Chương 5: Hai ngôi nhà

304 46 4
                                    

Nhật Bản, Namimori, nhà Basil:

Hôm nay, nhà Basil tổ chức tiệc sinh nhật đầu tiên cho công chúa nhỏ của bọn họ. Bên phía Basil chỉ có một người, nhưng bên nhà Miura Haru, có mặt từ bố mẹ vợ đến cô dì chú bác. Bữa tiệc náo nhiệt và vui vẻ - sự vui vẻ đến từ trái tim.

"Chúc mừng công chúa nhỏ của ông bà được một tuổi nhé!" Bố mẹ Haru ẵm bồng cưng nựng đứa cháu nhỏ của mình, hạnh phúc tràn ngập đôi mắt cùng gương mặt in hằn dấu vết năm tháng.

"Hay ăn chóng lớn rồi đi mua sắm với dì nhé."

"Không, đi chơi golf với chú."

". . . . . ."

Mọi người ăn uống, cười nói, chúc mừng. trêu đùa. . . . Nhân vật chính của bữa tiệc – Miura Aiko thì cười khanh khách, ngây thơ, dễ thương và tràn ngập sức sống.

Bé con theo họ mẹ, vì Basil muốn thế. Haru đã vất vả mang thai, chịu nỗi đau lớn hơn tất cả những lần Basil từng bị thương để sinh ra công chúa nhỏ của bọn họ. Nên với Basil, việc để đứa bé theo họ mẹ là chuyện bình thường, không có gì là nhục nhã, xấu hổ cả.

Còn về họ của Basil, mọi người thường chỉ gọi Basil là Basil, hay với những người xa lạ và cung kính hơn, thì là Basilicum – san. Nhưng ít người biết rằng, Basil tự lấy tên họ đầy đủ cho mình là Sawada Basilicum, như là sự biết ơn với Sawada Iemitsu vì ông đã nuôi dạy cậu. Dù là Sawada Iemitsu không đề cập đến, dù là ông chỉ vì muốn huấn luyện ra một cấp dưới trung thành cho con trai mình. Bởi vì, với Basil, gia đình của Vongola Sawada Tsunayoshi không tệ chút nào. Không chỉ là không tệ, mà nó còn đem lại cho Basil sự hạnh phúc, cho Basil đồng đội, cho Basil sự an tâm, cho Basil một gia đình lớn cùng một gia đình nhỏ dễ thương.

Về việc tên họ đầy đủ, chỉ có nhà Tsuna cùng nhà Haru biết. Đến cả những Hộ vệ Nhẫn – những đồng đội từ ngày thiếu niên, cũng không rõ về việc này.

"Hahi, Tsuna – san không đến sao?" Haru hỏi, giọng đầy tiếc nuối. Đã rất lâu rồi Haru không được gặp Tsuna. Hình như là đã hai năm rồi.

"Xin lỗi, anh không mời được Sawada – dono, ngài ấy có hẹn trước với Yuni – san và Byakuran. Yuni – san có việc rất quan trọng muốn gặp Sawada – dono." Basil cười áy náy.

"Vậy sao. . . ."

"Nào, bánh sinh nhật của Aiko đây. Mọi người cùng hát bài Happy Birthday nào!" Basil mang bánh sinh nhật ra, dời sự chú ý của Haru. Gương mặt ngây ngô của Miura Aiko được in trên bánh sinh nhật, làm bé con vô cùng tò mò vì sao lại được nhìn thấy thêm một Aiko nữa.

"Happy birthday to Aiko, happy birthday to Aiko. . . ."

"Tanjoubi omedetou ne, Aiko." Mọi người đồng thanh.

"Aiko, làm theo mẹ, thổi nến nào." Haru làm hành động thổi nến để Aiko bắt chước theo.

Hình ảnh một cô bé con phồng má thổi nến trông vừa đáng yêu vừa buồn cười. Mọi người cười nghiêng ngả. Bố Haru vội vàng lấy máy ảnh để giữ lại tất cả những khoảnh khắc đáng yêu của cháu mình.

