giờ hắn lấy đâu ra oxi tinh khiết đây?

Trước tiên phải khôi phục hô hấp.

“Chuẩn bị phẫu thuật mở khí quản” Đỗ Văn Hạo vội kêu lên.

Bàng Vũ Cầm đã có kinh nghiệm giải phẫu nên nàng vội tiến hành công việc chuẩn bị, tẩy trùng thiết bị, gây tê cục bộ. Đỗ Văn Hạo dùng dao mổ mở khí quản, dùng banh kẹp mở rộng khí quản ra để nhét ống khí quản rồi hút ra được rất nhiều cục đờm, dịch vị dạ dày và dịch nôn mửa.

Sau khi luồn ống khí quản, mặc dù hô hấp của Chiễm mẫu dần trở lại bình thường nhưng nguy cơ tử vong vẫn chưa được loại trừ. Chiêm mẫu vẫn đang ở trong tình trạng hôn mê bất tỉnh. Rõ ràng viêm phổi đã ảnh hưởng tới chức năng của phổi. Nếu không tiếp tục sử dụng phương pháp điều trị tích cực, thì e rằng nguyên phẫu thuật mở khí quản cũng không cứu được Chiêm mẫu, bà ta sẽ chết vì chứng suy hô hấp.

Trung y có thể điều trị được chứng viêm phổi cấp tính không?

Trong đầu Đỗ Văn Hạo đã có sáu, bảy biện pháp cứu chữa của tây y. Hắn cố gắng làm cho mình tỉnh táo, tay hắn vỗ trán để làm bật ra ý tưởng.

Bệnh viêm phổi trong Trung y thuộc về bệnh “phế”, loại bệnh này Trung y dùng phương pháp điều trị thanh phế, thông khí, giải độc là chính.

Nghĩ về phổi, Đỗ Văn Hạo chợt nghĩ tới y thư của Y thánh Trương Trọng Cảnh (Kim quỹ yếu lược). Trong đó có nói khi phế chưa làm độc thì trị tả phế theo phương thuốc Đại tảo tả phế thang. Phế đã làm độc thì bài nùng giải độc, dùng phương Kết ngạch thang. Hơn nữa Trương Trọng Cảnh còn nói: “Phế mới viêm có thể cứu, phế hóa nùng thì tử” Vậy nên Đỗ Văn Hạo quyết định phải nhanh chữa trị.

Đơn thuốc này Đỗ Văn Hạo chưa từng dùng qua, bây giờ không còn cách nào khác nên hắn quyết định dùng thử. Nếu Y thánh đã viết thế chắc chắn là đúng. Nếu như có vần đề gì xảy ra thì chắc chắn do hắn chẩn đoán sai. Không thể đổ lỗi Y thánh viết sai được.

Đỗ Văn Hạo tự mình chạy đến dược phòng sắc thuốc rồi quay lại. Bàng Vũ Cầm nhận lấy rồi từ từ bón cho Chiêm mẫu.

Sự thật đã chứng minh sau nhiều lần sử dụng phương pháp này trong điều kiện thiếu thiết bị truyền tĩnh mạch, dường như rất hữu hiệu với Trung y cổ truyền. Chỉ cần sử dụng hợp lý thì sẽ không xuất hiện sự tắc ruột.

Bởi vì phát hiện kịp thời, dùng đúng phương thuốc, tình trạng viêm phổi cấp mới phát sinh đã bị áp chế, không trở nên nguy hiểm, không biến thành điều giống như Trương Trọng Cảnh đã nói: “Nùng hóa tử”.

Đến lúc tối trời, Chiêm mẫu dần tỉnh lại, môi đã bắt đầu mấp máy, hơi thở đã dần trở lại bình thường.

Phương thuốc đã có hiệu quả nên vẫn tiếp tục được dùng.

Đỗ Văn Hạo rất vui mừng. Hai lần cấp cứu đã chứng minh Trung y không phải chỉ có thể chữa bệnh từ từ mà còn có thể dùng trong các trường hợp cấp cứu.

Chương 137: Ám độ Trần thương.

Ngày ba mươi tết. Vì ai cũng muốn thức đón gi­ao thừa, lại thấy bệnh tình của Chiêm mẫu đã ổn định nên Lâm Thanh Đại, Tuyết Phi Nhi và Anh Tử đều đi ngủ để nửa đêm thức dậy đón gi­ao thừa.

Vào canh ba, chúng nữ thức dậy để chuẩn bị đón gi­ao thừa. Mọi người thấy bệnh của Chiêm mẫu đã ổn định, ai nấy đều rất vui vẻ đi chuẩn bị đón mừng năm mới.

Nửa đêm, cuối cùng thì gi­ao thừa cũng đã tới!

Xa xa truyền tới tiếng chuông chùa Tướng Quốc “đông…đông…đông…”

Gi­ao thừa đến, rất nhiều pháo hoa được bắn lên trời, bầu trời sáng rực, soi rõ các bông tuyết trắng đang rơi xuống. Âm thanh chào đón năm mới đinh tai nhức c nổi lên khắp nơi.

Bởi vì Phù Vân đường khá lớn nên các hộ vệ khẩn trương phân ra bốn phía. Chúng nữ và Đỗ Văn Hạo tập trung ở phòng Chiêm mẫu để chăm sóc bệnh nhân nên không gi­an trong trang viện rất yên tĩnh, bên ngoài thì có vẻ như cực kỳ náo nhiệt.

Chiêm mẫu bị tiếng chuông đón gi­ao thừa làm tỉnh dậy. Bà từ từ mở mắt, mấp máy môi định nói gì đó với Bàng Vũ Cầm. Nhưng khí quản của bà đã bị mở ra, không phát ra tiếng được, chỉ phát ra âm thanh khàn khàn, không hiểu là đang nói gì.

Bàng Vũ Cầm cố suy đoán, cuối cùng nàng cũng hiểu Chiêm mẫu muốn nói gì. Nàng vội đứng dậy mở cửa sổ ra để Chiêm mẫu có thể nhìn thấy bầu trời đầy pháo hoa.

Chiêm mẫu rất cao hứng. Bà cảm thấy bụng sôi lên sùng sục, rồi đột nhiên bà đánh hơi liên tục mấy cái nhưng âm thanh của nó đã bị tiếng pháo ầm ầm bên ngoài át đi.

Lúc trước Vũ Cầm đã nói chỉ cần bà đánh hơi là có thể lấy ống thông ở dạ dày ra. Bà thấy rất vui vẻ, muốn nói ra nhưng lại không thể nói thành lời.

Bàng Vũ Cầm nghĩ Chiêm mẫu muốn nói chuyện. Nàng vội cúi đầu hỏi: “Bà muốn nói gì?”

Chiêm mẫu cố sức dùng tay ra hiệu muốn viết. Bàng Vũ Cầm vội chạy đi lấy giấy bút đưa cho Chiêm mẫu. Chiêm mẫu run run viết mấy chữ: “Ta vừa đánh hơi”

Bàng Vũ Cầm vui vẻ nói: “Bà, vừa rồi bà thật sự đánh hơi rồi à?”

Chiêm mẫu gật đầu.

Bàng Vũ Cầm nói: “Tốt quá. Cháu sẽ rút ống thông dạ dày cho bà!” Nàng liền cầm lấy ống Nam qua đằng và từ từ rút ra.

Ống thông dạ dày vừa rút ra Chiêm mẫu thấy rất thoải mái. Lúc này Chiêm mẫu thấy bây giờ là cảm giác tuyệt vời nhất trên đời. Chiêm mẫu há mồm muốn nói cám ơn. Nhưng khí từ yết hầu thoát ra ngoài không thể phát thành tiếng.

Đỗ Văn Hạo bảo Bàng Vũ Cầm lấy thuốc tẩy trùng bôi lên bàn tay Chiêm mẫu để tẩy trùng, sau đó lấy một cái khăn đã qua tiệt trùng đặt che lỗ mở khí quản, dùng băng gạc đã qua tẩy trùng băng quanh cái khăn lại. Hắn bảo Chiêm mẫu khi muốn nói chuyện thì dùng tay ấn vào miếng băng gạc là có thể nói được.

Chiêm mẫu ấn tay vào miếng gạc, phát ra tiếng nói khàn khàn: “Cám ơn…” Quả nhiên phát ra tiếng nói, Chiêm mẫu vui mừng nói tiếp câu cám ơn.

Nước tiểu của Chiêm mẫu thải ra vẫn bình thường nên Đỗ Văn Hạo bảo Bàng Vũ Cầm rút ống thông tiểu ra, nhưng ống dẫn lưu ở bụng vẫn chưa rút được. Nhưng sau khi rút hai cái ống khó chịu đó ra cũng làm cho Chiêm mẫu cảm thấy thoải mái.

Bàng Vũ Cầm mang đến cho Chiêm mẫu một cái đệm gối để bà dựa vào đó nằm nghiêng, thoải mái xem cảnh bắn pháo hoa bên ngoài.

Dưới bếp đã chuẩn bị xong bữa tiệc mừng năm mới. Vì Chiêm mẫu đã đánh hơi nên có thể ăn một ít, Bàng Vũ Cầm đề nghị mang thức ăn vào trong phòng bệnh để tất cả cùng nhau đón chào năm mới.

Bên ngoài trời, pháo hoa liên tục được bắn lên. Ở thời Tống đương nhiên pháo hoa không đa dạng so với thời hiện đại nhưng lễ đón mừng năm mới náo nhiệt hơn thời hiện đại rất nhiều. Khắp toàn thành đều vang lên tiếng pháo, tiếng cười nói, tiếng hoan hô, cực kỳ náo nhiệt.

Bởi vì không biết liệu Chiêm mẫu có biến chứng gì không nên Đỗ Văn Hạo không dám uống rượu. Chúng nữ hiển nhiên dùng trà thay rượu. Tất cả vui vẻ chúc tụng nhau.

Sau khi ăn cơm xong, Tuyết Phi Nhi vẫn còn tính trẻ con. Nàng thấy bệnh tình của Chiêm mẫu đã ổn định, liền đi lấy pháo hoa đã mua lúc ban ngày đem ra sân đốt chào mừng năm mới.

Sau khi đốt hết pháo hoa, Lâm Thanh Đại bảo Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm đi ngủ.

Bàng Vũ Cầm nói nàng không muốn ngủ vào đêm gi­ao thừa. Đỗ Văn Hạo đương nhiên cũng không muốn ngủ một mình nên mọi người lại ngồi nói chuyện phiếm cùng nhau.

Cho tới nửa đêm Đỗ Văn Hạo không trụ được nữa hắn gối đầu lên đùi của Bàng Vũ Cầm ngủ thiếp đi. Lúc này bên ngoài chiêng trống đã nổi vang trời. Đêm gi­ao thừa ngoài phố có hội hoa đăng. Nhưng Đỗ Văn Hạo thực sự rất mệt, âm thanh huyên náo như vậy cũng không làm cho hắn tỉnh dậy.

Tuyết Phi Nhi và Anh Tử thích náo nhiệt, cả hai kéo Lâm Thanh Đại ra ngoài cửa xem hoa đăng. Trong phòng chỉ còn Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm.

Bàng Vũ Cầm âu yếm nhìn phu quân đang ngủ thiếp đi trên đùi mình, trong lòng tràn ngập cảm xúc yêu thương. Nàng nhớ tới việc hai người thành thân, nãi nãi, phụ mẫu vẫn chưa biết. Nàng cũng không biết giờ phút này bọn họ có mạnh khỏe hay không. Nghĩ tới đó nàng cảm thấy chua xót trong lòng.

Chiêm mẫu nhìn nàng. Bà lấy miếng gạc chặn ngang yết hầu nói với Bàng Vũ Cầm: “Cô nương, đang nhớ nhà à?”

Bàng Vũ Cầm miễn cưỡng cười gật đầu.

“Cháu có thể nói cho bà biết cháu là người ở đâu không?”

Bàng Vũ Cầm nói: “Xin lỗi bà, cháu không thể nói!”

Chiêm mẫu nói: “Bà thấy cháu cũng là một khuê nữ. Cha cháu cũng làm quan triều đình à?”

Bàng Vũ Cầm do dự một lát rồi gật đầu.

“Ồ, lúc trước bà nghe con trai bà cầu phu quân của cháu cứu bà. Bà chỉ biết phu quân cháu là một ẩn sĩ không muốn gặp người ngoài nên mọi người mới che mặt”.

“Đúng vậy, xin lỗi bà”.

“Không sao. Trên đời phàm là người có bản lãnh dường như đều là người thanh cao. Cháu, phu quân cháu, và mấy cô nương kia rất tốt với bà. Nhất là cháu đối xử với bà còn hơn cháu gái của bà nữa. Lúc trước nhìn tay cháu bà rất cảm động. Bà đã cào tay cháu nát bét như thế mà cháu vẫn không buông, cứ để cho bà cào. Tình cảm này, bà…, bà biết báo đáp thế nào đây?”

Bàng Vũ Cầm cười nói: “Bà không cần khách sáo.”

Chiêm mẫu nghẹn ngào nói: “Đêm nay bà đã nghĩ rằng mạng của bà do các cháu cứu. Bà phải báo đáp các cháu. Con bà là Khảo công ti lang trung, nó trông coi việc sát hạch quan lại. Tướng công của cháu cứu mạng bà, y thuật như thần. Bà nghĩ khi bà trở về bà sẽ bảo nó đề cử tướng công cháu đến Hàn lâm y quan cục hoặc là thái y viện nhậm chức, được không?”

Bàng Vũ Cầm nói: “Tướng công cháu muốn sống ẩn cư, không muốn ra ngoài làm quan. Chúng cháu cám ơn ý tốt của bà!”

“Như vậy…” Chiêm mẫu gật đầu, bà suy nghĩ một lát rồi nói: “Nếu cháu tin tưởng bà, nhân lúc không ai ở đây, phu quân cháu đang ngủ, cháu hãy nói chuyện của phụ thân cháu cho bà. Bà sẽ bảo con bà điều cha cháu về làm quan ở kinh thành. Lúc đó phụ tử có thể được đoàn tụ!”

Nghe xong Bàng Vũ Cầm vừa mừng vừa sợ: “Thật ư?”

“Đương nhiên là đúng. Việc cỏn con đó con trai của bà có thể làm được!”

Nhưng Bàng Vũ Cầm lắc đầu nói: “Cám ơn bà, nhưng không được. Chúng cháu không thể cho phụ mẫu và nãi nãi biết chúng cháu đang ở kinh thành!”

Chiêm mẫu ngạc nhiên nói: “Chẳng lẽ các cháu cùng nhau bỏ trốn tới kinh thành thành thân? Đừng sợ, bà sẽ nói với phụ mẫu và nãi nãi cháu, phu quân cháu là người tốt, người như thế không xứng làm chồng thì còn gả cho ai được nữa? Yên tâm đi, có bà làm chủ cho cháu. Cháu không phải sợ gì cả!”

“Cám ơn bà. Không phải chúng cháu trốn đến đây. Phụ mẫu và nãi nãi cháu đã hứa gả cháu cho phu quân. Nhưng bây giờ cháu không thể cho họ biết chúng cháu đang ở kinh thành được. Xin thứ lỗi cho cháu không thể nói nguyên nhân được!”

“Ồ, vậy bà không hỏi lý do nữa. Nhưng cháu yên tâm đi. Cháu cứ nói cho bà biết chuyện của phụ thân cháu. Bà hứa sẽ không nói cho bất kỳ ai biết, kể cả con của bà. Bà chỉ bảo nó chuyển cha cháu về làm quan ở kinh thành là được. Bà cũng không nói cho nó biết nguyên nhân. Sau này khi phụ mẫu cháu đến kinh thành, bà cũng không nói cho bọn họ biết chuyện của cháu. Bà biết các cháu không muốn người khác quấy rầy mình. Phụ mẫu, nãi nãi cháu ở kinh thành, cuộc sống của họ ra sao cháu đều biết được, cháu có thể lén đến nhìn họ. Sau này các cháu không ẩn cư nữa. Mọi người lại có thể sum họp một nhà, đúng không?”

Bàng Vũ Cầm mừng rỡ, nàng gật đầu nói: “Vậy tốt quá. Cháu rất cám ơn bà. Chuyển phụ thân cháu về kinh thành sẽ tốn rất nhiều tiền. Hết bao nhiêu tiền cháu sẽ đưa cho bà.”

“Nhìn cháu kìa! Phu thê cháu đã cứu cái mạng già của bà. Bao nhiêu tiền cũng không mua được. Bà lại vừa bắt cháu gọi bà là nãi nãi, giờ giúp cháu lại lấy tiền của cháu thì ta có xứng làm người không. Bà nói thật với cháu con bà rất có hiếu với bà. Cháu cứ an tâm, bà sẽ lo chuyện này cho cháu”.

Bàng Vũ Cầm rất cảm kích. Nàng khe khẽ kể về phụ thân mình cho Chiêm mẫu nghe.

Sau cùng nàng nói: “Lúc nãy đốt pháo hoa ở bên ngoài là muội muội kết nghĩa với tướng công của cháu, cũng là hảo tỷ muội của cháu. Muội ấy ẩn cư cùng phu thê cháu. Phụ thân muội ấy ở Đống Đạt huyện có một khách điếm gọi là “Hằng Tường khách điếm”, bà có thể tìm cách nào để bọn họ cùng nhau chuyển đến kinh thành không?”

Chiêm mẫu suy nghĩ một lát rồi nói: “Cái này hơi khó. Khảo công ti lang trung không quản lý việc buôn bán, nhưng bà có thể tìm người quen rồi cho người tìm ông ấy tới kinh thành cùng góp vốn làm ăn. Yên tâm đi, bà nhất định sẽ làm được!”

Một lát sau mấy người Lâm Thanh Đại quay về. Họ vẫn còn cao hứng nên đem tiếp pháo hoa ra sân đốt, tiếng ồn ào làm cho Đỗ Văn Hạo tỉnh dậy. Ngày hôm sau là tết, mọi người vui chơi đến tảng sáng mới quay về phòng ngủ.

Ngày hôm nay là mồng một tết. Đỗ Văn Hạo chỉ chợp mắt một lát rồi tỉnh lại. Hắn nhớ tới tình trạng của Chiêm mẫu, lại không thấy Vũ Cầm ở bên cạnh. Hắn vội đứng dậy đi tới phòng bệnh của Chiêm mẫu. Lúc này Bàng Vũ Cầm đang cho Chiêm mẫu uống nước nhân sâm. Nàng nhìn thấy Đỗ Văn Hạo liền cười hỏi: “Tướng công, sao chàng ngủ ít vậy?”

“Vì nàng không ngủ bên cạnh ta!”

Bàng Vũ Cầm đỏ mặt. Nàng cúi đầu gắt lên: “Chiêm thái thái đang ở đây này.”

Chiêm mẫu cũng cười, bà dùng miếng băng gạc chặn ngang yết hầu nói: “Không cần để ý đến bà. Ta giống như nãi nãi của hai người thôi. Cứ coi như bà không ở đây là được!”

Đỗ Văn Hạo cũng thấy bối rối. Hắn quay sang hỏi Chiêm mẫu về tình trạng cơ thể, kiểm tra ống dẫn khí, bắt mạch, xem lưỡi. Sau khi nhận thấy tính mạng của Chiêm mẫu không còn bị đe dọa hắn mới yên tâm.

Chương 138: Trúng độc Phụ tử.

Các dược đường Trung y không đóng cửa ăn tết, nhưng mấy ngày tết đại phu không tọa đường khám bệnh, chỉ có trường hợp cấp cứu mới cần đến đại phu. Những người bệnh nhẹ không đến khám bệnh vào ngày ba mươi tết hoặc ngày mùng một. Họ không chỉ sợ ảnh hưởng đến việc ăn tết của đại phu mà còn sợ phải chịu một năm không may mắn.

Việc mua trang bị phòng dịch và bột tam thất của Cao tướng quân vẫn được tiến hành theo đúng như kế hoạch. Đối với Kim sang dược bột tam thất bên quân dược chuyển nguyên liệu đến, Đỗ Văn Hạo chỉ việc nghiền thành bột và đóng vào bình. Vì vậy đơn đặt mua một vạn bình bột tam thất của Cao tướng quân chưa hết năm đã bàn gi­ao toàn bộ. Cao tướng quân lại vừa phái người đến đặt hàng lần thứ hai, vẫn là một vạn bình.

Việc chế tạo y phục cách ly và mặt nạ phòng độc rất thuận lợi. Mỗi một đợt trang bị làm xong, Binh bộ đều bí mật phái người đến chở đi. Đỗ Văn Hạo không biết cuộc chiến vi khuẩn với Tây Hạ tiến triển ra sao, Cao tướng quân không thông báo cho hắn, mà hắn cũng không tìm hiểu.

Đỗ Văn Hạo đang cùng Bàng Vũ Cầm nói chuyện với Chiêm mẫu thì Anh Tử chạy vào nói: “Thiếu gia, tiểu nhị ngoài tiền đường nói có bệnh nhân nặng, hắn hỏi thiếu gia có xem bệnh không?”

“Xem! Bệnh nặng thì phải xem! Xảy ra chuyện gì?”

“Nô tỳ không rõ lắm”.

Đỗ Văn Hạo vừa nghe nói liền bảo Tuyết Phi Nhi đến chăm sóc Chiêm mẫu còn hắn vội vã cùng Bàng Vũ Cầm chạy ra tiền đường. Đội trưởng đội hộ vệ Hô Duyên Trung luôn theo sát Đỗ Văn Hạo cũng ra đó. Ở tiền đường có hai tiểu tử đang đỡ một lão hán ngồi ở ghế. Đỗ Văn Hạo vội hỏi: “Ta là đại phu tọa đường. Ngươi bị bệnh gì vậy?”

Đứa lớn trong hai tiểu tử nói: “Nhà chúng cháu ở góc phố phía trước. Sáng nay phụ thân cháu khó thở, chân tay tê cứng, sau đó nôn mửa. Chúng cháu cứ tưởng tối hôm qua thức khuya bị cảm lạnh nên không để ý. Không ngờ sau một lúc hai mắt phụ thân cháu trợn ngược. Chúng cháu vội đưa đến đây. Đại phu, ngài xem bệnh cho phụ thân cháu đi”.

“Đỡ ông ấy nằm xuống”.

Sau khi lão hán nằm xuống Đỗ Văn Hạo hỏi: “Lão nhân gia, người bị làm sao?”

“Tê cứng…chân tay. Toàn thân tê cứng…”.

“Toàn thân tê cứng? Đỗ Văn Hạo rùng mình. Hắn hỏi lại: “Còn bị sao nữa?”

“Khó thở…Rất buồn bực, nóng như lửa đốt. Lại buồn nôn nữa…” Nói tới đây lão hán bắt đầu ậm ọe muốn nôn ra. Hai đứa con ông ta vội đỡ ông ta dậy.” Ọa’ một tiếng, lão hán nôn ra một ít dịch đờm dạng bọt biển lẫn thức ăn chưa tiêu hóa hết, thịt, cơm.

Sau khi bắt mạch, xem lưỡi, Đỗ Văn Hạo trầm ngâm suy nghĩ: Nôn mửa, toàn thân tê cứng, bụng nóng như lửa đốt, phản ứng này của dạ dày có thể do trúng độc cấp tính.

Đỗ Văn Hạo hỏi lại: “Triệu chứng xảy ra từ lúc nào?”

“Từ lúc ngủ dậy”.

“Sau khi ngủ dậy ngươi có ăn gì không?”

“Có uống canh gà và ăn mấy miếng thịt gà”.

“Từ lúc nào?”

Lão hán lại bắt đầu nôn ra. Người con trả lời thay: “Chúng cháu thức đón gi­ao thừa đến tận bình minh. Từ bình minh đến giờ mới hết một canh giờ”.

Nếu là ngộ độc thức ăn, đến giờ vẫn chưa quá một canh giờ, dạ dày vẫn chưa kịp tiêu hóa. Đỗ Văn Hạo hỏi lại: “Có ăn hoặc uống cái gì khác nữa không?”

Người con trai nói: “Không ăn gì khác. Chuyện gì xảy ra vậy? Có phải do con gà không? Sức khỏe phụ thân cháu không tốt, sáng sớm nay làm thịt một con gà mái cho phụ thân bồi bổ sức khỏe. Sao lại xảy ra chuyện này cơ chứ?”

“Vẫn chưa biết nguyên nhân có phải là từ con gà không. Một trong hai người các ngươi quay về nhà bưng nồi thịt gà lại đây cho ta xem qua một chút”.

Sau đó Đỗ Văn Hạo bảo Bàng Vũ Cầm đi chuẩn bị một thùng nước muối. Đỗ Văn Hạo bảo người con còn lại của lão hán đổ nước muối cho lão hán uống. Sau khi uống hết mấy bát to nước muối, lão hán bắt đầu nôn ọe, trong dạ dày có gì lại nôn ra hết. Sau đó lại tiếp tục uống.

Lúc này người con lão hán đã chạy về bưng nồi thịt gà quay lại, để trên mặt đất.

Đỗ Văn Hạo ngồi xổm, hắn dùng đôi đũa gẩy nhẹ thịt gà trong nồi. Đột nhiên mắt hắn sáng lên. Hắn gắp từ trong nồi ra một viên thuốc: “Đây là cái gì vậy?” Hắn đưa viên thuốc vào môi rồi liếm thử, hắn nhíu mày nhổ xuống đất rồi hỏi: “Phụ phiến?”

Người con lớn của lão hán nói: “Đúng vậy phụ thân cháu bị mắc bệnh thấp khớp rất nặng. Đại phu kê cho một đơn thuốc. Ông ấy nói nấu Phụ phiến cùng với một con gà thì có thể chữa được chứng ôn tán hàn thấp”.

Đỗ Văn Hạo lại tìm trong nồi, hắn tìm ra được mấy miếng Phụ phiến nữa. Hắn thở dài nói: “Không được nấu Phụ tử với thịt gà như thế này. Phụ tử rất độc. Nếu như pha chế không đúng cách thì chỉ cần mấy mảnh nhỏ cũng đủ lấy mạng người. Các ngươi làm ăn xằng bậy như thế, trúng độc là đương nhiên”. (Phụ tử là một loại củ)

Người con nóng nảy hỏi: “Đại phu, vậy phải làm gì bây giờ?”

“Yên tâm, phụ thân ngươi trúng độc cũng không nặng lắm, hơn nữa lại phát hiện kịp thời. Ta trước tiên làm cho ông ấy nôn ra sau dùng Sanh khương, Cam thảo, Khố tham giải độc. Không có chuyện gì đâu”.

Hai người con trai vội cuống quýt khom người tạ ơn.

Đỗ Văn Hạo cầm bút viết đơn thuốc rồi gi­ao cho hộ vệ làm tiểu nhị lấy thuốc. Trong lúc chờ sắc thuốc, lão hán nọ đã uống hết một thùng nước muối để rửa sạch dạ dày và ruột. Sau đó Đỗ Văn Hạo lại cho lão hán uống hết một chén thuốc rồi hắn bảo lão hán nằm yên trên giường để hắn theo dõi.

Rửa ruột làm cho triệu chứng tê cứng giảm bớt. Sau khi uống thuốc cảm giác tê cứng hoàn toàn biến mất. Mạch đập khôi phục lại bình thường. Các triệu chứng hoàn toàn biến mất, thần trí cũng khôi phục bình thường.

Hai người con trả tiền, nói cám ơn và dìu phụ thân ra về.

Bàng Vũ Cầm hỏi: “Tướng công, phụ tử nguy hiểm như vậy, tại sao còn dùng nó làm thuốc?”

“Dược liệu đa phần đều có độc. Nhưng dù là độc dược hạng nhất thì cũng có tác dụng. Ví dụ như Xuyên ô, Mã tiền tử, Thảo ô cũng là loại kịch độc, nhưng rất nhiều phương thuốc phải dùng đến chúng, không thể thiếu được. Vấn đề quan trong là bài từ độc tính của nó như thế nào. Chúng có thể được dùng trong các bệnh nặng rất hiệu quả”.

Bệnh tình của Chiêm mẫu đã ổn định. Đỗ Văn Hạo không có nhiều việc nên hắn ngồi ở tiền đường đọc y thư.

Đầu năm mới nếu không phải là bệnh nặng thì không ai đến khám bệnh, mọi người rất nhàn nhã. Hai hộ vệ tiểu nhị ngồi lơ đãng sau quầy thuốc. Bàng Vũ Cầm ngồi bên cạnh Đỗ Văn Hạo cùng hắn sưởi ấm, may cho Đỗ Văn Hạo chiếc áo choàng lông thú.

Đội trưởng đội hộ vệ Hô Duyên Trung không ngồi sưởi ấm, ông ta ngồi ở ghế bên cạnh, hai tay khoanh trước ngực, hai mắt nhắm lại như ngủ gật. Nếu để ý quan sát thì sẽ thấy mỗi khi có người dừng lại hoặc hỏi thăm trước cửa, đôi mắt híp của ông ta lại hiện lên tinh quang.

Trên đường phố, người đi lại đông đúc. Người lớn, trẻ nhỏ mặc quần áo mới đi chúc tết người thân, bằng hữu. Mấy người Đỗ Văn Hạo mới đến đây, lại ẩn cư nên không có bằng hữu đến chúc tết.

Đỗ Văn Hạo đang chăm chú xem y thư thì chợt nghe tiếng hỗn loạn ngoài phố, âm thanh hò hét của một nam tử truyền tới. Người trên phố đều kêu lên: “Người điên! Người điên! Tránh ra đi! “.

Bàng Vũ Cầm hoảng sợ, buông tấm áo xuống. Nàng ôm chặt tay Đỗ Văn Hạo nhìn ra cửa với vẻ căng thẳng.

Một tiểu tử khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, vóc người gầy gò, ốm yếu, trên người mặc độc một cái khố, thân trên ở trần, hai cánh tay gầy vung vẩy. Nó chạy đến trước cửa dược đường thì đột nhiên dừng lại, miệng nói làu nhàu cái gì đó, mắt liếc vào trong dược đường một cái rồi nó cười hì hì, đôi chân trần giẫm lên phiến đá lát đường màu xanh đi vào bên trong đường.

Thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung thoáng chốc đã lắc người đứng chắn trước tiểu tử gầy gò kia, hai tay hắn gi­ang ra: “Không được vào! Về nhà đi! Đừng chạy lọan trên phố nữa! “.

Tiểu tử nọ chỉ tay vào Hô Duyên Trung cười khúc khích rồi nó quay người vừa chạy vừa nhảy dọc theo phố. Vừa chạy được mấy bước, nó vô tình giẫm lên một miếng băng, trượt chân ngã sõng soài xuống mặt đường, tứ chi hướng lên trời, đầu đập xuống đất ngất đi.

Người đi lại trên phố quây lại xem, thì thào bàn tán, chỉ trỏ xem náo nhiệt.

Đỗ Văn Hạo nghe động tĩnh ồn ào bên ngoài liền bước ra cửa xem.

Hắn thấy tiểu tử điên ngã bất tỉnh vội vàng chạy tới xem xét. Đỗ Văn Hạo thấy nó đã ngất xỉu. Hắn vừa xua tay đẩy dãn người ra vừa bắt mạch, chăm chú nghe mạch rồi trầm giọng nói: “Nó bị ngã không việc gì nhưng bệnh điên của nó thì hết sức nguy hiểm. Chỉ sợ…” Đỗ Văn Hạo quay đầu nói với Bàng Vũ Cầm: “Nàng mau vào nhà lấy hộp thuốc ra đây”.

Hộp thuốc nhanh chóng được đưa đến. Đỗ Văn Hạo lấy kim châm và bông. Hắn bảo hai hộ vệ tiểu nhị đè tiểu tử điên, sau khi hắn châm kim vào các huyệt vị tương quan để tiêu độc, thì châm vào các huyệt tha túc lâm khấp, thần môn, nội quan và thái trùng để tâm thần thoải mái, an thần định chí.

Một lát sau tiểu tử điên tỉnh dậy, nó bò dậy muốn bỏ chạy. Đỗ Văn Hạo đè nó xuống và hỏi: “Nhà ngươi ở đâu. Người nhà đâu?”

“Nhà? Hì hì, nhà của ta? Hì hì ôi…hì hì, mẫu thân ta khóc! Hì hì…”

Đỗ Văn Hạo thấy tiểu tử nói rời rạc như vậy, nghĩ chắc không thể hỏi được người nhà của nó. Hắn liền quay sang hỏi những người hiếu kỳ đang vây quanh: “Có ai biết nhà của nó không? Bệnh của nó rất nặng, phải nhanh chóng chữa trị”.

Người vây xung quanh đều lắc đầu. Một người thợ đóng giầy ở đối diện với dược đường cúi đầu quan sát kỹ rồi cau mày nói: “Hình như nó là con của Phùng thẩm, tên là A Đại”.

“Ồ, vậy đại thúc có biết nhà của Phùng thẩm ở đâu không? Ai đó hãy chạy đi tìm người nhà của nó đi, bệnh của nó rất nặng”

Người thợ đóng giầy nói: “Nhà của nó ở cách đây mấy phố, nó chỉ còn có mỗi mẫu thân. Bây giờ mẫu thân nó chắc chắn đang đi nhặt rác, buổi tối mới về”.

Bàng Vũ Cầm nói chen vào: “Ôi bà mẹ này thiệt là. Sao lại yên tâm để đứa con điên loạn ở nhà một mình vậy? Nó chạy lăng nhăng, nếu gặp phải chuyện gì thì hối hận không kịp”.

Người thợ đóng giầy nghiêng đầu suy nghĩ rồi nói: “Không nghe nói A Đại bị điên bao giờ. Bình thường ta hay gặp nó đi theo mẫu thân đi nhặt rác ngoài phố. Lúc trước ta có nghe nói nó hay bị đau bụng. Sao hôm nay lại bị điên thế? Chẳng lẽ bệnh này làm cho điên khùng? Hắn đưa tay vỗ vỗ vào má A Đại: “A Đại! A Đại, cháu làm sao vậy?”

A Đại không trả lời câu hỏi, nó chỉ nói: “Cháu muốn uống nước”.

Người thợ đóng giầy mang nước từ bên cửa hàng của mình đến: “Nước đây, uống đi! “.

A Đại uống một ngụm nước rồi lại ói ra. Nó thở hổn hển nói: “Lạnh quá, cháu muốn uống nước nóng”.

“Trong đường có nước nóng!” Đỗ Văn Hạo nói với người thợ đóng giầy: “Phiền ngươi đi tìm mẫu thân của nó, nói với mẫu thân nó một tiếng rằng con bà ấy đang ở Phù Vân đường, bệnh rất nặng. Ta đang xem bệnh cho nó. Bệnh của nó không thể trì hoãn được”.

“Được, được! Ta thay mặt mẫu thân của nó đa tạ đại phu. Ta lập tức bảo người đi tìm mẫu thân của nó! “.

Đỗ Văn Hạo gật đầu rồi nói với Hô Duyên Trung: “Đem nó vào trong đường”.

Tiểu nhị hộ vệ ở bên cạnh cõng A Đại trên lưng đi vào trong Phù Vân đường, đặt nó nằm trên giường.

Chương 139: Người đàn bà chanh chua.

Cầm Tiên chạy đi lấy một cái áo khoác bông đưa cho A Đại mặc vào. A Đại cầm chén thuốc uống hai ngụm lại lắc đầu bỏ xuống.

Đỗ Văn Hạo ngồi cạnh giường hỏi: “Cháu bị làm sao?”

A Đại ôm bụng: “Đau bụng, đau như bị dao cắt ấy.”

“Đầu có đau không? Có buồn nôn không?”

A Đại lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo suy nghĩ thấy rõ ràng cú ngã lúc trước không gây nên chấn thương sọ não. Hắn đưa tay sờ trán A Đại, hơi nóng. Hắn lại chăm chú bắt mạch.

Bàng Vũ Cầm ít khi nhìn thấy Đỗ Văn Hạo bắt mạch tới ba lần cho bệnh nhân nên nàng biết bệnh của thiếu niên này rất nặng, nàng không dám hỏi nhiều, sợ ảnh hưởng tới hắn.

Lát sau Đỗ Văn Hạo buông tay A Đại ra rồi nói với Bàng Vũ Cầm: “Cậu bé mạch trầm không có lực, đầu lưỡi đỏ và khô khan nhưng miệng không thiếu nước, hợp với đồ uống ấm, thở mạnh nhưng lại ngắn hơi, tứ chi lạnh ngắt không có cảm giác, là hiện tượng bạo thoát! Phải lập tức dùng ‘tứ nghịch thang’ thêm vào nhục quế, nếu không đứa bé này sẽ nguy hiểm tới tính mạng! Nhưng thành viên trong gia đình nó không tới, làm sao bây giờ?”

“Tướng công, hay là khoan hãy cứu chữa, chờ người nhà của nó đến để giải thích cho họ đã.”

“Cũng được. Dù sao thuốc này chuẩn bị cũng lâu. Cứ chuẩn bị trước đi.”

Đỗ Văn Hạo tới trước bàn viết một đơn thuốc. Tiểu nhị trông coi quầy hàng vội vàng cầm lấy đi lấy thuốc, gói sẵn đợi mẫu thân A Đại đến là gi­ao cho nàng ta mang về nhà sắc cho A Đại uống.

Tiểu nhị phụ trách quầy thuốc tên là Thành Kim. Mấy năm trước hắn cũng học qua y thuật. Hắn nhận đơn thuốc, nhìn qua lập tức hoảng sợ. Hắn vội cầm đơn thuốc chui ra khỏi quầy, ngượng ngùng hỏi Đỗ Văn Hạo: “Thiếu gia, có phải ngài viết sai đơn thuốc không?”

“Viết sai chỗ nào?”

“Chỗ này!” Thành Kim chỉ vào đơn thuốc: “Phụ phiến chín tiền viết thành mười tám! Ha ha.”

Đỗ Văn Hạo nhìn lướt qua: “Không sai! Là mười tám.”

Thành Kim trợn mắt, há hốc mồm: “Phụ phiến mười tám?” Hắn quay đầu nhìn tiểu nhị kia rồi lại quay đầu nhìn Đỗ Văn Hạo: “Thiếu gia. Phụ phiến là dược liệu rất độc, bình thường chỉ dùng bốn, năm tiền. Chín tiền cũng đã vượt qua liều lượng bình thường. Ngài dùng mười tám tiền…, ha ha. Ngài đang giỡn chơi đấy chứ?”

“Không giỡn đâu! Mau đi lấy thuốc! Đứa bé này bệnh rất nặng, có thể mất mạng bất kỳ lúc nào. Sau khi gói thuốc xong hãy mang tới cho ta một thang. Ta tự tay sẽ sắc thuốc cho nó uống. Những thang khác chờ khi mẫu thân nó tới thì gi­ao cho nàng ta về nhà sắc. Mau đi.”

“Ồ!” Thành Kim không hiểu nổi nhưng Đỗ Văn Hạo đã nói kê đơn không sai, hắn chỉ còn biết bốc thuốc theo đơn. Hai thang hắn đặt trên quầy, một thang khác hắn đưa cho Đỗ Văn Hạo để hắn tự sắc thuốc.

Thời gi­an sắc thuốc rất lâu. Đỗ Văn Hạo dùng châm cứu để khống chế bệnh của A Đại rồi hắn ngồi ở tiền đường sưởi ấm, đọc y thư chờ mẫu thân của A Đại đến. A Đại có vẻ như rất mệt, nó nằm trên giường nhắm mắt ngủ.

Đến tận giữa trưa, thuốc đã sắc xong mà mẫu thân của A Đại vẫn chưa đến.

Đỗ Văn Hạo lại bắt mạch cho A Đại. Hắn phát hiện chứng thoát dương của A Đại tiếp tục ác hóa, không thể đợi được nữa, hắn liền quyết định cho A Đại uống thuốc.

Đỗ Văn Hạo vừa bưng bát thuốc đưa cho Bàng Vũ Cầm để nàng nếm thử xem thuốc đã nguội chưa còn cho A Đại uống thuốc thì nghe bên ngoài có tiếng kêu lên: “A Đại! Con ở đâu? A Đại! “.

Người thợ đóng giày ở ngoài cửa vội nói: “Phùng Thẩm, vừa rồi A Đại ngã sấp mặt xuống đất. Đại phu của Phù Vân đường đã xem bệnh cho nó. Ông ấy nói bệnh của nó rất nặng nên đã đưa vào trong, chắc giờ đang chữa trị cho nó.”

Ngay sau đó một phu nhân khô gầy chạy vào trong dược đường. Nhìn thấy con mình nằm trên giường nàng ta vội tiến đến đẩy mạnh Bàng Vũ Cầm đang bưng chén thuốc. Bàng Vũ Cầm lảo đảo suýt ngã sấp xuống, chén thuốc trong tay nàng đổ mất một nửa.

Phu nhân the thé kêu lên: “Các ngươi làm gì con của ta vậy? A Đại! Đừng sợ! Có mẫu thân ở đây!” Nói rồi phu nhân vội chạy tới ôm lấy A Đại.

Đỗ Văn Hạo vội đỡ lấy Bàng Vũ Cầm. Hắn giận dữ nói: “Sao ngươi không biết đạo lý gì hết? Con trai ngươi bị ngã ở bên ngoài. Chúng ta có lòng tốt đưa nó vào trong này, mặc áo bông cho nó, ngươi lại suýt đẩy ngã phu nhân của ta. Ngươi có lương tâm không hả?”

“Ngươi nói cái gì? Ai bảo con ta ngã? Con ta khỏe mạnh như thế làm sao ngã được? Nhất định các ngươi đẩy nó ngã, lại còn giả bộ làm người tốt!” Giọng nói của phu nhân rất trơn tru, thanh âm lại lanh lảnh. Nàng ta liếc nhìn A Đại đang nằm ngủ trong chiếc áo bông rồi nhíu mày nói: “Ai bảo cái áo bông này của các ngươi? Rõ ràng là của con ta. Ta mua cho nó để mặc vào ngày tết. Sao? Muốn ăn cướp hả? Ông trời ơi…, ăn cướp…, cứu mạng…Các ngươi thật không biết xấu hổ, khi dễ ta là cô nhi quả phụ…!”

Phùng thị gào khóc, giọng the thé, hai bàn tay khô cố gắn chà xát quanh mi mắt nhưng không có giọt nước mắt nào chảy ra.

Nhưng nghe tiếng nàng ta gào lên, không ít người vây quanh cửa đứng xem náo nhiệt.

Mặt Bàng Vũ Cầm tái nhợt, nàng nói: “Tướng công, cho nó cái áo bông đi.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Được rồi, đừng gào nữa, các ngươi đi đi”.

“Đi? Các ngươi hại con ta như thế này, giờ lại đuổi chúng ta đi à? Ông trời ơi…! Khi dễ cô nhi quả phụ chúng ta…! Ông trời không có mắt…!”

Đỗ Văn Hạo cười khổ, hắn không ngờ ở triều Tống cũng có nạn tống tiền. Hắn đã hiểu, đối phương chỉ muốn bạc. Người như vậy không thể động chân, động tay được. Cô nhi quả phụ dễ trở thành chuyện đàm tiếu của thiên hạ. Hắn quyết định đưa cho hai mẹ con ít bạc.

Nhưng hảo tâm như thế lại không được báo đáp, tâm lý của hắn có gì đó không cam lòng.

Lúc trước khi Đỗ Văn Hạo giúp đỡ A Đại, người thợ đóng giầy nhìn thấy hết, hắn cười nói: “Phùng Thẩm, ngươi hiểu lầm rồi, mới rồi A Đại giẫm lên băng nên bị trượt ngã xuống. Lúc đó ta ở gần nên nhìn thấy hết.”

“Ngươi thấy cái gì? Ngươi đứng ở đâu mà thấy? Ngươi nhìn thấy bọn chúng đẩy ngã con ta à? Nói thẳng ngươi là kẻ đồng lõa. Ngươi làm chứng man cho chúng à?”

Người thợ đóng giầy càng hoảng sợ, hắn cố gắng khuyên can: “Phùng Thẩm, ngươi hiểu nhầm bọn họ rồi. Ngươi xem họ có ý tốt chữa bệnh cho A Đại, nhìn xem đây là chén thuốc họ chuẩn bị cho A Đại uống.”

Phùng thị liếc mắt nhìn chén thuốc trong tay Bàng Vũ Cầm rồi đưa tay nhận chén thuốc, cất giọng the thé nói: “Bọn họ làm con ta ngã đương nhiên phải chữa trị cho nó. Đừng hy vọng ta trả tiền thuốc. Thuốc này cũng đổ mất hơn một nửa, nhanh đi lấy chén khác! Mà thôi, để tự ta đi!” Nàng ngửi thấy mùi thuốc ở phòng thuốc bên cạnh, bên trong chỉ có một nồi thuốc đang sắc cạn, quay đầu hỏi: “Có phải thuốc này hay không?”

Bàng Vũ Cầm tái nhợt, gật đầu.

Phùng thị cầm chén thuốc còn hơn một nửa bưng đến trước mặt A Đại: “A Đại, con uống thuốc đi, ngoan nào!”

A Đại bưng chén thuốc, cất giọng yếu ớt nói: “Mẫu thân, con tự ngã. Đại phu…”

“Đừng nhiều chuyện. Mau uống thuốc đi. Có chuyện gì để mẫu thân lo. Mau uống thuốc đi.”

A Đại ngửa cổ uống một hơi hết chén thuốc.

Phùng Thẩm cầm chén đặt sang bên rồi lại cất giọng the thé nói: “Con ta bị các ngươi đẩy ngã. Các ngươi phải bồi thường bạc. Ta không phải là người tham lam. Vì các ngươi đã xem bệnh cho con ta nên ta chỉ cần mười xâu tiền đồng!”

Mười xâu tương đương với một vạn nhân dân tệ. Đòi bằng này tiền mà còn nói không có lòng tham. Đỗ Văn Hạo đang muốn nói lại mấy câu thì thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung đã lạnh lùng nói với Phùng thị: “Lấy cừu báo ân. Còn dám đòi tiền à? Ngươi không sợ bị cắt đầu lưỡi ư?”

“Ngươi nói cái gì?” Phùng thị chỉ vào Hô Duyên Trung quát lên: “Các ngươi khi dễ con ta, lại muốn khi dễ cả ta à? Ta liều mạng với các ngươi. Các ngươi thật không biết xấu hổ. Các ngươi muốn khi dễ cô nhi quả phụ phải không…?”

Ngón tay của Phùng thị nhanh như cắt vươn ra chạm vào mũi Hô Duyên Trung, Hô Duyên Trung nhíu mày, đưa tay điểm vào khuỷu tay nàng ta, lập tức cánh tay Phùng thị cùng nửa người cảm thấy tê rần.

Cái gạt tay vừa rồi đã chọc vào tổ ong vò vẽ. Tay còn lại của Phùng thị nâng cánh tay kia lên rồi nàng ta như heo bị chọc tiết chạy ra cửa dược đường, ngồi phệt xuống cửa, bù lu bù loa: “Ông trời ơi…, Đại phu Phù Vân Đường giết người…Hắc dược đường muốn giết cô nhi quả phụ chúng ta. Quân ăn thịt người. Cứu mạng”.

Lúc này bên ngoài cửa có rất nhiều người qua đường đứng lại xem náo nhiệt, chật kín cả cửa vào Phù Vân Đường.

Hô Duyên Trung dở khóc dở cười.

Nghe nói bên ngoài tiền đường có chuyện, Cổ quản gia từ phía sau chạy ra. Ông ta hỏi tiểu nhị hộ vệ nội tình sự việc rồi nói khẽ với Đỗ Văn Hạo: “Thiếu gia, chúng ta tuyệt không nên để người khác chú ý. Hay là chúng ta cứ trả tiền cho nàng ta, được không?”

Đỗ Văn Hạo bất đắc dĩ gật đầu.

Cổ quản gia lấy một thỏi bạc từ trong quầy ném trước mặt Phùng thị: “Đây là mười lạng bạc trắng. Mau dẫn con ngươi đi”.

Phùng thị kêu “cạp cạp” như con vịt bị người ta bóp cổ. Đang gào quàng quạc sắp khản cả cổ, nhìn thấy bạc trắng trên mặt đất, nàng ta hai mắt lóe sáng, đưa một cánh tay khô héo nhặt bạc nhét vào lòng.

Rồi Phùng thị đứng lên chạy đến định đỡ A Đại. Đang chạy, bỗng nhiên nàng ta đứng lại, quay người nói với mấy người Bàng Vũ Cầm: “A Đại nhà ta mấy hôm nay bị đau bụng táo bón. Đại phu đã xem bệnh và kê đơn cho nó. Bây giờ các ngươi làm nó bị thương, tiền thuốc này các ngươi phải trả cho nó coi như là bồi thường.” Phùng Thẩm rút từ trong người ra một đơn thuốc nhét vào tay Bàng Vũ Cầm: “Đây là đơn thuốc! Lấy mười một gói là được rồi!”

Gặp phải loại nữ nhân đanh đá này, Bàng Vũ Cầm tức giận đến run cả người. Đỗ Văn Hạo ôm vai Bàng Vũ Cầm, hắn cầm đơn thuốc rồi nhìn lướt qua, mày nhíu lại. Lát sau hắn nói với Phùng thị: “Đơn thuốc này kê không đúng bệnh. Đại phu đã chẩn lầm. Chỉ e với bệnh của A Đại uống thuốc này sẽ có vấn đề!”

“Ngươi nói cái gì?”

Cố quản gia khẽ nói: “Thiếu gia, đừng động vào bọn họ. Nếu gặp chuyện không may thì đó là bọn chúng gặp báo ứng”.

“Nàng ta đáng trách, nhưng đứa bé là người vô tội, chúng ta không thể thấy chết không cứu!” Đỗ Văn Hạo nhìn Phùng thị nói: “Nhìn đứa con đáng thương của ngươi, ta có câu nhắc nhở ngươi, phương thuốc này là ‘đào nhân thừa khí thang’ dùng để trị chứng ứ nhiệt nội trệ. Mới rồi ta đã xem qua bệnh của con ngươi, căn cứ vào các triệu chứng thì nó không thể dùng đào nhân thừa khí thang. Nó đang mắc chứng bạo thoát, chính là âm chứng. Dùng ‘đào nhân thừa khí thang’ cực sai lầm, dẫn tới việc làm cho dương bạo thoát! Nếu dùng tới, nhẹ thì điên cuồng thác loạn, nặng thì sẽ mất mạng!”

Phùng thị càng sợ hãi khi nghe Đỗ Văn Hạo nói, nhớ tới việc con mình dùng xong thuốc này quả nhiên là không có chút hiệu quả nào, ngược lại nói chuyện bừa bãi điên khùng. Xem ra chuyện này đúng là sự thật, nàng cũng không tiếp tục bức bách Đỗ Văn Hạo theo phương bốc dược, mà giật lấy phương thuốc trở lại.”

Chương 140: Tin thắng trận.

Phùng thị thấy chửi mắng đối phương không ăn thua gì nên nàng ta chỉ kêu lên: “Ngươi nói con ta sắp chết? Ta nói cho ngươi biết mấy ngày trước nó uống hết thuốc, ta không có tiền để mua tiếp mà nó có sao đâu. Mọi người đều thấy các ngươi khi dễ con ta, đẩy nó ngã trên phố, lại còn kê đơn làm hại nó. Nếu con ta xảy ra chuyện gì, đó là do Phù Vân đường các ngươi hại nó!”

Phùng thị hùng hổ dìu A Đại ra ngoài, đi ra đến cửa, đột nhiên nàng ta nghĩ ra điều gì đó, quay người chạy lại cầm lấy hai thang thuốc ở trên quầy và lớn tiếng hỏi hộ vệ tiểu nhị: “Có phải thuốc này là thuốc lúc trước các ngươi sắc cho A Đại uống không?”

Hộ vệ tiểu nhị Thành Kim trừng mắt nhìn nàng ta. Nếu bình thường thì chắc sẽ có chuyện xảy ra, nhưng bây giờ bọn họ đang ẩn cư, tránh mọi sự chú ý của người khác nên hắn nuốt giận trả lời: “Đúng!”

Một tay Phùng thị cầm gói thuốc ở trên quầy bỏ vào trong người, tiện tay nàng ta cũng cầm luôn đơn thuốc bỏ vào trong người: “Hay lắm, cái này là bằng chứng. Trước lúc con ta uống thuốc của các ngươi không việc gì. Giờ nếu nó xảy ra chuyện gì thì cái này chắc chắn sẽ là bằng chứng các ngươi hạ độc thủ nó. Ta sẽ không để các ngươi yên”.

Khi Phùng thị dìu A Đại đi ngang qua chỗ Bàng Vũ Cầm, A Đại cúi đầu nói với Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm: “Đa tạ tiên sinh, đa tạ phu nhân! Xin thứ lỗi cho mẫu thân cháu…”

Nghe vậy Phùng thị hung hăng kéo A Đại đi nhanh ra cửa.

Đỗ Văn Hạo do dự một lát rồi gọi: “Chờ chút!”

Phùng thị hung dữ quay người trừng mắt nhìn hắn: “Ngươi muốn làm gì?”

‘Đưa gói thuốc cho ta…”.

Phùng thị khép chặt tà áo, hay tay ôm trước ngực, lạnh lùng hỏi: “Ngươi nói gì? Đưa cho ngươi? Ha ha, muốn đoạt vật ở trong tay lão nương ư? Trên đời này không có chuyện dễ dàng như vậy đâu!”

“Ta muốn nói cho ngươi biết cách dùng thuốc! Thuốc này rất đặc biệt. Không thể sắc uống giống như các đơn thuốc khác. Trong thuốc này có Phụ tử, rất độc. Trước khi sắc thuốc phải thêm gừng khô và cam thảo…” Nói đến đây Đỗ Văn Hạo ngừng lại, sau đó hắn hừ một tiếng rồi nói tiếp: “Thôi bỏ đi, tại sao ta phải hướng dẫn ngươi cách sắc thuốc? Hoặc ngươi cầm thuốc đến đây chúng ta sẽ sắc hộ ngươi, hoặc ngươi vứt nó đi. Tuyệt đối không được tự mình sắc thuốc. Phụ tử rất độc, các ngươi không biết cách sắc thuốc, chắc chắn sẽ xảy ra chuyện. Khi đó ta sẽ không chịu trách nhiệm!”

“Làm ta sợ à? Còn lâu nhé! Là Phụ tử? Lão nương sắc thuốc nhiều cũng biết Phụ tử rất độc, ta cũng biết cách sắc thuốc này. Hơn nữa nếu xảy ra chuyện ngươi không chịu trách nhiệm thì ai đây? Ngươi kê đơn, con ta uống thuốc xảy ra bất kỳ điều gì đều tại Phù Vân đường các ngươi. Các ngươi cứ chờ đấy!”

Phùng thị chửi mắng một lát rồi dìu A Đại ra về. Ra tới cửa nàng ta còn hung hăng trừng mắt nhìn người thợ đóng giầy rồi mới dìu con chậm rãi đi ra phố về nhà.

Người đứng xem đã tản đi. Gặp phải chuyện này, Đỗ Văn Hạo chỉ biết lắc đầu cười gượng.

Năm mới, người buôn bán thường chuẩn bị quà cáp đến nha môn và các cửa quan khác chúc tết, tạo mối quan hệ. Phù Vân đường của Đỗ Văn Hạo cũng không ngoại lệ. Cổ quản gia đã thương lượng cùng Đỗ Văn Hạo. Hậu lễ đã chuẩn bị xong, Cổ quản gia sẽ mang tới chúc tết các quan lại của Binh bộ.

Mặc dù việc chế tạo thiết bị phòng dịch do Binh bộ đặt hàng Đỗ Văn Hạo. Nhưng công việc làm ăn này rất lớn, đương nhiên cũng phải biếu quà cho các quan lại ở Binh bộ. Cái này gọi là đôi bên cùng có lợi, việc hợp tác làm ăn mới lâu dài được.

Đến xế chiều Cổ quản gia mới trở về, ông ta kéo Đỗ Văn Hạo vào phòng bên rồi vui mừng nói: “Thiếu gia, có tin mừng!”

“Tin gì vậy?”

“Binh bộ Thượng thư đại nhân nói sẽ tiếp tục đặt mua trang bị phòng dịch, số lượng lần này sẽ tăng nhiều. Chúng ta sẽ rất vất vả đấy, ha ha”

“Ồ? Tiếp tục đặt hàng? Xem ra đại quân của chúng ta đã thắng trận rồi!”

“Không những thế mà còn thắng như chẻ tre!” Cổ quản gia nói: “Trong thời gi­an này tin chiến thắng luôn báo về. Lúc trước Trấn an phủ sứ Vương Thiều đại nhân lãnh binh tấn công Khánh châu mãi không hạ được thành. Sau khi thiếu gia cung cấp trang bị phòng dịch, mặt nạ trừ độc và thuốc nước giải độc, việc sử dụng vũ khí bệnh dịch hạch đã đảm bảo an toàn. Vương đại nhân hạ lệnh dùng máy bắn đá bắn thi thể của tướng sĩ mắc bệnh vào trong thành, dịch bệnh nhanh chóng lây lan. Dân chúng rối loạn, mở cửa thành bỏ trốn, Khánh châu tự sụp đổ.”

Dùng cách này phá thành làm cho Đỗ Văn Hạo không biết nên vui mừng hay là đau buồn.

Cổ quản gia thở dài nói: “Đáng tiếc sau khi Vương Thiều đại nhân vào thành, đại nhân đột nhiên bị bệnh nặng, không thể điều binh khiển tướng, phải quay về Đại Tống, việc chinh phạt Tây Hạ của đại quân gặp trắc trở. Triều đình phái Cấp sự trung Từ Hi, Duyên đạo tổng quản Chủng Ngạc m viện binh tiếp ứng. Cùng với quân tăng viện, tổng số quân của chúng ta lên tới ba mươi vạn chia thành năm đạo tiến vào Tây Hạ.”

“Xem ra lần này chúng ta chắc thắng!”

“Đúng vậy! Từ tướng quân và Chủng tướng quân sử dụng bệnh dịch hạch để công thành. Đánh đâu thắng đó, bách chiến bách thắng. Trên đường tiến quân, đã chiếm được Lan châu, Thạch châu, Hạ châu, Ngân châu, Vi châu và các châu quận khác, tiêu diệt mấy vạn quân Tây Hạ. Đánh cho quân Tây Hạ kinh hồn táng đởm, vừa nghe tiếng đã bỏ chạy. Gặp thành trì kiên cố chỉ cần dùng thi thể bị dịch bệnh ném vào trong thành, sau ba ngày thành sẽ bị phá. Vì vậy đại quân của chúng ta đang tiến gần tới kinh thành của Tây Hạ, thành Hưng Khánh!”

“Tốt quá! Sắp hạ được kinh thành của Tây Hạ rồi!”

“Quân Tây Hạ không tìm ra biện pháp đối phó với vũ khí dịch hạch của quân ta. Sau khi bị quân ta dùng bệnh dịch hạch công hạ thành trì, chúng đã biết sự lợi hại của vũ khí này nên chỉ bỏ thành chạy. Nhưng trận chiến ở Minh Sa Xuyên quân ta cũng thất bại nặng nề. Hai ngàn binh lính tiên phong bị hơn một vạn quân Tây Hạ bao vây. Quân ta bị mất hai ngàn trang bị phòng dịch!”

Đỗ Văn Hạo cau mày: “Hai ngàn trang bị đã bị địch nhân cướp mất?”

“Đúng vậy, Từ tướng quân vốn là một quan văn, không thông hiểu binh pháp. Tướng sĩ quân tiên phong lại quá coi thường địch nhân, ham lập công, liều lĩnh đơn độc tiến quân, hậu quả là thất bại nặng nề. Nhưng thiệt hại này cũng không đáng kể so với mấy vạn quân Tây Hạ đã bị chúng ta tiêu diệt!”

“Hai vị tướng quân vốn rất lo lắng việc hai ngàn trạng bị phòng dịch bị cướp sẽ ảnh hưởng đến vũ khí dịch hạch của chúng ta. Không ngờ sau đó quân Tây Hạ vẫn bỏ thành chạy, không dùng trang bị này để thủ thành.”

Đỗ Văn Hạo ngạc nhiên nói: “Quân Tây Hạ cướp được trang bị, không dùng để phòng ngự, tại sao nhỉ?”

“Không biết được. Hay bọn chúng không biết cách sử dụng trang bị này?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Không phải, quân Tây Hạ không ngu ngốc như vậy. Chỉ e trong này có âm mưu gì khác!”

“Có thể. Nhưng không cần lo lắng quá. Quân ta có ba mươi vạn đại quân. Chúng chỉ có hai ngàn trang bị phòng dịch, chỉ có thể phòng ngự một tòa thành. Chúng ta cứ bao vây tòa thành phòng thủ, đưa đại quân tấn công các thành trì khác. Tóm lại là không cần lo lắng!”

“Ừ, nhưng chiến sự thuận lợi quá làm cho ta cảm thấy bất an, nhưng ta cũng không rõ là ta thấy bất an về chuyện gì. Có một chuyện ta muốn hỏi: Bệnh dịch hạch ở Tây Hạ có bùng nổ trên diện rộng không?”

“Cái này ta cũng không rõ. Nhưng bên Binh bộ mua nhiều thuốc trừ độc như vậy chính là để sau khi chiếm được thành sẽ dùng thuốc đó giải độc. Chắc chắn dịch bệnh sẽ không bùng phát”.

“Hy vọng thế!” Đỗ Văn Hạo hy vọng trang bị phòng dịch và thuốc nước của hắn sẽ giúp quân Tống đánh bại quân Tây Hạ, đồng thời tránh thiệt hại cho dân chúng vô tội.

Nói chuyện xong Đỗ Văn Hạo tiếp tục ngồi ở tiền đường chờ xem bệnh, nhưng hôm nay là năm mới nên không có bệnh nhân đến xem.

Đến tối khi Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm đang ngồi trong tiền đường, sưởi ấm nói chuyện thì hắn nghe ngoài cửa có tiếng chân người chạy vội vã. Đỗ Văn Hạo vừa ngẩng đầu đã thấy mấy người cõng A Đại trên lưng chạy qua cửa dược đường, phía sau mấy người một phụ nhân trên tay cầm một cái chậu đựng nước tiểu đứng lại trước cửa dược đường, người đó đúng là bát phụ Phùng thị. (bát phụ: Người đàn bà ngang ngược)

Lúc trưa, sau khi Phùng thị tống tiền Đỗ Văn Hạo lấy mười lạng bạc thì nàng ta rất vui mừng, dìu A Đại rời khỏi Phù Vân đường về nhà.

Trên đường về Phùng thị trách mắng A Đại: “A Đại! Mẫu thân đã bảo con phải ở yên trong nhà, tại sao con lại chạy lăng nhăng bên ngoài? Nếu không có người tốt chạy tới báo cho mẫu thân thì ta cũng không biết tìm con ở đâu. Nếu xảy ra chuyện gì thì sau này mẫu thân biết nương tựa vào ai? Khép chặt áo vào, lạnh lắm. A Đại, bây giờ con thấy thế nào?”

Sau khi A Đại uống thuốc xong, tinh thần dần hồi phục, đã có thể nói chuyện bình thường, nó thấy rất xấu hổ về hành động của mẫu thân lúc trước nên buồn bực nói: “Uống thuốc xong, bụng con không thấy đau nữa.”

“Thật hả? Tốt rồi, may mắn mẫu thân đã cầm thêm hai thang thuốc nữa, lại cả đơn thuốc. Nếu bệnh con tiến triển tốt thì sẽ sắc uống hết, khi nào hết mẫu thân sẽ mang đơn đi mua nữa.”

“Mẫu thân, do con tự mình trượt ngã. Cái áo bông này là của họ mặc cho con. Con không biết đã cởi áo của mình vứt đi đâu!”

“Con thật là! Cái đó mẫu thân biết!”

A Đại đứng lại, nó tức giận nói: “Mẫu thân biết sao lại còn đòi bạc của họ?”

“Con đúng là! Nếu mẫu thân không đòi tiền của bọn họ, mẫu tử chúng ta sẽ không sống qua mùa đông giá rét này. Hơn nữa bệnh con nặng như thế. Lần trước Linh y kê đơn con uống cũng không đỡ, lại còn phát điên. Mẫu thân rất lo lắng, không biết phải làm gì nữa. Mẫu thân làm vậy cũng vì không còn cách nào khác, mẫu thân lấy tiền của bọn họ để tìm một đại phu giỏi chữa khỏi bệnh cho con. Con là tất cả của mẫu thân. Phụ thân con mất sớm. Con là người duy nhất mẫu thân có thể nương tựa. Mẫu thân không thể để con xảy ra điều gì được”.

“Đại phu đó sắc thuốc cho con uống, người có ý tốt giúp con. Người tốt với con như vậy mà mẫu thân lại đòi tiền của người ta. Con…con còn mặt mũi nào nhìn người nữa đây?”

“Ai da! Họ là người giầu có, chút bạc với họ không là gì cả, nhưng đối với hai mẹ con chúng ta thì lại là cả một gia tài lớn. Con càng ngày càng lớn, cũng sắp tới lúc phải tìm cho con một người vợ. Số bạc này…”.

A Đại giậm chân nói: “Mẫu thân! Tục ngữ có câu: Nghèo cho sạch, rách cho thơm. Mẫu thân lấy oán báo ân, đòi bạc của ân nhân. Mẫu thân có thể làm chuyện đó nhưng con thì không còn mặt mũi nào nữa!”

“Con…Con đúng là! Con không thông cảm với mẫu thân, nói đỡ cho mẫu thân lại còn trách mắng mẫu thân! Ông trời ơi…, sao số tôi lại khổ thế này…, ô, ô, ô…”.

Phùng thị lại sử dụng tuyệt chiêu khóc lóc này. Nhưng A Đại không bị mắc lừa, nó tức giận giậm chân, vùng vằng thoát ra khỏi tay Phùng thị, bước lên trước ba bước. Phùng thị không dám để A Đại đi một mình, nàng ta vừa khóc vừa chạy lên đưa tay đỡ A Đại. A Đại gỡ tay Phùng thị ra rồi nó tự mình bước đi về nhà.

Chương 141: Đại tiện ra máu.

Ngôi nhà của hai mẹ con Phùng thị giống như một cái lều, bốn vách trống hơ trống hoác, một ngôi nhà lạnh lẽo, bên trong chất đầy rác nhặt về. Ngoài một cái giường, một cái bàn gẫy chân, một cái rương vỡ, không còn cái gì quý giá.

Về đến nhà, A Đại không buồn lau chân, nó để cả chân bẩn trèo lên giường nằm. A Đại kéo cái chăn bông mỏng vá chằng vá đụp trùm kín đầu. Phùng thị muốn bảo A Đại lau chân nhưng nó đã thu hai chân vào trong chăn.

Phùng thị cảm thấy rất buồn. Nàng ta tức tởi đứng khóc rồi lén đưa mắt nhìn A Đại, thấy A Đại vẫn không có phản ứng gì nên Phùng thị ngừng khóc, cúi đầu vỗ vỗ vào chăn nói: “A Đại, ngày ba mươi tết hôm qua, mẫu thân và con ngồi gặm bánh ngô. Lúc nãy mẫu thân có nhặt được mấy cái bắp cải, chúng ta lại có tiền. Bây giờ mẫu thân sẽ đi mua một ít thịt lợn. Mẫu thân sẽ làm sủi cảo với bắp cải và thịt lợn để chúng ta ăn mừng ngày tết”.

“Không ăn!” A Đại nói vọng từ trong chăn ra: “Con có chết đói cũng không ăn thức ăn mua bằng tiền lừa gạt của người khác”.

“Con! Con!…” Phùng thị tức giận đến run bắn cả người nhưng nàng ta không dám làm gì A Đại.

Phùng thị dậm chân, tay cầm giỏ đi ra ngoài cửa. Phùng thị xoay người khóa cửa sau đó nàng ta lấy ra thỏi bạc mười lượng, thầm nghĩ mười lạng bạc này không được tiêu hoang phí, phải giữ lại phần lớn để cưới vợ cho A Đại.

Trước tiên Phùng thị tìm một cửa hàng đổi tiền, đổi mười lạng bạc thành năm điếu đồng tiền và mười tám văn. Phùng thị gói tất cả tiền vào một cái khăn tay, đút vào trong người rồi xách giỏ đi ra chợ. Phùng thị mua nửa cân thịt ba chỉ và một gói mì đen rồi quay về nhà.

Vừa mở cửa ra Phùng thị giật mình hoảng sợ, nàng ta thấy A Đại đang nằm đầu quay ra ngoài giường, trên mặt đất có một bãi máu đen lớn.

Phùng thị hét lên, ném cái giỏ xuống đất, không quan tâm đến việc gói bột mì và nửa cân thịt lợn đổ ra đất. Nàng ta chạy lại ôm lấy A Đại, run rẩy hỏi: “A Đại, con sao vậy?”

“Con…, con không biết tại sao đang nằm lại bị chảy máu, chảy rất nhiều, ra cả giường…Mẫu thân, có phải con sắp chết không?”

“Đừng, con đừng nói thế. A Đại của mẫu thân mệnh lớn, sống lâu trăm tuổi. Con đừng sợ. Có khi lúc nãy con cởi áo nên bị nhiễm lạnh. Chỉ là cảm lạnh thôi. Đừng sợ, mẫu thân có tiền. Chúng ta đến Huệ Nhân đường tìm đại phu xem bệnh. Mẫu thân nghe nói y thuật của đại phu Huệ Nhân đường cao minh nhất, nhì ở kinh thành đấy”.

Phùng thị dìu A Đại xuống giường. Nàng ta đang giúp A Đại đi giầy thì nghe A Đại kêu lên: “Mẫu thân! Con…, con đau bụng quá. Con muốn…muốn đi nhà xí…”.

“Bên ngoài lạnh lắm. Con cứ đi vào chậu đựng nước tiểu”.

Phùng thị dìu A Đại cởi quần rồi ngồi xuống chậu đựng nước tiểu. A Đại vừa ngồi xuống thì vang lên mấy tiếng “bùm”, “bùm”.

Sau khi đi xong, lau khô, vừa kéo quần lên. A Đại thấy người khó chịu, nó vội dựa vào tường, mếu máo nói với Phùng thị: “Mẫu thân…, con…, con mệt quá, không đi nổi nữa…”.

Phùng thị vừa đỡ con vừa khóc nói: “Vậy mẫu thân đỡ con lên giường nằm. Chờ lát nữa chúng ta đi khám đại phu”.

Phùng thị đỡ con nằm xuống, cầm chậu đựng nước tiểu mang ra nhà xí đổ. Ra tới nhà xí Phùng thị định đổ phân trong cái chậu đi thì phát hiện phân rất khác lạ, nhìn kỹ nàng ta thấy trong chậu toàn là máu đen.

Phùng thị hét to một tiếng, cái chậu rơi xuống đất, người lảo đảo, suýt ngã. Nàng ta vội vàng dựa vào nhà xí, lấy lại bình tĩnh rồi cẩn thận nhìn lại, quả nhiên toàn máu đen.

“Không hay rồi! Ông trời ơi” Phùng thị hét lên như phát điên chạy vào nhà: “A Đại! Mau! Tên đại phu đáng chết của Phù Vân đường đã hạ độc. Con đại tiện ra toàn máu đen, đó là nguyên nhân lúc nãy mũi con đổ máu đen. Thì ra hôm nay tên đại phu đó không có lòng tốt cứu chữa cho con, hắn muốn hạ độc con. Mẫu thân đã nói mà trên đời này làm gì có người tốt như thế. Bọn chúng chỉ vì tiền thôi. Ôi, con của ta…”.

A Đại vừa nghe mẫu thân nói thế, nó cảm thấy cả người như bị mất hết sức lực, người mềm nhũn, ngồi phịch xuống giường.

Phùng thị hoảng hốt tay chân cuống cuồng. Nàng ta vội cõng A Đại lên lưng, khóc nói: “Con! Đừng sợ! Chúng ta đi tìm đại phu! Đến tìm đại phu ở Huệ Nhân đường xem bệnh. Đừng sợ! Mẫu thân có tiền đây! Ông ấy sẽ cứu được con”.

Phùng thị cố gắng xốc A Đại lên lưng rồi lảo đảo đi ra ngoài, không cả đóng cửa, chân đạp trên tuyết dày. A Đại dù chỉ mới mười bốn, mười lăm tuổi, nhưng nó đã cao hơn mẫu thân một nửa cái đầu. Hai tay nó lòng thòng phía trước ngực Phùng thị, hai chân kéo lê trên mặt tuyết.

Một gia đình hàng xóm vừa đi dạo phố quay về trông thấy thế vội chạy đến hỏi: “Phùng Thẩm, A Đại bị làm sao vậy?”

“Nó bị tên đại phu đáng chết của Phù Vân đường hạ độc. Làm ơn giúp ta đưa nó tới Huệ Nhân đường tìm đại phu với”.

“Được!” Người hàng xóm đó cũng là người nghèo nhưng rất tốt bụng. Hắn đỡ lấy A Đại rồi bảo vợ chạy đi tìm mấy nam nhân khác quanh xóm đến hỗ trợ đưa A Đại đi.

Trong lúc đó Phùng thị chạy về nhà, ra nhà xí, nàng ta cầm theo cái chậu vẫn còn đến một nửa phân và máu đen rồi chạy theo mấy người hàng xóm tới Huệ Nhân đường.

Đi ngang qua cửa Phù Vân đường thấy Đỗ Văn Hạo đang ngồi đọc sách, Phùng thị chẳng nói chẳng rằng cầm cái chậu chạy vào bên trong dược đường, định đập thẳng vào đầu Đỗ Văn Hạo.

Phùng thị vừa chạy vào tới cửa, thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung đã cảnh giác, thoáng một cái ông ta đã phi thân tới bên cạnh Phùng thị, tay áo phất lên một cái, lướt qua hai khuỷu tay của Phùng thị, hai tay của Phùng thị đang giơ cao lập tức không cử động được, cái chậu rơi xuống chụp ngay lên đầu nàng ta, khắp người Phùng thị dính phân và máu đen.

Phùng thị không ngờ phải nhận kết cục này, thoáng sửng sốt rồi nàng ta nổi điên lao cả thân hình dính đầy phân về phía Đỗ Văn Hạo.

Phùng thị vừa mới tiến được hai bước liền bị Hô Duyên Trung đánh ngã. Hô Duyên Trung lạnh lùng cầm hai tay Phùng thị nhấc bổng Phùng thị lên bước ra cửa, ném Phùng thị xuống làm nàng ta ngã sõng soài trên tuyết.

Phùng thị đứng lên, có ý muốn tiếp tục xông vào, người hàng xóm nói: “Phùng Thẩm, cứ từ từ đã. Cứu A Đại là quan trọng! Sau này chúng ta quay lại tìm chúng tính sổ”.

Lúc này Phùng thị mới cất giọng bi thương nói: “Ông trời ơi, đại phu giết người, hạ độc con ta, làm con ta đi ngoài ra máu. Các ngươi không thoát được đâu. Nếu con ta có mệnh hệ gì, lão bà tử ta cũng không cần cái mạng này. Ta sẽ dập đầu chết ở cửa Phù Vân đường các ngươi”.

Nói rồi Phùng thị hùng hổ chạy theo máy người hàng xóm.

Bàng Vũ Cầm sợ tái mặt. Nàng kéo tay Đỗ Văn Hạo nói: “Phu quân, chuyện này…, xảy ra chuyện gì vậy?”

Đỗ Văn Hạo vỗ tay nàng an ủi rồi hắn bước tới cúi đầu nhìn phân rơi trên mặt đất. Hắn tươi cười, quay lại lắc đầu cười nói với Bàng Vũ Cầm: “Không việc gì! Mọi chuyện bình thường! Nàng cứ yên tâm!”

Dưới sự giúp đỡ của mấy người hàng xóm, Phùng thị đưa được A Đại chạy tới Huệ Nhân đường.

Hôm nay là ngày đầu năm mới, mặc dù Huệ Nhân đường mở cửa nhưng không có đại phu tọa đường, cả hai ở nhà ăn tết. Tiểu nhị dược đường giật nẩy mình khi nghe nói đứa tiểu tử sau khi uống thuốc, mũi đổ máu đen, đại tiện cũng ra máu đen. Chúng không quan tâm khắp người Phùng thị dính đầy phân hôi, tay bịt mũi chạy đi tìm Tiếu, Trang hai vị đại phu.

Trang đại phu hỏi qua tình trạng của A Đại rồi ông ta ngồi xuống chăm chú bắt mạch. Một lúc sau ông ta cau mày nói: “Đứa bé này dù mạch suy nhưng thần trí tỉnh táo không có triệu chứng nguy hiểm”.

Phùng thị the thé nói: “Đại phu! Phiền ngài xem lại cho nó một chút, nó vừa đi ngoài ra máu”.

“Ồ? Đại tiện ra máu ở đâu?”

“Đây, ở trên người ta!” Phùng thị dùng ngón tay quệt một ít phân dính trên người: “Đây ngài xem! Toàn máu đen! Tất cả phân trên người ta đều là của nó dính vào”.

Trang đại phu cười gượng, ông ta khẽ ho khan hai tiếng rồi hỏi: “Sao con ngươi lại đi đại tiện như vậy?”

“Đó là do tên đại phu đáng chết của Phù Vân đường…! Không nói việc này nữa, lát nữa ta sẽ tìm chúng tính sổ. Đại phu, ngài mau cứu con ta đi!”

“Cứu con ngươi?” Trang đại phu ngạc nhiên nói: “Con ngươi có bị sao đâu mà cứu”.

“Cái gì bình thường? Vừa đại tiện ra máu! Mũi cũng chảy máu đen! Ngài còn nói bình thường. Ngài có phải là đại phu không hả? Được rồi, ngài sợ ta không có tiền hả? Ta có đây” Phùng thị móc từ trong người ra một điếu đồng tiền đưa cho Trang đại phu: “Đây! Tiền đây, ngài mau cứu con ta đi”.

Trang đại phu cười khổ, ông ta đẩy tiền trở lại: “Tiền không phải là vấn đề. Cho dù ngươi không có tiền, tới dược đường của chúng ta. Chúng ta không thể ngồi nhìn thấy chết mà không cứu. Ta đã nói đứa bé này có bệnh, nhưng không phải là nguy chứng. Không cần chúng ta cứu. Chỉ cần kê đơn uống thuốc là khỏi”.

Phùng thị lạnh lùng nói: “Ngài nói cái gì? Đại tiện ra máu còn không nguy hiểm à? Ngài làm đại phu kiểu gì vậy?”

Thân hình dính đầy phân và nước tiểu của Phùng thị hùng hổ tiến lên trước, Trang đại phu cuống quýt lui về phía sau. Tiếu đại phu vội giảng hòa: “Vị đại tẩu này đừng nóng vội. Để lão hủ xem qua bệnh của nó một chút”.

Tiếu đại phu ngồi xuống chăm chú bắt mạch cho A Đại, lát sau ông ta cười hỏi: “Đại tẩu, thân thể nó suy nhược, lúc trước bị chứng đau kết tràng, phát nhiệt đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Đại phu nào chẩn bệnh?”

“Ta không có tiền tìm đại phu, vì vậy ta tìm một linh y xem bệnh chỉ hết một văn tiền”.

“Linh y kê đơn thuốc gì?”

“Ta không biết, đơn thuốc đây” Phùng thị lấy từ trong người ra một đơn thuốc đưa cho Tiếu đại phu.

Tiếu đại phu liếc mắt nhìn, ông ta cười nhạt rồi đưa đơn thuốc cho Trang đại phu.

Trang đại phu xem qua rồi cười nhạt nói: “Đúng là dong y! Bệnh của con ngươi rõ ràng là chứng đau kết tràng, sinh ra nhiệt. Sao hắn lại dùng Đào nhân thừa khí thang? Công dụng của phương này là hoạt huyết trục ứ, tiêu nhiệt. Đào nhân hoạt huyết phá ứ là chủ dược, quế chi thông huyết mạch, đại hoàng thanh nhiệt tiêu tích qua đường đại tiện. Dùng phương thuốc này làm cho khí huyết không thông nên trở thành ứ huyết” Nói xong Trang đại phu lắc đầu quầy quậy.

Phùng thị nghe không hiểu gì về y lý. Nàng ta quay sang hỏi Tiếu đại phu: “Ông ấy nói gì vậy?”

Tiếu đại phu nói: “Chứng bệnh của con ngươi là đau bụng kết tràng, tên dong y này dùng sai phương thuốc làm cho con ngươi bị ứ huyết, bạo thoát dương, làm cho tinh thần bất ổn, chạy loạn như điên, nói năng lung tung. Nhưng bây giờ chứng thoát dương của nó đã hết, nó đã dùng thuốc gì vậy?”

“Có! Nó uống thuốc của tên đại phu đáng chết của Phù Vân đường, trong thuốc có độc làm cho nó đổ máu mũi, đại tiện ra máu, toàn máu đen. Nghĩ lại thì tên đại phu đó rất độc ác. Lão nương ta nhất định sẽ không để yên cho hắn”.

Chương 142: Đại phu đó là ân nhân cứu mạng.

Tiếu đại phu hỏi: “Ngươi có cầm đơn thuốc hắn kê không?”

Phùng thị giận dữ nói: “Đương nhiên có. Ta sớm đã biết hắn giở trò. Tên thất phu! Ta nhất định sẽ đến nha môn kiện hắn”.

“Đưa cho ta xem phương thuốc một chút”.

Phùng thị lấy đơn thuốc ra từ trong người đưa cho Tiếu đại phu.

Tiếu đại phu nhìn lướt qua rồi đưa đơn thuốc cho Trang đại phu. Ông ta mỉm cười nói với Phùng thị: “Đơn thuốc này đúng rồi. Đại tẩu, người trách oan đại phu của Phù Vân đường rồi. Đơn thuốc ông ta kê hoàn toàn đúng với chứng bệnh”.

“Hả? Ngài nói trị đúng bệnh, thế sao con ta đại tiện ra máu? Các ngài cũng một giuộc với hắn à? Ta nghe nói Huệ Nhân đường của các ngài ở kinh thành là một trong hai dược đường có danh tiếng nhất. Ta cầu xin hai người cứu con ta. Hai người không thể nào có quan hệ với hắn được!”

