Những ông trùm khét tiếng Việ...

By panelka

6K 7 0

More

Những ông trùm khét tiếng Việt Nam tk 20

6K 7 0
By panelka

Khánh Trắng :


Khánh “Trắng”, tên thật là Dương Văn Khánh, là một nhân vật cầm đầu băng đảng xã hội đen gồm 19 tội phạm khét tiếng Hà Nội trong những năm cuối của thế kỷ 20. Khánh bị bắt, đem ra xét xử, bị lãnh án tử hình năm 1997.

Theo bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm thì Khánh “Trắng” phạm 4 tội: giết người, cướp tài sản công dân, trốn thuế và che giấu tội phạm. Khánh phải nhận án tử hình và phải nộp cho Nhà nước gần 3,9 tỷ đồng, trong đó có hơn 3,5 tỷ đồng tiền phạt, 350 triệu đồng tiền thuế, tiền án phí, bồi thường cho các bị hại…

Khánh “Trắng” có vẻ ngoài nho nhã, thư sinh song lại được xem là một sát thủ máu lạnh đội lốt một ông đội trưởng bốc xếp. Với vẻ ngoài hào hoa lịch lãm và làm nhiều công tác từ thiện đều là để che mắt thiên hạ .

Tuy nhiên, Khánh “Trắng” từng có lần bị tạt acid cực nặng và vụ này do trùm dao búa Nguyễn Việt Dũng ở Hải Phòng thực hiện. Giới giang hồ đồn đại rằng: theo đơn đặt hàng của trùm Dũng, đàn em của Dung Hà từ Hải Phòng lên Hà Nội tạt acid Khánh Trắng, đội trưởng đội bốc xếp chợ Đồng Xuân. Thế nhưng, sau khi bỏ cả núi tiền chữa sẹo mà không hết, Khánh vẫn không dám dọa hoặc chơi lén lại Dũng .

Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Trật tự Xã hội (C14), Bộ Công an chính là Trưởng ban chuyên án vụ bắt trùm tội phạm Khánh “trắng” và đồng đảng ở Hà Nội năm 1996. Ông Quắc cho rằng, xét về mặt tổng kết các nghiệp vụ của ngành công an, thì vụ án băng nhóm của Khánh “trắng” vẫn là một cái mốc quan trọng đánh giá sự tiến hóa nguy hiểm của tội phạm hình sự ở Việt Nam, từ chỗ hoạt động theo kiểu các ổ nhóm nhỏ lẻ bắt đầu liên kết với nhau thành những băng nhóm tội phạm quy mô lớn, có tổ chức chặt chẽ với các hoạt động bảo kê, móc nối theo kiểu xã hội đen, đâm thuê chém mướn và đòi nợ thuê.

Năm 1991, ở Hà Nội có một vụ giết người do Dương Văn Khánh (Khánh “trắng”) cầm đầu, thực hiện. Sự việc xảy ra khoảng 12h30 ngày 24/3/1991.

Nguyễn Đức Thắng (tức Đạt) trong băng buôn bán mũ cối giả ở chợ Đồng Xuân xích mích với Trần Đại Dương, đàn em của Khánh “trắng”. Khi Khánh “trắng” cùng các đàn em Trần Đại Dương, Vũ Quốc Dũng, Phạm Gia Chiến, Tống Văn Thắng đi ngang số nhà 44 Hàng Chiếu thì gặp Hưng, anh ruột Đạt. Khánh “trắng” hô đàn em bắt Hưng. Hưng chống cự, bị cả bọn quây lại đánh hội đồng.

Biết anh đang bị đánh, Đạt cướp dao thái thịt của chị Hoa ở đường Nguyễn Thiện Thuật chạy đến đâm Chiến và Dũng bị thương. Đạt bị băng Khánh “trắng” bắt đưa lên xích lô, nhưng khi đến Công an phường Đồng Xuân thì Đạt đã chết… Nguyên nhân chết của Đạt được pháp y Công an Tp. Hà Nội xác định do nhát đâm vào cổ xuyên thấu phổi, mất máu… Dũng bị phạt 1 năm tù giam.

