Kiều Ở Lầu Ngưng Bích ( Dàn ý )

153 0 0
                                    

Dàn ý Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích - Nguyên bài

I - MỞ BÀI
- Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Hà Tĩnh.
- Ông sinh ra trong một gia đình quan lại có truyền thống văn học.
- Ông là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo lớn của dân tộc. Ông được kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc".
- Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du.
- Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thuộc nội dung phần II: Gia biến và lưu lạc.
- Bài thơ miêu tả tâm trạng Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
II - THÂN BÀI
1. Cảnh trước lầu Ngưng Bích và nỗi niềm của Kiều
-Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích hiện ra trong tâm trạng của Kiều.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung."
  + Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên hoàn cảnh đáng thương đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích của Kiều.
  + Từ “khóa xuân” thường được sử dụng để chỉ người con gái đẹp trong gia đình quyền quý thời xa xưa. Nguyễn Du đã sử dụng từ “khóa xuân” với hàm ý mỉa mai để nói về cảnh ngộ xót xa, trớ trêu của Kiều.
  + Hình ảnh “non xa”, “trăng gần "gợi không gian dài, rộng, cao, sâu vô tận.
   - Không gian vô cùng rộng lớn, mênh mông, bát ngát
       “Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cần nọ bụi hồng dặm kia.”
   + Từ láy “bát ngát" càng tô đậm hơn cái vô cùng, vô tận của không gian.
+ “Xa trông” gợi lên sự trông ngóng của Thúy Kiều.
+ Hình ảnh ước lệ "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" gợi sự mênh mông rợn ngợp của không gian, quang cảnh rộng lớn đối lập với sự trơ trọi, chênh vênh của lầu Ngưng Bích.
- Quang cảnh đó đã gợi cho Kiều bao nỗi niềm tâm trạng:
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya"
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."
+ Từ láy ”bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận của mình
+ Cặp tiểu đối "mây sớm" và “đèn khuya” gợi nỗi hắt hiu, trống vắng mênh mông của thiên nhiên. Muốn nói lên sự tuần hoàn, khép kín của thời gian.
+  Cụm từ "như chia tấm lòng" diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của Kiều.
+  "Nửa tình ,nửa cảnh" một nửa để vào trong lòng một nửa gửi vào cảnh.
=> Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình,hình ảnh ước lệ, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng.Là hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm tâm sự đau thương.
2. Nỗi nhớ chàng Kim Trọng và nỗi nhớ cha mẹ
a. Nỗi nhớ Kim Trọng
* Trong cảnh ngộ cô đơn nơi chân trời góc bể, Kiều đau đớn nhớ tới chàng Kim, mối tình đầu mãnh liệt mà trong sáng của nàng:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ."
- Nói về nỗi nhớ của Thúy Kiều, Nguyễn Du không dùng từ “nhớ" mà dùng từ "tưởng":
  + Từ “tưởng" vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.Thúy Kiều như tưởng tượng thấy chàng cũng đang hướng về mình.
  + "Dưới nguyệt chén đồng" hề nguyện hẹn ước dưới ánh trăng.
  + "rày trông mai chờ" chờ đợi tin tức của nàng.
          “Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. ”
+ Từ láy"bơ vơ" lẻ loi, trơ trọi một mình, không có nơi nương tựa.
+ "Tấm son"  khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều đối với Kim Trọng .
+"Gột rửa bao giờ cho phai" nàng muốn rửa sạch hết  hoen ố, mà không biết bao giờ mới gột rửa được.
=> Tấm lòng vị tha, thủy chung son sắt trước sau như một của Thúy Kiều thật đáng trân trọng.
b. Nhớ về cha mẹ
  *Tâm trạng đau đớn, thương nhớ người yêu hẳn chưa nguôi, Kiều lại chồng chất thêm nỗi nhớ thương cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm. "
  + Chữ "xót” diễn tả một cách
chính xác tấm lòng của Kiều dành cho cha mẹ.
  + Nàng xót xa khi hình dung ra chốn quê nhà cha mẹ vẫn ngày đêm tựa của ngóng trông, lo lắng cho nàng.
  - Nàng tự trách bản thân vì chưa làm tròn chữ hiếu
  + Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh" cho thấy sự day dứt khôn nguôi vì không thể tự hầu hạ, chăm sóc, nâng giấc cho cha mẹ.
  + Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.
  + “gốc tử đã vừa người ôm” thời gian trôi đi mẹ ngày càng già yếu mà mình thì không thể phụng dưỡng.
+ Cụm từ "cách mấy nắng mưa"  nói được sự xa cách bao mùa mưa nắng, làm cha mẹ ngày càng già yếu và cần bàn tay chăm sóc của nàng.
=>Nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ đã nói lên nhân cách đáng trận trọng của nàng. Nàng là một người chung thủy, một đứa con hiếu thảo.
3. Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật
Mọi cảnh vật qua cái nhìn của Kiều đều gợi lên những nét buồn da diết:
   "Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoảng cánh buồm xa"
    + Điệp từ " buồn trong"khắc họa nỗi buồn trông ra bốn phía, ngóng đợi những thứ xa xôi, mơ hồ làm thay đổi hiện tại bế tắc.
  + “Buồn trông” có nghĩa là buồn mà nhìn ra xa trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay hiện tại, nhưng trông mà vô vọng.
  + "Chiều hôm" tả không gian,thời gian nỗi buồn của nàng," cánh buồm" nhỏ nhoi giữa biển nước mênh mông muốn tìm kiếm sự tự do.
  "Buồn trong ngọn nước mới sa
  Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
+ Cùng với hình ảnh “cánh buồm", hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” cũng thể hiện cho nỗi buồn cho thân phận lênh đênh, nổi chìm giữa dòng đời của Thúy Kiều.
+ Câu hỏi tu từ " Hoa trôi man mác biết là về đâu?"cho thấy sự mất phương hướng, số kiếp trôi nổi.
       “Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."
+Từ láy “rầu rầu" vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo và gợi nỗi sầu thương cô độc.
+ Từ láy “xanh xanh" gợi một sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.
   " Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
   Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
+ Bức tranh thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: “Gió cuốn mặt duềnh” đầy giận dữ.
+ “Ầm ầm tiếng sống” kêu réo khi thủy triều lên thậm chí Kiều còn có cảm giác những con sóng dữ dội kia đang bủa vây ngay sát bên minh.
-> Cảnh được nhìn từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung lo âu kinh sợ.
=> Nỗi buồn cô đơn, xót xa, bế tắc tuyệt vọng, chất chứa tầng tầng lớp lớp trong lòng Kiều.
III - KẾT BÀI
- Tả cảnh ngụ tình và nội tâm nhân vật rất đặc sắc. Nghệ thuật dùng từ rất tài hoa và đặc biệt là hệ thống từ láy ở tám câu thơ cuối
- Ngợi ca vẻ đẹp thủy chung, thiếu thảo, nhân hậu trong tâm hồn Thúy Kiều và cảm thương cho tình cảm của Kiều.
- Đoạn trích "Kiều ở lâu Ngưng Bích" tiêu biểu cho giá trị nhân đạo của tác phẩm Truyện Kiều. Nguyễn Du đã bộc lộ lòng cảm thương xót xa với cảnh ngộ thân phận và nỗi niềm của nhân vật.

Tài Liệu Học Lớp 9Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