Tiếu đại phu cảm thấy tức giận trước nữ nhân không hiểu lý lẽ này. Ông ta nén giận nói: “Đại tẩu, ta không biết đại phu của Phù Vân đường. Ta cũng cũng không bảo vệ hắn. Những gì ta nói là sự thật. Con ngươi bị đau kết tràng. Tên dong y lại kê nhầm Đào nhân thừa khí thang. Làm cho huyết bạo thoát gây ra ứ, trở thành nguy chứng. Đại phu của Phù Vân đường đã dùng Tứ nghịch thang cộng thêm nhục quế (vỏ quế khô), thông vận khí huyết. Huyết trong kinh mạch không còn ứ trệ, huyết trào ra vì vậy con ngươi mới bị chảy máu mũi. Đây đều là…”

Phùng thị vung tay nói: “Ngươi nói gì ta đều hiểu. Ngài cho rằng con ta đã được cứu chữa đúng cách”.

Tiếu đại phu nghiêm mặt nói: “Ta hỏi ngươi. Sau khi con ngươi dùng thuốc của dong y thì có triệu chứng gì? Ngươi phải nói thật. Nếu không ta sẽ không cứu con ngươi”.

Phùng thị suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Sau khi uống xong thuốc của dong y thì chân tay lạnh giá, đổ mồ hôi lạnh, tâm thần không ổn định như người điên”.

“Vậy được rồi! Tứ chi lạnh, dương khí không đủ. Âm hàn thịnh, dương khí suy nên tứ chi khí nghịch. Đây là triệu chứng âm thịnh dương suy. Theo những triệu chứng ngươi đã nói, con ngươi thần trí bất ổn, dương khí bạo thoát. Nếu đại phu của Phù Vân đường không khẩn cấp dùng tứ nghịch thang giúp con ngươi hồi dương. Chắc chắn nó không sống được tới ngày mai”.

“Cái gì? Ngài nói lung tung cái gì hả? Mau cứu con ta đi. Ngài bảo ta nói thật ngài sẽ cứu nó. Ngài quên rồi à?”

Tiếu đại phu cười khổ: “Đại tẩu, đại phu của Phù Vân đường đã cứu sống con của ngươi, giúp bài trừ ứ huyết trong cơ thể. Con của ngươi không việc gì nữa. Ta còn cứu cái gì đây?”

“Ngài nói bậy! Con ta vừa uống xong chén thuốc của hắn thì bị đi ngoài chảy máu. Ngài lại nó nó không việc gì. Ngài là đại phu…”.

Trang đại phu ở bên cạnh không nhịn được tức giận nói: “Sao ngươi không hiểu gì hết vậy? Tiếu đại phu nói rất rõ ràng. Đơn giản thế này: Đơn thuốc của dong y làm cho cơ thể con ngươi bị chứng ứ huyết vì thế nó mới nổi điên, chạy loạn lên. Nếu không kịp thời cứu chữa con ngươi sẽ bị thoát dương mà chết. Đại phu của Phù Vân đường dùng phương thuốc giúp con ngươi bài trừ huyết ứ trong cơ thể. Đó chính là chảy máu mũi và đi ngoài ra máu. Tất cả đều do dong y dùng sai đơn thuốc làm cho ứ huyết nên huyết mới có màu đen. Còn không huyết phải có màu đỏ tươi. Có hiểu không? Hừ, người ta có lòng tốt cứu con ngươi, ngươi còn nói người ta tội đáng chết. Ngươi vô ơn như vậy dù con ngươi có bệnh ta cũng không chữa. Về đi, mau về đi”.

Trang đại phu đùng đùng nổi giận, ông ta phất tay áo, xoay người đi vào trong.

Tiếu đại phu cũng đứng dậy nói: “Vị đại tẩu này hiểu lầm đại phu của Phù Vân đường rồi. Cũng may con ngươi đã dùng đơn thuốc này. Không nguy hiểm nữa, cứ uống thêm một, hai thang theo đơn này. Nó sẽ không ra huyết nữa. Chờ đến khi dương khí hồi phục, lúc đó cắt cho nó mấy thang thuốc bổ, nó sẽ khỏe hẳn. Cáo từ” Nói xong, Tiếu đại phu cũng vung tay áo đi vào trong.

Phùng thị chạy theo hại vị đại phu nói: “Hai vị đại phu làm ơn xem qua bệnh của con ta một chút. Kê cho nó một đơn thuốc, ta sẽ trả tiền”.

Hai vị đại phu không để ý đến Phùng thị, tiếp tục đi vào trong.

Tiểu nhị của dược đường cười nói: “Đại tẩu. Hai đại phu nói đại tẩu cứ về nhà cho con uống thêm một, hai thang thuốc mà đại phu của Phù Vân đường đã kê. Sau đó uống mấy thang thuốc bổ là khỏi. Không cần kê đơn thuốc khác”.

Phùng thị bán tín bán nghi. Quay lại nhìn A Đại.

Thân thể A Đại vốn suy nhược, mất nhiều máu. Lúc trước nó nghe mẫu thân nói đại tiện ra máu, sợ đến ngây dại. Bây giờ nó nghe hai vị đại phu nói nó không việc gì, hơn nữa nó cũng thấy cơ thể bình thường, không có gì khác lạ nên tinh thần tỉnh táo, sắc mặt bắt đầu hồng hào.

Phùng thị thấy tình thần của A Đại tốt hơn nhiều, không giống như sắp chết nữa, nàng ta khẽ lầu bầu: “Không sao thì không sao. Trở về mình sẽ sắc cho A Đại uống hết thang thuốc còn lại. Mình vẫn còn đơn thuốc, có tiền thì mình sẽ mua được thuốc. A Đại, chúng ta về”.

Lúc này tinh thần A Đại phấn chấn, sức lực quay lại, không cần người cõng. Phùng thị dìu A Đại xuống giường ra khỏi Huệ Nhân đường đi về nhà.

Lúc trước Phùng thị tưởng bệnh của A Đại nguy hiểm, Phùng thị cứ để nguyên cả người dính phân và nước tiểu chạy theo, mặc kệ người đi đường né tránh, nàng ta cũng không bận tâm. Mặc dù bản thân Phùng thị đi nhặt rác không sợ bẩn thỉu, bây giờ dìu A Đại quay về nhà, nhìn thấy người trên phố bịt mũi né tránh, Phùng thị cũng thấy xấu hổ. Nàng ta bốc một vốc tuyết lên lau khắp người, làm giảm bớt mùi hôi thối trên người.

Mấy người hàng xóm đi cùng một đoạn thấy A Đại có thể tự mình bước đi nên cũng tản mát đi hết.

Phùng thị nói cám ơn mấy người hàng xóm rồi dìu A Đại về nhà.

Khi tới gần Phù Vân đường, Phùng thị đứng lại.

Lúc trước ai nói Phùng thị cũng không tin nhưng hai vị đại phu của Huệ Nhân đường nói thì Phùng thị tin. Nếu quả đúng như thế, đại phu của Phù Vân đường là ân nhân cứu mạng của A Đại, bản thân nàng ta chính là người vô ơn. Ngẫm lại Phùng thị thấy mình chính là người lấy oán báo ân nên đỏ mặt xấu hổ, không dám đi ngang qua Phù Vân đường. Phùng thị liền bảo A Đại đi đường vòng để xem cảnh ngày tết rồi Phùng thị dìu A Đại đi qua một ngã tư. Một lúc sau về tới nhà, Phùng thị dìu A Đại nằm xuống giường rồi lấy củi đốt lửa để sưởi ấm cho A Đại. Sau đó Phùng thị mới rửa mặt, thay bộ quần áo dính đầy phân. Phùng thị cẩn thận hốt hết bột mì đổ ra đất, rửa sạch thịt lợn và bắt đầu làm sủi cảo.

Sau khi nấu sủi cảo xong, lấy hai cái bát đặt trên cái bàn đặt cạnh giường. Phùng thị gắp sủi cảo nóng hổi bỏ vào bát, sau đó lấy hai đôi đũa. Phùng thị khoanh chân ngồi trên giường, vừa cười hì hì vừa vỗ vỗ vào A Đại: “A Đại! Dậy ăn sủi cảo! Nhân thịt lợn ngon lắm! Thơm không?”

A Đại không buồn quay ra nhìn. Nó vẫn quay mặt vào trong làm như đang ngủ.

“A Đại! Dậy ăn đi, A Đại”.

“Không ăn. Con đã nói có chết cũng không ăn thức ăn mẫu thân mua bằng tiền lừa gạt của người khác”.

Phùng thị biết mình làm sai, lần này nàng ta lấy hết dũng khí nói: “Mẫu thân cũng biết mình trách lầm bọn họ. Mẫu thân không phải là người không có lương tâm. Cuộc sống rất khó khăn. Con đau ốm, mẫu thân lại không biết làm gì khác. Mẫu thân không làm thế thì hai chúng ta sẽ không sống nổi qua những ngày này”.

A Đại bịt hai mắt lại. Phùng thị nhẫn nại thuyết phục nó rất lâu, thức ăn đã nguội hết, A Đại vẫn chỉ nói thà chết đói chứ không ăn.

Phùng thị không biết sao nữa đành thở dài nói: “Thôi được. Thức ăn đã làm rồi, không ăn đổ đi phí lắm. Mẫu thân sẽ mang tiền trả lại người ta. Mẫu thân mua thịt lợn và bột mì hết ba mươi bảy văn. Số tiền còn lại vẫn chưa động tới. Chúng ta sẽ trả lại họ hết, được không?

“Không được! Phải trả lại toàn bộ!”

“Nhưng tất cả ba mươi bảy văn. Bây giờ mẫu thân lấy ở đâu?”

“Con không biết! Phải trả lại họ không thiếu một văn. Trả lại toàn bộ”.

Phùng thị khóc lóc một hồi mà không có một giọt nước mắt nào. Nàng ta thấy A Đại vẫn không có phản ứng gì nữa, đành cúi xuống giường nói: “Được! Mẫu thân sợ con rồi. Mẫu thân sẽ đem trả lại số bột mì còn thừa và đem mấy vật trong nhà đi bán, có thể sẽ thu đủ ba mươi bảy văn. Mẫu thân nhất định sẽ trả lại tiền cho họ. A Đại, con ăn trước đi, để nguội ăn không ngon đâu. Mẫu thân đã nói…nhất định sẽ làm”.

A Đại hờn rỗi nói: “Vậy con chờ mẫu thân về mới ăn”.

Phùng thị biết A Đại quật cường, nói nhiều cũng vô ích. Nàng ta liền gói non nửa túi mì bỏ vào cái giỏ rách trên lưng rồi đi ra cửa. Lúc này A Đại mới ngồi dậy. Nó nhìn thấy trên bàn có hai bát sủi cảo. Lúc trước mẫu thân nó lấy oán báo ân, lừa gạt lấy tiền của ân nhân, cảm giác buồn bực trong lòng, càng nhìn nó càng thấy không thoải mái. Sau một hồi đấu tranh tư tưởng nó rời khỏi giường, cầm hai cái bát. Nó mở cửa đi ra góc tường cổng, nó đổ hai bát sủi cảo đi, sau đó nó cầm hai cái bát không đi vào trong nhà.

Nhưng A Đại không phát hiện ra ở góc tường không xa lắm có một lão phụ đang đứng nhìn nó, nhếch mép cười âm hiểm.

Đến khuya Phùng thị mới quay về nhà, dáng vẻ uể oải, nhưng sắc mặt tươi cười. Phùng thị lấy ra một gói tiền đặt lên bàn: “Ba mươi bảy văn! Mì đen trả lại được hai mươi ba văn, bán đồ đạc được mười văn. Mẫu thân lại đến năn nỉ ông chủ quán cơm để mẫu thân phụ rửa bát. Một buổi chiều được năm văn. Trả hết tiền cho họ chúng ta vẫn còn một văn nữa”.

A Đại kinh ngạc nhìn đôi tay sưng đỏ vì giá lạnh giống như một cái chày gỗ. Nước mắt A Đại rơi xuống, nó nghẹn ngào nói: “Mẫu thân…, mẫu thân…” Nói đến đó nó nức nở khóc, không nói nên lời.

“Đừng khóc, A Đại. Đừng khóc. Khóc không tốt cho sức khỏe của con. Nửa đời sau của mẫu thân chỉ biết trông cậy vào mình con thôi”.

“Dạ” A Đại gật đầu.

Phùng thị dịu dàng nói: “Mẫu thân muốn thương lượng với con một chuyện”.

A Đại gật đầu “Tiền này cứ coi như chúng ta mượn của Phù Vân đường. Mẫu thân muốn giữ lại để sau này cưới vợ cho con. Sau này khi cuộc sống của chúng ta khá hơn. Chúng ta sẽ trả lại bọn họ cả vốn lẫn lãi. Chúng ta sẽ xin họ thứ lỗi. Con đồng ý không?”

“Không được!” A Đại buồn bực nói: “Con thà không lấy vợ chứ không muốn động đến tiền của ân nhân”.

Phùng thị chà xát hai tay vào nhau nói tiếp: “Thôi không nói đến việc cưới vợ. Con vẫn chưa hết bệnh. Nếu có gì xảy ra với con thì làm sao?”

“Đại phu Huệ nhân đường đã nói con không việc gì”.

“Dù hai vị đại phu của Huệ Nhân đường nói con không sao. Mẫu thân vẫn rất lo lắng. Vạn nhất bọn họ chẩn đoán sai, nếu chúng ta không có tiền thì chúng ta sẽ không xoay ở được. Chúng ta cứ đề phòng. Mẫu thân hứa khi con hoàn toàn khỏi bệnh. Mẫu thân nhất định sẽ mang tiền tới trả cho họ. Được không?”

“Không được!” A Đại tức giận nói.

Chương 143: Tai họa.

A Đại thò tay cầm lấy gói tiền, nó mở gói tiền ra, bên trong có mấy điếu đồng tiền và một ít đồng tiền. Nó hỏi: “Toàn bộ đây?”

“Đúng” Phùng thị gật đầu. Nàng ta nhìn thấy hai cái bát không ở trên bàn, ngạc nhiên hỏi: “A Đại, sủi cảo đâu?”

“Đổ rồi!”

“Đổ? Trời ơi, đó là sủi cảo. Sủi cảo để ăn tết. Sao con làm thế?”

“Không phải của chúng ta thì con không ăn”.

“Con! Con đúng là! Mẫu thân đã nói sẽ trả lại tiền cho bọn họ. Số sủi cảo đó mua bằng tiền của chúng ta mà”.

“Con mặc kệ. Con không thích nên đổ đi”.

Phùng thị thấy A Đại ngang ngạnh như thế vừa giận vừa thương nói: “Đổ ở đâu?”

“Ở góc tường chỗ cổng ấy”.

“Mẫu thân đi xem còn không” Phùng thị chạy ra ngoài, tìm một lúc lâu nhưng không thấy sủi cảo đâu. Phùng thị chắc chắn là bọn khiếu hóa tử đã lấy mất, hoặc không thì cũng bị chó tha rồi. Nàng ta đứng ở cổng, tay chống nạnh, hung hăng chửi mắng một hồi rồi mới đi vào trong nhà.

Vào đến trong nhà, Phùng thị thấy A Đại mặc mỗi một cái áo vá mỏng. Áo bông kẹp nách, tay cầm gói tiền, chuẩn bị đi ra ngoài. Phùng thị liền hỏi: “A Đại, con đi đâu thế?”

“Con mang tiền và áo đến trả lại cho người ta”.

“Chúng ta đã nói rồi. Chờ đến khi con khỏi bệnh mẫu thân sẽ mang tới trả lại người ta mà”.

A Đại không để ý đến mẫu thân. Nó mở cửa lảo đảo bước ra ngoài, gió lạnh cùng những bông tuyết thổi tới, nó không chịu được run lên. Trên người A Đại chỉ mặc độc một cái áo đơn, cái áo đơn này là cái áo duy nhất của A Đại. Cái áo mới mẫu thân nó mua cho nhân ngày tết thì lúc trước nổi điên nó đã cởi ra vứt đi ở đâu mất rồi.

Phùng thị biết A Đại quật cường, có nói gì cũng không ăn thua. Nàng ta chỉ còn biết đi theo sau A Đại. Tới trước cửa Phù Vân đường Phùng thị xấu hổ không dám đi vào chỉ đứng ở góc tường nhìn A Đại đi vào bên trong.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm đang ngồi sưởi ấm nói chuyện. Những chất bẩn trên nền đã được dọn sạch, sàn nhà cũng đã được rửa sạch bằng nước. Bởi vì lo Phùng thị sẽ quay lại gây náo loạn, Hô Duyên Trung là nam nhân, đối phó không tiện nên lúc này thủ lĩnh nữ hộ vệ Cửu nương đã thay thế ngồi thủ hộ ở tiền đường. Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm đều lộ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy A Đại đi vào.

A Đại đi tới trước mặt hai người, nó quỳ xuống dập đầu. Đỗ Văn Hạo vội đứng lên dìu nó đứng dậy. A Đại đặt cái áo bông và gói tiền màu xanh lên trên bàn. Nó mở gói tiền ra, để lộ ra ít điếu đồng tiền và đồng tiền, nói: “Tiên sinh, phu nhân. Đa tạ hai người đã cứu mạng cháu. Mẫu thân cháu không biết chuyện, ăn nói xằng bậy làm cho tiên sinh và phu nhân chịu oan khuất. Cháu thay mặt mẫu thân xin thỉnh tội với hai người. Đây là số bạc lúc trước, cháu xin trả lại, còn cả cái áo bông này nữa. Cháu xin đa tạ!”

Nói xong A Đại lại cúi rạp người bái tạ rồi nó xoay người đi ra ngoài.

Bàng Vũ Cầm thấy A Đại mặc áo mong manh, thân hình run lên vì giá rét, vội cầm cái áo bông đuổi theo: “Chờ chút! A Đại, cái áo bông này chúng ta tặng cho cháu. Mặc vào đi”.

“Không, không” A Đại lắc đầu từ chối.

Bàng Vũ Cầm quàng cái áo bông lên người A Đại và nói: “Cái áo này chúng ta cho cháu, không phải do cháu đoạt lấy, đừng ngại. Mau nghe lời ta đi. Mau mặc vào, ngoài trời lạnh lắm”.

Lúc này A Đại mới mặc áo vào. Nó lại cúi đầu nói: “Cám ơn phu nhân!” Nói rồi nó xoay người bước đi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Cháu chờ một lát. Để ta bắt mạch xem bệnh cho cháu”.

A Đại nói: “Cám ơn tiên sinh. Đại phu của Huệ Nhân đường đã xem bệnh cho cháu. Họ nói cháu không sao cả”.

“Mẫu thân cháu có sắc thuốc cho cháu uống không?”

“Không”.

“Tốt lắm. Cháu nhớ kỹ phải mang thuốc đến đây để ta sắc cho cháu uống. Tuyệt đối không được tự mình sắc thuốc. Trong thuốc có Phụ tử rất độc, nếu không biết cách xử lý là sẽ bị trúng độc. Cháu nhớ kỹ nhé!”

“Dạ, cám ơn đại phu.”

A Đại đi ra cửa, cùng mẫu thân quay về nhà.

Mặc dù phải ăn bánh bột ngô vào tối mồng một tết nhưng A Đại ăn rất ngon lành, nó lại mặc cái áo bông nên không thấy lạnh. Phùng thị thấy con của mình vui vẻ, nàng ta cảm thấy như trút bỏ được tảng đá trong lòng.

Ngày hôm sau, bệnh của A Đại vẫn chưa khỏi hẳn, vẫn đổ mồ hôi, người lạnh, tay chân giá. Phùng thị vội lấy thang thuốc mang về từ Phù Vân đường ra sắc.

A Đại nói: “Mẫu thân, đại phu của Phù Vân đường nói, chúng ta không được tự mình sắc thuốc. Trong thuốc có Phụ tử rất độc. Chúng ta phải mang đến cho họ sắc”.

“Nghe lời hắn? Hắn nói vậy là muốn lấy lại mấy thang thuốc này. Hừ, là Phụ tử sao? Phụ thân ngươi năm đó bệnh rất nặng. Hàng ngày mẫu thân đều sắc thuốc cho ông ấy. Sau khi phụ thân con qua đời. Con lại đổ bệnh, không phải mẫu thân thì ai sắc thuốc cho con? Mẫu thân không lạ gì Phụ tử, trong đơn thuốc thường có Phụ tử. Mẫu thân biết rồi, đại phu cũng nói, khi sắc thuốc phải sắc lâu, đổ ba chén nước, sắc lấy một chén thìcòn độc tính nữa”.

A Đại thấy mẫu thân mình nói thế nên không nói gì nữa.

Phùng thị đổ ba chén nước, nhóm lửa, sắc đến nửa canh giờ rót ra được một chén. Phùng thị thổi cho thuốc nguội rồi bưng đến trước mặt A Đại. A Đại uống một ngụm, nó cau mày nói: “Thuốc đắng! Rất đắng!”

“Thuốc đắng dã tật! Hôm qua con uống thuốc này xong, hôm nay khỏe hơn nhiều. Uống thêm chén này nữa là con khỏi hắn, mau uống đi, một hơi thôi”.

A Đại lại uống hai ngụm, nó thấy rất đắng. Nó chợt nhớ tới lời dặn của Đỗ Văn Hạo, nó không muốn uống nữa liền nói: “Thuốc rất khó uống. Mẫu thân hãy ra ngoài xem có ai bán kẹo mạch nha mua cho con một ít để con ăn rồi uống thuốc có được không?”

“Được, mẫu thân đi mua cho con”,

Chờ Phùng thị đi ra ngoài, A Đại đổ nửa chén thuốc vào đống củi ở góc nhà.

Lát sau Phùng thị quay về nói: “Chưa có ai bán kẹo mạch nha”.

“Thôi không cần. Con đã bịt mũi uống hết thuốc rồi”.

“Vậy con nằm nghỉ ở nhà. Mẫu thân ra phố xem có nhặt được cái gì không?”

“Mẫu thân, con đi với. Con không sao rồi”.

Phùng thị nhìn A Đại rồi gật đầu: “Vậy cũng được. Mẫu thân cũng thấy lo lắng khi con ở nhà một mình”.

Hai người khoác giỏ trên lưng, tay cầm một cái móc sắt. Phùng thị dẫn con ra phố nhặt rác.

Vừa ra đến cổng A Đại dừng lại. Nó ném cái móc xuống, cởi giỏ ra, hay tay chống gối, đầu cúi xuống, hơi thở dồn dập.

Phùng thị hỏi: “A Đại, con làm sao vậy?

“Con…, con không thở được, miệng, lưỡi tê cứng, hai chân cũng tê cứng…” A Đại duỗi tay ra rồi liếc mắt nhìn, nó đột nhiên ôm bụng, vẻ mặt hết sức khó chịu: “Con…, bụng con nóng như lửa đốt”.

“Để mẫu thân đỡ con quay vào nhà nghỉ”.

Phùng thị ném cái giỏ xuống, dìu A Đại quay vào nhà. Khi vào trong nhà, Phùng thị đặt A Đại nằm trên giường, kéo chăn đắp cho con. Nàng ta ngồi bên giường, hỏi A Đại vẻ lo lắng: “Đại phu của Huệ Nhân đường nói con bị đau tràng kết. Có khi con chứng bệnh của con tái phát”.

A Đại nhăn nhó rên rỉ, hơi thở nặng nhọc: “Con…, con không biết…, tê lắm. Tay chân, cả người con tê cứng”.

Phùng thị vội xoa bóp tay chân cho A Đại. Phùng thị nói: “Mẫu thân nhóm lửa đun nước nóng cho con uống nhé. Uống xong là khỏi”.

A Đại gật đầu. Phùng thị vội chạy đi ôm một ôm củi để nhóm lửa, đặt cái nồi lên bếp lửa đun nước. Nước sôi, Phùng thị đổ ra một cái bát bưng lại cho A Đại uống.

A Đại kích động vung tay, nó hất tung bát nước. Cái bát rơi xuống vỡ tan, nước bắn tung tóe. A Đại thở hổn hển, hai tay ôm ngực: “Mẫu thân, con thấy khó chịu…, con không thở được…”.

Phùng thị thấy sắc mặt A Đại tái nhợt, nước dãi chảy ra, nhất thời chân tay luống cuống, đi tới đi lui: “Phải làm gì bây giờ? Con chờ một chút. Mẫu thân đi gọi đại thúc, đại thẩm ở bên cạnh sang giúp đưa con đến Huệ Nhân đường xem bệnh. Bọn họ đã nói dù không có tiền thì bọn họ cũng vẫn chữa bệnh cho chúng ta”.

Phùng thị vội gọi mấy hàng xóm ở bên cạnh tới giúp, mấy người luống cuống cõng A Đại trên lưng chạy theo tới Huệ Nhân đường.

Ngày mùng hai tết dược đường chính thức mở cửa khám chữa bệnh, nhưng vẫn không có người bệnh nào. Đỗ Văn Hạo, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đang ngồi ở tiền đường nói chuyện.

Mấy người Phùng thị chạy qua cửa, Phùng thị chẳng nói chẳng rằng cúi đầu nhặt một hòn đá định ném vỡ đầu Đỗ Văn Hạo.

Thủ lĩnh nữ hộ vệ Cửu nương đang ngồi bên cạnh, tay phải đặt trên tay vịn của ghế. Nhìn thấy hành động của Phùng thị, tay phải bà ta ấn xuống, ba tiếng rắc văng lên, tay phải bà ta đã bẻ gẫy tay vịn ghế rồi bàn tay phải vung lên, đầu gỗ bay đi nhằm cánh tay của Phùng thị.

Phùng thị hét lên một tiếng “ôi chao” thảm thiết, cánh tay cầm hòn đá giơ lên bị thanh gỗ đánh trúng, suýt nữa gẫy tay, hòn đá trong tay rơi xuống đập trúng mu bàn chân, Phùng thị đau đớn ngồi xuống ôm bàn chân.

Hai lần động thủ đều gánh chịu thiệt hại, Phùng thị không dám hành động xằng bậy nữa. Nàng ta cũng không có tâm trí để chửi mắng, chỉ la hét mấy câu rồi khập khiễng chạy đi.

Đỗ Văn Hạo đi ra cửa nhìn theo bóng lưng mấy người, hắn ngạc nhiên nói: “Ngày hôm qua A Đại đã tới xin tha lỗi. Sao hôm nay phụ nhân này lại nổi điên chạy tới gây phiền toái vậy?”

Tuyết Phi Nhi đã nghe kể về việc này, lại tận mắt chứng kiến hành động của phụ nhân lăng loàn này, phụ thân nàng mở khách điếm, loại chuyện này nàng đã từng gặp qua, nàng không nén nổi tức giận: “Cái loại lưu manh này nếu không trừng trị thì e rằng sẽ không chịu từ bỏ đâu”.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Có vẻ không phải. Đứa bé mấy người cõng trên lưng lúc nãy hình như là A Đại. Ta sợ rằng bọn họ tự tiện sắc thuốc uống nên nó đã bị trúng độc”.

Nhị nữ ngây người kinh hãi.

Lúc này Hô Duyên Trung nghe thấy náo động cũng chạy tới. Đỗ Văn Hạo xoay người nói với hắn: “Ngươi lập tức phái hai người theo sau bọn họ xem chuyện gì xảy ra. Nếu có chuyện gì phải cấp báo cho ta”.

Bên trong Huệ Nhân đường, hai tiểu nhị bưng ra một chậu muối lớn để cho A Đại uống.

Sau khi uống hết một chậu nước muối, A Đại bắt đầu nôn ra, người cúi xuống, hai tay chống gối, mồm liên tục nôn ọe. Phùng thị ở bên cạnh vừa khóc rưng rức vừa chửi mắng đại phu của Phù Vân đường.

Trang đại phu không muốn nghe nữa. Ông ta nhìn Phùng thị hỏi: “Ngươi luôn kết tội đại phu của Phù Vân đường hạ độc con ngươi, vậy ngươi có chứng cớ không?”

“Chứng cớ? Lúc nào cũng nói chứng cớ? Con ta vừa uống thuôc của Phù Vân đường lập tức trúng độc, cái này không phải chứng cớ là gì?”

Sau khi A Đại nôn ra, nó cảm thấy người dễ chịu hơn, nó lại vừa uống một ít nước muối nữa thì không thấy buồn nôn nữa. Nó nghe mẫu thân nói, không nhịn được nó cất giọng yếu ớt nói: “Mẫu thân! Không thể trách đại phu của Phù Vân đường. Thuốc là do mẫu thân đoạt lấy. Hơn nữa đại phu cũng nói thuốc đó có độc. Phải chính tay đại phu sắc thì mới uống được, chúng ta không được tự tiện sắc. Nhưng mẫu thân chỉ muốn tự mình sắc, lại bắt con uống, may mắn là con đã đổ bớt đi nửa bát…, ọa…” A Đại lại cong người nôn ra ồng ộc.

Chương 144: Mười tám tiền Phụ tử.

Nghe A Đại nói thế, Phùng thị cảm thấy rất may mắn. Nếu A Đại không lén đổ đi nửa bát thuốc thì nó có lẽ đã chết ngay trên đường đi do độc tính phát tác.

Nhưng bề ngoài không thể nói thế, Phùng thị vẫn lạnh lùng: “Con đừng nói lung tung, rõ ràng tên đại phu đáng chết của Phù Vân đường đã đầu độc con. Mẫu thân biết Phụ tử chỉ cần đun lâu là sẽ hết độc tính. Mẫu thân đã sắc thuốc rất lâu mới cho con uống, đại phu Phù Vân đường đã hạ độc bằng thuốc khác. Con không phải trúng độc Phụ tử!”

Trang đại phu cười lạnh: “Phụ tử rất độc. Nữ nhân như ngươi sao có thể hiểu được”.

“Sao lại không biết? Trước kia ta đã từng sắc thuốc nên cũng biết Phụ tử, đổ ba chén nước sắc lấy một chén, ta đã sắc như thế không biết bao nhiêu lần, sao ta lại không biết? Không phải hắn hạ độc thủ thì do cái gì? Dù sao con ta vừa uống thuốc của hắn thì đã trúng độc. Ta sẽ đi nha môn kiện hắn”.

Trang đại phu mặc kệ Phùng thị. Ông ta đi tới bên cạnh Tiếu đại phu, cùng Tiếu đại phu giúp A Đại giải độc.

Sau khi Tiếu đại phu bảo tiểu nhị cho A Đại uống hết một chậu nước muối, nôn ra hết độc chất trong người. Ông ta mới chuyển sang cho A Đại uống nước trắng để rửa ruột. Uống xong Tiếu đại phu kê một đơn thuốc giải độc.

Tiếu đại phu là người khá ôn hòa. Nghe Phùng thị và Trang đại phu nói chuyện, ông ta suy nghĩ rồi bảo Phùng thị: “Đưa cho ta xem đơn thuốc của Phù Vân đường”.

Phùng thị lấy đơn thuốc đưa cho ông ta.

Tiếu đại phu xem kỹ đơn thuốc, xem xong ông ta cau mày đưa đơn thuốc cho Trang đại phu: “Ông xem liều dùng của Phụ tử đi”.

Trang đại phu đưa mắt nhìn rồi la lên: “Mười tám? Mười tám tiền Phụ tử?”

Tiếu đại phu thở dài: “Đúng vậy. Dùng dược như này sao không trúng độc được. Lúc trước chúng ta không chú ý tới liều thuốc. Một đại phu thì không thể phạm một sai lầm đơn giản như vậy. Ôi, chúng ta quá sơ xuất, không kịp thời nhắc nhở. Vì vậy ba chén nước sắc lấy một chén mà vẫn không thể tiêu trừ độc tính. Tất cả là do dùng liều quá lớn”.

Phùng thị giật lấy đơn thuốc. Nàng ta không biết chữ, không biết trên đó viết gì, lại không hiểu y lý, không biết Phụ tử phải dùng lượng bao nhiêu. Nàng ta nghe hai vị đại phu nói lượng Phụ tử quá lớn nên bị trúng độc, vừa giận vừa vui hỏi: “Ta nói không sai mà! Ta muốn đi tìm hắn nói lý…Không, ta muốn kiện lên nha môn yêu cầu hắn bồi thường. Đại phu, hai vị làm chứng giúp ta được không? Báo án thành công, ta sẽ trả tiền cho hai vị”.

Phùng thị vốn định nói đi tới Phù Vân đường gây chuyện nhưng hai lần trước đều bị thua thiệt, nàng ta biết không thể động vào đám tiểu nhị của Phù Vân đường nên nói thành đi tới nha môn báo án.

Trang đại phu lắc đầu: “Chúng ta không đồng ý việc ngươi kiện lên nha môn. Thật ra đại phu của Phù Nhân đường chỉ dùng dược quá liều. Từ trước đến giờ ta chưa thấy ai dùng dược như thế. Cây cỏ cũng có thể lấy mạng cơ mà”.

Tiếu đại phu nói: “Cây cỏ cũng có thể lấy mạng con người, giống như lang băm làm hại người bệnh vậy”.

Phùng thị quỳ xuống dập đầu: “Phiền hai vị đại phu làm chứng cho chúng ta. Chờ cho A Đại khỏe lên, ta sẽ đến nha môn tố cáo bọn họ. Ta cầu xin hai vị”.

Phùng thị dập đầu thình thịch xuống đất.

Hai vị đại phu đưa mắt nhìn nhau gật đầu. Trang đại phu nói: “Thôi được, tên lang băm này phải bị trừng phạt thích đáng, để hắn khỏi làm hại cho người khác nữa”.

Hộ vệ Đỗ Văn Hạo phái đi đứng ở cửa nghe thấy vậy vội chạy về báo cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu cười ảo não. Chẳng lẽ hắn hảo tâm cứu người lại bị kiện cáo ư? Tại sao hai lần hắn hảo tâm cứu người lại đều bị kiện lên nha môn? Ôi, xem ra mâu thuẫn trong nghề y đã có từ thời cổ đại.

Cổ quản gia nói: “Thiếu gia không nên lo lắng, để ta đến Binh bộ một chuyến, nhờ bọn họ bảo nha môn không để ý đến vụ án này”.

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Tránh né không phải là cách hay. Chuyện này phải giải quyết. Dựa vào tính cách của bát phụ này, chắc chắn toàn thành sẽ biết, lúc đó càng khó giải quyết”.

“Có lý. Vậy để ta thay thiếu gia lên công đường đối chất”.

“Không được, chuyện này liên quan đến cách dùng Phụ tử, ông không biết cách giải thích”.

Tuyết Phi Nhi nói: “Ca, hay là chúng ta trốn đi?”

“Trốn? Chúng ta không làm sai việc gì phải bỏ trốn? Hơn nữa chúng ta không trốn tránh cả đời được. Dược đường này bỏ cho ai?”

Tuyết Phi Nhi cau mày nói: “Vậy khi lên công đường, ca ca cứ đeo khăn che mặt. Sẽ không ai nhận ra đại ca”.

“Hồ đồ! Có thể che mặt lên công đường sao? Phủ doãn đại lão gia không cho người vả miệng ta mới là lạ đấy. Lên công đường phải quỳ, ta phải làm sao bây giờ? Liệu có thể quyên tiền để mua công danh không?”

Quyên tiền để mua công danh là dùng tiền mua công danh chỉ bắt đầu vào thời Minh. Thời nhà Tống không tồn tại quy định này, quy định về thi cử khá công bằng. Cổ quản gia sửng sốt nói: “Cái này…, e rằng không được, nhưng ta có thể đến nha môn lo liệu một chút, xem có thể chuyện to biến thành bé, chuyện bé hóa không có không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Nếu muốn hóa giải, không cần lên công đường. Bọn họ đang ở Huệ Nhân đường. Mấu chốt là ở hai vị đại phu của Huệ Nhân đường. Chúng ta nên tới Huệ Nhân đường nói cho họ biết ta dùng dược không sai. Quan phủ cũng không xử phạt ta được. Đi! Chúng ta đi tới Huệ Nhân đường”.

Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại và Tuyết Phi Nhi chăm sóc Chiêm mẫu. Hắn dẫn Bàng Vũ Cầm, thủ lĩnh nữ hộ vệ Cửu nương và hai hộ vệ tiểu nhị đi tới Huệ Nhân đường.

Phùng thi đang la hét đòi kiện lên nha môn làm cho Phù Vân đường khuynh gia bại sản.

Đỗ Văn Hạo cùng mấy người đột nhiên tiến vào làm cho Phùng thị hoảng sợ. Nàng ta đã từng chịu thua thiệt nên không dám hung hăng. Phùng thị lùi lại vài bước, chỉ vào Đỗ Văn Hạo kêu lên: “Lão nương ta muốn kiện ngươi lên nha môn. Ngươi là tên đại phu đáng chết. Ngươi dám hạ độc con ta. Ngươi không sợ vương pháp à? Đi! Có gan thì đi tới nha môn cùng ta”.

Đỗ Văn Hạo không để ý đến nàng ta. Hắn chắp tay nói với Trang, Tiếu hai vị đại phu: “Nhị vị đại phu, tại hạ là Văn Thủy, nhị chưởng quỹ kiêm đại phu tọa đường của Phù Vân đường. Tại hạ nghe nói hai vị cho rằng kẻ hèn này dùng thuốc quá liều, chuẩn bị lên công đường làm chứng cho Phùng thị. Kẻ hèn này tới đây để nói rõ chuyện này, không rõ ý hai vị thế nào?”

Trang, Tiếu đại phu vốn cũng không muốn gi­ao du với kẻ xấu, cả hai cũng coi thường loại bát phụ như Phùng thị. Nhưng cả hai nghĩ Đỗ Văn Hạo dùng dược quá liều, dễ gây nguy hiểm tính mạng người khác. Cả hai chỉ muốn thức tỉnh hắn. Bây giờ Đỗ Văn Hạo tới dược đường nói muốn giữ hòa khí, điều này rất hợp với suy nghĩ của cả hai người.

Sau khi giới thiệu, Trang đại phu chắp tay, mỉm cười nói: “Văn đại phu, trong phương thuốc của ngài, liều dùng Phụ tử quá lớn. Đứa nhỏ này uống xong bị trúng độc. Chúng ta chỉ muốn nhắc nhở ngài lần sau dùng dược hãy cẩn thận hơn”.

Phùng thị the thé nói: “Còn có lần sau ư? Con ta sắp chết. Cái loại lang băm này đáng phải xử tội lăng trì. Ngươi đã dám hạ độc con ta, sau này ngươi sẽ còn làm hại biết bao người nữa? Cứ để hắn vào đại lao, phải bồi thường cho chúng ta nữa. Phải bồi thường nhiều tiền, ít nhất cũng phải năm trăm lượng”.

Đỗ Văn Hạo không chấp với nàng ta, cái loại nữ nhân lăng loàn này hắn không thể nói lại được. Hắn cười nói với Trang đại phu: “Nhị vị đại phu cũng cho rằng tại hạ dùng sai phương thuốc ư?”

Tiếu đại phu nói: “Đúng vậy, mọi người đều biết, Phụ tử là cực độc. Từ xưa đến nay đều rất cẩn thận khi kê đơn. Thời Đường (Thiên kim dược phương) đã ghi lại Phụ tử có thể dùng tới tám tiền, nhưng đó chỉ là lời đồn đại. Lão hủ hành y đã hàng chục năm cũng chưa bao giờ nghe nói Phụ tử dùng quá một tiền. Y thánh Trương Trọng Cảnh được xem là người dùng dược táo bạo nhất nhưng cũng không vượt quá ba tiền, chỉ một lần dùng bốn tiền. Văn đại phu ngài dùng Phụ tử trong đơn thuốc này tới mười tám tiền, vượt quá liều dùng của y thánh tới mấy lần. Ngài dùng dược như thế trúng độc là đương nhiên”.

Trang đại phu cũng nói: “Đúng, phụ tử giống như loài rắn độc, không thể tùy tiện sử dụng. Tiên sinh tuổi còn trẻ, mới hành nghề y, vẫn chưa hiểu được lợi hại. Hai người bọn ta cũng chỉ có ý tốt, khuyên bảo tiên sinh một câu, sau này tiên sinh dùng dược, phải rất cẩn thận, nhất là với loại độc dược hạng nhất. Thà rằng không đủ liều còn hơn”.

Tiếu đại phu nói: “Đúng vậy. May mắn đứa nhỏ được đưa tới kịp thời. Nếu không thì hậu quả sẽ nghiêm trọng vô cùng”.

Phùng thị the thé nói: “Hai người che chở cho hắn! Không được! Trong thuốc của hắn có độc, suýt nữa giết chết con ta. Không thể nói thế là xong. Ta muốn kiện lên nha môn”.

Đỗ Văn Hạo cười nhạt, hắn coi như không có Phùng thị. Hắn nhìn Trang đại phu nói: “Đạ tạ hảo ý của hai vị. Nhưng tại hạ không sai. Thuốc là do nàng ta cướp đi. Tại hạ còn dặn nàng ta thang thuốc đó phải do chính tay tại hạ sắc mới uống được, không được tự tiện sắc thuốc. Nàng ta không nghe lời cho nên trúng độc không phải trách nhiệm của tại hạ, mà là do sắc thuốc không đúng cách. Phùng thị phải tự mình chịu trách nhiệm. Nếu Phùng thị cứ đổ lỗi cho tại hạ hạ độc con của nàng ta. Hai vị đại phu cũng nghĩ tại hạ kê đơn sai, dùng Phụ tử quá liều làm cho A Đại trúng độc. Chúng ta có thể kiểm tra xem A Đại trúng độc là do lỗi của ai. Hai vị nghĩ sao?”

Trang, Tiếu đại phu cùng nhìn nhau rồi cả hai cùng hỏi: “Kiểm tra thế nào?”

“Theo đơn thuốc của tại hạ, lấy dược của quý đường, tự tay tại hạ sẽ sắc thuốc ở đây. Sau khi sắc xong, chính tại hạ sẽ uống thuốc xem tại hạ có bị trúng độc không. Nếu không trúng độc, chứng minh đơn thuốc của tại hạ đúng. Nếu tại hạ bị trúng độc sẽ lập tức bồi thường cho Phùng thị năm trăm lượng bạc. Nếu tại hạ trúng độc chết, đó là tại hạ gieo gió gặt bão”.

Hai vị đại phu kinh hãi, cả hai khoát tay nói: “Không được! Mười tám tiền Phụ tử đủ để giết chết mấy người. Tuyệt đối không được”.

“Trúng độc Phụ tử không chết nhanh được. Hơn nữa ở đây còn có hai vị, các vị sẽ không để tại hạ trúng độc chết, đúng không?”

Trang, Tiếu đại phu cùng suy nghĩ một lát, cả hai thấy hắn nói cũng đúng liền gật đầu.

Phùng thị lạnh lùng nói: “Chỉ cần ngươi trúng độc, ngươi phải bồi thường tiền cho ta. Năm trăm lạng. Không được nuốt lời”.

“Đương nhiên!” Đỗ Văn Hạo quay nhìn Phùng thị, hắn lạnh nhạt nói: “Nhưng ta nói cho ngươi biết, ngươi năm lần bảy lượt vu oan hãm hại ta. Nếu lát nữa ta uống thuốc xong, không việc gì, chứng minh cách sắc thuốc của ngươi sai. Đó là tội ngươi vu oan phỉ báng ta, ngươi phải dập đầu tạ lỗi”.

“Còn lâu! Dựa vào cái gì mà muốn ta dập đầu?”

A Đại không chịu được nữa, nó cố đứng dậy, buồn rầu nói: “Mẫu thân! Chắc chắn là do lỗi sắc thuốc của chúng ta. Mẫu thân còn cố chấp như thế. Con…, con đập đầu chết ở đây này”.

Phùng thị càng hoảng sợ, nàng ta vội vàng ôm A Đại vào lòng: “Được, được, mẫu thân không nói nữa! Dập đầu thì dập đầu. Trong đời mẫu thân ngày nào cũng phải dập đầu, không mười cái thì tám cái. Không sao cả”.

Chương 145: Cách tiêu độc thần kỳ.

“Tốt lắm, cứ như vậy đi!” Trang đại phu đưa tay ra: “Đưa đơn thuốc để ta lấy dược”.

Phùng thị đem phương thuốc cho Trang đại phu, ông nhìn lướt qua cạnh hai chữ “phụ tử” của đơn thuốc là hai chữ mười tám”, lại liếc mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, thở dài, lắc đầu đi tới quầy gi­ao cho tiểu nhị lấy thuốc.

Sau khi lấy đủ thuốc, tiểu nhị cầm lại đưa cho Đỗ Văn Hạo bọn họ ba người xem qua. Ba người đều không có lầm, quả nhiên là mười tám tiền phụ tử. Một tiểu nhị khác mang hỏa lò tới, nồi đất nấu thuốc, còn có trát đao bào chế dược liệu, bát đồng, kim châm cứu. V. V.

Đỗ Văn Hạo nói: “Việc sắc thuốc này cũng là bí mật bất truyền của ta, ta phải một mình sắc thuốc, không thể có người ở bên cạnh quan sát!”

Phùng thị lạnh lùng nói: “Như vậy không được! Vạn nhất ngươi giở trò quỷ thì làm sao bây giờ?”

“Làm như thế này đi, đem bếp lò tới giữa đại đường, gọi mấy người tiểu nhị kéo vải bố vây quanh lại, sau khi các ngươi lục soát thân thể ta mới đi vào. Hơn nữa, sắc thuốc xong còn phải kiểm tra dược liệu ở bên trong.”

Trang đại phu cùng Tiếu đại phu cũng cùng chung ý nghĩ.

Sự việc tọa đường đại phu của Phù Vân Đường và Huệ Nhân Đường thi đấu y lý đã lan truyền rộng rãi, trước cửa càng lúc càng náo nhiệt. Thấy Đỗ Văn Hạo là đại phu tuổi còn trẻ, có thể cùng đại phu Huệ Nhân Đường nói chuyện, còn dám chính mình tự mình uống thuốc nếm thử xem có hay không có độc để chứng minh mình đúng, có lòng can đảm này, không ít người cũng lên tiếng ủng hộ.

Vải trắng rất nhanh được kéo tới, dưới sự giám sát của Phùng thị, sau khi Trang đại phu cùng Tiếu đại phu hai người kiểm tra trên người Đỗ Văn Hạo không có đồ gì, Đỗ Văn Hạo tiến vào trong trướng.

Chỉ chốc lát, bên trong truyền đến âm thanh ồn ào, lại sau một lúc lâu, Đỗ Văn Hạo vén màn trướng lên rồi đi ra, vỗ vỗ bàn tay, hướng Trang đại phu chắp tay nói: “Được rồi! Phải phí chút công phu nữa. Sau nửa canh giờ ta trở lại.” Hắn lại hướng Tân Cửu Nương nói: “Ngươi phái người lưu lại không để ai đi vào!”

“Vâng! Thiếu gia!”

Đỗ Văn Hạo mang theo Bàng Vũ Cầm. Dưới sự bảo vệ của Tân Cửu Nương rời khỏi nơi này.

Phùng thị gấp giọng hướng Trang đại phu nói: “Này! Không thể để hắn đi như vậy được! Nếu hắn chạy thì làm sao bây giờ?”

Trang đại phu cả giận nói: “Người ta nếu muốn chạy thì còn tự mình đi đến đây làm gì? Bây giờ đã ở đây kiểm tra phương thuốc này. Ngươi cứ im lặng mà chờ. Nếu còn ồn ào vô lý sẽ đem ngươi đuổi ra ngoài. Không được quản chuyện này nữa!”

Phùng Thị vội vàng câm miệng. Bây giờ ả phải hoàn toàn trông cậy vào hai vị đại phu thay mình làm chứng. Nếu không, sẽ là kiện cáo sai pháp luật. Lúc này không thể đắc tội với bọn họ.

Trang đại phu cùng Tiếu đại phu thấy Đỗ Văn Hạo dường như rất chắc chắn, trong lòng cũng phải nghi hoặc đại phu này tuổi còn trẻ thế mà có biện pháp làm cho mười tám tiền phụ tử kịch độc mất đi độc tố sao? Rốt cuộc dùng biện pháp gì? Hai người nghĩ muốn nát đầu cũng không có kết luận. Dứt khoát không suy nghĩ nữa, yên lặng chờ kết quả.

Rất nhanh, nửa canh giờ trôi qua. Đỗ Văn Hạo mang theo Bàng Vũ Cầm, Tân Cửu Nương trở lại Huệ Nhân Đường.

Sau Khi tiến hành kiểm tra lần nữa, Đỗ Văn Hạo lại tiến vào trong trướng. Lúc này đây, dược hương đã tỏa ra.

Sau khi Đỗ Văn Hạo đi ra liền hướng hai vị đại phu chắp tay nói: “Lần này cần chờ hai canh giờ. Đến lúc đó ta sẽ quay lại.”

Phùng Thị nói: “Ngươi làm cái quỷ gì vậy! Lần trước chữa cho con ta, sắc thuốc cũng lâu như vậy sao?”

A Đại độc đã giải gần hết ở bên giường nói: “Mẫu thân! Lần trước cũng lâu như vậy không khác là mấy, từ sáng sớm cho tới giữa trưa cũng nhiều hơn hai canh giờ.”

Phùng thị lúc này mới không ồn ào nữa, bất quá con ngươi đảo tới đảo lui không biết lại đang chú ý cái gì.

Sau hai canh giờ cũng đã là giữa trưa, Đỗ Văn Hạo mang theo Bàng Vũ Cầm, Tân Cửu Nương lần nữa đi tới Huệ Nhân đường.

Còn chưa tới cửa, ba người đã cảm thấy hoảng sợ, chỉ thấy ở cửa người người chen chúc đông như xem hội.

Thì ra, trong hai canh giờ này, Phùng thị ngồi ở cửa gào khóc, vừa khóc vừa nói nàng cùng con mình sinh sống nương tựa vào nhau, thêm mắm thêm muối mà lặp đi lặp lại kể lại chuyện trải qua, còn có chuyện song phương đánh cuộc uống chén thuốc độc. A Đại khuyên mấy lần, nàng cũng không nghe, không thể làm gì khác hơn là tức giận trốn ở trong đường.

Kết quả là, càng ngày càng nhiều người chạy lại đây xem náo nhiệt, cũng muốn nhìn một chút đại phu tuổi còn trẻ kia dùng thuốc là mười tám tiền phụ tử độc hại có chết hay không. Việc này quả thật là làm cho người ta hứng thú, chờ tới khi mấy người Đỗ Văn Hạo tới nơi, cửa đã đầy người.

Việc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của Đỗ Văn Hạo, vốn định nói lý để giải quyết, không ngờ Phùng thị lại làm ra chuyện ầm ĩ như vậy, lại còn kéo tới nhiều người như thế.

Hiện tại thì tên đã ở trên dây cung không thể không bắn rồi. Việc này ồn ào lớn như vậy, sợ rằng sau khi xong chuyện này, lại phải chuyển nhà ẩn cư rồi.

Trong khi mọi người đều nghị luận, Đỗ Văn Hạo cùng mấy người đi vào Huệ Nhân đường. Phân phó đem vải trắng vây quanh cất đi, lộ ra nồi thuốc đang bốc hương ngùn ngụt trên hỏa lò.

Có tiểu nhị cầm tới một cái bát sứ, Đỗ Văn Hạo rót thuốc từ trong nồi đất vào trong bát sứ, đặt ở một bên chờ nguội.

Trang đại phu ho khan một tiếng, nói: “Văn tiên sinh, hay là hủy bỏ việc đánh cuộc này đi? Rất nguy hiểm đó.”

Tiếu đại phu cũng nói: “Đúng vậy, cùng lắm thì bồi thường nàng ta một ít tiền là được, dù sao hài tử cũng đã được cứu, không có việc gì rồi. Sau này dùng thuốc cẩn thận một chút là được.”

Đỗ Văn Hạo nhẹ nhàng cười, chắp tay nói: “Đa tạ hảo ý của hai vị. Ta lần này cũng không phải chỉ là chứng minh chính mình trong sạch, mà còn muốn mượn việc này nói cho hai vị, đối với loại phụ tử vốn là đại độc chi dược này, dùng phương thuốc không thể quá câu nệ như trong phương thuốc cổ, càng không thể quá cẩn thận được”.

Trang đại phu sắc mặt trầm xuống: “Người tuổi trẻ ngươi thật sự là…, lão hủ có ý tốt khuyên ngươi, nhưng ngươi lại sĩ diện giáo huấn lại người. Tùy ngươi vậy!”

“Phùng thị tố cáo ngươi là lang băm ngộ thương người bệnh!”

Đỗ Văn Hạo cười cười, không trả lời, nhìn nước thuốc trong bát, thong thả chờ nó bớt nóng một chút để uống.

Tiếu đại phu thấy bộ dáng không đồng ý của Đỗ Văn Hạo, cũng hơi tức giận, âm thanh lạnh lùng nói: “Người tuổi trẻ, ngươi trước tiên nói một chút xem, phụ tử nên sử dụng như thế nào?”

“Phụ tử đại độc, nhưng cũng có công dụng to lớn, chính là dược vật thường dùng, nhất là đối với một ít chứng bệnh nặng nguy kịch, lại càng không thể thiếu, mà để chữa trị chứng bệnh nặng nguy kịch, dùng phụ tử phải dùng lượng lớn, nếu không giống như muối bỏ biển, cũng chả có tác dụng gì”.

Tiếu đại phu trên dưới đánh giá Đỗ Văn Hạo một chút, nghĩ thầm người này tuổi trẻ kiến giải cũng không tầm thường, thanh âm hòa hoãn lại một chút, nói: “Văn tiên sinh có thể nói cụ thể hơn một chút không?”

“Có thể chứ, ví dụ như như người bệnh bị bất tỉnh nhân sự, bệnh sợ lạnh kinh niên, đau bụng phong hàn mãn tính, chân tay lạnh như băng, mất nước quá nhiều, âm thịnh dẫn tới phù thũng khó tiêu, lạnh thì sinh ra tê liệt, nhức đầu kéo dài, đều có thể buông tay sử dụng lượng lớn phụ tử, không nên quá kiêng dè! Đặc biệt là ‘âm dương cách cự’ cấp tính, âm thịnh dương suy nguy hiểm, lại càng phải sử dụng lượng lớn phụ tử, đừng nói là mười tám tiền, cho dù là là một nửa cân, ta cũng đã từng dùng!”

Trang đại phu cười lạnh một tiếng: “Khoác lác!”

Đỗ Văn Hạo cũng không tức giận, vẫn lãnh đạm như trước, cười nói: “Có phải khoác lác hay không, chờ một lát ta uống xong mười tám tiền phụ tử là biết. Ừm, bây giờ thuốc cũng vừa nguội rồi…”

Tay hắn đang muốn bưng bát, không lưu ý có một người đi tới bên cạnh, đoạt lấy bát, ngửa cổ, ục ục một hơi uống sạch, đúng là A Đại con của Phùng thị!

“Con của ta…Tại sao con lại uống?” Phùng thị sợ đến mặt trắng bệnh, lao tới đỡ lấy con mình: “Nhanh! Nhanh tay móc vào trong cổ họng! Các ngươi nhanh đi múc nước phân lại đây! Nhanh lên!”

“Mẹ!” A Đại tránh khỏi tay mẫu thân, “Thuốc này của Văn tiên sinh khẳng định không có độc, là chúng ta sai lầm! Nhưng mà, cái này dù sao cũng là thuốc mà, là thuốc chữa trị bệnh của ta, Văn tiên sinh lại không bị bệnh của ta, uống thuốc này, sẽ có hại tới thân thể! Chúng ta không nên làm người ta thất vọng! Bọn họ đã cứu mạng của con! Đã cứu mạng nhi tử của người đấy!”

Phùng Thị gấp giọng nói: “Con à, điều này lúc khác hãy nói bây giờ uống nhanh nước phân đã! Nhanh! Các ngươi nhanh đi múc nước phân đến đây!”

Đỗ Văn Hạo từ từ đứng dậy, vỗ vỗ bả vai A Đại: “Ừm, tốt lắm! Biết tạ ơn. Yên tâm, ngươi nếu như trúng độc, ta bồi thường ngươi một cái mạng!”

Phùng Thị cất giọng the thé nói: “Ngươi bồi thường? Mười cái mạng của ngươi cũng không bằng một cái mạng của con ta! Con à, uống nhanh nước phân rồi nôn ra! Các ngươi nhanh đi múc nước phân đi!”

Tiểu nhị của hiệu thuốc đương nhiên sẽ không nghe lời của ả, yên tĩnh chờ hai vị đại phu phân phó.

Tiếu đại phu nói: “Đừng có gấp, yên tâm, có chúng ta ở đây, lúc trước con của ngươi trúng độc phụ tử, một mạch đưa tới đường chúng ta cũng có thể cứu sống, bây giờ ở ngay trong dược đường, còn lo lắng cái gì?”

Trang đại phu gật đầu đồng ý, hỏi A Đại: “Đầu lưỡi, tay chân cháu có tê dại không? Nếu như tê dại lập tức nói cho chúng ta biết!”

A Đại gật đầu: “Không có việc gì, lúc trước cháu đã trúng độc phụ tử, cháu biết bệnh mà!” Dứt lời, A Đại trở lại trên giường ngồi xuống. Trong phòng im ắng, mọi người cũng không nói một tiếng, chăm chú theo dõi hắn.

Nhất là Trang đại phu cùng Tiếu đại phu, ánh mắt hai người khẩn trương cao độ, bọn họ đều nghĩ, không người nào có thể uống mười tám tiền phụ tử lại không bị trúng độc.

Ngoài cửa phòng những người tới xem cũng không nói một tiếng, ai nấy đều khẩn trương không dám thở mạnh. Phía sau nhìn không rõ, chỉ biết là đã uống thuốc, cũng ngẩng đầu kiễng chân lên cao để xem kết quả.

Thời gi­an trôi qua từng chút một, ánh mắt A Đại vẫn bình thường, vẻ kinh ngạc trên mặt Trang đại phu cùng Tiếu đại phu ngày càng đậm, sau thời gi­an ăn xong bữa cơm, hai vị đại phu kinh ngạc đến hai tròng mắt cũng trợn tròn lên, nhưng A Đại vẫn như cũ không có chút dấu hiệu bị trúng độc.

Phụ tử là một loại độc thần kinh, kích thích cảm giác thần kinh vận động của người, cho nên sẽ rất nhanh xuất hiện phản ứng trúng độc. Tuy nhiên qua lâu như vậy mà không có xuất hiện tình trạng trúng độc, đủ để nói rõ A Đại không có trúng độc!

Kết quả này thật kỳ lạ ngoài dự liệu của Trang đại phu cùng Tiếu đại phu, hai vị đại phu trước tiên kiểm tra thuốc trong nồi, mười tám tiền phụ tử vẫn còn ở đó. Đỗ Văn Hạo không giở trò quỷ, lại phân biệt kiểm tra toàn diện cho A Đại, cuối cùng Trang đại phu không thể không đỏ mặt lớn tiếng tuyên bố, A Đại uống mười tám tiền phụ tử cũng không có trúng độc.

Sau khi nghe được Trang đại phu cùng Tiếu đại phu tuyên bố kết quả này, lại nhìn thấy ánh mắt bọn họ vừa uể oải lại vừa ngạc nhiên, người xem ngoài cửa cũng sợ ngây người, bảy miệng tám lưỡi lại bắt đầu nghị luận, đều dồn ánh mắt kính sợ về phía Đỗ Văn Hạo.

Phùng thị vẫn không tin, vuốt ve trên dưới A Đại con mình: “Con à, thật sự con không có bị trúng độc chứ?”

A Đại đứng lên hoạt động tay chân: “Mẹ! Con thật sự không có trúng độc! Lúc trước con trúng độc phụ tử, triệu chứng như thế nào con biết rõ mà, bây giờ một chút biểu hiện của bệnh cũng không có, ngược lại cảm giác tay chân so với ban đầu ấm áp hơn nhiều, cũng không có rùng mình nữa rồi!”

Đỗ Văn Hạo cười nhẹ nói: “Bởi vì dùng thuốc đúng bệnh của cháu, sau khi dùng xong hiển nhiên bệnh tình thuyên giảm. Bây giờ, ta trước tiên để lại hai thang thuốc cho cháu dùng trong hai ngày. Nhớ kỹ, một ngày có thể uống bốn năm lần, nhưng mỗi lần không nên uống nhiều quá, nửa bát là được. Uống hết hai thang này cũng không được uống nữa, tránh cho độc tính tích lũy thành ra trúng độc. Hơn nữa, khi đó bệnh của ngươi chắc cũng khỏi hẳn rồi, không nhất định lại phải uống!”

A Đại cảm kích cuống quít tạ ơn.

Chương 146: Chẳng biết điều thứ hai

Sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo tới phục chẩn cho Chiêm mẫu.

Bệnh tình của Chiêm mẫu đã dần ổn định, không còn xuất hiện biến chứng nghiêm trọng. Sau hai ngày thì khôi phục, ho đờm đã đỡ, không cần phải đặt ống để hút đờm nữa, cho nên Đỗ Văn Hạo liền khâu lại vết cắt trên cổ cho bà ta, căn cứ vào tình huống dẫn lưu, cũng bỏ lưu điều đi. Có điều Chiêm mẫu tuổi tác đã cao, tốc độ khôi phục cũng chậm hơn người bình thường, còn phải điều dưỡng thêm vài ngày. Sau khi bà có thể xuống giường đi lại trong phòng, vì để tránh tiết lộ chuyện cơ mật nên không để cho bà ta ra khỏi cửa.

Sau khi phục chẩn xong, Đỗ Văn Hạo lại tọa đường khám bệnh, hắn lưu tâm quan sát những cửa hàng ở hai bên đường và những hộ dân cư hàng xóm, quả nhiên có người đang âm thầm giám sát động tĩnh của phía mình.

Hôm nay người tới Phù Vân đường khám bệnh so với bình thường thì nhiều hơn rất nhiều, đây tất nhiên là do kết quả của trường thi đấu thầy thuốc ngày hôm qua. Điều này khiến bọn Bàng Vũ Cầm rất lo lắng, nhưng đối với Đỗ Văn Hạo mà nói, sau khi biết được đây chính là cái bẫy do triều đình bố trí thì vẫn yên tâm chẩn bệnh cho bệnh nhân. Chỉ là, tư vị làm mồi câu quả thật không được dễ chịu lắm, luôn cảm thấy tựa hồ như có một con cá lớn hung mãnh đang rình rập sau lưng mình.

XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX

Sau khi A Đại uống thuốc của Đỗ Văn Hạo, thân thể về cơ bản đã khỏe mạnh, cho dù vẫn còn hơi yếu, nhưng đã không còn gì đáng ngại, đương nhiên liền đeo sọt theo mẫu thân nhặt ve chai trên đường. Sau một ngày nhặt ve chai, bán đi những thứ phế phẩm thì cũng chỉ đổi được mấy văn tiền.

Sáng ngày hôm sau, Phùng thị chợt bừng tỉnh vì tiếng hô thảm của A Đại, ả ôm lấy nhi tử hỏi: “A Đại, con sao vậy?”

“Con…con đau chết mất! Đau quá…! Đau chết mất…!”

Phùng thị kinh hãi, vừa giúp nhi tử xoa bụng vừa mắng: “Có phải là độc của cây phụ tử hôm qua vẫn chưa giải hết không! Miệng con có ngứa không?” Phùng thị đã biết dấu hiệu điển hình khi bị trúng độc cây phụ tử.

“Không ngứa! Chỉ…đau bụng thôi…, đau lắm…”

“Ối trời! Có phải là lại phạm tới bệnh cũ ở ruột không?”

“Có thể là vậy. So với lần trước thì đau hơn nhiều…như bị dao cắt vậy! Ối trời ơi đau quá…”

“Đừng sợ. Mẹ dẫn con tới chỗ đại phu!” Phùng thị vội vàng mặc y phục cho nhi tử. Bên ngoài trời đang đổ tuyết nên phải mặc hai bộ quần áo mỏng lên người nhi tử để chống lạnh, sau đó đỡ nó dậy, ra khỏi cửa đi tới viện tử. A Đại không đi được, thống khổ quỳ trên tuyết.

Phùng thị lại đi tìm hàng xóm hảo tâm giúp đưa nhi tử tới tiệm thuốc. Ả ngại không muốn tới Huệ Nhân đường cho nên nhờ hàng xóng đưa đến tiệm thuốc khác ở gần để xin đại phu khám bệnh.

Nhưng, chuyện hai ngày trước Phùng thị lấy oán báo ơn, chơi xấu để lừa tiền đã được truyền tới các tiệm thuốc cho nên họ không bằng lòng khám bệnh cho nhi tử của ả. Liên tục tìm tới mấy tiệm thuốc, bất kể là Phùng thị có quỳ xuống khấu đầu như thế nào, những đại phu này đều không bằng lòng khám bệnh cho A Đại.

Hai mẹ con Phùng thị không có tiền chỉ là thứ yếu, cái họ sợ chính là sẽ lại giống như Phù Vân đường, bị người đàn bà chanh chua này bám lấy, có đuổi cũng không đi, giống như thuốc cao bám trên da chó vậy.

Phùng thị tuyệt vọng, ôm nhi tử khóc đến chết đi sống lại, ngồi trên đường gào thét như phát điên. A Đại nói một cách khó nhọc: “Mẹ…, đưa con tới…Huệ Nhân đường! Trang đại phu và Tiếu đại phu nói…, bằng lòng khám bệnh cho con!”

Lúc trước Phùng thị đang cãi nhau, không chú ý bên trong nói gì, hiện tại nghe nhi tử nói vậy, vội vàng cầu xin hàng xóm giúp cõng nó tới Huệ Nhân đường.

Trang đại phu và Tiếu đại phu nhìn thấy Phùng thị đều sầm mặt, có điều thấy A Đại đau thành như vậy, vội vàng đặt nó lên giường, vừa kiểm tra xong thì sắc mặt đại biến. Chứng trạng của A Đại giống như của nhi tử Đông bộ khoái, chính là đại kết hung chứng!

Hai người đều trợn tròn mắt, Tiếu đại phu nói với Phùng thị: “Bệnh của nhi tử ngươi là tuyệt chứng, chúng ta không có năng lực để chữa trị!”

Phùng thị khóc lóc, hai chân mềm nhũn ngã xuống đất: “Hai vị đại phu, cầu xin các vị cứu nhi tử của ta, lúc trước ta đã nói rất nhiều lời hèn hạ, ta xin nhận lỗi! Ta không phải là người!” Phùng thị vừa nói vừa tát mạnh lên mặt mình.

Tiếu đại phu nhíu mày nói: “Ngươi làm gì vậy? Bệnh này của nhi tử ngươi chúng ta thực sự không chữa được, nó mắc phải tuyệt chứng, loại bệnh này ngay cả Thái y thừa Tiền Bất Thu của Thái Y viện cũng không chữa khỏi được, chúng ta càng không có biện pháp! Nhi tử của ngươi không sống được qua hôm nay đâu, hay là về chuẩn bị hậu sự đi.”

Phùng thị cả người mềm oặt, nằm liệt trên đất, ngay cả khóc cũng không nổi.

Tiếu đại phu mềm lòng, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Bệnh mà nhi tử Khai Phong phủ Đổng bộ khoái cũng giống như nhi tử của ngươi, có điều nó rất may mắn, về sau được một ẩn sĩ mang đi, năm ngày sau thì đưa trở về, bệnh hoàn toàn khỏi hẳn.”

Phùng thị nghe vậy, vội vàng gạt nước mắt, nói: “Dị nhân này ở đâu? Ta đi cầu hắn cứu nhi tử của ta!”

“Không ai biết hắn ở đâu, đúng rồi, mấy ngày trước lão mẫu của Chiêm đại nhân, lễ bộ khảo công tư lang trung cũng bị đại kết hung chứng, sau đó khổ cực quỳ ở trong viện tử của Đổng bộ khoái để van xin, vị dị nhân đó quả nhiên xuất hiện, đem lão mẫu của hắn đi, chỉ là hiện tại còn không có tin tức, cũng không biết là đã chữa khỏi hay chưa. Ngươi nếu có lòng, thì có thể đi thỉnh cầu.

Phùng thị vội vàng bò dậy, sau khi hỏi địa chỉ thì lại nhờ hàng xóm cõng nhi tử tới nhà Đổng bộ khoái.

Đổng bộ khoái là một người nhiệt tâm, sau khi nghe xong tình huống, khó xử nói: “Dị nhiên lần trước xuất hiện vào buổi tối, mặt đeo khăn đen, hiện tại là ban ngày, e rằng dị nhân sẽ không xuất hiện, hiện tại có cầu cũng vô dụng.”

Có điều tuy nói vậy, hắn vẫn không chịu nổi sự cầu xin của Phùng thị, treo vải xanh ở ngoài cửa, khênh một cái giường nhỏ ra đặt ở viện tử, rồi đặt hài tử của ả lên nằm, tất cả mọi người đều tránh đi, chỉ còn một mình Phùng thị ở lại đó.

Hộ vệ phụ trách trông coi của Đỗ Văn Hạo cũng thấy, có điều, chuyện Phùng thị cãi vã ở Phù Vân đường bọn họ đều đã biết, hai người rất ghét ả Phùng thị này, cho nên, không báo cáo lại tình huống này.

Do đó, Phùng thị quỳ ở viện tử cho đến tận khi trời tối mịt.

Người nhà Đổng bộ khoái cầm chăn bông tới cho ả nhưng ả không cần, chỉ đắp chăn lên người nhi tử. Đổng bộ khoái lấy đệm muốn lót dưới gối ả, nhưng ả cũng không cần, tựa hồ như quỳ trên đất thì mới biểu lộ được lòng thành kính của ả.

Tuyết lớn bay lả tả, phủ đầy lên người ả tạo thành một người tuyết, ban đầu thì ả run rẩy kịch liệt, về sau thì cả người lạnh cóng, cuối cùng thì tay chân tê dại, nhưng Phùng thị trước sau vẫn quỳ dưới đất không chịu đứng lên, đau khổ ngẩng mặt lên trời cầu xin, thanh âm từ lanh lảnh, sau thành bi thương, cuối cùng thì khàn khàn khiến người ta không phân biệt được ả đang nói gì, cho dù toàn thân gần như là tê cóng, nhưng đôi bàn tay khô gầy của ả vẫn kiên cường mà từ tốn đưa lên không vái lạy.

Người nhà Đổng bộ khoái hết đi ra rồi lại đi vào bảo Phùng thị vào nhả nhưng ả căn bản không nghe, vẫn quỳ dưới đất không đứng lên. Người nhà Đổng bộ khoái chỉ đành không ngừng giúp lau tuyết trên mặt nhi tử của Phùng thị đang nằm trên giường phía sau ả. A Đại ban ngày còn đau đến nỗi lăn lộn trên giường kêu thảm, tới buổi tối thì biến thành lúc mê lúc tỉnh.

Khi trời về đêm, Chiêm đề của lễ bộ khảo công tư lang trung đến.

Hắn mỗi tối đều tới nhà Đổng bộ khoái đợi dị nhân đưa mẫu thân về, sau khi nghe Đổng bộ khoái nói, cũng có chút đồng bệnh tương liên, phân phó hạ nhân đi mua bánh bao nóng về cho Phùng thị ăn để ả còn có sức tiếp tục quỳ.

Nhưng bánh báo đưa đến trước mặt Phùng thị, ả tuy nhìn thấy, nhưng toàn thân đã lạnh cóng thành tê cứng, ngay cả tròng mắt cũng đông cứng, chỉ có tay là vẫn giơ lên trời thi lễ.

Chiêm Đề nhíu mày nói: “Thế này không được đâu, trời lạnh thế này, bà ta không chịu được bao lâu đâu, không khéo hài tử còn chưa được người cứu thì bà ta đã chết trước rồi! Đưa bà ta vào trong nhà đã rồi tính tiếp!”

Mấy hàng xóm nhiệt tâm vẫn luôn ở cùng, nghe thấy lời này, vội vàng khênh Phùng thị chân tay đã lạnh cóng, thần chí thì mơ hồ vào trong nhà, sau đó thì mặc cho ả thêm một cái quần dày, quấn chăn bông lên người ả rồi đặt lên giường ấm.

Thê tử của Đông bộ khoái bưng một chén canh nóng cho ả uống, rồi lại khênh A Đại đã đau đến nỗi hôn mê, toàn thân lạnh cóng vào trong nhà để hồi sức.

Một lát sau, A Đại tỉnh lại trước tiên, lại đau đến nỗi không ngừng kêu thảm. Tiếp theo đó thì Phùng thị cũng tỉnh lại, vừa nghe thấy thanh âm này, lại bò dậy, không nói câu gì, ôm nhi tử lảo đảo đi ra ngoài, không ai dám ngăn cản, đành theo ả ra viện tử.

Phùng thị đặt con lên giường rồi đắp chăn cho nó, quay đầu lại nhìn Chiêm Đề, phu thê Đổng bộ khoái và mấy hàng xóm nhiệt tâm, giọng khàn khàn nói: “Các ngươi còn khênh ta vào trong nhà…, làm chậm trễ ta…khẩn cầu dị nhân thần y cứu mạng, lão bà ta chết…, sẽ tìm các ngươi…bồi mạng! Cút! Cút hết đi!”

Trong viện tử tích đầy tuyết, chỉ còn lại Phùng thị quỳ trên đất, tiếp tục giọng khàn khàn khẩn cầu, tay đưa lên trời thi lễ. Trên chiếc giường nhỏ đằng sau ả, nhi tử A Đại đang ôm bụng kêu thảm.

Qua ba canh, bốn canh, năm canh…

Phùng thị sớm đã không phát ra nổi thanh âm nào nữa, đóng thành một người băng trong tư thế quỳ, Chiêm Đề đã phân phó, chỉ đợi Phùng thị ngã xuống, hoặc là tay chân không có động tĩnh thì sẽ không thèm để ý đến sự uy hiếp của ả, cũng phải lập tức ra ngoài cứu người. Nhưng, hai cánh tay khô gầy của Phùng thị vẫn luôn hơi máy động, giơ lên không thi lễ.

Một đêm trôi qua, dị nhân không xuất hiện.

Khi phía đông bắt đầu lộ ra màu trắng bạc, lúc tia nắng ban mai chiếu lên khuôn mặt già nua đầy tuyết của Phùng thị, khóe miệng ả cuối cùng cũng lộ ra một nụ cười thê lương, thân hình run rẩy ngã xuống đất.

Cho dù nhiều năm nghèo khổ nhặt ve chai để kiếm sống, khiến năng lực kháng lạnh của Phùng thị vượt quá người thường, lại thêm vì mong mỏi nhi tử được cứu chữa, khiến ả ngoan cường trải qua cái lạnh một ngày một đêm. Nhưng hiện tại trời đã sáng, dị nhân thần y vẫn chưa xuất hiện, hi vọng cuối cùng của ả đã tiêu tan theo nắng mai vừa hiện lên, tinh thần cũng sụp đổ.

Mọi người ở trong nhà vội vàng chạy ra, đưa Phùng thị đã đóng thành tượng băng và A Đại đang hôn mê bất tỉnh vào trong nhà, đặt ả lên giường ấm rồi đắp chăn kín người, sau đó thì cho ả uống canh nóng.

Qua một lúc lâu, Phùng thị mới từ từ mở mắt, một giọt nước mắt đục ngầu từ khóe mắt ả chảy xuống.

Ả hiện tại đã hiểu rồi, Chiêm Đề Chiêm đại nhân quỳ trên tuyết một đêm thì dị nhân thần y xuất hiện, còn mình quỳ cả một ngày một đêm mà dị nhân thủy chung vẫn không lộ diện, e rằng dị nhân thần y chán ghét một mụ đàn bà chanh chua, lấy oán báo ân như mình, cho nên không thèm lộ diện để cứu chữa nhi tử của mình.

Nếu thực sự là như vậy thì chính mình đã hại nhi tử của mình rồi.

Phùng thị lần đầu tiên rơi lệ hối hận vì sự chanh chua ngang ngược của mình.

Phùng thị lảo đảo từ trên giường lò bò dậy, khập khiễng tới cạnh nhi tử, nắm lấy hai tay nó, cúi người xuống, gi­an nan cõng nhi tử lên, không nói câu gì, bước ra ngoài cửa rồi đi trong gió tuyết.

A Đại cảm kích cuống quít tạ ơn.

Chương 147: Phong tuyết từ mẫu tâm

Sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo tới phục chẩn cho Chiêm mẫu.

Bệnh tình của Chiêm mẫu đã dần ổn định, không còn xuất hiện biến chứng nghiêm trọng. Sau hai ngày thì khôi phục, ho đờm đã đỡ, không cần phải đặt ống để hút đờm nữa, cho nên Đỗ Văn Hạo liền khâu lại vết cắt trên cổ cho bà ta, căn cứ vào tình huống dẫn lưu, cũng bỏ lưu điều đi. Có điều Chiêm mẫu tuổi tác đã cao, tốc độ khôi phục cũng chậm hơn người bình thường, còn phải điều dưỡng thêm vài ngày. Sau khi bà có thể xuống giường đi lại trong phòng, vì để tránh tiết lộ chuyện cơ mật nên không để cho bà ta ra khỏi cửa.

Sau khi phục chẩn xong, Đỗ Văn Hạo lại tọa đường khám bệnh, hắn lưu tâm quan sát những cửa hàng ở hai bên đường và những hộ dân cư hàng xóm, quả nhiên có người đang âm thầm giám sát động tĩnh của phía mình.

Hôm nay người tới Phù Vân đường khám bệnh so với bình thường thì nhiều hơn rất nhiều, đây tất nhiên là do kết quả của trường thi đấu thầy thuốc ngày hôm qua. Điều này khiến bọn Bàng Vũ Cầm rất lo lắng, nhưng đối với Đỗ Văn Hạo mà nói, sau khi biết được đây chính là cái bẫy do triều đình bố trí thì vẫn yên tâm chẩn bệnh cho bệnh nhân. Chỉ là, tư vị làm mồi câu quả thật không được dễ chịu lắm, luôn cảm thấy tựa hồ như có một con cá lớn hung mãnh đang rình rập sau lưng mình.

XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX

Sau khi A Đại uống thuốc của Đỗ Văn Hạo, thân thể về cơ bản đã khỏe mạnh, cho dù vẫn còn hơi yếu, nhưng đã không còn gì đáng ngại, đương nhiên liền đeo sọt theo mẫu thân nhặt ve chai trên đường. Sau một ngày nhặt ve chai, bán đi những thứ phế phẩm thì cũng chỉ đổi được mấy văn tiền.

Sáng ngày hôm sau, Phùng thị chợt bừng tỉnh vì tiếng hô thảm của A Đại, ả ôm lấy nhi tử hỏi: “A Đại, con sao vậy?”

“Con…con đau chết mất! Đau quá…! Đau chết mất…!”

Phùng thị kinh hãi, vừa giúp nhi tử xoa bụng vừa mắng: “Có phải là độc của cây phụ tử hôm qua vẫn chưa giải hết không! Miệng con có ngứa không?” Phùng thị đã biết dấu hiệu điển hình khi bị trúng độc cây phụ tử.

“Không ngứa! Chỉ…đau bụng thôi…, đau lắm…”

“Ối trời! Có phải là lại phạm tới bệnh cũ ở ruột không?”

“Có thể là vậy. So với lần trước thì đau hơn nhiều…như bị dao cắt vậy! Ối trời ơi đau quá…”

“Đừng sợ. Mẹ dẫn con tới chỗ đại phu!” Phùng thị vội vàng mặc y phục cho nhi tử. Bên ngoài trời đang đổ tuyết nên phải mặc hai bộ quần áo mỏng lên người nhi tử để chống lạnh, sau đó đỡ nó dậy, ra khỏi cửa đi tới viện tử. A Đại không đi được, thống khổ quỳ trên tuyết.

Phùng thị lại đi tìm hàng xóm hảo tâm giúp đưa nhi tử tới tiệm thuốc. Ả ngại không muốn tới Huệ Nhân đường cho nên nhờ hàng xóng đưa đến tiệm thuốc khác ở gần để xin đại phu khám bệnh.

Nhưng, chuyện hai ngày trước Phùng thị lấy oán báo ơn, chơi xấu để lừa tiền đã được truyền tới các tiệm thuốc cho nên họ không bằng lòng khám bệnh cho nhi tử của ả. Liên tục tìm tới mấy tiệm thuốc, bất kể là Phùng thị có quỳ xuống khấu đầu như thế nào, những đại phu này đều không bằng lòng khám bệnh cho A Đại.

Hai mẹ con Phùng thị không có tiền chỉ là thứ yếu, cái họ sợ chính là sẽ lại giống như Phù Vân đường, bị người đàn bà chanh chua này bám lấy, có đuổi cũng không đi, giống như thuốc cao bám trên da chó vậy.

Phùng thị tuyệt vọng, ôm nhi tử khóc đến chết đi sống lại, ngồi trên đường gào thét như phát điên. A Đại nói một cách khó nhọc: “Mẹ…, đưa con tới…Huệ Nhân đường! Trang đại phu và Tiếu đại phu nói…, bằng lòng khám bệnh cho con!”

Lúc trước Phùng thị đang cãi nhau, không chú ý bên trong nói gì, hiện tại nghe nhi tử nói vậy, vội vàng cầu xin hàng xóm giúp cõng nó tới Huệ Nhân đường.

Trang đại phu và Tiếu đại phu nhìn thấy Phùng thị đều sầm mặt, có điều thấy A Đại đau thành như vậy, vội vàng đặt nó lên giường, vừa kiểm tra xong thì sắc mặt đại biến. Chứng trạng của A Đại giống như của nhi tử Đông bộ khoái, chính là đại kết hung chứng!

Hai người đều trợn tròn mắt, Tiếu đại phu nói với Phùng thị: “Bệnh của nhi tử ngươi là tuyệt chứng, chúng ta không có năng lực để chữa trị!”

Phùng thị khóc lóc, hai chân mềm nhũn ngã xuống đất: “Hai vị đại phu, cầu xin các vị cứu nhi tử của ta, lúc trước ta đã nói rất nhiều lời hèn hạ, ta xin nhận lỗi! Ta không phải là người!” Phùng thị vừa nói vừa tát mạnh lên mặt mình.

Tiếu đại phu nhíu mày nói: “Ngươi làm gì vậy? Bệnh này của nhi tử ngươi chúng ta thực sự không chữa được, nó mắc phải tuyệt chứng, loại bệnh này ngay cả Thái y thừa Tiền Bất Thu của Thái Y viện cũng không chữa khỏi được, chúng ta càng không có biện pháp! Nhi tử của ngươi không sống được qua hôm nay đâu, hay là về chuẩn bị hậu sự đi.”

Phùng thị cả người mềm oặt, nằm liệt trên đất, ngay cả khóc cũng không nổi.

