Phân tích đặc điểm chung của các hoạt động trung gian thương mại.

Bắt đầu từ đầu
                                    

Thứ hai, trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại, bên trung gian phải là thương nhân, có tư cách pháp lý độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba.

Đề thực hiện hoạt động dịch vụ trung gian thương mại, bên trung gian phải có những điều kiện nhất định để có thể được bên thuê dịch vụ tin tưởng ủy nhiệm thực hiện công việc vì lợi ích của họ. Điều 6, Luật Thương mại 2005 đã quy định bên trung gian phải là thương nhân. Theo điều này, thương nhân phải là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động  thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Đối với một số dịch vụ trung gian thương mại như : dịch vụ ủy thác mua bán hàng hóa, dịch vụ đại lí thương mại, ngoài điều kiện là thương nhân, bên trung gian còn phải có điều kiện khác như phải là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp  với hàng hóa được ủy thác thì mới trở thành bênh nhận ủy thác mua bán hàng hóa.

Trong quan hệ với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba, người trung gian thực hiện các hoạt động thương mại với tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập và tự do. Người trung gian là những thương nhân độc lập, hành nghề cung ứng dịch vụ trung gian thương mại một cách chuyên nghiệp. Điều này thể hiện qua việc chủ thể trung gian có trụ sở riêng, có tư cách pháp lý độc lập, tự định đoạt thời gian làm việc, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Đặc điểm này giúp ta phân biệt chủ thể trung gian trong hoạt động thương mại với các chi nhánh, văn phòng đại diện do thương nhân lập ra để thực hiện hoạt động kinh doanh của thương nhân, những người lao động làm thuê cho thương nhân, những người có chức năng đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp... các chủ thể nói trên không có tư cách pháp lý độc lập và chỉ được thực hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn theo quy định trong nội bộ thương nhân đó.

Thứ ba, hoạt động dịch vụ trung gian thương mại song song tồn tại hai quan hệ : Quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm; quan hệ giữa bên được ủy nhiệm và bên thứ ba. Các quan hệ này phát sinh trên cơ sở hợp đồng.

Để thực hiện các hoạt động trung gian thương mại, trước tiên bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ của người trung gian và bên cung ứng dịch vụ trung gian phải thiết lập được quan hệ với nhau. Bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm thỏa thuận nội dung công việc mà bên được ủy nhiệm thực hiện thay mặt bên ủy nhiệm giao dịch với bên thứ ba cũng như quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với nhau.Bởi vậy có thể thấy trong hoạt động trung gian thương mại, quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm thường có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ và phát sinh trên cơ sở hợp đồng. Đó là các hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng môi giới, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa và hợp đồng đại lý. Các hợp đồng này, đều có tính chất là hợp đồng song vụ, ưng thuận và có tính đền bù. Hình thức của các hợp đồng này bắt buộc phải được thực hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương với văn bản.

Hoạt động trung gian thương mại sẽ không thể thực hiện được nếu như chỉ tồn tại quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm.  Để thực hiện hoạt động này, bên được ủy nhiệm phải giao dịch với bên thứ ba để hoàn thành yêu cầu mà bên ủy nhiệm giao cho, Khi giao dịch với bên thứ ba, tư cách và vai trò của người trung gian luôn không giống nhau. Họ có thể nhân danh bên ủy nhiệm(như bên đại diện) để giao dịch với bên thứ ba trong hoạt động đại diện cho thương nhân hoặc họ chỉ thay mặt bên ủy nhiệm nhưng lại nhân danh chính mình để quan hệ với bên thứ ba (như bên nhận ủy thác, đại lý) trong hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa, hoạt động đại lý thương mại hoặc chỉ nhận sự ủy nhiệm của bên thuê dịch vụ để tìm kiếm bên thứ ba và giúp bên thuê dịch vụ, bên thứ ba tiếp xúc với nhau. Bởi vậy, trong hoạt đông trung gian thương mại, bên thứ ba có quan hệ pháp lý  với bên ủy nhiệm hoặc trực tiếp quan hệ với bên được ủy nhiệm như trong hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại. Quan hệ giữa các chủ thể này với bên thứ ba cũng được xác lập trên cơ sở hợp đồng. Đó là hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ.

Nghiên cứu bản chất pháp lý của hoạt động trung gian thương mại có ý nghĩa  rất lớn trong việc xác định những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hoạt động này, giúp ta phân biệt hoạt động trung gian thương mại với các hoạt động cung ứng dịch vụ khác. Từ đó, pháp luật có những quy định điều chỉnh phù hợp với đặc điểm của những hoạt động này, tạo điều kiện cho chúng  phát triển hiệu quả.

Tài liệu tham khảo :

 

1.     Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại (tập2), Nguyễn Viết Tý (chủ biên), NXB. CAND, Hà Nội, 2006.

2.     Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình luật Thương mại (tập 2), NXB, Giáo dục, 2008

3.     Luật Thương mại năm 2005

4.     Nguyễn Thị Vân Anh, Pháp luật điều chỉnh các hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007.

5.     Khái niệm, bản chất pháp lý của hoạt động trung gian thương mại, ThS. Nguyễn Thị Vân Anh, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội.

6.     Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam : Luận án tiến sĩ luật học,  Nguyễn Thị Vân Anh; Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Hồng Hạnh.

7.      Vấn đề pháp lí về quan hệ hợp đồng phát sinh trong hoạt động trung gian thương mại ,Nguyễn Thị Vân Anh // Tạp chí Luật học. Trường đại học Luật Hà Nội. Số 11/2008,

Bạn đã đọc hết các phần đã được đăng tải.

⏰ Cập nhật Lần cuối: Apr 02, 2011 ⏰

Thêm truyện này vào Thư viện của bạn để nhận thông báo chương mới!

Pháp luật Nơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