Thương vợ (Tú Xương)

2.6K 38 2
                                    

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
- Trần Tế Xương (1870-1907)

Bài làm

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi đợi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.

Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài tiêu biểu. Nhất là khi tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình ảnh bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:

"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng."

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao ẩn ý, từ "đủ" trong "nuôi đủ" vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng. "Nuôi đủ" ở đây chính là quần áo sạch sẽ gọn gàng tươm tất, cơm lo ba bữa sáng trưa chiều. Mỉa mai thay khi người chồng lẽ ra phải gánh vác việc nặng nhọc giúp vợ nuôi con nay lại phải xếp chung với con mà nuôi mà chăm bẳm. Lại thấy đâu đó sự tự trách, bất lực của ông Tú như ghim sâu vào da vào thịt.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ "Thương vợ" cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Như câu thơ "Nuôi đủ năm con với một chồng", có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà còn có cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ "khi quãng vắng" tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, chứa đầy lo âu, cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao "Con cò lặn lội bờ sông", câu thơ của Tú Xương lại hun hút sâu thẳm:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng."

Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ, đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ "con cò" trong ca dao gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ "thân cò" của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

"Eo sèo mặt nước buổi đò đông."

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, thậm chí nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con:

"Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua."

"Buổi đò đông" không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại nối tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực miêu tả thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy tâm tình của Tú Xương với tấm lòng xót thương da diết.

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:

"Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công."

Ở câu thơ này, "nắng mưa" chỉ sự vất vả, "năm mười" là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, vừa hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ hết cho thói đời vì sự hờ hững của ông trong câu cuối cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Cuối cùng, hai câu thơ kết của Tú Xương cũng chính là tự rủa, tự tát, tự phán xét, tự lên án chính mình:

"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không."

Ở cái thời mà xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phụ nữ: "xuất giá tòng phu" (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì "phụ xướng, phụ tuỳ" (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao!

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn mang ơn vợ, không chỉ lên án "thói đời" mà còn tự trách bản thân.

Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc. Nhất là khi nhìn thấy được một mẫu bà Tú - người vợ, một mẫu ông Tú - người chồng đan vào nhau nhẹ nhàng mà tình cảm mang chút hơi hướng của xã hội hiện đại, nhưng lại rất dân tộc, rất nhân dân.

Văn 11 12Where stories live. Discover now