Tiếu đại phu mềm lòng, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Bệnh mà nhi tử Khai Phong phủ Đổng bộ khoái cũng giống như nhi tử của ngươi, có điều nó rất may mắn, về sau được một ẩn sĩ mang đi, năm ngày sau thì đưa trở về, bệnh hoàn toàn khỏi hẳn.”

Phùng thị nghe vậy, vội vàng gạt nước mắt, nói: “Dị nhân này ở đâu? Ta đi cầu hắn cứu nhi tử của ta!”

“Không ai biết hắn ở đâu, đúng rồi, mấy ngày trước lão mẫu của Chiêm đại nhân, lễ bộ khảo công tư lang trung cũng bị đại kết hung chứng, sau đó khổ cực quỳ ở trong viện tử của Đổng bộ khoái để van xin, vị dị nhân đó quả nhiên xuất hiện, đem lão mẫu của hắn đi, chỉ là hiện tại còn không có tin tức, cũng không biết là đã chữa khỏi hay chưa. Ngươi nếu có lòng, thì có thể đi thỉnh cầu.

Phùng thị vội vàng bò dậy, sau khi hỏi địa chỉ thì lại nhờ hàng xóm cõng nhi tử tới nhà Đổng bộ khoái.

Đổng bộ khoái là một người nhiệt tâm, sau khi nghe xong tình huống, khó xử nói: “Dị nhiên lần trước xuất hiện vào buổi tối, mặt đeo khăn đen, hiện tại là ban ngày, e rằng dị nhân sẽ không xuất hiện, hiện tại có cầu cũng vô dụng.”

Có điều tuy nói vậy, hắn vẫn không chịu nổi sự cầu xin của Phùng thị, treo vải xanh ở ngoài cửa, khênh một cái giường nhỏ ra đặt ở viện tử, rồi đặt hài tử của ả lên nằm, tất cả mọi người đều tránh đi, chỉ còn một mình Phùng thị ở lại đó.

Hộ vệ phụ trách trông coi của Đỗ Văn Hạo cũng thấy, có điều, chuyện Phùng thị cãi vã ở Phù Vân đường bọn họ đều đã biết, hai người rất ghét ả Phùng thị này, cho nên, không báo cáo lại tình huống này.

Do đó, Phùng thị quỳ ở viện tử cho đến tận khi trời tối mịt.

Người nhà Đổng bộ khoái cầm chăn bông tới cho ả nhưng ả không cần, chỉ đắp chăn lên người nhi tử. Đổng bộ khoái lấy đệm muốn lót dưới gối ả, nhưng ả cũng không cần, tựa hồ như quỳ trên đất thì mới biểu lộ được lòng thành kính của ả.

Tuyết lớn bay lả tả, phủ đầy lên người ả tạo thành một người tuyết, ban đầu thì ả run rẩy kịch liệt, về sau thì cả người lạnh cóng, cuối cùng thì tay chân tê dại, nhưng Phùng thị trước sau vẫn quỳ dưới đất không chịu đứng lên, đau khổ ngẩng mặt lên trời cầu xin, thanh âm từ lanh lảnh, sau thành bi thương, cuối cùng thì khàn khàn khiến người ta không phân biệt được ả đang nói gì, cho dù toàn thân gần như là tê cóng, nhưng đôi bàn tay khô gầy của ả vẫn kiên cường mà từ tốn đưa lên không vái lạy.

Người nhà Đổng bộ khoái hết đi ra rồi lại đi vào bảo Phùng thị vào nhả nhưng ả căn bản không nghe, vẫn quỳ dưới đất không đứng lên. Người nhà Đổng bộ khoái chỉ đành không ngừng giúp lau tuyết trên mặt nhi tử của Phùng thị đang nằm trên giường phía sau ả. A Đại ban ngày còn đau đến nỗi lăn lộn trên giường kêu thảm, tới buổi tối thì biến thành lúc mê lúc tỉnh.

Khi trời về đêm, Chiêm đề của lễ bộ khảo công tư lang trung đến.

Hắn mỗi tối đều tới nhà Đổng bộ khoái đợi dị nhân đưa mẫu thân về, sau khi nghe Đổng bộ khoái nói, cũng có chút đồng bệnh tương liên, phân phó hạ nhân đi mua bánh bao nóng về cho Phùng thị ăn để ả còn có sức tiếp tục quỳ.

Nhưng bánh báo đưa đến trước mặt Phùng thị, ả tuy nhìn thấy, nhưng toàn thân đã lạnh cóng thành tê cứng, ngay cả tròng mắt cũng đông cứng, chỉ có tay là vẫn giơ lên trời thi lễ.

Chiêm Đề nhíu mày nói: “Thế này không được đâu, trời lạnh thế này, bà ta không chịu được bao lâu đâu, không khéo hài tử còn chưa được người cứu thì bà ta đã chết trước rồi! Đưa bà ta vào trong nhà đã rồi tính tiếp!”

Mấy hàng xóm nhiệt tâm vẫn luôn ở cùng, nghe thấy lời này, vội vàng khênh Phùng thị chân tay đã lạnh cóng, thần chí thì mơ hồ vào trong nhà, sau đó thì mặc cho ả thêm một cái quần dày, quấn chăn bông lên người ả rồi đặt lên giường ấm.

Thê tử của Đông bộ khoái bưng một chén canh nóng cho ả uống, rồi lại khênh A Đại đã đau đến nỗi hôn mê, toàn thân lạnh cóng vào trong nhà để hồi sức.

Một lát sau, A Đại tỉnh lại trước tiên, lại đau đến nỗi không ngừng kêu thảm. Tiếp theo đó thì Phùng thị cũng tỉnh lại, vừa nghe thấy thanh âm này, lại bò dậy, không nói câu gì, ôm nhi tử lảo đảo đi ra ngoài, không ai dám ngăn cản, đành theo ả ra viện tử.

Phùng thị đặt con lên giường rồi đắp chăn cho nó, quay đầu lại nhìn Chiêm Đề, phu thê Đổng bộ khoái và mấy hàng xóm nhiệt tâm, giọng khàn khàn nói: “Các ngươi còn khênh ta vào trong nhà…, làm chậm trễ ta…khẩn cầu dị nhân thần y cứu mạng, lão bà ta chết…, sẽ tìm các ngươi…bồi mạng! Cút! Cút hết đi!”

Trong viện tử tích đầy tuyết, chỉ còn lại Phùng thị quỳ trên đất, tiếp tục giọng khàn khàn khẩn cầu, tay đưa lên trời thi lễ. Trên chiếc giường nhỏ đằng sau ả, nhi tử A Đại đang ôm bụng kêu thảm.

Qua ba canh, bốn canh, năm canh…

Phùng thị sớm đã không phát ra nổi thanh âm nào nữa, đóng thành một người băng trong tư thế quỳ, Chiêm Đề đã phân phó, chỉ đợi Phùng thị ngã xuống, hoặc là tay chân không có động tĩnh thì sẽ không thèm để ý đến sự uy hiếp của ả, cũng phải lập tức ra ngoài cứu người. Nhưng, hai cánh tay khô gầy của Phùng thị vẫn luôn hơi máy động, giơ lên không thi lễ.

Một đêm trôi qua, dị nhân không xuất hiện.

Khi phía đông bắt đầu lộ ra màu trắng bạc, lúc tia nắng ban mai chiếu lên khuôn mặt già nua đầy tuyết của Phùng thị, khóe miệng ả cuối cùng cũng lộ ra một nụ cười thê lương, thân hình run rẩy ngã xuống đất.

Cho dù nhiều năm nghèo khổ nhặt ve chai để kiếm sống, khiến năng lực kháng lạnh của Phùng thị vượt quá người thường, lại thêm vì mong mỏi nhi tử được cứu chữa, khiến ả ngoan cường trải qua cái lạnh một ngày một đêm. Nhưng hiện tại trời đã sáng, dị nhân thần y vẫn chưa xuất hiện, hi vọng cuối cùng của ả đã tiêu tan theo nắng mai vừa hiện lên, tinh thần cũng sụp đổ.

Mọi người ở trong nhà vội vàng chạy ra, đưa Phùng thị đã đóng thành tượng băng và A Đại đang hôn mê bất tỉnh vào trong nhà, đặt ả lên giường ấm rồi đắp chăn kín người, sau đó thì cho ả uống canh nóng.

Qua một lúc lâu, Phùng thị mới từ từ mở mắt, một giọt nước mắt đục ngầu từ khóe mắt ả chảy xuống.

Ả hiện tại đã hiểu rồi, Chiêm Đề Chiêm đại nhân quỳ trên tuyết một đêm thì dị nhân thần y xuất hiện, còn mình quỳ cả một ngày một đêm mà dị nhân thủy chung vẫn không lộ diện, e rằng dị nhân thần y chán ghét một mụ đàn bà chanh chua, lấy oán báo ân như mình, cho nên không thèm lộ diện để cứu chữa nhi tử của mình.

Nếu thực sự là như vậy thì chính mình đã hại nhi tử của mình rồi.

Phùng thị lần đầu tiên rơi lệ hối hận vì sự chanh chua ngang ngược của mình.

Phùng thị lảo đảo từ trên giường lò bò dậy, khập khiễng tới cạnh nhi tử, nắm lấy hai tay nó, cúi người xuống, gi­an nan cõng nhi tử lên, không nói câu gì, bước ra ngoài cửa rồi đi trong gió tuyết.

Chương 148: Ngôi sao hi vọng

Mấy ngón tay trên đôi bàn tay của Phùng thị đã cóng thành màu tím sẫm, có một ngón bị hoại tử đã lộ ra cả đầu xương. Chiêm Đề và phu thê Đổng bộ khoái, còn có mấy hàng xóm nhiệt tâm muốn đi tới giúp ả cõng hài tử, nhưng Phùng thị có chết cũng không chịu buông nhi tử ra, cũng không để ý đến mọi người, từng bước tiến về phía trước trong gió tuyết. Mấy hàng xóm chỉ đành ở bên cạnh và đằng sau đỡ Phùng thị và A Đại, cùng ả về nhà.

Phùng thị đi rất chậm, đôi mắt già nua của ả đã biến thành màu tro tàn, tóc hoa râm nhuộm hoa tuyết, trên mặt không có chút biểu tình gì. Ả cõng nhi tử lê bước trên mặt tuyết, để lại hai đường vết chân dài dài.

Khi đến cửa Phù Vân đường, Phùng thị đột nhiên dừng lại.

Ả chầm chậm quay đầu, nhìn cửa tiệm thuốc đã đóng kín, đột nhiên, ánh mắt ngốc trệ của ả biến thành có một tia sinh khí, giống như người sắp chết đuối đột nhiên vớ được một cọng cỏ cứu mạng.

Phùng thị cõng nhi tử lảo đảo, gi­an nan bước lên thềm đá, tới trước cửa, chầm chậm cúi người xuống, để cho nhi tử có thể nằm trên lưng mình mà không rơi xuống, giơ một cánh tay lên, gắng sức gõ cửa.

Một tiếng “rắc” vang lên, ngón tay đã đông cứng hoại tử của ả gãy rời, những mẩu thịt liên tiếp rơi rụng trên không trung, đung đưa theo tiếng gõ cửa.

Phùng thị như không cảm thấy gì, rầm rầm rầm, lại gõ cửa thêm mấy cái.

Cửa kẽo kẹt được mở ra, tiểu nhị Thành Kim và Nhan Duyệt mắt ti hí thò đầu ra, nói với mấy vị hàng xóm: “Mấy vị khách quan đến sớm quá!” Nhìn thân hình của lão phụ đang cúi lưng cõng hài tử thấy có chút quen quen, nhưng nhìn không rõ mặt, liền cúi người xuống nhìn, nụ cười trên mặt hắn lập tức biến mất: “Là ngươi hả? Hừ!”

Thành Kim nhận ra Phùng thị, hừ lạnh muốn tiếng rồi đóng cửa lại.

Tiếng gõ cửa càng lớn hơn, trong cổ họng cũng phát ra thanh âm khàn khàn, nhưng một đêm ngày hôm nay, ả đã gào đến khản cả cổ rồi, chỉ có thể phát ra mấy tiếng khàn khàn nghe không rõ

Hàng xóm hảo tâm lại gõ cửa, gọi đại phu cứu mạng.

Một lát sau, Thành Kim lại mở cửa, hừ lạnh nói với Phùng thị: “Ngươi hại thiếu gia của chúng ta còn chưa đủ à? Lại muốn tới đây phá rối gì nữa?”

Phùng thị muốn nắm tay giơ ngón cái lên cầu khẩn, nhưng phát hiện ba ngón tay trên bàn tay phải đã hoàn toàn không còn tri giác, biến thành màu tím sậm, chỉ còn lại ngón trỏ và ngón cái. Động tác nắm quyền giơ ngón cái biến thành “tứ quý tài” trong oẳn tù tì.

Ả gi­an nan dùng tay vịn khung cửa, chầm chậm quỳ xuống đất muốn van cầu. Nhưng cổ họng chỉ có thể phát ra mấy tiếng khàn khàn khó hiểu, chỉ thấy đôi môi khô quắt của ả không ngừng mấp máy, nhưng nghe không rõ ả nói gì.

Hàng xóm ở bên cạnh vội vàng nói: “Vị đại ca này, nhi tử của Phùng thẩm sắp chết rồi, có thể mời đại phu của các người tới cứu nó một mạng không?”

Thành Kim cười lạnh nói: “Loại người lấy oán báo ơn như ả, thiếu gia của chúng ta sẽ không khám bệnh cho đâu, mau đến tiệm thuốc khác đi.”

Các hàng xóm hảo tâm lại nói: “Đại ca, xin mời tiên sinh ra khám bệnh đi, nghe nói Văn đại phu là một người nhiệt tâm, ông ta chắc sẽ nguyện ý cứu mạng mà. Ngươi xem hài tử sắp không xong rồi, cứu một mạng người còn hơn xây bảy cấp phù đồ mà.”

Thành Kim thấy thảm tượng của Phùng thị, lại thấy A Đại bất tỉnh nhân sự, tựa hồ như đã sắp đoạn khí rồi, liền bảo bọn họ đợi ở đây, chạy ra hậu đường bẩm báo với Đỗ Văn Hạo.

Lúc này trời vừa sáng, Đỗ Văn Hạo đã ngủ dậy, đang nói chuyện với bọn Lâm Thanh Đại, vừa nghe thấy vậy, vội vàng chạy tới tiền đường. Bọn Lâm Thanh Đại không yên tâm, cũng chạy ra theo. Hai thủ lĩnh hộ vệ là Hô Duyên Trung và Tân Cửu nương tự nhiên cũng dắt hộ vệ tùy thân đi theo.

Đỗ Văn Hạo vừa nhìn thấy Phùng thị liền giật nảy mình, chỉ thấy ả hình dung khô quắt, ánh mắt ngốc trệ, sắc mặt xám xanh, hai bàn tay giống như móng gà, có mấy ngón tay đã đông cứng hoại tử thành màu tím sẫm. Hơn nữa nhi tử A Đại trên lưng ả đã bất tỉnh nhân sự.

Một người hàng xóm nói: “Văn đại phu, ngài tới thì tốt quá, cứu hài tử này của Phùng thẩm đi.”

Phùng thị lưng cõng hài tử, cúi đầu nghiêng mặt, khẩn cầu: “Văn đại phu, ngài có bản sự biến độc của cây phụ tử thành vô hại, ngay cả hai vị đại phu của Huệ Nhân đường cũng không bằng ngài, ngài nhất định có bản sự cứu nhi tử của ta! Cầu xin ngài cứu nó! Ta sẽ làm trâu làm ngựa để báo đáp ân đức của ngài!”

Những lời này ả nghĩ trong lòng, khi nói ra lại thành tiếng khàn khàn trong cổ họng, không ai nghe rõ.

Đỗ Văn Hạo chẳng phân biệt nổi ả muốn nói gì, gấp giọng bảo hộ vệ đỡ A Đại trên lưng Phùng thị xuống, đặt lên giường, chẩn sát sơ qua, hài tử đã hôn mê rất sâu rồi! Vội vàng lấy kim châm ra châm huyệt cứu nghịch.

Vừa châm huyệt chống sốc vừa hỏi: “Bọn họ bị sao vậy?”

“Chiều ngày hôm qua, nhi tử của Phùng thẩm đột nhiên đau bụng như bị dao cắt, tới tìm đại phụ của Huệ nhân đường, nhưng họ nói không trị được, bảo khênh đến nhà Đổng bộ khoái để cầu dị nhân thần y thiện trường trị loại bệnh này để cứu mạng, Phùng thẩm quỳ trong tuyết ở viện tử một ngày một đêm, cầu xin dị nhân thần y, nhưng thần y thủy chung không lộ mặt.”

Đỗ Văn Hạo nhíu mày, quay đầu nhìn Lâm Thanh Đại, thấy Lâm Thanh Đại mặt mày ngỡ ngàng, hiển nhiên không nhận được tin tức này, xem ra hộ vệ phụ trách canh gác không có báo cáo lên tình huống này rồi.

Phùng thị thấy Đỗ Văn Hạo đang muốn cứu nhi tử của mình, trong đội mắt xám xịt lộ ra vẻ vui mừng, chắp tay thi lễ không ngừng.

A Đại sau khi hơi tỉnh lại, Đỗ Văn Hạo liền kiểm tra ổ bụng của nó.

Hắn kinh ngạc, chứng trạng của hài tử này giống như nhi tử của Đổng bộ khoái và Chiêm mẫu! Chẳng lẽ cũng là do nuốt vàng? Hắn theo tiềm thức đột nhiên có loại cảm giác này.

Có điều hắn không thể trực tiếp đồng ý phẫu thuật cho hài tử này, nếu không sẽ lập tức trở thành một tin tức mới lớn số một trong kinh thành. Đỗ Văn Hạo cùng Lâm Thanh Đại nhỏ giọng thương nghị trong sương phòng, hiện tại trời đã sáng rồi, không tiện mặc quần áo dạ hành để cứu người, hai người thương nghị một lát thì nghĩ ra một biện pháp.

Đỗ Văn Hạo đi ra, nói với Phùng thị: “Nhi tử của ngươi mắc phải tuyệt chứng, ta cũng không có biện pháp.”

Phùng thị cho rằng Đỗ Văn Hạo ghi hận mình nên không chịu cứu giúp, cổ họng của ả tắc nghẹn, nói không nên lời, chỉ đành quỳ xuống đất dập đầu bình bịch, trên trán đầm đìa máu tươi, hai bàn tay đã đông cứng nghiêm trọngngừng vả lên mặt mình để cầu xin.

Đỗ Văn Hạo nhíu mày, nói: “Ta nói thật đó, các ngươi chỉ đây chỉ tổ làm chậm trễ sự cứu trị của hài tử thôi, ta thật sự không trị được bệnh của nó! Có điều, ta có thể chỉ điểm cho các ngươi một con đường, nghe nói có người ở chùa Tướng Quốc có thấy qua vị dị nhân này, ngươi sao không đưa nhi tử tới chùa miếu lễ bái Bồ Tát, Phật Tổ, có lẽ Bồ Tát hiển linh, khiến dị nhân đó xuất hiện, nhi tử của ngươi sẽ được chữa khỏi bệnh.”

Phùng thị thấy Đỗ Văn Hạo tựa hồ như không giống cố ý đùn đẩy, mà thật sự trị không được. Đang thương tâm tuyệt vọng thì nghe Đỗ Văn Hạo nói có người ở chùa Tướng Quốc đã thấy vị dị nhân đó, trong lòng lập tức ngập tràn hi vọng, ngọ nguậy đứng dậy muốn cõng nhi tử, nhưng đã không thể nhấc hai đầu gối lên được nữa rồi!

Đỗ Văn Hạo trầm giọng nói: “Ngươi tự mình đã bị đống thương (tổn thương do giá rét) nghiêm trọng, ngón tay đã hoại tử đại bộ phận rồi, không biết chân thì thế nào, đầu gối do quỳ lâu dưới tuyết, e rằng cũng bị đống thương nghiêm trọng, bản thân ngươi cũng mau tìm đại phụ chữa trị đi, nếu không không chỉ chân tay khó giữ, thậm chí còn có thể nguy hiểm đến tính mạng đó.”

Hàng xóm nói với Phùng thẩm: “Phùng thẩm, bà ở lại đây nhờ Văn đại phu chữa trị đi, chúng ta đưa hài tử tới Tướng Quốc tự cầu y.”

Phùng thị ôm chặt con trai không bỏ ra, lắc lắc đầu, miệng lại khàn khàn nói mấy tiếng, tỏ ý nhờ đỡ ả dậy, khi hàng xóm vội vàng đỡ ả dậy, hai chân Phùng thị đã duỗi ra không được nữa rồi. Lúc trước ả còn cố chịu đựng mà đến được đây, lúc này đã không còn sức để cõng nhi tử, thậm chí còn không đủ sức đứng thẳng người dậy.

Đỗ Văn Hạo nói: “Không được cõng! Phải dùng cáng để khiêng!” Quay người phân phó tiểu nhị dỡ một cái ván cửa đưa cho họ.

Hàng xóm vội vàng đặt A Đại lên ván cửa, khênh ra ngoài, một người hàng xóm khác thì cúi xuống cõng Phùng thị, nhao nhao chạy tới chùa Tướng Quốc.

Chùa Tướng Quốc cách tiệm thuốc Phù Vân đường của Đỗ Văn Hạo không xa, đi qua hai con đường là tới.

Chùa Tướng Quốc bình thường hương hỏa thịnh vượng, có điều hiện tại trời vừa sáng, không có ai tới sớm dâng hương, trong chùa chỉ có mấy hòa thượng đang cầm chổi quét tuyết, thấy bọn họ dùng ván cưa khiêng một hài tử sống dở chết dở vào trong chùa, cũng không kinh ngạc, bởi vì người bệnh tới chùa bái Phật cũng không ít, các hòa th đã từng thấy qua, cho nên không hỏi nhiều, tiếp tục quét tuyết.

Bọn Phùng thị đi tới đại hùng bảo điện, đặt hài tử trước tượng Phật. Phùng thị gi­an nan quỳ dưới đất, chắp tay thi lễ với Bồ Tát, dùng giọng nói khàn khàn không ai nghe hiểu cầu xin Bồ Tát hiển linh, khiến vị thần y dị nhân đó xuất hiện.

Trong đại hùng bảo điện trống vắng không có người nào khác, chỉ có giọng nói bi thương của Phùng thị vang vọng trong đại điện.

Đột nhiên, sau tượng Phật truyền tới giọng nói của một nam nhân, thanh âm rất khó nghe, tựa hồ như bịt mũi mà nói vậy: “Lui hết ra đi! Bảy ngày sau sẽ trả lại hài tử cho ngươi, bất kể là sống hay chết!”

Phùng thị như bị điện giật, thân hình gầy yếu run lên bần bật, sự vui mừng trong lòng khiến ả có thể đứng dậy, bước lên mấy bước, thân hình bỗng nhiên mềm oặt, ngã bò trên đất, rồi lại ngọ nguậy nhỏm dậy, đầu liên tục đập xuống đất, vang lên tiếng cộp cộp.

“Mau ra đi! Còn muốn cứu hài tử thì mau ra đi!” Giọng nói đằng sau tượng Phật như đã có chút bực bội.

Hàng xóm vội vàng kéo Phùng thị đang dập đầu không ngừng ra khỏi đại hùng bảo điện, đóng cửa lại rồi đợi ngoài cửa. Một lát sau lại gõ cửa, không nghe thấy động tĩnh gì, một người hàng xóm can đảm đẩy cửa nhìn qua khe hở, A Đại trước tượng Phật đã không thấy đâu.

Mấy người hàng xóm vội vàng vào trong điện, tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy tung tích của A Đại, chắc là dị nhân đó đã cứu đi rồi.

Mấy người hàng xóm nói với Phùng thị, chút sực lực đang gắng gượng của Phùng thị vì thế mà được thả lòng, thân hình mềm nhũn, ngẩng mặt lên trời, bịch một tiếng ngã lên phiến đá xanh, bất tỉnh nhân sự.

Mấy người hàng xóm cuống cuồng ấn nhân trung của ả, nhưng không thấy tỉnh lại, vội vàng muốn đưa tới tiệm thuốc tìm đại phu.

Nhưng, những hàng xóm này hôm qua đi theo Phùng thị cầu y đã biết rất rõ, các đại phu của những tiệm thuốc trong thành e rằng không có ai bằng lòng khám bệnh cho Phùng thị hay lấy oán trả ơn này, biết đưa đi đâu để cấp cứu bây giờ?

Mấy người hàng xóm thương nghị với nhau, cảm thấy hay là quyết định đưa tới Phù Vân đường cầu Văn đại phu cứu Phùng thị đi, nơi đó gần, hơn nữa Văn đại phu này xem ra bụng dạ rất tốt, vừa rồi còn hảo tâm nhắc nhở Phùng thị đã bị đống thương nghiêm trọng, có lẽ sẽ bằng lòng cứu ả một mạng.

Chương 149: Lấy gì để trả ơn

Ở bức tường đằng sau tượng Phật là thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung mà Đỗ Văn Hạo phái tới, sau khi hắn đi ra liền lấy khăn đen che mặt, cõng A Đại đang hôn mê tới hậu viện, ở đó có một chiếc kiệu nhỏ đang đợi, sau khi đặt hài tử vào trong kiệu, hai hộ vệ nâng kiệu lên, xuyên qua cửa sau rời khỏi chùa Tướng Quốc, đi qua một con hẻm nhỏ tới cửa trạch viện của Đỗ Văn Hạo, nhìn hai bên thấy không có ai, liền khiêng kiệu vào trong trạch viện.

Đỗ Văn Hạo và Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi đã chuẩn bị phẫu thuật xong, sau khi khiêng A Đại vào phòng phẫu thuật thì lập tức bắt đầu tiến hành.

Sau khi mổ bụng, thấy bên trong đầy là tích dịch máu loãng. Sau khi lau sạch, quả nhiên không ngoài sở liệu, trong khoang bụng có một khối vàng sáng lấp lánh.

Đỗ Văn Hạo lấy khối vàng đó ra, đại khái cũng giống như khối vàng đã lấy ra từ trong người Chiêm mẫu và nhi tử của Đổng bộ khoái.

Khối vàng này tuyệt đối không phải là A Đại tự nuốt, khẳng định chính là do hung thủ làm. Nhưng hung thủ vì sao lại dùng phương thức nuốt vàng để tiến hành mưu sát một hài tử nhặt ve chai? Ấu nhi của bộ khoái, mẫu thân của lại bộ khảo công tư lang trung, còn có một hài tử lượm đồng nát. Giữa ba người bị hại rốt cuộc là có liên hệ gì? Hung thủ vì sao lại hạ thủ với ba người này? Hơn nữa còn sử dụng một loại thủ đoạn giết người hiếm thấy như vậy.

Chính vào lúc này, tiểu nhị Thành Kim từ tiền đường chạy tới, đứng ở cửa bẩm báo: “Thiếu gia! Mấy người lúc trước khênh Phùng thị trở lại, Phùng thị hình như đã hôn mê rồi, bọn họ cầu ngài cứu chữa, có cứu không?”

Đỗ Văn Hạo cúi đầu không nói gì, tay vẫn tiếp tục làm phẫu thuật.

Tuyết Phi Nhi ở bên cạnh nói: “Không cứu! Mụ đàn bà này như thuốc cao bôi trên da chó, dính vào rồi thì không gỡ ra được! Nhi tử của ả có thể cứu, nhưng ả thì tuyệt đối không cứu!”

Thành Kim đáp ứng: “Vâng thưa tiểu thư, ta sẽ nói lại với họ.” Rồi quay đầu muốn đi.

“Đợi đã!” Bàng Vũ Cầm gọi một tiếng, thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Tướng công cứu bà ta đi, bà ta vì cứu tính mạng nhi tử mình, một ngày một đêm quỳ trong băng tuyết để cầu xin, cho nên mới bị đống thương thành như vậy, tấm lòng của từ mẫu này khiến người ta phải kính phục.”

Tuyết Phi Nhi nói: “Tẩu tử! Người này lấy oán báo ân! Tẩu không sợ cứu ả xong rồi thì ả lại lừa gạt tống tiền chúng ta à?”

Bàng Vũ Cầm cười khổ: “Tướng công đã nói rồi. Bà ta bị đống thương rất nghiêm trọng, nhẹ thì tàn phế, nặng thì mất mạng. Mà hiện tại cả kinh thành không có đại phu nào chịu chữa cho bà ta, nếu chúng ta không cứu nữa thì bà ta coi như xong. Lương y phải có tấm lòng của phụ mẫu, chúng ta không thể thấy chết mà không cứu!”

“Tẩu tử! Tẩu đúng là có lòng nhân từ của đàn bà! Hơn nữa, chúng ta hiện tại đang cứu hài tử này, có dứt ra được đâu!”

Đỗ Văn Hạo không quay đầu lại, tiếp tục phẫu thuật, cao giọng nói: “Trước tiên làm ấm cho ả để khử hàn, hồi dương cứu thoát! Bảo Lâm chưởng quỹ lấy chăn bông đắp kín người ả, lấy Ngao khương thang cho ả uống. Đồng thời gọi lão mụ tử ở trù phòng lập tức đun một thùng nước, phải là nước ấm, cho tay vào thì không bị bỏng. Trước tiên không được cởi quần áo của ả, phòng ngừa da thị bị đóng băng sẽ nát ra. Đặt cả người ả vào trong thùng nước nóng rồi ngâm trong thời gi­an một nén hương. Sau đó cởi quần áo của ả rồi tiếp tục ngâm cho đến khi chân tay khôi phục lại tính co dãn thì mặc y phục cho ả, dùng chăn đắp kín. Khi ngâm trong nước để khôi phục độ ấm của cơ thể thì phải đặc biệt chú ý mạch đập và hô hấp của ả, một khi phát hiện hô hấp yếu nhược hoặc là mạch hơi có hiện tượng thoát dương, lập tức chạy tới báo cho ta. Ta làm xong sẽ tới ngay.”

“Vâng, thiếu gia!” Thành Kim vội vàng chạy đi.

Đỗ Văn Hạo tiếp tục phẫu thuật. Do đã có kinh nghiệm mấy lần trước phẫu thuật thành công làm cơ sở, cho nên Đỗ Văn Hạo quen việc dễ làm, hoàn thành thủ thuật rất nhanh, giờ đã bắt đầu khâu lại.

Chính vào lúc hắn đang khâu lại vết mổ thì Thành Kim vội vàng chạy vào: “Thiếu gia, không hay rồi, phu nhân đó không thở nữa rồi, cũng không thể bắt được mạch.

Bị sốc dẫn tới đình chỉ hô hấp dù chỉ một giây thôi cũng vô cùng đáng ngại, Đỗ Văn Hạo vội vàng nói với Bàng Vũ Cầm: “Nàng khâu đi!” Sau đó thì lao ra khỏi phòng, chạy như bay tới trù phòng.

Phùng thị mặc y phục đang ngâm trong thùng nước nóng, chỉ có đầu là lộ ra khỏi mặt nước, dựa vào cạnh thùng, hai mắt nhắm chặt, kiểm tra một cái, quả nhiên hô hấp không thấy đâu, mạch cũng không đập! Lâm Thanh Đại và hai hàng xóm nữ của Phùng thị đứng ở bên cạnh, vô cùng lo lắng.

Đỗ Văn Hạo bế Phùng thị ra khỏi thùng nước, đặt trên đất, nhanh chóng tìm tới vị trí của tâm tạng, bảo Lâm Thanh Đại giúp đỡ tiến hành mát - xa hồi phục tâm tạng.

Lúc trước khi trong nha môn huyện thành cứu chữa Lưu lão hán bị ngất xỉu, Đỗ Văn Hạo đã sử dụng phương pháp mát - xa hồi phục tâm tạng này, Lâm Thanh Đại đã thấy qua, biết rằng đây là một loại biện pháp cấp cứu bệnh nhân bị ngất, lập tức chiếu theo chỉ thị của Đỗ Văn Hạo bắt đầu làm, đồng thời, Đỗ Văn Hạo bảo một nữ hàng xóm của Phùng thị bịt mũi Phùng thị rồi thổi khí vào. Phu nhân đó cho dù không biết đây là gì, nhưng cũng vẫn làm theo.

Một lúc sau, Phùng thị khôi phục hô hấp và nhịp tim trở lại, yếu ớt mở mắt ra, cổ họng khàn khàn nói: “Ta…, ta đang ở đâu đây…?”

Người hàng xóm đó đoán được mang máng, vội vàng nói: “Phùng thẩm! Bà đang ở trong Phù Vân đường, vừa rồi bà bị ngất, Văn đại phu đã cứu tỉnh bà đó!”

Thị tuyến của Phùng thị chầm chậm tập trung lên người Đỗ Văn Hạo, miệng mấp máy, tự hồ như cảm tạ, mà tựa hồ như không phải, chẳng ai nghe hiểu cả.

Đỗ Văn Hạo cũng chẳng hi vọng ả cảm kích mình, chỉ cần không gây phiền phức cho mình là tốt lắm rồi, trong lòng nhớ tới phẫu thuật của A Đại, phân phó mọi người cởi quần áo của Phùng thị ra rồi lại đặt ả vào trong thùng nước ấm để ngâm người, phải không ngừng làm nóng nước, khống chế độ ấm, sau đó thì vội vàng rời đi.

Đỗ Văn Hạo về tới phòng phẫu thuật, Bàng Vũ Cầm đã khâu vết thương xong rồi, đang chuẩn bị băng lại. Đỗ Văn Hạo kiểm tra lại vết thường, thấy khâu chuẩn vô cùng, liền khen ngợi: “Tay Cầm nhi khéo thật! Khâu vết thương so với ta còn khéo hơn, từ sau công tác này gi­ao cho nàng đó!”

Bàng Vũ Cầm được trượng phu khen trước mặt, hơi xấu hổ.

Phẫu thuật hoàn tất, Đỗ Văn Hạo dùng nước muối để làm A Đại tỉnh lại, sau đó đưa nó vào một phòng bệnh riêng biệt khác. Gọi hai lão mụ tử phụ trách chăm sóc, hài tử trước kia đã uống Ma phục thang nên hôn mê bất tỉnh, bọn họ nói chuyện không sợ bị nó nghe thấy, khi tỉnh lại rồi thì phải hết sức chú ý không để cho nó nghe ra thanh âm gì.

A Đại cho dù thân thể rất yếu, nhưng dẫu sao cũng còn trẻ, sau phẫu thuật thì bệnh tình rất ổn định, điều này khiến Đỗ Văn Hạo cũng hơi yên tâm.

Lúc này nhiệt đ٠cơ thể của Phùng thị cơ bản đã khôi phục, giúp ả mặc quần áo xong thì đưa tới bệnh phòng, bệnh phòng này ở phía sau tiệm thuốc, tách hẳn với trụ trạch. Hơn nữa, sau khi tiến vào trụ trạch thì còn phải đi qua ngoại trạch mới có thể tiến vào nội trạch. Phòng bệnh của Chiêm mẫu và A Đại được đặt ở nội trạch, cho nên không lo lắng Phùng thị và các hàng xóm phát hiện A Đại ở nội trạch.

Khi Đỗ Văn Hạo tới khám bệnh, Phùng thị đã khôi phục lại tỉnh táo. Sau khi Đỗ Văn Hạo chẩn mạch và xem lưỡi, phát hiện ả đã thoát khỏi sự nguy hiểm của thoát dương, cho nên mới kiểm tra tình huống đống thương ở chân tay ả.

Ba ngón tay tím sậm của Phùng thị đã hoại tử. Cởi giày ra mới phát hiện, hai chân cũng đã biến thành màu tím sậm, năm đầu ngón chân của bàn chân trái đã hoại tử toàn bộ, còn bàn chân phải thì đã rụng xương nát thịt, hoại tử thành thối rữa rồi! Có mấy chỗ còn nổi lên bóng nước lớn, có bóng nước đã vỡ, lộ ra vết thương màu đỏ. Từ tình huống hoại tử cho thấy, đại bộ phận bàn chân phải này phải cắt đi.

Da thịt ở vị trị đầu gối của Phùng thị đỏ ửng nổi ban, sưng tấy, và kèm theo bóng nước có máu.

Phùng thị đã tỉnh lại. Đỗ Văn Hạo kiểm tra cho ả, ả vẫn còn cảm giác đau đớn, nhưng cảm giác khi châm đâm vào thì không còn linh mẫn. May mà sau khi ả hôn mê, đám người Chiêm Đề và Đổng bộ khoái đã mặc áo bông và quần bông cho ả, nếu không, hai đầu gối e rằng đã toàn bộ bị phế rồi.

Sau khi chẩn sát, Đỗ Văn Hạo có chút buồn bã, nói với Phùng thị: “Rất xin lỗi, ngón út và ngón vô danh của bàn tay phải và ngón út của bàn tay trái của bà đã hoàn toàn hoại tử, năm đầu ngón chân của bàn chân trái cũng hoại tử rồi, còn chân phải, đại bộ phận bàn chân đã hoàn toàn hoại tử, những chi thể bị hoại tử này, chỉ có thể cắt đi, nếu không sẽ dẫn tới nhiễm trùng, nguy cập tới tính mạng của bà!”

Phùng thị biết nhi tử được dị nhân thần y cứu đi, có hi vọng sống sót, lúc này mới chú ý tới thương thế của mình, ả gi­an nan ngẩng đầu nhìn ba ngón tay tím sậm của mình, lại nhìn hai bàn chân đã tím sậm, đặc biệt là bàn chân phải, phần trước của bàn chân đã hoàn toàn biến thành màu tím sậm, bộ vị nối với mắt cá chân đã rụng, lộ ra cơ nhục nhục thối rữa nhợt nhạt.

Sau khi nhiệt độ cơ thể được khôi phục, Phùng thị đã có thể miễn cưỡng nói chuyện, tuy thanh âm vô cùng khàn khàn, nhưng đã có thể nghe hiểu ả nói gì. Ả bật khóc bi thảm, nói: “Cắt đi rồi, ta còn có thể đi lại không?”

“Chỉ sợ là rất khó, có thể phải chống nạng.”

“Ta không có chân, không có ngón tay…ta…, ta biết kiếm sống thế nào đây, dựa vào cách nào để nuôi sống hai mẹ con chúng ta đây…? Hu hu hu…”

“Bộ phận bị hoại tử đã không dùng được nữa rồi, nếu lưu lại, không chỉ không có tác dụng, còn dẫn tới nhiễm trùng, tới lúc đó sẽ nguy hiểm tới tính mạng! Hậu quả sẽ rất nghiêm trọng! Ngươi tự mình nghĩ đi, nếu đồng ý, thì nói với họ để họ chuyển lời tới ta, ta sẽ giúp ngươi phẫu thuật, không đồng ý, nghỉ ngơi một lát rồi về đi! Ta cũng không giữ ngươi đâu!”

Phùng thị khóc hu hu một hồi, ả ngày xưa đi nhặt ve chai, cũng từng thấy thi thể một số ăn mày lưu lạc ở đầu phố bị đống thương, trong đó cũng người bị đống thương mà không được cắt bỏ nên bưng mủ nhiễm trùng sau đó thì chết đi, trong lòng biết Đỗ Văn Hạo nói không sai.

Ả gi­an nan bò dậy rồi lết xuống giường, hai hàng xóm vội vàng đỡ ả, cho rằng ả muốn về nhà, không ngờ Phùng thị lại quỳ xuống, dập đầu với Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo dịch người né tránh, nhíu mày nói: “Ngươi làm gì vậy?”

Phùng thị vừa gật đầu vừa nói: “Văn đại phu, lão bà tử ta xin lỗi ngài! Lúc trước ngài đã cứu nhi tử của ta, ta lại lấy ân oán báo ân lừa tiền của ngài, còn cầm thùng phân, gạch đá muốn ném ngài, ta làm nhiều việc vô sỉ như vậy, ngài vẫn lấy đức báo oán, chỉ điểm ta tới chùa Tướng Quốc, cuối cùng cầu được dị nhân thần y cứu nhi tử của ta đi. Hiện tại, ngài lại giúp ta trị bệnh liệu thương, đại ân đại đức của ngài, ta cả đời này sẽ không quên.”

Đỗ Văn Hạo cười miễn cưỡng nói: “Được rồi, mẹ con các ngươi sống cũng chẳng dễ dàng gì, mau đứng dậy đi!”

Lâm Thanh Đại đỡ ả dậy, Đỗ Văn Hạo thấy khi Phùng thị đứng dậy thì vô cùng gi­an nan, hơn nữa tựa hồ như hai đầu gối không có lực, không khỏi nhíu mày nói: “Ngươi quỳ trong tuyết một ngày một đêm, phong hàn thấp tà đã xâm nhập vào cơ thể, lưu chú ở kinh lạc, khớp xương, phong tà du hành khắp toàn thân, không chỉ ảnh hưởng tới đầu gối và khớp xương ở chi dưới, thậm chí còn ảnh hưởng đến các khớp xương khác của cơ thể. Mà hàn tà ngưng trệ thu dẫn, không chỉ khiến gân cốt co duỗi khó khăn, cũng sẽ khiến khí huyết lưu thông khó khăn, đau buốt khó chịu. Mà thấp tà ngăn trở khí huyết, sẽ khiến các khớp xương sưng tấy, kéo dài không khỏi. Nếu không kịp thời khử phong tán hàn, không chỉ tương lai sẽ để lại tý chứng nghiêm trọng, còn ảnh hưởng tới khí huyết tạng phủ của ngươi, nguy hiểm tới tính mạng.”

Chương 150: Nhất đoàn loạn ma

Phùng thị hai đầu gối mềm nhũn, suýt chút nữa thì khuỵu xuống đất, may mà Lâm Thanh Đại đỡ kịp, méo miệng, giọng khàn khàn nói: “Văn đại phu, cầu ngài cứu ta, ta nếu mắc bệnh này, không chỉ không thể nuôi dưỡng nhi tử, ngược lại còn thành gánh nặng cho nó, sau này biết sống thế nào đây!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta đã trị liệu cho ngươi, tất nhiên là không thể bỏ dở giữa chừng. Bệnh này của ngươi vừa mới phát sinh, hiện tại chữa trị vẫn còn kịp, dùng Độc hoạt ký sinh thang gia giảm theo bệnh chứng, liền có thể tán hàn trừ thấp, khử phong dưỡng huyết, chỉ cần trị liệu triệt để thì sẽ không lưu lại bệnh căn. Yên tâm đi!”

Phùng thị ngây người một lát, hai hàng lệ già đục ngầu từ khóe mắt lăn xuống, rơi lên da mặt đầy khe rãnh ngang dọc giống như vỏ cây rồi rơi xuống đất. Ả khóc thút thít, lại muốn quỳ xuống, nhưng do bị Lâm Thanh Đại đỡ nên quỳ không được, hai bàn tay không còn nguyên vẹn chắp tay thi lễ, khóc không thành tiếng, nói ngắt quãng liên tục: “Văn đại phu…, ân nhân…! Lão bà tử ta…cả đời này…chưa từng phục ai, hôm nay cuối cùng cũng phục rồi…, thì ra trên đời…còn có…một người…có tâm địa Bồ Tát như ngài…, ân đức của ngài…lão bà ta cả đời này…cũng không báo đáp được…, chỉ cầu…kiếp sau làm trâu làm ngựa…để báo đáp ân đức của ngài…”.

Đỗ Văn Hạo cười cười phất tay: “Không cần phải vậy, ngươi nằm xuống nghỉ ngơi đi, ngươi phải ở chỗ ta tĩnh dưỡng vài ngày, ta sẽ dùng thuốc để trị, bệnh của ngươi chậm trễ một khắc thì sẽ kéo dài cả đời. Không đùa được đâu!”

Phùng thị thút thít vâng lời, đột nhiên nghĩ tới một chuyện, nói: “Lúc trước ở chùa Tướng Quốc, dị nhân thần y cứu nhi tử của ta đã nói, bất kể sinh tử, bảy ngày sau sẽ trả lại nhi tử cho ta. Tới lúc đó ta phải về nhà đợi”.

“Tới lúc đó ta sẽ phái người đưa ngươi về”.

“Nhưng, vạn nhất dị nhân thần y đưa nhi tử ta về trước thì sao, ta lại không có nhà, vậy thì biết làm thế nào?”

“Cái này…”. Đỗ Văn Hạo nghĩ một chút, nói: “Nếu không thì ta phái tiểu nhị đến nhà ngươi đợi”.

“Vậy thì cám ơn ngài. Sáng sớm hôm qua lúc đi ta không khóa cửa, kỳ thật thì có khóa hay không khóa cũng như nhau, trong nhà không có gì đáng tiền cả, đồ đồng nát mang về cũng bán rồi”.

“Ừ. Sáng ngày hôm qua, nhi tử của ngươi lúc chưa bắt đầu đau bụng thì có nghe thấy động tĩnh gì không? Hoặc là sự tình kỳ quái nào đó?”

Phùng thị ngẫm nghĩ một lát rồi buồn bã lắc đầu: “Ta…ta không nhớ!”

Đỗ Văn Hạo biết lúc này sau khi ả biết mình sẽ tàn phế, tâm ý hoảng loạn, đang lo lắng cuộc sống sau này của mình nên khó có thể nhớ ra được đầu mối nào hữu dụng, cho nên hắn cũng không miễn cưỡng, đành an ủi: “Không sao, ngươi nghỉ ngơi cho tốt đi, ta đi kê thuốc cho ngươi uống”.

Đỗ Văn Hạo đi tới tiền đường, viết phương thuốc đưa cho chưởng quỹ và tiểu nhị chiếu theo phương thuốc mà lấy thuốc rồi đưa đến cho Phùng thị uống, sau đó quay về nội trạch. A Đại chưa từng nói chuyện với Lâm Thanh Đại, cho nên Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại che mặt rồi đi hỏi A Đại quá trình bị đau bụng.

A Đại đã tỉnh lại, yếu nhược nằm trên giường, do bị cắm tị quản nên nói năng rất khó khăn: “Cháu cũng không biết vì sao lại đau. Sáng ngày hôm qua đang ngủ thì đột nhiên bị đau nên tỉnh dậy”.

“Cháu bắt đầu đau từ lúc nào?”

“Sáng hôm qua sau khi trời sáng”.

“Lúc trước cháu có ăn thứ gì không?”

“Bữa tối ngày hôm trước có ăn bánh ngô, uống một chút cháo loãng, không ăn gì khác nữa cả”.

“Cả đêm không ăn gì à?”

“Vâng! Cháu ngủ đến khi trời sáng, buổi đêm không dậy nên không ăn gì cả”.

“Có ăn thuốc viên hay là đường viên không?”

“Không”.

“Lúc ngủ có chốt cửa không?”

“Có, là cháu chốt cửa”.

Lâm Thanh Đại lại hỏi kỹ càng cảm giác đau của A Đại, hỏi đi hỏi lại nhưng không hỏi ra được gì khác, sau đó đi tới ngọa thất của Đỗ Văn Hạo.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo đã dùng giấy gạo để lấy dấu khối vàng này, tiến hành so sánh với hai khối vàng trước, hoàn toàn trùng khớp, hiển nhiên là được làm từ một khuôn! Chứng tỏ hung thủ rất có khả năng là cùng một người.

Những ngày nay, hộ vệ được phái đi tìm kiếm đều không tìm được khối vàng tương tự, hiện tại lại phát hiện trong cơ thể của một hài tử nhặt ve chai, càng khiến người ta khó hiểu.

Bọn họ đang phỏng đoán hung thủ có khả năng là người thế nào. Sau khi Lâm Thanh Đại tiến vào, ba người nghe Lâm Thanh đại kể lại tình hình tra hỏi xong thì đều cảm thấy rất kỳ quái. A Đại vì nuốt vàng cho nên dẫn tới bị tắc ruột, từ ổ bụng của hắn lấy ra một khối vàng, nhưng theo những gì A Đại nói, những thứ hắn ăn sau cùng là bánh ngô và cháo loãng, nếu khối vàng ở bên trong, một thiếu niên mười bốn mười lăm tuổi như hắn, không thể không nhai mà nuốt chửng bánh ngô, cũng không thể không phát hiện có khối vàng trong cháo, cho nên khả năng vàng lẫn trong bánh ngô và cháo loãng để hắn nuốt vào là không thể.

Ngoài ra, A Đại vào lúc trời sáng mới bị đau, mà thời gi­an nuốt vàng dẫn tới tắc ruột là rất ngắn, không thể tối ngày hôm trước nuốt vàng, sáng ngày hôm sau mới phát tác được. Cho nên, nuốt vàng chắc là tiến hành trước khi trời sáng.

A Đại lại không phải là thằng ngốc, không thể bị người ta nhét vàng vào mà không biết.

Tuyết Phi Nhi nói: “Hung thủ có thể là một người biết võ công không? Điểm huyệt khiến A Đại ngất đi, sao đó nhét vàng vào?”

Lâm Thanh Đại lắc đầu: “Bị điểm huyệt hôn mê và ngủ là hai chuyện khác nhau, cảm giác cũng không giống nhau, hơn nữa sau khi tỉnh lại huyệt đạo sẽ sưng lên đau đớn, nhưng ta đã hỏi kỹ A Đại rồi, hắn không có cảm giác này”.

Bàng Vũ Cầm nói: “Hung thủ dùng thuốc mê, sau đó mới nhét vàng vào?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Không thể! Bởi vì nếu là bị đánh thuốc mê, vậy thì phải có động tác nuốt xuống thì mới nuốt được, người đang ngủ muốn nuốt gì đó, trừ phi bị say rượu hoặc là trọng bệnh, nếu không khẳng định sẽ tỉnh lại, và cũng sẽ nhớ ra chuyện này”.

Tuyết Phi Nhi nói: “Vậy thì có bụi phấn hay là loại mùi gì đó, ngửi vào một cái là hôn mê không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Các ngươi đã từng nghe qua có loại thuốc này không?”

Ba nàng đều lắc đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Còn nữa, nếu có loại thuốc này, vậy thì chúng ta mổ chữa bệnh cần gì phải phối thang dược nữa, trực tiếp cho ngửi vào rồi ngất đi có phải hay hơn không?”

Tuyết Phi Nhi nói: “Nếu đã không phải điểm huyệt cho ngất đi, cũng không phải là đổ thuốc, vậy khối vàng này rốt cuộc làm thế nào mà cho vào bụng A Đại được? Khối vàng lớn như vậy chứ có phải hạt gạo đâu”.

Bốn người nghĩ mãi vẫn không hiểu, sau cùng, Đỗ Văn Hạo vỗ đùi, nói: “Bất kể là điểm huyệt hay là bị đánh thuốc mê thì A Đại vẫn là đang ngủ trong nhà đau quá nên tỉnh dậy, hung thủ nếu muốn nhét vàng vào thì phải lẻn vào trong nhà, chúng ta đi kiểm tra hiện trường, xem xem có thể phát hiện ra manh mối gì không? Cũng may Phùng thị nói là nhà ả không khóa, lúc trước ta nói với ả là sẽ phái người tới nhà ả để đợi dị nhân thần y đưa nhi tử của ả về”.

Tam nữ đều bật cười đồng ý.

Để tránh dẫn tới sự chú ý của người khác, Đỗ Văn Hạo chỉ mang theo Lâm Thanh Đại và hộ vệ Hô Duyên Trung, sau khi hỏi địa chỉ tới nhà Phùng thị.

Căn nhà này thực sự quá cũ nát, có nhiều lỗ gió, nhưng khe hở không đủ để một người chui vào, sau khi kiểm tra cửa sổ và cửa chính, không phát hiện ra vết nạy nào. Tiến vào trong nhà, sau khi kiểm tra một vòng, cũng không phát hiện ta thứ gì kỳ lạ. Ngẩng đầu nhìn, nóc nhà lấy vỏ cây tùng để lợp.

Đỗ Văn Hạo bảo thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung sang nhà hàng xóm mượn thang, chống vào xà nhà rồi leo lên nóc, cẩn thận ngồi trên nóc kiểm tra.

Đột nhiên mắt hắn sáng lên, trên một thanh ngang ở giữa nóc nhà có vết dây thắt.

Vế tích này rất mới, chứng tỏ có người từ lỗ thủng trên nóc nhà dùng dây buộc lên thanh ngang rồi trèo xuống, sao khi nhét vàng vào thì lại trèo lên, sửa sang lại rơm rạ xong mới đi. Đây chính là cửa để tiến vào hiện trường.

Hắn kiểm tra kỹ vết buộc trên thanh ngang, phát hiện có một sợi tơ nhỏ xíu màu trắng trên một vết xước.

Tơ trắng? Là từ sợi dây mà hung thủ đã dùng ư?

Hay là từ quần của hung thủ rách ra?

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát liền có khẳng định, đây chắc là từ sợi dây mà hung thủ dùng! Bởi vì hung thủ hạ thủ vào sáng sớm, hành động lúc đêm khuya thì đương nhiên phải dùng quần áo màu đen, không thể mặc màu trắng dễ thấy như vậy được.

Dây thừng không thể dùng tơ để làm, loại tơ này là từ trên tơ lụa. Chẳng lẽ hung thủ sử dụng đai tơ hoặc là tơ lụa để làm dây thừng sao?

Người nào có thể dùng đai tơ để làm dây thừng?

Nữ nhân? Nữ nhân giàu có!

Một nữ nhân giàu có vì sao lại muốn hạ độc thủ với một hài tử nhặt ve chai? Hơn nữa còn dùng phương thức nuốt vàng để hạ độc thủ? Vả lại, hung thủ không điểm huyệt cũng không dùng thuốc mê để làm đối phương hôn mê, vậy thì dùng biện pháp gì để nhét một khối vàng vào bụng một hài tử mười bốn mười lăm tuổi?

Quá nhiều vướng mắc, Đỗ Văn Hạo tìm không ra đầu mối để giải quyết những vấn đề này.

Hắn lấy sợi tơ này rồi trèo xuống, đưa cho Lâm Thanh Đại xem, nhưng không nói ra cách nhìn của mình.

Lâm Thanh Đại lật đi lật lại để xem, nói: “Sợi tơ này rất đặc biệt, không phải là tơ mà lão bách tính bình thường hay dùng”.

“Vậy thì nơi nào thường dùng?”

“Không biết rõ, có điều loại sợi tơ này rất ít thấy. Không bằng, chúng ta tới cửa hàng tơ lụa hỏi đi.

“Được!”

Mấy người bọn Đỗ Văn Hạo lại tới một cửa hàng tơ lụa to nhất kinh thành, đưa sợi tơ này cho chưởng quỹ xem, thỉnh giáo hắn sợi tơ này được dùng ở địa phương nào.

Chưởng quỹ gọi một người tên là Phùng sư phụ tới, lão sư phụ đó sau khi xem xét kỹ càng, cười hắc hắc nói: “Khách quan, sợi tơ này của ngài tên là thọ ti, đã được tẩm qua nước thuốc rồi, rất khít, không thông khí, chuyên dùng trên thọ y (áo liệm), có thể ngừa mùi hôi”.

“Thọ y?” Đỗ Văn Hạo giật nảy mình, sau đó thì cảm thấy trong lòng lạnh toát, thọ y chính là để người già khi qua đời mặc, vội vàng hỏi: “Trên thọ y có dây gì đó? Dài hay ngắn?”

“Đương nhiên có, ví dụ như dây lưng của thọ y rất dài”.

Nói vậy thì đây rất có khả năng là từ dây lưng của thọ y.

Trải qua nhiều ngày nay, Đỗ Văn Hạo đã biết, cổ nhân sau khi già yếu, đặc biệt là lão nhân có bệnh, bình thường đều chuẩn bị cho mình quan tài và thọ y, để tránh đột nhiên ốm chết, không kịp đặt mua. Cho nên chỉ cần trong nhà có người già, bình thường đều có thọ y, đương nhiên bao gồm cả dây lưng.

Phát hiện này cơ hồ không khiến cho việc phá án có thêm phương hướng gì. Hơn nữa, sợi tơ này là ở trên dây lưng chứ không phải trên quần áo, vậy thì hung thủ có thể là nam mà cũng có thể là nữ, càng không có phương hướng rõ ràng nào cả. Suy đoán lúc trước cũng mất đi căn cứ, điều này khiến Đỗ Văn Hạo rất chán nản.

Chương 151: Vụ lý khán hoa

Trên đường từ tiệm tơ lụa về, Lâm Thanh Đại đột nhiên nhớ ra một chuyện, thấp giọng nói: “Có thể là một nhà bình thường, bởi vì sau khi đặt mua thọ y xong thì đều bảo quản tốt, con cái muốn sử dụng làm dây thừng, chứ bình thường không thể lấy thọ ý của lão nhân làm dây lưng, như vậy quá bất hiếu, hơn nữa sau khi dùng thì người nhà cũng rất dễ phát hiện ra”.

Đỗ Văn Hạo nghe vậy, mặt mày hớn hở nói: “Đúng vậy! Nếu lão nhân tự mình động thủ, bình thường cũng sẽ không lấy dây lưng thọ y của mình ra làm dây thừng, trong nhà có nhiều thứ có thể làm dây thừng mà, tại sao khăng khăng dùng dây lưng của thọ y làm dây thừng nhỉ? Hung thủ có thể dùng dây lưng thọ y làm dây thừng, chứng tỏ hung thủ rất có khả năng sống ở trong một địa phương có rất nhiều dây lưng của thọ y!”

“Cửa hàng thọ y?” Lâm Thanh Đại vui mừng nói.

“Không sai! Có điều ông chủ cửa hàng thọ y có năng lực dùng vàng khối để giết người không?”

Lâm Thanh Đại cười nói: “Ngươi đừng xem thường cửa hàng thọ y, cửa hàng thọ y làm ăn lớn lắm, so với đại tửu lâu hay là quán ăn thì kiếm được nhiều tiền hơn nhiều! Dẫu sao thì không ai có thể tiết kiệm tiền về khoản này”.

Mắt Đỗ Văn Hạo sáng lên: “Đúng rồi! Có thể dùng vàng khối để giết người, khẳng định là không thèm để ý đến chuyện tiền nong, đồng thời có năng lực sử dụng dây lưng của thọ y làm công cụ gây án, vậy thì chắc là người của cửa hàng thọ y có tiếng! Hơn nữa, tuyệt đối không phải là tiểu nhị bình thường, rất có khả năng chính là lão bản hoặc là chưởng quỹ!”

Lâm Thanh Đại mắt cũng sáng ngời, nói: “Cửa hàng thọ y trong kinh thành chắc cũng không có mấy! Hôm nay chúng ta đi đâu điều tra?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi đi một mình được không? Loại người này rằng cũng có võ sư hộ vệ trong nhà đó. Có cần Tân Cửu nương theo ngươi không?”

“Không cần, có phải đi đánh nhau đâu, người càng ít thì càng kín kẽ. Yên tâm đi! Tối nay ta đi”.

Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Thật không ngờ, đại chưởng quỹ của chúng ta lại là một hiệp khách vượt nóc băng tường”.

Lâm Thanh Đại bật cười: “Chỉ có võ mèo thôi”.

Ba người về tới Phù Vân đường, Đỗ Văn Hạo đột nhiên nhớ tới một chuyện, vội vàng gọi thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung tới, phân phó hắn lập tức phái hộ vệ đi điều tra tất cả bệnh nhân trong toàn thành bị đau bụng cấp rồi tử vong mà tình huống không rõ ràng. Bao gồm cả địa điểm hạ táng.

Sau khi Hô Duyên Trung lĩnh mệnh rời đi, Tuyết Phi Nhi hỏi: “Đỗ ca, huynh làm thế để làm gì?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ba người này là tới chỗ chúng ta cấp cứu, cho nên không phải là người nào bị dùng vàng khối để mưu sát đều may mắn được cứu. Cho nên, rất có khả năng là có những người khác bị hung thủ dùng phương thức này mưu sát mà chết. Thầy thuốc bình thường không biết là mưu sát, cho rằng là bệnh tật, cho nên từ trước đến giờ không có ai báo quan. Chúng ta phải gom những người bị mưu sát bởi vàng khối lại để phát hiện ra sự liên hệ giữa bọn họ, từ đó tìm ra manh mối của kẻ bị hiềm nghi”.

Đám người Tuyết Phi Nhi lúc này mới minh bạch.

Buổi tối, hộ vệ được phái ra ngoài dò hỏi đều lục đục quay trở về. Quả nhiên, có hơn chục bệnh nhân chết vì đau bụng dữ dội, các thức các dạng đều có, không theo quy luật gì, địa điểm mai táng cũng đã được điều tra rõ.

Đỗ Văn Hạo rất muốn mở quan tài để khám nghiệm tử thi, từ đó xác định những người này có phải là chết vì nuốt vàng không. Hoàng đế Tống triều thập phần trọng thị y học, đối với y học hoặc là giải phẫu thi thể không chỉ không cấm đoán, ngược lại còn đề xướng, cho nên Tống triều xuất hiện thi thể giải phẫu đồ sớm nhất. Mở quan tài nghiệm thi thì không có gì trở ngại, nhưng bản thân hắn dẫu sao cũng chỉ là một đại phu, chỉ đóng vai phụ trong việc tra án, không có có quyền điều tra. Hắn đi mở quan tài nghiệm thi, một khi bại lộ, vụng trộm quật mộ người khác chính là tử tội, cho nên có lòng nhưng không có gan. Chỉ đợi tới khi tìm được hung thủ, tương lai bảo quan phủ mở quan tài nghiệm thi để xác định xem rốt cuộc có bao nhiêu người bị hại.

Hắn đem tất cả thân phận, tình huống của những người bị đau bụng cấp mà chết liệt kê thành bảng rồi nghiên cứu hết lần này đến lần khác. Nhưng, nghiên cứu cả nửa ngày cũng không thể tìm ra rốt cuộc giữa bọn họ có liên hệ gì.

Sau khi trời tối, Lâm Thanh Đại mặc áo đen dạ hành tực tiếp từ phòng chính của nội trạch rời đi.

Đám người Đỗ Văn Hạo thì lặng lẽ ngồi đợi ở nhà, cho tới canh ba, Lâm Thanh Đại cuối cùng cũng về. Từ trong ngực lấy ra một khối vàng đưa cho Đỗ Văn Hạo: “Đây là lấy từ cửa hàng thọ y Tường Vân, một trong những cửa hàng thọ y lớn nhất kinh thành. Trong cửa hàng của bọn họ có lò luyện kim, lúc tới vừa hay gặp bọn họ đang luyện vàng khối, từng khối rất nhỏ, ta thấy khối vàng này rất giống với khối vàng mà chúng ta lấy từ trong bụng người bệnh ra, cho nên làm ra một chút hỗn loạn rồi cầm một khối trở về. Ngươi xem xem, nếu như không phải thì ta lại mang trả cho người ta”.

Đỗ Văn Hạo cầm lấy nhìn, vui mừng nói: “Đúng! Khẳng định là không sai! Có điều vẫn phải so lại đã!”

Sau khi dùng mực nước bôi lên khối vàng, rồi ấn lên mặt giấy nếp để lấy dấu, sau đó so với dấu của ba khối vàng khác thì thấy quả nhiên là trùng khớp.

Khối vàng này đã là hung khí gây án, tự nhiên không cần trả lại.

Tuyết Phi nhi vỗ tay nói: “Tìm thấy hung thủ rồi! Mau báo cho nha môn tới bắt người đi!”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Tìm ai? Ai là hung thủ?”

“Tất nhiên là chưởng quỹ của cửa hàng thọ y Tường Vân rồi!”

“Ngươi bằng vào gì mà nói hắn là hung thủ?”

“Bằng vào khối vàng này!”

“Khối vàng này là của cửa hàng thọ y bọn họ, nhưng không thể vì thế mà khẳng định chưởng quỹ này là hung thủ, người khác cũng có thể tiếp xúc với khối vàng này mà”.

“Vậy…”. Tuyết Phi Nhi mở to mắt, nói: “Vậy phải làm sao đây?”

Đỗ Văn Hạo nghĩ một chút rồi nói: “Hung thủ khẳng định là chi phối quy tắc làm vàng khối, liên tục mất nhiều khối vàng như vậy, giá trị không nhỏ, cửa hàng thọ y hiện tại vẫn không có động tĩnh gì, chứng tỏ là người nắm vàng khối tự mình làm. Rất có khả năng là chưởng quỹ, nhưng vẫn chưa thể chứng minh trực tiếp chính là hắn. Chúng ta cần phải thu thêm chứng cứ thì mới được”.

“Chứng cứ gì?”

“Bắt trộm thì phải bắt quả tang, bắt gi­an dâm thì phải bắt cả đôi! Gọi thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung tới đây!”

Hô Duyên Trung rất nhanh liền tiến đến, Đỗ Văn Hạo phân phó hắn bố trí hộ vệ ngày đêm canh chừng ở gần cửa hàng thọ y Tường Vân, tùy thời theo dõi các loại nhân vật cao tầng như chưởng quỹ, quản gia của cửa hàng.

Nhưng, không ngờ liên tục mấy ngày, người canh chừng theo dõi không phát hiện bất kỳ tình huống dị thường nào, điều này khiến đám người Đỗ Văn Hạo rất buồn bực.

Thương thế của Chiêm mẫu về cơ bản đã lành lại, Đỗ Văn Hạo sau khi chẩn sát đã xác định là có thể về nhà từ từ điều dưỡng.

Tối hôm đó, sau khi Đỗ Văn Hạo kê thuốc, phân phó dùng vải đen che mắt Chiêm mẫu, sau đó bảo hộ vệ dùng kiệu che kín đưa bà ta tới bên ngoài viện tử nhà Đổng bộ khoái, sau khi đỡ bà ta xuống kiệu thì ly khai ngay.

Chiêm mẫu bỏ khăn xuống, nhận ra đây là chỗ lúc trước mình được mang đi trị bệnh, liền đẩy cửa bước vào.

Lại bộ khảo công tư lang trung Chiêm Đề cũng giống như mấy ngày trước, ngồi trong viện tử đợi tin tức, nghe thấy có động tĩnh, quay đầu lại nhìn, không ngờ lại thấy mẫu thân của mình đang ôm bụng từ từ bước vào, kinh hỉ đan xen, chỉ sợ mình nhìn nhầm, liền gọi một tiếng: “Mẹ à?”

Chiêm mẫu cũng nhận ra nhi tử, vui mừng nói: “Con! Con sao lại ở đây?”

Chiêm Đề không nén được vui mừng, bước nhanh tới đỡ mẫu thân: “Mẹ! Mẹ…bệnh của mẹ khỏi chưa?”

“Khỏi rồi! Dị nhân thần y ân công đã chữa khỏi bệnh cho ta rồi, bụng không đau chút nào nữa, tất cả đều như thường”.

Chiêm Đề cao hứng không biết phải nói gì, lớn tiếng gọi các phó tòng đang ở trong phòng ra, phó tòng quỳ xuống chúc mừng lão thái thái đã khang phục. Túm tụm đỡ lão thái thái lên xe, sau khi cám ơn Đổng bộ khoái thì về phủ.

Trên đường, Chiêm Đề hỏi mẫu thân những gì đã trải qua, Chiêm mẫu nói: “Những người đó đều đeo mạng che mặt, không biết là ai, cũng không cho ta ra khỏi cửa, cho nên ta cũng không biết là đang ở đâu, có điều khẳng định là ở trong thành. Bởi vì ta thấy lúc năm mới trong thành bắn pháo hoa, còn nghe thấy tiếng chuông của chùa Tướng Quốc, rất có thể là ở gần chùa Tướng Quốc. Có điều, bọn họ đã nói, bọn họ ẩn cư ở kinh thành, không muốn người khác làm phiền. Cho nên, bọn họ bảo lời cảm ơn cứ để trong lòng là được, không cần phải tra ra, để tránh làm phiền sự thanh tu của ân nhân”.

“Hài nhi biết rồi”.

“Đúng rồi, con à, con giúp mẹ làm một truyện. Phủ Các Đông huyện Đổng Đạt có một huyện úy, tên là Bàng Cảnh Huy, con giúp ta điều hắn tới kinh thành làm quan. Có được không?”

“Huyện úy huyện Đổng Đạt?” Chiêm Đề hơi sững người: “Người này có quan hệ với ân nhân đã cứu mẹ ư?”

“Còn đừng hỏi, cũng đừng đi nghe ngóng, cứ làm theo mẹ nói là được rồi. Còn nữa, đừng có nói chuyện này với người khác, bao gồm cả tên Bàng Cảnh Huy đó, chỉ nói hắn chính tích lớn lao, cho nên điều tới kinh thành làm quan là được”.

“Mẹ, mẹ nói rất đúng, năm ngoái lại bộ khảo hạch quan viên các nơi, khu vực phủ Các Đông năm ngoái có lệ dịch, chết mấy vạn người. Nhưng, Đổng Đạt huyện của tên Bàng Cảnh Huy đó chết không tới ngàn người, khảo hạch xong mới biết là công tác phòng dịch của huyện này phi thường xuất sắc, đặc biệt là có một đại phu trẻ tuổi tên là Đỗ Văn Hạo, phát minh ra loại trang bị có thể phòng ngừa lệ dịch, lại thi hành nhiều phương pháp vô cùng hữu hiệu, dẫn các đại phu trong thành cứu chữa cho bệnh nhân ở khu cách ly ngoài thành, cứu sống vô số người, lúc đó được bổ nhiệm làm y quan của nha môn. Gần đây có nghe báo cáo, dịch tình ở đó đã được dập tắt toàn bộ rồi. Tri huyện Trang Quýnh và huyện úy Bàng Cảnh Huy công tích lớn lao, lại bộ khảo hạch, đang định bổ nhiệm hai người tới phủ Các Đông đảm nhiệm chức vị tương ứng, mẹ đã nói vậy, con điều hai người bọn họ tới kinh thành làm quan là được, bởi điều một người thì sợ người khác nói ra nói vào”.

“Ừ, vậy thì rất chu đáo. Vậy con điều hai người bọn họ tới kinh thành đi, đúng rồi, còn có đại phu trẻ tuổi có bản sự đó nữa”.

Chiêm Đề lắc đầu: “Đỗ đại phu này đã vẫn mệnh tuẫn chức trong trường bạo dân hỗn loạn đó rồi. Phủ huyện đã báo lên lễ bộ, lập miếu thờ công đức cho hắn. Đúng rồi, nghe nói vị đại phu này y thuật như thần, ngay cả đương kim Thái y viện Thái y thừa thần y Tiền Ất Tiền đại nhân cũng là đồ đệ của hắn. Người này thiện trường thần kỹ Hoa Đà, từng cứu trị Bạch Vân am chủ trì Tĩnh Từ sư thái của Các Đông phủ thân mang tuyệt chứng, Tĩnh Từ sư thái này rất không tầm thường, Bạch Y xã mà bà ta sáng lập có mấy vạn tín đồ, ngay phủ thành cũng có rất nhiều quan to là tín đồ trong xã, cho nên, phủ thành đã xây một đền thờ công đức cho hắn. Đáng tiếc, đền thờ vừa lập thì người đã mất. Ài! Nếu không, với y thuật cao minh lại thiện trường thần kỹ Hoa Đà của hắn, đáng để tiến cử vào Thái y viện mới phải. Thật là đáng tiếc!”

Chiêm mẫu gật đầu, buột miệng hỏi: “Thần kỹ Hoa Đà là y thuật gì vậy?”

“Mổ bụng liệu thương! Chính là mổ bụng người ta ra, sau khi trị khỏi bệnh bên trong thì lại khâu lại, người vẫn yên lành không sao cả!”

Chiêm mẫu trong lòng rúng động, đại phu trẻ tuổi đã khám bệnh cho mình, cũng mổ bụng mình ra rồi liệu thương, sau đó khâu lại. Bà ta vô thức sờ sờ vị trí vết cắt trên bụng mình, thầm nghĩ, chẳng lẽ vị đại phu ẩn cư này có quan hệ gì với thần y trẻ tuổi đã qua đời này ư?

Chương 152: Linh tê nhất điểm

Chiêm mẫu vốn muốn kể chuyện này với nhi tử, nhưng trước khi đi, dị nhân thần y đã dặn dò không được tiết lộ nửa câu về chuyện của bọn họ, đó coi như là báo đáp ơn cứu mạng của bọn họ. Cho nên, Chiêm mẫu lời tới miệng lại đành nuốt xuống. Thầm nghĩ, phu thê ân nhân dặn dò mình nhiều lần như vậy, trong đó nhất định có ẩn tình, hiện tại nghe nhi tử nói chuyện của Đỗ đại phu này, chắc là một vị nhân y tâm địa thiện lương, vị đại phu đã cứu mình nếu có uyên nguyên gì đó cùng bọn họ mà ẩn cư ở kinh thành, khẳng định là có nỗi khổ tâm bất đắc dĩ, mình không thể mở miệng nói lung tung làm hại đến ân nhân, bao gồm cả chuyện mình được chữa trị như thế nào cũng không thể nói ra, để tránh người khác đoán được.

Ngày thứ bảy theo ước hẹn trả lại A Đại, nhi tử của Phùng thị đã đến, bệnh tình của A Đại khôi phục rất nhanh, do A Đại có thể nghe ra giọng nói của bọn họ, cho nên mấy ngày nay Đỗ Văn Hạo khi phục chẩn cho nó đều mặc quần áo dạ hành, dùng khăn đen che mặt, hơn nữa từ đầu tới cuối không nói tiếng nào, chăm sóc cho nó cũng là hộ vệ mà nó chưa từng thấy qua, che mặt và rất ít lời.

Trải qua bảy ngày điều dưỡng, đống thương của Phùng thị đã đỡ nhiều, Đỗ Văn Hạo cũng kịp thời cắt bỏ ngón út và hai ngón chân đã hoại tử của ả, còn dùng thuốc để khu trừ hàn thấp, tránh mắc phải tý chứng nghiêm trọng và sai người làm cho ả một đôi nạng.

Buổi tối, Bàng Vũ Cầm và Đỗ Văn Hạo lên giường, sau một hồi ân ái, Bàng Vũ Cầm ngả vào ngực Đỗ Văn Hạo, muốn nói gì lại thôi.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Muốn nói gì thì nói ra đi!”

“Phu quân, Phùng thị đó tay chân đều tàn phế rồi, tương lai chỉ sợ không có năng lực kiếm tiền nuôi gia đình, nhi tử A Đại của bà ta còn nhỏ, thân thể đơn bạc, hai mẹ con đó sau này biết sinh hoạt thế nào?”

“Nàng muốn giúp họ à?”

“Vâng, chúng ta có thể tặng bọn họ một chút tiền không, để làm sinh ý gì đó. Có vốn để sống tạm, nuôi gia đình cũng tốt mà”.

“Được, ta đồng ý”. Đỗ Văn Hạo đáp ứng rất thống khoái, cười nói: “Kỳ thật không cần chúng ta phải chi tiền, có người giúp chúng ta làm điều đó!”

Bàng Vũ Cầm rướn người lên, hỏi: “Ai?”

“Hung thủ!”

“Hung thủ?”

“Ừ, hung thủ đó không phải là nhét khối vàng vào người A Đại để hại chết hắn sao? Khối vàng này chính là tiền hung thủ bồi thường cho A Đại. Chúng ta giữ lại khối vàng đó, đổi sang bạc rồi cho bọn họ, thế không phải là ổn rồi sao! Khối vàng đó giá trị không thấp đâu. Đủ để bọn họ làm một cái sinh ý nhỏ để duy trì cuộc sống đó!”

“Đúng rồi!” Bàng Vũ Cầm vui mừng nói: “Biện pháp này tốt quá! Thiên kinh địa nghĩa! Có điều, có nói với bọn họ đây là tiền bồi thường của hung thủ không?”

“Không, việc gì phải cho hung thủ phần nhân tình này? Chúng ta nếu không mổ bụng liệu thương để lấy khối vàng này ra, người bị hại khẳng định là đã chết rồi, khối vàng này cũng sẽ bị chôn trong quan tài với người bị hại. Cho nên, khối vàng này giống như là chúng ta moi ra từ trong quan tài, tặng cho người bị hại, thì phải dùng danh nghĩa quyên tặng của chúng ta mà tặng chứ”.

“Ừ! Có đạo lý!” Vậy khối vàng lấy được từ trong người nhi tử của Đổng bộ khoái và Chiêm mẫu có phải là cũng đổi thành bạc rồi bồi thường cho họ không?”

“Gia cảnh của Đổng bộ khoái cũng xoàng xĩnh, có thể đổi ra bạc rồi cho bọn họ. Còn Chiêm mẫu thì thôi, nhà bọ họ có tiền, không thèm để ý đến chút bạc này đâu. Nếu gi­ao cho bọn họ, e rằng sẽ để những tham quan đó chiếm mất. Hay là chúng ta lưu lại, coi như là tiền công của chúng ta, chúng ta giúp Chiêm mẫu trị bệnh, ngay cả một văn cũng không lấy. Còn chữa bệnh cho nhi tử của Đổng bộ khoái, A Đại, Phùng thị, số tiền chữa trị cũng không ít đâu, sau này e rằng sẽ lại có những chuyện như thế này nữa, chúng ta dẫu sao cũng không thể cứ làm ăn lỗ vốn mãi được. Đây cứ coi như là tiền phụ cấp của ông trời cho chúng ta đi!”

Bàng Vũ Cầm gật đầu: “Ừ, Cầm nhi nghe theo phu quân!”

Sáng sớm ngày hôm sau, Phùng thị muốn về nhà đợi nhi tử.

Đỗ Văn Hạo bảo ả đợi một chút, gọi Bàng Vũ Cầm lấy một rương bạc nhỏ đặt trước mặt ả: “Chỗ bạc này cho ngươi, chân tay ngươi đã tàn tật rồi, không thể lao động được nữa, cầm chỗ bạc này làm gì đó theo khả năng cho phép. Ta đã nói với quản gia của ta giúp các ngươi tìm kiếm một tiệm ăn, sinh ý rất không tồi. A Đại còn nhỏ, ngươi nên cho nó vào trường tư thục đọc ít sách. Hài tử này rât hiếu thuận cũng rất hiểu chuyện, tương lai nhất định sẽ có tiền đồ”.

Phùng thị đang nhìn chằm chằm vào hộp bạc, nước mắt đục ngầu từng giọt từng giọt tí tách rơi xuống, hai chân mềm nhũn sắp quỵ xuống. Bàng Vũ Cầm sớm đã có chuẩn bị, vội vàng đỡ lấy ả: “Đừng như vậy! Phu thê chúng ta có ấn tượng rất tốt đối với A Đại, cho nên hi vọng có thể giúp đỡ các người trong khả năng cho phép”.

Phùng thị cảm ơn rối rít, đang muốn đi thì đột nhiên nhớ tới một chuyện, nói với Đỗ Văn Hạo: “Ân công, lần trước ngài hỏi ta vào ngày A Đại đau bụng có nghe thấy gì dị thương không, lúc đó lão bà tử ta tâm ý hoảng loạn, không suy nghĩ kỹ, nhưng vẫn ghi nhớ lời của ngài. Mấy ngày nay nghĩ lại, có một sự tình rất quái lạ, ngày đó ta ngủ lơ mơ, nghe thấy nóc nhà có người ho rất khẽ, ta liền tỉnh dậy, nghe thật kỹ thì lại nghe thấy thêm mấy tiếng nữa, ta rất kỳ quái, trên nóc nhà của ta sao lại có người ho chứ…”.

Đỗ Văn Hạo trong lòng rúng động: “Có người ho ư? Nam hay là nữ?”

“Giọng nói đó có chút già nua, đúng rồi, còn thở hổn hà hổn hển nữa, còn khạc đờm, tuy rất nhỏ nhưng lúc đó ta tỉnh rồi. Lúc đó trời còn chưa sáng, bên ngoài lặng im, hơn nữa thính lực lão bà tử ta trước giờ đều rất linh, ai nói xấu gì ta dù nhỏ xíu ta cũng có thể nghe ra…”.

Phàm là những mụ chanh chua giỏi cãi nhau, tai lúc nào cũng tốt. Đỗ Văn Hạo vội vàng hỏi: “Đó là vào lúc nào?”

“À…chắc là canh năm, bởi vì ta bình thường luôn dậy vào canh năm, dậy sớm thì có thể nhặt được nhiều thứ bán được tiền, có điều có chút kỳ quái, ngày đó ta lại không dậy được”.

“Vì sao?”

“Không biết, ta vốn đầu óc mơ mơ hồ hồ ngồi dậy, nhưng sau đó lại nằm xuống thiếp đi, cho tới tận lúc A Đại đau bụng quá, ra sức lay ta, ta mới tỉnh lại”.

“Nhi tử của ngươi lay ngươi thì ngươi mới tỉnh dậy ư?”

“Phải, ta rất bực mình, ta từ trước đến giờ không bao giờ ngủ say như vậy, chỉ một động tĩnh khe khẽ là ta có thể bừng tỉnh ngay”.

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát, trầm giọng nói: “Ngươi nghĩ kỹ lại đi, ngươi lúc đó tỉnh lại có cảm giác gì?”

“Ta tỉnh dậy rồi, nghe thấy nhi tử đang ôm bụng hô thảm, vội vàng ôm nhi tử…”.

“Không không, ta hỏi là sau khi bị nhi tử lay tỉnh, ngươi thấy mình có chỗ nào không đúng không, ngươi chẳng phải đã nói là trước giờ chưa từng ngủ say như vậy sao?”

“Bản thân ta…?” Phùng thị cúi đầu suy nghĩa một hồi, chỉ vào sau tai: “Lúc tỉnh lại cảm thấy đau đầu, chỗ phía sau tai đau nhức vô cùng, ta nhớ là ta còn mơ mơ màng màng xoa xoa mấy cái, sau đó thì vội vàng đi chiếu cố nhi tử.

Đỗ Văn Hạo trong lòng lạnh ngắt, nói: “Để ta xem tai ngươi nào!”

Phùng thị nghiêng đầu để Đỗ Văn Hạo kiểm tra tai, không phát hiện vết bầm, có điều, Phùng thị rất lâu rồi không tắm, đầu tóc bù xù mặt bẩn thỉu, Đỗ Văn Hạo gọi phó tòng cầm một bình nước đến, bảo Phùng thị rửa mặt, đặc biệt là rửa kỹ phần sau tai.

Sau khi rửa xong, Đỗ Văn Hạo lại một lần nữa kiểm tra tai của Phùng thị.

Đột nhiên, hắn kinh hỉ hô lên một tiếng, ở phần lỗ tai của Phùng thị, có một lỗ kim nho nhỏ.

Đỗ Văn Hạo lại cẩn thận kiểm tra bên kia, nhưng không phát hiện ra lỗ kim, hắn nghĩ một lát rồi nói với Phùng thị: “Xin lỗi, ta có việc gấp phải đi, cảm ơn ngươi đã cho ta biết những điều này, ta đã dặn dò họ đưa ngươi về rồi”.