Tiếng cười rôm rả mãi không dứt.

Trong lúc đó, Italy, Venieze, tổng bộ Vongola.

Văn phòng rộng lớn, xa hoa nhưng trống rỗng, lạnh băng. Tsuna vừa đọc văn kiện vừa nghĩ đến tiệc sinh nhật của bé Aiko. Chắc là đang rất vui vẻ. Thật tiếc vì có lẽ Tsuna sẽ không bao giờ dự một buổi tiệc nào của bé con, thậm chí gặp mặt bé nữa.

Hôm nay Tsuna bật bài hát The sound of Slience.

'Mình bây giờ thật hợp với bài hát này.' Tsuna tự giễu.

Hello darkness, my old friend (Xin chào bóng tối, người bạn cũ của tôi)

I've come to talk with you again (Tôi lại đến trò chuyện cùng anh đây)

Because a vision softly creeping (Vì có một ảo ảnh đang lén lút)

Left its seeds while I was sleeping (Gieo hạt giống của nó vào khi tôi đang ngủ say)

And the vision that was planted in my brain (Và ảo ảnh đó in sâu vào tâm trí tôi)

Still remains (Quẩn quanh)

Within the sound of silence (Trong âm thanh của sự tĩnh lặng)

In restless dreams I walked alone (Trong những giấc mơ dài, tôi bước đi một mình)

Narrow streets of cobblestone (Trên những con đường đá cuội chật hẹp)

Neath the halo of a street lamp (Dưới ánh sáng của đèn đường)

I turned my collar to the cold and damp (Tôi kéo cổ áo để chống đỡ giá lạnh cùng ẩm ướt)

When my eyes were stabbed by the flash of a neon light (Khi ánh sáng chói mắt của đèn neon)

That split the night (Như xé rách màn đêm)

And touched the sound of silence (Và làm xáo động âm thanh của sự tĩnh lặng)

And in the naked light I saw (Trong thứ ánh sáng trần trụi ấy, tôi thấy)

Ten thousand people, maybe more (Mười ngàn người, có thể hơn)

People talking without speaking (Họ nói mà như không nói)

People hearing without listening (Họ nghe mà như không nghe)

People writing songs that voices never share (Họ viết ra những bài hát không hề có sự đồng cảm)

And no one dared (Và không ai dám)

Disturb the sound of silence (Khuấy động âm thanh của sự tĩnh lặng)

"Fools" said I, "You do not know (Những tên ngốc, tôi nói: "Các ngươi không biết là)

Silence like a cancer grows. (Sự im lặng di căn như bệnh ung thư sao)

Hear my words that I might teach you, (Hãy nghe những lời khuyên của tôi)

Take my arms that I might reach to you." (Hãy nắm lấy tay tôi khi tôi đưa tay về phía cậu")

But my words like silent raindrops fell, (Nhưng những lời tôi nói như những hạt mưa rơi lặng lẽ)

And echoed (và vọng lại)

In the wells of silence (Trong giếng sâu của sự câm lặng)

And the people bowed and prayed (Và người ta lại khấn vái cùng cầu nguyện)

To the neon god they made. (Đến tượng thánh thần mà họ tạo ra)

And the sign flashed out its warning, (Bỗng xuất hiện một dấu hiệu)

In the words that it was forming. (với dòng chữ mang thông điệp cảnh cáo)

And the sign said, "The words of the prophets are written on the subway walls and tenement halls." (Rằng: "Những lời tiên tri được ghi trên các bức tường ở khu tàu điện ngầm và hành lang của các khu tập thể")

And whisper'd in the sounds of silence. (Và thì thầm trong âm thanh của sự câm lặng)

Bóng dáng người đàn ông tóc nâu in trên tường cùng chồng văn kiện mãi không ngơi, và bài hát cứ lặp đi lặp lại, vang vọng, quẩn quanh trong căn phòng trống rỗng, lạnh băng.

(KHR fic, 27all) - Hai, ba chuyện cùng sủng vậtWhere stories live. Discover now