Tâm lý học đại cương

Bắt đầu từ đầu
                                    

Chương 1
HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC

(tiếp theo)

B. Nhận thức lý tính
I. Tư duy
1. Khái niệm chung về tư duy
- Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối quan hệ và liên hệ bên trong, có tính chất quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan.
- Tư duy của con người có bản chất xã hội vì tư duy xuất phát từ nhu cầu có tính chất xã hội và trong quá trình tư duy con người sử dụng những kinh nghiệm mà các thế hệ trước đã tích lũy được, dựa vào vốn từ ngữ mà các thế hệ đã sáng tạo nên.
2. Đặc điểm của tư duy
2.1 Tính có vấn đề của tư duy
- Không phải hoàn cảnh nào cũng gây được tư duy của con người. Muốn kích thích được tư duy phải đồng thời có hai điều kiện sau đây:
+ Hoàn cảnh (tình huống) có vấn đề: tư duy chỉ nảy sinh trong những hoàn cảnh (tình huống) ở đó nảy sinh những mục đích mới, một vấn đề mới mà những phương pháp hoạt động cũ đã có không đủ để giải quyết, để nhận thức, con người phải vượt ra khỏi những phạm vi hiểu biết cũ và phải tìm cách giái quyết mới, tức là phải tư duy.
+ Hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân: tức cá nhân phải xác định được cái gì đã biết, và cái gì chưa biết cần phải tìm, đồng thời phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó.
2.2 Tính trừu tượng và khái quát của tư duy
- Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất, chung cho nhiều sự vật hiện tượng, rồi trên cơ sở đó mà khái quát các sự vật hiện tượng riêng lẻ khác nhau nhưng có chung những thuộc tính bản chất thành một nhóm, một loại, một phạm trù.
- Tính trừu tượng và khái quát của tư duy cho phép con người không chỉ giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn nhìn xa vào tương lai, nghĩa là giải quyết ở trong đầu những nhiệm vụ đề ra cho họ sau này.
Ví dụ: do nắm được quy luật đàn hồi của kim loại dưới tác động của nhiệt, người kĩ sư đã thiết kế những khoảng cách nhỏ giữa các đoạn đường ray.
2.3 Tính gián tiếp của tư duy
- Tư duy có khả năng nhận thức thế giới một cách gián tiếp bằng ngôn ngữ. Thông qua ngôn ngữ con người sử dụng vốn kinh nghiệm, những phát minh, kết quả tư duy của người khác để thực hiện quá trình tư duy. 
- Trên cơ sở nắm được các quy luật của thế giới mà con người đã sáng tạo ra nhiều công cụ từ đơn giản đến phức tạp (nhiệt kế, vôn kế, ampe kế ...) giúp con người nhận thức thế giới một cách gián tiếp. 
2.4 Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
- Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ, chúng thống nhất nhưng không đồng nhất với nhau, cũng không tách rời nhau được: tư duy không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, ngược lại ngôn ngữ cũng không thể có được nếu không dựa vào tư duy. Nếu không có ngôn ngữ thì các sản phẩm của tư duy sẽ không được chủ thể và người khác tiếp nhận, cũng như chính bản thân quá trình tư duy cũng không thể diễn ra được. Ngược lại, nếu không có tư duy, thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa, không có nội dung. Tuy vậy ngôn ngữ không phải là tư duy mà chỉ là phương tiện của tư duy.
2.5 Tư duy quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
- Tư duy phải dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh nghiệm, trên cơ sở trực quan sinh động. Nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ trực tiếp giữa tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát kinh nghiệm dưới dạng các khái niệm, quy luật... Ngược lại tư duy và sản phẩm của nó cũng ảnh hưởng đến các quá trình nhận thức cảm tính (tính lựa chọn, tính ý nghĩa, tính ổn định của tri giác ...)
3. Tư duy là một quá trình (các giai đoạn của tư duy)
- Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó, nảy sinh trong quá trình nhận thức hay hoạt động thực tiễn của con người.
- Quá trình này gồm nhiều giai đoạn từ khi cá nhân gặp phải tình huống có vấn đề, nhận thức được vấn đề, cho đến khi vấn đề đó được giải quyết. Hay nói cách khác, tư duy có đầy đủ các dấu hiệu của một quá trình: nẩy sinh, diễn biến và kết thúc. Bao gồm 5 giai đoạn:
a. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề:
- Hoàn cảnh có vấn đề là một điều kiện quan trọng của tuy duy. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được hoàn cảnh có vấn đề (tức là xác định được nhiệm vụ tư duy) và biểu đạt được nó
- Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa cái đã biết với cái chưa biết, giữa cái đã có với cái chưa có…). Con người càng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nào đó, càng dễ dàng nhìn ra và nhìn đầy đủ những mâu thuẫn đó, tức càng xác định những vấn đề đòi hỏi họ giải quyết.
→cải biến những dữ kiện ban đầu thành nhiệm vụ và biểu đạt vấn đề dưới dạng nhiệm vụ sẽ quyết định toàn bộ các khâu sau đó của quá trình tư duy.
b. Huy động các tri thức, kinh nghiệm:
- Khâu này làm xuất hiện trong đầu các tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng nhất định có liên quan đến vấn đề đã được xác định. Việc làm xuất hiện những tri thức, kinh nghiệm này đúng hướng hay lạc hướng là tùy thuộc vào nhiệm vụ đã xác định chính xác hay không.
c. Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết:
- Các kiến thức, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện đầu tiên còn mang tính chất rộng rãi, bao trùm, chưa được khu biệt nên cần được sàng lọc cho phù hợp với nhiệm vụ đề ra.
Trên cơ sở sàng lọc này sẽ hình thành giả thuyết – cách giải quyết có thể có đối với nhiệm vụ tư duy.
- Sự đa dạng của các giả thuyết cho phép xem xét cùng một sự vật, hiện tượng từ nhiều hướng khác nhau, trong các hệ thống liên hệ và quan hệ khác nhau, từ đó tìm ra con đường giải quyết đúng đắn và tiết kiệm nhất.
- Sự đa dạng của giả thuyết quyết định sự thành công của việc giải quyết nhiệm vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tư duy.
d. Kiểm tra giả thuyết:
- Việc kiểm tra có thể diễn ra trong đầu hay trong hoạt động thực tiễn. Kết quả của việc kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định, phủ định hay chính xác hóa giả thuyết đã nêu. 
+ Trong trường hợp giả thuyết bị phủ định thì một quá trình tư duy mới lại bắt đầu.
+ Trong quá trình kiểm tra giả thuyết có thể phát hiện ra những nhiệm vụ mới khi nhìn nhận nhiệm vụ đó trong hệ thống quan hệ và liên hệ khác, do đó lại bắt đầu một quá trình tư duy mới
e. Giải quyết nhiệm vụ:
- Khi giả thuyết đã được kiểm tra và khẳng định, thì nó sẽ được thực hiện, nghĩa là đi đến câu trả lời cho vấn đề được đặt ra.
Quá trình tư duy giải quyết nhiệm vụ thường có nhiều khó khăn, do ba nguyên nhân thường gặp:
+ Chủ thể không nhận thấy một số dữ kiện của bài toán.
+ Chủ thể đưa vào bài toán một dữ kiện thừa.
+ Tính chất khuôn sáo, cứng nhắc của tư duy.
4. Quá trình tư duy với tư cách là một hành động
Xét về bản chất thì tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ nhất định để giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ đặt ra. Cá nhân có tư duy hay không chính là ở chỗ họ có tiến hành các thao tác này ở trong đầu của mình hay không, cho nên các thao tác này còn gọi là những quy luật bên trong của tư duy, bao gồm:
a. Phân tích, tổng hợp:
- Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng nhận thức thành các “bộ phận”, các thành phần khác nhau.
- Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được tách rời nhờ sự phân tích thành một chỉnh thể.
- Phân tích và tổng hợp có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành thể thống nhất không thể tách rời: sự phân tích được tiến hành theo hướng tổng hợp, còn sự tổng hợp được thực hiện theo kết quả của phân tích.
b. So sánh
- So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau của các đối tượng nhận thức (Sự vật, hiện tượng)
c. Trừu tượng hóa và khái quát hóa
- Trừu tượng hóa là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho tư duy.
- Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ chung nhất định.
- Trừu tượng hóa và khái quát hóa có quan hệ qua lại với nhau như mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp. Khái quát hóa chính là sự tổng hợp ở mức độ cao hơn.
* Lưu ý: Khi xem xét các thao tác tư duy trong một hành động tư duy cụ thể cần chú ý:
+ Các thao tác tư duy đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất theo một hướng nhất định, do nhiệm vụ tư duy quy định.
+ Trong thực tế tư duy các thao tác đó đan chéo nhau, chứ không theo trình tự máy móc như trên.
+ Tùy theo nhiệm vụ, điều kiện tư duy, không nhất thiết trong hành động tư duy nào cũng phải thực hiện tất cả các thao tác trên
5. Các loại tư duy và quy luật của chúng
Theo lịch sử hình thành và mức độ phát triển của tư duy thì tư duy được chia làm 03 loại