Nói xong, Đỗ Văn Hạo vội vội vàng vàng bước đi trong tiếng cảm kích của Phùng thị.

Phùng thị đi cùng với hai lão mụ tử mà Đỗ Văn Hạo phái tới về nhà đợi nhi tử.

Tối ngày hôm đó, Đỗ Văn Hạo viết y chúc (lời dặn của bác sĩ) và vẫn dùng biện pháp cũ, che mắt A Đại lại rồi dùng kiệu bịt kín khênh tới gần nhà Phùng thị, sau đó thì lặng lẽ ly khai.

A Đại kéo khăn che mặt xuống, phát hiện đã tới cạnh nhà, vui mừng vạn phần, ôm bụng từ từ bước vào trong nhà.

Cho dù tiếng bước chân của A Đại rất nhỏ, nhưng Phùng thị đang ngồi trong viện tử lập tức nghe ra là tiếng của nhi tử, hét lên: “A Đại! Con đấy à?” Rồi chống nạng khập khiễng đi ra cửa.

“Mẹ!” A Đại tiến vào trong viện, mắt thấy Phùng thị đang chống nạng, vừa kinh vừa hỉ nói: “Mẹ, chân mẹ sao vậy?”

Phùng thị đang loạng choạng bước tới, nắm lấy cánh tay nhi tử của mình, vui mừng đến bật khóc: “A Đại, con…, bụng con không đau nữa chứ? Bệnh khỏi chưa?”

“Vâng, khỏi rồi, thần y đại phu đã mổ bụng liệu thương cho con, cắt một lỗ ở trên bụng và trị khỏi rồi. Mẹ, chân của mẹ…”.

“Không sao! Không sao! Chỉ cần con không sao là tốt rồi!”

Mấy hàng xóm nhiệt tâm vẫn cùng Phùng thị đợi nhi tử trở về, thấy mẹ con họ đã đoàn viên, mắt cũng ươn ướt, một người hàng xóm nói: “A Đại à, chân của mẹ cháu là ngày đó vì khẩn cầu dị nhân thần y, quỳ ở trong viện tử của Đổng bộ khoái một ngày một đêm, bị đông cứng rồi hoại tử đó. May mà Văn đại phu của Phù Vân đường chữa bệnh miễn phí cho mẹ cháu, tuy một bàn chân và mấy ngón chân không giữ được, nhưng cái mạng này thì coi như đã được giữ lại”.

A Đại nắm bàn tay tàn khuyết của Phùng thị, nước mắt tuôn rơi, bịch một tiếng quỳ xuống đất: “Mẹ…”.

“A Đại đứng dậy đi! Đừng quỳ xuống đất, trên mặt đất toàn là băng tuyết, sẽ làm ảnh hưởng đến thân thể đó!” Phùng thị kéo nhi tử dậy, cũng rơi lệ nói: “Chúng ta đã gặp được quý nhân rồi, là Văn đại phu của Phù Vân đường đó, nếu không phải là người chỉ cho chúng ta tới chùa Tướng Quốc tìm dị nhân, con của ta sao có thể được cứu? Văn đại phu đúng là một thầy thuốc nhân hậu, không chỉ cứu mạng của mẹ, giúp trị thương mà còn cho mẹ con chúng ta một số tiền lớn, hôm nay lại phái quản gia tới giúp chúng ta tìm mua một quán ăn buôn bán khá tốt ở bến cảng, lại giúp chúng ta mời tới hai đầu bếp thủ nghệ đặc biệt giỏi, sau này sinh hoạt của hai chúng ta có chỗ để dựa vào rồi. Văn đại phu chính là ân nhân của nhà chúng ta, nhớ lại cái cách mà ngày trước mẹ đã đối xử với người, thật sự là xấu hổ đến mức muốn tìm một cái lỗ để chui xuống”.

“Vâng, con đã nói họ là người tốt rồi mà, nhất định phải nghĩ cách cảm ơn Văn đại phu”.

“Mẹ nghĩ rồi, thấy dược phô của bọn họ sinh ý không được tốt lắm, sau này chúng ta kinh doanh tiệm ăn, khách nhân nam lai bắc vãng rất nhiều, chúng ta có thể tuyên dương thanh danh cho của Phù Vân đường của người, ca ngợi ân đức của bọn họ!”

“Vâng, cách này rất hay! Chúng ta vào nhà nói chuyện đi!”

Phùng thị nói: “Hài tử ngốc, không phải đã nói rồi sao, ân nhân giúp chúng ta mua một tiệm ăn có kèm một căn nhà nhỏ, sau này chúng ta sống ở đó. Đi, về nhà thôi!”

Chương 153: Tất cả đều vì lương thực

Nghê chưởng quỹ của Sơn Hải dược tài thương hành hôm nay cưới vợ cho nhi tử, tiệc bày dài cả con đường, tân khách như mây, người tới tặng lễ vào vào ra ra rất náo nhiệt, trong Nghê trạch càng giống như là núi người, biển người.

Nghê chưởng quỹ đang dẫn nhi tử đi kính rượu cho các vị khách quý và thân hữu nhà gái, trạch viện vô cùng náo nhiệt với tiếng hô hào và cụng ly. Nhưng trong buồng cưới ở hậu đường lại vô cùng yên tĩnh, tân nương che khăn hồng, ngồi trên giường đỏ chói, tim đập bình bịch, đang suy đoán hình dáng của người chồng tương lai của mình.

Tân nương tử trong lòng liên tục khẩn cầu lão thiên gia sẽ ban cho mình một lang quân như ý, ngũ quan đoan chính.

Có điều, từ xưa đến nay, đã làm vợ người ta, trượng phu xấu hay đẹp chỉ là thứ yếu, quan trọng nhất là sẽ đối xử tốt với mình, chỉ cần lòng dạ tốt thì xấu một chút cũng chẳng sao.

Tân nương đang suy nghĩ vẩn vơ thì đột nhiên có tiếng kẽo kẹt vang lên, cửa bị đẩy ra. Tân nương tử có chút ngạc nhiên, nếu là tân lang tới vậy thì chắc là bị người ta đưa tới, ở cửa lẽ ra phải có rất nhiều người la hét ầm ỹ mới đúng, nhưng ngoài cửa vô cùng tĩnh lặng, thanh âm kẽo kẹt lúc nãy cũng chỉ nghe thấy loáng thoáng mà thôi, vậy người tiến vào là ai?

Tân nương cũng không dám hỏi linh tinh, chỉ nghe thấy tiếng bước chân càng lúc càng gần, khi tới bên cạnh mình thì dừng lại, từ vạt dưới của khăn hồng, tân nương lờ mờ thấy được một đôi giầy thêu, lại thêm lúc trước nghe thấy tiếng bước chân rất khẽ, tân nương đoán rằng, người tới khẳng định là nữ tử, hơn nữa, từ kiểu dáng của giầy thêu có thể thấy, chắc là một nữ nhân đã lớn tuổi. Không đợi nàng cất tiếng hỏi, đột nhiên cảm thấy sau tai đau nhói, lập tức thấy trời đấy quay cuồng, ngã ngửa trên giường, khăn hồng cũng rơi sang một bên.

Một lão phụ đứng ở trước giường, hai ngón tay kẹp một kim châm đứng nhìn tân nương vừa ngất đi, sau đó bà ta đút kim châm vào ống rồi cất vào túi áo, từ trong ngực lấy ra một khối vàng nhỏ, tiến lên trước một bước, quỳ một đầu gối lên giường, đưa tay ra cầm quai hàm của tân nương, khiến nàng ta hé môi, hai ngón tay cầm khối vàng ấn vào trong miệng tân nương.

Đột nhiên vù một tiếng, một viên đạn nhỏ nhanh như thiểm điện bay vào, đập trúng vào cổ tay phu nhân đó.

Lão phụ hô thảm một tiếng, cổ tay phải đã bị viên đạn châu đó bắn vỡ, khối vàng cũng rơi xuống giường.

Lão phụ phản ứng rất nhanh. Từ lực đạo và độ chuẩn xác của viên đạn châu đó là biết người tới là một cao thủ giỏi về ám khí, mình không phải là đối thủ. Bà ta muốn túm lấy tân nương đang nằm trên giường, chuẩn bị dùng nàng ta làm con tin. Nhưng tay của bà ta còn chưa chụp tới cổ họng của tâng nương, ba viên đạn châu lại bay tới nhanh như thiểm điện, chia ra đánh lên khuỷu tay trái và hai đầu gối của bà ta.

Lần này lão phụ đã có chuẩn bị, né được hai viên, nhưng viên thứ ba vẫn kích trúng đầu gối của bà ta. Lão phu nhân hô thảm một tiếng, té nhào lên giường.

Bà ta nén đau muốn túm lấy tân nương, nhưng lúc này một thanh đoản đao đã đè lên trên cổ rồi. Bà ta giống như bị định thân, cả động cũng không dám động.

Người chế trụ lão phu nhân chính là Lâm Thanh Đại.

Tiếp theo là hai cánh cửa đều bị đẩy ra. Mấy bộ khoái nha môn tay cầm cương đao xông vào, chỉ về phía bà ta.

Người xông vào trước tiên chính là Đổng bộ khoái của phủ Khai Phong.

Đổng bộ khoái cầm một thanh hậu bối khảm đao chỉ vào lão phu, lạnh lùng nói: “Cái lão yêu bà ngươi! Có phải là ngươi dùng vàng khối lừa nhi tử ta nuốt vào không, ngươi muốn giết nhi tử của ta ư?”

Lão phụ không chút hoảng loạn, quay đầu nhìn Lâm Thanh Đại: “Công phu của tôn giá giỏi lắm!”

Lâm Thanh Đại lạnh lùng nói: “Quá khen rồi! Triệu chưởng quỹ của cửa hàng thọ y Tường Vân!”

“Ngươi nhận ra ta?”

“Vừa mới nhận ra thôi, sau khi Triệu chưởng quỹ dùng vàng khối để giết người, phải trải qua trăm đắng nghìn cay mới tìm được bà. Võ công của bà không tồi, có điều, công phu là dùng để cường thân kiện thể, trừ hại cho dân chứ không phải dùng để hại người khác giống như bà, thậm chí là hại cả trẻ con mới mấy tuổi!”

Lão phụ ngẩng mặt lên trời cười lớn, thanh âm vô cùng chói tai, một lúc sau mới nói: “Không sai, nhi tử của bộ khoái này là do ta dùng vàng khối để hãm hại, bởi vì nó đáng chết!”

Đổng bộ khoái tức giận đến nỗi bật cười: “Nhi tử của ta mới bốn tuổi, có lỗi lầm gì mà đáng chết chứ?”

“Làm sai thì không kể tuổi tác! Còn nhớ không? Mồng tám tháng chạp hôm đó, cả nhà các ngươi đi dạo chợ đêm, nhi tử bốn tuổi đó của ngươi đã lãng phí bao nhiêu lương thực?”

Đổng bộ khoái ngây người, phu thê bọn họ đều cưng chiều hài tử, nó thích ăn gì đều mua cho nó thứ đó, khi đi chơi thường mua một đống đồ ăn, nhưng nhi tử thường thường chỉ cắn mấy miếng là chán, sau đó thì chỉ đành vứt đi. Đổng bộ khoái không hiểu, hỏi: “Nhi tử của ta ăn cái gì, đều là chúng ta dùng tiền để mua, chúng ta đã bỏ tiền ra, ăn hay vứt đi là quyền của chúng ta! Có gì mà kêu là lãng phí chứ! Ngươi chẳng lẽ vì thế mà hạ độc thủ giết nhi tử của ta ư?”
“Tội này mà nhỏ hả? Ngươi biết lương thực mà nhi tử của ngươi vứt đi, có thể nuôi sống bao nhiêu người không? Kẻ không biết quý lương thực như nhi tử của ngươi, không xứng đáng để sống trên thế giới này! Cho nên, ta muốn cho chúng ăn vàng khối, các ngươi không phải là có tiền sao? Không phải là không thèm để ý đến lương thực sao? Vậy được, để kim khối trở thành lương thực của các ngươi, để các ngươi ăn vàng khối mà chết!”

Đám người Đổng bội khoái sững sờ, không ngờ lão phu nhân này vì người ta lãng phí lương thực mà hạ độc thủ với một hài tử ba bốn tuổi.

Một nam tử trầm giọng nói: “Lãng phí quả thực là không nên, nhưng không đáng tội chết, càng huống chi nó chỉ là một hài tử ba bốn tuổi. Lão mẫu của Chiêm Đề Chiêm đại nhân, lễ bộ khảo công tư lang trung cũng là bởi vì lãng phí lương thực, cho nên ngươi mới cho bà ta nuốt vàng, để bà ta chết trên tiền vàng, đúng không?”

Lão phu nhân chăm chú nhìn nam tử này, nói: “Ngươi là đại phu toạ đường của Phù Vân đường phải không?”

Người này chính là Đỗ Văn Hạo, vừa nghe thấy câu này, hiếu kỳ nói: “Ngươi nhận ra ta?”

“Đương nhiên, những ngươi mà lão thân dùng vàng để giết, chỉ có ba người sống, nhi tử của vị Đổng bộ khoái này, lão mẫu của Chiều Đề lễ bộ khảo công tư lang trung, còn có nhi tử Phùng Đại của Phùng thị. Bọn họ có thể sống sót chính là nhờ ngươi cứu. Y thuật của ngươi không tồi, người nuốt vàng cũng có thể cứu sống, thế gi­an e rằng chỉ có mình ngươi mà thôi!”

“Ngươi sao biết là ta cứu?”

“Muốn người ta không biết, tốt nhất đừng làm!” Lão phu nhân chỉ vào Lâm Thanh Đại: “Tuy lão thân võ công không bằng vị cô nương này, nhưng khinh công của ta lại không tồi. Sau khi lão thân hạ động thủ, sẽ luôn đi theo xem kết quả, cho nên lúc các ngươi cứu nhi tử của Đổng bộ khoái đi, lão thân đã nhìn thấy tất cả. Còn nữa, các ngươi bố trí mật thám ở gần nhà Đổng bộ khoái, lão thân cũng biết rõ ràng! Các ngươi giả thần giả quỷ hồ lộng người khác, nhưng không hồ lộng được ta!”

Đổng bộ khoái kinh ngạc vạn phần, nhìn Đỗ Văn Hạo: “Văn đại phu, ngài…ngài chính là vị thần y bộ khoái đã cứu mạng nhi tử của ta sao?”

Đỗ Văn Hạo vội vàng cười nói: “Đừng nghe bà ta, bà ta nói linh tinh đấy”.

“Ta nói linh tinh ư? Ha ha, có phải hay không thì trong lòng ngươi tự biết!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng đổi chủ đề: “Ngươi vì sao lại muốn giết lão mẫu của Chiêm Đề? Bà ta với ngươi vô oán vô cừu mà!”

“Hừm! Một trường thọ yến của bà lão bất tử này, lãng phí bao nhiêu đồ ăn thức uống, vô số bàn ăn đầy gà vịt thịt cá đều bị đổ hết đi, người không biết quý trọng lương thực như vậy rất đáng chết! Huống chi là người nhà giàu, thì càng phải nên quý trọng lương thực!”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Cho dù ngươi thù hận người giàu, nhưng nhi tử Phùng Đại của Phùng thị, hai mẹ con họ dựa vào nhặt ve chai mà sống, đừng nói là lãng phí, ngay cả một hạt gạo cũng hận không được chẻ ra mà ăn, bọn họ có gì đáng để ngươi dùng vàng để mưu sát không?”

“Hắn? Hừ! Càng đáng chết! Đã sinh hoạt khổ cực như vậy, không ngờ còn đổ đi hai bát sủi cảo còn đầy! Chẳng lẽ còn không đáng chết ư?”

Đỗ Văn Hạo ngây người: “Đổ đi hai bát sủi cảo? Không thể nào!”

“Cái gì mà không thể, ta chính mắt nhìn thấy đấy! Đúng rồi, có một chuyện lão thân trước sau vẫn không hiểu, có thể hỏi không?”

“Có gì thì cứ nói hết ra đi!”

“Ngươi sao lại tìm ra ta?”

“Ta nói cho ngươi biết thì ngươi có bằng lòng trả lời ta một vấn đề không?”

“Được! Ta đáp ứng ngươi”.

“Kỳ thật rất đơn giản, ngươi dùng vàng khối để hạ độc, chứng tỏ ngươi không để ý đến tiền. Hơn nữa khi người tiến vào nóc nhà của Phùng thị, dây thừng mà ngươi sử dụng là dây lưng của thọ y. Vậy phạm vi được thu nhỏ thành những cửa hàng thọ y lớn trong toàn thành. Ngoài ra, khi ngươi hạ độc nhi tử A Đại của Phùng thị, lúc ở trên xà ngang chuẩn bị tiềm nhập, không ngờ trời lạnh nên ngươi đã bật ho, khiến cho Phùng thị nghe thấy và tỉnh lại nhưng sau đó không biết vì sao lại ngủ thiếp đi. Sau này Phùng thị nói lại với ta, ta kiểm tra cẩn thận phía sau tai của Phùng thị thì phát hiện có một lỗ kim rất nhỏ”.

“Lỗ kim rất nhỏ?” Lão phu nhân kinh hãi, nói: “Ngươi sao có thể nhìn ra?”

“Lỗ kim tuy rất nhỏ, nhưng đủ để giúp ta tìm ra ngươi!”

“Thật ư?”

Đỗ Văn Hạo đương nhiên biết, phía dưới da phần mang tai của con người có rất nhiều dây thần kinh lớn nhỏ phân bố chồng chéo lên nhau. Cho nên, tai là một bộ vị cực kỳ mẫn cảm, khi bị véo tai sẽ sinh ra cảm giác vô cùng đau đớn, dùng lực túm chặt cũng có thể khiến người ta ngất đi.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đúng, cái lỗ châm nho nhỏ này chứng tỏ người động thủ phần lớn là thiện trường châm cứu, hơn nữa, có thể quỷ không biết thần không hay lẻn vào nhà của mẹ con Phùng thị, chứng tỏ hung thủ rất giỏi võ công! Quả nhiên không sai! Cho nên ta phái người canh chừng Vân Tường thọ y điếm của ngươi. Lúc thấy ngươi khi nhìn người ta lãng phí những bàn tiệc lớn này thì trong mắt chiếu ra vẻ oán độc, ta liền biết ngươi muốn hạ độc thủ”.

“Cao minh! Thì ra phủ Khai Phong còn có nhân vật đầu óc sáng suốt như Văn đại phu, bội phục, bội phục!”

Đỗ Văn Hạo hờ hững cười: “Hiện tại ngươi nên trả lời vấn đề của ta rồi, có được không?”

“Được! Ngươi hỏi đi!”

“Ngươi vì sao lại muốn giết người lãng phí lương thực?”

Lão phu nhân cười thê lương: “Bởi vì nhi tử của ta đã bị chết đói!”

Đỗ Văn Hạo kỳ quái nói: “Không thể nào! Ngươi nhiều tiền như vậy, sao lại để nhi tử của mình bị chết đói?”

“Lúc đó ta không có tiền, nhà gặp lũ lụt, hoa màu bị ngập hết, phu quân của ta cũng bị chết đuối, ta mang nhi tử chạy nạn xin ăn, nhưng rất nhiều người thà rằng vứt bỏ rượu thịt cũng không nguyện ý cho đám ăn xin chúng ta một chút gì đó để ăn! Ta trơ mắt nhìn nhi tử chết đói trong lòng, lúc đó ta đã phát thệ, phải giết hết những người lãng phí lương thực!”

Chương 154: Tự nắm giữ vận mệnh của mình

Đỗ Văn Hạo cảm thấy lạnh run: “Sau đó ngươi đã giết không ít người rồi phải không?”

Lão phụ ha ha cười lớn: “Không sai! Ta đã giết không ít người. Lúc ban đầu, ta giết người cướp của, sau khi kiếm đủ tiền rồi, ta liền mở cửa hàng thọ y, âm thầm tiếp tục giết những người không quý trọng lương thực, tới hiện tại, ta tự mình cũng không nhớ rõ đã giết bao nhiêu người rồi. Có điều, có một điểm có thể nói cho các ngươi biết, trong bụng những người này đều có vàng khối, phải tới mấy trăm lượng. Nhưng ta sẽ không nói cho các ngươi biết những người này là ai đâu, cứ để những khối vàng này vĩnh viễn chôn sâu trong lòng đất đi!”

Điều Đổng bộ khoái quan tâm là Đỗ Văn Hạo rốt cuộc có phải là dị nhân thần y đã cứu nhi tử của mình hay không, hắn nói với lão phụ: “Ngươi thực sự nhìn thấy nhi tử của ta là được vị đại phu của Phù Vân đường này cứu chữa ư?”

Lão phụ nói: “Đương nhiên, chính mắt ta nhìn thấy hắn mổ bụng liệu thương cho nhi tử của ngươi. Ta vốn muốn tìm hắn hỏi vì sao lại phá hoại chuyện tốt của ta, nhưng vị cô nương này ở bên cạnh hắn võ công quá cao, lại thêm có hai thiếp thân hộ vệ, võ công cũng mạnh hơn ta, cho nên ta căn bản không dám lộ diện. Ta không biết hắn vì sao lại muốn ẩn cư ở kinh thành, vì sao lại muốn phá hoại kế hoạch của ta. Cho nên, ta xuất kỳ bất kỳ ngăn cản một hộ vệ mà bọn họ bố trí canh chừng ở ngoài viện tử nhà ta, nghiêm hình bức cung mới biết hắn kỳ thật không phải họ Văn mà là họ Đỗ. Thì ra chính là tọa đường đại phu của Ngũ Vị đường ở phủ Các Đông huyện Đổng Đạt! Sau này giả chết ẩn tàng tại đây, mục đích là để chế tạo một loại trang bị cho đại quân tây chinh Tây Hạ của chúng ta!”

Đỗ Văn Hạo nghe bà ta tiết lộ thân phận của mình, nhưng không chút kinh hoàng, chỉ mỉm cười nhìn bà ta.

Đổng bộ khoái lại vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nhìn Lâm Thanh Đại rồi lại nhìn Đỗ Văn Hạo: “Ngài…, ngài thực sự là ân nhân đã cứu mạng nhi tử của ta sao?”

Không đợi Đỗ Văn Hạo trả lời, ngoài cửa có cười vừa kinh vừa hỉ gọi một tiếng: “Sư phụ!”

Đỗ Văn Hạo quay lại, từ bên ngoài có ba người đang vội vã tiến vào, chính là Thái y thừa Tiền Ất Tiền Bất Thu và đồ đệ Diêm Diệu Thủ. Đằng sau có một cô nương chạy theo, chính là Tuyết Phi Nhi!

Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Các ngươi tới rồi!”

Tiền Bất Thu sải bước lên trước, quỳ xuống khấu đầu: “Sư phụ! Người quả thật vẫn còn sống! Tốt quá!”

Diêm Diệu Thủ cũng khấu đầu nói: “Đúng vậy! Đồ tôn khấu kiến sư tổ!”

Đỗ Văn Hạo đỡ lấy cánh tay Tiền Bất Thu rồi nâng lão dậy: “Mau đứng dậy đi! Ngươi là quan, ta là dân, không làm vậy được đâu!”

“Sư phụ, vừa rồi Tuyết cô nương tới Thái y viện gặp ta. Thật sự là dọa cho ta giật nảy mình, còn cho rằng…”

“Còn cho rằng đã gặp quỷ à?” Tuyết Phi Nhi mỉm cười, chen vào nói.

“Đúng vậy. Sau khi Tuyết cô nương kể lại những gì đã trải qua ta mới biết, thì ra sư phụ ngài giả chết, luôn ẩn cư ở kinh thành. Lão phu liền theo cô ta tới đây gặp sư phụ! Thật sự là vạn thiên chi hỷ! Mấy ngày trước ta đã nhắc tới sư phụ với Cửu hoàng tử, Cửu hoàng tử còn than thở rằng lương y khó cầu. Thế này thì tốt rồi, Cửu hoàng tử biết sư phụ còn sống, nhất định sẽ mời ngài vào chủ trì Thái y viện.”

“Đừng!” Đỗ Văn Hạo phất tay liên tục: “Ngươi đừng nói cho Cửu hoàng tử biết. Ta không muốn làm thái y, không muốn vào Thái y viện. Cứ để ta tự do tự tại làm một đại phu tọa đường của một tiệm thuốc đi.”

Cái đó gọi là làm bạn với vua như làm bạn với hổ, Tiền Bất Thu đương nhiên biết, trải qua những ngày tháng khám bệnh cho hoàng thân quốc thích ở Thái y viện, khiến lão đã thể hội sâu sắc điểm này, nghe sư phụ nói vậy, tự nhiên minh bạch ngọn nguồn bên trong, vội vàng gật đầu đáp ứng.

Bỗng lão nhớ tới một chuyện, hỏi: “Đúng rồi, sư phụ vì sao lại giả chết rồi ẩn cư ở kinh thành? Hại mọi người đều thương tâm muốn chết, đặc biệt là Bàng đại nhân và Tống chưởng quỹ, bọn họ đau lòng đến chết đi sống lại.”

“Nguyên nhân vì sao, đợi lát nữa ngươi sẽ biết.”

“Đợi lát nữa?” Tiền Bất Thu có chút nghi hoặc nhưng không dám hỏi nhiều, đáp ứng: “Vâng!”

Đổng bộ khoái nghe bọn họ nói chuyện, cuối cùng cũng xác nhận Đỗ Văn Hạo chính là vị dị nhân thần y đã cứu nhi tử của mình, không khỏi kinh hỷ đan xen. Lúc trưa, hắn từ nha môn về nhà, trên đường gặp được Lâm Thanh Đại. Lâm Thanh Đại nói với hắn đã tìm được người dùng vàng khối mưu đồ giết nhi tử của hắn, bảo hắn dắt bộ khoái theo nàng ta đi bắt người. Đổng bộ khoái vội vàng về nha môn, gọi mấy bộ khoái đang trực ca cùng Lâm Thanh Đại tới Phù Vân đường thì gặp được đại phu trẻ tuổi này.

Đỗ Văn Hạo bảo mọi người đổi sang thường phục, cầm lễ vật giả trang thành tân khách tới dự lễ cưới của Sơn Hải dược phô Nghê chưởng quỹ, tiến vào nghê trạch. Sau đó thì theo Lâm Thanh Đại tới trạch viện, chế phục hung thủ đang muốn dùng vàng khối để sát hại tân nương. Không ngờ lão phụ này lại nhận ra đại phu trẻ tuổi này chính là dị nhân thần y đã cứu nhi tử của hắn, tiếp theo Thái y thừa Tiền Bất Thu chạy tới, xác nhận đại phu trẻ tuổi này chính là sư phụ của Tiền Bất Thu, cũng chính là đại phu trẻ tuổi thiện trường thần kỹ mổ bụng liệu thương.

Tới lúc này, Đổng bộ khoái không còn hoài nghi gì nữa, bịch một tiếng quỳ xuống đất, nói: “Ân công tại thượng, xin nhận một lạy của tiểu nhân!” Bịch bịch bịch, liên tục dập đầu ba cái rõ vang.

Đỗ Văn Hạo vội vàng đỡ hắn dậy, nói: “Đừng khách khí, cứu nhi tử của ngươi cũng là tình cờ mà thôi, hôm đó tiểu muội của ta uống nước lạnh nên bị nấc, chúng ta tới Huệ Nhân đường lấy thuốc. Cho nên nếu không gặp được các người thì cũng không trị được bệnh cho hài tử. Hài tử e rằng đã chết trong tay người đàn bà này rồi.”

Đổng bộ khoái gật đầu liên tục, sau khi nghe thấy những gì lão phụ này nói, hắn trong lòng cũng cảm thấy thập phần may mắn, nói: “Ân công, người bắt được tặc phu để ả sau này không làm ác được nữa, thực sự là công đức vô lượng, ta nhất định sẽ tấu lên phủ doãn đại nhân, để ban thưởng cho ngài thật hậu.”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Không cần, ngươi nếu thực sự cảm kích ta, thì đừng nói cho phủ doãn của các người biết, chỉ nói là các ngươi tự mình bắt được là được rồi.”

“Vì sao?” Đổng bộ khoái kỳ lạ hỏi.

“Phủ doãn của các ngươi nếu biết ta có thể phá án, sau này nói không chừng có án kiện gì khó lại tìm ta, vậy thì ta sẽ mệt chết mất, ta là đại phu, không phải là bộ khoái, không muốn gặp phiền phức, chỉ muốn yên ổn hành y thôi.”

“Vâng, hiểu rồi, xin nghe theo hiệu lệnh của ân công.”

Đổng bộ khoái và mấy huynh đệ xuyên xích qua xương tỳ bà của lão phụ rồi lại đeo lên gông xiềng năm mươi cân. Lão phụ đó tuy có võ công, nhưng cổ tay và đầu gối đã bị Lâm Thanh Đại dùng đạn châu để đả thương, lại thêm Lâm Thanh Đại ở bên cạnh cảnh giới, ả biết phản kháng cũng vô dụng, chỉ đành bó tay chịu trói.

Sau khi làm xong xuôi, Đổng bộ khoái nói với Đỗ Văn Hạo: “Ân công, chúng ta đi chứ?”

“Đừng gấp.” Đỗ Văn Hạo nhìn tân nương tử đang hôn mê bất tỉnh nằm trên giường, “Các ngươi đi gọi chủ nhân tới đây, bọn họ vẫn chưa biết nàng dâu của bọn họ suýt nữa thì chết. Chuyện này phải nói với người ta. Các ngươi chế trụ các nha hoàn và người hầu ở bên ngoài đi, ở đây trải qua một trận đại loạn, cũng nên nói cho người ta biết, để tránh người ta ngộ nhận chúng ta là cường đạo.”

Đổng bộ khoái vội vàng gật đầu vâng lời, phái hai bộ khoái đi gọi Nghê chưởng quỹ, chủ nhân của nhà này tới.

Nghê chưởng quỹ dắt nhi tử và thân thuộc vội vàng chạy tới, bọn Đổng bộ khoái đã giơ ra lệnh bài của nha môn phủ Khai Phong cho họ thấy, nói rằng bọn họ đang bắt hung phạm giết người. Nghê chưởng quỹ biết hung phạm này suýt chút nữ thì giết chết con dâu của mình, hiện tại thấy con dâu đang nằm bất tỉnh nhân sự trên giường thì không khỏi đại kinh thất sắc.

Lão bà của Nghê chưởng quỹ lao tới ôm con dâu rồi ra sức vừa lắc vừa hô hoán. Cuối cùng tân nương cũng dần dần tỉnh lại, mơ mơ hồ hồ nhìn đông nhìn tây: “Ta…, ta sao vậy? Ối chà! Ta đau đầu quá!”

Tân lang vừa thấy tân nương trông rất xinh đẹp, thì vui mừng đến đến nỗi nở gan nở ruột. Nghe thấy câu này, muốn tới giúp nàng xoa bóp đầu, nhưng có nhiều người ở bên cạnh nên cảm thấy có chút xấu hổ.

Một nhà Nghê chưởng quỹ sau khi nghe thấy Đổng bộ khoái kể lại những gì vừa diễn ra, đều sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, hoặc là trừng mắt nhìn lão phụ, hoặc là lớn tiếng thóa mạ. Lão phụ chỉ nhắm mắt, không nói câu nào.

Tuyết Phi Nhi nói: “Ca ca, chúng ta không về nhà thì còn đợi ai nữa?”

“Đừng hỏi, đợi lát nữa là biết.”

“Ừm!” Tuyết Phi Nhi ngẫm nghĩ một chút rồi lại hỏi: “Đúng rồi, huynh bảo ta đi gọi Tiền thần y tới làm gì? Nhất định là có mục đích khác phải không?”

“Đúng, mục đích này đợi lát nữa muội sẽ biết, đừng hỏi trước! Bọn họ sắp đến rồi!”

Chính vào lúc này thì nghe thấy ở bên ngoài có tiếng bước chân dồn dập, rất nhiều người tiến vào, người dẫn đầu chính là Cao Kim Vĩ Cao tướng quân, lương thảo quân nhu đô thống chế của đại quân tây chinh Tây Hạ, ở bên cạnh hắn chính là Cổ Vượng Long được phái tới làm quản gia cho Đỗ Văn Hạo, hai người mặt đều rất âm trầm.

Thủ lĩnh hộ vệ Hô Duyên Trung, Tân Cửu nương cũng đi theo sau, nhưng mặt lại như đưa đám.

Cao tướng quân nhìn Đỗ Văn Hạo, lạnh lùng nói: “Tiên sinh làm gì vậy?”

“Làm gì vậy là sao?”

“Vì sao lại muốn để lộ thân phận! Bản tướng quân không phải là đã cảnh cáo ngài, đừng…” Cao tướng quân lúc này nhìn thấy Tiền Bất Thu ở bên cạnh, hơi ngây người, vẻ mặt có vài phần xấu hổ, chắp tay nói: “Tiền đại nhân cũng ở đây à?”

Tiền Bất Thu cũng nhận ra vị Cao tướng quân này, nhưng không biết nguyên cớ bên trong, cho nên chắp tay khách khí nói: “Cao tướng quân!”

Cao tướng quân thấy Tiền Bất Thu và Đỗ Văn Hạo ở cùng một chỗ, lờ mờ cảm thấy sự tình có chút bất diệu, quả nhiên nghe thấy Đỗ Văn Hạo có chút đắc ý cười nói: “Cao tướng quân, xin ta thứ cho ta đã không làm theo ý ngài, bởi vì ta không muốn làm mồi câu cho các người nữa, vận mệnh của ta, ta muốn tự mình nắm giữ!”

XXXXXXXXXXXXXXXXXXXX

Trở lại hơn hai tháng trước.

Ngày đó sau khi Đỗ Văn Hạo từ chỗ Phùng thị biết được hung thủ rất có khả năng là một lão phụ, trải qua điều tra, rất nhanh liền đem mục tiêu đặt lên người nữ chưởng quỹ của cửa hàng thọ y, nơi Lâm Thanh Đại lấy được khối vàng làm hung khí gây án, an bài theo dõi sát sao. Nhưng lão phụ đó tựa hồ như đã phát giác, liên tục hai tháng không có bất kỳ động tĩnh gì.

Trong hai tháng này, dược phô của Đỗ Văn Hạo sinh ý dần dần thịnh vượng, người mua thuốc khám bệnh càng ngày càng tăng, một mặt chính là nhờ cuộc đấu y ngày đó giữa Đỗ Văn Hạo và Huệ Nhân đường, mặt khác chính là nhờ mẹ con Phùng thị, với những gì mà bản thân mình đã trải qua, tuyên truyền Đỗ Văn Hạo là Bồ Tát thần y, y thuật như thần. Lại thêm y thuật trị bệnh của Đỗ Văn Hạo quả thật cao minh, bệnh nhân cứ miệng truyền miệng, cho nên trong kinh thành danh y như mây, Phù Vân đường của Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng có được một chỗ ổn định.

Công việc cung cấp trang bị cho cấm quân không dừng lại một ngày nào. Mấy tháng nay, Đỗ Văn Hạo đã cung cấp cho cấm quân tổng cộng hơn chục vạn bộ quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc, còn có mấy vạn đảm (đơn vị đo lường của Trung Quốc bằng 50kg) dược phẩm tiêu độc, những thứ này đã đủ để đại quân Bắc Tống tác chiến với Tây Hạ và Liêu Kim, cho nên về sau, cấm quân đã giảm bớt đơn đặt hàng.

Chương 155: Quyết định trọng đại

Cấm quân giảm bớt đơn đặt hàng, điều này khiến Đỗ Văn Hạo bắt đầu cảm thấy bất an, có một loại dự cảm bất hảo. Càng khiến hắn bất an hơn chính là hắn rõ ràng cảm thấy người giám thị ở cạnh mình càng lúc càng nghiêm mật, hơn nữa nhân thủ rõ ràng cũng tăng thêm nhiều, ngay cả kiêu kị doanh ở phía sau cũng dồn dập điều động, tất cả những điều này đều được báo trước, người Tây Hạ rất có khả năng đã xác định được nơi ở của mình và chuẩn bị động thủ.

Đỗ Văn Hạo cảm thấy mình giống như một con cừu non giữa hai bầy chiến mã, một khi hai bầy chiến mã lao vào nhau, mình tùy lúc đều có thể bị giẫm nát. Sau khi giá trị lợi dụng của mình giảm đi nhiều, thì cũng chẳng cần thiết phải bảo toàn cho cái mồi câu như mình nữa, điều này rõ ràng không còn là trọng yếu. Mình một khi bị gi­an tế Tây Hạ khống chế, quân Tống để bảo vệ sự an toàn của phối phương, hoàn toàn có khả năng sẽ giết mình!

Chính vào lúc này, quân Tống tây chinh Tây Hạ đã chiến bại, tin tức thiệt hại hai mươi vạn quân đã truyền khắp hang cùng ngõ hẻm trong kinh thành, nhưng chi tiết thì lại đủ các kiểu. Mà vào lúc này, Cao tướng quân đăng môn báo phỏng, lần bái phỏng này, cuối cùng đã khiến Đỗ Văn Hạo đưa ra một quyết định trọng đại.

Tối ngày hôm đó, Cao tướng quân đột nhiên tới thăm, bảo là từ tiền tuyến Tây Hạ quay về kinh thành, thuận tiện ghé thăm Đỗ Văn Hạo.

Hai người sau khi hàn huyên một hồi, nói tới chuyện chiến đấu với Tây Hạ. Đỗ Văn Hạo hỏi: “Nghe nói quân ta ở Tây Hạ đã gặp thất bại, đúng không?”

“Đúng vậy!” Cao tướng quân vẻ mặt có chút chán nản, lắc đầu nói: “Lệ dịch mà chúng ta dùng để tác chiến không hoàn toàn đạt được kể quả như mong đợi, tuy lúc bắt đầu thế như chẻ tre, nhưng về sau, đại quân Tây Hạ trở nên giảo hoạt, né tránh chúng ta, không cùng chúng ta đối trận, chỉ phái những nhóm bộ đội nhỏ quấy nhiễu hậu quân lương thảo của ta. Những nơi quân ta công tới, người Tây Hạ chủ động buông bỏ thành trì, còn lấy đi hết lương thảo trong thành, đầu độc nguồn nước. Cái chúng ta chiếm được toàn là thành trống, quân ta tiến thẳng tới kinh thành, quân đội Tây Hạ mới lộ diện, toàn lực cố thủ Hưng Khánh, tấn công mãi vẫn không hạ được.”

“Chúng ta không phải là có vũ khí lệ dịch sao? Vẫn không công hạ được Hưng Khánh ư?”

“Đúng vậy, về sau gi­an tế của chúng ta mật báo mới biết quân Tây Hạ khi chiến đấu ở sông Minh Sa đã tập trung binh lực dần dần tiêu diệt hai ngàn quân tiên phong của chúng ta, đem quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc tước đoạt được toàn bộ chuyển về kinh thành Hưng Khánh để dùng phòng ngự, hơn nữa, trong lúc phòng ngự ở Hưng Khánh, bọn chúng còn tổng kết biện pháp đối phó với vũ khí lệ dịch của chúng ta, cho nên trì hoãn chưa thể đánh chiếm.”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, dùng thi thể của những bệnh nhân đã chết vì lệ dịch ném vào trong thành, nói một cách nghiêm túc thì vẫn chưa được coi là vũ khí vi trùng, phương pháp để đối phó với phương thức tiến công bằng vi khuẩn nguyên thủy này rất dễ nghĩ ra, cho nên cũng không hỏi người Tây Hạ dùng biện pháp gì.

Cao tướng quân nói: “Chúng ta về sau mới biết, phương châm mà người Tây Hạ lập ra chính là dụ địch thâm nhập, quyết một trận tử chiến trong thành Hưng Khánh. Bọn họ thực hiện giới nghiêm toàn thành, đem hai ngàn bộ quần áo cách ly và mặt nạ phòng độc trang bị cho hai ngàn binh sĩ, chuyên môn phụ tránh thu thập những thi thể của bệnh nhân nhiễm dịch được ném vào thành rồi hỏa táng, và tàn nhẫn giết chết rồi hỏa thiêu những người bị nhiễm bệnh ở trong thành. Cho nên, dù chúng ta ném một lượng lớn thi thể nhiễm bệnh vào thành, trong thành thủy chung vẫn không bạo phát lệ dịch trên quy mô lớn.”

Đỗ Văn Hạo trong lòng sầu não. Tây Hạ sử dụng chiêu tráng sĩ chặt tay này tuy quá thảm liệt, nhưng lại khá hữu hiệu, cũng là thủ đoạn thường dùng để ngăn cản lệ dịch lan rộng ở thời cổ đại. Người Tây Hạ ngay cả chiêu này cũng dùng, khẳng định là đã chuẩn bị một chiến đập nồi dìm thuyền rồi. Không khỏi lo lắng nói: “Đã như vậy, chắc là nên thu binh rồi.”

“Đúng vậy! Nhưng giữa Từ tướng quân và Chủng tướng quân có xích mích, lại thêm đều muốn tranh công. Cho nên không lui binh, vẫn tiếp tục tấn công Hưng Khánh. Do đại quân của ta đánh thẳng một mạch, hậu cần bổ cấp không kịp. Người Tây Hạ lại tập trung lực lượng quấy rối lương thảo của ta. Sau đó đại quân cảm tử của Tây Hạ đến, tứ diện giáp kích, quân ta thổn thất thảm trọng, đặc biệt là bộ phận của Từ tướng quân, trên đường rút về còn bị vây khốn bốn mặt ở thành Vĩnh Nhạc. Quân Tây Hạ cắt đứt nguồn nước, do nguồn nước trong thành đều đã bị người Tây Hạ đầu độc, thiếu nước thiếu lương, trong quân bất ngờ làm phản mở thành đầu hàng. Sau đó người Tây Hạ đánh vào thành Vĩnh Nhạc, Từ tướng quân tử chiến, hai vạn tướng sĩ vì nước quên mình!

Trong lịch sử, trận chiến Vĩnh Nhạc thành trở thành bước ngoặt của cuộc chiến tranh Tống Hạ. Sau trận chiến này, Tống triều nguyên khí đại thương, không còn sức để tiến công Tây Hạ trên quy mô lớn nữa. Quốc thế dần dần yếu đi, về sau để lại mầm họa là Liêu Kim diệt Tống.

Đỗ Văn Hạo trong lòng buồn bã, vũ khí lệ dịch giúp cho quân Tống công nhập Tây Hạ thế như chẻ tre, không ngờ cô quân thâm nhập, ngược lại bị bao vây, cuối cùng thì tổn thất một nửa. Vũ khí lệ dịch này rốt cuộc là có công hay có tội đây? Xem ra, đúng như người ta đã nói, nhân tố quyết định chiến tranh thắng lợi không phải là vũ khí mà là con người!

Hai người trầm mặc một hồi lâu, Cao tướng quân lúc này mới nói: “Trước mắt, quân ta tạm thời không còn sức để tây chinh, trang bị và dược thủy của ngài hiện tại đã đủ dùng rồi. Cho nên, binh bộ quyết định giảm bớt đặt hàng trang bị và tiêu độc dược thủy. Một khi quân ta tích đủ lược lượng để khai chiến một lần nữa, triều đình sẽ lại đặt hàng thêm.”

Đỗ Văn Hạo đối với chuyện này đã mất đi hứng thú, hỏi: “Lần này sử dụng vũ khí lệ dịch để tây chinh, Tây Hạ có bị lưu truyền lệ dịch không?”

“Tây chinh lần này, chúng ta để lại một lượng lớn thi thể của người bệnh chết ở nhiều thành trì Tây Hạ, tạo thành lưu hành lệ dịch trên diện tích lớn ở Tây Hạ, người bệnh chết vô số kể, Tây Hạ quốc lực đã tổn thất lớn. Hôm trước, Chủng tướng quân lại hạ lệnh phái ra một số nhóm bố đội, mang theo thi thể của người bệnh thả vào các nơi ở Tây Hạ, tăng thêm một bước lưu hành lệ dịch.”

Đỗ Văn Hạo trong lòng trầm xuống, lời nói cũng có chút lạnh lùng: “Tướng quân, lúc trước khi làm thiết bị phòng độc, ước nguyện ban đầu là tránh để các bách tính vô tội mắc vạ, sao hiện tại lại đi làm hại bách tính! Như vậy thật sự là quá vô nhân đạo?”

Cao tướng quân cười nhạt: “Hai quân gi­ao chiến không cách gì không dùng, nhân từ đối với quân địch là tàn nhẫn với chính bản thân mình! Nói thật với tiên sinh, người Tây Hạ không thiện lương với tiên sinh đâu, bọn chúng đang trù hoạch muốn bắt giữ tiên sinh đó!”

Cái này đã chẳng phải là tin tức mới mẻ gì nữa rồi, Đỗ Văn Hạo trong lòng sớm đã có chuẩn bị, nói: “Các ngươi không phải đã phái rất nhiều hộ vệ mai phục xung quanh chỗ ở của ta sao, coi ta là mồi câu, đợi bắt gi­an tế của Tây Hạ?”

Cao tướng quân nói: “Không sai, chỉ có điều, lần này không chỉ là Tây Hạ, gi­an tế của Đại Liêu cũng gia nhập rồi!”

Đỗ Văn Hạo kinh hãi: “Đại Liêu? Bọn họ cũng muốn động thủ với ta ư?”

“Đúng! Chúng ta đối chiến với Tây Hạ, trong gi­ai đoạn chiến đấu ban đầu, sử dụng vũ khí lệ dịch đánh đâu thắng đó. Nếu không phải là giữa hai vị tướng quân có xích mích, lại thêm Từ tướng quân này không thạo binh pháp, cuối cùng dẫn tới chiến bại, đại quân của ta đã diệt được Tây Hạ rồi! Loại chiến tích này Đại Liêu và Tây Hạ thấy mà đỏ cả mắt, đều rất e sợ quân ta lại súc tích lực lượng rồi tiến công một lần nữa. Cho nên, căn cứ vào tuyến báo mà quân ta tiềm phục ở Tây Hạ và Đại Liêu, Tây Hạ và Đại Liêu đều đã có kế hoạch bắt giữ tiên sinh. E rằng mấy ngày tới sẽ động thủ đó!”

“Vậy các ngươi chuẩn bị bảo vệ ta như thế nào?”

“Tiên sinh yên tâm, chúng ta đã có kế sách tốt rồi. Lần này ta tới đây chính là muốn thương nghị chuyện này với tiên sinh, tiên sinh sau này lúc trị bệnh nhất định phải đề cao cảnh giác, chỉ cần phát hiện có gì không đúng, lập tức tránh vào hậu đường, người của chúng ta sẽ tùy thời bảo hộ sự an toàn của tiên sinh.”

Đỗ Văn Hạo cười rất miễn cưỡng: “Gi­an tế của địch nhân hỗn tạp trong bệnh nhân, ta có cảnh giác gấp trăm lần cũng không thể thể nhìn rõ mọi việc. Nếu không, ta hay là đóng cửa ngừng kinh doanh, chuyển tới nơi khác để trốn tránh. Hoặc là ta đi tìm đồ đệ Tiền Bất Thu, bảo hắn giúp ta tiến cung để ẩn tàng, cách này an toàn hơn.”

Cao tướng quân lắc đầu: “Thế không được, tiên sinh hiện tại tuyệt không thể gặp lệnh cao túc.”

“Sao?”

“Cổ Vượng Long chắc đã nói với tiên sinh rồi, chúng ta chính là muốn lợi dụng cơ hội này, nhất cử phá hỏng tổ chức gi­an tế của Đại Liêu và Tây Hạ, nếu đi trốn, thì không có biện pháp thực hiện mục đích này, càng không thể gặp mặt với Tiền đại nhân, nếu không để tin tức lộ ra, sẽ tạo thành ảnh hưởng rất lớn đối với kế hoạch của chúng ta.”

Đỗ Văn Hạo rất buồn bực, nói đi nói lại, đều muốn để mình là mồi câu! Hơn nữa, bọn họ cấm mình gặp mặt Tiền Bất Thu, e rằng dụng ý không chỉ là mục đích này, mà là lo lắng nếu kế hoạch thất bại, mình bị giết, bọn họ sẽ giấu được chuyện này, để tránh tương lai Tiền Bất Thu tìm họ làm phiền. Hơn nữa, tin tức công khai là mình sớm đã chết trong bạo loạn ở huyện thành rồi. Bọn họ thà chết cũng không nhận, người khác cũng không có biện pháp tra ra chuyện này.

Nghĩ đến đấy, Đỗ Văn Hạo chán nản chẳng muốn nói gì nữa. Cao tướng quân biết Đỗ Văn Hạo tâm tình không tốt, người làm mồi câu, tâm tình tốt mới là lạ, liền cáo từ rời đi.

Mấy ngày sau, Đỗ Văn Hạo luôn buồn phiền không vui, mắt thấy cảnh giới xung quanh càng lúc càng nghiêm ngặt, biết rằng nguy hiểm càng lúc càng tới gần. Sau mấy đêm liên tục trằn trọc, hắn đã đưa ra một quyết định quan trọng, đó là không làm theo kế hoạch đã đưa ra này nữa.

Hôm nay, hộ vệ bố trí canh chừng ở cửa hàng thọ y tới báo Triệu chưởng quỹ của cửa hàng đã rời khỏi, lặng lẽ tiềm nhập vào trạch viện của Nghê chưởng quỹ của Sơn Hải dược tài thương hành. Đỗ Văn Hạo lập tức ý thức được lão phụ này có thể sẽ tiếp tục hạ thủ, quyết định lập tức khởi động kế hoạch.

Đỗ Văn Hạo bảo Lâm Thanh Đại gọi đám người Đổng bộ khoái đến, lại sai Tuyết Phi Nhi đi gọi Tiền Bất Thu. Ngoài ra, Bàng Vũ Cầm đã đem chuyện mẫu thân của Chiêm Đề, lễ bộ khảo công tư lang trung đáp ứng giúp điều động Bàng huyện úy tới kinh thành làm quan. Cho nên, Đỗ Văn Hạo phái Bàng Vũ Cầm đi liên lạc với Chiêm mẫu, bảo nàng ta dắt Chiêm Đề tới trạch viện của Nghê chưởng quỹ.

Khi Đỗ Văn Hạo dẫn bọn Đổng bộ khoái rời khỏi tiệm thuốc, không cho phép Hô Duyên Trung và Tân Cửu nương đi theo, lại bảo Cổ quản gia chuyển lời tới Cao tướng quân, nói mình không bằng lòng nghe hắn sắp xếp nữa, muốn dùng thân phận trước kia để sinh sống.

Sau khi sắp xếp xong, Đỗ Văn Hạo dưới sự hộ tống của Lâm Thanh Đại, dẫn đám người Đổng bộ khoái tiềm nhập Nghê trạch, bắt sống hung thủ là Triệu chưởng quỹ, Tiền Bất Thu cũng xuất hiện kịp thời, thu hoạch ngoài ý muốn là lão phụ này không ờ lúc trước đã bắt được một hộ vệ rồi tra ra thân phận thực sự của mình, giúp mình tiết lộ thân phận, tránh khỏi một phen phí lời.

Nghe Đỗ Văn Hạo nói không bằng lòng làm mồi câu, muốn tự nắm giữ mệnh vận của mình, Cao tướng quân sắc mặt âm trầm. Có điều, thân phận đã bại lộ, trong trường có nhiều người nghe thấy, muốn che giấu tiếp cũng không có khả năng.

Cao tướng quân trong lòng như phát hỏa, nhưng đồ đệ của Đỗ Văn Hạo là Thái y thừa đã cứu mạng Cửu hoàng tử, có được sự tín nhiệm của Cửu hoàng tử mà Cửu hoàng tử hiện tại còn là thái tử, hoàng thượng tương lai. Lại thêm hoàng đế cũng rất tín nhiệm Tiền Bất Thu, hiện tại sư đồ người ta nhận nhau, mình không có gan làm ra chuyện gì bắt ép Đỗ Văn Hạo nữa. Có thế nào thì cái đầu của mình vẫn là quan trọng nhất.

Vào lúc Cao tướng quân không biết phải làm thế nào mới tốt thì nghe thấy ngoài cửa có nhiều người đến, người đi đầu lớn tiếng hỏi: “Xin hỏi Đỗ tiên sinh có đây không?”

Chương 156: Rút củi dưới đáy nồi

Mọi người ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy rất nhiều người đang đi tới, dẫn đầu là quản gia của Chiêm phủ, phía sau đương nhiên là lại bộ khảo công tư Chiêm Đề, lão phụ ở bên cạnh là mẫu thân của Chiêm Đề, nữ tử trẻ tuổi đang đỡ bà chính là thê tử Bàng Vũ Cầm của Đỗ Văn Hạo, đi sau họ là mấy tùy tòng.

Chức quan của Chiêm Đề tuy không lớn, nhưng lại có thực quyền, mà Cao tướng quân là chủ quân hậu cần của quân Tây chinh, gi­ao du rộng rãi, tự nhiên cũng nhận ra nhân vật nắm thực quyền này. Chức quan của hắn tuy lớn hơn Chiêm Đề, nhưng Tống triều trọng văn khi võ, địa vị của võ tướng khá thấp cho nên hắn vẫn rất khách khí chắp tay chào hỏi: “Chiêm đại nhân, ngài tới rồi à?”

“Cao tướng quân!” Chiêm Đề cũng chắp tay nói: “Ta tới là tìm Đỗ đại phu để cảm tạ ơn cứu mẹ!”

Bàng Vũ Cầm để Bàng mẫu cho nha hoàn đỡ, tự mình bước tới trước mặt Đỗ Văn Hạo: “Phu quân, ta mời lão phu nhân bọn họ tới rồi!” Rồi quay người nói với Chiêm mẫu: “Nãi nãi, vị này chính là tướng công nhà ta!”

Chiêm mẫu vội vàng bước tới, run rẩy vái một lễ: “Lão thân bái tạ ơn cứu mạng của tiên sinh!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Lão phu nhân khách khí rồi, trị bệnh cứu người là bổn phận của thầy thuốc mà!”

Chiêm mẫu nghe ra giọng nói của Đỗ Văn Hạo, vui mừng gật đầu liên tục, quay đầu nói với Chiêm Đề: “Không sai, vị này chính là dị nhân thần y đã cứu mạng ta!”

Chiêm Đề vội tiến lên trước, hành một lễ thật sâu: “Chiêm Đề bái tạ ơn cứu mẹ của Đỗ tiên sinh! Vốn cho rằng Đỗ tiên sinh đã qua đời, thì ra chỉ là lời đồn, thật là đáng mừng đáng mừng!”

“Ha ha!” Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn Cao tướng quân nói: “Ta ẩn cư ở kinh thành cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ, hiện tại ta không muốn ẩn cư nữa, sau này còn có nhiều chuyện phải phiền tới Chiêm đại nhân rồi”.

Chiêm Đề gật đầu liên tục: “Không dám không dám, phàm là lệnh của tiên sinh thì ta sẽ tận sức mà làm theo. Đúng rồi, nhạc trượng Bàng Cảnh Huy Bàng đại nhân của Đỗ tiên sinh và Đổng Đạt huyện Trang tri huyện trong công cuộc phòng ngừa lệ dịch có công rất lớn. Lại bộ hôm trước đã hạ lệnh điều hai người tới kinh thành làm quan. Bàng đại nhân được bổ nhiệm làm Thôi quan của phủ Khai Phong, Trang tri huyện thì làm Thiếu doãn của phủ Khai Phong.”

Thôi quan và Thiếu doãn của phủ Khai Phong đều là hàm lục phẩm, mà huyện úy và tri huyện ở Bắc Tống chỉ là bát phẩm. Như vậy là được tăng liền mấy cấp.

Đỗ Văn Hạo nhìn Bàng Vũ Cầm. Bàng Vũ Cầm sau khi đi đón đám người Chiêm Đề, hiển nhiên đã biết tin tức này, mặt đầy hưng phấn vì phu quân đã quyết định không ẩn cư nữa, như vậy cũng có nghĩa là có thể gặp phụ mẫu và nãi nãi rồi.

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Tại hạ thay nhạc phụ cảm tạ Chiêm đại nhân đã đề bạt!”

“Đó là chuyện nên làm mà, tiên sinh khách khí rồi!”

Cao tướng quân mặt đầy sầu khổ, thầm nghĩ Đỗ Văn Hạo ngay cả Lệ bộ khảo công tư lang trung Chiêm Đề cũng lôi kéo quan hệ, hơn nữa nhìn là biết vị Chiêm đại nhân này cảm kích Đỗ Văn Hạo rơi nước mắt. Hiện tại Đỗ Văn Hạo có thuẫn bài hai mặt hộ thân, hắn không biết chuyện này nên giải quyết thế nào, quay về phải ăn nói ra sao.

Đỗ Văn Hạo nhìn Cao tướng quân, cười cười lấy từ trong túi ra một tờ giấy, phất phất nói: “Tướng quân, đây là công thức của dược thủy tiêu độc phòng trị lệ dịch và những tài liệu để làm mặt nạ phòng độc. Ta suy đi nghĩ lại rồi, cảm thấy trách nhiệm một mình bảo quản công thức này quá trọng đại, cho nên, ta quyết định bán cho triều đình, ta cũng không muốn ra giá trên trời, mười vạn lượng bạc nhé, không ết tướng quân có hứng thú không?”

Mười vạn lượng bạc giá trị bằng một trăm triệu nhân dân tệ! Nghê chưởng quỹ và khách khứa đứng ngoài xem đều tặc lưỡi không thôi, thấp giọng nghị luận, tờ giấy này mà bán đến mười vạn lượng bạc trắng, công thức trong đó hẳn là cực kỳ trân quý.

Cao tướng quân thì vui mừng quá đỗi. Lúc trước Đỗ Văn Hạo khăng khăng không chịu bán công thức, hiện tại lại chủ động đề xuất muốn bán, đây là điều hắn hi vọng nhất. Đỗ Văn Hạo đã để lộ thân phận, Tiền Bất Thu và Chiêm Đề tuyệt đối sẽ không đồng ý cho quân phương bọn họ sử dụng Đỗ Văn Hạo làm mồi câu để dẫn dụ gi­an tế của Tây Hạ và Đại Liêu, khẳng định sẽ nghĩ biện pháp giúp Đỗ Văn Hạo. Kế hoạch mượn cơ hội này để diệt trừ mạng lưới gi­an tế của Tây Hạ và Đại Liêu đã tan vỡ. Chính vào lúc hắn đang nghĩ phải làm thế nào mới tốt thì không ngờ Đỗ Văn Hạo lại chủ động đề xuất bán công thức làm dược thủy tiêu độc cho quân phương. Có kết quả này, tuy không thể dụ gi­an tế được nữa, nhưng ít nhất cũng coi như là có thu hoạch.

Còn về giá tiền, mười vạn lượng quả thực không phải là một số tiền nhỏ nhưng bọn họ vẫn nguyện ý chi số tiền này. Cao tướng quân chính là binh bộ chủ quản hậu cần tài chính, tự mình có thể đưa ra quyết định mua hay không, lập tức vỗ tay nói: “Được, quyết định thế đi, sáng ngày mai sẽ gi­ao tiền!”

“Được! Công thức hiện tại đưa cho ngài!” Đỗ Văn Hạo nói xong bèn đưa công thức ra.

Cao tướng quân ngây người: “Đưa luôn cho ta ư? Ta không thể có chỗ tiền đó ngay bây giờ được. Đợi ngày mai mở ngân khố ra mới lấy được, tiên sinh yên tâm đối với ta ư?”

“Ha ha, đối với Cao tướng quân thì có gì mà không yên tâm chứ? Hơn nữa, có nhiều người như vậy thấy ta gi­ao công thức cho tướng quân, tướng quân còn có thể quỵt ta được sao? Ha ha!”

Cao tướng quân cười nói: “Được! Tiên sinh đúng là người thẳng thắn, sảng khoái!” Hắn đưa tay cầm lấy công thức rồi xem lại cẩn thận, sau đó thì đút vào trong ngực.

Cao tướng quân dẫn người rời đi. Chiêm Đề và Chiêm mẫu sau khi cảm ơn rối rít cũng cáo từ. Đổng bộ khoái thì không những cảm kích rơi nước mắt, còn cao hứng vì phá được một vụ án trọng đại như thế này. Hơn nữa Đỗ Văn Hạo nói là tặng hết công lao cho họ nên tự nhiên thấy rất vui mừng, sau khi cảm ơn thì áp giải lão phụ đó đi.

Đỗ Văn Hạo cáo từ Nghê chưởng quỹ, chủ nhân của trạch viện rồi dẫn chúng nữ, đồ đệ Tiền Bất Thu và đồ tôn Diêm Diệu Thủ về Phù Vân đường. Hô Duyên Trung, Tân Cửu nương cùng các hộ vệ vẫn theo Đỗ Văn Hạo về đó, bố trí phòng ngự.

Đỗ Văn Hạo gọi sư đồ Tiền Bất Thu, Lâm Thanh Đại, Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi và Anh Tử tới phòng khách nói chuyện. Sau khi kể lại những gì đã trải qua, mọi người mới biết nguyên nhân vì sao bọn họ phải ẩn cư ở kinh thành.

Tuyết Phi Nhi nói: “Ca ca, huynh hiện tại đã bại lộ thân phận, không sợ người Tây Hạ và người Đại Liêu tới bắt huynh ư?”

“Chính là bởi vì sợ, cho nên ta mới để lộ thân phận và đưa công thức ra!”

“Vì sao vậy?” Tuyết Phi Nhi trợn tròn mắt hỏi.

Tiền Bất Thu vuốt râu, cười nói: “Chiêu này của sư phụ gọi là rút củi dưới đáy nồi. Cái đó gọi là thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội. Sư phụ có công thức này chẳng khác nào có khối Hòa Thị Bích giá trị liên thành, ai ai cũng thèm muốn, chỉ có thể trốn tránh được không lâu. Nhưng một khi gi­ao khối ngọc này ra, ma trảo của những người thèm muốn ngọc này tự nhiên sẽ chuyển tới chủ nhân mới của khối ngọc…”

Tuyết Phi Nhi vỗ tay cười nói: “Ta hiểu rồi, Đỗ đại ca chọn chỗ đông người như tiệc cưới của nhà Nghê chưởng quỹ, nhân cơ hội dẫn bộ khoái tới bắt hung phạm, tự để lộ thân phận của mình, lại ở ngay trước mặt mọi người đưa công thức cho Cao tướng quân, còn gọi các người và Chiêm đại nhân tới làm chứng là vì muốn truyền tin tức này ra ngoài, để mọi người đều biết Hòa Thị Bích đã được bán cho Cao tướng quân rồi. Như vậy, gi­an tế Tây Hạ và Đại Liêu sẽ không chú ý tới ca ca của ta nữa, sự nguy hiểm đối với ca ca cũng giảm đi nhiều. Hay cho một chiêu rút củi dưới đáy nồi!”

Bàng Vũ Cầm thì vẫn lo lắng nói: “Tuy nói vậy, nhưng dẫu sao phu quân cũng biết phương thức ấy, gi­an tế của Tây Hạ và Đại Liêu vẫn có thể động thủ đối với phu quân mà.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Điều này không sai, có điều, ta dám khẳng định, công thức này cũng không dùng được bao lâu đâu, người Tây Hạ và Đại Liêu sẽ biết thôi.”

“Sao?”

“Chuyện ẩn cư ở kinh thành, người biết chắc là rất ít, từ việc người Tây Hạ xác định ta giả chết nhanh như vậy, còn biết chuẩn xác vị trí của ta tại kinh thành có thể thấy, trong triều đình khẳng định có người của Tây Hạ hoặc là của Đại Liêu, hoặc nói không chừng có người bị chúng mua chuộc. Tin tức quan trọng như thế này rất nhanh sẽ bị tiết lộ ra ngoài cho nên Cao tướng quân bọn họ cầm công thức đi cũng tuyệt đối không giữ được bí mật được lâu đâu. Kỳ thật, đây chính là kết quả mà ta đã dự liệu khi đi bước này. Nói thật, nó cũng là kết quả mà trong lòng ta hi vọng!”

Mọi người đều có chút kinh ngạc nhìn Đỗ Văn Hạo, nhất thời không hiểu câu cuối cùng của hắn là có ý gì.

Tiền Bất Thu vuốt râu mỉm cười: “Sư phụ nói không sai, chỉ khi người Tây Hạ và Đại Liêu đều biết công thức này, sư phụ mới có thể triệt để thoát khỏi nguy hiểm”.

Chúng nữ chợt như bừng tỉnh. Không sai, mọi người đều hiểu rồi, khi đã không còn là bí mật, đương nhiên sẽ không cần thiết phải tranh đoạt nữa, Đỗ Văn Hạo tự nhiên cũng được an toàn. Mà đoạn thời gi­an này, triều đình sẽ không buông lỏng việc bảo hộ Đỗ Văn Hạo cho nên hắn cũng không còn phải lo nhiều nữa. Kỳ thật, chỉ cần chuyện Đỗ Văn Hạo đem công thức bán cho triều đình được truyền ra, Đỗ Văn Hạo lập tức sẽ an toàn, bởi vì chuyện có thể dùng tiền để giải quyết, Tây Hạ hoặc Đại Liêu đều sẽ không lựa chọn sử dụng vũ lực để mạo hiểm đi tranh đoạt.

Tiền Bất Thu nói: “Cho dù như vậy, chúng ta vẫn không thể lơ là thiếu cảnh giác. Sư phụ, trước khi chưa xác định được Tây Hạ và Đại Liêu đã có được công thức này, người hay là theo ta tiến cung sống ở Thái y viện đi, nơi đó an toàn hơn nhiều so với bên ngoài.”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu: “Không! Ta đã nói rồi, ta không muốn vào hoàng cung, ở bên ngoài vẫn tự do tự tại hơn. Không cần phải lo lắng, ta tin rằng sáng sớm ngày mai, một nửa phủ Khai Phong sẽ biết chuyện ta bán một công thức cho triều đình với giá mười vạn lượng, gi­an tế của Tây Hạ và Đại Liêu lập tức sẽ biết. Cho nên, ta hiện tại vẫn an toàn, hơn nữa còn có nhiều hộ vệ như vậy, quan trọng nhất là có Thanh Đại tỷ bảo vệ ta rồi. Một mình tỷ ấy có thể chống được thiên quân vạn mã!”

Lâm Thanh Đại bật cười khúc khích: “Nhiều như vậy ngươi không sợ ta mệt chết à?”

Mọi người cười rộ.

Lúc này, cửa phòng khách đang đóng kín đột nhiên vang lên tiếng kẽo kẹt rồi được mở ra, một cái đầu nhỏ đầy lông lá thò vào, trên trán có một chữ “Vương” rực rỡ uy mãnh, đôi mắt tròn xoe đen bóng, chính là một con hổ nhỏ.

Tiền Bất Thu và Diêu Diệu Thủ đều giật nảy mình, may mà con hổ con này quả thực rất nhỏ, chỉ to bằng một con chó nhơ nhỡ.

Hổ con nhìn trái nhìn phải, rồi vù một cái chạy tới cạnh chân Anh Tử.

“Tiểu Khả, mày sao lại chạy tới đây?” Anh Tử cúi người xuống, vô cùng thân thiết bế hổ con vào lòng.

Chú hổ con này chính là con hổ tên là “Tiểu Khả” mà Đỗ Văn Hạo nuôi.

Diêm Diệu Thủ nói: “Sư tổ, đây là hổ con mà người nuôi à?”

“Ừ, lần trước lên núi hái thuốc, phát hiện có một con hổ cái bị kẹp chết, chỉ còn lại chú hổ con này đang thở thoi thóp, ta liền bế về, khi nào nó lớn một chút sẽ đưa lại lên núi”.

Tiền Bất Thu gật đầu nói: “Dưỡng hổ vi hoạn, đợi lớn một chút rồi thả về núi là tốt nhất”.

Chú hổ con dường như hiểu lời bọn họ nói, ra sức dụi cái đầu đầy lông vào lòng Anh Tử, bộ dạng rất sợ hãi.

Chương 157: Bình minh sau cơn bão

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Thì muốn thế, nhưng tên tiểu gia hỏa này sống chết cũng không chịu ăn bánh bao. Cho nó ăn thịt giống như cho nó ăn độc dược, không còn cách nào hết. Mấy tháng nay đã thử hết mọi cách nhưng nó vẫn không ăn thịt. Một con hổ không ăn thịt, ăn bánh bao, đuổi nó về núi chính là giết nó. Nó sẽ chết đói”.

Tiền Bất Thu nhíu mày: “Nhưng nuôi hổ ở trong nhà, người ngoài biết được thì không hay lắm, nhất là chúng ta mở dược đường. Lão hủ chỉ sợ không ai dám đến khám bệnh nữa”.

Anh Tử ôm chặt Tiểu hổ, chu mỏ nói: “Chúng ta vừa nói nó rất thông minh, lại hiền như mèo, nó không ăn thịt, sao nó đả thương người khác được?”

“Nhưng người ngoài không biết điều đó”.

Đỗ Văn Hạo khoát tay nói: “Không tranh cãi nữa. Trong thời gi­an này không cho nó xuất hiện trước người khác. Đợi khi nó ăn được thịt thì thả nó về núi. Hổ là chúa tể của núi rừng, nhốt nó ở kinh thành không phải là cách hay”.

Anh Tử rất buồn, dáng vẻ đáng thương, mặt xị xuống như muốn khóc.

Sáng sớm hôm sau, Cao tướng quân và một đội hộ vệ mang theo một cái rương lớn đến gi­ao cho Đỗ Văn Hạo. Mặc dù đây là tiền hai bên đã thỏa thuận rõ ràng nhưng Đỗ Văn Hạo vẫn bảo Cao tướng quân viết một cái khế ước.

Một khi đã khôi phục thân phận, mấy người Đỗ Văn Hạo cũng khôi phục lại danh tính của mình, dược đường cũng đổi lại tên cũ. Đỗ Văn Hạo bảo Cổ quản gia thuê người làm một cái biển hiệu chữ vàng. Tiền Bất Thu tự mình đến thỉnh cầu vị tiến sĩ phụ trách việc cúng tế tông miếu của Hoàng gia nổi tiếng về thư pháp Thái Thường viết hàng chữ “Ngũ Vị đường” trên biển hiệu.

Đỗ Văn Hạo không hiểu về thư pháp, nhưng hắn cũng biết danh tiếng của nhà thư pháp này, bây giờ nhìn thực tế hắn thấy rất đẹp. Hắn thầm nghĩ người đời tôn trọng danh nhân là phải.

Biển hiệu được treo lên, hôm khai trương dược đường không có pháo nổ, không treo đèn kết hoa, không tổ chức yến tiệc chúc mừng, Ngũ Vị đường lặng lẽ khôi phục lại danh tiếng.

Không phô trương nhưng dược đường nhanh chóng phát triển.

Việc mua đơn thuốc trị giá mười vạn lạng bạc trắng lan truyền khắp hang cùng ngõ hẻm ở kinh thành. Từ người quan tâm đến y thuật cho đến những người bàng quan tất cả đều hứng thú với cuộc mua bán này. Trong thành, suốt một thời gi­an dài, từ giới tam giáo cửu lưu cho đến giới quý tộc đều đàm đạo về cuộc mua bán này trong lúc trà dư tửu hậu.

Người có bệnh càng quan tâm đến việc này. Bọn họ biết được chủ nhân của phương thuốc trị giá mười vạn lạng bạc trắng là một đại phu trẻ tuổi, là sư phụ của Tiền thái y thừa của thái y viện, am hiểu thần kỹ phẫu thuật chữa bệnh của Hoa Đà, kéo đến xem bệnh rất nhiều, chủ yếu là người bị đau bụng cấp tính. Kỹ thuật phẫu thuật chữa bệnh của Đỗ Văn Hạo cũng chính thức công khai. Mỗi một người bệnh được hắn phẫu thuật chữa bệnh thành công lại trở thành một tuyên truyền viên tự nguyện cho y thuật của Đỗ Văn Hạo.

Bởi thế chỉ sau một thời gi­an ngắn, công việc làm ăn của tân Ngũ Vị đường đã phát đạt hơn rất nhiều lần so với Ngũ Vị đường cũ. Kinh thành phồn hoa, dân cư đông đúc, lợi nhuận của dược đường vượt xa rất nhiều so với lúc còn ở Đống Đạt huyện.

Đỗ Văn Hạo bận rộn suốt ngày. Tiền Bất Thu cho đồ đệ Diêm Diệu Thủ tới Ngũ Vị đường làm đại phu tọa đường. Diêm Diệu Thủ đi theo Tiền Bất Thu học đã lâu, cũng khá tinh thông y thuật, nhất là kỹ thuật ngoại khoa. Hắn giúp Đỗ Văn Hạo rất nhiều.

Tiền Bất Thu lại viết thư về Đống Đạt huyện cho Hàm Đầu, bảo hắn bán dược đường ở đó rồi cùng Bàng huyện úy chuyển đến kinh thành, theo Đỗ V học y, xem bệnh.

Y thuật của Tuyết Phi Nhi và Bàng Vũ Cầm đã tiến bộ rất nhiều sau mấy tháng theo Đỗ Văn Hạo học tập. Hai người đã có thể trị được những bệnh đơn giản. Hơn nữa có Đỗ Văn Hạo trợ giúp nên hai người cũng coi như là đại phu. Mặc dù bệnh nhân rất đông, Đỗ Văn Hạo, Diêm Diệu Thủ và tứ nữ có thể miễn cưỡng ứng phó được, nhưng cả ngày bận bịu, không được nghỉ ngơi.

Chẳng bao lâu sau, Đỗ Văn Hạo phát hiện, cấm quân âm thầm bảo vệ quanh hắn đã giảm đi. Điều này làm cho Đỗ Văn Hạo rất vui, hắn hiểu rằng đơn thuốc của hắn có thể đã được tiết lộ cho Tây Hạ và Đại Liêu. Giá trị của hắn đã giảm đi. Hắn thầm nghĩ ngày nào toàn bộ đội hộ vệ bỏ đi chính là lúc Tây Hạ và Đại Liêu hoàn toàn nắm được cách điều chế, đó cũng là lúc hắn hoàn toàn khôi phục tự do.

Tưởng tượng tới ngày đó Đỗ Văn Hạo thấy vô cùng sảng khoái.

Một tháng sau Cổ quản gia thông báo cho Đỗ Văn Hạo biết Binh bộ đã hủy bỏ tất cả các thỏa thuận trước đây.

Mấy ngày sau Cổ quản gia buồn rầu cùng hộ vệ Hô Duyên Trung, Cửu nương tới từ biệt Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo giả đò hỏi có chuyện gì, Cổ quản gia cũng không giấu diếm, ông ta nói khẽ: “Đỗ tiên sinh, Binh bộ nói chúng ta không cần ở đây bảo vệ ngài nữa, rút chúng ta về”.

“Không cần bảo vệ ta nữa, tại sao?”

“Bởi vì gián điệp của chúng ta ở tây Hạ và Đại Liêu mật báo phương thuốc ngài bán cho triều đình đã bị Tây Hạ và Đại Liêu lấy được. Bọn chúng đã bắt đầu chế tạo trang phục cách ly, mặt nạ phòng độc và thuốc nước tiêu độc. Đại dịch đang hoành hành ở Tây Hạ và Đại Liêu nhanh chóng bị khống chế.

Đỗ Văn Hạo ra vẻ kinh ngạc hỏi: “Tại sao lại như vậy? Người nào tiết lộ? Ta không có, các người vẫn theo sát ta. Các ngươi có thể làm chứng cho ta”.

Cổ quản gia cười gượng: “Đúng vậy, bây giờ ta có thể nói sự thật cho tiên sinh biết. Chúng ta mang danh hộ vệ ngài nhưng thật ra cũng là giám sát ngài, giám sát nhất cử, nhất động của ngài. Chúng ta khẳng định ngài không bán cách điều chế đơn thuốc. Binh bộ cũng điều tra ra, một thị lang của Binh bộ đã bán phương thức điều chế với giá cao cho Tây Hạ và Đại Liêu. Tên thị lang này đã bỏ chạy tới Đại Liêu. Toàn bộ thân nhân của hắn đã bị tống vào thiên lao”.

Quả nhiên không ngoài dự đoán, Đỗ Văn Hạo cười thầm. Nạn dịch hạch ở Tây Hạ bị khống chế làm cho Đỗ Văn Hạo cảm thấy rất cao hứng.

Đội hộ vệ rút đi, Đỗ trang viện rộng lớn bây giờ khá trống vắng, nhưng Đỗ Văn Hạo và chúng nữ cảm thấy tự do hơn trước kia, tâm tình cũng vì thế mà thoải mái hơn.

Hôm nay, Đỗ Văn Hạo, Bàng Vũ Cầm, Tuyết Phi Nhi và Diêm Diệu Thủ đang ở tiền đường xem bệnh, đột nhiên có mấy chiếc xe ngựa dừng lại trước cửa, nhưng không ai để ý đến vì cứ tưởng người bệnh đến khám bệnh.

Lát sau chợt nghe có tiếng gọi vui mừng xen lẫn sự sợ hãi vang lên: “Cầm nhi! “.

Bàng Vũ Cầm ngẩng đầu nhìn thấy trước cửa có mười mấy người. Người đứng trước chính là nãi nãi yêu thương của nàng.

Phía sau ngoài Lại bộ khảo công ty lang trung Chiêm Đề, Chiêm mẫu còn có mấy người nữa. Đó là phụ mẫu của nàng, di nương, tỷ tỷ, tiểu muội Đậu Nhi cùng vú nuôi đang bế Hổ Tử, đứng sau nữa là Trang tri huyện, cùng hai tiểu thiếp và đồ đệ Hàm Đầu của Tiền Bất Thu.

“Nãi nãi!” Bàng Vũ Cầm vui mừng chạy ra ôm chầm Bàng mẫu vào lòng: “Nãi nãi! Mọi người đã tới rồi”.

“Cầm nhi! Cháu yêu của bà…” Bàng mẫu xúc động khóc: “Bà cứ tưởng các cháu thật sự…, cám ơn ông trời! Ơn trời, bà biết các cháu còn sống, bà sung sướng vô cùng, đến phát điên lên được! Tốt quá rồi…”.

Lưu thị, nhị nãi nãi Ngọc Nhi và nhị tỷ của Bàng Vũ Cầm đều chạy lại ôm Bàng Vũ Cầm, vui mừng rơi lệ.

Tứ tiểu thư Đậu Nhi mới ba, bốn tuổi vẫn chưa hiểu sống, chết là gì. Người nhà cũng không nói cho cô bé tam tỷ đã chết nên khi Đậu Nhi nhìn thấy tam tỷ cô bé không bộc lộ nhiều cảm xúc. Tay cô bé cầm thanh kẹo đường, đôi mắt đen, tròn xoe nhìn Đỗ Văn Hạo một lát rồi Đậu Nhi đi tới trước mặt Đỗ Văn Hạo: “Tiên sinh, ăn kẹo không?”

Bà vú ôm Hổ tử đi tới, lau nước mắt, sẵng giọng nói: “Ngốc nha đầu! Đây là tỷ phu của tiểu thư. Không được gọi là tiên sinh, phải gọi là tam tỷ phu”.

“Ừ” Đậu Nhi gật đầu, cô bé chìa thanh kẹo ra: “Tam tỷ phu, cho người này”.

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Tỷ phu không ăn. Muội ăn đi” Hắn nhìn thấy mấy người Bàng Cảnh Huy, không biết nên bước tới bái kiến hay là đợi một lát nữa.

Trong lúc hắn đang do dự, một làn hương thơm mát truyền đến, bên tai hắn vang lên giọng nói ngọt ngào, quyến rũ của một nữ nhân: “Ca! Ca hù chết tiểu muội rồi”.

Đỗ Văn Hạo quay đầu nhìn, đó là hoa khôi của Miên Xuân viện, Mị Nhi cô nương. Nàng đang đứng nhìn hắn, lệ tuôn trào.

Đỗ Văn Hạo nhớ tới hôm ở Miên Xuân viện, hai người suýt nữa đã có một trường ân ái mặn nồng, nhớ tới những vũ điệu mê đắm lòng người của Mị Nhi, hắn không khỏi thấy tim đập lọan xạ, nhưng bây giờ nhạc phụ, nhạc mẫu và mọi người đang ở đây hắn không dám hành động tùy tiện. Hắn vốn định không để ý đến nàng nhưng thấy nàng biểu thị mối chân tâm, rơi lệ, hắn cũng thấy xúc động, vội hỏi: “Mị Nhi cô nương, sao cô nương cũng tới đây?”

Mị Nhi cũng hiểu trong hoàn cảnh này Đỗ Văn Hạo không thể quá thân thiết với nàng. Nàng quay đầu liếc nhìn Trang tri huyện và hai tiểu thiếp: “Hai vị tỷ tỷ chuộc thân cho tiểu muội, nhận tiểu muội làm muội muội kết nghĩa nên tiểu muội theo các tỷ tỷ tới kinh thành. Tiểu muội không ngờ ca ca vẫn còn sống ở nhân gi­an nên tiểu muội rất cao hứng…” Nói đến đây Mị Nhi nghẹn ngào không nói được, nước mắt cứ thế trào ra.

Đỗ Văn Hạo đang muốn nói mấy câu an ủi nàng thì thấy Hàm Đầu khóc quỳ xuống dập đầu: “Sư tổ! Đồ tôn bái kiến sư tổ. Đồ tôn biết sư tổ vẫn còn tại nhân thế, thật sự ngàn vạn lần…”.

Đỗ Văn Hạo vội tiến lại đỡ Hàm Đầu đứng dậy.

Bàng Cảnh Huy nhìn mẫu thân và nữ nhi của mình ôm nhau khóc, ông ta cũng thấy xúc động, mắt đỏ hoe, ông ta vội phất tay nói: “Thôi không khóc nữa. Chuyện của nữ nhi và Văn Hạo để lát nói sau. Chiêm đại nhân đang ở đây, đây cũng là dược đường của Văn Hạo, chúng ta vào trong nhà nói chuyện nào”.

Đỗ Văn Hạo vội bảo các bệnh nhân ngồi chờ hắn. Sau đó hắn mời mọi người vào hậu viện.

Vào tới hậu viện, sau khi phân chủ khách ngồi xuống, Đỗ Văn Hạo đỏ mặt đi tới trước mặt Bàng Cảnh Huy và Bàng mẫu, vén trường bào quỳ xuống dập đầu nói: “Tiểu tế bái kiến nãi nãi, nhạc phụ, nhạc mẫu đại nhân”.

Bàng Vũ Cầm quỳ xuống dập đầu theo Đỗ Văn Hạo: “Nãi nãi, phụ thân, mẫu thân, xin thứ cho nữ nhi tội bất hiếu. Nữ nhi giả chết cùng phu quân ẩn cư ở kinh thành đã làm mọi người đau buồn” Thịch, thịch, thịch, mấy tiếng dập đầu xuống đất vang lên.

Bàng Cảnh Huy và Lưu thị vội tiến lên đỡ hai người đứng dậy. Người trong nhà vốn tưởng Bàng Vũ Cầm đã chết, bây giờ nghe nói nàng vẫn còn sống, lại thành thân cùng Đỗ Văn Hạo làm cho mọi người vui vẻ khôn cùng, không ai trách cứ điều gì. Lúc này mọi người lại biết Đỗ Văn Hạo đã cứu sống mẫu thân của Lại bộ khảo công ty lang trung Chiêm đại nhân, việc thăng quan lên kinh thành của bọn họ, đoàn viên cùng nữ nhi và con rể đều là do công của hắn nên ai cũng nghĩ việc lựa chọn Đỗ Văn Hạo làm con rể là quyết định vô cùng đúng đắn.

Chương 158: Đoàn tụ

Mấy người khóc lóc một hồi lâu. Tuyết Phi Nhi sốt ruột lên tiếng hỏi: “Phụ thân cháu đâu?”

Sau khi Đỗ Văn Hạo quyết định không ẩn cư, Tuyết Phi Nhi đã viết thư cho phụ thân. Bây giờ nàng không thấy phụ thân mình nên nàng sốt ruột hỏi. Bàng Cảnh Huy nói: “Phụ thân cháu sắp tới rồi, Chiêm đại nhân dắt mối giúp phụ thân cháu tìm một khách điếm. Lúc nãy chúng ta gặp chưởng quỹ của khách điếm do Chiêm đại nhân giới thiệu. Phụ thân cháu biết cháu bình an nên đã đi xem khách điếm cùng với chưởng quỹ, lát nữa sẽ tới đây”.

Tuyết Phi Nhi cong môi hờn giận. Nàng biết phụ thân nàng dù rất yêu thương nàng nhưng lại cũng rất yêu quý tiền bạc. Nàng hiểu phụ thân nàng biết nàng bình an vô sự, lại trốn đi theo tình lang, tâm trạng có chút bực bội. Trong lúc muốn mua khách điếm nên ông ấy đi đến đó trước rồi mới quay về gặp mặt nữ nhi.

Quả nhiên nói nói chuyện được một lúc, Tuyết chưởng quỹ đi tới Ngũ Vị đường, ông ta vừa vui mừng vừa tức giận khi nhìn thấy nữ nhi của mình quỳ xuống xin tha tội. Cảm giác đó trôi đi rất nhanh, ông ta lập tức chú tâm vào việc mua khách điếm mới. Ông ta vui vẻ thông báo cho mọi người đã hạ được giá mua khách điếm đó, quyết định đặt tên là “Hằng Tường” khách điếm.

Ở đây chỉ có Bàng Vũ Cầm và Chiêm mẫu, Chiêm Đề biết chân tướng thật sự của việc giảm giá mua này. Số tiền giảm giá này là do Chiêm gia trả, bởi Tuyết Phi Nhi là muội tử của Đỗ Văn Hạo nên việc này coi như là báo ân.

Việc làm cho Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại cao hứng chính là lần trước Ngũ Vị đường bị hỏa thiêu, hai tiểu nhị Ngô Thông và Ngốc béo ngồi trên đống đổ nát khóc lóc. Tuyết chưởng quỹ nhìn thấy thương hại, cảm động đối với tình cảm của hai người liền giữ hai người ở lại khách điếm làm tiểu nhị. Biết được mấy người Đỗ Văn Hạo còn sống, hai người cũng đi tới kinh thành.

Ngô Thông, Ngốc béo vui sướng khi gặp lại mấy người Đỗ Văn Hạo. Sau một hồi thương nghị, hai người lại quay về Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo làm tiểu nhị như trước.

Trang tri huyện biết việc ông ta được điều về kinh thành làm quan đều do công của Đỗ Văn Hạo, nên xưng hô với Đỗ Văn Hạo rất thân thiết.

Chờ cho mọi chuyện hàn huyên kết thúc, Chiêm Đề nói với Đỗ Văn Hạo: “Y thuật của tiên sinh như thần, bản quan vốn định tiến cử tiên sinh vào thái y viện. Tiên sinh nói không muốn vào cung, sợ gây ra tai họa nên bản quan đành từ bỏ ý định.

Nhưng y thuật tiên sinh siêu phàm, nếu chỉ dùng để xem bệnh thì quá lãng phí, chỉ có một số bệnh nhân được hưởng lợi. Nếu tiên sinh có thể truyền thụ y thuật cho mọi người thì hàng trăm vạn dân chúng sẽ được hưởng lợi. Không biết tiên sinh có nguyện ý truyền thụ thần kỹ của ngài tạo phúc cho dân chúng không?”

“Truyền thụ y thuật? Được. Truyền thụ như thế nào? Thu nhận đồ đệ?”

“Không cần. Tiên sinh đến thái y cục làm trợ giáo. Trước tiên tiên sinh làm trợ giáo. Tương lai khi trải qua sát hạch sẽ được thăng cấp”.

Thời Bắc Tống hết sức coi trọng y học. Hệ thống y học của triều đình được phân thành Hàn lâm y quan viện, thường gọi là Thái y viện. Ngoài ra còn có Thái y cục phụ trách việc truyền thụ y thuật cho các y sinh. Bên cạnh đó còn có Thượng dược cục và Ngự dược viện. Chính là cơ cấu quản lý y học của triều Tống. Thái y cục mà Chiêm Đề nói tới chính là nơi chuyên tiến hành truyền thụ y thuật, giống như “Đại học y khoa quốc gia” ở hiện đại.

Thái y cục phân làm ba cấp. Cấp thấp nhất là hai trăm đệ tử gọi là “ngoại xá”. Sáu mươi người ở cấp thứ hai gọi là “nội xá’. Cấp thứ ba là bốn mươi người gọi là “xá đệ tử”. Phân thành các các chuyên ngành châm cứu, bắt mạch. Thực hiện rất nghiêm khắc chế độ loại bỏ người học sau từng gi­ai đoạn.

Trưởng quan của thái y cục gọi là “Đề cử”, phó chưởng quan gọi là “Cục phán”. Đại phu phụ trách truyền thụ y thuật rất giống với giáo sư đại học thời hiện đại, cũng được gọi là “giáo sư”, “tiến sĩ y học” và ” trợ giáo”.

Dựa theo quy định, giáo sư của thái y cục phải là thái y của hàn lâm y quan cục (thái y viện), hoặc là lưu giáo tốt nghiệp thái y cục. Cả hai điều này Đỗ Văn Hạo đều không có nhưng hắn là sư phụ của phó cục trưởng hàn lâm y quan cục (Thái y thừa), lại am hiểu thần kỹ của Hoa Đà, hiển nhiên hắn đủ tư cách đảm nhiệm chức giáo sư. Vấn đề là chức quan của thái y cục phải thông qua khảo hạch mới được bổ nhiệm. Hắn mới vào thái y cục nên không thể nhận chức giáo sư, phải từ từ thăng tiến từng bước một.

Đến kinh thành bằng ấy ngày. Đỗ Văn Hạo đã biết được hệ thống y học của Tống triều. Hắn nghe xong lời đề nghị của Chiêm Đề, rất háo hức muốn thử. Nếu hắn có thể truyền đạt kiến thức y học hiện đại ở triều Tống, đem Trung, tây y kết hợp sớm hơn một ngàn năm thì hắn không chỉ tạo phúc cho người đời Tống mà còn làm cho nền y học Trung Quốc tiến một bước dài trong lịch sử. Sau này không phải là tây y đông tiến mà sẽ là Trung y tây tiến. Đó chính là ước nguyện cao nhất của hắn.

Vì vậy Đỗ Văn Hạo cao hứng gật đầu nói: “Được, thế nhưng tại hạ đảm nhận chức trợ giáo của thái y cục thì có thể hành y ở dược đường nữa không?”

“Đương nhiên có thể. Trợ giáo chỉ phụ trách dạy học. Có buổi dạy thì đến, không có buổi dạy thì ở nhà hành y”.

“Hay lắm, tại hạ đồng ý”.

Chiêm Đề vui vẻ nói: “Hay lắm! Bản quan trở về sẽ thu xếp việc này, chính thức ra công văn bổ nhiệm tiên sinh”.

Mấy ngày sau mọi người đều bận rộn đi mua nhà ở riêng, đến nhiệm sở nhậm chức.

Gia quyến của Tiền Bất Thu và hai đồ đệ cũng đã chuyển hết tới kinh thành, bọn họ cũng đã mua nhà ở ngay phụ cận Ngũ Vị đường. Công việc của Tiền Bất Thu ở thái y viện rất bận, không có thời gi­an quan tâm đến công việc của dược đường nên ông ta không mở lại Tế Thế đường. Tiền Bất Thu để Hàm Đầu cùng Diêm Diệu Thủ ở Ngũ Vị đường làm đại phu, vừa trợ giúp, vừa theo sư tổ Đỗ Văn Hạo học y thuật.

Bàng Cảnh Huy dù làm quan ở Khai Phong phủ nhưng chỉ là một tá quan, ông ta không được cấp tư dinh ở nha môn, phải mua nhà ở bên ngoài. Trang viện của Đỗ Văn Hạo rất lớn, nhưng vì Bàng Vũ Cầm đã gả cho Đỗ Văn Hạo, gia đình Bàng Cảnh Huy không tiện ở trong nhà con rể. Được Chiêm Đề giúp đỡ mua hộ một trang viện gần Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo. Bàng Cảnh Huy chuyển cả gia đình tới đó.

Trang Huýnh Mưu cũng đã mua được trang viện ưng ý, đưa cả nhà đến đó ở.

Mị Nhi đi theo hai tiểu thiếp của Trang tri huyện bắt đầu một cuộc sống mới. Mấy ngày này nàng bận bịu thu xếp nhà cửa.

Hôm nay Mị Nhi đang cùng hai tiểu thiếp của Trang Huýnh Mưu, Thư Điệp và Mộng Hàn cười nói chạy lăng xăng. Đột nhiên nàng cảm thấy tim đập thổn thức, hơi thở nặng nề, không còn chút sức lực nào, chân trái và cả tay trái tê dần, cảm giác như không phải là mình nữa. Nàng lảo đảo mấy bước, hai tay quờ quạng cố bám vào hành lang.

Hai tiểu thiếp của Trang Huýnh Mưu thấy sắc mặt Mị Nhi nhợt nhạt vội vàng hỏi: “Muội làm sao vậy?”

Một tay Mị Nhi giơ lên khó nhọc tháo cây trâm cài đầu, rồi nàng cởi đôi hài thêu. Mị Nhi dùng cây trâm đâm vào huyệt Thái khê.

Thư Điệp hỏi: “Muội làm gì vậy?”

Mị Nhi không nói gì tiếp tục đâm vào. Lát sau nàng thở gấp nói: “Muội thấy tinh thần hoảng hốt. Đỗ tiên sinh đã nói muội có bệnh ở ngực. Muội không cho là thật. Mấy ngày nay thường xuyên tái phát, mỗi lần xảy ra muội thấy trống ngực liên hồi, hơi thở nặng nề, tay chân vô lực. May mắn Đỗ tiên sinh đã dạy muội phương pháp dùng ngân trâm cấp cứu, có thể làm bệnh nhẹ đi, nhưng chỉ được mấy ngày là lại tái phát”.

“Vậy sao muội không đến tìm tiên sinh để ngài xem bệnh cho?”

“Mấy hôm nay tiên sinh rất bận, mỗi lần muội đến đó đều không dám nói, dù sao bệnh của muội không nặng lắm, đợi qua mấy ngày này Đỗ tiên sinh thư thái muội sẽ nói”.

“Muội đúng là! Đau ngực không thể đùa được. Đi, chúng ta cùng đến tìm Đỗ đại phu xem bệnh cho muội”.

Trang Huýnh Mưu đến nha môn làm việc. Ba người không thông báo cho ông ta biết. Mỗi người ngồi một kiệu, mang theo mấy nha hoàn đi tới Ngũ Vị đường của Đỗ Văn Hạo.

Mấy người xuống kiệu đi vào bên trong dược đường, chỉ thấy Diêm Diệu Thủ, Hàm Đầu, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đang xem bệnh cho bệnh nhân. Đỗ Văn Hạo không ở đó.

Thư Điệp hỏi Bàng Vũ Cầm: “Tấu tử, Đỗ tiên sinh đâu?” (Tấu tử là chị dâu)

Bàng Vũ Cầm nói: “Phu quân ta đến thái y cục. Hôm nay có công văn của thái y cục chính thức bổ nhiệm chàng làm trợ giáo. Đáng lẽ chàng phải trở về vào giờ ngọ. Không biết có chuyện gì mà giờ chàng chưa về?”

“Muội muội của ta bị đau ngực. Muội ấy nói trước đây Đỗ tiên sinh đã xem bệnh cho muội muội. Bây giờ bệnh cũ tái phát. Chúng ta muốn mời Đỗ tiên sinh xem bệnh cho muội ấy. Nếu tiên sinh không ở nhà, chúng ta sẽ chờ một lát”.

Tuyết Phi Nhi không có cảm tình với Mị Nhi, thấy Mị Nhi ôm ngực nhăn nhó nhưng vẫn hiện lên dáng vẻ mềm mại, hấp dẫn làm cho nam nhân phải đau lòng nên nàng cảm thấy tức giận. Tuyết Phi Nhi lạnh lùng nói: “Không sao, ca ca ta không ở đây thì vẫn còn ta. Ta sẽ xem bệnh”.

“Ngươi…?” Thư Điệp do dự một lát rồi nàng liếc mắt nhìn Mị Nhi.

“Sao? Coi thường y thuật của ta à? Nói thật cho ngươi biết nếu người bệnh là nữ nhân, dù ca ca ta có ở nhà thì chúng ta cũng xem bệnh trước, sau đó ca ca mới kiểm tra lại. Bây giờ các ngươi không để ta xem, lát nữa ca ca trở về thì đừng trách ta không nói trước”.

Mị Nhi biết Tuyết Phi Nhi và Đỗ Văn Hạo đã kết bái huynh muội, tính cách nàng lại tinh quái, không thể đắc tội với nàng được nên miễn cưỡng nói: “Vậy làm phiền muội muội”.

Mị Nhi uyển chuyển đi tới, nàng ngồi xuống cạnh bàn, tay đặt lên cái gối. Chưa kịp nói gì đã bị Tuyết Phi Nhi đập nhẹ vào tay.

Tuyết Phi Nhi lạnh lùng nói: “Người chưa bao giờ khám bệnh à? Đại phu xem bệnh, trước tiên là vọng chẩn, tiếp theo là văn chẩn, sau đó là vấn chẩn, cuối cùng mới bắt mạch (vọng - nhìn, văn - nghe, vấn - hỏi). Vọng, nghe, hỏi và bắt mạch phải làm theo trình tự. Nếu làm lung tung, chỉ cần nhìn cũng biết không phải là lương y mà là dong y. Dù ta học y thuật chưa lâu, ca ca ta là thần y, danh sư xuất cao đồ…, ta dù không phải là đồ đệ của ca ca nhưng xem bệnh cũng phải tuân theo trình tự này”.

Mị Nhi cố gắng nhẫn nhị nghe Tuyết Phi Nhi nói một thôi một hồi, mãi sau nàng mới cắt ngang được: “Vậy cứ làm theo ý của muội đi”.

Lúc này Tuyết Phi Nhi mới nghiêng đầu quan sát Mị Nhi: “Sắc mặt ngươi tái nhợt, nhưng môi lại đỏ thắm. Khí huyết hư nhược, nhưng lại có hiện tượng thống huyết, nguy chứng. Thập phần nguy hiểm!”

Mị Nhi cau mày nói: “Muội muội, sắc mặt ta tái nhợt là do bẩm sinh. Nhưng môi đỏ thắm có cần phải lau đi không?”

“Không đúng! Ngươi đánh môi hồng thì cũng phải đánh má hồng mới đúng. Vì sao sắc mặt vẫn trắng nhợt như mặt quỷ vậy?”

“Từ nhỏ mặt ta đã tái nhợt như thế, không đánh phấn được…”.

“Thật kỳ lạ. Mặt ngươi như hoa đào, môi ngươi lại đỏ hồng. Tại sao vậy? Ha, ha, ta rồi vì đôi tay ngọc ngà ngàn người gối, đôi môi đỏ thắm vạn người “thơm”. Nguyên nhân cái miệng nhỏ nhắn của ngươi bị nhiều nam nhân trêu đùa, bị phai mầu nên nhan sắc sớm tàn phai. Tạo hóa thật trêu ngươi! Ha ha ha”.

Mị Nhi cau mày, mắt hiện lên sự tức giận nhưng ngay lập tức biến mất. Nàng nói khẽ: “Tỷ tỷ mệnh bạc đã để cho muội muội chê cười”.

Chương 159: Quái bệnh không có mạch

Diêm Diệu Thủ phe phẩy quạt nói với Mị Nhi: “Ngươi là gái lầu xanh, nam nhân quỳ gối, bám váy ngươi, vung tiền như rác vì ngươi. Ngươi giống như con gà mái mặc váy, biết trang điểm, hàng đêm động phòng thay đổi tân lang. Ngươi đã đón tiếp không biết bao nhiêu nam nhân, bao nhiêu lệ tương tư đã đổ vì ngươi. Ngươi đã nếm trải tư vị nam nhân biết bao lần, sao lại bảo là mệnh khổ? Ta thấy ngươi mệnh tốt, rất tốt. Không biết kiếp trước ngươi tu hành thế nào. Tích bao nhiêu âm đức, đã tụng bao nhiêu kinh, gõ bao nhiêu mõ mới có được phúc phận kiếp này, đón nhận hàng ngàn, hàng vạn ơn mưa móc của nam nhân. Ha ha ha”.

Cho tới bây giờ Mị Nhi bị người đời nhục mạ là chuyện thường. Nếu người bên ngoài chê cười, Mị Nhi không mỉa mai đáp trả nàng cũng thấy bình thường. Nhưng bây giờ hết lần này đến lần khác, muội tử kết nghĩa và đồ tôn của Đỗ Văn Hạo miệt thị nàng. Hai người này giống như đại diện cho thái độ của Đỗ Văn Hạo nên Mị Nhi cảm thấy chua xót, nước mắt tuôn rơi. Nàng vung tay áo đứng dậy, lảo đảo đi ra ngoài cửa.

Bàng Vũ Cầm vội tiến lên nói: “Cô nương, xin đợi chút!” Nói xong nàng quay đầu trợn mắt nhìn Diêm Diệu Thủ: “Ngươi ăn nói cái gì vậy? Những lời này ngươi đến thanh lâu mà nói. Mị Nhi cô nương đến cầu y, là một người bệnh. Sư phụ ngươi không dạy ngươi y đức à?”

Diêm Diệu Thủ cuống cuồng sợ hãi, hắn thu quạt lại rồi chắp tay, cúi dạp xuống thi lễ: “Tổ sư nương. Đồ nhi biết tội rồi!”.

Bàng Vũ Cầm hừ một tiếng rồi nàng quay đầu nói với Mị Nhi: “Cô nương, thật sự xin lỗi. Bọn họ ăn nói không đúng. Cô nương đừng để ý”.

“Cám ơn tấu tử!” Mị Nhi rơi lệ nói. Nàng liếc mắt nhìn Tuyết Phi Nhi, cắn răng quay lại ghế ngồi: “Tỷ tỷ cư xử thất lễ. Mời muội muội tiếp tục xem bệnh cho tỷ tỷ”.

Tuyết Phi Nhi thấy Mị Nhi nói vậy, nàng cũng thấy hơi quá nên nàng nín cười, khẽ ho nhẹ. Nàng hỏi Mị Nhi: “Cô nương thấy trong người như thế nào?”

“Ngực đập nhanh, mạnh, khó thở. Tay, chân không có lực, thường xuyên tê dại, nhất là tay trái và chân trái”.

“Có ho không?”

“Không”.

Tuyết Phi Nhi đã có kinh nghiêm chữa trị chứng phong hàn, nhưng Mị Nhi lại không có dấu hiệu gì của bệnh cảm phong hàn, ngay cả một triệu chứng nhỏ cũng không có. Nàng không biết kết luận là bệnh gì, nhưng nàng không muốn thừa nhận mình không chẩn đoán được. Nàng trầm tư suy nghĩ một lát rồi quay sang gật đầu ra hiệu với Bàng Vũ Cầm nhưng thấy vẻ mặt ngơ ngác của Vũ Cầm nàng đành phải hỏi: “Trước kia thì sao? Trước kia ngươi có thấy bị làm sao không?”

“Trong năm nay, các ngón tay thường có cảm giác lạnh, tay, chân đổ mồ hôi. Thường xuyên có triệu chứng chóng mặt, hoa mắt. Đầu lại đau nữa”.

Đau đầu? Rốt cục Tuyết Phi Nhi đã nắm được một triệu chứng để tìm ra chứng bệnh: “Đau đầu! Chứng bệnh này rất dễ chữa trị! Đau đầu thống. Thiên thu tán chuyên trị chứng bệnh đau đầu kéo dài. Được rồi để ta kê đơn cho cô nương”.

“Nhưng muội tử vẫn chưa bắt mạch cho ta”

“Bắt mạch? Đúng, đúng. Bắt mạch!” Tuyết Phi Nhi cảm thấy lúng túng. Nàng giống như đứa hài tử quên làm bài bị ông đồ bắt được. Nhưng nàng vẫn mạnh miệng nói: “Bắt mạch gì? Ngươi không tự kéo tay áo lên ta làm sao bắt mạch cho ngươi được?”

Mị Nhi vội kéo ống tay áo lên, nàng đặt tay phải ở trên cái gối để xem mạch.

Tuyết Phi Nhi kéo tay của mị Nhi ra: “Duỗi tay ra! Tay ngươi cong như thế ta không bắt mạch được”.

Mặc dù võ công của Tuyết Phi Nhi giống như mèo quào nhưng nàng dùng sức bóp chặt cổ tay của Mị Nhi làm cho Mị Nhi đau đớn kêu lên “ôi chao”

“Sao vậy? Làm ngươi đau à? Ngươi yếu quá! Nói cho ngươi biết ca ca ta chỉ thích nữ nhân bên ngoài mềm mại, trong cứng rắn, không thích nữ nhân mềm oặt như bông, huống chi ngươi lại là nữ nhân xuất thân thanh…….. Khụ, khụ, không nói chuyện nữa. Chẩn mạch thôi!”.

Mắt phượng chăm chú, ba ngón tay của Tuyết Phi Nhi đặt trên cổ tay của Mị Nhi. Lát sau Tuyết Phi Nhi đột nhiên nói: “Ai da, cực kỳ nghiêm trọng, mạch của ngươi trầm tế, hư nhược. Quả thật là nguy chứng. Lần này ta không lừa ngươi. Đưa tay kia cho ta xem nào”.

Mị Nhi vội đặt cánh tay trái lên, khẽ vén tay áo lên.

Tuyết Phi Nhi đưa tay ra bắt mạch, lần này nàng phản ứng mạnh hơn, suýt chút nữa nhảy dựng lên: “Hả! Sao vậy ta? Sao lại không bắt được mạch?”

Mị Nhi tưởng Tuyết Phi Nhi lại đùa cợt với nàng đang định trả lời. Nhưng Bàng Vũ Cầm nhận thấy phản ứng lần này của Tuyết Phi Nhi không giống như trước, nàng vội hỏi: “Làm sao vậy?”

“Không có mạch”.

“Không có mạch? Con người không thể không có mạch được”.

“Thật mà, không tin tỷ bắt thử xem”.

Bàng Vũ Cầm nghi ngờ đưa tay bắt mạch của Mị Nhi. Lát sau nàng biến sắc nói: “Thật sự không có mạch. Không biết xảy ra chuyện gì đây?”

Hàm Đầu đang chẩn cho người bệnh, hắn nghe hai nàng nói vậy cảm thấy tò mò. Hắn đi tới hỏi: “Không thể nào. Để ta xem”.

Lát sau hắn cũng kinh ngạc nói: “Đúng là không có mạch!” Hắn lại chuyển tay khác, quả nhiên mạch trầm tế, cực kỳ hư nhược.

Thế gi­an này có người không có mạch ư?

Mị Nhi cảm thấy rất lo lắng. Nàng dùng tay phải đặt lên cổ tay trái bắt mạch, sắc mặt nàng thay đổi, quả nhiên nàng không thấy mạch. Không phải mạch tế mà là không có mạch. (Mạch tế như sợi dây nhỏ mà mềm)

Mị Nhi run giọng nói: “Tại sao lại như thế…..?” Thư Điệp, Mộng Hàn cũng luống cuống. Từ trước tới nay hai nàng chưa nghe tới quái bệnh như vậy.

Bàng Vũ Cầm nói: “Cô nương đừng nóng vội. Dù là quái bệnh như nào thì tướng công ta cũng chữa khỏi”.

Mị Nhi gật đầu: “Bây giờ thì ta còn biết làm gì nữa?”

“Chờ tướng công ta quay về. Chàng nhất định sẽ có cách”

Hàm Đầu trầm ngâm giây lát rồi hắn trầm giọng nói với Mị Nhi: “Làm ơn cho ta xem lại tay cô nương một chút”.

Hắn cầm tay Mị Nhi. Ngay lúc đó da ở các đốt ngón tay trái của nàng trắng nhợt, móng tay tụ huyết.

Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu liếc nhìn qua. Diêm Diệu Thủ nói: “Sư đệ, đệ nhớ lại xem có y thư nào ghi lại về chứng bệnh không có mạch không?”

Hàm Đầu học y chủ yếu nhờ học thuộc y thư. Hắn ta lập tức suy nghĩ tìm tòi, hắn nhanh chóng tìm ra đáp án: “Tố vấn kinh luận có viết: Hàn độc thì huyết ngưng, huyết ngưng thì mạch không thông”.

Diêm Diệu Thủ cau mày nói: “Nói như vậy thì hàn làm cho mạch ngưng trệ?”

“Đệ cũng không rõ, chỉ là trong Tố vấn nội kinh nói như thế”

Tuyết Phi Nhi tò mò nhìn Hàm Đầu hỏi: “Cái gì là hàn làm cho mạch ngưng trệ?”

Hàm Đầu trầm ngâm một lát rồi nói: “Đó là hàn khí xâm nhập cơ thể, khí huyết ngưng trệ trở thành tý chứng (Tý chứng theo y học cổ truyền là một chứng bệnh mà đặc điểm chủ yếu là đau các cơ khớp ở tay chân do khí huyết không lưu thông tốt gây bế tắc kinh lạc. Những chứng bệnh phong thấp, thấp khớp cấp, viêm đa khớp dạng thấp, viêm cơ, đau thần kinh toạ, bệnh gút… đều có thể qui vào tý chứng)

Mị Nhi vội la lên: “Hàm đại phu, bệnh này chữa được không?”

Hàm Đầu nói: “Trong Hoàng đế nội kinh có viết: Phong hàn thấp tam khí hợp lại gây nên tý chứng… và Phong khí thắng là hành tý, hàn khí thắng là thống tý, thấp khí thắng là trước tý. Lúc này mặc dù đã sang xuân nhưng thời tiết vẫn rất lạnh. Mấy hôm nay cô nương vất vả, mệt mỏi, phong hàn thấp tà khí thừa lúc hư nhược xâm nhập vào cơ thể, chính khí lưu thông bị tắc, khí huyết không vận hành tới các đốt ngón tay. Bởi vì khí huyết không vận hành được, mạch tượng không hiện nên mới không bắt được mạch. Chủ yếu dùng dược trừ phong, tán hàn, trừ thấp là chữa khỏi bệnh”.

Diêm Diệu Thủ lắc đầu nói: “Cứ cho là tý chứng, nhưng mạch không hiện, một tay và một chân giá lạnh không hoàn toàn giống với tý chứng. Triệu chứng này không đơn giản như vậy. Không thể dùng liệu pháp của tý chứng để chữa trị được. Trong tý chứng, kinh lạc các đốt ngón tay bị bế tắc. Mị Nhi cô nương lại là mạch tượng bế tắc. Hai điều này hoàn toàn khác nhau”.

Nghe Diêm Diệu Thủ nói thế, Hàm Đầu cũng thấy phân vân. Hắn gãi đầu nói: “Nếu vậy theo sư huynh, Mị Nhi cô nương bị chứng bệnh gì? Sao lại không bắt mạch được?”

“Ta chỉ biết trái tim là chủ huyết mạch. Khí thúc đẩy huyết lưu thông khắp cơ thể. Khí huyết ngưng trệ, không lưu thông chắc chắn có liên quan tới trái tim. Vì vậy không mạch không liên quan gì tới tý chứng. Ta khẳng định còn nghiêm trọng hơn so với tý chứng. Nhưng nguyên nhân và cách điều trị thì ta không biết. Cái này phải thỉnh sư hoặc sư tổ”.

Thư Điệp vội la lên: “Nhưng tới giờ Đỗ tiên sinh vẫn chưa quay về”.

Mọi người đang nói chuyện, một chiếc xe ngựa dừng trước cửa. Chiêm quản gia từ trên xe nhảy xuống chạy vào bên trong. Hắn chắp tay nói với Bàng Vũ Cầm: “Phu nhân, Đỗ tiên sinh cùng lão gia nhà ta, thái y cục Đề cử đại nhân, Cục phán đại nhân và các giáo sư, tiến sĩ đang dự yến tiệc. Đỗ tiên sinh không thể quay về lúc chính ngọ được, tiên sinh bảo tiểu nhân lại đây báo cho phu nhân biết”.

Mị Nhi nghe nói cảm thấy rất thất vọng.

Mộng Hàn nói: “Nếu vậy, chúng ta cứ quay về nhà đã, khi nào Đỗ tiên sinh về chúng ta lại đến”.

Ba người cáo từ, lên kiệu quay về tư dinh.

Mị Nhi ngồi trong kiệu. Nàng thấy cánh tay nàng càng lúc càng tê hơn. Hơn nữa ngực nàng bắt đầu đau, tim đập mỗi lúc một nhanh, hơi thở dồn dập. Nàng nghĩ đến việc hai đồ đệ của Tiền thần y cũng không tìm ra nàng bị bệnh gì, chắc chắn bệnh của mình rất kỳ lạ, không nhẹ. Nàng lại không gặp Đỗ Văn Hạo nên trong lòng thấy rất trống rỗng.

Mị Nhi vèn rèm kiệu nhìn ra ngoài. Nàng thấy phía trước, ở ven đường có một cái quán linh y. Một lão nhân khô gầy, gương mặt nhăn nheo, chòn râu hoa dâm, tay cầm một quyển y thư, hai mắt nhắm lại như đang ngủ đang ngồi bên trong. Trước quán có một cái biển, trên biển có ghi: “Phương thuốc gia truyền. Chuyên trị quái bệnh”.

Mị Nhi giật mình, nàng đột nhiên nhớ tới cái gọi là phương thuốc dân gi­an trị bệnh nặng. Không phải tất cả linh y là lừa gạt. Ban đầu Đỗ tiên sinh cũng là linh y. Không chừng linh y đang ngồi đây cũng có bản lãnh như Đỗ tiên sinh. Biết đâu ông ta có thể chữa được quái bệnh của nàng.

Mị Nhị vội kêu dừng kiệu, nàng bước xuống đi tới chỗ người linh y.

Linh y đã ngồi đây rất lâu mà không có ai đến xem bệnh, ông ta đang ngủ gà ngủ gật, chợt thấy một cô nương dung mạo xinh đẹp, hai tay ôm ngực, dáng vẻ lo lắng liền đoán nàng ta đến cầu y, hơn nữa chứng bệnh có thể liên quan đến đau ngực. Ông ta vội đứng dậy nói: “Cô nương, xem bệnh à?”

“Ừ” Mị Nhị gật đầu.

Linh y nhìn đánh giá Mị Nhi một chút rồi ông ta trầm giọng nói: “Cô nương, không phải lão hủ dọa cô nương. Chứng bệnh đau ngực của cô nương không nhẹ đâu”.

Thân thể mềm mại của Mị Nhi khẽ run lên: “Sao tiên sinh lại biết bệnh đau ngực của ta nặng?”

“Ha, ha, lão hủ ta là người thường, nhưng ai có bệnh gì đều nhận ra ngay” Linh y làm ra vẻ nghiêm trọng: “Bệnh của cô nương vẫn có thể chữa trị được. Nếu để cho lão hủ chẩn trị, lão hủ đảm bảo sẽ chữa khỏi. Nếu cô nương trì hoãn, sớm muộn cũng mất mạng! Cô nương, mời ngồi. Lão hủ xem mạch cho cô nương”.

Mị Nhi nghe linh y nói xong nàng cực kỳ hoảng sợ. Nàng từ từ ngồi xuống trước mặt linh y.

Nàng đặt tay trên gối để bắt mạch.

Lúc này Thư Điệp và Mộng Hàn phát hiện kiệu của Mị Nhi đã dừng lại, cả hai cũng dừng kiệu đi tới hỏi: “Làm sao vậy?”

“Vị tiên sinh đây vừa nhìn muội đã bảo muội có bệnh. Muội muốn để cho tiên sinh xem bệnh”.

“Này, tiểu muội. Bệnh của muội đúng là rất quái lạ. Loại linh y ven đường này không thể chữa được đâu”.

“Đỗ tiên sinh ban đầu cũng là linh y” Mị Nhi nhìn chòm râu trắng như tuyết của lão nhân, nàng cảm thấy tin tưởng hơn: “Cứ để ông ấy xem bệnh. Nếu ông ấy phán bệnh không đúng. Lúc đó chúng ta không cần ông ấy chữa trị cũng chưa muộn”.

Nhị nữ khẽ thở dài. Cả hai đành ngồi xuống chiếc ghế dài ở bên cạnh.

Chương 160: Lão linh y

Lão linh y nghiêng đầu nhìn nhị nữ. Ông ta nghĩ phải giở ra một chút thủ đoạn liền khẽ nói: “Cô nương, y thuật của lão hủ là gia truyền, chuyên chữa trị những quái bệnh, bệnh nặng. Năm đó lão hủ đang làm thái y ở thái y viện, không may lão hủ xui xẻo, không trị được bệnh cho hoàng thân quốc thích. Lão hủ bị cách chức quan. Lão hủ không cam lòng bỏ phí một thân sở học nên mới dựng một cái quán, chữa bệnh cho người hữu duyên…”.

Thư Điệp nói: “Được rồi, được rồi! Ngươi nên xem bệnh trước đi. Đừng nói nhiều như vậy”.

“Hảo! Xem bệnh! ‘ Hai ngón tay của lão linh y vuốt nhẹ chòm râu trắng như tuyết, ngón tay trỏ của ông ta dựng thẳng lên. Ông ta nói: “Không phải lão hủ khoe khoang, lão hủ bắt mạch xem bệnh luôn chỉ dùng một ngón tay. Mấy vị cô nương đừng ngạc nhiên” Lão linh y duỗi ngón trỏ, nhẹ nhàng đặt lên cổ tay của Mị Nhi, hai mắt khép hờ, chăm chú xem mạch. Ông ta thở dài, mở mắt liếc nhìn Mị Nhi rồi lại nhìn ngón tay trỏ của mình, không sai, ông ta đã đặt đúng vị trí bắt mạch. Sao lại không có mạch nhỉ?

Có phải mạch trầm tế quá mức nên không lấy được mạch không?

Ngón tay lão linh y ấn xuống, đầu ngón tay ấn sâu vào da thịt mềm mại của Mị Nhi nhưng ông ta vẫn không tìm ra mạch.

Trên gương mặt của lão linh y hiện lên vẻ ngạc nhiên, mày cau lại, vẻ mặt càng lúc càng âm trầm: “Bệnh của cô nương còn nặng hơn so với dự tính ban đầu của lão hủ. Lão hủ cần dùng hai ngón tay chẩn mạch, bình tĩnh tìm ra chứng bệnh”.

Dứt lời, ông ta lại đặt thêm một ngón tay nữa. Nhưng ông ta vẫn không tìm được mạch. Lão linh y lặng lẽ đặt thêm một ngón tay nữa thành tam ngón bắt mạch, kết quả vẫn không bắt được mạch.

Lão linh y nhìn Mị Nhi như nhìn một quái vật. Ông ta thầm nghĩ chẳng lẽ ba bộ mạch tượng của người này quái dị?

Lão linh y giật mình, ông ta vẫn không thấy cảm giác có mạch đập. Hàng mi hoa râm nhíu lại: “Cô nương, xin mời đổi lại tay”.

Mị Nhi đặt tay phải lên cái gối. Lão linh y cẩn thận đặt ngón trỏ và ngón giữa lên cổ tay xem mạch, sau đó ông ta đặt thêm ngón áp út, Ông ta ngưng thần xem mạch. Nhẹ không thấy mạch, ấn mạnh vẫn không thấy mạch. Ông ta biến sắc, dựng bàn tay lên ấn mạnh, lúc này ông ta mới mơ hồ cảm thấy mạch rất yếu ớt, nhảy loạn xạ. Khi có khi không.

Lão linh y chậm rãi buông tay ra. Ông ta vuốt râu, ngưng thần suy nghĩ một lát rồi nói: “Cô nương, mạch vốn là chủ phú quý. Nhưng mạch của cô nương chủ hung cát nên rất khó bắt”.

“Đừng hí lộng người khác” Thư Điệp hừ một tiếng rồi nói: “Ta chưa bao giờ nghe nói mạch tượng của người vừa hung vừa cát”.

“Đương nhiên chủ hung cát! Mạch tượng không chỉ nói lên chứng bệnh, mà còn có thể đoán phú quý, từ mạch trong hay đục, có thể luận giàu nghèo, từ mạch trơn hay ráp, có thể luận sống chết và thăng trầm, luận thời vận và suy vượng, luận hung cát và khó khăn” Nói đến đây lão linh y thở dài: “Mà hai tay rõ ràng có mạch cũng như không có mạch. Mạch vốn là hệ thuần âm, chủ đại phú, đại quý. Nhưng chỉ có một tay của cô nương có mạch, một tay không có mạch. Hai tay đối lập, chứng bệnh trở nên cực ác”.

Mị Nhi hoa dung thất sắc. Nàng không tự chủ được nắm chặt tay Thư Điệp ở bên cạnh.

Thư Điệp vỗ nhẹ lên lưng Mị Nhị, quát lên: “Lão tiên sinh! Sao ngươi có nói những lời độc ác như thế làm muội muội của ta sợ hãi? Ngươi thật vô lễ! Mị Nhi, chúng ta đi!”

Lão linh y lắc đầu thở dài: “Ôi! Từ xưa đến nay lời nói thật luôn khó nghe. Giống như người nghèo luôn giấu diếm nợ nần. Cứ giấu diếm bệnh, khi bệnh đã thành nguy chứng nhưng vẫn lừa mình, dối người. Đến lúc đại họa có hối cũng không kịp”.

Mị nhi đã không có chủ ý. Nàng định đứng dậy rời đi, nghe linh y nói vậy nàng lại ngồi xuống hỏi: “Tiên sinh, ta bị bệnh gì?”

“Cô nương, có thể cô nương không muốn nghe lời nói thật. Nhưng lão hủ chỉ có ý tốt với cô nương. Mạch tượng của cô nương cực kỳ quái dị. Bình sinh lão hủ chỉ gặp có một lần trước đó. Mạch tượng của người đó so với của cô nương còn nghiêm trọng hơn, hai tay không bắt được mạch. Nhưng thân thể người đó không có bất kỳ triệu chứng nào. Lão hủ nói với hắn: Mạch không có nghĩa là bệnh nặng, bệnh của ngươi đã vào cao hoang. Ba ngày sau ngươi sẽ chết. Người đó không tin lại còn cười nhạo lão hủ. Đến ngày thứ ba quả nhiên người đó tuyệt mệnh”.

Mộng Hàn ở bên cạnh cũng quát lên: “Lão tiên sinh ngươi thật là! Hỏi ngươi là bệnh gì ngươi không nói. Ngươi chỉ nói lăng nhăng dọa người. Ngươi muốn tiền xem bệnh phải không? Đúng lắm, phải trả tiền cho ngươi. Đưa cho ông ta một điếu đồng tiền”.

Thiếp thân nha hoàn đi cùng lấy ra một điếu tiền đặt trên bàn.

“Lão hủ không có ý này…, ha, ha” Lão linh y vừa nói vừa cầm điếu đồng tiền nhét vào trong bọc. Ông ta ho nhẹ một tiếng rồi nói: “Bệnh của cô nương này vẫn còn một đường sinh cơ”.

“Xin chỉ giáo” Thư Điệp nói.

“Bởi vì mạch bộ xích của cô nương vẫn còn”.

“Có ý gì? Hãy nói rõ ra đi”.

“Trong Thập tứ nan có viết: Thượng bộ có mạch, hạ bộ không có mạch, muốn nôn, không nôn được. Thượng bộ không có mạch, hạ bộ có mạch, bệnh nặng vẫn có thể cứu được. Ví dụ người giống như cây cối vẫn còn gốc rễ, dù cành lá khô, rụng hết, vẫn có thể sinh sôi nảy nở. Mạch còn căn bản, người còn nguyên khí, không chết được”.

“Được rồi, được rồi. Ngươi đừng vòng vo nữa, nói thẳng ra muội muộia bị bệnh gì?”

“Được, để lão hủ nói thẳng. Bệnh của cô nương này là: Mạch tý”.

“Mạch tý? Nghĩa là gì?”

“Mạch tý, huyết ứ trệ, huyết ứ gây nên mạch tý, khí đoản, tâm hoảng, tứ chi lạnh giá, tê tê vô lực. Cô nương, lão hủ nói thế có đúng chứng bệnh của cô nương không?”

Mị Nhi liên tục gật đầu. Nàng rơi lệ hỏi: “Bệnh này có nặng không?”

“Chứng bệnh đã nguy. Lời của lão hủ lúc trước không phải để dọa người, đó chính là lời nói thật. Nhưng cô nương không cần quá lo lắng. Lão hủ đã nói: Thốn hữu mạch, xích vô mạch, không nôn thì chết. Thốn vô mạch, xích hữu mạch, giống như cây đại thụ, cây đại thụ bị côn trùng ăn hết lá, nhưng gốc rễ vẫn còn nên không sao. Xích là nguyên khí của mạch. Nguyên khí vẫn còn. Mạng chưa tận.

(Thốn là dương, xích là âm, dương khí của đàn ông thiên về thịnh, nên coi mạch thốn thịnh, mạch xích nhược là thích hợp. Âm huyết của đàn bà thiên về thịnh nên coi mạch xích thịnh, mạch thốn nhược là thích hợp. Nếu hai mạch ấy trái ngược nhau thì chứng tỏ rằng đã có bệnh biến)

Thư Điệp hừ một tiếng: “Ngươi lại thế nữa. Nghe ngươi nói huyên thuyên một lúc lâu ta chỉ hỏi ngươi, bệnh này có chữa được không?”

“Đương nhiên! Bệnh của cô nương này vẫn chưa ăn vào tạng phủ. Vẫn chữa được”.

“Cứu như thế nào? Nói đi! “.

“Cái này…, cứu một mạng người như xây bảy ngôi chùa. Y thuật là nhân thuật. Lão hủ không muốn giấu diếm, nhưng bệnh của vị cô nương này rất hiếm gặp, rất khó chữa trị. Nếu không tin cô nương có thể đi xem bệnh tất cả các danh y ở kinh thành. Nếu họ có thể nói ra cách trị bệnh của cô nương, lão hủ sẽ bỏ nơi này mà đi. Cô nương, bệnh của cô, nói không ngoa, thế gi­an này không ai có thể trị được. Cô nương gặp được lão hủ coi như đã bảo toàn được tính mạng. Cô nương năm nay niên kỷ chưa đến hai mươi ba, đúng không? Tuổi còn trẻ. Nếu mà bị hủy đi như vậy…”.

“Được rồi, được rồi!” Thư Điệp hết kiên nhẫn, nàng khoát tay nói: “Ngươi toàn nói những điều linh tinh. Hãy nói rốt cuộc có chuyện gì?”

Mộng Hàn cũng trừng mắt nhìn lão linh y: “Ông ta chắc chắn muốn thêm tiền. Nói đi, chữa bệnh này cần bao nhiêu tiền?”

Lão linh y cười, giơ hai đầu ngón tay lên.

“Hai lượng?”

“Không, hai mươi lượng. Cứu mạng một cô nương hai mươi lượng bạc có nhiều không?”

“Ngươi đúng là hổ ăn thịt người. Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường nổi danh kinh thành với thần kỹ của Hoa Đà xem bệnh, cứu người, lấy tiền chữa bệnh cũng không bao giờ lấy đến hai mươi lượng. Một linh y ven đường mà cũng dám lấy nhiều tiền như vậy sao?”

“Chữa bệnh tự nguyện, muốn đến, muốn đi tùy ý cô nương. Theo như lời thiên hạ Đỗ đại phu của Phù Vân đường, bây giờ phải gọi là Ngũ Vị đường, bán phương thuốc trị giá mười vạn lạng bạc trắng. Đơn thuốc của lão hủ đây là đơn thuốc cứu mạng. Bán hai mươi lạng là không đắt đâu”.

“Hừ, ngươi dám so sánh với Đỗ đại phu?” Đỗ tiên sinh có thần kỹ của Hoa Đà, ngươi có không?”

Lão linh y cười nhạt: “Cô nương cứ đùa. Lão hủ chỉ là linh y ven đường, không dám so với Đỗ đại phu. Nhưng không phải lão hủ khoe khoang, bệnh của vị cô nương này chỉ có lão hủ mới chữa được, kể cả Đỗ đại phu cũng chỉ giương mắt đứng nhìn. Nếu không tin, cô nương có thể đi tìm để ông ta xem bệnh cho cô nương. Nếu ông ta có chẩn bệnh y như lão hủ đã nói, lão hủ sẽ bỏ không hành y nữa”.

Thư Điệp và Mộng Hàn nhìn nhau. Cả hai nàng thấy lão linh y có vẻ thành thật, các nàng cũng không biết bệnh của Mị Nhi nặng đến mức độ nào nên không dám nói gì nữa.

Mị Nhi tháo vòng ngọc ở cổ tay ra, nàng nhẹ nhàng đặt lên bàn, rơi lệ nói: “Cái vòng này trị giá năm mươi lượng. Tất cả tặng tiên sinh. Tiên sinh hãy trị quái bệnh cho ta”.

Mắt lão linh y sáng lên, tay ông ta cầm cái vòng giơ lên, cẩn thận quan sát, quả nhiên đó là ngọc lam điền hảo hạng. Ông ta cao hứng nhét cái vòng vào trong người rồi nói: “Cô nương yên tâm! Bệnh của cô nương lão hủ chữa được”.

Lão linh y cầm bút lông, thấy nghiên mực đã gần khô, ông ta cầm chung trà đổ một ít nước trà vào nghiên mực, sau khi mài xong, ông ta cầm bút viết một đơn thuốc rồi đưa cho Mị Nhi.

Mị Nhi cầm đơn thuốc, nàng nhìn qua thấy trên đơn thuốc viết dược liệu và liều dùng. Nàng không biết y thuật nên xem không hiểu gì.

Lão linh y thấy dáng vẻ ngơ ngác của nàng liền nói: “Cô nương xem không hiểu à? Lão hủ giải thích để cô nương hiểu. Cô nương thể trạng hư nhược, dương khí cực hư, kinh lạc bất ổn, không thông suốt đến nỗi thành hàn, sợ lạnh, tay chân giá lạnh. Khí hư, vô lực, tâm hoảng, tim đập nhanh, loạn nhịp, mệt mỏi, kiệt sức. Nội khí hư, chính khí thiếu, tay chân ra nhiều mồ hôi. Lão hủ dùng Tứ nghịch thang và Ô đầu thang gia giảm”.

Lão linh y cầm đơn thuốc, ông ta dùng bút lông chỉ vào nói: “Quế chi tác dụng tán hàn, lưu thông kinh mạch. Tế tân, Thông thảo tăng dương khí. Đương quy, Bạch thược bổ huyết, dưỡng tâm. Đại hoàng, Ma hoàng thông hành kinh lạc, xuyên ô thông tý, có thể thông hành mười hai kinh mạch, bổ nguyên dương. Cam thảo trợ khí, kiêm xuyên ô. Kê huyết đằng hoạt huyết, bổ huyết, thông lạc kinh mạch. Toàn bộ phương thuốc là ôn kinh, thông mạch, ôn hòa tứ chi, khôi phục mạch tượng”.

Thư Điệp nói: “Có hiệu quả không? Đơn thuốc này mất năm mươi lượng đấy”.

“Cô nương yên tâm, tiền nào của ấy, chắc chắn sẽ khỏi. Trước tiên uống sáu thang. Uống xong chắc chắn bệnh lui. Nếu không hiệu quả, cô nương cứ đến tìm lão hủ. Hàng ngày lão hủ đều ngồi đây xem bệnh”.

“Tốt lắm! Chúng ta về thôi”.

Tam nữ ra khỏi dược quán. Thư Điệp nói: “Chúng ta hãy quay lại Ngũ Vị đường mua thuốc, nhân tiện chúng ta để lại đơn thuốc để khi Đỗ tiên sinh quay về xem có dùng được không? Những linh y kiểu này chỉ được cái dẻo mồm, bệnh không chữa được, ngược lại còn làm nặng thêm”.

Mộng Hàn lắc đầu: “Hay là đừng nên. Nếu Đỗ tiên sinh biết chúng ta tìm linh y xem bệnh, không tìm ông ấy, ông ấy chắc chắn sẽ tức giận. Hay chúng ta cứ mua hai thang, uống có hiệu quả thì tốt, không có hiệu quả thì chúng ta sẽ đi tìm Đỗ tiên sinh xem bệnh”.

Mị Nhi biết bệnh của mình là quái bệnh nên tâm trạng rối bời, không có chủ ý gì, nàng nghe xong liền gật đầu đồng ý.

Chương 161: Không mạch chắc chết

Mọi người phân biệt lên kiệu đi tới một ngôi nhà có tên “Viên Nhuận đường”. Trước tiên đưa cho đại phu tọa đường của dược phô này xem đơn thuốc.

Đại phu nọ họ Thang, hai mắt đã có dấu hiệu nhìn không rõ, cầm đơn thuốc giơ lên sát một hồi lâu mới lắc đầu hoảng sợ nói: “Đơn thuốc này là về Tứ nghịch thang, chính là quế chi thang biến pháp, có tác dụng ấm kinh tán hàn, hoạt thông mạch, chủ trì doanh huyết nội hư. Chủ vị là Đương quy, Quế chi là phụ, đối với ôn tý bất thông có tác dụng rất tốt. Ô đầu thang chủ trì các chứng bệnh về âm hàn, dương khí bị át, khí huyết ngưng trệ. Ma hoàng trong phương thuốc này có khả năng giải nhiệt, thông tý dùng cho các loại mạch tuyệt, hàn, cổ động dương khí để làm ấm kinh mạch!”

Thư Điệp hỏi: “Lão tiên sinh, có người nói đơn thuốc này trị liệu không mạch, nhưng có linh nghiệm không?”

“Không mạch? Cái gì không mạch?” Thang đại phu quay đầu nghi hoặc hỏi lại.

“Không mạch…chính là sờ không thấy mạch đó”.

“Cái gì? Sờ không thấy mạch? Ngay cả sờ mà cũng không thấy? Các ngươi là lang băm hả? Không biết mạch thì sao còn hành y?”

“Không phải là sờ không thấy, mà căn bản là không có mạch!”

Thang đại phu trợn mắt: “Không có mạch? Người nào không có mạch? Là ngươi?”

“Không, không…, ha ha, cũng chỉ tùy tiện hỏi thôi. Lão tiên sinh, nếu người không có mạch, liệu có phải là rất nguy hiểm không?”

“Nói nhảm! Chỉ người chết mới không có mạch! Huyết chi phủ dã, tâm chi hợp dã. Mạch chính là thông đạo để khí huyết vận hành, trong Linh xu quyết khí có nói mạch là huyết mạch, nhờ huyết mà sung, nhờ khí mà hành, nếu không có mạch tức là không có khí huyết. Thử hỏi người còn có thể sống sao?”

Thân thể Mị Nhi run lên, thiếu chút nữa té xỉu. Mộng Hàn vội vàng dìu đỡ nàng, hỏi tiếp: “Lão tiên sinh, người đang nói đùa sao?”

“Cô nương! Lão hủ này có nhàn rỗi đâu mà phải nói đùa với ngươi. Các ngươi có hiểu gì gọi là vi mạch không? Vi mạch giả tức là như có như không, nhẹ như không thấy, ấn mạch cũng rất khó nghe thấy mạch. Doanh huyết đại hư thì mạch tế, dương khí suy yếu vô lực thì mạch nhược, dẫn tới vi mạch, chánh khí hao tuyệt. Vi mạch đã là một chứng bệnh vô cùng nguy hiểm nói gì tới không mạch! Cho nên, vi mạch thì nguy hiểm tới tính mạng còn không mạch thì chết. Tuyệt đối không có chuyện may mắn ở đây!”

Mị Nhi lại một lần nữa tê cả người, muốn đổ rầm xuống sàn, giọng nói sàn nhược: “Vậy…một tay không mạch một tay vi mạch thì sao?”

“Đơn giản! Coi như cái mạng đã chết đi mười thành!”

Mị Nhi ngửa mặt lên rồi đột nhiên gục xuống, xem chừng đã ngất đi rồi. Thư Điệp, Mộng Hàn vội vàng ôm lấy.

Thang đại phu lại càng hoảng sợ: “Vị cô nương này làm sao vậy? Mau, mau đỡ nàng nằm xuống. Ấn vào huyệt nhân trung,…ở giữa mũi và miệng đó!”

Nhị nữ vội vàng giúp nàng ấn vào huyệt nhân trung như Thang đại phu nhắc nhở. Trong khi đó Thang đại phu đưa một tay xem mạch của Mị Nhi, đột nhiên ông ta há hốc mồm: “Ah! Sao lại không có mạch?”

Thư Điệp cười khổ nói: “Đúng vậy, muội tử này của chúng ta bị quái bệnh, một tay nghe không thấy mạch, tay kia mạch rất yếu!”

Thang đại phu cầm lại cổ tay Mị Nhi, lần nữa ngưng thần chẩn mạch, đem hai tay Mị Nhi đổi qua đổi lại, dò xét hơn nửa ngày rồi mới trừng mắt nói: “Thế gi­an quả thật có người không mạch sao?”

Mộng Hàn và Thư Điệp bấm huyệt một hồi lâu Mị Nhi mới tỉnh dậy nhưng vẻ mặt vẫn đầy lo lắng.

Thư Điệp lại hỏi: “Lão tiên sinh, lúc trước cho người xem đơn thuốc, liệu có trị được bệnh này không?”

“Ai cấp đơn thuốc này?”

“Ở ngoài phố phía trước có một vị linh y, chính người đó cho đơn thuốc này!”

Thang đại phu cầm đơn thuốc cẩn thận nhìn lại, vẻ mặt thoáng chút thay đổi, trở nên thoải mái hơn: “Ừm, rất đúng chứng bệnh,…dùng thuốc này,…có thể trị tốt bệnh của cô nương này!”

“Thật sao?” Mị Nhi vừa vui mừng lại vừa sợ hãi hỏi lại.

“Đúng vậy…” Nói lời này Thang đại phu lộ vẻ lo lắng đôi chút, nhưng rồi cũng dứt khoát gật đầu.

Tinh thần Mị Nhi lập tức trở nên tỉnh táo, lấy ra một túi tiền đưa vào tay Thang đại phu: “Đây là chẩn kim, cảm ơn ngài!”

Thang đại phu vội vàng đẩy túi tiền trở về: “Không, không, bệnh của ngươi không phải lão hủ xem, lão hủ vô công lại thụ lộc, cái này không được. Ngươi chỉ cần lấy thuốc trả tiền là được - tiểu nhị, mau lấy thuốc cho vị cô nương này!”

Tiểu nhị đáp ứng chạy lại lấy đơn thuốc.

Sau khi lấy được thuốc, Mị Nhi thanh toán tiền xong xuôi mới vô cùng hào hứng theo Thư Điệp và Mộng Hàn rời đi.

Nhìn bóng lưng các nàng đi xa, Thang đại phu thở dài, nhẹ nhàng lắc đầu.

Tiểu nhị của dược phô thấp giọng hỏi: “Tiên sinh, vậy đơn thuốc kia rốt cuộc có thể trị được chứng bệnh không mạch không vậy?”

Thang đại phu lại thở dài một tiếng: “Đơn thuốc này giống đa phần các đơn thuốc khác, dùng để trị chứng dương hư huyết nhược nhưng lại không trị được chứng không mạch này. Chỉ sợ chứng bệnh này thiên hạ không có thuốc trị, vị cô nương đó có thể sống tới bây giờ đã là một kỳ tích. Khuyết điểm của nàng chính là tuyệt chứng, thuốc này chỉ có tác dụng an ủi mà thôi!”



Tối hôm đó, Đỗ Văn Hạo mang vẻ mặt xám xịt trở về Ngũ Vị đường. Hắn cũng chẳng buồn chào hỏi mọi người, đùng đùng nổi giận đi thẳng vào bên trong, ngồi xuống ghế thái sư trong phòng mình, đầu cứ lắc lắc vù vù đầy vẻ hờn dỗi.

Bàng Vũ Cầm đi theo vào, thấy ánh mắt Đỗ Văn Hạo có chút không đúng cũng không dám hỏi nhiều, phân phó Anh Tử mang tới một chén trà thơm. Đỗ Văn Hạo tiếp nhận chén trà hầm hầm uống ực một cái cạn sạch rồi đặt mạnh cái chén không xuống bàn: “Quả nhiên là mấy con chó không biết nói tiếng người!”

Bàng Vũ Cầm ở một bên ghế thái sư, ngồi xuống thấp giọng hỏi: “Tướng công, làm sao vậy?”

“Cái lũ người ở thái y cục kia, mỗi người đều tưởng rằng mình là thần y, lỗ mũi hướng lên trời, hình như bước đi đều giống nhau chỉ thẳng vào cằm, vênh vênh tự đắc. Nói chuyện thì đâm đâm chọc chọc, không ngừng cạnh khóe ta. Nói là luận bàn y thuật nhưng chẳng khác gì cả lũ khảo thí ta. Bực mình không chịu được, ta bỏ ra cửa sau một mạch đi về đây!”

Bàng Vũ Cầm cẩn trọng hỏi lại: “Không phải là có Tiền Bất Thu cùng với Chiêm đại nhân cũng ở đó sao? Bọn họ cũng không nể mặt hai người đó?”

“Khi hai người kia ở đó, những kẻ này nói chuyện hoàn toàn khách khí, vâng vâng dạ dạ. Chiêm đại nhân sau khi đến chỉ uống vài chén rượu rồi cũng đi, Tiền Bất Thu thì có một bệnh nhân nguy kịch cũng phải đi ngay. Những kẻ kia từ lúc đó bắt đầu lộ ra bộ mặt thật, giả mù sa mưa thổi phồng khoác lác không thôi. Sau đó còn nói muốn theo ta luận bàn y thuật nhưng thực tế lại là khảo thí ta chỉ hỏi riêng một vài vấn đề cơ bản về y, lại còn nói ta thuyết tam đạo tứ, luân phiên chỉ trích giống như ta là một học sinh vậy. Hừ! Tức chết đi được!”

“Tiền Bất Thu không phải là Thái y thừa sao? Không xem mặt tăng cũng phải nhìn mặt phật, bọn họ dù sao cũng nên cho chàng một chút mặt mũi chứ?”

“Hừ! Phàm những người có thể đi vào thái y cục, có ai là không có vài phần bản lãnh đâu? Tục ngữ nói, văn không có đệ nhất, võ không có đệ nhị, đặc biệt trong nghề y này, làm gì có ai hoàn toàn phục người khác? Ngươi có thể trị bệnh này nhưng ta lại có thể trị bệnh khác, hầu hết các đại phu đều có tâm lý cùng lắm là kẻ tám lạng người nửa cân, cái chính là phải xem vận khí của ai tốt, may mắn trị được căn bệnh nào dễ nổi danh, nhất là gặp một vài bệnh nhân cũng là người nổi tiếng, quan cao chức trọng, khi đó thì chẳng mấy mà trở nên vang danh tứ hải. Cái gọi là y thuật cao lấn át thiên hạ thật sự có được mấy người? Tiền Bất Thu hào xưng thần y, tại Đổng Đạt huyện thì có thể, nhưng ở kinh thành này, thực bụng thì có mấy người phục hắn? Sau lưng hắn ai chẳng mỉa mai nói xấu, đều cho rằng hắn chẳng qua chỉ là vận khí quá tốt được Hoàng Thượng lựa chọn chữa trị cho Cửu Hoàng tử, lại vừa khéo làm sao hắn có thể chữa được chứng bệnh đó, khiến cho Cửu Hoàng tử khỏi bệnh. Với những người kia, cái này chỉ gọi là vận khí quá tốt, chó cũng hóa rồng, chứ khả năng so với người khác chẳng hơn là bao!”

Bàng Vũ Cầm gật đầu: “Đúng vậy, y giả vẫn luôn không phục người khác. Tướng công nếu không vui chi bằng không tới đó nữa, ở dược phô ngồi đường xem bệnh, tiêu diêu tự tại có phải hơn không?”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Không được! Chuyện này dù sao cũng là do Chiêm đại nhân tiến cử ta, nếu ngay ngày đầu tiên đã rút chạy thì còn mặt mũi nào mà gặp người ta nữa? Bản thân ta sau này cũng không còn mặt mũi nhìn ai ở kinh thành”.

Bàng Vũ Cầm nói: “Nói vậy thôi chứ dù sao đi nữa thiếp vẫn luôn tin tưởng, tướng công am hiểu Hoa Đà thần kỹ, nhất định có thể làm cho bọn họ phải cúi đầu khâm phục mà!”

Đỗ Văn Hạo cười khổ: “Tuy rằng nói thì là vậy nhưng hôm nay luận bàn cùng những người kia ta thật sự cảm giác thái y viện đúng là nơi quần long hội tụ. Mỗi thái y đều có chỗ độc đáo, nhiều thái y thiện về trị một vài loại bệnh làm thành một nhóm, mỗi nhóm này có thể nói đều là những thần y tài giỏi đứng đầu cả nước. Muốn đấu với họ, nói thật về phương diện lâm sàng chẩn bệnh ta có thể không thua nhưng cũng không nắm chắc phần thắng với bọn họ. Bất quá, ta lại biết nhiều tri thức y thuật mà bọn họ không biết, ta vốn nghĩ khi tới thái y viện sẽ mang hết bình sinh sở học của mình ra, không giấu diếm gì để truyền thụ lại cho họ. Tuy nhiên, những người này tựa hồ không thèm để ý tới y học của ta, suốt ngày chỉ chăm chăm xem thể diện của ta thế nào! Điều này khiến ta vô cùng thất vọng!”

“Vậy…, vậy…, phải làm sao bây giờ?”

“Không có việc gì, chuyện tới đâu hay tới đó, đi từng bước tính từng bước vậy. Mà thôi không nói chuyện này nữa, đầu năm không phải mọi chuyện đều suôn sẻ cả, mặc kệ nó đi. Hôm nay ta đi lâu như vậy, ở nhà có gì không? Sinh ý thế nào?”

“À, sáng nay có…một…, là hai vị tiểu thiếp của Trang đại nhân tới”.

“Ồ, các nàng tới làm gì? Sinh bệnh sao?”

“Không phải, là cái kia…, cái gì Mị Nhi bị bệnh, chính là cái gì…hoa khôi…của huyện thành đó…”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo chợt nhảy lên một cái: “Nàng ta bị bệnh? Bệnh gì hả? Có phải là chinh trọng (bệnh giật mình) không? Lần trước ta có xem qua nói rằng nàng ta có bệnh ở ngực, không thể tức giận, cũng không thể quá kích động, nếu không sẽ nguy hiểm tới tính mạng. Nàng ta hết lần này tới lần khác không nghe, giờ chắc cũng biết ta nói đúng rồi. Mà bệnh có nặng không?”

“Ta cũng không rõ lắm, bất quá, hình như sờ không thấy mạch?”

“Sờ không thấy mạch? Sao không xoa bóp rồi sờ kỹ thêm?”

“Không phải, bọn Diêm Diệu Thủ cũng xem và đều nói là sờ không thấy mạch!”

“Ha ha, quả thực là nực cười, người như thế nào lại có thể sờ không thấy mạch đây? Diêm Diệu Thủ này đúng là dong y, thùng rỗng kêu to mà!”

“Nhưng mà có đúng như vậy không? Không mạch thì thật sự không có cách nào trị sao?”

“Ừ, đúng vậy!”

Bàng Vũ Cầm có chút thương cảm, mặc dù nàng và Mị Nhi kia cũng chẳng có cảm giác gì nhưng mắt thấy một người sắp vì bệnh hiểm nghèo mà chết, tái cừu đại hận gì cũng không còn, nhẹ giọng hỏi: “Phu quân, vậy…có cách nào khác để cứu trị không?”

“Cứu trị gì hả? Không có mạch, là không có mạch nàng có hiểu không? Mạch là nơi máu lưu thông, không mạch đồng nghĩa với máu không lưu động trong mạch. Nàng thử nghĩà xem, máu không chảy thì làm sao có thể khiến cho các loại dinh dưỡng, vật chất được đưa tới các bộ phận trên cơ thể? Làm sao có thể nuôi sống cơ thể? Cho nên, người muốn sống khẳng định phải có mạch, không có mạch thì chắc chắn chết!”

Trong lòng Bàng Vũ Cầm nổi lên một trận khổ sở, nàng khổ sở thay Mị Nhi bởi nàng tin tưởng y thuật của tướng công nàng là cao nhất ở thế gi­an này, một khi hắn nói không cứu được thì chắc chắn người kia phải chết!

Đỗ Văn Hạo phát hiện sắc mặt Bàng Vũ Cầm có chút khác thường, ngạc nhiên nói: “Mị Nhi có thật là không thấy mạch?”

Bàng Vũ Cầm miễn cưỡng cười gượng: “Không không, ta đùa chàng thôi, người sao lại có thể không mạch được? Hôm nay tướng công tâm tình không tốt, chúng ta đi ngủ sớm một chút nhé!”

“Ừ!” Đỗ Văn Hạo gật đầu, hắn đích xác cảm giác rất không thoải mái, thầm nghĩ chỉ có thể nằm trong lòng thê tử mới có thể quên hết thảy mọi phiền não.

Chương 162: Thái y cục thụ khóa

Khi Đỗ Văn Hạo tới Thái y cục báo danh, phụ trách giáo học của Thái y cục an bài cho hắn nhiệm vụ thụ giáo (giảng dạy) học viên phong khoa ngoại xá (năm nhất).

Cơ cấu của Thái y cục hiện giờ giống như một đại học y quốc gia, chia làm ba hệ phân biệt là phương mạch khoa, châm khoa và hòa khoa tương đương nội khoa, châm cứu và ngoại khoa ở thời hiện đại. Ba hệ này lại phân biệt chia làm chín tiểu hệ hay chín chuyên khoa là đại phương mạch, phong khoa, tiểu phương mạch, sang thũng kiêm chiết thương, nhãn khoa, sản khoa, khẩu xi kiêm yết hầu khoa, châm kiêm cứu khoa, kim thốc kiêm thư cấm khoa. Mỗi chuyên khoa đệ tử ngoài việc học tập môn của mình còn có thể kiêm tu các môn khác. Chính vì vậy đời nhà Nguyên có câu “tam khoa thông thập tam sự” nhưng tại Tống triều chỉ là “cửu sự” mà thôi.

Đỗ Văn Hạo đảm nhiệm chính là thụ khóa chuyên khoa phong khoa. Do phong khoa là môn học về phương mạch cơ bản, đối với các y sinh ở đây cũng chỉ coi là một môn kiêm tu giống như một môn tuyển tu ở đại học hiện đại, so với các môn khác thực không được coi trọng bằng.

Vậy nhưng Đỗ Văn Hạo cũng không thèm để ý. Buổi sáng ngày thứ hai chính là buổi giảng đầu tiên của hắn, ở Thái y cục chỉ có các giáo thụ, tương đương giáo sư, mới được đưa đón bằng kiệu hoặc xe riêng, nói cách khác chỉ những giáo thụ mới có chuyên xa đưa đón còn các trợ giáo chỉ có thể đi công xa.

Cũng may bây giờ điều kiện của Đỗ Văn Hạo đã khá hơn nhiều, lần trước bán phương thuốc được hai mươi vạn lạng bạc trắng, hắn cũng không vì tiền mà phải rầu rĩ. Hắn cũng không muốn dùng kiệu, chỉ mua một con lừa nhỏ, hàng ngày dùng đi làm.

Thái y cục nằm cạnh Hàn y quan viện (tục xưng là Thái y viện - lời tác giả), kiến trúc về cơ bản giống với Thái y viện nhưng có một điểm bất đồng lớn chính là Thái y cục nằm trong phạm vi hoàng thành, có cửa nhỏ thông ra ngoài còn Thái y cục thì nằm ngoài phạm vi hoàng thành lại không có cửa thông với hoàng thành.

Đỗ Văn Hạo cưỡi lừa đi tới cửa, đưa cho môn vệ lệnh bài trợ giáo của mình, đợi hắn xem qua rồi lại giắt vào thắt lưng, tiến vào đại viện. Nơi này có mấy ngôi nhà trệt, mấy người như thái y cục trưởng (hiệu trưởng) cùng các phán cục (phó hiệu trưởng) mỗi người được phân một gi­an riêng. Các giáo thụ cùng trợ giáo các loại thì tùy theo khoa, theo hệ phân biệt được xếp vào hai gi­an nhà lớn. Mỗi người có một bàn làm việc riêng.

Đỗ Văn Hạo cũng có một cái bàn ở trong góc, hắn trước tiên gi­ao con lừa cho người hầu đem vào tàu ngựa rồi vén y bào tiến về chỗ làm việc.

Bên trong đã có khoảng chục bác sĩ, trợ giáo đang túm tụm bàn tán chuyện trò, tất cả đều làm như không thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào, cũng không ai chào hỏi hắn một tiếng. Đỗ Văn Hạo đương nhiên cũng không muốn chìa mặt mình vào chỗ mấy cái mông lạnh đó, tự mình lẳng lặng tiến tới bàn làm việc, lấy khóa bổn (giáo án) ra xem.

Các loại sách vở, giáo án này đều là các khắc bản in ấn, phân đoạn đều không có đề mục, tiêu điểm. Những câu chữ trọng yếu thì dùng chữ to, phần giải thích nội dung thì dùng chữ nhỏ. Đỗ Văn Hạo mặc dù đi tới Bắc Tống này đã được nửa năm cũng đã xem những bộ sách kiểu như thế này khá nhiều, nội dung chỉ lướt qua là hiểu hết, liền ném qua một bên, trầm tư ngẫm nghĩ xem lúc nữa sẽ nói cái gì.

Không bao lâu sau tiếng mõ báo hiệu giờ học vang lên.

Đỗ Văn Hạo cầm cuốn bài giảng, đang vén y bào đi ra tới cửa thì gặp một người, chính là phụ trách giáo vụ của Thái y cục Phán cục Phan Quốc Kim.

Phan phán cục mỉm cười với Đỗ Văn Hạo rồi chắp tay nói: “Đỗ tiên sinh hôm nay là ngày đầu tiên thụ giáo, đồng liêu trong cục hết sức ngưỡng mộ y thuật của tiên sinh, vừa rồi có một số người muốn nghe tiên sinh giảng bài, chúng ta sau khi thương lượng đều cho là ý hay, không biết tiên sinh có đồng ý không?”

Đỗ Văn Hạo phát hiện khóe miệng Phan phán cục có một tia tiếu ý, nhớ tới tiệc rượu hôm qua, tên này đối với mình luôn nói chuyện theo kiểu âm dương quái khí. Bây giờ đột nhiên lại nghe thấy chiêu thức này, hiển nhiên hai năm rõ mười là hắn đang bày trò, lập tức cười nhạt bình thản đáp: “Đại nhân cũng đã đồng ý rồi, ta còn có thể có ý kiến gì khác sao?”

“Cũng có chuyện này nữa. Đệ tử ất đại ban nghe nói tiên sinh am hiểu thần kỹ Hoa Đà, cũng muốn nghe một chút tiên sinh giảng bài, cho nên ta đã quyết định thay đổi một chút. Buổi sáng bốn cá ban cùng nghe giảng một lượt, tiên sinh có đồng ý không?”

Ngoại xá (năm nhất) có hai trăm đệ tử phân ra bốn tiểu ban, hai tiểu ban tạo thành một đại ban. Những người kiêm tu hai tiểu ban lập thành một thượng ban, hai tiểu ban còn lại lập thành một lớp lớn. Cái này cũng chính là các ban cùng tiến, cùng ganh đua với nhau. Thông thường chỉ có hai tiểu ban cùng học, chuyện hai đại ban học với nhau xưa nay rất hiếm. Trong quá khứ chỉ có những vị thái y đức cao vọng trọng của Thái y viện mới được mời giảng những lớp đông người như vậy. Bây giờ đối với Đỗ Văn Hạo một đại phu trẻ măng xuất thân từ linh y, chẳng có bằng cấp chứng chỉ gì mà sắp xếp như vậy hiển nhiên không vì hắn đức cao vọng trọng, chuyện muốn đưa hắn làm trò cười cho thiên hạ tự nhiên ai cũng hiểu. Đỗ Văn Hạo lại càng rõ ràng.

Bất quá, kẻ tài cao thì gan cũng lớn, hơn nữa cùng lắm thì không làm trợ giáo nữa, trở về tọa đường chẩn bệnh cũng được, cho nên cũng chẳng có gì phải lo. Nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo lại bình thản cười nhạt: “Vậy sao? Nếu muốn nghe, gọi thêm vài người đến cũng có gì đâu?”

“Thật không vậy?” Phán cục họ Phan hai mắt lấp lánh, “Nếu vậy hay là để cả nội xá cùng thượng xá đệ tử tới nghe hết? Lại còn có các vị cục trưởng, phán cục, các vị giáo sư cũng muốn nghe, không biết tiên sinh cảm thấy thế nào?”

Đỗ Văn Hạo cảm giác như bị hí lộng, nhưng hắn tuyệt đối không vì bị khích bác vậy mà khuất phục, lập tức ngang nhiên nói: “Tùy tiện! Cứ theo đại nhân an bài!”

Phan phán cục có vài phần đắc ý, háo hức chờ xem náo nhiệt, các bác sĩ, trợ giáo khác nghe thấy vậy đa phần cũng đều hết sức phấn khởi, xoa quyền lau chưởng phấn chấn hết sức. Phan phán cục cười nói: “Nếu như vậy ta sẽ đi xin ý kiến cục trưởng một chút xem ngài có thể sắp xếp tới nghe được không”.

Nói rồi xoay người đi luôn.

Đỗ Văn Hạo khẽ lắc đầu, quay lại liếc nhìn qua vẻ mặt hả hê của các đồng liêu trong phòng, hừ nhẹ một tiếng, thẳng lưng đi ra cửa.

Một lão nhân tóc bạc chậm rãi đi theo ra ngoài cửa, tới bên Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đỗ tiên sinh, lão hủ là Phó Bác”.

“Phó tiên sinh, có gì chỉ giáo?” Đỗ Văn Hạo thấy lão nhân này vừa rồi cũng tại nơi đây thầm thì nói cười với những người khác trong cục nên ngôn ngữ có chút không khách khí.

Phó Bác nhìn Đỗ Văn Hạo một cái, nhẹ nhàng lắc đầu rồi thấp giọng nói: “Đỗ tiên sinh, Thái y viện đích xác có một vài quy củ ngươi có thể không rõ, vốn ngày hôm qua muốn nhắc nhở ngươi một chút nhưng ngươi lại bỏ về sớm. Ngươi dù sao cũng là người mới đến, lại còn trẻ tuổi, lão hủ thực sự không đành lòng nhìn ngươi xuất sửu lộ quai (ý nói huyênh hoang mà lộ ra cái xấu), cho nên muốn nhắc nhở ngươi một chút.”

“Xin mời chỉ giáo!”

“Tiên sinh năm nay bao nhiêu tuổi?”

Đỗ Văn Hạo không rõ tại sao tự nhiên lão ta lại hỏi chuyện này, thuận miệng nói: “Ngoài hai mươi!”

Phó Bác cũng không thèm để ý sự lãnh đạm của Đỗ Văn Hạo, gật đầu: “Ừm, tiên sinh cũng biết, để có thể trở thành đệ tử của Thái y cục đều phải thông qua khảo hạch nghiêm khắc, những người trúng tuyển đều là đã có kinh nghiệm hành y, tuổi đời ít nhất cũng ngoài ba mươi!”

“Ồ…?” Đỗ Văn Hạo có chút giật mình, ngày hôm qua hắn cũng gặp qua vài người, bây giờ mới biết được, y sinh đều là các y giả ưu tú khắp nơi được tuyển về, nguyên lai mình lại sắp giảng dạy cho các lão đệ tử.

Phó Bác lại nói: “Tại y viện cho dù là các giáo sư, trợ giáo, tuổi ít nhất cũng là ngoài bốn mươi, đa phần đều là năm mươi, sáu mươi, những người bảy mươi tám mươi cũng không hiếm!”

Đỗ Văn Hạo giờ mới rõ ràng, những người kia đều là lão sư phụ, tuổi tác đều rất cao, danh vọng y đức cũng cao, khó trách họ khó có thể tiếp nhận đồng hành với một tiểu hài tử nhỏ hơn cả y sinh đệ tử. Làm sao họ có thể tâm phục khẩu phục đây?

Phó Bác lại nói: “Kỳ thật, việc tham gia nghe giảng lẫn nhau cũng không phải là điều gì đặc biệt chỉ nhắm vào ngươi, tất cả tân đại phu tới đây đều đã từng được phán cục đại phu an bài t nhiều nghe thụ khóa của người khác. Nhìn kỹ một chút, việc này chỉ nhằm cho đồng liêu mở rộng thêm kiến thức, y thuật, lấy trường bổ đoản, tham khảo lẫn nhau, ngoài ra không có ý tứ gì khác!”

Đối với việc nghe khóa (nghe giảng) Đỗ Văn Hạo không sợ, mặc dù hắn chưa từng làm qua nghề giảng dạy này nhưng hắn vẫn có nhiều phần tự tin. Cái hắn khó chịu chính là tự nhiên bị tập kích, hơn nữa cảnh ngộ hôm qua làm cho hắn không nuốt trôi được. Nghe tới đây hắn liền bĩu môi cười nói: “Có đúng vậy không?”

Phó Bác nói: “Nhìn ngươi tuổi còn trẻ, lại vừa mới tới đây, lão cũng chỉ là có ý tốt nhắc nhở một câu, nhẫn nại một chút thì gió êm sóng lặng, lùi một bước là hải khoái thiên không! (biển rộng trời thoáng)”

“Có ý tứ gì?”

“Tiên sinh có thể không biết, thái y cục cho phép trong quá trình thụ khóa tùy tiện đều có thể chất vấn!”

“Cái này ta biết, bất cứ một giáo học này đều cho phép đệ tử chất vấn, sợ đệ tử chất vấn tuyệt đối không phải là sư phụ tốt!”

Phó Bác nhất thời như muốn mắt hoa miệng cứng, tròn mắt nhìn Đỗ Văn Hạo một cái: “Tiên sinh quả thật là người có dúng khí, xem gia lão hủ đã lắm miệng rồi!” Tay áo bào phất một cái xoay người bỏ đi trước.

“Phó tiên sinh xin đợi một lát!” Đỗ Văn Hạo nghe tới lúc này đã phát hiện ra lão nhân kia thực sự là muốn giúp mình, vội vàng gọi lại, chắp tay xin lỗi, “Đa tạ tiên sinh hảo ý nhắc nhỏ, vừa rồi vãn sinh nói chuyện không phải, xin tiên sinh thứ lỗi!”

“Đâu có, đâu có!” Phó Bác xoay người, cười cười “Nghe khóa vốn là bình thường, nhưng tiên sinh lại yêu cầu toàn cục đệ tử cùng tới nghe, thậm chí lại còn muốn cả cục trưởng đại nhân cùng chư vị giáo thụ cũng đến không khỏi khiến người khác có một cảm giác cuồng vọng. Một lát nữa khi lớp học bắt đầu, sẽ không chỉ có chuyện đệ tử chất vấn, các sư phụ ở bên cạnh cũng sẽ tham gia chất vấn, phỏng chừng khi đó sẽ có rất nhiều vấn đề không tưởng tượng nổi, thậm chí có thể vượt qua hiểu biết của y thuật hiện tại, tiên sinh cần phải chuẩn bị sẵn sàng!”

Những người này sẽ nói về vấn đề dạng gì? Đỗ Văn Hạo đoán không được, nghĩ cũng không ra, cảm thấy có chút khẩn trương, dù sao đi nữa một khi có thể tiến vào Thái y cục làm sư phụ, kiến thức tuyệt đối không cạn, mình ngàn vạn lần không thể khinh thị, hơn nữa, sở học của chính mình đa phần không nằm ở tri thức trước Tống triều này, chỉ ợ theo thói quen thành thuận miệng, nói ra bị người khác coi như sai lầm trào phúng. Chỉ nguyên việc bản thân mình không tìm được lý do thích hợp để giải thích cho các biện luận của bản thân đã đủ tính là phiền toái lớn rồi. Lão tiên sinh này dù gì cũng là có hảo ý nhắc nhở, khuyên nhủ hắn cẩn thận tìm đối sách, hắn vội vàng chắp tay thi lễ: “Đa tạ Phó tiên sinh kim ngọc lương ngôn, vãn sinh tài sơ học thiển, chỉ sợ trả lời không ổn làm mất đi sư đạo tôn nghiêm, xin nhờ tiên sinh chỉ điểm!”