+ Tư duy trực quan hành động: là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ thực tế các tình huống và nhờ các hành động vận động có thể quan sát được.
Ví dụ: trẻ em làm toán bằng cách dùng tay di chuyển các vật thật (cái bánh chẳng hạn) hay các vật thay thế (que tính) tương ứng với các dữ kiện của bài toán.
+ Tư duy trực quan hình ảnh: là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh. Loại tư duy này chỉ có ở người, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. 
Ví dụ: trẻ làm toán bằng cách dùng mắt quan sát các vật thật hay vật thay thế tương ứng với các dữ kiện của bài toán.
+ Tư duy trừu tượng (tư duy từ ngữ - logic): là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên sự sử dụng các khái niệm, các kết cấu logic, được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ.
Ví dụ: học sinh làm toán bằng cách chỉ dùng ngôn ngữ làm phương tiện
6. Sản phẩm của tư duy
a. Khái niệm
Sản phẩm của tư duy là tri thức đã được khái quát hóa về toàn bộ một nhóm, một loại sự vật cùng có chung dấu hiện và bản chất nhất định.
Khái niệm bao giờ cũng được biểu hiện bằng từ (từ khái niệm) và bao hàm những nội dung nhất định (nội dung khái niệm). Quá trình tư duy ở một trình độ nào đó, mức độ nào đó giúp cho con người nhận thức được một số lượng và mức độ những nội dung nào đó của khái niệm. 
Ví dụ: cùng một khái niệm những học sinh trung học có thể hiểu hẹp hơn khái niệm của thầy giáo nhưng lại hiểu rộng hơn học sinh cấp 1.
b. Phán đoán
- Phán đoán thường là một sự nhận định, một sự khẳng định về một cái gì đó. Nó có thể là một khái niệm hoặc một sự liên hệ nhất định của các loại khái niệm với nhau.
Ví dụ: “tâm lý học là một môn khoa học”, “An là một học sinh tốt”
- Phán đoán có thể đơn giản và cũng có thể phức tạp, có thể đúng và chưa đúng. Kinh nghiệm càng nhiều, càng phong phú và toàn diện, việc thực hiện các thao tác càng hợp lý và sự nỗ lực ý chí càng lớn thì sự phán đoán càng đúng đắn.
c. Suy lý
- Suy lý là một phán đoán rút ra từ một phán đoán khác. Có hai loại suy lý chủ yếu:
+ Quy nạp: là suy lý mà từ những phán đoán riêng biệt, cụ thể, rút ra được từ một phán đoán đúng.
+ Diễn dịch: là suy lý mà từ một phán đoán chung rút ra một phán đoán riêng.
→ Hai hình thức suy lý gắn chặt với nhau và có ý nghĩa quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức. Quy nạp tạo nên những tri thức khái quát. Diễn dịch giúp cho sự cụ thể hóa, sự tận dụng khái niệm trong trường hợp cụ thể trong đời sống thực tiễn.
II. Tưởng tượng
1. Khái niệm chung về tưởng tượng
- Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
* Đặc điểm của tưởng tượng:
- Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề, tức trước những đòi hỏi mới, thực tiễn chưa từng gặp, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện, làm sáng tỏ cái mới, nhưng chỉ khi tính bất định (không xác định rõ ràng) của hoàn cảnh quá lớn (nếu rõ ràng, rành mạch thì diễn ra quá trình tư duy). Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ tìm được lối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề ngay cả khi không đủ điều kiện để tư duy, nó cho phép bỏ qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn hình dung ra kết quả cuối cùng. Song đây cũng chính là chỗ yếu trong giải quyết vấn đề của tưởng tượng (không có sự chuẩn xác, chặt chẽ)
- Tưởng tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình ảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ. Biểu hiện của tưởng tượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu tượng của trí nhớ, nó là biểu tượng của biểu tượng.
- Tưởng tượng quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng những biểu tượng của trí nhớ, do nhận thức cảm tính thu lượm, cung cấp.
* Vai trò của tưởng tượng:
- Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ hoạt động nào của con người. Sự khác nhau cơ bản giữa lao động của con người và hoạt động bản năng của con người chính là ở biểu tượng và kết quả mong đợi do tưởng tượng tạo nên. Ý nghĩa quan trọng nhất của tưởng tượng là cho phép con người hình dung được kết quả trung gian và cuối cùng của lao động.
- Tưởng tượng tạo nên những hình mẫu tươi sáng, rực rỡ, chói lọi, hoàn hảo mà con người mong đợi và vươn tới (lý tưởng), nó nâng con người lên trên hiện thực, làm nhẹ bớt những nặng nề, khó khăn của cuộc sống, hướng con người về phía tương lai, kích thích con người hành động để đạt được những kết quả lớn lao.