“Ha ha!” Phó Bác đối với thái độ của Đỗ Văn Hạo cảm thấy rất hài lòng, vuốt chòm râu bạc cười sảng khoái: “Có hai điểm ngươi phải nhớ kỹ, thứ nhất, Thái Y cục sẽ không vì giữ gìn sư đạo tôn nghiêm mà ủng hộ các sư phụ thụ khóa sai lầm. Ngồi nghe sư phụ, nếu đệ tử thấy sai đều có quyền giơ báo, một khi cấp trên biết rồi, nhẹ thì phê bình tại chỗ, nặng thì phạt đuổi về quê! Những người bị đuổi ra khỏi Thái y cục từ nay về sau không bao giờ được hành nghề y nữa!”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo rùng mình, chắp tay nói: “Vậy phải làm thế nào?”

“Muốn tránh phạm phải sai lầm, khi thụ khóa nói về những vấn đề mà mọi người đều biết, tuyệt đối không vì sĩ diện mà ba hoa, chỉ nói về những vấn đề không có định luận, dễ bị mọi người bắt được nhược điểm!”

Đỗ Văn Hạo liên tục gật đầu, chắp tay nói: “Lão tiên sinh nói cực kỳ chí lý! Còn điểm thứ hai là gì?”

“Nếu đã trót lỡ nói gì đó sai lầm, tuyệt đối không được cưỡng từ đoạt lý, phải thừa nhận sai của mình. Nhìn chung mọi người đều không quá làm khó mỗi khi sư phụ nhận sai. Bất quá, lúc này đây ở trường hợp của tiên sinh các giáo sư cùng cục trưởng đại nhân ngồi nghe, đa phần đều vì biểu hiện bản lãnh của chính mình chắc chắn sẽ cố ý làm khó dễ tiên sinh, sợ rằng sẽ không dễ dàng buông tha bất cứ một điểm sai lầm nào của tiên sinh! Cho nên với ngươi giáo khóa càng phải cẩn thận hơn!”

Chương 163: Buổi dạy đầu tiên

Nghe tới đây Đỗ Văn Hạo thực sự có chút hối hận, vừa rồi đúng là mình có hơi xúc động. Giờ đây tự mình đưa mình vào thế khó, chuẩn bị đối trận với ba trăm đệ tử, lại còn đánh với mấy chục giáo sư, bác sĩ cùng trợ giáo. Nhưng quan trọng là còn có mặt của Thái y cục cục trưởng đại nhân, hắn đã biết cục trưởng Hà Hi Hà đại nhân mặc dù cấp bậc hạn chế, chỉ là quan lục phẩm nhưng là một trong những người được Hoàng thượng phong là thiếp thân ngự y, cực kỳ sủng tín, thường xuyên xuất nhập hoàng cung, nổi danh cả nước, danh vọng còn trên Tiền Bất Thu rất nhiều, chỉ sợ càng khó ứng đối. Bất quá bây giờ đã cưỡi lên lưng cọp rồi, muốn gì cũng chỉ có thể kiên trì tới cùng mà thôi.

Một lát sau Phan phán cục trở về, nghiêm mặt lạnh nhạt nói: “Hà đại nhân có chuyện quan trọng sẽ không tới nghe, nói để chúng ta nghe là được rồi. Các giáo thụ cũng đều có chuyện quan trọng không thể đến được. Đi thôi!”

Trong lòng Đỗ Văn Hạo âm thầm thở phào nhẹ nhõm, cũng cố gắng cảm kích cục trưởng đại nhân cùng mấy vị giáo thụ kia, mặc dù không gặp nhưng có thể thông cảm với mình, lần đầu tiên đi giáo khóa khẩn trương nên không tới xem náo nhiệt. Tâm tình nhất thời dễ dàng hơn không ít.

Đỗ Văn Hạo cầm theo giáo án, đi cùng với nhất bang bác sĩ cùng các trợ giáo đi tới thụ khóa đại sảnh.

Đại sảnh này rất lớn, ở trong có rất nhiều cây cột, hai bên là vô số cửa sổ, trong phòng có chút hôn ám. Giờ phút này ở đại sảnh cả ba trăm đệ tử tề tựu ngồi trên những hàng ghế dài. Phía trước có hai hàng ghế dành cho các vị thái sư y cùng các sư phụ nghe giáo khóa ngồi. Từ cách bố trí đại sảnh này cho thấy Phó Bác nói cũng không có gì không đúng, hiển nhiên tại Thái y cục chuyện nghe giáo khóa lẫn nhau là rất phổ biến. Hai mươi ba vị bác sĩ cùng với trợ giáo lần lượt ngồi xuống vị trí của mình.

Đỗ Văn Hạo bước chậm rãi lên bục giảng, đưa mắt nhìn quanh một lượt chỉ thấy hàng đầu đều là những người râu mép dài lê thê, hơn quá nửa đều là râu tóc bạc phơ nhưng thần sắc ai cũng vênh vênh váo váo kiêu ngạo không thôi. Phía sau cũng chỉ nhìn thấy những mái tóc đen có, trắng có nhấp nhô trùng điệp.

Ở đây có một điều có thể khẳng định ngay, chính mình tuyệt đối là người trẻ tuổi nhất trong số mấy trăm người ngồi đây. Thế nhưng trẻ nhất lại trở thành người giáo khóa cho tất cả những người già cả, những đại lão tiên sinh cùng thần y tứ phương.

Đỗ Văn Hạo bắt đầu nói, đơn giản chỉ là giới thiệu bản thân trước, một hồi sau đó mới thấp giọng: “Các vị đồng nhân, bắt đầu từ hôm nay ta phụ trách thụ khóa thượng phong khoa cùng mọi người. Trong quá trình ta thụ khóa nếu có gì nghi vấn xin giơ tay chất vấn, đừng câu nệ!”

Cả sảnh đường im ắng, có một vài người thầm thì nhưng chưa ai tỏ rõ thái độ gì, tất cả đều thừ người ra mà chờ đợi.

Vào chánh đề, Đỗ Văn Hạo hỏi: “Có ai biết gì về phong khoa không?”

Không sai biệt lắm chỉ có hơn phân nửa cánh tay giơ lên. Chỉ riêng điểm này thôi cũng đủ khiến cho người ta trào lên một cảm giác tức giận.

Đỗ Văn Hạo tiện tay chỉ một đệ tử mập mạp ngồi ở khu giữa.

Đệ tử nọ đưa tay vuốt vuốt ba chòm râu cất cao giọng: “Dịch viết vạn vận có cong có thẳng, mạc tật hồ phong là cảm giác chi thâm, da thịt cảm giác sâu nông, đạt đến cốt tủy. Cảm giác tùy lúc có thể tốt nhưng trong lòng sợ hãi, trí giả mà không động não được. Thượng cổ thánh nhân cho tới thần y hiện nay đều gọi cái này là tặc phong. Bệnh liên quan tới phong (gió) có hàng trăm loại trăm dạng nhưng đồng loại đều là phong giả chi thủy, liên quan tới nước…”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Được rồi, không cần nói những điều này nữa. Tốt lắm! Chứng này gọi là phong hàn hay phong tà. Phong tà khinh dương thì thượng phù, thời tiết thay đổi mà trở nên mạnh bạo. Khuyết điểm đa phần biểu hiện ra trên mặt. Mũi thì tắc, ra dịch, miệng khô, họng rát, đầu đau mắt mỏi. Ác phong khiến bệnh nặng thêm, người nóng, mồ hôi xuất nhiều. Mặt khác, phong tính thiên biến, bệnh trạng thay đổi không ngừng, phong tà theo đó cũng biến chuyển khó đoán…”

Đang nói tới đây đột nhiên có một đệ tử mập mạp khác giơ tay có ý muốn phát biểu. Sau khi được phép, người này lên tiếng: “Xin hỏi tiên sinh, vì sao nói ‘phong vi bách bệnh trì trường’?” (ý nói cảm hàn trăm loại bệnh cứu trị lâu dài khó khăn)

Đỗ Văn Hạo trả lời: “Hỏi rất hay. Những lời này ý muốn nói tới lục dâm. Phong vi bách bệnh chi trường, nói cách khác, phong tà chính là bệnh mà nguyên nhân chính yếu xuất phát từ bên ngoài. Tố vấn không luận có viết phong giả, bách bệnh chi thủy dã…”

Người đệ tử kia vội nhấc tay lên tiếng: “Tiên sinh, đạo lý đó chúng ta cũng hiểu, có thể hay không nói cụ thể hơn một chút, vì sao gọi là phong vi bách bệnh chi thủy?”

“Được!” Đỗ Văn Hạo cũng lộ vẻ tức giận, cao giọng nói: “Vị học viên này trả lời rất khá, hỏi cũng rất hay, bây giờ nói lại về vấn đề lục dâm hay còn gọi là lục khí. Trong sáu loại khí này, phong đứng đầu, có thể công phá mạnh hơn toàn bộ năm yếu tố còn lại. Tuy nhiên, phong chứa nhiều hiểm họa gây bệnh nhưng có những bệnh hoàn toàn không phải do phong, không liên quan tới phong mà triệu chứng lại hoàn toàn giống phong…”

(Dịch giả: Lục dâm ở đây chính là lục khí: Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa)

Người đệ tử kia lại giơ tay nói: “Tiên sinh, có thể dẫn chứng cụ thể hơn không?”

“Tốt lắm!” Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn thấy nhóm đệ tử phụ khoa, thuận miệng nói luôn: “Ví dụ như phụ nhân hậu sản bị trúng phong. Có y điển nói rằng sản phụ sau khi sinh khí huyết chưa hết, phong tà trung chi, nhập vào kinh lạc thì phát…”

Một bác sĩ y học ngồi hàng đầu lạnh lùng nói: “Đỗ tiên sinh, có thể nói rõ y thư nào viết rằng sản phụ sau khi sinh trúng phong cùng với phong tà không có quan hệ không?”

Đỗ Văn Hạo không quen thuộc nhiều với việc chất vấn như vậy trên giảng đường, vốn không muốn để ý tới lại nhớ lời Phó Bác dặn dò, nhẫn nại nhất thời gió êm sóng lặng, thản nhiên nói: “Mặc kệ như thế nào, sản phụ sau khi sinh trúng phong cùng với phong tà không có quan hệ gì, ngay cả khi đóng chặt bốn cánh cửa sổ cũng khó tránh phong tà vào cơ thể!”

Một trợ giáo lên tiếng: “Xin hỏi tiên sinh, cái này là vì sao?”

“Bởi vì sản phụ cảm thụ chi tà, thường không vì phong tà ngoại cảm, mà là phong tà từ nội thể”.

Lời vừa nói ra, mọi người ở dưới đều xôn xao, nhất thời nghị luận nổi lên.

Đỗ Văn Hạo vẫn lãnh đạm.

“Nếu không tin, chư vị có thể ngẫm lại, các ngươi chẩn sát sản phụ, có hay không đều thấy rằng người bệnh đều ở trong phòng kín gió sao? Nhưng mà, vì sao những sản phụ đó trước sau vẫn có những triệu chứng giống như trúng phong?”

Có mấy đệ tử giơ tay lên định nói nhưng rồi ngay sau đó lại thu tay về, vấn đề này rất đơn giản, nhưng tinh tế cân nhắc một chút sẽ thấy Đỗ Văn Hạo nói cũng rất có đạo lý, rất thời không thể nào giải thích được.

Đúng lúc này Đỗ Văn Hạo đột nhiên phát hiện ngoài cửa sổ có hai nữ tử đang cố gắng hướng tới hắn ra hiệu. Nhìn kỹ một chút hắn nhận ra đó chính là hai tiểu thiếp Thư Điệp và Mộng Hàn của Trang Huýnh Mưu.

Thấy ánh mắt hắn có chút lạ lùng, nhiều đệ tử trong đại sảnh cũng quay đầu hướng ra ngoài nhìn theo. Ai cũng ngạc nhiên nhìn hai nữ tử nọ, chỉ là hai người này trong ánh mắt lộ rõ sự vội vàng, tựa hồ có chuyện gì rất khẩn cấp muốn thương lượng cùng Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo đột nhiên nhớ tới buổi tối hôm trước Bàng Vũ Cầm nói chuyện Mị Nhi không có mạch. Ngày hôm qua hắn vẫn không để ý chuyện này, giờ đây nhị nữ xuất hiện mà Mị Nhi lại chính là muội tử kết nghĩa của hai nàng, không chừng Mị Nhi xảy ra vấn đề rồi!

Đỗ Văn Hạo cười gượng nói với mọi người: “Rất xin lỗi! Ta sẽ lập tức quay lại ngay!” Rồi vội vàng chạy ra khỏi đại sảnh tới chỗ hai nàng.

Thư Điệp vội vàng chào đón hắn, gấp giọng nói: “Tiên sinh, ngươi phải mau đi cứu Mị Nhi!”

“Mị Nhi làm sao vậy?”

“Nàng…, nàng muốn xuất gia!”

“Xuất gia? Tại sao?”

“Không có thời gi­an nói đâu, tiên sinh mau đi xem một chút đi, không chừng bây giờ Mị Nhi đã xuống tóc xong rồi!”

“Hả? Ở nơi nào?”

“Ngoài thành, Thập Lý am”

Đỗ Văn Hạo gấp giọng nói: “Được, chờ một chút, để ta sắp xếp!” Hắn mau chóng chạy về đại sảnh cười cười xin lỗi mọi người: “Các vị, thật vô cùng xin lỗi, muội tử của ta xảy ra chuyện nghiêm trọng, ta phải lập tức chạy về xem, cho nên khóa hôm nay tạm thời dừng ở đây, đợi ngày mốt ta có khóa, hoan nghênh các vị lãnh đạo đồng liêu cùng các học sinh phê bình chỉ giáo!”

Vài câu nói cho hết lời, căn bản không đợi xem giữa sân có bao nhiêu người nhao nhao phản ứng, Đỗ Văn Hạo thậm chí còn không kịp cầm giáo án về, một mạch chuồn ngay ra đại sảnh bỏ đi.

Ba người chạy ra trước cửa có một chiếc xe ngựa to, Thư Điệp cùng Mộng Hàn vì thời gi­an gấp gáp ngay lúc trước đã tùy thời chuẩn bị.

Đỗ Văn Hạo hiển nhiên chẳng muốn cưỡi con lừa chậm chạp của mình, theo nhị nữ lên xe ngựa rời Thái y cục.

Đỗ Văn Hạo thực ra lúc này cũng không biết tại sao mình lại nghe lời hai người kia. Bất quá là gia quyến của quan nếu như không phải có chuyện đặc biệt trọng yếu, họ đương nhiên biết không nên đến tìm Đỗ Văn Hạo tại Thái y cục vào đúng ngày thụ khóa đầu tiên của hắn.

Chính vì vậy, Đỗ Văn Hạo cũng mặc kệ đang trong lúc giáo khóa, vội vàng lên xe theo hai người ra roi nhắm thẳng ngoại thành mà đi.

Trên đường, bình tĩnh lại một chút, Đỗ Văn Hạo mới hỏi: “Hai vị cô nương, đến tột cùng là có chuyện gì xảy ra?”

Thư Điệp nói: “Đỗ tiên sinh, chuyện Mị Nhi không có mạch người đã biết rồi đúng không?”

Đỗ Văn Hạo thất kinh: “Mị Nhi thực sự là không có mạch?”

“Đúng vậy, tay trái căn bản sờ không thấy mạch, Diêm Diệu Thủ Diêm đại phu, Hàm Đầu đại phu, còn có tôn phu nhân mấy người bọn họ đều xem qua, cũng đều không tìm được mạch tượng! Đương nhiên bên tay trái tìm không được nhưng tay phải lại có ba động rất yếu ớt!”

Đầu Đỗ Văn Hạo có chút kêu ong ong, làm sao lại có thể gặp hiện tượng này ở thời điểm hiện nay? Lại hỏi tiếp: “Thế vì sao nàng ta lại muốn xuất gia?”

“Ngày hôm qua khi chúng ta đi tìm Đỗ tiên sinh ngài nhờ xem bệnh, nhưng không gặp ngài ở đó, trên đường trở về chúng ta gặp một lão linh y, nhìn qua nói rằng Mị Nhi bị đau nhức ngực, nàng ta cũng tin lão, để cho lão chẩn bệnh, lại còn trả cho lão một cái vòng tương đương năm mươi lạng bạc làm tiền chẩn kim. Lão ấy xem rồi nói rằng bệnh của Mị Nhi ngoài lão ra không ai có thể trị liệu, đổi lại là người khác chắc chắn Mị Nhi phải chết!”

Đỗ Văn Hạo cười nhạt: “Có đúng không vậy? Lão linh y này nếu trị được bệnh cho Mị Nhi, vậy nàng ta còn đi xuất gia làm gì?”

“Không đúng như vậy, lão linh y kia đã lừa chúng ta!” Thư Điệp thở hổn hển nói, “Ngày hôm qua sau khi lão cho chúng ta đơn thuốc, chúng ta liền đi tới một dược phô có tên là Viên Nhuận đường mua thuốc, nhân tiện hỏi đại phu tọa đường họ Thang ở đó về đơn thuốc kia. Thang đại phu khi đó cũng đã nói rằng đơn thuốc này dùng được, phù hợp với bệnh của Mị Nhi, chúng ta lúc đó cũng thấy ánh mắt Thang đại phu có gì đó là lạ nhưng không để ý. Về sau cân nhắc lại một chút thấy không hợp lý nên sáng nay quay trở lại tìm Thang đại phu hỏi thêm, nhưng người này đã xuất chẩn từ sáng sớm, chúng ta ngồi đợi rất lâu trong đường vẫn không thấy về. Tiểu nhị thấy chúng ta đợi lâu mới nói thật,…hắn nói rằng Thang đại phu hôm qua sau khi chúng ta đi có nói chứng bệnh này của Mị Nhi thực tế không có thuốc trị, phương thuốc đó Thang đại phu cũng chỉ là muốn an ủi Mị Nhi thêm một đoạn thời gi­an nữa mà thôi, thật ra nàng ta nhất định phải chết!”

Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Không mạch đích thật là nguy chứng không thể trì, nhưng thật ra vẫn còn có thể cứu được!”

“Có đúng không vậy?” Nhị nữ giãy nảy lên vừa vì vui mừng nhưng lại vừa sợ hãi, “Tiên sinh người có thể trị sao?”

“Cái này cũng khó mà nói được, muốn gì cũng phải để chẩn sát xong đã!” Đỗ Văn Hạo cười khan hai tiếng, lại hỏi tiếp, “Nàng ta nghĩ thế nào mà lại muốn xuất gia?”

“Tiểu nhị của Viên Nhuận đường kia nói nếu như nguyện ý thanh tâm bỏ dục thì có thể duy trì trong mấy tháng, còn không chứng bệnh này sẽ phát tác rất nhanh”.

“Vì vậy nàng ta mới quyết định xuất gia?”

“Ừ, đúng như vậy. Mị Nhi vừa nghe được lời này, khóc lóc hồi lâu rồi theo xe đi ra khỏi thành. Chúng ta khuyên nhủ mãi không được, chỉ biết đi theo nàng, phát hiện nàng vào Thập Lý am nên vội vàng chạy tới tìm tiên sinh!”

Chương 164: Sản hậu trung phong

Bọn Đỗ Văn Hạo đi tới một ngọn núi nhỏ ở ngoài thành. Trên ngọn núi này có một tòa am nhỏ của các ni cô tên là Thập Lý am. Thông lộ tới am này không có, chỉ có thể đi bộ lên núi mà thôi.

Ba người chạy hồng hộc một hồi tới được cửa am. Chỉ thấy trước mặt là một gi­an đại điện cũ nát, Mị Nhi đang rơi lệ quỳ trước một lão ni cô trên mặt đầy nếp nhăn, trong tay cầm một con dao nhỏ đang phát lạc cho nàng.

“Chờ một chút!” Đỗ Văn Hạo kêu lên.

Mị Nhi xoay người lại, nhìn thấy Đỗ Văn Hạo nước mắt tuôn rơi: “Ca…”

Đỗ Văn Hạo thở hổn hển mấy hơi cho lại sức rồi nói: “Ngươi chỉ là vì chứng không mạch, tưởng rằng không thể trị được nên mới muốn xuất gia đúng không?”

“Ân…, nếu không trị được, đằng nào cũng chết, muội muốn trước khi chết được bình tâm một chút…”

“Được, vậy để ta chẩn mạch cho ngươi đã, xem nếu thật không thể trị được ta sẽ không ngăn trở ngươi, nếu có thể trị, ngươi theo ta về chữa bệnh, được không?”

Mị Nhi gật đầu, quỳ đứng lên cười nhẹ xin lỗi lão ni cô rồi ngồi xuống ghế bên cạnh. Đỗ Văn Hạo cũng tiến tới ngồi lên một chiếc ghế khác, cầm tay của nàng ngưng thần chẩn mạch.

Một lúc lâu, Đỗ Văn Hạo hỏi: “Lúc trước linh y nọ cho ngươi phương thuốc gì?”

“Ở đây!” Mị Nhi lấy đơn thuốc từ trong lòng ra đưa cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo tiếp nhận, nhìn kỹ rồi khẽ gật đầu, lại hỏi: “Vậy lão linh y kia đã nói những gì?”

Mị Nhi có trí nhớ rất tốt, nàng thuật lại một hồi tất cả những gì lão linh y kia đã nói.

Đỗ Văn Hạo nghe những lời của linh y kia nói rằng bệnh này cả thiên hạ chỉ mình hắn có thể trị thì cười: “Lời này của lão đúng là có chút khoa trương, ta vốn tưởng rằng bệnh này của ngươi là tâm tý, nếu như vậy thì vô cùng phiền toái, chỉ sợ điều kiện y liệu hiện nay không thể trị hết. Nhưng vừa rồi chẩn mạch mới thấy rằng, chứng bệnh này của ngươi đích xác chỉ là mạch tý, lão linh y kia nói cũng không sai, đơn thuốc ôn kinh hoạt huyết, thông mạch của lão cũng là đúng chứng bệnh chỉ phải cái quá nhẹ, không công hiệu được. Vẫn với thang thuốc này, gia giảm thêm ma hoàng, hồng hoa, xích thược, đan tham, thêm cả đàm hoạt huyết, kiêm thông tác dụng trị mạch lạc, cứ như vậy chắc chắn sẽ công hiệu!”

Đôi mắt đẹp của Mị Nhi vẫn long lanh nước, sụt sịt mỉm cười: “Ca, bệnh này của tiểu muội có thật là có thể trị không? Ngươi không cần phải lừa dối ta!”

“Đương nhiên là có thể trị được, ta không có lừa ngươi. Bệnh này của ngươi không những có thể trị mà còn có thể trị dễ dàng bởi đây cũng chỉ là gi­ai đoạn ban đầu. Ta dám cam đoan trong vòng mấy ngày bệnh trạng của ngươi sẽ thay đổi tích cực rõ ràng! Bất quá, loại bệnh này nếu muốn trị tận gốc thì phải trường kỳ uống thuốc mới có thể đoạn căn.

Không những thế phải liên tục có sự điều chỉnh về phương thuốc. Hôm qua các ngươi đáng ra nên chờ ta trở về, nếu như vậy thì làm sao có thể xảy ra chuyện tình đến cơ sự này?”

Mị Nhi có chút xấu hổ, cúi đầu không nói. Kỳ thật, nếu không phải Diêm Diệu Thủ cùng Tuyết Phi Nhi hai người châm chọc khiêu khích, Mị Nhi cũng sẽ cố chờ tới khi Đỗ Văn Hạo quay về.

“Được rồi, chúng ta trở về đi thôi!”

Mặc kệ vẻ mặt thất vọng của lão ni cô, sau khi nói mấy câu từ biệt mấy người đi bộ xuống núi rồi lên xe về Ngũ Vị đường.

Đỗ Văn Hạo một lần nữa khai phương hạ dược, hướng dẫn cụ thể cách uống cho Mị Nhi rồi để các nàng ra về.

Sau đó, Đỗ Văn Hạo gọi Bàng Vũ Cầm vào nội đường, trầm giọng hỏi: “Cầm nhi, hôm qua vì sao nàng lại giấu diếm bệnh tình của Mị Nhi với ta? Có phải nàng sợ ta động tâm tư với nàng ta?”

Bàng Vũ Cầm rơi lệ mà nói: “Phu quân xem thường Cầm nhi rồi, tam tòng tứ đức Cầm nhi đâu có dũng khí mà không theo? Như thế nào lại đi ghen tị với người khác? Cầm nhi chỉ là nghe phu quân nói không mạch chắc chắn chết, bệnh này không thể chữa trị được. Nếu không trị được, cần gì phải phí công sức, hôm qua phu quân tâm tình cũng không tốt, Cầm nhi không muốn phu quân thêm mệt nên mới không nói!”

Đỗ Văn Hạo chợt hiểu ra, đem Bàng Vũ Cầm ôm vào trong ngực, thấp giọng nói: “Xin lỗi, Cầm nhi, là ta trách nhầm nàng, hôm qua tâm tình ta không tốt, không có nói tỉ mỉ, kỳ thật không mạch cũng không phải đều là tuyệt chứng, phải xem nguyên nhân gây ra không mạch. Như Mị Nhi này chỉ là việc động mạch có viêm chứng khiến cho huyết lưu không thông, chữa trị kịp thời có thể cứu được!”

Bàng Vũ Cầm đi theo Đỗ Văn Hạo học y nhiều ngay, đương nhiên biết rất nhiều tri thức giải phẫu cơ thể hiện đại nên đối với những lời Đỗ Văn Hạo nói mặc dù dùng nhiều thuật ngữ của y học hiện đại nhưng nàng cũng hiểu được phần lớn. Nghe nói bệnh tình của Mị Nhi có thể trị lúc này nàng mới cảm thấy nhẹ nhõm, rưng rưng nói: “Phu quân, Cầm nhi sai lầm rồi, sau này tuyệt sẽ không giấu diễm bệnh tình của người bệnh nữa!”

“Như vậy là tốt rồi, chúng ta ra ngoài thôi”.

Hai người đi tới tiền đường, Diêm Diệu Thủ cùng với Hàm Đầu chạy lại đón rồi thấp giọng hỏi: “Sư tổ, chứng không mạch quả thật có thể trị sao?”

“Không mạch chỉ là chứng tượng, là phản ứng bên ngoài của bệnh tật nơi mạch tượng, hay các bộ vị khác trên cơ thể. Mấu chốt là phải xem nguyên nhân gây ra nó, xem có thể chữa trị được các tật bệnh đó không, cái này gọi là “trì bệnh tất cầu vu bổn” (chữa bệnh phải tìm được gốc). Mị Nhi kia là âm chứng, hư chứng cùng dương khí không thông, chỉ cần làm ấm dương, thông kinh, ích khí dưỡng huyết, cứ đối chứng hạ dược như vậy là có thể trị hết!”

Chính lúc đang nói chuyện chợt nghe ngoài cửa có người kêu lên: “Đỗ tiên sinh!”

Đỗ Văn Hạo quay đầu lại nhìn, thì ra là Thái y cục Phan phán quan, vội vàng đi tới chắp tay nói: “Phán cục đại nhân tới, mời vào mời vào!” Rồi dẫn Phan phán cục tới sương phòng lại bảo Anh Tử dâng trà thơm.

Phan phán cục an tọa xong, sắc mặt vẫn giữ vẻ âm nghiêm, cũng không có hàn huyên gì nói thẳng một câu: “Đỗ tiên sinh hôm nay đã là một chuyện rất l không ổn!”

Đỗ Văn Hạo bề bộn cười bồi: “Thực là xin lỗi, muội tử của ta tự cho là mình mắc tuyệt chứng, nhất định muốn xuất gia cho nên ta phải vội vàng chạy tới, khuyên nhủ rồi chữa trị cho nàng ta, giờ mới vượt qua được, bằng không, hiện có thể đã phiền toái lớn rồi. Dù sao cũng làm chậm trễ ảnh hưởng tới giáo học, thật sự vô cùng xin lỗi, ta nguyện ý làm kiểm điểm!”

Phan phán cục lắc đầu: “Lão hủ không nói tới chuyện đó, cái này lúc đó Đỗ tiên sinh đã nói qua với mọi người, chúng ta có thể hiểu, cũng đã giải thích thêm cho các đệ tử. Lão hủ muốn nói ở đây chính là nội dung tiên sinh giáo khóa cơ!”

Đỗ Văn Hạo sửng sốt: “Nội dung bài giảng của ta có gì không ổn sao?”

“Ừ” Phan phán cục gật đầu: “Theo như lời tiên sinh nói, sản phụ sau khi sinh trúng phong không phải là ngoại cảm phong tà mà là nhiễm tà độc từ nội thể. Nói về vấn đề này, tiên sinh đã từng đọc qua Kim quỹ yếu lược chưa?”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Ta đọc từ lúc mười tuổi”.

“Nếu như vậy, tiên sinh cũng biết Kim quỹ yếu lược giải thích nguyên nhân sản phụ sau khi sinh bị trúng phong là do ngoại cảm lục khí hay do nội thương thất tình?”

“Ngoại cảm lục khí gây ra phong tà!”

“Đã như vậy, tại sao khi giảng bài tiên sinh lại nói tà độc khiến hậu sản phụ bị trúng phong? Tiên sinh nói không chính xác như vậy rất nguy hiểm cho các đệ tử!”

Sản hậu trung phong tức là các sản phụ sau khi sinh gặp các chứng bệnh như chân tay co quắp, lưng cứng, miệng cứng không nói được và một số biểu hiện khác giống như trúng gió cho nên vẫn gọi là sản hậu trung phong, Tây y gọi là sản hậu phá thương phong. Hiện nay Trung y phát triển đã nghiên cứu và phát hiện ra nguyên nhân của sản hậu trung phong không phải là do trúng gió bên ngoài (ngoại cảm phong tà) mà là do một số chứng lây nhiễm khiến cho huyết hư, âm hư. Nguyên nhân chủ yếu chính là từ phương pháp sinh đẻ, phòng trừ nhiễm khuẩn không tốt, sản phụ khi sinh cơ thể yếu nhược, đề kháng kém, rất dễ bị tổn thương nên hay bị lây nhiễm, phát sinh trung phong.

Hậu sản nhiều khi gây tử vong cho sản phụ, nguyên nhân cũng chỉ là từ nội thể. Nhiều khi cơ thể sản phụ nóng lên không phải do trúng gió mà do viêm nhiễm, do những biến đổi trong cơ thể, ví dụ như viêm tuyến sữa, tắc sữa, viêm đường hô hấp, bí nước tiểu, viêm niệu đạo,…nhưng đa phần là lây nhiễm từ sản nhục. Sản hậu trung phong được coi là một trọng chứng cấp bách, không lo trị liệu hoặc trị liệu chậm trễ hay không đúng phương pháp đều có thể dẫn tới nguy hiểm tính mạng.

Tuy nhiên Tống triều đối với bệnh nhân sản hậu trung phong vẫn có nhận thức là do ngoại cảm phong tà. Tiêu biểu nhất chính là Thánh tể tổng lục, khi bàn về sản hậu trung phong có nói: “Sản phụ sau khi sinh khí huyết chưa hết phong tà cảm nhiễm theo đó mà vào kinh lạc, từ đó dẫn tới trung phong”.

Cho nên cổ nhân đối với sản phụ đều yêu cầu nghiêm khắc phải kín gió, phòng sinh tuyệt đối không được có một khe hở nào, ngay cả khe hở ở cửa sổ cũng được che kín hết, cho dù là những ngày nóng nực đến thế nào đi nữa. Điều này không những không hiệu quả, ngược lại còn làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn sinh sản khiến cho xác suất bị sản hậu trung phong gia tăng.

Bất quá, Đỗ Văn Hạo biết lý luận của chính mình có liên hệ mật thiết với tri thức y học hiện đại, không thể nói rõ cho Phan phán cục được. Đỗ Văn Hạo đã từng bàn luận rất nhiều về y học với Tiền Bất Thu, hắn biết nếu muốn dựa vào tri thức thời cổ đại này để giải thích thì không có khả năng, chỉ duy nhất một biện pháp là dùng sự thật mới có tác dụng. Chính Đỗ Văn Hạo đã chinh phục Tiền Bất Thu dựa vào nhiều lần trị khỏi bệnh nhân theo phương pháp tiên tiến của hắn.

Chính vì vậy, Đỗ Văn Hạo cũng không biện luận cùng Phan phán quan, chỉ nói: “Phan đại nhân, ta có thể đảm bảo nếu dùng phương pháp tiếp sinh của ta, tỷ lệ sản hậu trung phong có thể được khống chế dưới mười phần trăm!”

“Gì?” Phan phán cục mở to hai mắt nhìn Đỗ Văn Hạo. Hậu sản trung phong tại Tống triều là một căn bệnh rất phổ biến, tỷ lệ sản phụ bị nhiễm bệnh luôn là bảy tám mươi phần trăm, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong cho sản phụ. Đỗ Văn Hạo giờ lại nói đương nhiên có thể khống chế ở mức dưới 10% thì làm sao Phan phán cục không thể rơi hai tròng mắt ra được?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Để chứng minh lời ta nói là chính xác, chúng ta có thể kiểm tra đối chứng tại thái y viện. Tuyển chọn ra hai tổ sản phụ, một tổ dựa theo biện pháp tiếp sinh của các ngươi, một tổ còn lại làm theo biện pháp của ta, xem cuối cùng tổ nào có tỷ lệ sản hậu trung phong cao hơn thì có thể biết ngay lời ta nói có chính xác hay không. Như thế nào?”

Giống như đại học y khoa ở thời hiện đại, giảng dạy ở Thái y cục cũng là lý luận đi đôi với thực hành thực tế, cũng có an bài thực tập giáo học. Thực tập này cũng giống như thái học, luật học, võ học đệ tử, ở kinh thành có khu gọi là “An tể phường” dùng để thực tập cứu trị người bệnh trong thành. Đương nhiên, đối tượng thực tập của sản khoa chủ yếu là “An tể phường” sản phụ.

An tể phường chuyên môn chữa trị cho những người nghèo khó, tai hoang, từ khắp nơi trôi giạt tới kinh thành, những người này đa phần không có tiền xem bệnh. Những người bệnh vào đây không chỉ là miễn phí tiền khám bệnh, tiền thuốc mà còn được sắc thuốc miễn phí, được cung cấp chỗ ở tạm, khi khỏi bệnh còn được cấp tiền hồi hương. Trong số những người bệnh này sản phụ đương nhiên không thiếu. Việc chữa trị ở đây do đệ tử Thái y cục đảm nhiệm.

Phan phán cục thấy bộ dáng tự tin của Đỗ Văn Hạo, nhịn không được một cảm giác không yên, nghĩ thầm chẳng lẽ quan điểm này của hắn là thật? Nếu đổi lại đây là lời của người bên ngoài, Phan phán cục đương nhiên cho là ăn nói hàm hồ, khoác lác để gây sự chú ý, căn bản không đáng để ý tới, nhưng người trẻ tuổi trước mắt này được xưng tụng là am hiểu thần kỹ phẫu phúc chữa thương của Hoa Đà, hơn nữa còn là sư phụ của Thái y thừa Tiền Ất, lại được đích thân Lại bộ khảo công ty lang trung Chiêm Đề tự mình long trọng tiến cử, nói là vị đại phu trẻ tuổi này đã thi triển phẫu phúc liệu thương thuật cứu sống mẫu thân mình. Những điểm này không cho phép bất cứ ai coi thường hắn. Tuy nhiên, muốn Phan phán cục tin tưởng rằng trung phong không phải ngoại cảm phong tà mà là tà độc từ nội thể thì sở học hơn năm mươi năm của hắn không cho phép, vô luận như thế nào cũng không thể tiếp thu được.

Lão nghĩ đi nghĩ lại nếu như tiến hành trắc nghiệm kiểm chứng lời Đỗ Văn Hạo là đúng, có thể hạ thấp tỷ lệ sản phụ bị sản hậu trung phong xuống còn mười phần trăm thôi thì chính là đã tạo phúc cho hàng nghìn hàng vạn dân chúng rồi. Như vậy cũng có thể cấp cho Tiền Bất Thu cùng Chiêm Đề thêm phần mặt mũi, mình cũng không thiệt thòi gì, cứ thử xem sao.

Chính vì vậy, Phan phán cục gật đầu nói: “Được! Vậy cứ theo ý tiên sinh!”

Chương 165: Thời cơ chưa tới

Đỗ Văn Hạo nói: “Tốt lắm, nhưng mà ta là nam nhân, không thuận tiện trực tiếp thực hiện tiếp sinh, như vậy đi, chuyết kinh (vợ) và tiểu muội theo ta học y đã lâu, kiến thức về sản khoa cũng hiểu nhiều, ta đề nghị để hai nàng tiến hành thay được không?”

“Được!”

Thỏa thuận xong, hai người lên xe trở lại Thái y cục. Tới nơi tuyển lấy hai thượng xá đệ tử phụ khoa ưu tú nhất vào tổ đại phu tiếp sinh sau đó lại cùng nhau đi tới An tể phường, thống kê một hồi chọn được bốn mươi sản phụ chuẩn bị sinh nở. Nhóm sản phụ này được chia ngẫu nhiên thành hai tổ Giáp, Ất; Ất tổ do Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi phụ trách tiếp sinh, Giáp tổ do hai đệ tử ưu tú kia phụ trách tiếp sinh.

Các đệ tử lúc trước nghe Đỗ Văn Hạo giảng bài vốn vẫn đang nghị luận sôi nổi về vấn đề sản hậu trung phong, tin tức Phan phán cục cùng Đỗ Văn Hạo tiến hành kiểm chứng tại An tể phường do đó rất nhanh được lan truyền khắp Thái y cục. Tất cả mọi người đương nhiên đều vô cùng tò mò muốn ngay lập tức biết kết quả. Tuy nhiên, đây đâu phải chuyện ngày một ngày hai, ai cũng đành phải kìm nén tâm trạng mà hồi hộp chờ đợi.

Bàng Vũ Cầm cùng Tuyết Phi Nhi từ khi theo Đỗ Văn Hạo, ngoài thời gi­an cùng hắn học tập về tri thức giải phẫu thì phụ sản khoa chính là trọng điểm mà Đỗ Văn Hạo muốn hai người nắm bắt nên hắn đã truyền đạt khá nhiều kiến thức về vấn đề này cho hai người. Nhìn chung, qua thời gi­an tích lũy vừa học hỏi vừa thực hành tại Ngũ Vị đường, hai người hiện đều thấy khá tự tin, đều háo hức ma quyền lau chưởng muốn đòi một chút công đạo và mặt mũi cho Đỗ Văn Hạo.

Xế chiều ngày thứ hai Đỗ Văn Hạo có một khóa, ăn xong cơm trưa hắn liền cưỡi con lừa nhỏ đi tới Thái y viện.

Khi tiến vào phòng làm việc của trợ giáo thì bên trong đã khá náo nhiệt với sự có mặt của nhiều vị giáo sư, trợ giáo đang chuyện trò rôm rả. Nhìn thấy Đỗ Văn Hạo tiến vào, mọi người cũng không ai chào hỏi gì, chỉ cười lạnh mà trở về bàn làm việc.

Thấy thái độ lạnh nhạt của bọn họ, Đỗ Văn Hạo cũng không thèm để vào mắt, chỉ cười nhạt đi tới chỗ ngồi, cầm giáo án lên trầm tư suy nghĩ.

Nhất thời cả căn phòng lớn trở nên im ắng.

Rốt cục, lão đại phu Phó Bác là người đầu tiên phá tan bầu không khí tĩnh lặng, đi tới chỗ Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đỗ tiên sinh!”

Đỗ Văn Hạo đối với lão cũng có vài phần hảo cảm, chắp tay đáp lễ.

Phó Bác thấp giọng nói: “Đỗ tiên sinh hôm qua thụ khóa có nói về vấn đề sản hậu trung phong, lão hủ thực có chỗ không rõ ràng, chẳng hay có thể lãnh giáo thêm được không?”

“Không dám, tiên sinh cứ nói!”

“Phàm là sản hậu trung phong, nguyên nhân đa phần đều là vì sau khi sinh có thương tổn ảnh hưởng tới huyết khí, tạng phủ cũng bị hao tổn, tinh lực sản phụ chưa bình phục, hạ khí lại hư, phong tà mới thừa cơ xâm nhập, vậy mới trung phong. Nếu phong tà xâm nhập vào da thịt, kinh lạc thì chân tay đau nhức, khí tức hao tổn, xâm nhập vào gân cốt thì khớp mỏi xương đau, vào tạng phủ thì tâm hoảng, tạng phủ nhiễm bẩn kinh lạc theo đó cũng bị ảnh hưởng. Vậy sao tiên sinh lại có thể nói không phải do ngoại cảm phong tà mà là do tà độc từ nội thể sinh ra?”

Không đợi Đỗ Văn Hạo lên tiếng, một lão già mập mạp đã cười lạnh: “Thế mà cũng phải hỏi, hắn đơn giản là khoác lác, là muốn khác người, muốn cho mọi người thấy y thuật của hắn thần thánh hơn người khác!”

Đỗ Văn Hạo vốn đang định giải thích nhưng nghe xong lời này lại chỉ cười nhạt: “Phan phán cục đã phê chuẩn tiến hành kiểm chứng tại An tể phường, chi bằng cứ đợi kết quả thì sẽ biết ta có khoác lác hay không!”

“Hừ! Tự cao tự đại, vẫn chỉ là khoác lác. Cho dù là kiểm chứng ngươi thắng đi nữa thì sao nào? Muốn cho y giả trong thiên hạ tin vào những lời bịa đặt hoang đường của ngươi chỉ sợ bấy nhiêu là không đủ!”

Đỗ Văn Hạo nhất thời ngẩn ngơ, những lời này như một gáo nước lạnh, trong lúc nhất thời hắn không biết phải nói thế nào.

Các bác sĩ, giáo sư, trợ giáo khác cũng đều gật gật đầu, thầm thì to nhỏ cười quan điểm của Đỗ Văn Hạo lập dị khác người.

Phó Bác cũng nói: “Đúng vậy, ngay cả khi đối lập kiểm chứng mà Đỗ tiên sinh ngươi thắng đi nữa cũng khó có thể nói những gì ngươi nói là chính xác, quan trọng là ngươi phải có lý lẽ xác đáng để thuyết phục mọi người!”

Đỗ Văn Hạo cười khổ, hắn rốt cục rõ ràng cho dù lần này mình thắng đi chăng nữa cũng không đủ để thay đổi cái nhìn của người khác với mình. Đặt địa vị mình vào người ta, với một tên đại phu miệng còn hôi sữa, tuổi đời không bằng tuổi nghề của người ta, để có thể chấp nhận một quan điểm ngược hẳn với mọi hiểu biết của cả thế gi­an thì thực rất khó. Để có thể thực sự thuyết phục được người khác, ngoài chuyện giải thích rõ ràng, những cái gọi là sự thật kia cũng không phải chỉ ở một vài chục sản phụ trong một vài ngày là được.

Hiện tại rõ ràng mình không có một bằng chứng thực tế nào, lý thuyết ở thời điểm này giải thích cũng rất khó, bởi trình độ y học thời Tống triều này chưa thể tiếp nhận được các tri thức hiện đại, chỉ hy vọng vào kết quả kiểm chứng kia thì sợ rằng không những không hiệu quả mà còn phản tác dụng.

Cho nên, hắn rốt cục rõ ràng một điểm, đó chính là thời cơ để truyền bá những quan điểm y học hiện đại chưa tới. Với địa vị và danh vọng của mình hiện nay, nói ra không có được vài người nguyện ý nghe, giảng giải về y học hiện đại bây giờ khác gì người si nói mộng, tốt nhất là chờ tới khi y thuật của mình vang danh khắp thiên hạ hãy đề cập những vấn đề này cũng chưa muộn.

Thông đạt quan điểm này, Đỗ Văn Hạo ném mấy cuốn giáo án xuống bàn, không để ý gì tới ánh mắt cười cợt của những người xung quanh, đứng lên đi thẳng tới phòng làm việc của Phan phán cục, chắp tay thi lễ: “Phan đại nhân, tại hạ không muốn tiến hành kiểm chứng nữa, đồng thời tại hạ cũng muốn thỉnh cầu được từ chức trợ giáo!”

Trong mắt Phan phán cục hiện lên một tia đắc ý, Đỗ Văn Hạo từ chức đương nhiên biểu hiện cho việc nhận thua, lão cũng cố gắng đưa đẩy thuyết phục thêm vài câu rồi cuối cùng cũng ra vẻ thiểu não đồng ý.

Đỗ Văn Hạo trở về Ngũ Vị đường, mang mấy chuyện này nói lại với đám người Bàng Vũ Cầm. Mọi người ai cũng thấy hắn ở Thái y cục chẳng vui vẻ gì nên khi biết hắn quyết định chuyên tâm ngồi đường hỏi chẩn thì đều mừng rỡ.

Ngày thứ ba, Mị Nhi cùng Thư Điệp, Mộng Hàn tới để xem bệnh.

Thấy bộ dáng hết sức phấn khởi của nàng, Đỗ Văn Hạo biết lần trước khai dược đã có hiệu quả.

Quả nhiên Mị Nhi vui vẻ ra mặt nói: “Ca đúng là thần y! Tiểu muội uống xong bat hang thuốc này tâm hoảng khí đoản đã giảm nhẹ rõ ràng, cánh tay trái cũng không còn tê rần nữa. Chỉ là tay trái vẫn không thể sờ thấy mạch?”

Đỗ Văn Hạo chẩn sát lại cho nàng một lúc rồi cười nói: “Bệnh trạng của ngươi đã giảm nhẹ rất nhiều, bất quá bệnh đến như núi đổ, đi như tằm nhả tơ, phải kiên nhẫn, bệnh của ngươi nhất định có thể chữa khỏi, nhưng sẽ mất một chút thời gi­an!”

“Tốt lắm! Ca, ngươi cấp thuốc cho tiểu muội nữa đi”.

“Hiện giờ mạch tượng của ngươi vẫn đang chuyển động rất yếu, gần như vô lực, ấn mạnh cũng chưa nghe thấy, tứ chi hàn lạnh, tay chân ướt át, trái tim thiếu khí, đây chính là hiện tượng khí hư suy chi. Cái này là do trái tim khí suy yếu, huyết không lưu thông tốt, kinh mạch không được nuôi dưỡng đầy đủ. Ngươi phải uống thêm ít nhất là hai mươi thang thuốc nữa thì bệnh mới có khả năng giảm nhẹ, dương khí hồi phục, mạch đập trở lại. Khi đó sẽ dừng việc dùng Ô đầu thang để tránh thương tổn thân thể. Yên tâm, tới lúc đó ta sẽ căn cứ tình hình cụ thể mà thay đổi phương thuốc cho ngươi. Không có gì phải lo lắng cả, bệnh của ngươi chắc chắn sẽ khỏi!”

“Ân,” Mị Nhi cực kỳ hoan hỷ, yêu kiều thi lễ, “tiểu muội tạ ơn cứu mạng của ca!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Không nói vậy được, bệnh này của ngươi chưa nguy tới tính mạng, không thể nói là cứu mạng, chỉ là ngươi hù dọa chính mình mà thôi.”

Đang nói chuyện, đột nhiên Thư Điệp che miệng nôn khan hai tiếng, chạy vào khu thủy câu (cái này thực ra là mấy chỗ dùng để rửa ráy, nước nôi, nhưng chẳng tìm được từ gì hợp lý cả) trong hậu đường ngồi xổm xuống liên tục nôn khan.

Mộng Hàn và Mị Nhi vội vàng chạy theo giúp đỡ.

Chỉ trong chốc lát, Thư Điệp chậm rãi trở lại. Đỗ Văn Hạo mỉm cười: “Phu nhân cảm thấy không thoải mái sao? Có muốn để ta xem qua cho một chút không?”

“Ừ, làm phiền tiên sinh!” Thư Điệp ngồi xuống, đưa một cánh tay cho Đỗ Văn Hạo chẩn mạch.

Đỗ Văn Hạo ngưng thần chẩn mạch, chỉ một lát chậm rãi buông ngón tay, chắp tay cười nói: “Chúc mừng phu nhân, phu nhân đã có tin mừng!”

“Thật sao?” Tam nữ đồng thanh kinh ngạc.

“Thật! Xem ra giấc mộng của Trang tri huyện, à không, Trang thôi quan đã trở thành sự thực rồi!”

Thư Điệp vô cùng vui mừng, không quản xấu hổ yêu kiều vuốt ve tiểu phúc (bụng) của mình, trong long cảm thấy rất ngọt ngào, hình dung xem không biết nếu trượng phu biết được tin này sẽ vui sướng như thế nào, địa vị của mình với trượng phu theo đó cũng sẽ tốt hơn rất rất nhiều, trong lòng lại cảm kích Đỗ Văn Hạo không thôi.

Đỗ Văn Hạo sau đó dặn dò nàng một vài biện pháp an thai, tam nữ tạ ơn rồi lên kiệu rời đi.

Hiện giờ người bệnh tới Ngũ Vị đường rất nhiều, tuyệt đại bộ phận đều là nghe danh Đỗ Văn Hạo mà tới, cho nên nhiều người bệnh chấp nhận xếp hàng dài để chờ hắn chứ không muốn để hai người Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu xem. Nhìn cảnh này thật có chút buồn cười, một bên Đỗ Văn Hạo người chờ xếp hàng dài lê thê, bên kia Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu lại nhàn rỗi không có việc gì làm.

Sau khi tam nữ rời đi, Đỗ Văn Hạo tiếp tục chẩn bệnh.

Người tiếp theo là một phụ nhân trung niên với cái cổ sưng vù.

Sắc mặt phụ nhân này tái nhợt, bên phía phải cổ có một túi da bóng loáng to như quả trứng gà. Đỗ Văn Hạo hỏi: “Vết sưng này đã có được bao lâu rồi?”

“Đã hơn một năm rồi,” vẻ mặt phụ nhân khổ não, lấy tay nâng nâng cái quả trứng thừa trên cổ, “ban đầu chỉ là một cục thịt dư rất nhỏ, càng ngày càng lớn, hai tháng gần đây cảm giác to lên rất nhiều. Nghe nói Đỗ đại phu người giỏi phẫu phúc chữa thương, không biết có thể giúp ta cắt bỏ nó đi không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Miếng thịt dư như vậy không thể cắt bừa được, phải xem bên trong là cái gì, cũng phải xem nguyên nhân, tính chất của nó nữa sau đó mới quyết định chữa trị hay cắt đi. Cảm giác của ngươi với nó như thế nào?”

“Nó treo ở cổ thế này ta thấy rất mệt, đôi khi cảm giác như có kim châm, ngực thấy khó chịu, ngoài ra không có gì!”

Đỗ Văn Hạo cẩn thận nhìn cục thịt dư, màu sắc da bên ngoài không thay đổi, lấy tay sờ thấy cứng như đá, mặt ngoài có chút thô lại hơi bóng, đẩy đẩy một hồi không thấy có thay đổi gì về vị trí.

“Đưa tay ta nghe mạch xem sao!”

Phụ nhân đặt cổ tay lên chiếc gối, Đỗ Văn Hạo chẩn mạch xong lại nhìn lưỡi tượng, phát hiện mạch trầm huyền tế, đài lưỡi trắng bạc, nói: “Cái này của ngươi gọi là bướu cổ, không nhất thiết phải phẫu thuật, uống thuốc cũng có thể tiêu được!”

Phụ nhân vui vẻ nói: “Có đúng không vậy? Nếu được thế thì tốt quá, phiền đại phu mau cấp thuốc cho ta”.

“Không cần vội vàng!” Đỗ Văn Hạo quay sang Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi nói: “Hai ngươi cảm thấy phải trị liệu thế nào?” Mỗi khi ngồi xem bệnh, chỉ cần không phải trọng chứng, Đỗ Văn Hạo luôn để cho Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi nghĩ cách chữa trị.

Tuyết Phi Nhi chưa bao giờ gặp qua trường hợp như thế này nên lắc đầu.

Bàng Vũ Cầm sờ sờ vào cái bướu, suy nghĩ một chút rồi nói: “Phu quân đã từng nói, bướu có loại khí, có loại thịt, thịt thì cứng như đá, căn bản là do ưu tư lâu ngày ứ đọng, can tỳ khí nghịch, tạng phủ không điều hòa, khí kết đàm ngưng mà thành. Bướu của phụ nhân đây ứng với bướu thịt, cứu trị…nếu là nang thịt, cần phải dùng thuốc mạnh mẽ làm tiêu tan nó đi…Có đúng vậy không?”

Đỗ Văn Hạo tỏ ý tán thành: “Suy nghĩ của nàng thì đúng, nhưng mà, một khi đã cho rằng bướu thịt do ưu tư mà thành, tại sao không đồng thời tác động vào gan để giải trừ ưu khí?”

Bàng Vũ Cầm đỏ mặt cười: “Thực vừa rồi thiếp không nghĩ tới!”

“Ha ha, vậy tiếp theo nàng nói xem phải dùng dược thế nào?”

Chương 166: Ghế bó xương hồi phục vị trí

Bàng Vũ Cầm nói: “Sơ can lý khí…, dùng chỉ xác, thanh bì có được hay không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Được đó, nhưng mà sơ can lý khí, tốt nhất là dùng thêm hai vị thuốc sài hồ cùng uất kim, hai vị này hiệu quả rất tốt”.

“Vâng, thiếp hiểu rồi”.

“Nhuyễn kiên tán kết, nàng dự định dùng những thuốc gì?”

“Hạ khô thảo, hải tảo, hoàng dược tử!” Trong mấy tháng này, Bàng Vũ Cầm đối với Trung dược thường dùng đã hiểu biết thêm không ít.

“Ừm, tốt nhất là dùng thêm bối mẫu, cương tàm, để hóa đờm tiêu bướu, nhuyễn kiên tán kết đều là những vị thuốc thường dùng, có thể phối hợp sử dụng”.

“Vâng!”

“Ngoài ra còn dùng thuốc gì nữa không?”

Bàng Vũ Cầm suy nghĩ một chút, lắc đầu, đỏ mặt nói: “Chỉ vậy thôi”.

“Nhuyễn kiên tán kết cũng là phương pháp hoạt huyết dưỡng huyết tốt nhất, vừa hóa vừa hoạt, cùng lúc tiến hành, không phải là sẽ tốt hơn sao?”

“Vâng! Hoạt huyết dưỡng huyết, như vậy thì cho thêm đương quy cùng xích thược!”

“Đúng rồi, còn có thể dùng thêm mật ong, trợ giúp tiêu ung nhọt. Mặt khác, đối với loại phù thũng này, tốt nhất là dùng thêm thuốc bôi ngoài da cùng cao dán tiêu hạch tán, trong ngoài cùng đánh, hiệu quả càng tốt”.

Trong quá trình bọn họ trao đổi, Bàng Vũ Cầm đã lấy bút ghi lại phương thuốc, đưa cho Đỗ Văn Hạo kiểm tra thấy không sai sót mới đi tới quầy lấy thuốc.

Người bệnh tiếp theo, mặt mang ý cười, nhìn đông nhìn tây dường như có chút ngại ngùng.

Đỗ Văn Hạo nói: “Làm sao vậy? Có xem bệnh không, có gì mà xấu hổ chứ?”

“Không không! Ta không mắc bệnh, là…cái này, ta…” Người này thấp giọng nói: “Chiều nay ta lên công đường, có thể bị đè xuống đánh gậy, ta muốn hỏi đại phu, có thuốc gì cho ta ăn trước, để đến lúc đó không quá đau nhức hay không, cũng đừng để lưu lại nội thương?”

Đỗ Văn Hạo cười, sai Anh Tử mang ra từ bên trong một bình sứ nhỏ đựng bột tam thất, lại lấy ra một bình thuốc tê nhỏ khác: “Đây, trước khi lên công đường, trước tiên uống gói thuốc này, sau đó dùng nước trong bình nhỏ này thấm vào bông xoa lên mông và đùi, lúc đó sẽ không có cảm giác quá đau nhức, chảy máu cũng ít, mà lúc đánh xong cũng không lưu lại huyết ứ trong cơ thể. Nhưng mà phải chú ý, ngàn vạn lần đừng cho tay động vào nước thuốc này, nếu không tay ngươi cả ngày đừng hi vọng có thể cử động, nhớ rõ rồi chứ?”

“Nhớ rồi, nhớ kỹ rồi!” Người nọ cẩn thận tiếp nhận bột tam thất cùng thuốc gây tê, hỏi: “Thuốc này có tác dụng chứ?”

“Trước kia ngươi đã từng bị đánh gậy chưa?”

“Bị đánh rất nhiều rồi, tiểu nhân họ Bì, chuyên đi thưa kiện thay người, được mọi người tặng cho ngoại hiệu là ‘Da Dày’, mỗi lần thưa kiện tại công đường đều bị đánh gậy, kiện tụng thua, bị đánh càng nhiều, đau đến mức chết đi sống lại, cho nên rất sợ, nghe nói đại phu có một số thần kỹ thượng cổ y thuật, cho nên đặc biệt tới đây tìm ngài hỏi xem có biện pháp gì hay không”.

Đỗ Văn Hạo vừa nghe liền hiểu ra, thì ra người này là một tụng côn. Người cổ không muốn tự mình lên kiện tụng, cho nên tìm người thay thế lên thưa kiện, nhất là trước thời Minh Thanh, người thay người khác lên thưa kiện gọi là tụng côn. Những người này lúc lên công đường, trước tiên phải ăn một trận gậy, sau đó mới có thể thay cho người khác lên nhận án. Mặc dù như vậy, họ cùng nha môn có chút quan hệ quen biết và cũng vì cuộc sống bức bách mà làm người nhận đòn thay, họ ỷ vào thân thể cường tráng xương cốt cứng cáp, nhịn đau thay người khác lên thưa kiện. Mà người cổ thường cho rằng lên công đường là một chuyện rất mất mặt, nhất là bị cáo, cho nên nguyện ý thuê người lên công đường thay cho mình. Đương nhiên, nếu như thua kiện bị đánh gậy thì hai người phải cùng nhau chịu đòn, điều này thì không thể thay được”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi đã từng bị đánh gậy, vậy là tốt rồi, thuốc này của ta có tác dụng hay không ngươi dùng thì biết, nếu có tác dụng, ngươi giúp ta loan truyền ra bên ngoài, nếu như không có tác dụng gì, vậy ngươi có tới nhận lại tiền. Thế được chứ?”

“Hay lắm! Dĩ nhiên là được rồi! Nếu thật sự có hiệu quả, ta sẽ giúp ngài truyền đi, người tìm ta lên thưa kiện thay rất nhiều, người chịu đòn thay cũng không ít, ta giúp ngài giới thiệu hàng, chỉ cần dùng tốt nhất định sẽ có người mua!”

Da Dày cười ha hả thanh toán tiền rồi nhận hai bình thuốc rời đi.

Lúc này, Đỗ Văn Hạo nghe thấy âm thanh tranh cãi của Diêm Diệu Thủ ở bên cạnh. Xoay người nhìn lại, chỉ thấy một người bệnh còn trẻ tuổi đang lớn tiếng cãi nhau cùng Diêm Diệu Thủ: “Ta nói này Diêm đại phu, nghe nói ngài là đệ tử của Thái Y viện Tiền đại nhân, ngoại hiệu là diệu thủ hồi xuân, y thuật hẳn là rất giỏi, nhưng tại sao ngài chữa cho cánh tay của ta cũng đã một tháng rồi, mà vẫn còn như thế này, cuối cùng ngài có chuyên tâm chữa trị không vậy?”

Diêm Diệu Thủ trợn mắt nói: “Ta sao mà không chuyên tâm trị liệu chứ, tại sao ngươi lại nói như vậy?”

“Một tháng rồi, ngài trị cho ta một chút chuyển biến tốt cũng không có, ta nói như thế vẫn là còn nhẹ đó, làm cho ta tức giận thì ta kêu gào cho cả cái phố này đều biết đó! Cái chó má gì mà thần kỹ Hoa Đà, Hoa Đà của các ngươi như vậy sao? Hoa Đà gì mà so với mấy con buôn ngoài phố chả hơn gì?”

Đỗ Văn Hạo nhíu mày, đứng dậy đi tới hỏi: “Làm sao vậy?”

Diêm Diệu Thủ đứng lên tiếp đón, cười nói: “Sư tổ, không có gì đâu, khuỷu tay của hắn bị trật khớp, trải qua thời gi­an quá dài, phục lại vị trí rất khó, đã chữa vài lần rồi chưa khỏi”.

Người bệnh kia nghe vậy, vội vàng đứng dậy nói: “Ngài chính là Đỗ đại phu sao? Ta tới đây mấy lần, muốn tìm ngài trị thương, nhưng ở bên kia ngài có quá nhiều người bệnh, ta cũng chẳng muốn xếp hàng cho nên để cho đồ tôn của ngài xem bệnh, trước sau tới đã vài lần rồi, thuốc cũng đã bôi, có hai người dùng sức lôi kéo tay ta, nói là muốn khôi phục lại vị trí cũ, cuối cùng vẫn không có hiệu quả”.

Đỗ Văn Hạo hỏi người bệnh kia: “Khuỷu tay của ngươi bị thương từ khi nào?”

“Chừng hai tháng rồi, ta đem xe ngựa đi chở củi, ngựa hoảng sợ, xe bị lật làm cho tay trái ta bị thương. Trang đại phu cùng Thang đại phu của Huệ Nhân Đường, Viên Nhuận Đường cũng đã xem qua rồi, nhưng cũng không chữa được, không có cách nào khác để phục vị, một tay của ta giống như bị phế đi. Nghe nói ở Ngũ Vị Đường của các ngài có một vị thần y có thần kỹ của Hoa Đà cho nên ta đến xem một chút, nhưng vị đồ tôn này của ngài hình như y thuật không tốt. Ồ, hay là ngài thử xem qua cho ta đi?”

Đỗ Văn Hạo bảo hắn xắn ống tay áo lên, cẩn thận xem thương thế ở khuỷu tay, trầm giọng nói: “Khớp xương tay của ngươi bị sai đã lâu, nếu như lúc đó có thể kịp thời phục vị, sẽ không xảy ra nhiều phiền toái như vậy, đã chậm hai tháng, giờ đây rất phiền phức. Thầy thuốc không thể lập tức khôi phục cũng là bình thường, ngươi đừng quá sốt ruột. Thật sự không nên, ta có thể dùng thủ thuật giải phẫu để giúp tay ngươi phục vị. Nhưng mà, giải phẫu phục vị sẽ lưu lại một số tác dụng phụ trở ngại đến chức năng của khớp xương, không phải là cách chữa trị hay nhất. Cho nên, có lẽ trước tiên nên thử thủ pháp phục vị đã!”

Bệnh nhân trẻ tuổi vừa nghe lời này, vui vẻ nói: “Gừng càng già càng cay, a! Ta chỉ nói về sự già dặn trong y thuật, không phải nói về tuổi, Đỗ đại phu, ngài nhanh chữa trị cho ta đi. Một tay mất tác dụng, trong hai tháng này, kiếm được ít tiền hơn nhiều, một nhà già trẻ còn chờ ta kiếm tiền để sống cầm hơi qua ngày đó”.

Đỗ Văn Hạo gật đầu, sai Ngô Thông bưng đến một chậu nước nóng, ra quầy thuốc lấy hai bình nước thuốc bó xương vào, bảo người bệnh ngâm khuỷu tay bị thương vào trong nước. Dặn dò bọn Hàm Đầu chờ sau khi nước nguội liền đổi nước khác, liên tục ngâm bốn lần. Đến lúc thấy hệ thống khuỷu tay mềm ra, thì tiếp theo dùng nước thuốc bó xương giúp người bệnh xoa bóp khuỷu tay cùng ba thớ thịt, cho đến khi da tay nóng lên mới thôi.

Dặn dò xong, Đỗ Văn Hạo trở về tiếp tục chẩn bệnh.

Tầm một giờ sau, bên này đã xoa bóp và ngâm xong, Đỗ Văn Hạo lại sang, dạy Diêm Diệu Thủ giúp người bệnh thư giãn cơ bắp, làm cho đốt xương khuỷu tay của người bệnh gập, duỗi, nội trở, ngoại trở và xoay tròn, động tác từ nhẹ đến mạnh, từ chậm đến nhanh, vận động chừng nửa canh giờ.

Tiếp theo, hắn bảo Diêm Diệu Thủ giữ chặt phần trên cánh tay người bệnh, lại bảo Hàm Đầu giữ chặt cổ tay, làm cho khớp xương duy trì trạng thái nửa gập lại, ở dưới chống xuống sau đó lôi, kéo, rút làm giảm sự cứng nhắc của thớ thịt.

Sau hoạt động làm giãn cơ bắp, lúc này khớp xương đã lỏng ra, có thể hoạt động trong phạm vi nhất định. Đỗ Văn Hạo dùng kim châm tiến hành châm gây tê ở khuỷu tay người bệnh, xoa thuốc tê ở ngoài, bắt đầu chính thức nắn xương lại vị trí cũ.

Đỗ Văn Hạo lấy ra một cái ghế bành dài bằng gỗ, dùng khăn lông mềm trùm lên, bảo người bệnh nằm xuống, đem khăn lông bao trọn tay bị thương đặt lên mặt trên mặt ghế, sai Diêm Diệu Thủ giữ cố định cánh tay người bệnh, lại bảo Hàm Đầu nắm chặt cổ tay, duy trì trạng thái nửa gấp khúc, Đỗ Văn Hạo đứng ở bên cạnh, dùng bàn tay đẩy phần nhọn khuỷu tay về phía trước, Diêm Diệu Thủ cùng Hàm Đầu thì đối kháng rút duỗi, kéo, động tác ba người thong thả, đều đặn, duy trì liên tục.

Độ gấp của khớp khuỷu tay từ từ gia tăng, thời gi­an uống xong chén trà, ba người cùng cảm nhận được âm thanh xương va chạm lách cách rất nhỏ.

“Dừng lại!” Đỗ Văn Hạo mừng rỡ kêu lên một tiếng, sau khi kiểm tra khuỷu tay có dấu hiệu khôi phục bình thường, khuỷu tay đã có thể từ từ co duỗi!

Người bệnh trẻ tuổi này vui mừng vô cùng, liên tục cảm tạ.

Đỗ Văn Hạo nói: “Đừng có gấp, khuỷu tay của ngươi còn phải dùng tấm gỗ kẹp cố định để tiêu mủ, nếu không sẽ xảy ra phiền toái”.

Đỗ Văn Hạo dùng tấm gỗ cố định xương cốt, đem khuỷu tay gấp lại vuông góc, dùng tấm kẹp cố định lại sau đó dùng vải mềm treo lên, dặn dò: “Cố định như vậy không nên động vào, duy trì nửa tháng, sau đó đến đây ta sẽ tháo bản kẹp cho ngươi, tiếp theo còn phải dùng thuốc xông và tẩy rửa. Cuối cùng mới có thể hoàn toàn bình phục. Trong thời gi­an này, ngươi cần hoạt động co duỗi nhiều nhiều khớp xương cổ tay cùng các đốt ngón tay. Không cần uống thuốc gì”.

Người trẻ tuổi liên tục gật đầu, thiên ân vạn tạ, sau khi trả tiền chữa trị, vui mừng đi về.

Phương pháp phục vi ngoại thương có hiệu quả nhanh chóng này làm cho tất cả người bệnh đang đợi chẩn bệnh tại hiệu thuốc ngạc nhiên vô cùng, thấp giọng bàn luận về y thuật như thần của Đỗ đại phu.

Diêm Diệu Thủ vẻ mặt xấu hổ nói: “Sư tổ, thì ra người cũng tinh thông chữa trị thương tổn do té ngã ư? Người mới thật sự là diệu thủ hồi xuân!”

Đỗ Văn Hạo cười cười: “Đại bá của ta là một lão đại phu, tự mình mở hiệu thuốc, các khoa y thuật đều am hiểu, ta từ nhỏ theo ông ấy học y, phương pháp bó xương cũng học qua. Phục vị khớp xương khuỷu tay đã lâu ngày, không thể làm như phục vị khớp xương vừa bị trật khớp. Trước tiên phải chuẩn bị thật đầy đủ, chỉ đến khi nào khớp xương lỏng ra, những chỗ dính liền trong khớp tay đã rời mới có thể thực hiện phục vị, hơn nữa trong quá trình phục vị động tác tuyệt đối không thể quá vội vàng, để tránh tạo ra tổn thương mới”.

Hàm Đầu cười nói: “Sư tổ, người dùng ghế dài để bệnh nhân nằm xuống phục vị khớp xương, là lần đầu tiên chúng ta nhìn thấy. Thật là hữu hiệu!”

“Cách đó ta cũng học được từ đại bá, hai người các ngươi sử dụng thủ pháp phục vị giống như là kéo co, như vậy là không được, dùng sức không đều, người bệnh cũng không phối hợp tốt, dễ làm cho thân thể chuyển động, khả năng phát huy không cao, cho nên thất bại”.

Diêm Diệu Thủ gật đầu, nói ra lời từ đáy lòng: “Phương pháp chữa bệnh của sư tổ vô cùng thần kỳ, suy nghĩ kì diệu làm kẻ khác ngưỡng mộ. Sau này gặp phải căn bệnh khó khăn, phải thỉnh giáo sư tổ nhiều hơn mới được.”

Chương 167: Cấp chứng của đại tiểu thư

Hàm Đầu nói: “Đúng vậy, lúc trước chưa từng thấy sư tổ thi triển thần kỹ ngoại khoa, hiện tại mới biết sư tổ thì ra cũng có thần kỹ ngoại khoa giỏi như vậy. Sư phụ nếu biết nhất định sẽ cao hứng lắm đó!”

Trong lúc hắn đang nói thì nghe thấy ngoài cửa có người gọi: “Sư phụ! Sư phụ người có ở đây không?” Nghe giọng nói chính là của Tiền Bất Thu.

Mọi người đưa mắt nhìn, chỉ thấy ngoài cửa có mấy chiếc xe ngựa đang đỗ, còn có cả kiệu. Tiền Bất Thu từ một cỗ xe ngựa nhảy xuống, giọng nói rất gấp gáp: “Sư phụ, sư phụ có đây không?”

Đỗ Văn Hạo nghe thấy có vẻ không ổn, vội vàng trả lời: “Ta ở đây, sao thế?”

Tiền Bất Thu mừng rỡ, quay đầu lại nói vọng vào một chiếc xe đang đỗ ở cửa: “Mau lên, đỡ người xuống đi!” Rồi lập tức quay lại nói với Đỗ Văn Hạo: “Sư phụ, có người bị đau bụng rất nặng, ta cũng không có biện pháp, mang tới nhờ sư phụ xem!”

Mấy người ở ngoài cửa nhanh tay nhanh chân vội vàng khênh một chiếc giường mềm từ trên xe xuống, đưa vào trong dược phô, đặt ở phòng lớn. Mấy người này hông đeo loan đao, vừa bước vào đã lớn tiếng đuổi tất cả những bệnh nhân ở trong đại sảnh đi.

Những bệnh nhân này sợ đến nỗi giống như chim sợ cành cong ôm đầu chuồn khỏi đại sảnh, đứng ở bên đường đối diện xem nhiệt náo.

Đỗ Văn Hạo từ dáng vẻ của người hầu và sự tinh xảo hoa lệ của chiếc giường mềm là biết người vừa đến tuyệt đối không tầm thường, chỉ là giường mềm treo màn mỏng, chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy một chiếc chăn cẩm tú màu đỏ ở bên trong và một thân hình nhỏ nhắn đang nằm trong chăn, ôm bụng lăn lộn kêu thảm, tiếng rên rỉ thập phần thống khổ, tuy nhìn không rõ người, nhưng nghe giọng là biết đó là nữ.

Một quý phụ trung niên ăn mặc hoa lệ từ trên chiếc xe ngựa đi sau cỗ kiệu nhỏ bước xuống, một đám nha hoàn theo sau, tiền hô hậu ủng khóc lóc vén quần bước vào.

Tiền Bất Thu vội vàng ra đón phu nhân đó vào đại sảnh, nói với Đỗ Văn Hạo: “Sư phụ, đây chính là phu nhân của Điện tiền ty đô ngu hầu Vi Ngạn Vi đại nhân, trên giường mềm là thiên kim Vi tiểu thư của Vi đại nhân. Phu nhân, vị này chính là ân sư Đỗ Văn Hạo Đỗ đại phu của ti chức.”

Điện Tiền Ty Đô Ngu Hậu tương đương với chức vị tham mưu chưởng của bộ tư lệnh cảnh bị thủ đô. Chính là võ tướng ngũ phẩm, nắm trong tay thực quyền.

Không đợi phu nhân đó nói gì, một mụ già thân hình cường tráng ở bên cạnh quay người phân phó những đới đao thị vệ: “Còn không mau đóng cửa lại!”

Đới đao thị vệ vội vàng đóng cửa lớn lại, ánh sáng trong phòng lập tức ảm đạm đi nhiều.

Quý phụ đó vừa khóc vừa hành lễ với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ đại phu, cầu xin ngài cứu nữ nhi của ta, phụ thân của nó phụng chỉ xuất kinh hành sự rồi, nữ nhi đột nhiên phát bệnh, nếu xảy ra chuyện gì, ta biết ăn nói với cha nó thế nào đây! Hu hu hu!”

Đỗ Văn Hạo chắp tay nói: “Đừng gấp, rốt cuộc là chuyện gì? Bất Thu, ngươi nói đi!”

“Vâng, sư phụ, căn cứ theo lời thị nữ thiếp thân của Vi tiểu thư nói, Vi tiểu thư sáng sớm hôm nay đột nhiên đau bụng, giống như bị đao rạch vào bụng, từ phần bụng trên rất nhanh đã lan khắp cả bụng! Khi đưa tới Thái y viện, thấy có triệu chứng buồn nôn, sắc mặt trắng bệch, đổ mồ hôi lạnh, các chi cũng lạnh ngắt, mạch đập nhanh và yếu!”

Đỗ Văn Hạo trong lòng trầm xuống, thân thể phát lạnh, đầm đìa mồ hôi, đây chính là triệu chứng bị sốc, vội vàng nói: “Ngươi phán đoán là triệu chứng gì?”

“À…, liệt đồ cho rằng, Vi tiểu thư bị chướng bụng tức ngực, đau đớn vô cùng, cái này là vì gan và dạ dày bất hòa”.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi đã xác chẩn là như vậy, vì sao không tự mình kê đơn chữa trị? Tìm ta làm gì?”

Tiền Bất Thu có chút xấu hổ, thấp giọng nói: “Sư phụ, cô gái này chính là thiên kim của Vi đại nhân, bệnh này bột phát quá đột ngột, bụng đau đến mức không thể chịu nổi, động vào thì càng đau hơn, cả bụng khi ấn vào thì có tình trạng tê cứng, lão hủ lo là bị đại kết hung chứng giống như lão mẫu của Chiêm Đề Chiêm đại nhân và nhi tử của Đổng bộ khoái lúc trước. Bệnh này lão hủ bất lực không thể chữa nổi, kê đơn linh tinh, một khi dây dưa lỡ việc, lão hủ không chịu nổi trách nhiệm, cho nên tới tìm sư phụ cầu viện”.

Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Ha, ngươi sợ trách nhiệm cho nên nhờ ta gánh thay hả?”

Tiền Bất Thu lúng túng, bịch một tiếng quỳ xuống đất dập đầu: “Sư phụ, liệt đồ tuyệt không dám có lòng đại nghịch bất đạo như vậy…”

Đỗ Văn Hạo cũng chỉ là nói đùa, thấy lão coi là thật, vội vàng đỡ lão dậy: “Làm gì thế? Nói đùa thôi mà, mau đưa Vi tiểu thư vào nội trạch để ta kiểm tra”.

“Vâng, đa tạ sư phụ!” Tiền Bất Thu vội vàng đứng dậy, quay người phân phó cho những người nọ khênh giường mềm của Vi tiểu thư vào trong.

Đỗ Văn Hạo đã bố trí một căn phòng ở phía sau dược phô thành phòng bệnh lưu chẩn, lại chia thành khu bệnh truyền nhiễm và khu nằm viện bình thường. Đoạn thời gi­an trước bọn họ luôn phải ẩn cư, không ai biết hắn thiện trường thần kỹ mổ bụng liệu thương của Hoa Đà, cũng không ai biết hắn trị được đau bụng cấp, mà bệnh chứng bình thường thì không cần lưu chẩn, cho nên, trừ Phùng thị lần trước đã từng lưu chẩn ra, hai bệnh khu này trước đây chưa có ai lưu chẩn.

Vi tiểu thư được khênh thẳng tới phòng phẫu thuật, Đỗ Văn Hạo phân phó Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi đi chuẩn bị cho phẫu thuật.

Có điều, Đỗ Văn Hạo trước khi chưa xác định có cần thiết phải phẫu thuật hay không thì không dám tùy tiện quyết định làm phẫu thuật. Dẫu sao, phẫu thuật là một loại phương thức trị liệu có tính tổn hại, và vô cùng nguy hiểm, là sự lựa chọn bất đắc dĩ, có thể không làm vẫn là tốt nhất.

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống cạnh giường mềm, cách một tấm màn mỏng, nghe thấy tiếng rên rỉ đau đớn của Vi tiểu thư, hắn liền nói với một lão mụ tử đang ở bên cạnh chăm sóc: “Xin lấy tay của tiểu thư ra đây, ta muốn xem mạch.”

Lão mụ tử cẩn thân vén màn lên, thấp giọng nói: “Tiểu thư, đại phu muốn chẩn mạch cho người, người…”

Bốp, lão mụ tử bị tiểu thư đó đá cho một cước, lảo đảo suýt chút nữa thì ngã. Trong màn mỏng truyền ra giọng nói lanh lảnh sắc nhọn của Vi tiểu thư: “Cút! Ôi mẹ ơi…, đau chết con rồi…, mẹ ơi cứu con với…”

Quý phụ ngồi cạnh giường khóc lóc: “Con à! Đừng gấp, sư phụ của Tiền đại phu đang khám bệnh cho con, Tiền đại phu đã nói, Đỗ đại phu này thiện trường thần kỹ Hoa Đà, biết mổ bụng liệu thương, nhất định có thể chữa khỏi bệnh đau bụng cho con…”

“Không! Con không muốn mổ bụng đâu! Ối…, ai dám đụng vào bụng ta, ta sẽ giết hắn…! Ái…đau chết tôi rồi…”

Lão phụ vừa rồi cẩn thận thò đầu vào trướng bồng, thấp giọng nói: “Tiểu thư! Sư phụ của Tiền đại nhân đang ở đây, người mau giơ cổ tay ra…”

Lại một cước nữa được đá ra, lần này lão phụ đã có chuẩn bị, vội vàng né tránh, không bị đá trúng.

Mắt thấy đại tiểu thư đanh đá như vậy, Đỗ Văn Hạo bừng bừng tức giận, nói: “Đá đi! Ngươi cứ đá đi! Ta nói cho ngươi biết, ngươi nếu không phối hợp với ta để chẩn sát trị bệnh thì nằm đợi chết đi! Bất kể ngươi là ai, Ngưu Đầu Mã Diện của Diêm Vương lão gia đều không khách khí đâu! Đều câu hồn hết! Ngươi cứ đá đi!”

“Đỗ đại phu…” Quý phụ đau lòng thấp giọng van cầu, “Hài tử không hiểu chuyện, ngài ngàn vạn lần đừng để bụng…”

Đỗ Văn Hạo tức giận nói: “Hiện tại là lúc nào rồi? Bệnh của cô ta là cấp chứng, phát tác từ sớm, hiện tại đã xuất hiện hiện tượng bị sốc rồi, còn dây dưa nữa thì chẳng còn mạng đâu, còn giở cái tính đỏng đảnh của tiểu thư ra đây nữa làm gì? Đợi tới Diêm Vương điện mà đỏng đảnh nhé!”

Quý phụ từ trước tới giờ chưa từng bị người ngoài nói xa xả vào mặt như vậy, nhưng suy nghĩ lại lời của Đỗ Văn Hạo thì cũng thấy đúng, chỉ có thể cúi đầu im lặng.

Không ngờ, những lời này của Đỗ Văn Hạo lại có tác dụng, một lát sau, trong màn không còn động tĩnh, thỉnh thoảng lại truyền ra tiếng khóc thút thít, xen lẫn với tiếng kêu đau. Lát sau, từ trong màn thò ra một cánh tay trắng nõn, co chặt năm ngón tay lại, sau đó thì khe khẽ run theo tiếng khóc.

Đối với loại đại tiểu thư ngang ngược như thế này, Đỗ Văn Hạo nhìn rấtquen, không chút khách khí nắm cổ tay nàng ta kéo ra: “Đặt cho tử tế vào!”

Cô nương bên trong ối chà một tiếng, bị Đỗ Văn Hạo làm đau, khóc hu hu.

Đỗ Văn Hạo sờ sờ tay nàng, cảm thấy bàn tay lạnh ngắt, lòng bàn tay có mồ hôi lạnh, đặt thẳng tay nàng ta ra rồi dùng ba ngón tay ngưng thần bắt mạch, phát hiện mạch rất yếu, trong lòng khẩn trương, cao giọng nói: “Ta muốn vén màn lên để kiểm tra, ngươi nếu muốn sống thì ngoan ngoan nằm yên, phối hợp với ta để trị liệu, khi nào chuẩn bị xong thì nói với ta một tiếng!”

Bên trong màn vang lên tiếng sột soạt, nữ hài đó tự hồ như co người vào trong chăn, vừa khóc vừa nói: “Xong rồi!”

Đỗ Văn Hạo vén màn lên, chỉ thấy dưới cái chăn rực rỡ lộ ra một khuôn mặt thanh tú tuyệt mỹ, chỉ là sắc mặt trắng bệch, trên trán đầm đìa mồ hôi lạnh, đang thở hổn hển. Thân hình co rút trong chăn đang không ngừng run rẩy, tựa hồ như đang cố sức nhịn đau.

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng hỏi: “Đau ở đâu?”

“Bụng, bụng đau…, đau muốn chết luôn…”

“Mở miệng ra! Để ta xem lưỡi của ngươi!”

Vi tiểu thư trù từ một thoát, ngửa cổ lên lè một chút đầu lưỡi ra.

“Ấy! Ngươi thò một tí đầu lưỡi ra thì ta xem cái gì được? Há miệng to ra một chút, thò đầu lưỡi dài ra một chút! Nhanh! Ta không có thời gi­an để cà kê dê ngỗng với ngươi đâu, bệnh của ngươi không dây dưa được đâu!”

Vi tiểu thư vội vàng hé môi hồng, cố hết sức thò cái lưỡi thơm ra.

Đỗ Văn Hạo nhìn vào thì thấy lưỡi nàng đỏ nhạt, bựa lưỡi màu bạc, trầm ngâm một lát, nói: “Ngươi trước đây cũng từng bị đau như thế này đúng không?”

“Ừ, hình như…, hình như từng đau…”

“Hình như cái gì? Có là có mà không là không! Nói rõ ra, biết bệnh sử thì mới có thể phán đoán chính xác bệnh chứng của ngươi! Ngươi nếu không phối hợp tốt với ta, chẩn sát sai thì đừng có trách!”

“Người ta không nhớ rõ mà…hu hu…” Vi tiểu thư co vào trong chăn rồi khóc lớn.

Lão phu lúc trước bị đá là thị nữ thiếp thân của Vi tiểu thư, vội vàng thay tiểu thư trả lời: “Đại phu, tiểu thư của chúng ta từ lúc hiểu chuyện thường bị đau bụng, có lúc đau rất kịch liệt, có lúc lại chỉ âm ỉ đau…”

“Ai bảo ngươi nói? Cút ra…” Vi tiểu thư nói, “Ối mẹ ơi…, đau quá!”

Đỗ Văn Hạo cao giọng hỏi quý phụ: “Vị quản (khoang dạ dày) của cô ta từng bị tổn thương có phải không?”

Quý phụ vừa khóc vừa nói: “Tiên sinh quả nhiên cao minh, mùa đông năm hài tử được mười tuổi, từng cùng cha ra ngoài săn bắn, gặp phải mãnh hổ nên ngựa bị kinh sợ, chạy loạn mấy dặm, rơi vào trong một vách núi nhỏ, may mà được cây cối cản lại. Khi tìm thấy nó đã là năm ngày sau, hài tử đã phải ăn gió uống tuyết rất lâu.”

“Mẹ! Mẹ nói ra những cái này làm gì…, ối trời…!” Vi tiểu thư vừa khóc vừa nói.

“Được được! Mẹ không nói! Không nói nữa!”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Cô ta bình thường ăn uống không theo quy luật đúng không? Nói thật cho ta nghe!”

Quý phụ nói: “Vâng, sau chuyện đó, nó rất dễ đói, nhưng ăn một chút là no ngay, có lúc ăn đến trương cả bụng, có lúc một ngày không ăn cả một chén cơm nhỏ.”

Tiền Bất Thu ở bên cạnh chen vào nói: “Vốn là tì vị (tì và dạ dày) nhiễm lạnh, lại thêm ăn uống không hợp lý, can khí ứ động, dạ dày bị tổn thương, trung tiêu không vận hành đúng, chẳng trách…”

Vi tiêu thư trong màn rít lên: “Còn lề mề gì nữa? Mau trị bệnh cho ta đi! Ta đau muốn chết rồi…”

Chương 168: Chứng đa nang

Đỗ Văn Hạo hét lên: “Không chẩn sát rõ ràng, sao trị bệnh cho ngươi được? Ngươi có muốn ta lập tức phẫu thuật cho ngươi, mổ bụng ra để tiến hành kiểm tra không?”

“Không! Không cần! Không được chạm vào bụng của ta! Ối trời…mẹ! Không cho phép họ chạm vào bụng của con…, mẹ! Con sợ…, con không muốn bị họ mổ bụng đâu…!”

“Được được! Không mổ! Không mổ! Đỗ đại phu, có thể không mổ bụng mà chữa được bệnh này cho con ta không?”

Đỗ Văn Hạo nhíu mày nói: “Xem tình huống hiện tại, có thể chuẩn đoán sơ bộ là bị đau dạ dày, có khả năng đã phát triển thành đại kết hung chứng, nếu là như vậy, khả năng chỉ có một cách duy nhất là mổ bụng liệu thương thôi…”

“Ta không! Ta không muốn bị mổ bụng…! Mẹ! Con có chết cũng không mổ bụng đâu…! Ối trời…”

Quý phụ lại một lần nữa cố gắng an ủi nữ nhi, van cầu Đỗ Văn Hạo đừng dùng biện pháp mổ bụng liệu thương.

Đỗ Văn Hạo cười khổ, suy nghĩ một lát, nói: “Tình huống hiện tại của cô ta vẫn chưa phát triển thành nguy chứng, tạm thời có thể không cần phải mổ bụng liệu thương, như vậy đi, ta trước tiên châm cứu giảm đau cho cô ta, quan sát nửa ngày, xem xem có thể dùng thuốc để trị liệu không”.

Quý phụ nói: “Hiện tại không thể dùng thuốc luôn được à?”

“Không được!” Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “Nếu phán đoán không nhầm, bệnh của lệnh ái đã có khả năng phát triển thành đại kết hung chứng, cũng có thể nói là, tràng vị ở khoang bụng có khả năng có lỗ hổng, dẫn tới khoang bụng bị nhiễm trùng, như vậy phải cấm thực, để tránh thuốc lưu vào khoang bụng, làm bệnh tình nặng thêm. Trước tiên chỉ có thể dùng châm để giảm đau, đồng thời thông qua nhịn ăn uống, dạ dày giảm sức ép để lỗ hổng khít lại, căn cứ vào tình huống mà quyết định bước tiếp theo nên làm thế nào…”

Vi tiểu thư vừa rên vừa nói: “Được được! Ngươi mau trị đi! Chỉ cần không phải mổ bụng, thế nào cũng được, đau quá…”

Đỗ Văn Hạo bảo nàng ta dùng tư thế nửa ngồi nửa nằm, như vậy sẽ bớt đau. Lấy kim châm ra, chọn Túc tam lý, Trung viện, Thiên xu làm chủ huyệt tiến châm, phối hợp với Khí Hải, Quang Nguyên. Lưu châm khoảng nửa giờ, cứ sau thời gi­an mỗi một chén trà lại tăng thêm một lần thủ pháp.

Ba giờ châm lại một lần, mỗi lần châm xong thì bảo Tuyết Phi Nhi chú ý quan sát bệnh tình của bệnh nhân, xem xem bụng có phát ra âm thanh gì khác lạ hay không.

Công vụ ở Tiền Bất Thu ở Thái y viện rất bận bịu, sau khi gi­ao lại bệnh nhân cho Đỗ Văn Hạo xong thì lên xe về Thái y viện.

Đỗ Văn Hạo châm cứu xong, từ bệnh phòng đi ra, Bàng Vũ Cầm ra đón, sau khi hỏi tình huống thì nói: “Phu quân, Trang đại nhân tới thăm.”

“Trang Huýnh Mưu? Ha ha, là tiểu thiếp của hắn có tin mừng rồi ư?”

“Hình như thế, lão dẫn vợ và hai tiểu thiếp theo, vui vẻ lắm, đám người hầu đi theo còn khênh lễ vật tới nữa. Đúng rồi, còn có một đôi nam nữ trẻ tuổi cùng đến, không nhận ra là ai. Tới được một lúc rồi, thiếp nói đi thông báo, bọn họ nghe nói chàng đang trị bệnh cho nên liền ngăn lại, bảo đợi chàng xong việc đã. Hiện tại vẫn đang ngồi đợi ở phòng khách đó.”

“Được, ta tới đó xem.” Đỗ Văn Hạo cất bước định đi.

“Phu quân!” Bàng Vũ Cầm hơi do dự, vẫn nhỏ giọng nói: “Trang đại nhân hiện tại là thiếu doãn của phủ Khai Phong, được phân trách nhiệm quản y sự. Đợi lát nữa gặp Trang phu quân, phu quân sao không yêu cầu lão đào tạo tri thức cho bà đỡ của phủ Khai Phong? Lần trước bọn Phan phán cục của Thái y cục coi thường sự giảng giải của phu quân, tuy phu quân nhịn được, nhưng trong lòng chúng ta luôn cảm thấy rất khó chịu, nhất định phải chứng minh những gì phu quân nói là chính xác, nhất định phải đòi lại công bằng. Hơn nữa, để cho những bà đỡ đó biết biện pháp đỡ đẻ mới cũng là tạo phúc cho bách tính mà.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, nói: “Điểm này có lý, có đòi lại công bằng hay không thì cũng không sao cả, nhưng chuyện đào tạo bà đỡ của nàng quả thật là chuyện một chuyện tích đức, đợi lát nữa ta sẽ đề xuất với lão, để hai người nàng và Tuyết Phi nhi đi dạy bọn họ.”

Tới phòng khách, Trang Huýnh Mưu đang mặt mày hớn hở nói chuyện với ba thê thiếp, thấy Đỗ Văn Hạo bước vào, vội vàng đứng dậy chắp tay nghênh đón.

Sau khi phân chủ khách rồi ngồi xuống, Trang Huýnh Mưu chắp tay nói: “Tiên sinh! Chúng ta lần này tới bái phỏng là để cảm ơn ân đức của tiên sinh. Nếu không phải là tiên sinh diệu thủ hồi xuân, hương hỏa của Trang gia ta e rằng đã đoạn tuyệt rồi. Ta có mang theo chút lễ vật nhỏ, xin tiên sinh thu nạp.”

Người hầu đưa đơn lễ lên, Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn, văn ngân hai trăm lượng, vô số tấm lụa Lăng La. Trang Huýnh Mưu này ra tay vẫn rất rộng rãi, Đỗ Văn Hạo cúi người cảm tạ, lại khiêm tốn nói mấy câu. Sau đó thì chuyển đề tài sang công vụ của Trang Huýnh Mưu.

Đỗ Văn Hạo nói ra chuyện mình muốn mở lớp đào tạo cho bà đỡ, để thê tử và tiểu muội giảng dạy.

Trang Huýnh Mưu nghe vậy liền vỗ đùi khen hay.

Bà mụ thời cổ đại là do nha môn thống nhất quản lý, mà Trang Huýnh Mưu là thiếu doãn của phủ Khai Phong, được phân trách nhiệm quản y sự, các bà đỡ cũng thuộc quyền của hắn. Đỗ Văn Hạo giúp hắn trị khỏi bệnh liệt dương, ái thiếp thuận lợi mang thai, hắn đối với y thuật của Đỗ Văn Hạo khen không ngớt miệng, tuy nhiên hắn đối với tính cần thiết của việc đào tạo bà đỡ vẫn còn thiếu nhận thức, nhưng Đỗ Văn Hạo đã nói là cần thiết, vậy thì khẳng định là cần thiết. Hơn nữa, để một y giả có y thuật cao minh tới đào tạo bao giờ cũng là tốt nhất.

Đỗ Văn Hạo nói đơn giản rằng sự lạc hậu trong kiến thức về việc đỡ đẻ sẽ dẫn tới cái hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là sản hậu trung phong, cũng nói rõ tính quan trọng của việc đào tạo bà mụ. Trang Huýnh Mưu và Lưu thị đều là người từng trải, đã tai nghe mắt thấy rất nhiều, nên đương nhiên hiểu tầm quan trọng của việc này. Nghe Đỗ Văn Hạo nói sau khi đào tạo có thể giảm xác suất tử vong của sản phủ và trẻ em mới sinh xuống rất thấp thì đều cao hứng, miệng không ngừng khen Đỗ Văn Hạo đã làm được một việc thiện rất lớn.

Nói tới chi tiết thì Tranh Quýnh Mưu lại là người sành sỏi, hắn nói: “Đào tạo bà đỡ không thể hấp tấp nóng vội, những lão thái bà này sống lâu nên đã tạo thành thói quen, nếu cứ cưỡng cầu, e rằng những bà đỡ này sẽ tức giận mà nói linh tinh sau lưng, bằng mặt mà không bằng lòng. Hơn nữa khi đỡ đẻ xảy ra chuyện thì lại trách các người đào tạo có vấn đề. Cho nên, ý của ta là, trước tiên đào tạo những bà đỡ trẻ tuổi dưới bốn mươi, thói quen đỡ đẻ của những người này vẫn chưa ổn đinh, rất dễ uốn nắn, hơn nữa cũng khá nghe lời. Đợi tới khi xác suất đỡ đẻ tử vong của những người này xuống thấp, có hiệu quả rõ rệt thì những bà đỡ khác tự nhiên sẽ nảy sinh lòng hâm mộ, rồi sẽ chủ động yêu cầu tham gia đào tạo. Chúng ta lúc đó sẽ lại tuyên truyền mạnh hiệu quả của phương pháp đỡ đẻ mới này để nhà nhà đều biết. Các sản phụ lúc tự nhiên sẽ yêu cầu phương pháp đỡ đẻ mới này.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Biện pháp này rất tốt, cứ từng bước mà tiến hành, để tránh gây phản ứng không tốt. Cứ thế mà làm đi!”

Trang Quýnh Mưu lúc này mới giới thiệu đôi phu phụ trẻ tuổi nãy giờ luôn tươi cười ngồi ở bên cạnh: “Hai vị này là nha môn hộ tào tham quan Ngụy đại nhân. Phu thê của bọn họ cũng thành thân nhiều năm mà vẫn chưa có hài tử, nghe nói ta trải qua sự điều trị của tiên sinh, cuối cùng cũng mang hài tử, rất là ngưỡng mộ, đặc biệt tới cầu y.”

Hộ tào tham quân là tiểu quan quản hộ tịch, hàm bát phẩm.

Ngụy tào quân vội vàng đứng dậy chắp tay cười bồi: “Đỗ tiên sinh, xin ngài giúp đỡ phu thê chúng ta. Nếu có thể nối tiếp hương hỏa sẽ cảm kích bất tận.” Thê tử Trình thị của hắn cũng đỏ mặt đứng dậy hành lễ.

Đỗ Văn Hạo vộ vàng đứng dậy lễ.

Trang Quýnh Mưu nói: “Được rồi, các người khám bệnh nhé, chúng ta cáo từ trước!” đồng thời cũng nói thêm sau khi chuẩn bị lớp đào tạo xong sẽ thông tri cho nha môn, sau đó thì cả nhà Trang Huýnh Mưu cáo từ đi trước.

Đỗ Văn Hạo sau khi hỏi thì biết được đôi phu thê này đã thành thân được sáu bảy năm, mãi vẫn chưa có hài tử người nhà của phu thê họ đều rất sốt ruột, cầu y ở nhiều nơi nhưng vẫn chưa có bất kỳ hiệu quả nào.

Đỗ Văn Hạo nhìn Trình thị, thấy thân thể của nàng ta khá khỏe mạnh, sắc mặt hồng hào, trên môi còn lờ mờ có lông tơ, sau khi xem lưỡi thì thấy lưỡi đỏ, trong lòng không khỏi rúng động, nói: “Ta trước tiên chẩn mạch cho hai vị đã.”

Ngụy tham quân mạch tượng bình thường, Trình thị thì mạch huyền

Dựa vào chẩn mạch, Đỗ Văn Hạo phát hiện lông tơ trên tay Trình thị cũng khá nhiều và đen. Đỗ Văn Hạo trong lòng đã có tính toán.

Hắn bảo Bàng Vũ Cầm đưa Trịnh thị vào sương phòng ở bên cạnh để làm kiểm tra phụ khoa và hỏi thêm. Yếu lĩnh của thủ pháp kiểm tra thì Đỗ Văn Hạo sớm đã truyền thụ cho nàng rồi. Trước khi đi còn thấp giọng dặn dò những việc phải kiểm tra kỹ và nội dung cần hỏi.

Ở bên này Đỗ Văn Hạo hỏi tình hình chuyện phòng the của Ngụy tham quân, biết được chuyện phòng the của họ luôn rất hài hòa, phía nam luôn cương cứng, duy trì được lâu, bài tinh và lượng tinh đều rất bình thường, phán đoán sơ bộ là từ vấn đề của phía nữ dẫn tới việc không thể mang thai.

Một lát sau, hai người trở lại, Bàng Vũ Cầm nhỏ giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Chi dưới, quanh vú và bụng dưới của nàng ta nhiều lông, còn có mấy sợi khá dài.”

“Tinh hình kinh nguyệt thế nào?”

“Hỏi rồi, chu kỳ kinh nguyệt rất ngắn, bình thường khoảng hai mươi ngày, kinh nguyệt có lúc lại kéo dài, hơn mười ngày mới kết thúc. Máu đỏ và nhiều.”

“Còn có chứng trạng gì khác không?”

“À, trước kỳ kinh thì hai bên sườn đau và hay nhức đầu, trong lòng bực bội, mơ nhiều, miệng đắng và khô.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, nói với Trình thị: “Cô bình thường ăn uống thế nào? Thích ăn đồ ngọt hay là cay?”

“Ăn uống vẫn tốt, thích ăn đồ cay.”

“Lúc trước có dùng qua thuốc bổ gì không?”

“Có, dùng một số thuốc bổ nóng.”

Từ tình huống chẩn sát có thể thấy, hiện tượng bài tiết nội tiết của Trình thị không bình thường nên dẫn tới có nhiều lông, lại thêm hai bên buồng trứng to thêm rõ ràng, phán đoán sơ bộ là bệnh đa nang buồng trứng Tây y, loại bệnh này phần lớn là do mất thăng bằng nội tiết dẫn tới, khá khó trị, căn bản phải trị từ đa nang buồng trứng, khiến buồng chứng khôi phục lại được công năng bình thường của nó. Đỗ Văn Hạo không có nhiều phương pháp trị liệu, kiểm tra hiện đại, quyết định trước tiên bắt tay trị liệu theo cách bình thường, điều chỉnh lại kinh nguyệt.

Ở Tống triều đương nhiên không thể từ góc độ Tây y mà tìm biện pháp trị liệu, chỉ có thể dùng Trung y biện chứng mà luận trị, Đỗ Văn Hạo nói với Trình thị: “Cô vốn thể dương quá thịnh, thích ăn đồ cay là đồ nóng, cảm xúc mất thăng bằng, gan ứ thành hỏa đẩy nhiệt đi lung tung, khiến máu chảy hỗn loạn, máu mà không được yên tĩnh, kinh nguyệt theo đó mà giảm xuống, nhiệt tà phá máu, cho nên lượng máu quá nhiều, sắc mặt hồng hào, lưỡi đỏ, mạch huyền, chính là liên quan đến hiện tượng gan ứ máu nóng. Ta sẽ dùng Long đảm tả can thang gia giảm giúp cô trị liệu, mục đích là để thanh nhiệt mát máu, thông gan điều kinh. Cô trước tiên uống một đoạn thời gi­an xem hiệu quả thế nào rồi lại tới phục chẩn!”

Phu thê Ngụy Tào Quân sau khi cảm tạ thì trả tiền thuốc rồi rời đi.

Buổi trưa, Đỗ Văn Hạo lại mấy lần châm cứu trị liệu cho Vi tiểu thư.

Chiều tối sau khi đóng cửa, Đỗ Văn Hạo tới phòng Vi tiểu thư để phục chẩn. Còn chưa vào cửa đã nghe thấy tiếng chửi mắng của Vi tiểu thư ở bên trong: “Thần y cái rắm chó gì vậy! Úi trời…trị cả nữa ngày mà vẫn đau không ngừng, còn nói cái gì là mổ bụng liệu thương, so với Hoa Đà còn lợi hại hơn…, ối trời…, có mà Hoa Đà thối ý! Hắn không biết có phải là cố ý chơi ta hay không…? Ôi mẹ ơi! Bụng con đau quá…ối trời ơi…”

Chương 169: Diện than

Lại nghe thấy giọng nói của Tuyết Phi Nhi vang lên: “Đại tiểu thư, ngươi đừng nói như vậy, ca ca của ta đã mổ bụng liệu thương cho mấy bệnh nhân rồi, toàn bộ đều được chữa khỏi, bao gồm cả lão mẫu thân của Chiêm Đề Chiêm đại nhân, ngươi có thể đi hỏi xem, là ngươi không bằng lòng mổ bụng liệu thương, sao có thể trách ca ca của ta không có bản sự chứ?”

“Ta không mổ bụng! Ta cứ nói là hắn không có bản sự đấy! Hắn nếu có bản sự, không cần mổ bụng cũng có thể chữa khỏi rồi! Hiện tại chữa không khỏi, thì là không có bản sự! Ối trời…”

Tuyết Phi Nhi rất muốn nói một câu là sao ngươi không đi tìm đại phu có bản sự mà chữa đi, nhưng Đỗ Văn Hạo lúc trước đã nhiều lần nhấn mạnh là tuyệt đối không cho phép bọn họ nói như vậy với bệnh nhân, một khi Đỗ Văn Hạo biết được, e rằng mình sẽ bị giáo huấn. Chỉ đành bực bội không nói gì.

“Ngươi sao không nói gì? Ối trời…, mẹ, không bằng chúng ta tìm đại phu khác đi, con thấy hắn không có bản sự chữa bệnh này đâu, chỉ là muốn moi tiền của chúng ta thôi…ối trời!”

Đỗ Văn Hạo sầm mặt bước vào phòng. Vừa thấy Đỗ Văn Hạo, Vi tiểu thư lập tức ngậm miệng, chỉ ôm bụng kêu đau.

Quý phụ vội vàng đứng dậy cười bồi, nói: “Đỗ đại phu, ngài mau khám xem thế nào, hài tử đau bụng quá.”

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống, vén áo lên, lạnh lùng nói: “Phu nhân, tiểu thư, có một câu ta phải nói trước, phàm là trị bệnh, bệnh nhân phải tin vào những việc mà đại phu đã lý giải, nếu không tin đại phu, bệnh này trị không nổi, mà đại phu cũng không dám trị. Vừa rồi lời của tiểu thư ta đã nghe hết, ta rất lấy làm tiếc là tiểu thư tựa hồ như không tin tưởng ta, cho nên phải xác minh một điểm: Nếu tin ta thì ta chữa, không tin, xin đi tìm đại phu khác cao minh hơn!”

Tuyết Phi Nhi không ngờ Đỗ Văn Hạo lại nói ra những lời như vậy, rất kinh ngạc và vui mừng nhìn Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo không để người khác nói như vậy, nhưng bản thân lại tự nói, đó là bởi vì hắn là đại phu, để việc trị liệu được tiến hành thuận lợi, hắn trước tiên phải có được sự tín nhiệm của bệnh nhân, đây là tiền đề của việc trị bệnh cứu người, hiệu quả giữa hắn nói và người khác nói là hoàn toàn khác nhau.

Vẻ mặt của quý phụ rất xấu hổ, thấp giọng nói: “Thật xin lỗi, hài tử không hiểu chuyện, xin ngài tha thứ. Nếu không tin vào y thuật của Đỗ đại phu, chúng ta cũng đã không đến đây.”

“Vậy được, lệnh ái không bằng lòng mổ bụng, ta chỉ có thể dùng liệu pháp bảo thủ, có điều, nói thật, trước mắt cho thấy, lệnh ái quả thực là không cần phải mổ bụng liệu thương, ta sẽ dùng thuốc để chữa khỏi bệnh này.”

Vi tiểu thư nói: “Không phải mổ bụng liệu có được không?”

Đỗ Văn Hạo lạnh lùng nói: “Ngươi cho là thế nào?”

“Bất kể được hay không được, ngươi mau trị bệnh cho ta đi. Muốn nhìn ta đau đến chết à?”

“Lương y như từ mẫu, ta đương nhiên sẽ không đứng nhìn ngươi chết vì đau, có điều, muốn trị khỏi bệnh này, trước tiên phải xác minh ngươi rốt cuộc có bệnh gì! Ngươi còn có chỗ nào không ổn không?”

“Bụng bị trướng! Trướng muốn chết luôn!”

“Bụng bị trướng? Hiểu rồi, tràng vị của ngươi đã bị nghẽn, vị khí tích trệ, chỉ có thể cắm vị quản vào để thông vị khí, đương nhiên, nếu ngươi không quan tâm đến việc bụng trướng lên rồi vỡ ra thì cũng có thể không cần cắm. Ngươi tự quyết định đi!”

“Cắm vị quản? Thế nào là cắm vị quản?”

“Đợi một lát nữa ngươi sẽ biết thôi, Phi Nhi, cắm vị quản cho cô ta đi!”

“Được!”

Đỗ Văn Hạo sau khi đi ra, đứng ở trong viện tử một lát, liền nghe thấy từ trong phòng truyền ra tiếng nghẹn họng hừ hừ hừ của Vi tiểu thư, lần này, đừng nói là mắng người, ngay cả nói cũng khó khăn, tưởng tượng ra vẻ đau khổ của Vi tiểu thư, Đỗ Văn Hạo trong lòng thấy buồn cười.

Ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo còn chưa ngủ dậy, Anh Tử đã chạy vào: “Thiếu gia! Mau tới xem đi, Vi tiểu thư hình như còn đau kịch liệt hơn.”

Đỗ Văn Hạo lục đục bò dậy, dưới sự giúp đỡ của Bàng Vũ Cầm và Anh Tử, vội vội vàng vàng mặc quần áo vào rồi lao ra khỏi cửa, chạy tới bệnh phòng như một làn khói. Lần này quả thực là không còn nghe thấy tiếng kêu la thảm thiết của Vi tiểu thư, nhưng tiếng rên không thể kìm nổi vẫn luôn vang lên không ngừng bên tai.

Đỗ Văn Hạo tiến vào, chỉ thấy Vi tiểu thư chịu đựng cả một đêm, vành mắt lõm vào, nhãn tình thì to ra, chỉ là hai mắt vô thần nhìn Đỗ Văn Hạo.

“Sao vậy? Có bằng lòng mổ bụng liệu thương không?”

Vi tiểu thư yếu ớt nhìn hắn, trong mũi hừ một tiếng, dẫn tới cổ họng ngứa tới phát ho, một lát sau mới bình tĩnh lại, vùng vẫy nói: “Không! Cho dù chết, cũng không cho phép ngươi chạm vào bụng của ta, ối trời…”

Đỗ Văn Hạo nói: “Trước tiên đừng có nói vậy, nói cho ta biết, bệnh tình của ngươi sau một đêm có gì biến hóa?”

“Bụng đau…, Đỗ đại phu, ngươi đúng là thần y, giúp ta giảm đau đi…, ta thật sự chịu không nổi nữa rồi…”

Đỗ Văn Hạo không để ý đến lời của cô ta, hỏi: “Ngươi đau chỗ nào?”

“Bụng! Bụng trên!”

“Hôm nay có đại tiện không?”

“Không.”

“Tiểu tiện thì sao?”

Vi tiểu thư trù trừ một thoáng, thở gấp, nói rất khó khăn: “Tiểu tiện…, tiểu tiện rất ít, hơn nữa hơi đỏ đỏ…ối trời…”

Đỗ Văn Hạo nắm lấy cổ tay của ngươi ta, bắt đầu ngưng thần chẩn mạch, phát hiện thân thể cô ta phát nhiệt, bựa lưỡi vàng, mạch hồng, bụng trướng căng, trong lòng không khỏi trầm xuống, thấp giọng nói với quý phụ: “Không phải nói đùa đâu, bệnh này của lệnh ái thực sự rất hung hiểm. Cô ta hiện tại bụng trướng căng, sốt cao buồn nôn, bựa lưỡi vàng, mạch hồng, tựa hồ như âm khí tổn thương, đã xuất hiện triệu chứng nhiệt quyết như miệng lưỡi khô, thiệt chất đỏ sậm, bựa lưỡi màu vàng, tinh thần ủ rũ, đây là nguy chứng.”

Quý phụ vội vàng nói: “Vậy phải làm thế nào?”

“Tốt nhất là lập tức phẫu thuật để trị liệu!”

“Phẫu thuật mổ bụng, có thể chữa được bệnh này không?”

“Cái này thì ta không dám chắc, phẫu thuật luôn nguy hiểm, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng!”

“Không, không, vậy không được, hay là dùng thuốc đi!”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, không nói nhiều nữa, lấy bút viết ra một phương thuốc.

Quý phụ không yên tâm, muốn tới xem, nhưng nhìn không hiểu gì, Đỗ Văn Hạo cười nhạt: “Đây là Đại sài hồ thang gia giảm, sau khi sắc xong, cho uống theo đường mũi từng chút một làm nhiều lần. Buổi chiều, ta sẽ lại tới phục chẩn.”

Nói xong, Đỗ Văn Hạo cũng không thèm để ý tới tiếng rên của Vi tiểu thư, nghênh ngang bỏ đi.

Đỗ Văn Hạo tới đại sảnh, cửa dược phô đã mở rồi, bệnh nhân sớm đã ngồi đầy cả dược phô, ngay cả cửa cũng đầy người đứng.

Bệnh nhân đầu tiên là một nam nhân trung niên, một tay đang đỡ cằm, nói rất hàm hồ: “Đại phu, cằm ta nửa năm nay không động đậy được, ngài giúp ta khám bệnh đi, xem xem cằm của ta rốt cuộc là bị làm sao?”

Đỗ Văn Hạo đưa mắt nhìn, chỉ thấy cơ nhục nửa bên mặt của hắn lỏng lẻo, miệng há mắt lệnh, mí mắt cũng không khép chặt lại được, hiển nhiên là bị diện than rồi (thần kinh mặt bị tê liệt hoặc viêm thần kinh mặt). Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đoạn thời gi­an này ngươi có thấy chỗ nào không khỏe?”

“Mấy ngày trước bị cảm lạnh, cả người phát sốt, chảy nước mũi, khớp xương và cơ nhục đều đau.”

Đỗ Văn Hạo sau khi chẩn mạch và xem lưỡi cho hắn, phát hiện lưỡi nhạt và bựa lưỡi trắng, mạch phù căng. Nói: “Bệnh này của ngươi chính là cơ thể không đủ chính khí (khả năng đề kháng), cơ biểu không chắc, phong tà sấn hư mà vào, lưu trong kinh mạch trên mặt, khiến cho khí huyết vận hành không xuôi, kinh mạch mất đi sự bồi dưỡng mà phát sinh diện than, hơn nữa có hiện tượng phong hàn. Ta kê cho ngươi Ma hoàng phụ tử tế tân thang gia vị, để sơ phong tán hàn, thông lạc hợp doanh.”

Trung niên đó sau khi cảm tạ thì trả tiền thuốc rồi đi.

Lúc này, ngoài cửa nhốn nháo, Đỗ Văn Hạo đưa mắt nhìn, chỉ thấy đám người ngoài cửa và ở bên đường đang ngẩng đầu nhìn về một phía đường, tựa hồ như xem nhiệt náo gì đó. Hắn không khỏi có chút hiếu kỳ, có điều, bệnh nhân quá nhiều, căn bản hắn không rảnh để đi xem rốt cuộc có chuyện gì.

Đúng vào lúc hắn đang chuẩn bị khám bệnh cho bệnh nhân tiếp theo thì nghe tiếng bước chân dồn dập vang lên, có mấy bộ khoái tiến vào, người đi đầu chính là Đổng bộ khoái Đổng Bằng của phủ Khai Phong, Đỗ Văn Hạo từng cứu sống nhi tử của hắn.

Nếu chỉ là mấy bộ khoái thì sẽ không hấp dẫn được sự chú ý của người khác, quả nhiên, sau khi hai bộ khoái này tiến vào thì lại có một chiếc kiệu đương khênh tới, phía sau kiệu có một lão già mập mạp đang vừa đi theo vừa khóc.

Tới trước cửa Ngũ Vị đường thì chiếc kiệu đó dừng lại, nhưng không có ai từ trong kiệu bước xuống, lão già đó chống gậy bước lên thềm đá tiến vào.

Chẳng trách lại có nhiều người ở bên ngoài xem náo nhiệt như vậy, thì ra lão già này có kiệu mà không ngồi, tình nguyện tự mình đi bộ.

Đổng bộ khoái cúi người nói: “Ân công, lão gia của chúng thôi thỉnh ngài xuất đường.”

“Lão gia của các ngươi là ai?”

“Thôi quan Bàng Cảnh Huy của Khai Phong phủ, chính là nhạc trượng của tiên sinh!”

Người của nha môn đã biết Đỗ Văn Hạo chính là nữ tế của Bàng Cảnh Huy, lại biết Đỗ Văn Hạo khá hiền lành, cho nên nói chuyện cũng không quá cẩn trọng, đặc biệt là Đổng bộ khoái, Đỗ Văn Hạo còn từng cứu mạng của nhi tử hắn.

Đỗ Văn Hạo vừa nghe thấy nhạc phụ đại nhân phái người tới tìm mình, lại là chuyện của nha môn, biết rằng khẳng định là có án tử khó giải quyết, người phái tới lại là bộ khoái, chắc có liên quan tới xử án ở công đường.

Bàng Cảnh Huy là thôi quan của phủ Khai Phong, trưởng quan cao nhất của phủ Khai Phong là phủ doãn, sau đó là thiếu doãn, dưới nữa là thôi quan. Có điều, phủ doãn và thiếu doãn đều chủ quản kinh tế, mà hình ngục tố tụng bình thường đều do thôi quan phụ trách, đương nhiên, án kiện có ảnh hưởng trọng đại thì phủ doãn phải tự thân thăng đường xét xử.

Đỗ Văn Hạo nói: “Bảo ta xuất đường ư? Làm gì?”

“Có án kiện, thôi quan đại nhân muốn mời Đỗ tiên sinh ngài…”

Vừa nói tới đây, lão già mập mạp khóc hu hu, hành lễ đối với Đỗ Văn Hạo rồi nói: “Đỗ đại phu, xin ngài chủ trì công đạo cho nhi tử của ta! Lão phụ tạ ơn ngài!” Nói xong, run run rẩy rẩy quỳ xuống.

Đỗ Văn Hạo vội vàng đỡ lão dậy, nhíu mày nói: “Rốt cuộc là có chuyện gì?”

Lão già vừa khóc vừa nói: “Lão hủ họ Hoàng, khuyển tử tên là Tổ Vĩ. Từ nhỏ đã đọc thi thư, năm ngoái đỗ thi hương, nhàn hạ không có gì làm, cũng thích đọc y thư, hàng xóm láng giềng cũng thường nhờ nó khám bệnh, khuyển tử là một người nhiệt tình, rất thích giúp người, thuốc nó kê cũng thực sự trị khỏi được cho không ít người. Kết quả, hảo tâm lại dẫn tới phiền phức…!” Nói tới đây không ngờ lão lại bật khóc như trẻ con.

Đỗ Văn Hạo nói: “Lão nhân gia đừng đau buồn, người tốt cuối cùng rồi cũng được báo đáp, ông nói xem rốt cuộc là có chuyện gì?”

Hoàng lão hán nói: “Cám ơn câu này của tiên sinh, người tốt rồi cũng được báo đáp! Có tiên sinh chủ trì chính nghĩ, con ta cũng sẽ được cứu rồi. Không uổng công lão hủ tới đây cầu tiên sinh cứu mạng. Hu hu hu…”

Đỗ Văn Hạo có chút minh bạch, lão hán này vì sao lại có kiệu mà không ngồi, lại muốn đi bộ, thì ra là để biểu đạt thành ý xin mình chủ trì công đạo, nhưng rốt cuộc là có chuyện gì thì hắn vẫn chưa hiểu, liền đánh mắt cho Đổng bộ khoái.

Chương 170: Qua đế tán

Đỗ Văn Hạo nói: “Ân công, chuyện là thế này, Tây thành phá lạc hộ Tôn Nhân có một nhi tử, mắc phải bệnh điên, bình thường khi phát bệnh thì chạy loạn đánh người. Tôn Nhân rất yêu thương nhi tử, cũng không biết là làm thế nào mà nhờ được nhi tử Hoàng Tổ Vĩ của Hoàng lão hán này kê thuốc chữa bệnh. Sau khi Hoàng Tổ Vĩ kê đơn, hài tử đó uống rồi, cả người đầm đìa mồ hôi lạnh, rất nhanh liền không ổn, tìm xe ba gác đẩy đên Huệ Nhân đường dược phô tìm đại phu cứu trị, vừa tới cửa dược phô thì đoạn khí. Tôn Nhân khóc lóc nói phương thuốc của lão linh y và Hoàng Tổ Vũ có vấn đề, dùng sai thuốc hại chết nhi tử của hắn, cho nên kéo hai người tới nha môn. Ba người bọn họ tranh chấp không ngừng về phương thuốc dẫn đến cái hết của hài tử, Bàng đại nhân phái bọn ta đến mời tiên sinh tới công đường để xác nhận.

Đỗ Văn Hạo nghe xong, thì ra là tranh chấp chữa bệnh, bảo mình tới làm giám định. Hắn cũng không chối từ, gọi người mang con lừa nhỏ của mình ra ngồi lên rồi đung đưa theo mấy bộ khoái và Hoàng lão hán tới nha môn.

Hắn là người giám định, theo y luật thì không cần phải quỳ, hơn nữa, thôi quan lão gia là nhạc trượng của hắn, tất nhiên là phải chiếu cố đặc biệt. Bàng Cảnh Huy sai người chuẩn bị một cái ghế thái sư ở dưới công đường, sau khi Đỗ Văn Hạo tới, chỉ cúi người làm lễ rồi ngồi xuống ghế thái sư.

Nguyên cáo Tôn Nhân đang quỳ trên đại sảnh, thi thể của nhi tử nhỏ tuổi của hắn đang đặt trên nguyệt đài, dùng một tấm vải trắng phủ lên, dưới công đường có không ít người đứng xem náo nhiệt, chỉ chỉ trỏ trỏ không ngừng.

Lão linh y quỳ trên công đường, cúi đầu.

Bàng Cảnh Huy gõ kinh đường mộc, nói: “Nguyên cáo, ngươi kiện người nào, vì chuyện gì, nói thật ra đi.”

Tôn nhân khấu đầu một cái, vừa khóc vừa nói: “Đại lão gia, tiểu nhân kiện tên lang băm Hoàng Tổ Vĩ ngộ thương mạng người. Nhi tử của ta mắc bệnh điên, ngẫu nhiên nghe thấy có người nói ở cửa chùa đại Tướng Quốc có một lão linh y, có bí phương tổ truyền chuyên trị bệnh điên, đảm bảo đã chữa là khỏi, không được thì trả lại tiền, phương thuốc trước giờ luôn hữu hiệu, chỉ là tiền thuốc lấy hơi dắt, hơn nữa chỉ bán thuốc chứ không bán phương thuốc. Ta chạy đông chạy tây mới gom đủ tiền, mua được thuốc từ chỗ lão linh y về cho nhi tử uống, nhi tử của ta rất nhanh liền nôn mửa không ngừng, ngay cả nước hoàng đảm cũng nôn ra. Ban đầu ta còn rất lo lắng, nhưng sau khi nôn xong thì bệnh của nhi tử ta quả thật đỡ hơn. Đáng tiếc, thuốc này chỉ có công hiệu trong ba tháng, ba tháng sau lại mắc bệnh trở lại, ta liền xoay tiền mua thuốc. Nhi tử của ta uống xong lại nôn, nôn xong thì lại đỡ được ba tháng. Rồi cứ thế lại mua lại uống…”

Bàng Cảnh Huy hừ một tiếng, nói với lão linh y: “Làm linh y như ngươi thật sự là biết kiếm tiền, không chịu trị dứt cho người ta, làm đủ các trò để người ta không ngừng tốn tiền mua thuốc của ngươi.”

Lão linh y không dám cãi vã với đại lão gia, chỉ cúi đầu không nói gì.

Tôn Nhân nói: “Đúng vậy, thuốc của lão quá đắt, mua nhiều lần như vậy, gia sản của ta gần như đều phải bán đi sạch, còn phải đi vay, ta phải chạy đông chạy tây mãi mới kiếm đủ tiền để mua thuốc, dược hiệu lại quá ngắn, chỉ có ba tháng, đặc biệt là uống thuốc xong thì phải nôn, nôn cả thuốc ra ngoài, nếu có thể không nôn thì tốt rồi, dẫu sau thuốc này quá đắt, thực sự là mua mãi không nổi, cho nên ta mới tới tìm Hoàng Tổ Vĩ nhờ giúp đỡ, bảo hắn nghĩ biện pháp, xem xem có thể kê một chút thuốc hay không, để nhi tử của ta không bị nôn nữa, như vậy thì dược hiệu có lẽ sẽ có thể kéo dài thêm một đoạn thời gi­an. Hoàng Tổ Vĩ cũng không biết lão linh y đó dùng thuốc gì, cho nên mới kê cho nhi tử ta một đơn thuốc, nói là để chống nôn, nhi tử của ta trước tiên uống thuốc trị bệnh điên của lão linh y này, sao đó thì uống thuốc chống nôn của Hoàng Tổ Vĩ, đúng là không nôn nữa, nhưng cả người đầm đìa mồ hôi lạnh, hai mắt trợn trừng, ta cấp tốc đưa tới dược phô, chưa tới được cửa thì đã chết rồi. Nhi tử của ta bị hại chết như vậy đó, xin lão gia làm chủ cho ta. Hu hu hu…”

Bành Cảnh Huy quay sang hỏi Hoàng Tổ Vĩ: “Bị cáo, những gì nguyên cáo nói có đúng hay không?”

Hoàng Tổ Vĩ là một cử nhân đề danh, có công danh trên người, không cần phải quỳ, hắn chắp tay nói: “Những gì nguyên cáo nói đều là sự thật, có điều, chuyện này không phải tại ta. Hắn tới tìm ta nói rằng thuốc là lão linh y kê quá đắt, hơn nữa chỉ kéo dài được ba tháng, bảo ta nghĩ cánh để hài tử uống xongnôn, như vậy thì dược hiệu có thể kéo dài thời gi­an thêm một chút. Ta liền kê các loại thuốc chống nôn như Bán hạ, Đinh hương, lại dùng giấm Ngô thù du để bôi bên ngoài da. Nôn mửa thì đã ngừng rồi, nhưng hài tử cũng chết. Hài tử bị bệnh chết ta cũng rất áy náy, nhưng phương thuốc của ta chắc chắn không sai. Xin đại nhân minh giám.”

“Linh y, còn ngươi? Có gì muốn nói không?”

Lão linh y lắc đầu nói: “Thuốc ta kê cũng không có vấn đề!”

Bàng Cảnh Huy nói với Đỗ Văn Hạo: “Đỗ đại phu, ngươi tới giám định đi, rốt cuộc là ai sai?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Hiện tại có thể thấy, nguyên nhân tử vong của hài tử này có mấy loại khả năng, hoặc là chết vì bệnh điên, hoặc là chết vì thuốc của lão linh y, hoặc là chết vì thuốc chống nôn của Hoàng Tổ Vĩ, hoặc là giết vì nguyên nhân bất ngờ khác. Án kiện này muốn phân rõ thị phi thì phải tiến hành giải phẫu cho hài tử, sau khi tra rõ nguyên nhân tử vong là biết. Chỉ là gia thuộc của người chết có bằng lòng tiến hành phẫu thuật cho hài tử không?”

Bàng Cảnh Huy sau khi hỏi xong, Tôn Nhân nghĩ ngợi một lát rồi gật đầu nói: “Được, chỉ cần có thể tra rõ vì sao mà chết, giải phẫu thì giải phẫu.”

Bàng Cảnh Huy hạ lệnh tạm thời bãi đường, bảo sai dịch chuyển thi thể của hài tử vào phòng liệm, dưới sự giám sát của nguyên cáo và bị cáo, Đỗ Văn Hạo tiền hành giải phẫu đối với thi thể của hài tử.

Sau khi giải phẫu không hề phát hiện nội thương và ngoại thương, cũng không phát hiện bệnh gì có thể lập tức dẫn đến cái chết của hài tử. Xem ra, nguyên nhân tử vong chủ yếu tập trung ở phương diện trúng độc. Do thiếu dụng cụ để kiểm nghiệm độc vật, Đỗ Văn Hạo chỉ có thể thông qua chứng trạng trước khi chết của hài tử mà tiến hành phán đoán, và tiến hành kiểm tra những thứ ở trong dạ dày người chết. Sau khi làm xong, Đỗ Văn Hạo báo cáo nguyên nhân gây tử vong đã được làm rõ. Bàng Cảnh Huy quyết định khôi phục thẩm tra án kiện.

Sau khi đi thăng đường trở lại, Đỗ Văn Hạo hỏi lão linh y: “Ngươi kê thuốc gì cho hài tử?”

Lão linh y thấp giọng nói: “Đây là bí pháp tổ truyền, không thể nói cho ngoại nhân!”

Đỗ Văn Hạo bước tới, đưa tay ra nói: “Có thể lấy một túi cho ta xem không?”

Lão linh y biết hiện tại là lúc quan phủ tra án, một hài tử sau khi uống thuốc của lão đã chết, lão cũng sợ bị liên can, cho nên không dám cự tuyệt, từ trong ngực lấy ra một túi thuốc cho Đỗ Văn Hạo.

Đỗ Văn Hạo nhận lấy túi thuốc, xem xét kỹ càng, dùng đầu ngón tay nhón một chút rồi đưa vào đầu lưỡi để thử, sau đó thì nhổ ra: “Thuốc này của ngươi ta biết là gì rồi, Qua đế tán, đúng không?”

Lão linh y hơi sững người, sau đó thì gật đầu.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ta không ngờ ngươi lại dùng biện pháp sử dụng Qua đế tán thối thổ (kích thích nôn) để trị bệnh điên. Loại biện pháp kích thích nôn này đúng là có thể bài trừ một bộ phận độc tố, từ đó mà từ từ giải chứng trạng của bệnh điên, nhưng, cái này chỉ có thể trị ngọn chứ không trị gốc, cho nên bệnh điên sau ba tháng lại tái phát, rồi lại phải mua thuốc thối thổ của ngươi, cứ quay đi quay lại như thế, ngươi đúng là có thể từ đó kiếm được không ít tiền, nhưng bệnh của hài tử căn bản không hề có chuyển biến tốt. Tiền này ngươi cầm mà không thấy xấu hổ à?”

Lão linh y vuốt râu, nói: “Lão hủ bán thuốc kiếm tiền, là một nguyện vọng này đáp ứng một nguyện vọng khác, chẳng có gì là xấu hổ hay không xấu hổ.”

“Ngươi đúng là thanh thản thật! Nhưng chính vì thuốc trị ngọn chứ không trị gốc này của ngươi bán quá đắt, Tôn Nhân vì bất đắc dĩ, nên chỉ có thể nghĩ biện pháp kéo dài dược hiệu, dùng biện pháp ngừa nôn, kết quả là dẫn tới hài tử trúng độc tử vong!”

“Đó là chuyện của bọn họ, khi bán thuốc ta đã nói rồi, sau khi uống thuốc, hài tử sẽ nôn, không cần phải chú ý, cứ để nó nôn, nôn xong thì sẽ đỡ. Ngươi hỏi lão đầu đó đi, có phải ta đã nói vậy không?”

Tôn Nhân gật đầu nói: “Hắn có nói như vậy!”

“Đúng rồi, cho nên lão đầu ta chẳng có trách nhiệm gì cả.”

“Có trách nhiệm hay không thì thôi quan đại nhân sẽ phán.” Đỗ Văn Hạo cười lạnh, chắp tay nói: “Đại nhân, hài tử của Tôn Nhân là vì trúng độc của Qua đế tán. Qua đến tán là một loại thuốc thôi thổ cấp tính, nhưng, Qua đế tán có độc, sau khi uống vào sẽ phải nôn ra, mới có thể tránh khỏi trúng độc, mà thuốc của bọn họ dùng lại ngăn hài tử nôn, dẫn tới độc của Qua đế tán không thể bài trừ, hài tử cuối cùng trúng độc và tử vong.”

Bàng Cảnh Huy hỏi: “Vậy lão linh y này dùng Qua đế tán để trị liệu bệnh điên là có thỏa đáng hay không?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Phàm là trong cơ thể có tà độc, thầy thuốc căn cứ vào bệnh tình mà chọn các biện pháp như nôn, đổ mồ hôi, tả để bài độc. Nếu bệnh ở bên ngoài, thì sẽ dùng biện pháp cho xuất mồ hôi, bên ở trong cơ thể thì dùng biện pháp tả, thông qua đại tiểu tiện để bài độc. Bệnh có thực tà ở thượng tiêu (tim phổi, thực quản) thì dung biện pháp nôn để bài độc. Bệnh điên là não bộ ngoại thương hoặc là di truyền dẫn tới tạng phủ mất thăng bằng, đờm trở trệ, khí cơ nghịch loạn, phong dương nội động, nhưng không phải là thực tà, theo lý thì không nên dùng biện pháp thôi thổ để trị liệu!”

Lão linh y cười lạnh, nói: “Ai nói Qua đế tán không thể trị được bệnh điên? Đây là bí phương tổ truyền, không biết đã được dùng để cứu trị cho bao nhiêu người, ngươi có thể ra ngoài hỏi thăm. Đỗ đại phu, đừng cho rằng ngươi biết thần kỹ mỗ bụng liệu thương của Hoa Đà là tưởng cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu! Ai cũng có sở trường và sở đoản cả! Người trẻ tuổi ạ!”

Đỗ Văn Hạo hờ hững cười: “Ngươi nói không sai, Qua đế tán quả thật có thể dùng để phối hợp trị liệu bệnh điên, cái mà họ gọi là đờm dãi bị tắc, thần chí mê muội thì cho là điên. Người điên bình thường vốn tự có nhiều đờm, khi phát bệnh thì đờm ngẽn trong cổ họng, khí dồn lên ngất đi rồi sùi bọt mép. Cho nên, trị liệu bệnh điên cho trẻ con nên dùng Nhất niệp kim và Cổn đàm hoàn, để hạ đờm thông khí. Nếu khi đờm dồn lên, cũng có dùng Qua đế tán để thuận thế mà kích thích nôn loại bỏ đờm. Và không thể chỉ dùng Qua đế tán để trị liệu, bởi vì chỉ nôn để loại bỏ đờm thì không thể chữa bệnh điên từ gốc. Hơn nữa, Qua đế tán có độc, không thích hợp để sử dụng lâu dài, đặc biệt là đối với trẻ con. Cho nên, tuy không thể nói là ngươi dùng thuốc sai, nhưng chí ít thì cũng chỉ là dùng một phương thuốc xoàng xĩnh.”

Lão linh y đó lập tức nghẹn lời, nhìn Đỗ Văn Hạo, cái này gọi là hành gia vừa ra tay là biết có hay không có. Lão linh y biết rằng, mình không có biện pháp giở trò gì trước mặt người trẻ tuổi này. Khuôn mặt già nua đỏ lên, cúi đầu không nói gì.

Bàng Cảnh Huy nói: “Nói vậy, bệnh của hài tử đầu tiên là do linh y dùng thuốc không thỏa đáng, sau đó là do Hoàng Tổ Vĩ không biết dược lý mà tự ý dùng thuốc chống nôn dẫn tới trúng độc, hai người cộng lại tạo thành cái chết của hài tử?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu nói: “Đúng vậy, có điều trách nhiệm chủ yếu vẫn là Hoàng Tổ Vĩ.”

Bành Cảnh huy nhìn về phía Hoàng Tổ Vĩ: “Hiện tại ngươi còn gì để nói không?”

Hoàng Tổ Vĩ bịch một tiếng ngã xuống đất, trán đầy mồ hôi lạnh, nói: “Vãn sinh hổ thẹn, học nghệ chưa tinh, dùng thuốc bậy bạ, dẫn tới việc hại tính mạng của người khác, vãn sinh biết tội, nguyện nhận bất kỳ sự trách phạt nào.”

Tôn Nhân thì hối hận gào khóc, vừa khóc vừa đập mạnh vào đầu mình, chính vì sợ thuốc quá đắt, cho nên mới có một cái chủ ý ngu ngốc, ngược lại hại chết chính nhi tử của mình, không khỏi hối hận vạn phần.

Chương 171: Thà chết chứ không mổ bụng

Bàng Cảnh Huy nghe Đỗ Văn Hạo giảng giải xong, liên tục gật đầu, gõ kinh đường mộc: “Hai bên nghe phán đây. Bị cáo Hoàng Tổ Vĩ, y thuật không tinh, tự ý dùng thuốc chống nôn, dẫn tới việc hài tử trúng độc mà chết, chính là tội lang băm ngộ thương tới tính mạng của người khác, niệm tình ngươi có lòng tốt muốn giúp người, yêu cầu bồi thường cho khổ chủ sáu lượng tiền mai táng! Trong vòng một năm không cho phép hành y, đóng cửa nghiền ngẫm lỗi lầm!”

Hoàng Tổ Vĩ ngồi trên đất, vô lực gật đầu. Hoàng lão hán ở ngoài công đường nghe thấy chỉ phạt đền tiền chôn cất, không khỏi thở phào một hơi.

Bàng Cảnh Huy lại nói: “Lão linh y, ngươi biết Qua đế tán chỉ có thể thôi thổ chứ không thể trị được bệnh điên, vì để kiếm tiền, cố ý dùng độc dược này để trị bệnh, cuối cùng dẫn tới hài tử tử vong, đó là thấy lợi quên nghĩa, phán ngươi bồi thường cho khổ chủ mười lượng tiền mai táng! Năm năm không cho phép hành y, đóng cửa nghiền ngẫm lỗi lầm! Nếu dám làm trái, phạt nặng không tha!”

Lão linh y thấy án phạt này cũng tính là nhẹ, không giải thích chỉ dập đầu đáp ứng.

Bàng Cảnh Huy lại nói với Tôn Nhân: “Nguyên cáo, ngươi không hiểu y lý, lại ra chủ ý lung tung, dẫn tới dùng sai thuốc khiến hài tử tử vong, một nửa trách nhiệm này do ngươi tự gánh! Bãi đường!”

Lão linh y gi­ao tiền phạt, chầm chậm bước ra khỏi công đường, thấy Đỗ Văn Hạo đứng đó chưa rời đi, cúi đầu bước qua người hắn, Đỗ Văn Hạo gọi lão lại: “Lão tiên sinh xin dừng bước!”

Lão linh y đứng lại, nhưng không ngẩng đầu lên, chắp tay nói: “Đỗ tiên sinh còn có gì muốn chỉ giáo?”

“Ngươi có nhớ mấy ngày trước từng trị liệu chứng mạch tý cho một cô nương không?”

Lão linh y hơi sững người, lúc này mới ngẩng đầu lên, lạnh giọng nói: “Không sai, thì sao?”

“Lúc đó ngươi đánh tiếng đe dọa, nói vô mạch chết chắc, trừ phi dùng bí phương tổ truyền của ngươi. Hơn nữa còn nói trong thiên hạ chỉ có ngươi trị được. Do đó lừa được chiếc vòng tay của cô nương đó, đúng không?”

“Đúng là có chuyện đó, có điều không phải là lão hủ lừa cô ta, mà là cô ta tự nguyện dùng vòng tay để trả tiền thuốc. Hơn nữa, chứng vô mạch này đích xác chỉ có lão hủ mới có thể trị. Cứu được mạng của tô ta mà chỉ lấy một chiếc vòng tay, không tính là đắt, phải không?”

Đỗ Văn Hạo cười lạnh: “Chỉ là Đương quy tứ thang và Ô đa thang mà ngươi không ngờ lại đòi cái cả vòng tay trị giá năm mươi lượng bạc của người ta. Không cảm thấy đó là ác tâm ư? Hơn nữa, ngươi dùng thuốc không đến nơi đến chốn, chỉ có thể cải thiện một chút chứng trạng của mạch tý, nhưng không thể trị tận gốc, ta hiện tại mới biết, ngươi không phải là y thuật không tinh mà là cố ý dùng cách này để lừa tiền của người khác!”

“Nói tới giá tiền, Đỗ tiên sinh, nghe nói ngươi bán một phương thuốc với giá mười vạn lượng, so với ngươi, năm mươi lượng của ta chỉ là cửu ngưu nhất mao mà thôi, Đỗ tiên sinh nói vậy trước mặt ta, không phải là tự vả vào mặt mình sao? Nói tới phương thuốc, Đỗ tiên sinh bằng vào gì mà nói phương thuốc đó của lão tử không thể trị tận gốc chứng mạch tý? Hắc hắc?”

“Phương thuốc mà ta bán với giá mười vạn lượng bạc đó có thể đồng thời cứu được mười vạn tính mệnh, cho nên mới bán mười vạn lạng bạc, phương thuốc của ngươi thì sao? Còn ta có biết trị mạch ý hay không, không giấu ngươi, cô nương đó chính là muội tử của ta, ta đã xem qua dụng phương của ngươi, và đã điều chỉnh lại phương thuốc sống giở chết giở đó rồi. Muội tử của ta sau khi uống vào, cơ bản đã bình phục, chỉ cần tiếp tục dùng thuốc để củng cố hiệu quả trị liệu và điều dưỡng thân thể là có thể thuyên giảm.”

Lão linh y cười lạnh: “Đỗ tiên sinh nói những điều này với lão hủ làm gì, là muốn khoe khoang y thuật sao? Nếu như vậy thì không cần đâu, vừa rồi thôi quan đại nhân đã hạ lệnh cấm lão hủ hành y trong năm năm. Lão hủ đã lớn tuổi rồi, qua năm năm, chỉ sợ dù có lòng thì cũng không có sức, cũng coi như là cả đời này không thể hành y nữa rồi.”

Đỗ Văn Hạo cười: “Ta có cần phải khoe khoang y thuật với ngươi không?”

“Vậy ngươi nói ra những điều này làm gì?”

“Ta nói chuyện này với ngươi, chỉ là muốn để ngươi biết, muội tử của ta bởi vì bị ngươi đánh tiếng đe dọa, nói rằng vô mạch tất chết, tâm hôi ý lạnh suýt chút nữa thì xuất gia! Mà hiện tại nhi tử của Tôn Nhân cũng bị phương thuốc sống dở chết dở của ngươi hại chết! Ngươi đã hành y, vậy lòng nhân ái của người hành y chắc ngươi cũng biết. Những lời này lão gia ở công đường không nói, cho nên ta mới nói cho ngươi hay. Bất kể ngươi sau này có tiếp tục chữa bệnh cho người ta hay không, hi vọng ngươi có thể chân tâm mà nghĩ cho bệnh nhân, chứ đừng chỉ lo nghĩ đến việc lừa tiền. Lão tiên sinh, ngươi cũng lớn tuổi rồi, đối với tiền tài cũng nên nhìn thoáng đi một chút, ngươi quay đầu lại nhìn thi thể của hài tử đó đi, chẳng lẽ ngươi vẫn còn chưa hiểu sao? Cho dù hông ngươi dắt bạc triệu, sau khi chết cũng chẳng mang theo được một văn! Cho dù ngươi ruộng đồng ngàn khoanh, chỗ táng thân chẳng qua cũng chỉ là một gò đất mà thôi!”

Nói xong, Đỗ Văn Hạo phất tay áo leo lên lưng lừa, tiếng chuông kêu leng keng, vung roi mà đi.

Mấy câu này giống như một đòn cảnh tỉnh, lão linh y quay đầu nhìn Tôn Nhân đang ôm thi thể của ấu nhi khóc lóc thảm thiết trên nguyệt đài, ngây ngốc tại đương trường giống như mất hồn lạc phách.

_______________________________________

Sáng sớm ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo dắt Bàng Vũ Cầm tới phục chẩn cho Vi tiểu thư.

Do bụng vẫn tiếp tục đau, Vi tiêu thư cả đêm không ngủ, hốc mắt sâu hoắm, mắt thì lồi to, chỉ là hai mắt vô thần, mục quang ngốc trệ, bị cắm tị quản nên chỉ rên rỉ một cách hữu khí vô lực, và cũng không còn khí lực để mắng người ta là lang băm nữa.

Đỗ Văn Hạo sau khi chẩn sát, phát hiện cô ta sốt cao không giảm, thiệt chất đỏ thẫm, bựa lưỡi vàng và mạch đập yếu, bụng trướng, thỉnh thoảng lại nôn mửa, môi khô nứt nẻ, tinh thần đã ủ rũ đến cực điểm, vẫn tiếp tục có triệu chứng nhiệt quyết (sốt cao và mê man).

Đỗ Văn Hạo nhíu mày, nói với quý phụ: “Sử dụng phương pháp bảo thủ hai ngày rồi, bệnh của tiểu thư trước sau vẫn không có chuyển biến tốt, e rằng nên sớm làm phẫu thuật là tốt nhất, để tránh kéo dài bệnh tình.”

Quý phụ rơi lệ, nhìn Vi tiểu thư.

Vi tiểu thư nói với giọng yếu nhược: “Không…ta chết cũng không mổ bụng đâu…!”

Đỗ Văn Hạo có chút tức giận: “Đêm qua đau cả một đêm rồi, ngươi còn cảm thấy chưa đủ ư? Còn muốn tiếp tục chịu đau nữa à? Phẫu thuật sớm chút nào thì tốt chút đó, cái này gọi là đau dài không bằng đau ngắn, có hiểu không hả? Hơn nữa, khi phẫu thuật ta sẽ cho ngươi uống thuốc mê, ngươi uống xong thì chẳng biết gì cả, đợi khi tỉnh lại thì ta đã phẫu thuật xong rồi. Sau sáu bảy ngày là cơ bản sẽ hồi phục, không hơn là ngươi cứ nằm sống dở chết dở thế này à?”

Đôi mắt đờ đẫn của Vi tiểu thư tuôn ra lệ hoa, sụt sùi nói: “Ta không…, không mổ bụng đâu…, nếu mổ bụng, thì thà chết còn hơn…hu hu hu!”

Quý phụ vội vàng lấy khăn tay lau nước mắt cho cô ta, an ủi nàng ta đừng khóc, rồi đáp ứng sẽ không để đại phu làm phẫu thuật, lại van cầu Đỗ Văn Hạo dùng biện pháp khác để trị bệnh cho Vi tiểu thư.

Đỗ Văn Hạo tức giận, nhưng chẳng có cách nào khác, đành nói: “Được, đằng nào thì cũng chưa chết ngay được đâu. Không làm thì không làm. Ta đi đây!”

“Đợi đã!” Vi tiểu thư vừa khóc vừa nói.

“Sao?”

“Ngươi…, cầu ngươi, châm cứu giảm đau cho ta đi, được không? Bụng ta đau lắm…”

“Hả, hôm qua chẳng phải ngươi đã nói là một chút hiệu quả cũng không có sao? Không phải nói ta là lang băm, nói danh tiếng của ta chỉ là được thổi phồng lên thôi sao? Sao giờ lại muốn ta châm cứu?”

“Hôm qua châm cứu xong thì vẫn đau…, hu hu, có điều, so với không châm cứu thì vẫn tốt hơn…, ngươi giúp ta châm cứu đi mà…”

Bộ dạng ủy khuất của Vi tiểu thư Đỗ Văn Hạo chịu không nổi, chỉ đành đầu hàng nói: “Sợ ngươi rồi đó! Được, châm cứu thì châm cứu!”

Hắn lấy kim châm ra, châm vào Trung quản, Lương môn, Thiên xu, Nội quan, Khúc trì, Hợp cốc, Thượng quản. Sau khi châm xong, Vi tiểu thư quả nhiên cảm thấy dễ chịu hơn một chút, nhỏ giọng nói đa tạ.

Đỗ Văn Hạo nói: “Ngươi nghĩ cho kỹ đi, muốn làm phẫu thuật thì sai người nói với ta. Làm phẫu thuật sớm thì tốt hơn.”

Vi tiểu thư khịt mũi nói: “Không…, đừng hòng! Ta chết cũng sẽ không bằng lòng mổ bụng đâu!”

“Tùy ngươi!” Đỗ Văn Hạo tức giận cất châm đi, “Ta cho ngươi dùng thuốc, nếu ngày mai vẫn không có chuyển biến tốt, đề nghị nên lập tức làm phẫu thuật, nếu không sẽ nguy hiểm tới tính mạng, các người tự mình suy nghĩ kỹ đi!”

Nói xong câu này, Đỗ Văn Hạo không để ý đến quý phụ bị dọa cho hồn phi phách tán, ôm nữ nhi vào lòng rồi hai người cùng nhau khóc thút thít, xách hòm xuất chẩn ra khỏi cửa.

Bàng Vũ Cầm muốn an ủi hai người họ, nhưng lại không biết nên nói gì, chỉ đành đi theo phu quân tới tiền đường.

Lúc này, Ngô Thông và Ngốc Béo đang thu dọn dược phô, thấy bọn họ tới, vội vàng lên tiếng chào hỏi.

Đỗ Văn Hạo gật đầu, ngồi lên ghế, suy nghĩ nên dùng thuốc như thế nào.

Bàng Vũ Cầm thấy nghiên mực trên bàn đã khô, liền đổ vào một chút nước trong, dùng hai ngón tay nhón lấy mực Tùng yên, vén tay áo lên rồi bắt đầu mài mực, hỏi: “Phu quân, bệnh của nàng ta phải dùng thuốc như thế nào? Hay là dùng Đại sài hồ thang gia giảm nhé?”

Đỗ Văn Hạo gật đầu: “Hôm nay cô ta sốt cao và đau bụng nặng hơn hôm trước, trong phương thuốc lần này cho thêm Bản lam căn, Hoàng bách, Bồ công anh và Ngân hoa đi. Bụng cô ta đau…, thêm Duyên hồ tác, Quảng mộc hương. Nếu phương thuốc này vẫn không có hiệu quả, ta cũng đành thúc thủ vô sách, phải chuyển sang phẫu thuật trị liệu.”

Bàng Vũ Cầm gật đầu nói: “Thực sự là chỉ đành vậy thôi, kỳ thật, nếu khuyên bảo cô ta thì cô ta chắc cũng sẽ hiểu, giữa cái đẹp và tính mạng, thì tính mạng vẫn quan trọng hơn.”

Đỗ Văn Hạo ngây người: “Đẹp? Cái gì đẹp?”

“Bụng đẹp đó! Vi tiểu thư là lo lắng sau khi mổ bụng, trên bụng sẽ có một vết sẹo rất khó coi, cho nên thà chết chứ không muốn mổ bụng liệu thương.”

“Xỉu!” Đỗ Văn Hạo nhịn không được mà nói ra một câu hiện đại, “Sao nàng biết?”

“Hôm qua lúc cô ta lăn lộn vì đau, thiếp phát hiện thân thể của cô ta rất mềm mại, có thể uốn lượn những tư thế mà người bình thường không làm được, khẳng định là từ nhỏ đã luyện vũ đạo. Tối qua thiếp nói chuyện cùng mẹ của cô ta, sau khi hỏi thì quả nhiên là vậy, nghe nói Thái hoàng thái hậu vô cùng yêu mến cô ta, thường bảo cô ta vào cung biểu diễn múa. Có ý muốn nhận cô ta làm Lục hoàng tử phi.”

“Thì ra là như vậy, cô ta sợ trên bụng có thêm một vết sẹo, không làm được hoàng tử phi.”

Đỗ Văn Hạo không biết nhiều về lịch sử của Tống triều, đặc biệt là sự tình trong cung. Đương kim hoàng đế Tống Thần Tông tổng cộng sinh được mười bốn nhi tử, nhưng từ trưởng tử tới ngũ tử đều toàn bộ chết yểu, thất tử, bát tử và thập tử cũng chết yểu, Lục hoàng tử này may mắn được làm trưởng giả trong cung, nhưng người được Tống Thần Tông yêu thích nhất lại là Cửu hoàng tử, cũng là vị hoàng tử mà Tiền Bất Thu đã trị khỏi bệnh. Sau sáu năm, Tống Thần Tông bệnh nguy, vốn muốn Cửu hoàng tử kế vị, đáng tiếc là Cửu hoàng tử có tật ở mắt, theo quy củ thì không thể kế vị, thế là Lục hoàng tử được lên làm hoàng thượng, cũng là Tống Triết Tông sau này.

Vi tiểu thư một lòng muốn làm Lục hoàng tử phi, đúng là có con mắt nhìn xa, bởi vì Lục Hoàng tử là người lớn nhất trong các hoàng tử còn sống sót, có hi vọng được kế thừa hoàng vị nhất, nếu thành công, cô ta tương lai chính là hoàng hậu. Cho nên, Vi tiểu thư này thà chết cũng không bằng lòng mổ bụng liệu thương.

Đỗ Văn Hạo viết xong phương thuốc, đưa ra quầy thuốc lấy thuốc.

Chương 172: Lão thái bà hay chửi đổng

Ngũ Vị đường vừa mở cửa, hán tử cò mồi có ngoại hiệu là “Mặt Dày” liền khập khà khập khiễng đi tới, vừa vào cửa đã mặt mày hớn hở chắp tay nói: “Thần y! Đỗ thần y! Thật sự không hổ là thần y thiện trường Hoa Đà thần kỹ! Thuốc mà hôm qua ngài kê cho ta thực sự là rất hữu hiệu, ha ha, bị đánh hai mươi đại bản xong, ta ngủ một giấc, hôm nay liền có thể xuống giường, nếu là ngày xưa, không nằm tám ngày mười ngày thì đứng hòng đứng dậy được.”

Đỗ Văn Hạo cũng cười nói: “Đã có công hiệu, không đi tuyên truyền cho ta còn chạy tới đây làm gì?”

“Mua thuốc! Ta nghĩ rồi, ngài đây chính là một con đường tốt để kiếm tiền, ta và các nhà khác đi kiện đến nỗi mông đít nở hoa cũng chỉ được tí tiền, không bằng giúp ngài chào hàng bán thuốc, vừa kiếm được tiền lại vừa tiện lợi, ta thấy rằng còn tốt hơn là làm cò mồi kiện tụng, làm cái này nhất định sẽ kiếm được tiền, còn có thể chuyển tới các châu huyện ở lân cận để bán. Cho nên, ta hôm nay tới tìm ngài, là muốn bàn chuyện hợp tác làm ăn với ngài. Ta muốn từ chỗ ngài mua buôn hai loại thuốc đó, giá tiền thì ngài ưu đãi cho ta một chút, thế nào?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Được, có điều ta đang bận, thế này đi, ta cũng định đề cao danh tiếng, giá bán buôn thì bằng bẩy phần giá tiền thuốc hôm qua, ngươi khi đi chào hàng thì giúp ta dương danh là được bình thuốc của ta cũng có dán nhãn của dược phô.

Mặt Dày đại hỷ, nói: “Được! Cứ quyết định vậy đi. Ta nhất định sẽ tuyên truyền danh tiếng của ngài.”

Mặt Dày lấy ra năm chục lạng bạc, mua một lượng hàng, cho vào túi lớn rồi xách đi, vừa đi khập khiễng vừa cười ha ha.

Đỗ Văn Hạo đang muốn tọa đường khám bệnh thì ở cửa lại có một cỗ kiệu được khênh tới, Hầu sư gia đung đưa quạt xếp từ kiệu bước xuống, cười ha ha bước vào, chắp tay nói: “Đỗ đại phu!”

Đỗ Văn Hạo vội vàng đứng dậy chắp tay: “Hầu sư gia, đã lâu không gặp, ông cũng tới kinh thành rồi ư?”

“Ừ, Trang tri huyện được điều nhiệm làm thiếu doãn của phủ Khai Phong, mời ta làm trợ tá, ta tranh thủ về thăm nhà, cho nên tới muộn.”

Đỗ Văn Hạo rất có hảo cảm với vị sư gia tinh minh này, nghe vậy liền chúc mừng hắn.

Sau khi hàn huyên mấy câu, Hầu sư gia nói: “Chuyện đào tạo bà đỡ mà hôm trước tiên sinh thương nghị với đại lão gia nhà ta đã an bài ổn thỏa rồi, lão gia bảo ta đến nói một tiếng là ngày mai bắt đầu lên lớp, vào buổi sáng và buổi chiều. Bởi vì nhân số khá lớn, mà nhân số của mỗi một kỳ thì không thể quá nhiều, như vậy sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả, cho nên sau khi thương nghị thì quyết định mỗi kỳ mười người, mười ngày một kỳ, đào tạo cho đến khi xong thì thôi. Ngài thấy thế nào?”

“Trước tiên cứ vậy đi. Không được thì điều chỉnh sau.”

Sau khi nói xong, Hầu sư gia lên kiệu trở về.

Nghe nói ngày mai bắt đầu lên lớp, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi rất khẩn trương, Đỗ Văn Hạo nói với hai người, đi rồi thì không cần phải tranh luận với bọn họ, cũng không phải ngồi yên trong phòng học để giảng, trước tiên an bài dạy mẫu mấy ngày, sau đó thì thực tập trực tiếp. Đừng nói với những bà đỡ rằng vì sao phải làm thế này, chỉ cần nói cho bọn họ biết nên làm gì. Sự vụ mà nha môn yêu cầu, những bà đỡ này phải chiếu theo mà làm.

Đỗ Văn Hạo bảo Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi suy nghĩ xem nên triển khai dạy mẫu và thực tập như thế nào, sau khi thương lượng xong, buổi chiều Đỗ Văn Hạo lại lắng nghe hồi báo của bọn họ, sau đó tiến hành điều chỉnh cho hai nàng.

Sau khi an bài xong, Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng nhàn rỗi bắt đầu tọa đường khám bệnh.

Khi tới lượt một người trung niên, do cảm thấy có chút quen mắt, hắn liền hỏi: “Ngươi đã tới khám bệnh rồi đúng không?”

Người trung niên cười nói: “Vâng thưa đại phu, hôm qua ta đã đến rồi, một nửa bên mặt của ta không nghe theo sự điều khiển, ngài kê thuốc cho ta, uống xong hai thang thì đỡ, thuốc của ngài thực sự rất linh!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Chẳng trách ta thấy ngươi quen mặt, hôm qua một nửa mặt của ngươi bị liệt, hiện tại đã đỡ rồi, không còn giống như ngày hôm qua nữa. Ha ha, hôm nay tới có chuyện gì vậy?”

“Là thế này, Đỗ đại phu, hàng xóm của chúng tôi có một lão thái thái, họ Trầm, cho nên mọi người đều gọi là Trầm đại nương. Bà ta cũng bị liệt nửa mặt, bị nhiều năm lắm rồi, nghe nói diện than của ta uống hai thang thuốc là khỏi, bảo ta dẫn tới đây tìm ngài chữa.” Nói xong, người trung niên quay lại vẫy tay với một lão thái thái đang ngồi trên bằng ghế dài ở đằng sau.

Trầm đại nương này khoảng sáu bảy mươi tuổi, thân hình cao to, nhưng lưng lại hơi gù. Miệng không ngừng lẩm bẩm. Sau khi bước vào, cuối cùng cũng nghe rõ bà ta nói gì: “Ai cũng nói là thần y, có mà thần y cái rắm! Thần y khoác lác cả thôi, thuốc cũng uống rồi, châm cứu cũng châm rồi, làm cho lòng bàn tay ta tróc hết da, ngứa muốn chết luôn, những tên thần y này chết không được yên đâu, trên đầu mọc sừng trên người mọc gai, đầu lưỡi mọc nhọt bụng lở loét…”

Đỗ Văn Hạo trong lòng cười khổ, Trầm đại nương này xem ra cũng khó chơi đây, nói không chừng thần kinh còn có vấn đề nữa. Loại bệnh nhân này chữa khỏi thì không sao, nếu mà không chữa khỏi thì ngồi đợi nghe chửi đi.

Trầm đại nương ngồi xuống cạnh bàn, Đỗ Văn Hạo quyết định bỏ qua bệnh nhân này, cười bồi nói: “Đại nương, diện than không phải là bệnh dễ trị đâu, có người khỏi rất nhanh, ví dụ như vị đại ca này, hôm qua uống thuốc, hôm nay là khỏi rồi, có người thì chữa thế nào cũng không khỏi, bệnh của lão gia người không phải là cũng vậy sao, chữa nhiều năm như vậy rồi mà vẫn chưa khỏi, cho nên, ta sợ rằng cũng chịu thua.”

“Không sao đâu, ta biết mà, không có đại phu nào là trị được bách bệnh cả, cho dù là thần y thì cũng có bệnh trị không được.”

“Đúng rồi, đại nương, bà minh bạch đạo lý này là tốt rồi, ta chỉ là một đại phu trẻ tuổi, cũng chẳng được coi là thần y, cho nên, bệnh này của bà ta e rằng không chữa được.”

Cơ nhục ở một nửa bên mặt của Trầm đại nương đã khô héo, mặt kia thì lộ ra một nụ cười thê lương: “Đỗ đại phu, ta nghe nói y thuật của ngài rất lợi hại, biết cả mổ bụng liệu thương nữa! Nghe nói y thuật này chỉ có Hoa Đà thần y mới biết, thế gi­an này giờ chỉ có ngài biết mà thôi, nếu ngài không chịu chữa cho ta, bà lão cô đơn như ta chỉ đành mang một nửa bên mặt quỷ này xuống đất gặp lão đầu tử và các hài tử của ta thôi.”

Đỗ Văn Hạo nghe xong lời bà ta nói, hiếu kỳ hỏi: “Đại nương, bà không còn thân nhân nào khác ư?”

Vẻ mặt của Trầm đại nương lộ ra vẻ thê lương, thút thít nói: “Không còn! Nhiều năm trước đã bị bệnh chết rồi, người này nối tiếp người kia, đều chết cả rồi, chỉ còn lại lão bà cô đơn ta sống trên thế gi­an này thôi! Hu hu!”

Đỗ Văn Hạo lập tức minh bạch, phàm là người già cô đơn bên cạnh không còn thân nhân, tính cách có hai loại khuynh hướng, hoặc là lầm lì, trầm mặc ít nói không qua lại với người khác, loại lão nhân này có chuyện gì cũng luôn để trong lòng, cho nên đặc biệt dễ sinh bệnh, hơn nữa suốt đời bị bệnh nặng nên ít gi­ao du với người khác, rất dễ để bệnh kéo dài mà xảy ra nguy hiểm. Loại khác chính là giống như Trầm đại nương, rất thích lẩm bẩm tự nói với mình, đem tất cả những lời nói của mình ở trong lòng thông qua việc nói cho chính mình mà thành nói hết ra ngoài, đây là một loại thổ lộ tâm tình rất tốt, có thể xả ra được hết áp lực ở trong lòng, có lợi cho cả thể xác và tinh thần.

Bất kể là ai, sinh bệnh nhiều năm và chữa qua rất nhiều y sinh mà vẫn không khỏi, tâm tình khẳng định rất lo lắng, hơn nữa trong lòng nhất định cũng sẽ rất tức giận. Người bình thường muốn chửi ai thì cũng chửi sau lưng người ta, hoặc là tự mình chửi thầm trong lòng, nhưng những lão nhân cô độc thích tự nói với mình thì thường thường sẽ chửi cả ra ngoài, hơn nữa còn để cho người khác nghe thấy, như vậy có thể xả ra được hết áp lực và sự bất mãn ở trong lòng.

Sau khi minh bạch điểm này, Đỗ Văn Hạo rất đồng tình đối với đại nương này, liền lên tiếng an ủi: “Đại nương bà đừng gấp, ta chỉ nói là ta có thể không trị khỏi được bệnh của bà, chứ không nói là không trị giúp bà. Nói thật, vừa rồi ta nghe bà mắng các đại phu khác, trong lòng cũng lo ngay ngáy, chỉ sợ tới lúc trị không được, bà lại chửi luôn cả ta, ha ha, đây là một chút tư tâm của ta, cho nên muốn nói rõ với bà trước. Ta có thể trị giúp bà, cũng nhất định sẽ tận tâm chữa trị, nhưng nếu ta trị không khỏi, hắc hắc, bà đừng chửi ta nhé.”

Trầm đại nương cười nửa mặt: “Được, ta không chửi! Ài, cái miệng thối này của ta, khi lão đầu tử nhà ta còn sống, ngày ngày đều nói cái miệng ta giống như thùng phân, ta rất tức giận, cãi nhau ầm ĩ với lão, cãi xong thì đâu lại vào đó. Ài! Hiện tại muốn bị lão chửi vài câu cũng không thể nữa rồi, hu hu hu…”

Đỗ Văn Hạo thầm nghĩ, cho dù Trầm đại nương bằng lòng tới lúc trị không khỏi thì sẽ không chửi mình, nhưng nếu thực sự trị không khỏi, bà ta có chửi mình thì mình cũng chẳng làm gì được bà ta. Chửi thì chửi đi, dẫu sao thì không thể chỉ vì sợ người ta chửi mà từ chối trị bệnh được.

Đợi tâm tình của bà ta ổn định lại, Đỗ Văn Hạo nói: “Đại nương, bà kể lại cho ta quá trình phát bệnh đi, được không?”

“Ừ, đại khái là vào khoảng bốn năm năm trước, ta đi thăm thân thích, uống mấy chén hoàng tửu, ăn thức ăn nguội, trên đường quay về thì bụng ta khó chịu, ta liền xuống xe trâu đi đại tiện ở trong lùm cỏ bên đường. Sau khi xong xuôi lại lên xe, lúc đó ta cảm thấy cổ hơi khó chịu, xoa bóp thì cũng không thấy đỡ, về tới nhà ta cũng không quá để ý đến cái này. Sáng ngày hôm sau khi tỉnh dậy, ta phát hiện không ổn, một bên mặt cứng đờ không có cảm giác, ngâm nước lạnh hay nước nóng đều không được, dùng sức xoa bóp cũng không xong. Thế là bèn tới dược phô tìm đại phu. Đại phu châm cứu cho ta, kê cho một thang thuốc rồi bảo mang về uống. Qua mấy ngày, không chỉ không có động tình gì, mà ngược lại còn bị nặng hơn, mặt giống y như người chết, ăn cơm thì một bên không nhai được, chảy nước miếng một cách mất tự chủ. Tức chết ta đó…”

Đỗ Văn Hạo nói: “Bà tới những đâu tìm đại phu? Đại phu kê thuốc gì cho bà?”

“Bốn năm năm nay, khám qua nhiều đại phu đến nỗi không nhớ nổi, còn kê thuốc gì thì ta không biết, ta không hiểu về y, nếu ta hiểu, còn cần những tên lang băm đó ư? Còn cần chúng dày vò đi dày vò lại, một chút hiệu quả cũng không có à? Cái đám hỗn đản này, chỉ biết lừa tiền của người khác thôi, lừa cả lão thái bà ta, kẻ nào cũng đáng chết! Chết rồi thì xương cốt bị chó ăn…”

Đỗ Văn Hạo vội vàng ngăn bà ta lại: “Đại nương, bà nói là không chửi nữa cơ mà, sao lại chửi rồi?”

“Xin lỗi, ta cứ nghĩ đế những kẻ này là lại tức giận, được, ta không chửi nữa, ngài mau khám bệnh cho ta đi, ai cũng nói y thuật của ngài như thần mà.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Vậy được, ta sẽ khám bệnh cho bà!” Hắn tiến lại gần quan sát thật kỹ, phát hiện mắt và miệng của bà ta đều lệch sang phải, cơ nhục chỗ bị đau khô héo, đoán rằng những thầy thuốc trước đã dùng những phương pháp quá mạnh mẽ làm ảnh hưởng đến chính khí (khả năng kháng bệnh), trong kinh lạc đã bị ứ máu. Hỏi: “Bà có chỗ nào không khỏe không?”

“Đầu hơi đau, miệng khô. Ngủ không ngon.”