- Tưởng tượng có ảnh hưởng rõ rệt đến việc học tập của học sinh, đến việc tiếp thu và thể hiện các tri thức mới, đặc biệt đến việc giáo dục đạo đức, cũng như đến việc phát triển nhân cách nói chung cho họ.
2. Các cách sáng tạo hình ảnh mới của tưởng tượng
a. Thay đổi số lượng, kích thước, thành phần của sự vật để làm tăng hay giảm đi hình dáng của đối tượng so với thực tế: người khổng lồ, người tí hon, người ba mắt, tượng phật ngàn tay ngàn mắt...
b. Chắp ghép: ghép các bộ phận của nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau thành một hình ảnh mới. (con rồng, người cá ..). Trong hình ảnh mới, các bộ phận hợp thành vẫn giữ nguyên, không bị thay đổi, chế biến, chúng chỉ được ghép với nhau một cách đơn giản mà thôi.
c. Nhấn mạnh: là cách tạo hình mới bằng sự nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hàng đầu một phẩm chất nào đó, một mối quan hệ nào đó của sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.( các hình ảnh trong tranh biếm họa)
d. Liên hợp: khi tham gia vào hình ảnh mới, các yếu tố ban đầu bị biến đổi, cải tổ và nằm trong những mối tương quan mới. Liên hợp là một sự tổng hợp sáng tạo. Phương pháp này được sử dụng trong văn học sáng tạo nghệ thuật, khoa học kỹ thuật để thiết kế các công cụ, thiết bị kỹ thuật. (xe điện bánh hơi là kết quả của sự liên hợp giữa ô tô với tàu điện)
e. Điển hình hóa: là phương pháp tạo thành hình ảnh phức tạp nhất, trong đó những thuộc tính điển hình, những đặc điểm điển hình của nhân cách như: đại diện của một giai cấp hay tầng lớp xã hội nhất định được biểu hiện trong hình ảnh mới. Yếu tố mấu chốt của phương pháp này là sự tổng hợp sáng tạo mang tính chất khái quát những đặc tính và đặc điểm cá biệt, điển hình của nhân cách.
f. Loại suy: dựa trên những sự vật hiện tượng có thực để tạo ra những cái mới tương tự như vậy. (chế tạo cái búa mới dựa trên các cơ sở cái búa thật)
3. Các loại tưởng tượng
a. Dựa trên tính chủ động của tưởng tượng có thể chia thành hai loại tưởng tượng
- Tưởng tượng không chủ định: là loại tưởng tượng một cách tự nhiên, không phải cố gắng hay tập trung ý thức để tưởng tượng.
- Tưởng tượng có chủ định: là loại tưởng tượng xuất hiện khi con người có ý định, nhiệm vụ phải xây dựng nên những hình ảnh nào đó, người tưởng tượng phải có sự nỗ lực nhất định.
- Tưởng tượng có chủ định bao gồm:
+ Tưởng tượng tái tạo: là những tưởng tượng tạo nên những hình ảnh chỉ mới đối với cá nhân, nhưng không mới đối với loài người, hoặc dựa trên sự mô tả của người khác.
Ví dụ: Tưởng tượng của học sinh về những điều được mô tả trong sách giáo khoa địa lý, lịch sử, văn học.
+ Tưởng tượng sáng tạo: là tưởng tượng tạo nên những hình ảnh mới một cách độc lập, mới đối với cá nhân và xã hội, biểu hiện trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị như trong sáng tạo kĩ thuật, sáng tạo nghệ thuật…
b. Căn cứ vào tính tích cực hay không tích cực của tưởng tượng có thể chia chúng thành hai loại
- Tưởng tượng tiêu cực: là loại tưởng tượng tạo ra nhiều hình ảnh của sự vật không được thể hiện trong đời sống, vạch ra những chương trình không thể được thực hiện. Đây là loại tưởng tượng thay thế cho hành động, không thúc đẩy hành động.
- Tưởng tượng tích cực: là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh có thể được thể hiện ra trong đời sống, loại này thúc đẩy con người hành động, biến tưởng tượng thành hiện thực, nó định hướng cho hành động.
c. Ước mơ và lý tưởng
Đây là những loại tưởng tượng được hướng về tương lai, biểu hiện những mong muốn, ước ao của con người.
- Ước mơ giống tưởng tượng sáng tạo ở chỗ nó cũng là quá trình độc lập, còn khác ở chỗ nó không hướng vào hoạt động hiện tại. Có hai loại ước mơ: ước mơ có lợi (thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thực) và ước mơ có hại (không dựa vào khả năng thực tế) còn gọi là mộng tưởng (có thể làm cá nhân chán nản, thất vọng do viển vông, không thực tế).
- Lý tưởng có tính tích cực và hiện thực cao hơn ước mơ, đó là mục tiêu cao đẹp, thúc đẩy con người vươn tới. Do đó lý tưởng có vai trò quan trọng, con người chỉ thực sự sống có ý nghĩa khi con người có lý tưởng và ước mơ cao đẹp.

Bạn đã đọc hết các phần đã được đăng tải.

⏰ Cập nhật Lần cuối: Jan 03, 2012 ⏰

Thêm truyện này vào Thư viện của bạn để nhận thông báo chương mới!

Tâm lý học đại cươngNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