“Tiểu tiện và đại tiện thì sao?”

“Tiểu tiện vẫn tốt, nhưng đại tiện thì khô.”

Đỗ Văn Hạo nhìn lưỡi, bắt mạch, phát hiện bà ta mạch sáp , bựa lưỡi không dày. Sau khi trầm ngâm một thoáng, nói: “Thế này đi, ta trước tiên sẽ châm cứu cho bà, xem xem có hiệu quả không, nếu được, thì chứng tỏ suy nghĩ của ta đúng, vậy sẽ theo đó mà chữa tiếp, nếu không được, e rằng là không đoán trúng bệnh.”

“Được được! Nhất định là được mà!”

Chương 173: Chia bệnh mà khám

Đỗ Văn Hạo lấy châm ra, châm lên những huyệt đạo trên nửa mặt có dây thần kinh bị tê liệt của Trầm đại nương, sau đó lấy băng phiến đã nghiền nát bôi lên.

Sau khi hoàn tất, Trầm đại nương không ngờ lại cảm thấy chỗ da thịt bị khô héo đã lờ mờ có cảm giác đau. Loại cảm giác đã lâu không có này khiến Trầm đại nương vừa sờ mặt vừa hưng phấn hét lên: “Đau! Ôi mẹ ơi, đã cảm thấy đau rồi! Thật đúng là thần y, nhiều người nói ngài là thần y mà ta lại không tin, biết vậy đã tới tìm ngài khám bệnh từ lâu rồi. Cái đám thần y ăn hại đó chữa nhiều năm như vậy mà mặt ta vẫn chẳng có phản ứng gì, ngài sao tùy tiện châm hai cái là có cảm giác liền vậy?’

Đỗ Văn Hạo nói: “Người mới bị diện than đa phần là thật chứng, nhưng người bị bệnh lâu ngày thì huyết hư sinh phong, những đại phu trước châm cứu không có hiệu quả là vì thủ pháp châm cứu không chuẩn. Muốn chữa khỏi tất phải căn cứ theo bệnh chứng của bà mà kê đơn. Giờ đã đúng bệnh rồi thì ta sẽ thử cho bà dùng thuốc, uống trước mấy thang xem có hiệu quả không.”

Đỗ Văn Hạo cầm bút viết phương thuốc rồi đưa cho Trầm đại nương đi lấy thuốc.

Mấy bệnh nhân tiếp theo đều là bị các loại mao bệnh như tiêu chảy, đau răng, miệng lở loét, người ta đã lấy số rồi thì được phép yêu cầu mình chẩn bệnh, Đỗ Văn Hạo cũng không cự tuyệt. Tuy nhiên những bệnh nhân xếp hàng phía sau đều rất bực mình, thấp giọng nói mấy loại bệnh vặt này thì tự mình có thể mua thuốc mà uống, còn tới tìm thần y làm gì, thực sự là lãng phí thời gi­an của mọi người. Đỗ Văn Hạo thì vẫn kiên nhẫn khám bệnh cho những người này, nghiêm túc kê đơn.

Đợi hắn chữa xong cho những người này, Diêm Diêm Thủ và Hàm Đầu luôn đứng ở đằng sau thấp giọng nói: “Sư tổ, chúng con có chuyện muốn thương lượng với người.”

Đỗ Văn Hạo nói: “Nói đi!”

“Cái này…” Diêu Diệu Thủ nhìn những bệnh nhân ngồi chật kín trong dược phô, thấp giọng nói: “Sư tổ có thể tới sương phòng nói chuyện không?”

“Được, hai người các ngươi làm gì mà bí mật thế?” Đỗ Văn Hạo mỉm cười bước vào sương phòng rồi ngồi lên ghế thái sư.

Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu đứng ở bên cạnh, quay sang nhìn nhau một thoáng rồi Diêm Diệu Thủ cúi người nói: “Thưa sư tổ, là thế này. Danh khí của Ngũ Vị đường chúng ta càng ngày càng lên cao, bệnh nhân tới tìm người khám bệnh ngày càng nhiều, theo chúng con tính toán, một ngày người bận rộn từ sáng đến tối, ít nhất cũng phải khám cho khoảng sáu bảy chục bệnh nhân.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, thầm nghĩ kinh thành không giống với huyện thành. Từ lúc hắn để lộ thân phận, bán một phương thuốc giá mười vạn lạng bạc, và Phùng thị sau khi được liệu thương thì tuyên dương thanh danh của hắn với những người bệnh ở khắp nơi, lại thêm hắn là sư phụ của Thái y viện Thái y thừa, khiến Đỗ Văn Hạo danh khí đại chấn. Bệnh nhân tới tìm tới hắn nườm nượp thậm chí nhân số có xu thế tăng mạnh. Hắn mỗi ngày tọa đường khám bệnh đều từ sáng sớm cho đến tận canh ba buổi đêm. Thời gi­an ăn cơm trưa cũng vẫn có bệnh nhân ở ngoài đợi.

Diêm Diệu Thủ nói: “Sư tổ, hai người chúng con đoạn thời gi­an này đều thấy những bệnh nhân đến tìm sư tổ khám bệnh phần lớn đều chỉ mắc những bệnh nhẹ. Những bệnh này hai sư huynh đệ chúng con vốn hoàn toàn có thể chữa được, thậm chí tổ sư nương bọn họ cũng có thể. Nhưng những bệnh nhân này đã quen tìm sư tổ rồi, chúng con thì không có bệnh nhân để khám, sư tổ vẫn trả chúng con không thiếu một văn tiền mà chúng con lại quá rỗi rãi, còn sư tổ bận rộn từ sáng tới tối mịt, nửa đêm có có bệnh nhân cấp cứu tới tìm, nếu cứ kéo dài như vậy, sư tổ sẽ vô cùng mệt mỏi.”

Hàm Đầu nói: “Không chỉ sư tổ mệt mà bệnh nhân còn mất công chờ đợi. Bệnh nặng hay nhẹ gì đều tìm sư tổ khám, bệnh nặng chân chính và bệnh nhân khó xử lý ngược lại sẽ bị trì hoãn, người cũng không có nhiều thời gi­an để suy nghĩ xem nên trị liệu thế nào.”

Đỗ Văn Hạo vừa gật đầu vừa nói: “Ừ, có đạo lý! Các ngươi có chủ ý gì thì ói thẳng ra đi, bên ngoài còn có rất nhiều bệnh nhân đang đợi.”

Diêm Diệu Thủ nói: “Chúng ta chia bệnh nhân ra làm hai phần, trọng chứng cùng với cấp chứng và tạp chứng khó xử lý thì để người khám. Bệnh nhẹ bình thường thì chúng con khám.”

Hàm Đầu nói: “Đúng vậy, chúng con nghĩ, đợi một lát nữa sẽ treo một cái bảng, từ ngày mai, từ cấp chứng và trọng chứng ra là có thể tìm sư tổ khám bệnh, các bệnh chứng bình thường thì trước tiên để sư huynh đệ chúng con khám, chúng con không trị được thì mới chuyển cho sư tổ khám. Người thấy thế nào?”

“Được, chủ ý này tốt, ta có thể tập trung tinh lực và thời gi­an vào những bệnh chứng khó xử lý. Cứ theo chủ ý của các ngươi mà làm đi.”

Hai người thấy Đỗ Văn Hạo tán đồng quan điểm của mình thì mặt mày hớn hở. Diêm Diệu Thủ lại nói: “Sư tổ, con có một vấn đề nghĩ mãi vẫn chưa biết nên làm thế nào?”

“Vấn đề gì?”

“Những người có tiền và quan lại quý nhân nếu chỉ đích danh sư tổ khám bệnh, cho dù chỉ có bệnh nhẹ, chúng con cũng không thể ngăn cản. Người xem nên làm thế nào?”

Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lát, nếu dùng chẩn kim để phân khu, rất dễ để lại ấn tượng trọng lợi khinh nghĩa, dùng quan phẩm để phân khu, càng khiến người ta chán ghét. Nhất thời cũng không biết làm thế nào mới tốt, hỏi: “Các ngươi có ý kiến gì?”

Hai người hiển nhiên đã suy nghĩ qua chuyện này, Diêm Diệu Thủ nói: “Người có tiền thì dễ xử lý thôi, may mà sư tổ người hiện tại cũng không thiếu tiền, cho nên người có tiền tìm sư tổ khám bệnh cũng phải theo bệnh mà phân khu. Đối với những quan lại quý nhân thì phải thận trọng, hay là do sư tổ người tự mình ra chủ ý để xác định là có khám hay không.”

Đỗ Văn Hạo gật đầu, nói: “Được, tùy tình huống cụ thể để phân khu đi, quan lại quý nhân bình thường cũng sẽ không lấy số để đợi khám bệnh đâu, như vậy thì quá mất thân phận, phần lớn sẽ mời ta đến nhà khám bệnh.”

Ba người sau khi thảo luận chi tiết xong thì về đại sảnh khám tiếp.

Chưa khám được mấy người thì ngoài cửa bỗng dưng trở nên hỗn loạn, tiếng quát người tránh ra vang lên, nghe thanh âm thì không giống của sai dịch nha môn, Đỗ Văn Hạo vội vàng ngẩng đầu nhìn. Một lát sau, có mấy người đang khênh một nam tử đi vào, bệnh cạnh là một phu nhân rung niên bước chân xiêu vẹo, vừa khóc vừa nói: “Cha nó ơi, ông cố gắng chịu đựng, tới dược phô rồi, đại phu sẽ cứu mạng ông mà!”

Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu biết đây là cấp chứng, vội vàng bỏ việc trong tay xuống, chỉ huy bọn họ khênh người bệnh vào sương phòng chuyên dùng cho cấp chứng rồi đặt lên giường.

Đỗ Văn Hạo cũng vội vàng chạy tới khám.

Khi nhìn thấy thì hắn lập tức giật nảy mình, chỉ thấy nam tử trung niên này cả người phát ban màu tím đen, môi đen xì, lợi sưng tấy, đưa tay ra sờ thử thì thấy hắn cả người nóng rực. Nam tử đó mắt trợn trừng nhìn lên trần nhà, miệng lẩm bẩm mê sảng, hai tay khua loạn trong không trung.

Đỗ Văn Hạo hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Phu nhân đó vừa khóc thút thít vừa nói: “Phu quân của ta mấy ngày trước bị sốt, tìm mấy đại phu chữa trị đều không có hiểu quả, hôm qua bắt đầu chạy loạn kêu gào lung tung, giống như là thấy quỷ vậy, sau đó thì chạy ra đường rồi quỳ lạy khấu bái, còn đánh người nữa. Ta chỉ đành nhờ hàng xóm đưa hắn tới đây, Đỗ đại phu, nghe nói ngài y thuật như thần, ngài mau khám cho hắn đi!”

Đỗ Văn Hạo ngồi xuống ghế đặt cạnh gường, cầm cánh tay hắn, ngưng thần bắt mạch thì phát hiện hắn mạch trầm hữu lực, da thịt nóng rực, đặc bệt là phần ngực, nổi ban khắp toàn thân, dày đặc đến khiếp người. Bảo hắn há miệng ra thì thấy lưỡi khô, bựa lưỡi màu vàng. Hỏi về đại tiện thì biết đã sáu ngày rồi chưa đi, tiểu tiện thì ít và có màu đỏ.

Nghe nói có cấp chứng, Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi từ trong nội trạch vội vàng chạy ra. Hai người vừa thấy người nay toàn thân phát ban màu tím đen thì sợ đến nỗi giật nảy mình, không dám hỏi Đỗ Văn Hạo người này rốt cuộc mắc bệnh gì.

Đỗ Văn Hạo cầm bút viết phương thuốc, đưa cho Ngô Thông đi lấy thuốc, sau đó Bàng Vũ Cầm mang đi sắc cho bệnh nhân uống.

Một lát sau, thuốc được sắc xong, cho bệnh nhân uống.

Không lâu sau, nam tử trung niên ôm bụng gào thét đòi đi vệ sinh. Mấy người vội vàng đỡ hắn vào nhà xí ở hậu viện.

Sau khi đại tiện xong, người trung niên vừa ra khỏi nhà xí được mấy bước lại ôm bụng đòi đại tiện tiếp. Mọi người lại vội vàng đưa hắn quay trở lại.

Sau hai lần đại tiện, trên trán và da thịt của người đó ướt đẫm mồ hôi. Mắt cũng dần trở lại bình thường, hai cánh tay khua loạn trong không trung cũng đã hạ xuống.

Hàng xóm và phu nhân đó đỡ hắn về trong sương phòng, kể lại tình huống đại tiện cho Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Được! Đại tiện ra được là tốt rồi! Cầm hai toa thuốc này về uống, sau khi uống xong thì lại tới phục chẩn.”

Phu nhân đó luôn miệng cảm tạ, sau khi trả tiền thuốc thì cùng hàng xóm đỡ bệnh nhân trở về.

Bàng Vũ Cầm lúc này mới hỏi: “Tướng công, người này rốt cuộc bị bệnh gì vậy?”

Tuyết Phi Nhi nói: “Đúng vậy, nhìn hắn cả người phát ban, dọa người ta sợ muốn chết luôn!”

Đỗ Văn Hạo mỉm cười quay đầu lại hỏi Hàm Đầu: “Ngươi nói thử xem nào?”

Tính cách của Hàm Đầu vốn rất thật thà chất phác, nhưng hiện tại biết sư tổ đang kiểm tra trình độ của mình, xem xem hắn có thể tự mình đứng ra khám bệnh hay không, không khỏi nổi lòng hiếu thắng, ho khẽ một tiếng, nói: “Con vốn không dám đoán định là chứng gì, nhưng sau khi thấy sư phu kê đơn thì có thể khẳng định, đây chính là chứng xuân ôn đàm hỏa phát cuồng (bệnh nhiệt vào mùa xuân, nóng đến phát cuồng)!”

Đỗ Văn Hạo hài lòng gật đầu, tiếp tục hỏi: “Chứng này nên chữa thế nào?”

“Vừa rồi vấn chẩn, người này mấy ngày trước từng bị sốt, đã được trị nhưng chưa khỏi, mà hiện tại lại đang là mùa xuân, tích xuân ôn bất giải, tà nhiệt xâm nhập vào máu, trong người nóng như lửa đốt, dẫn tới toàn thân phát ban, da thịt nóng hầm hập, miệng lưỡi khô nứt. Táo nhiệt bốc lên trên khiến thần trí mê muội, phát cuồng chạy lung tung. Tất cả đều bởi vì xuân ôn đàm hỏa.”

Đỗ Văn Hạo lại gật đầu, quay sang hỏi Diêm Diệu Thủ: “Hàm Đầu nói không sai, ngươi nói đi, dụng phương vừa rồi của ta chú trọng cái gì?”

Diêm Diệu Thủ biết Đỗ Văn Hạo lúc này khảo nghiệm mình không phải chỉ là giải đáp vấn đề của nhị nữ, mà còn xem xem có yên tâm để hai người bọn họ đứng tiền trạm hay không. Trước mắt Đỗ Văn Hạo hắn không dám giở quạt ra khua lung tung, chỉ cao giọng nói: “Dụng phương của sư tổ chính là Thừa khí thang gia giảm và Dịch toàn dương lâu, lại thêm thạch cao sống, rễ sắn, hoàng liên, liên kiều, đảm nam tinh, thạch cát bồ, dùng rễ lau làm vật dẫn.”

“Rất tốt, ngươi có biết vì sao ta lại gia giảm như vậy không?”

“Cái này…” Diêm Diệu Thủ chủ công ngoại khoa, đối với nội khoa thì không biết nhiều, cho nên có chút lúng túng, lắp bắp nói: “Ừm…rễ sắn là để dương minh nhiệt tà, hoàng liên, liên kiều là để thanh tâm mát máu, đảm nam tinh, thạch cát bồ là để tan đờm thông khiếu. Những cái khác thì đồ tôn không biết.”

Đỗ Văn Hạo quay sang bảo Hàm Đầu: “Ngươi nói tiếp đi!”

Hàm Đầu nghĩ một lát rồi nói: “Sư tổ dùng thêm thạch cao là để hàng táo hỏa.”

“Rất không tồi, đại phu khác dùng thạch cao, tối đa chỉ dùng năm ba chỉ, nhưng ta lần này lại dùng thạch cao sống tới hai lạng, ngươi có biết là vì sao không?”

“À! Thạch cao thuộc tính hàn, giúp thanh nhiệt tả hỏa, làm mát da, cam hàn để giải nhiệt trong dạ dày, giúp đỡ khát, chính là vị thuốc cần thiết để giải nhiệt trong phổi và dạ dày.”

“Các ngươi nói rất đúng, như thế này, ta cũng yên tâm để các ngươi độc đáng nhất diện (tự mình chống đỡ một mặt)!”

Chương 174: Vấn chẩn đoán bệnh

Sáng sớm ngày hôm sau, Ngũ Vị đường vừa mở, bệnh nhân đứng đợi ở ngoài cửa liền ùa cả vào đại sảnh, nhưng phát hiện Đỗ đại phu thường ngồi đợi trong đại sảnh giờ lại không thấy đâu, bên trong có treo một tấm bảng, bên trên viết: “Thông báo: Để bảo đảm cấp chứng, trọng chứng và tạp chứng khó chữa có thể được cứu chữa kịp thời cũng như đảm bảo hiệu quả trị liệu, kể từ ngày hôm nay, Đỗ đại phu chỉ khám và chữa cấp chứng cùng với những tạp chứng khó chữa mà tiền đường Diêm đại phu, Hàm đại phu không thể chữa được. Xin mọi người lượng thứ và phối hợp.”

Các bệnh nhân có chút thất vọng, thấp giọng nghị luận. Nhưng đối với quyết định này cơ hồ đều nhất trí tỏ ý thông cảm và tán đồng. Bọn họ cũng biết Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu là đồ đệ của Tiền Ất Tiền Bất Thu, người được xưng là thần y của Thái y viện. Luận về y thuật thì không thua kém đại phu tọa đường của bất kỳ dược phô nào trong kinh thành. Chỉ có điều Đỗ Văn Hạo lại thiện trường thần kỹ Hoa Đà, điểm này thật quá chấn động, cho nên mọi người mới chen chúc muốn tìm đại phu tốt nhất để khám bệnh. Kỳ thật bọn họ cũng tin rằng, đại đa số bệnh nhân ở đây hai vị này cũng có thể khám và trị khỏi.

Ngũ Vị đường vốn có tiền đường và hậu đường, hiện tại tiền đường trở thành phòngkhám bệnh phổ thông của Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu, còn hậu đường thì thành phòng khám bệnh chuyên môn của Đỗ Văn Hạo.

Mọi người vẫn lần lượt lấy số để xếp hàng khám bệnh. Những bệnh nhân mà lúc trước Đỗ Văn Hạo đã khám giờ tới phục chẩn thì có thể trực tiếp tìm Đỗ Văn Hạo khám bệnh.

Cho nên, thê tử của người trung niên bị điên hôm qua cũng vào thẳng hậu đường để tìm Đỗ Văn Hạo phục chẩn. Phụ nhân kia nói: “Đỗ đại phu, phu quân của ta hôm qua dùng thuốc mà tiên sinh kê xong thì đã đỡ nhiều, ta đặc biệt tới tìm ngài để phục chẩn kê thuốc đây.”

“Trượng phu của bà đâu?”

“Ở nhà!”

“Bà sao lại để hắn ở nhà một mình?”

“Không sao đâu, ta nhân lúc ông ấy ngủ say đã khỏa cửa lại rồi, ông ấy không chạy ra ngoài được đâu!”

Đỗ Văn Hạo cười khổ: “Ta không phải là có ý đó, ta nói là bà sao không dẫn hắn tới đây cho ta phục chẩn? Phục chẩn cũng cần vọng văn vấn thiết (bốn phương pháp chữa bệnh của Đông y: Nhìn, nghe, hỏi, sờ)

“Vậy thì để ta quay về dẫn ông ấy tới!”

Phu nhân rời khỏi Ngũ Vị đường về nhà, móc chìa khóa ra mở cửa thì giật nảy mình vì không thấy trượng phu ở đâu.

Phu nhân lo lắng, tìm khắp nơi vẫn không thấy trượng phu, đang muốn mở miệng gọi thì đột nhiên nghe thấy tiếng lạch cạch phát ra trên nóc nhà, phu nhân ngẩng đầu lên nhìn thì phát hiện nóc nhà thủng một lỗ lớn, bà ta vội vàng lấy thang gỗ rồi trèo lên nóc, thấy trượng phu ngồi trên nóc nhà, đang mỉm cười nhìn trời xanh, bộ dạng rất hưởng thụ.

Phu nhân kinh ngạc hỏi: “Phu quân, ông sao trèo lên đây?”

“Trên đây gió xuân hiu hiu, vô cùng mát mẻ. Bà khóa trái cửa, ta không ra ngoài được, chỉ đành mặc áo rồi trèo lên tủ, lật ngói ra rồi trèo lên nóc nhà. Ta vốn muốn trèo xuống, nhưng nóc nhà cao quá nên xuống không được, cho nên liền ngồi đây ngắm phong cảnh, hưởng thụ gió xuân”.

Phu nhân thấy trượng phu trèo lên nóc nhà, vốn rất lo lắng, cho rằng phu quân lại phát điên rồi, hiện tại thấy hắn vẫn đối đáp tự nhiên, biết rằng hắn không điên, vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói: “Phu quân, mau xuống đi, cẩn thận không ngã đó!”

Trượng phu của bà ta trước tiên lắp lại gạch ngói trên nóc nhà, rồi mới men theo xà nhà, cẩn thận bò tới cái thang rồi theo đó hạ xuống đất. Phu nhân khóa cửa kỹ càng xong thì dẫn trượng phu tới Ngũ Vị đường.

Đỗ Văn Hạo bảo hắn cởi áo ngoài ra, chỉ thấy những mụn nhọt màu đen sẫm trên người hắn đã hết dần, da thịt hồng hào trở lại, người cũng bớt nóng, táo nhiệt cơ bản đã giảm. Đỗ Văn Hạo rất cao hứng, trước tiên cắt giảm lượng thuốc, ngoài ra còn thêm Sinh đại, Tiên thạch liêu để mát máu tăng dịch.

Phu nhân lấy thuốc rồi về nhà cho trượng phu uống. Hắn uống xong lại đi đại tiên ba lần, trạng thái điên cuồng mới hoàn toàn biến mất, thần thức tỉnh táo trở lại. Sau đó lại tìm Đỗ Văn Hạo phục chẩn, Đỗ Văn Hạo kê thêm thuốc, cuối cùng nhiệt bệnh của nam nhân điên này cũng hoàn toàn khang phục.

Gió xuân hiu hiu, cành liễu đung đưa.

Văn Phượng, nữ nhi của lễ bộ viên ngoại lang Văn đại phu dẫn hai nha hoàn đu dây ở hậu viện, chơi rất vui vẻ.

Sau khi đu xong, Văn Phượng lại dẫn hai nha hoàn đi leo giả sơn. Giả sơn này đều là Thái hồ kỳ thạch, khi ba người trèo lên đến đỉnh thì trán đã đẫm mồ hôi, đón gió thổi qua, cảm thấy vô cùng thư thái.

Văn Phượng đứng trên đỉnh giả sơn, má đỏ hây hây nhìn những nóc nhà trùng trùng điệp điệp ở ngoài viện, khẽ thở dài một tiếng.

Nha hoàn nói: “Tiểu thư vì sao lại thở dài?”

Văn Phượng u sầu nói: “Ta giống như một con chim hoàng yến bị khóa trong lồng, thực sự rất muốn được bay ra ngắm nhìn thế giới bên ngoài.”

Nha hoàn nói: “Vậy thì e rằng không được rồi, nghe lão gia nói, tiểu thư khuê nữ, phải ở trong nhà đợi người tới mai mối. Một khi chuyện lớn đã định, kiệu hoa sẽ tới nghênh đón, rồi động phòng hoa chúc. Tới lúc đó tiểu thư tự nhiên sẽ được tự do.”

Văn Phượng thở dài: “Lúc đó chỉ sợ cũng không có tâm tình để nghĩ tới những cái này nữa. Trèo xuống thôi.”

Văn Phong dẫn hai nha hoàn quay về tẩm cung.

Gió mát thổi hiu hiu, khiến người ta vô cùng dễ chịu, chỉ là loại dễ chịu này luôn khiến người ta cảm thấy có gì đó không đúng.

Quả nhiên Văn Phong còn chưa về tới nhà, đột nhiên cảm thấy người không được thoải mái, trán nóng bừng. Cố gắng kiên trì về tới phòng ngủ thì liền nằm bệt trên giường, mặt đỏ rực, người nóng hầm hập.

Hai nha hoàn hoảng hốt đi tìm lão gia và lão thái thái để bẩm báo tình hình. Hai phu thê nghe xong liền rất khẩn trương, cuống cuồng chạy tới phòng nữ nhi để kiểm tra. Chỉ thấy thần trí của nữ nhi không được tỉnh táo, đang nằm trên giường thở gấp. Hai người vội vàng hỏi thăm bệnh tình thì đột nhiên Văn Phương hai mắt trợn lên rồi bất tỉnh.

Bệnh chứng vô cùng hung mãnh. Phu thê Văn đại nhân chỉ có một đứa con gái, thấy nữ nhi gặp nguy kịch thì đều vô cùng sợ hãi, đặc biệt là Văn phu nhân, sợ đến nỗi cả người mềm oặt, khóc lóc hỏi phải làm sao bây giờ.

Văn đại nhân thấy nữ nhi bệnh tình nguy ngập, lập tức phái ra mấy người đi mời các danh y đại phu ở trong kinh thành tới.

Người tới đầu tiên là Trang đại phu của Huệ Nhân đường ở gần nhất.

Văn đại nhân đưa Trang đại phu tới khuê phòng của nữ nhi Văn Phong.

Chỉ thấy màn che được phủ kín, thậm chí còn không nhìn nổi bên trong rốt cuộc có người hay không.

Trang đại phu rất nghi hoặc quay đầu lại nhìn Văn đại nhân.

Văn viên ngoại lang nói: “Trên giường chính là tiểu nữ, hôm nay sau khi từ hoa viên trở về thì đột nhiên bị bệnh, sau đó thì bất tỉnh nhân sự, xin đại phu tận tâm chẩn sát.”

Trang đại phu gật đầu nói: “Xin vén màn lên để tiện chẩn bệnh.”

Văn viên ngoại lang nghiêm mặt, lắc đầu nói: “Tiểu nữ năm nay vẫn chưa đính hôn, nam nữ thu thụ bất thân, không tiện để người ngoài sờ mó, chỉ có thể cách màn chẩn bệnh mà thôi, xin tiên sinh bỏ quá cho.”

Trang đại phu nghe vậy liền trợn mắt lên nói: “Cách màn chẩn bệnh? Lời này của đại nhân tại hạ thực sự không hiểu.”

Văn viên ngoại lang nói: “Xin tiên sinh minh giám, để bảo toàn danh tiếng thanh bạch cho tiểu nữ, không thể không làm như vậy, tiên sinh ngài không thể thấy dung nhan của tiểu nữ, thậm chí không thể sờ vào tay của tiểu nữ, có tình huống gì thì chỉ có thể hỏi cảm thụ của nó mà thôi, những cái khác thì đều không được!”

Trang đang phu nghe vậy lại trợn trừng mắt: “Không thể nhìn? Nghe qua màn? Còn không thể bắt mạch xem lưỡi? Chỉ có thể hỏi thôi, Văn đại nhân, điều kiện này của ngài quá hà khắc. Bát kể là đại phu giỏi đến thế nào đi chăng nữa, nếu không thể tứ chẩn (nhìn, nghe, hỏi sờ), chỉ hỏi không thôi thì tuyệt đối không thể chẩn sát rõ được bệnh tình!”

“Biết là vậy, nhưng Trang đại phu, bản quan thân là lễ bộ viên ngoại lang, từ nhỏ đã luôn nghiêm khắc tới tiểu nữ, luôn lấy thân mình làm mẫu, cho nên, tiểu nữ cho dù bệnh chết thì cũng không thể làm trái nữ đức.”

Trang đại phu lại nói: “Chẩn bệnh mà cũng đánh đồng là nam nữ thụ thụ bất thân ư? Hơn nữa lệnh ái chẳng lẽ từ nhỏ đến giờ chưa từng khám bệnh à? Khi mắc bệnh thì không có ai chẩn sát cho nó ư?”

Văn viên ngoại lang cười nhạt: “Đúng, mà cũng có thể nói là sai, bởi vì trước khi tiểu nữ được mười tuổi, bản quan cho phép đại phu chẩn sát cho nó, bởi vì lúc đó nó còn nhỏ, không cần phải nghiêm thủ nữ đức. Nhưng sau khi nó được mười tuổi thì cho dù bệnh nặng đi nữa bản quan cũng không cho phép đại phu khi chẩn sát được tiếp xúc với nó.”

Trang đại phu trong bụng thầm mắng một câu “lão già cổ hủ” nhưng tình huống hiện tại không cho phép hắn chạm vào bệnh nhân thì sao hắn có thể khám bệnh. Hơn nữa còn bắt cách màn mà hỏi. Điều này không khỏi khiến Trang đại phu thúc thủ vô sách, hắn từ trước đến giờ chưa từng dùng biện pháp này để khám cho bệnh nhân nào.

Trang đại phu ngồi xuống cạnh giường, đang định mở miệng hỏi thì nghe thấy ngoài cửa vang lên tiếng bước chân dồn dập. Trang đại phu quay đầu lại nhìn, hắn gần như đều nhận ra toàn bộ. Người đi đầu chính là Thái y thừa Tiền Bất Thu, người đi sau lão đều là những y giả có tiếng trong kinh thành, bao gồm cả Tiếu đại phu của Huệ nhân đường bọn họ cũng được mời tới.

Thế là căn phòng trở nên vô cùng náo nhiệt.

Có điều nghe xong điều kiện của Văn đại phu, các danh y đều trợn trừng mắt, quay sang nhìn nhau. Không cho nhìn, không cho bắt mạch, không cho xem lưỡi thì biết khám kiểu gì, như vậy thì ai dám nắm chắc sẽ phán đoán chính xác được bệnh tình, trị khỏi cho ái nữ của Văn đại nhân đây?

Có người còn khuyên bảo Văn viên ngoại lang, nói rằng phàm là y giả thì phải vọng văn vấn thiết, thiếu một cái thôi cũng không thể khám bệnh được, hi vọng Văn viên ngoại lang có thể không câu nệ nữ đức mà lấy trị bệnh làm trọng.

Văn viên ngoại lợi cười nhạt: “Chư vị, có lẽ tiểu nữ bệnh nặng, hoặc tiểu nữ không thể cứu, nhưng tấm thân trong trắng thì không thể bị làm ô uế. Nói đơn giản là thế này, danh y kinh thành nếu ai có thể chữa khỏi bệnh cho tiểu nữ, bản quan nguyện xuất ra trăm lượng bạc ròng để trọng tạ! Nếu nữ nhi bệnh không cứu được, bản quan chỉ có thể coi như là chưa sinh ra nữ nhi này mà thôi.”

Lời này vừa nói ra, tất cả các y giả đều ngây ngốc.

Tiền Bất Thu miễn cưỡng cười nói: “Văn đại nhân nguyện xuất ra trăm lượng bạc để thưởng cho ai cứu được lệnh ái, chúng ta đều rất bội phục, nhưng nếu y giả không thể vọng văn vấn thiết, chỉ dựa vào hỏi không thôi thì e rằng không ai có thể trị được bệnh cho lệnh ái cả!”

Văn đại phu cười khổ một tiếng, không trả lời, chắp tay sau lưng rồi ngênh ngang bỏ đi.

Tên gia hỏa này không ngờ lại cố chấp như vậy! Mấy y giả nhao nhao thấp giọng nghị luận, có người đề nghị lén lút vén màn lên để chẩn sát, trị bệnh cứu người quan trọng hơn. Nhưng, ở cạnh giường có mấy thị vệ hông giắt đao, tay nắm chặt chuôi đao, đang nhìn chằm chằm vào bọn họ, chỉ cần có người dám chạm vào giường thì lập tức rút rao chém ngay.

Trang đại phu của Huệ Nhân đường ho khẽ một tiếng, nói: “Đã tới rồi thì phải làm thôi, Văn đại nhân ra một nan đề như vậy, chúng ta chỉ đành tiếp chiêu thôi, chẳng còn cách nào khác. Sao không cử ra một đại biểu, hỏi thăm bệnh tình của Văn tiểu thư, xem xem có thể chẩn đoán chính xác được không. Chư vị thấy thế nào?”

Tiêu đại phu nói: “Lời này rất đúng. Danh y của kinh thành đều tề tụ hết ở đây, nếu không thể chẩn trị bệnh này, chúng ta còn mặt mũi nào mà hành y nữa?”

Mọi người nhao nhao gật đầu.

Nhưng khi bàn đến ai sẽ tới vấn chẩn thì tất cả đều im lặng không nói gì.

Chương 175: Cùng nhau chữa bệnh

Các danh y trong lòng đều có cố kỵ, dưới loại tình huống này, nếu như hỏi thỏa đáng thì không sao, nếu hỏi không chu toàn sẽ khiến người khác nói này nói nọ. Cho nên các danh y đang có mặt đều không ai lên tiếng.

Một lát sau, Trang đại phu ho khẽ một tiếng, nói: “Bỉ nhân tiến cử Thái y thừa Tiền đại phu vấn chẩn, những người ngồi ở đây có ai muốn cử người khác không?”

Tuy vẫn có người không phục, nhưng lúc này ai cũng chỉ mong có người đứng ra gánh vác trách nhiệm thay mình, cho nên không ai lên tiếng phản đối, tất cả đều nhao nhao gật đầu.

Tiền Bất Thu cũng không từ chối, cầm một cái ghế tới ngồi xuống cạnh giường, hỏi: “Tiểu thư, quý thể của cô thế nào rồi?”

Mọi người đều thầm khen câu hỏi này tuy đơn giản, nhưng lại là một câu vấn chẩn rất tinh túy. Y giả vấn chẩn, tối kỵ nhất là cố ý dẫn dắt bệnh nhân. Ví dụ như: “Ngươi có đau đầu không?” “Ngươi có sốt không?” “Ngươi có đau bụng không?” vân vân…Bệnh nhân thường sẽ không nghĩ ngợi gì mà trả lời ngay “đau đầu, tiêu chảy…”. Cho nên y giả tối kị nhất là hỏi như vậy, thường thường sẽ không nhận được đáp án chính xác.

Câu này của Tiền Bất Thu cho dù đơn giản, nhưng lại là một câu hỏi chuẩn xác nhất. Người bệnh từ sự dẫn dắt này, chỉ có thể tự mình xem xét suy cho cùng là có chỗ nào không ổn, mà câu trả lời của người bệnh thường thường chính là nơi mà họ cảm thấy không ổn nhất, cũng chính là cái gọi là “chủ tố”. Mà “chủ tố” là bệnh chứng mà y giả cần phải nắm chắc nhất, thường thường chính là mấu chốt của bệnh.

Cho nên, câu này vừa được nói ra, tất cả các đại phu đều giống như vừa phải chịu một cái bạt tai.

Văn tiểu thư rên một tiếng, dùng thanh âm hư nhược nói: “Khó chịu lắm, trong người rất nóng…”

“Nóng?”

Tất cả các đại phu đều thầm gật đầu. Nhưng khi Tiền Bất Thu tiếp tục hỏi xem còn có chỗ nào không ổn không thì trong màn Vi tiểu thư chỉ rên rỉ chứ không trả lời. Thế là nha hoàn lại bổ sung thêm một triệu chứng, nói trên người và trên mặt tiểu thư đều rất nóng, sắc mặt đỏ rực, nhưng trừ điểm này ra thì không cung cấp thêm thông tin gì có thể tham khảo nữa.

Các y giả đều thúc thủ vô sách.

Tiền Bất Thu chỉ đành hỏi nha hoàn ở bên cạnh: “Tiểu thư của các ngươi sao lại bị bệnh?”

Nha hoàn vừa khóc vừa nói: “Ta và tiểu thư đang chơi đu dây rất cao hứng ở sau hoa viên thì tiểu thư nói muốn leo núi. Chúng ta liền bò lên hòn giả sơn ở sau hoa viên, ngắm phong cảnh, khi trở về thì tiểu thư liền thành như thế này.”

Hiện giờ, tuy đã xuất hiện nhiều tin tức nhưng vẫn chưa đủ để biện chứng. Quản gia bước tới giục: “Lão gia nói xin các vị mau mau kê đơn.”

Các danh y lại bắt đầu nghị luận.

Vẫn là Trang đi phu nói đầu tiên: “Đây là thực hỏa! Nên dùng Thừa khí thang, Thiên thủy tán!”

Thủ đại phu vuốt râu nói: “Không đúng, đây chính là gió lạnh thấm vào trong phủ tạng, dương nghẽn ở tì, nên dùng Tán hỏa thang!”

Thang đại phu của Huệ Nhân đường cũng lắc đầu: “Không giống, hay là ôn dịch? Nghe nói Đông Phủ các những ngày trước đã xuất hiện lệ dịch, chẳng lẽ đã truyền tới kinh thành rồi sao?”

Các danh y nhao nhao nói ra ý kiến của mình.

Tiền Bất Thu không thấy Đỗ Văn Hạo có mặt ở đây, liền hỏi quản gia. Quản gia trả lời: “Tiền đại phu, ta đã mời Đỗ đại phu rồi. Nhưng tiểu nhị của dược phô nói Đỗ đại phu có cấp chứng, đang thi triển thần kỹ Hoa Đà mổ bụng liệu thương, sau khi phẫu thuật xong mới có thể tới được.”

Tiền Bất Thu gật đầu, hai ngày trước hắn có đưa thiên kim Vi tiểu thư của Văn đại nhân tới Ngũ Vị đường, sau đó biết được Vi tiểu thư khăng khăng không chịu phẫu thuật, hiện tại nghe nói Đỗ Văn Hạo đang làm phẫu thuật, đoán rằng đã thuyết phục được Vi tiểu thư rồi, trong lòng không khỏi mừng rỡ.

Bọn họ nói thêm được hai câu thì Văn viên ngoại lang tới, các danh y không ai phục ai, thậm chí còn bắt đầu đánh cuộc. Dẫu sao thì việc này không chỉ liên quan tới hai trăm lạng bạch ngân tiền thưởng, mà còn cả vấn đề danh dự, y thuật của các đại phu nữa. Nếu lúc này có thể chuẩn đoán chính xác bệnh chứng và đánh bại y giả khác, thì ngay ngày mai, tin tức này sẽ chấn động cả kinh thành, danh tiếng tăng cao cho dù kim tiền cũng không mua được.

Những y giả này đại đa số là đại phu trong dân gi­an, mà trong mấy thái y của Thái y viện thì Tiền Bất Thu quan chức cao nhất, danh vọng cũng lớn nhất, cho nên Văn đại nhân đương nhiên lấy ý kiến của lão làm chuẩn, hỏi: “Tiền đại nhân, ngài cho rằng tiểu nữ mắc bệnh gì?”

Tiền Bất Thu lắc đầu nói: “Văn đại nhân, chỉ bằng tình huống vấn chẩn vừa rồi, ti chức thật sự không dám kết luận bừa, nhưng đại nhân đã nói rõ là không thể vén màn lên để chẩn sát, cho nên ti chức không có cách nào để biện chứng cho Văn tiểu thư.

Văn viên ngoại lang rất thất vọng, lại nghe những đại phutranh chấp không thôi, trong lòng thấy bực mình, nói: “Vậy nên làm thế nào mới tốt, Tiền đại nhân, ngài giúp ta đưa ra chủ ý đi!”

Tiền Bất Thu chắp tay nói: “Đại nhân, tiểu thư bị sốt cao, có hiện tượng cảm nhiễm phong hàn. Các y giả đều cho rằng tiểu thư chính là bị thực hỏa, cho nên theo sẽ án chiếu theo biện chứng tập trung nhất để kê đơn, xem hiệu quả thế nào rồi tính tiếp.”

Văn viên ngoại lang giờ cũng chẳng có chủ ý nào khác, đành gật đầu nói: “Được được! Cứ theo ý kiến của Tiền đại nhân mà làm!”

Thế là, Trang đại phu chủ trương là thực hỏa đề bút viết phương thuốc rồi sắc thuốc cho Văn tiểu thư uống.

Đợi một tiếng sau vẫn không có hiện tượng đỡ sốt, các y giả lại cho rằng Văn tiểu thư bị dương nghẽn ở tì bắt đầu lên tiếng chế giễu, sau đó mọi người quyết định chiếu theo quan điểm này để kê đơn. Lại thêm một tiếng nữa trôi qua, vẫn không có chút hiệu quả nào.

Tiếp theo lại đổi sang những phương án chữa trị khác nhưng cũng đều không có bất kỳ hiệu quả gì, tất cả các y giả đều im lặng.

Văn viên ngoại lang chỉ đành đem hi vọng ký thác lên người Đỗ Văn Hạo, vị thần y thiện trường Hoa Đà thần kỹ mà đến giờ vẫn chưa lộ diện, liên tục phái người đi thúc giục, nhưng nghe nói hắn vẫn đang phẫu thuật, không thể thoát thân. Cho tới tận khi trời sắp sáng, Đỗ Văn Hạo cuối cùng cũng mặt mày phờ phạc đến Văn phủ.

Văn viên ngoại lang giống như gặp được cứu tinh, tự mình ra cửa nghênh tiếp, Đỗ Văn Hạo không kịp hàn huyên, vừa thấy Tiền Bất Thu đã bước tới hỏi tình huống vấn chẩn.

Tiền Bất Thu cũng không kịp hỏi Đỗ Văn Hạo kết quả phẫu thuật thế nào, trước tiên tóm tắt quá trình vấn chẩn của các danh y, và đặc biệt cường điệu yêu cầu kỳ quặc của Văn viên ngoại lang.

Đỗ Văn Hạo nghe xong cũng cảm thấy rất bất ngờ. Chỉ có thể vấn chẩn? Không thể vọng, văn, thiết (nhìn, nghe, sờ)? Vậy thì khám bệnh kiều gì? Hắn trong lòng cũng hơi chột dạ, có điều không biểu hiện ra ngoài mặt, chỉ lắng nghe Tiền Bất Thu giới thiệu quan điểm của các danh y. Hắn nhìn các danh y ở trong phòng, trầm ngâm một lát rồi bước tới cạnh giường, ho khẽ một tiếng rồi hỏi: “Tiểu thư, ta là tọa đường đại phu Đỗ Văn Hạo của Ngũ Vị đường, tới đây để chẩn bệnh cho tiểu thư.”

Văn tiểu thư tựa hồ như đã từng nghe danh của Đỗ Văn Hạo, biết thần y chân chính đã đến rồi,lời nói lộ ra vẻ hưng phấn: “Ừ, cám ơn Đỗ đại phu. Ngài hỏi đi?”

“Tiểu thư có đau đầu không?” Đỗ Văn Hạo hỏi thẳng vào vấn đề, tựa hồ như trong lòng đã có tính toán.

“Không đau!”

“Thế đau bụng không?”

“Không đau!”

“Có nôn mửa, tiêu chảy không?”

“Không đau bụng cũng không tiêu chảy!”

Đỗ Văn Hạo nghĩ ngợi một chút rồi nói tiếp: “Có cảm thấy bứt rứt và đổ mồ hôi không?”

“Không!”

Đỗ Văn Hạo nói: “Lúc tối chứng trạng của tiểu thư trầm trọng hơn, đúng không?”

“Chính vậy!”

“Hơn nữa mắt mờ, tai ù đúng không?”

“Đúng!”

“Miệng khô, cổ họng đau đúng không?”

“Không sai!” Văn tiểu thư kinh ngạc vạn phần: “Tiên sinh đoán rất chuẩn, chính là như vậy đó!”

“Cô dùng tay sờ mạch xem thế nào? Có thấy mạch đập rất nhanh không?”

Một lát sau, Văn tiểu thư nói: “Không sờ thấy mạch!”

Đỗ Văn Hạo lại nói: “Tiểu thư, phiền cô hơi dùng sức ấn xuống xem xem có thể sờ thấy mạch hay không?”

Một lát sau, Văn tiểu thư lại nói: “Sờ thấy rồi, đập nhanh lắm!”

Các đại phu khác nhao nhao vỗ đầu hối hận, mình sao lại không nghĩ ra điểm này chứ? Mình đã không thể bắt mạch, vậy thì bảo bệnh nhân tự mình bắt mạch rồi nói xem cảm giác thế nào, như vậy cũng được mà.

Các y giả vô cùng ngạc nhiên khi thấy rằng Tiền Bất Thu hỏi thì Văn tiểu thư cơ hồ không nói gì, Đỗ Văn Hạo vừa mở miệng thì cứ hỏi là đáp.

Càng khiến họ kinh ngạc hơn nữa là Đỗ Văn Hạo không vén màn lên mà vẫn có thể phán đoán chuẩn xác các triệu chứng của bệnh nhân, giống như là tận mắt nhìn thấy vậy.

Đỗ Văn Hạo cầm bút viết phương thuốc rồi đưa cho dược đồng đi sắc.

Các y giả đều ngồi ở phòng khách đợi kết quả.

Sau khi uống thuốc, chỉ một lát sau trong khuê phòng liền truyền tới tin tức Văn tiểu thư đã hết sốt, hơn nữa còn có thể xuống giường, không còn cảm giác khó chịu nữa rồi.

Đám y giả đều vừa kinh ngạc vừa vui mừng, chắp tay nói với Đỗ Văn Hạo: “Chúng ta dùng thuốc cả một đêm đều vô hiệu, tiên sinh chỉ dùng một thang thuốc đã chữa khỏi cho Văn tiểu thư! Đỗ tiên sinh không cần bắt mạch xem lưỡi mà vẫn có thể phán đoán chuẩn xác bệnh chứng để chữa khỏi, thật không hổ là thần y!”

Đỗ Văn Hạo cười nói: “Các vị quá khen rồi, kỳ thật ta chỉ là chiếm được tiện nghi mà thôi. Thứ nhất là bệnh của tiểu thư khá đơn giản, thứ hai là rất nhiều biện chứng đã được các vị dùng rồi nhưng vẫn vô hiệu, điều đó giúp ta loại trừ được đại đa số các khả năng. Từ đó ta tự nhiên cũng thuận tiện tìm ra rốt cuộc là bệnh chứng gì!”

Trang đại phu chắp tay nói: “Tuy là vậy, nhưng sau khi loại trừ đi các khả năng, chúng ta cũng chưa chắc đoán được bệnh chứng chuẩn xác để kê đơn. Đỗ tiên sinh có thể nói ra những điều tâm đắc trong lần chẩn bệnh này cho chúng ta nghe không?”

“Được chứ, ta sau khi nghe giới thiệu về bệnh chứng, sơ bộ đoán định bệnh này của tiểu thư chính là âm hư nội nhiệt, nhưng lại không được bắt mạch để chẩn đoán chính xác, cho nên đã không thể bắt mạch thì chỉ có thể để Văn tiểu thư tự mình bắt mạch, mạch của người bị âm hư nội nhiệt tất sẽ là mạch trầm. Văn tiểu thư tuy không biết bắt mạch nhưng đã nói cho chúng ta biết nàng phải ấn mạnh vào cổ tay mới sờ được mạch và mạch đập rất nhanh, từ đó có thể xác minh được suy đoán là mạch trầm. Ta lại cẩn thận kiểm tra những phương thuốc mà mọi người lúc trước đã dùng nhưng vô hiệu, sau đó đổi sang dùng Quy thược địa hoàng thanh, Gia sinh địa, Thiền thuế. Quả nhiên là có hiệu quả. Kỳ thật nếu không có biện chứng và dụng phương lúc trước của chư vị làm cơ sở, ta cũng chưa chắc đã có thể thành công, cho nên trị khỏi cho tiểu thư kỳ thật là công lao của mọi người!”

Mấy câu này của Đỗ Văn Hạo là tâng bốc tất cả những y giả có mặt tại đây. Những y giả này lúc trước đều chỉ nghe nói qua về tên tuổi của Đỗ Văn Hạo. Hôm nay tận mắt thấy hắn còn rất trẻ tuổi như vậy, không khỏi đều có chút khinh thường. Nhưng đến khi Đỗ Văn Hạo chữa khỏi bệnh cho Văn tiểu thư thì mọi người đều bội phục. Hiện tại Đỗ Văn Hạo lại tâng bốc mọi người, khiến cho các y giả trong lòng đều rất sảng khoái, không nhịn được mà đồng loạt vuốt râu tươi cười, thầm khen vị Đỗ đại phu trẻ tuổi này thật biết làm người, ai ai cũng nảy sinh hào cảm đối với Đỗ Văn Hạo.

Văn viên ngoại lang nghe xong cũng ha ha cười lớn, sai người đem hai trăm lạng bạc thưởng cho Đỗ Văn Hạo, lại thưởng cho mỗi vị y giả hai mươi lạng, coi như là phí vất vả. Mọi người đều hoan hỉ rồi cáo từ ai về nhà nấy.

Chương 176: Hồng sa (*)

* (Sa: Bệnh cấp tính như thổ tả, say nắng; Hồng sa: Trên da thịt nổi lên những nốt màu đỏ)

Tiền Bất Thu lúc này mới rảnh để hỏi Đỗ Văn Hạo: “Sư phụ, phẫu thuật cho Vi tiểu thư không có vấn đề gì chứ?”

Đỗ Văn Hạo nói: “Ai bảo ngươi là ta phẫu thuật cho Vi tiểu thư?”

Tiền Bất Thu ngạc nhiên: “Sư phụ tối nay không phải là phẫu thuật cho Vi tiểu thư sao?”

“Đương nhiên không phải rồi, là phẫu thuật cho một người bị chứng sỏi mật và một người bị loét dạ dày. Mấy ngày trước thì chẳng có ai phẫu thuật, hôm nay liên tục có tới hai người, nghe nói ta có thể mổ bụng liệu thương, họ đau bụng quá không chịu được, uống thuốc cũng vô hiệu nên được đưa tới chỗ ta. Phẫu thuật rất thành công, đã an bài lưu viện để quan sát trị liệu rồi.”

“Vậy còn Vi tiểu thư thì sao? Vẫn chưa làm phẫu thuật à?”

“Chưa, cô ta sống chết cũng không chịu, ta chỉ có thể dùng thuốc dể trị liệu mà thôi, may mà bệnh của cô ta cũng không quá nghiêm trọng, ta điều chỉnh thuốc hai lần, lại thêm châm cứu, không ngờ cũng đã có hiệu quả. Tà nhiệt giảm bớt, bụng cũng đỡ đau, đại tiện cũng thông rồi. Cho nên ta sau khi tùy chứng để điều phối dược phương, tiếp tục cho dùng thuốc để trị liệu. Lần này hi vọng có thể không cần phẫu thuật mà vẫn chữa khỏi bệnh cho cô ta, để tránh người ta tương lai không làm được hoàng hậu thì lại trách ta.”

Tiền Bất Thu không hiểu, hỏi: “Tương lai làm hoàng hậu?”

“Ha ha, ngươi không biết ư, vậy thì ta cũng không thể nói linh tinh. Dù thế nào thì trước mắt, bệnh của cô ta không có gì nguy hiểm, lúc cao hứng còn ríu ra ríu rít như chim sẻ, không ngừng nói cám ơn.”

Tiền Bất Thu cười nói: “Sư phụ dụng phương thật là điêu luyện, hơn nữa lại can đảm cẩn trọng xuất kỳ chế thắng, khiến người ta phải khen ngợi không thôi.”

“Biết làm sao bây giờ, ta muốn làm phẫu thuật nhưng Vi tiểu thư lại thà chết cũng không chịu. Ta bị bức không còn cách nào khác, mới xuất ra được cái gọi là kỳ chiêu này. Ha ha!”

Hai người đều một đêm chưa ngủ nên nói vài câu rồi cáo từ ai về nhà nấy.

Đỗ Văn Hạo quay về ngủ một giấc cho tới tận trưa hôm sau mới bò dậy ăn cơm.

Bàng Vũ Cầm và Tuyết Phi Nhi mừng khấp khởi nói với Đỗ Văn Hạo rằng sáng sớm này bọn họ đi dạy học, án chiếu theo sự an bài của Đỗ Văn Hạo, hai nàng không giảng lý thuyết (mà cũng không dám giảng bởi vì hai người họ đều không hiểu nhiều), trực tiếp an bài dạy mẫu và cho thực tập.

Cũng may là vừa hướng dẫn đỡ đẻ xong một lượt thì nhận được tin báo, nói rằng ở gần nha môn có một sản phụ trở dạ, mời bà đỡ đến đỡ đẻ.

Hai nàng lập tức dẫn bà đỡ trong lớp đến nhà đó! Đây là cơ hội để hai nàng làm mẫu đỡ đẻ. Hai nàng nghiêm cẩn thực hiện các thao tác diệt trừ vi khuẩn để tiến hành đỡ đẻ, đặc biệt là đối với việc xử lý cuống rốn và khâu lại sản đạo (đường thai nhi từ trong bụng mẹ chui ra ngoài).

Do lúc mở lớp, Trang Huýnh Mưu đã tự mình dặn dò các bà đỡ rằng sau khi tốt nghiệp, nếu ai không biết phương pháp đỡ đẻ mới thì sẽ không cho phép tham gia công tác đỡ đẻ. Cho nên những bà đỡ này rất chú ý học hỏi.

Đỗ Văn Hạo nghe hai nàng kể lại cũng rất cao hứng, có lần làm mẫu đỡ đẻ thực tế này, các bà đỡ sẽ được cảm nhận một cách trực tiếp, khi học cũng sẽ cảm thấy vào nhanh hơn.

Buổi chiều, Đỗ Văn Hạo tới bệnh phòng phục chẩn. Bệnh tình của hai bệnh nhân hôm qua được phẫu thuật đã dần ổn định, nhờ tích lũy được nhiều kinh nghiệm, Đỗ Văn Hạo hiện tại khai triển phẫu thuật cho bệnh đau bụng cấp đã vô cùng thuần thục. Người nhà của bệnh nhân rất vui mừng vì có thể gặp được một thần y thiện trường Hoa Đà thần kỹ, đối với Đỗ Văn Hạo có thể nói là cảm kích bất tận.

Đại tiểu thư của Vi gia cũng như vậy, buổi chiều tiếp tục phục dụng thuốc, bệnh chứng đã thuyên giảm thêm một bước, bụng đau cũng đã ở mức có thể chịu đựng được, thái độ đối với Đỗ Văn Hạo cũng biến thành ônòa hơn hơn. Chỉ là thân thể củaVi phu nhân có chút không khỏe, nghĩ chắc là ngồi quá lâu, nên cũng không quá để ý.

Đỗ Văn Hạo không muốn có quan hệ gì với họ, cho nên không nói gì nhiều với hai mẹ con. Sau khi hỏi tình hình bệnh tình của Vi tiểu thư thì liền rời khỏi bệnh phòng, tới tiền đường bắt đầu chẩn bệnh.

Nhưng hắn vừa khám được cho mấy người thì lại có người mời hắn xuất chẩn khám bệnh, lần này phải tới một thôn quê ở ngoài thành. Mỗi lần xuất chẩn như thế này Bàng Vũ Cầm và Lâm Thanh Đạ đều đi cùng. Ba người cầm hòm xuất chẩn, lên xe trâu rồi cùng người nhà của bệnh nhân đi ra ngoài thành.

Thời gi­an của lần xuất chẩn này khá dài, cho tới tận gần tối vẫn chưa trở về.

Lúc trời tối, Tuyết Phi Nhi từ bệnh phòng ở hậu đường chạy ra hỏi Hàm Đầu: “Ca ca? Ca ca của ta về chưa?”

Hàm Đầu cười nói: “Sao? Nhớ sư tổ của ta à? Hắc hắc!”

“Đáng ghét!” Tuyết Phi Nhi giận dỗi nói: “Ca ca của ta về chưa? Có chuyện gấp đó!”

“Bọn họ ra ngoài xuất chẩn vẫn chưa về, có chuyện gì vậy? Bệnh tình của bệnh nhân nặng trở lại hả?”

“Không! Ối trời, sao xuất chẩn lâu như vậy mà vẫn chưa về, hai người các ngươi mau theo ta đi, Vi phu nhân đột nhiên phát bệnh rồi!”

Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu đều giật nảy mình, vội vàng đi theo Tuyết Phi Nhi tới phòng bệnh ở hậu đường.

Chỉ thấy Vi phu nhân đang nằm trên chiếc giường đặt cạnh giường của Vi tiểu thư, hai mắt nhìn lên trời. Bọn họ bước vào mà Vi phu nhân vẫn không biết gì. Vi tiểu thư thì đang dựa vào đầu giường khóc hu hu, thị nữ ở bên cạnh cũng vô cùng lo lắng.

Hàm Đầu vội vàng ấn nhân trung cho Vi phu nhân, hỏi: “Chuyện gì vậy?”

“Mẹ ta…Mẹ ta sáng nay nói đau người. Chúng ta cho rằng bà ấy vì mấy ngày nay ngồi qua lâu nên mệt mỏi, bảo bà nằm xuống nghỉ ngơi thì bà không chịu. Tới buổi chiều thì càng đau hơn nên ta sai người mời các ngươi tới, nhưng mẹ ta nói là Đỗ đại phu đã xuất chẩn rồi, muốn đợi Đỗ đại phu về rồi để cho Đỗ đại phu khám, ta thấy cũng đúng nên đành đợi. Không ngờ vừa rồi mẹ ta nói nhức đầu, đứng dậy đi được hai bước thì ngã xuống. Hu hu!”

“Buổi sáng vẫn khỏe sao giờ lại thành thế này!” Hàm Đầu vội vàng ngồi xuống cạnh giường. Câm cổ tay Vi phu nhân rồi ngưng thần bắt mạch, sau đó thì lập tức giật nảy mình. Vi phu nhân không ngờ lại không có mạch!

Hàm Đầu nhịn không được, lẩm bẩm nói: “Đúng là quái sự! Mấy ngày trước phát hiện Mị Nhi không có mạch, sao hiện tại Vi phu nhân cũng không có mạch?”

Diêm Diệu Thu nghe vậy cũng giật nảy mình, thấp giọng nói: “Đừng gấp, để ta xem nào!”

Diêm Diệu Thủ sau khi bắt mạch cũng hít một hơi lạnh, ngay cả một chút mạch đập cũng không cảm thấy được, nghĩ ngợi một chút rồi lại sờ Thái Hề huyệt của Vi phu nhân, cảm thấy được mạch đập rất mạnh, trong lòng vui mừng, nói: “Không phải là không có mạch, mà là mạch ở cổ tay quá yếu, không cảm thấy được, mạch Thái Hề không chỉ rõ ràng, hơn nữa còn đập rất mạnh. Ngươi sờ mà xem!”

Hàm Đầu sờ huyệt Thái hề của Vi phu nhân, quả nhiên là như vậy.

Diêm Diệu Thủ nói: “Sư đệ, mạch tượng của Vi phu nhân kỳ lạ quá, ngươi thấy thế nào?”

Hàm Đầm thực sự có chút đau đầu, cố gắng rà soát lại tất cả những kiến tức liên quan đến mạch tượng, nhưng cũng không tìm thấy gì liên quan đến hiện tượng cổ tay thì không có mạch, còn huyệt Thái Hề thì mạch lại đập rất mạnh.

Tuyết Phi Nhi nói: “Các ngươi xem này, nhịp tim của Vi phu nhân đập nhanh quá!”

Hai người ghé vào ngực của Vi phu nhân, quả nhiên nghe thấy tim đập thình thịch.

Thấy chứng tượng này, Hàm Đầu vui mừng nói: “Ta biết rồi, đây là chứng hồng sa! Cầm ba mũi kim châm cứu tới đây.”

Tuyết Phi Nhi vội vàng cầm ba mũi kim dùng để chích máu đến, sau khi Hàm Đầu sát trùng thì châm vào huyệt Ủy Trung, Xích Trạch của Vi phu nhân, khi rút ra thì máu đen cũng ứa ra, trong chốc lát, nửa lớn cổ tay đều là máu màu đỏ sậm.

Sau khi lau sạch máu, thần trí của Vi phu nhân cũng tỉnh táo lại được chút ít, rên lên một tiếng: “Con à…”

Vi tiểu thư vừa kinh ngạc vừa vui mừng, ôm bụng nhào tới, nói: “Mẹ! Mẹ cảm thấy thế nào rồi?”

Vi phu nhân mơ mơ màng màng nhìn nữ nhi: “Mẹ khó chịu lắm!”

“Mẹ đừng lo, Hàm đại phu đang trị bệnh cho mẹ, chích ra rất nhiều máu đen thì mẹ mới tỉnh lại đó. Hàm đại phu là đồ tôn của Đỗ tiên sinh, là đồ đệ của Thái y viện Thái y thừa Tiền Ất Tiền đại nhân, y thuật rất khá.”

Vi nhân miễn cưỡng mỉm cười, quay đầu lại nói với Hàm Đầu: “Đa tạ Hàm đại phu.”

Hàm Đầu được Vi tiểu thư khen ngợi thì có chút xấu hổ, nói: “Phu nhân, chứng hồng sa này là nguy chứng. Không thể xem thường, phải dùng Sài cát giải cơ thang và tĩnh dưỡng nghỉ ngơi, không thể loạn động. Đợi tới buổi tối, sẽ có những nốt màu tím đỏ trên cơ thể, lúc đó uống thêm một thang, ngủ một giấc thật ngon là sẽ bình thường trở lại.”

Hàm Đầu kê thuốc rồi đưa tới dược quỹ để lấy thuốc.

Tới buổi tối, quả nhiên người phu nhân nổi lên những nốt màu hồng và màu tím, nhưng lại rất tỉnh táo, giọng yếu ớt kêu đói.

Vi tiểu thư vội vàng bảo người hầu tới tiệm cháo nổi danh nhất kinh thành mua một bát cháo nóng về cho mẫu thân ăn.

Lúc canh một, Vi phu nhân đột nhiên trong người bứt rứt, tay múa lung tung trên không, thần trí cũng bắt đầu biến thành mê man, sau đó thì bắt đầu nói linh tinh.

Lúc này người hầu mới trở nên kinh hoàng, vội vàng chạy đi gọi Hàm Đầu.

Hàm Đầu cũng không biết vì sao bệnh tình của Vi phu nhân đột nhiên lại trở thành trầm trọng. Hắn nhắm mắt nhớ lại những ghi chép trong y điển, nhưng không có gì có thể giải đáp bệnh chứng này. Diêm Diệu Thủ chủ công ngoại khoa, đối với triệu chứng này thì càng không có biện pháp.

Vi tiểu thư lo lắng đến phát khóc, vào lúc mọi người đang bàng hoàng không biết phải làm sao thì ngoài cửa vang lên tiếp bước chân dồn dập, tiếng bước chân rất quen thuộc, Tuyết Phi Nhi lập tức vui mừng hét lên: “Ca ca của ta về rồi! May quá!”

Chỉ thấy Đỗ Văn Hạo dẫn Bàng Vũ Cầm và Lâm Thanh Đại bước vào. Tuyết Phi Nhi vội vàng nói: “Ca ca, Vi phu nhân bệnh tình nguy cập lắm!”

“Ta nghe Ngô Thông nói rồi, hiện tại thế nào?”

“Hàm Đầu đại phu nói bệnh của Vi phu nhân là hồng sa. Vốn đã trị gần khỏi rồi, Vi phu nhân thậm chí còn có thể ăn cháo nóng, không ngờ đột nhiên bệnh tình lại có chuyển biến xấu.”

Đỗ Văn Hạo nhíu mày, bước tới nhìn triệu chứng của Vi phu nhân, sau đó quay đầu lại nói với Hàm Đầu: “Ngươi đã biết là hồng sa, vì sao còn cho bệnh nhân ăn cháo? Ngươi không biết bệnh hồng sa kỵ nhất là chính là rượu nóng, canh nóng sao? Cho bà ta ăn cháo nóng khác gì đổ dầu vào lửa?”

Hàm Đầu rất ủy khuất, nói: “Đồ tôn…, đồ tôn không biết bọn họ cho bà ta ăn cháo nóng.”

Vi tiểu thư vội vàng nói: “Ta không biết là bệnh của mẹ ta thì không thể ăn cháo, thấy bà kêu đói nên bảo người hầu đi mua cháo. Hàm đại phu bọn họ không biết, Đỗ đại phu, ngài đừng trách Hàm đại phu. Ngài mau cứu mẹ ta đi. Cầu xin ngài đó!”

Đỗ Văn Hạo nói với Hàm Đầu: “Bệnh này ngươi đã phụ trách chữa trị, vậy thì phụ trách chẩn sát đến cùng đi, ngươi cho rằng nên dùng phương thuốc nào để cứu chữa?”

Hàm Đầu lúc trước không biết vì sao Vi phu nhân lại đột nhiên xuất hiện tình trạng này, cho nên thúc thủ vô sách. Hiện tại đã biết thì tự nhiên biết phải dùng phương thuốc nào, vội vàng nói: “Trước tiên dùng canh mạch nha, sau đó buổi đêm cho dùng Tê giác địa hoàng thang để giải nhiệt.”

“Rất tốt, mau kê đơn đi.”

Sau khi được uống thuốc, Vi phu nhân rất nhanh liền bình tĩnh lại, thần trí cũng dần dần khôi phục lại sự tỉnh táo.

Chương 177: Khách điếm bệnh tật

Sáng ngày hôm sau, Đỗ Văn Hạo phục chẩn cho Vi phu nhân và Vi tiểu thư, hai mẹ con họ bệnh tình đều đã ổn định, hai bệnh nhân được phẫu thuật do đau bụng cấp cũng đã hồi phục khá tốt.

Dược phô vừa mở cửa, một lão thái giám họ Tiêu trong cung dẫn mấy tiểu thái giám mang theo các loại lễ vật tới. Họ phụng ý chỉ của Thái hoàng thái hậu tới thăm Vi tiểu thư. Điều này khiến một nhà Vi tiểu thư rất là kích động.

Tiêu công công hỏi thăm Vi tiểu thư và Vi phu nhân xong lại tìm Đỗ Văn Hạo để hỏi về bệnh tình của Vi tiểu thư, rồi tặng cho hắn một gánh lễ vật, lễ vật đều là tơ lụa ở trong cung, nói là để cảm tạ Đỗ Văn Hạo đã cữu chữa cho Vi tiểu thư.

Sau khi Tiêu công công dẫn các tiểu thái giám cáo từ. Đỗ Văn Hạo liền đem hòm tơ lụa đó chia cho mấy nữ nhân bọn Lâm Thanh Đại.

Bọn họ đều chưa từng nhìn thấy tơ lụa trong cung, khi thấy được thì vô cùng kinh ngạc, tơ lụa trong cung quả nhiên không tầm thường, đều là tinh phẩm trong tinh phẩm. Mỗi người đều được chia mấy tấm để may quần áo, các nàng đều rất cao hứng.

Hằng Tường khách điếm, tân khách như mây.

Từ sau khi chuyển tới kinh thành, Hằng Tường khách điếm của Tống chưởng quỹ sinh ý thịnh vượng gấp mấy lần ở huyện thành, tiền bạc đầy rương, vui đến nỗi không ngậm miệng lại được.

Lão vốn muốn gọi nữ nhi quay về giúp đỡ, nhưng Tuyết Phi Nhi cứ khăng khăng đòi ở lại Ngũ Vị đường để theo Đỗ Văn Hạo học y, ngay cả nhà cũng không thèm về. Hắn muốn nói nhưng lại không dám, tuy hắn quản giáo nữ nhi trước giờ luôn rất nghiêm, nhưng từ khi thê tử bị bệnh chết, Tống chưởng quỹ mỗi lần nhìn thấy nữ nhi lại giống như nhìn thấy vong thê, cho nên không nỡ mắng nhiếc, do đó lão chỉ đành một mình bận trong bận ngoài.

Khách điếm này của hắn chuyên kinh doanh ẩm thực và ở trọ. Chia thành lầu trên và lầu dưới. Lầu dưới là đại sảnh, lầu trên là các phòng. Ở hậu viện lại có ba toà nhà, kết cấu cũng chia thành hai tầng, toàn bộ đều là các phòng để ở trọ được đánh số thứ tự.

Ngày hôm nay, Tống chưởng quỹ đang chào hỏi khách ở đại sảnh thì tiểu nhị chạy vào nói: “Chưởng quỹ, Doãn chưởng quỹ ở trên lầu mời ngài lên uống rượu.”

Tống chưởng quỹ cười khổ, Doãn chưởng quỹ này là một tên kinh doanh đồ da, thường tới kinh thành để mua bán, tính tình của hắn cũng hào sảng, thường ở lại khách điếm mấy ngày, mà hầu như mỗi ngày đều khách khứa chật nhà. Mỗi lần uống đến lúc cao hứng thì lại bảo tiểu nhị gọi Tống chưởng quỹ đến uống vài chén.

Lúc mới đầu Tống chưởng quỹ còn vui vẻ đồng ý, nhưng Doãn chưởng quỹ này tửu lượng rất cao và lại rất nhiệt tình, Tống chưởng quỹ tửu lượng bình bình, cho nên mỗi lần đều bắt Tống chưởng quỹ uống đến say ngất ngư mới cho ra ngoài, mà sau mỗi trận rượu như thế thì đừng hòng còn sinh lực để tiếp tục làm việc. Tống chưởng quỹ rất đau đầu về chuyện này, nhưng lại không dám khước từ, bởi vì Doãn chưởng quỹ này tiêu tiền như nước, là khách hàng lớn nhất của lão.

Cho nên, sau khi tiểu nhị truyền lời, Tống chưởng quỹ chỉ đành vén áo chạy lên lầu. Vừa tới cửa liền nghe thấy bên trong vang lên tiếng hô tửu lệnh rất náo nhiệt, xem ra người bên trong đã uống khá nhiều rồi.

Tống chưởng quỹ gõ cửa tiến vào, những tân khách này phần lớn đều biết hắn, vội vàng chào hỏi rồi mời hắn ngồi xuống, phạt hắn uống ba chén.

Sau khi uống ba chén lớn liên tiếp Tống chưởng quỹ mới rảnh để nhìn tràng cảnh nơi đây.

Nhưng nhìn một vòng vẫn không thấy Doãn chưởng quỹ đâu, ợ một tiếng rồi hỏi: “Doãn chưởng quỹ đi đâu rồi?”

Một đại hồ tử (người có râu quai nón) liền cười nói: “Đi nhà xí rồi, chiều ngày hôm nay hắn đã chạy mấy chục lần rồi đó.”

Một tiểu sấu tử (người gầy còm, thấp bé) cũng nói thêm vào: “Đúng vậy, không biết có phải là Doãn đại ca muốn trốn uống rượu hay không?”

Đại hồ tử vừa rồi là biểu huynh của Doãn chưởng quỹ, nghe vậy liền cười mắng: “Đánh rắm, biểu đệ của ta là loại người như vậy sao?”

Mấy tân khách khác đều nói: “Không sai! Doãn đại ca luôn uống rượu rất sảng khoái, sao có thể trốn vào nhà xí chứ. Đúng là nói linh tinh! Phạt rượu, phạt rượu!”

Tiểu sấu tử gật đầu liên tục: “Đúng đúng, đệ nói sai rồi, tự phạt một chén!” Nói xong hắn liền cầm một chén rượu lên, nhìn chằm chằm vào đó một lúc, rõ ràng là vì uống quá nhiều nên hơi phản vị, nhưng vẫn ngửa cổ lên uống cạn.

Tiểu sấu tử vừa đặt chén xuống liền cảm thấy dạ dày sôi sục, đứng dậy xua tay nói: “Không ổn! Buồn nôn rồi!” Trong tiếng cười nhạo của mọi người, hắn lao ra khỏi cửa rồi phi xuống lầu, chạy tới nhà xí ở hậu viện.

Chưa kịp mở cửa tiến vào thì đã gập người xuống nôn ọe.

Sau khi nôn xong cảm thấy trong bụng thoải mái hơn một chút, đứng dậy gõ gõ cửa nhà xí, gọi: “Doãn đại ca! Sao vậy? Còn chưa đại tiện xong à?”

Không ngờ gọi một hồi mà không thấy hồi âm, tiểu sấu tử cảm thấy có chút kỳ quái, kéo cửa nhà xì tiến vào, thấy Doãn chưởng quỹ đang nằm trên mặt đất rên rỉ vì đau đớn.

Tiểu sấu tử cả kinh, vội vàng bước tới đỡ Doãn chưởng quỹ dậy, hỏi: “Doãn đại ca, huynh sao vậy?”

Doãn chưởng quỹ hữu khí mà vô lực rên một tiếng rồi thều thào nói: “Không còn sức, trên người một chút sức cũng không có…tiêu chảy chết ta luôn rồi.”

“Hỏng bét, khẳng định là ăn phải thứ gì không tốt rồi, tiểu đệ đưa huynh về rồi mời đại phu đến khám.” Tiểu sấu tử cố gắng cõng Doãn chưởng quỹ lên, nhưng Doãn chưởng quỹ quá cường tráng khiến cho tiểu sấu tử khổ cực cả nửa ngày vẫn không đỡ Doãn chưởng quỹ lên lưng được, hơn nữa còn thở phì phò như trâu. Chỉ đành nói: “Doãn đại ca, huynh đợi một chút, ta đi gọi người tới!”

Sau khi đỡ Doãn chưởng quỹ dựa vào bức tường của nhà xí, tiểu sấu tử chạy thẳng về phòng, mọi người đang ngồi trong đó nghe hắn kể lại xong thì ba chân bốn cẳng chạy tới nhà xí rồi cõng Doãn chưởng quỹ về.

Tống chưởng quỹ cũng cuống cuồng nói: “Ta biết Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường. Để ta đi mời hắn tới!”

Đại hồ tử nói: “Nghe nói Đỗ đại phu đó là sư phụ của Thái y viện Tiền Ất đại phu, thiện trường thần kỹ mổ bụng liệu thương của Hoa Đà thần y, hắn không dễ dàng xuất chẩn đâu, bệnh bình thường đều để hai đồ tôn của hắn chẩn trị, hắn chỉ phụ trách chữa cấp chứng và nghi nan tạp chứng thôi. Biểu đệ của ta chỉ bị tiêu chảy, vì chút bệnh nhỏ này chắc chắn hắn sẽ không đến đâu!”

Tống chưởng quỹ vỗ ngực nói: “Không vấn đề gì, nữ nhi của ta đang theo Đỗ đại phu học y ở Ngũ Vị đường, ta đi mời chắc hắn sẽ tới.”

Doãn chưởng quỹ nằm bệt trên đây, giờ đã khôi phục được một chút khí lực, xua tay nói: “Không cần đâu, bị tiêu chảy thôi mà. Chỉ bị chút bệnh lặt vặt mà mời cả danh y tới chữa trị, truyền ra ngoài sẽ bị người ta cười cho đấy. Không sao đâu, nằm một lát là đỡ thôi.”

Đại hồ tử nói: “Thế không được, bữa nay đệ đã chạy mấy chục lần rồi, phải để đại phu khám! Cho dù không tìm được danh y như Đỗ đại phu thì cũng phải tìm một đại phu bình thường đến khám.”

Tống chưởng quỹ nói: “Đối diện chúng ta chính là Viên Nhuận đường, mau mời đại phu đến đi.”

“Ta đi!” Tiểu sấu tử vừa nôn xong nên đầu óc cũng tỉnh táo hơn một chút, thấy những người trong phòng đều đang say ngất ngây, liền xung phong đi mời đại phu.

Rất nhanh Thang đại phu của Viên Nhuận đường tay cầm hòm xuất chẩn, dẫn một tiểu dược đồng tới.

Vào lúc đang đi mời đại phu, Doãn chưởng quỹ lại đại tiện một lần nữa, may mà Tống chưởng quỹ đã tính trước, mang một cái bô đến cho Doãn chưởng quỹ đại tiện ngay trong phòng.

Thang đại phu ngồi cạnh giường, hỏi cảm giác của Doãn chưởng quỹ.

Doãn chưởng quỹ vô lực nói: “Bụng đau vô cùng, cả chiều nay đại tiện khiến toàn thân nóng bừng, còn nôn nữa.”

“Đại tiện thế nào?”

“Ban đầu là nước và cháo lỏng, sau đó thì chỉ tiết ra nước thôi, toàn thân ta mềm oặt không còn sức rồi.”

Thang đại phu ngưng thần bắt mạch và xem lưỡi xong liền vuốt râu nói: “Bệnh của ngươi là tràng tích, đồ ăn tích tụ ở tràng vị, chính là tà nhiệt, khí nghẽn thành hỏa, mạch tế, phải dưỡng âm thanh nhiệt.”

Cầm bút viết Hoàng liên a gi­ao thang cùng với Trú xa hoàn gia giảm, sau đó Thang đại phu thu tiền thuốc rồi dẫn dược đồng trở về.

Đại hồ tử vội vàng chạy tới dược phô để lấy thuốc rồi mang về sắc cho Doãn chưởng quỹ uống.

Sau khi uống mấy thang, ngày hôm sau Doãn chưởng quỹ quả nhiên không tiêu chảy nữa, hắn rất cao hứng, luôn miệng khen Thang đại phu là thần y, rồi lại gọi bằng hữu tới ăn uống nhậu nhẹt.

Nhưng đám người bọn đại hồ tử và tiểu sấu tử cùng Doãn chưởng quỹ tiền hô hậu ủng tới nhã tọa (căn phòng lịch sự) chưa kịp ngồi xuống gọi thức ăn thì Doãn chưởng quỹ lại bắt đầu cảm thấy đầy bụng. Hơn nữa càng ngày càng không thoải mái, nhưng vẫn cố kiên trì gọi thức ăn. Sau khi thức ăn được xếp đầy bàn, hắn vừa muốn nâng chén thì cảm thấy không còn sức để đứng dậy, sau đó thì mồ hôi lạnh tuôn như mưa, lảo đảo ngồi trên ghế. Mọi người vội vàng đỡ hắn về phòng để nghỉ ngơi.

Mấy ngày tiếp theo Doãn chưởng quỹ thủy chung vẫn bị trướng bụng, hơn nữa đại tiện không thông, toàn thân táo nhiệt, ăn uống không vào.

Bọn tiểu sấu tử nghe nói Doãn chưởng quỹ bị bệnh không nhẹ thì đều tới thăm.

Tiểu sấu tử nói: “Doãn đại ca, xem ra thì bệnh của huynh giống như lần trước, sao không uống thêm mấy thang?”

Đại hồ tử trừng mắt nói: “Nói linh tinh cái gì đó, còn uống thêm nữa hả? Ngươi không thấy biểu đệ của ta chính vì uống thuốc của cái tên Thang đại phu gì đó mà giờ bị trướng bụng hả? Hiện tại bụng trướng rất kịch liệt, đại tiện cũng không thông, uống thêm mấy thang nữa e rằng cả ruột cũng tắc luôn đó!”

Tiểu sấu tử cười bồi, nói: “Đúng đúng, Doãn đại ca bị thế này cũng là do tên lang băm của Viên Nhuận đường hại, hay là chúng ta mời một vị đại phu khác đến khám cho Doãn đại ca đi?”

Đại hồ tử nói: “Mời ai? Mời Đỗ đại phu của Ngũ Vị đường ư? Táo bón, đầy bụng không phải là bệnh gì nặng, Đỗ đại phu người ta chịu đến khám ư? Ta nghe nói Trang đại phu và Tiếu đại phu của Huệ Nhân đường y thuật cũng rất khá, không bằng mời hai người bọn họ tới đi!”

Rất nhanh, Trang đại phu của Huệ Nhân đường dẫn tiểu dược đồng tới xuất chẩn.

Sau khi hỏi bệnh tình, Trang đại phu bắt mạch xem lưỡi, trầm ngâm một lát rồi nói: “Bệnh này của ngươi không phải là táo bón đầy bụng bình thường. Triệu chứng ban đầu là một ngày tiêu chảy mấy chục lần, mất nhiều nước, cho nên ngoại tà xâm nhập vào trong người, nhiệt bên trong cứ ngấm sâu dần, dẫn tới đầy bụng không tiêu, phải dùng Thừa khí thang làm chủ, xua dư tà đi, như vậy bệnh tự nhiên sẽ đỡ.”

Trang đại phu nói rồi cầm bút viết Thừa khí thang, thu tiền thuốc ra về.

Đại hổ tử lại đi mua thuốc rồi mang về sắc cho Doãn chưởng quỹ uống.

Sau mấy thang, Doãn chưởng quỹ lại đại tiện rào rào, một ngày mấy chục lần. Một đại hán cường tráng giờ vì đại tiện liên tục mà gầy tong teo.

Đám người đại hồ tử hoảng sợ, vội vàng đi tìm Thang đại phu của Viên Nhuận đường lúc trước tới.

Thang đại phu sau khi chẩn sát, biện chứng là Doãn chưởng quỹ quá hư thoát, phải bồi dưỡng.

Sau khi dùng thuốc, kiết lỵ đã dừng, nhưng lại đầy bụng y như trước, cả người uể oải mệt mỏi, sau cùng thì thần trí cũng biến thành không tỉnh táo, thường lẩm bẩm nói một mình, khi có người tới thăm thì không nhận ra ai, lại còn né đông né tây như nhìn thấy quỷ, luôn sợ hãi bất an. Người dần dần chỉ còn da bọc xương.

Ngồi không thì núi vàng ăn cũng hết, vì không làm ăn buôn bán nên tiền bạc mang theo người cũng hết sạch. Đám bạn bè chỉ biết lợi dụng giờ chẳng còn thấy bóng dáng tên nào, chỉ còn lại đại hồ tử và tiểu sấu tử hai người túc trực bên cạnh hắn.

Continue Reading

You'll Also Like

72K 7.7K 101
Thể loại: Trinh thám, Kinh dị (ít), Phiêu lưu vô hạn, Livestream, Đam mỹ, Hiện đại, Tình cảm, Nguyên sang (nhân ᴠật ᴠà cốt truуện được tác giả khai t...
10.8K 324 28
Dành cho những ai yêu quý gốm cháo
16.2M 346K 109
Cô là thư kí cho một tổng tài lạnh lùng và nghiêm khắc, nhưng anh ta thật sự rất tài giỏi. Bản thân cô cũng có thể coi là người tài giỏi như thế vì g...
33.1K 521 11
Khi Kikyou chia tay với Inuyasha thì quay ra yêu Nararu. Khi Inuyasha biết Kikyou yêu Nararu lòng Inuyasha tức giận đến nỗi ngày đêm không ngủ được...