Sau này, ngày 28/1/1996, Ủy ban thẩm phán TAND tối cao xét xử tái thẩm vụ án đã hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm năm 1991 bằng Quyết định 55/UBPT vì lý do Vũ Quốc Dũng không có hành vi giết người…

Cơ quan CSĐT Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) xác định Dương Văn Khánh dàn dựng có bài bản để Dũng “phở” chỉ phải chịu mức án nhẹ nhất. Qua lời khai của Dũng “phở”, Trần Đại Dương, Tống Văn Thắng và các nhân chứng khác, Cơ quan điều tra biết rằng các nhát đâm trên người Đạt đều do một mình Khánh “trắng” thực hiện bằng chính con dao mà Đạt cướp của chị Hoa.

Phúc Bồ

Quote:
Cho tới giờ, khi những tay anh chị như Sơn “bạch tạng”, Khánh “trắng” đã “dựa cột”, đám giang hồ đất Hà Nội một thời, nay chỉ còn Nguyễn Thị Phúc (Phúc “bồ”) quay trở lại với cuộc đời sau khi phải “bóc 11 cuốn lịch”.
Vào những năm cuối của thập kỷ 1990, cái tên Phúc “bồ” và Khánh “trắng” từng là nỗi kinh hoàng cho những người dân lành vô tội buôn bán ở khu vực chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Núp dưới danh nghĩa những đội bốc xếp, vận chuyển hàng hóa cho những người buôn bán, Phúc “bồ” và Khánh “trắng” thực chất là những tên lưu manh sừng sỏ cầm đầu những băng nhóm “xã hội đen” ngang nhiên lộng hành bắt nạt và chèn ép những dân lành buôn bán.

Bằng các thủ đoạn độc quyền vận chuyển, bốc xếp, thu tiền bến bãi, ép giá, bắt phạt, đe dọa báo cán bộ thuế vụ, chúng đã thu tiền trái phép đối với người kinh doanh buôn bán hoặc người từ địa phương khác đến giao hàng. Thậm tệ hơn, chúng đã xâm phạm chỗ ở, bắt giữ người trái pháp luật, cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê, và tiến hành hàng chục vụ đâm thuê chém mướn gây thương tích cho người dân vô tội. Tham gia giải quyết các vụ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bằng “luật rừng”, cho đàn em khống chế đe dọa buộc bên đối phương phải chấp nhận những điều kiện và luật lệ do chúng đặt ra, băng nhóm của chúng đã khiến cho bao nhiêu người phải điêu đứng.

Nếu như Khánh “trắng” là một sát thủ máu lạnh đội lốt một ông đội trưởng đội bốc xếp có vẻ ngoài hào hoa lịch lãm và làm nhiều công tác từ thiện để che mắt thiên hạ thì Phúc “bồ” lại là một người đàn bà “hung dữ” trắng trợn cầm đầu băng nhóm “xã hội đen” thu nạp đám đàn em thân tín là những tên lưu manh trộm cắp, côn đồ hung hãn từng vào tù ra tội. Đàn bà dễ có mấy tay, mà đàn bà như Phúc “bồ” thì đàn ông dù có máu mặt giang hồ cũng phải quy phục dưới trướng của thị.

Không đến mức chém giết người dã man, trắng trợn và thâm độc như Khánh “trắng”, song với 21 tháng tồn tại, băng nhóm của Phúc “bồ” làm mưa làm gió đối với bà con buôn bán ở chợ tạm Phùng Hưng và một số khu vực lân cận quanh chợ Đồng Xuân. (Lúc đó chợ Đồng Xuân bị cháy nên chính quyền lập chợ tạm Phùng Hưng cho bà con buôn bán). Đứng đằng sau với vai trò chủ mưu và cầm đầu băng nhóm, Phúc “bồ” đã dựng người tình của mình lên làm đội trưởng đội bốc xếp.

Thị lập ra các tổ bốc xếp nhỏ ở từng khu vực buôn bán các mặt hàng, đưa những tên lưu manh lên làm tổ trưởng và đề ra mức tiền hằng ngày phải nộp cho từng người, từng tổ, từng nhóm. Các đội viên phải tìm mọi cách để đạt chỉ tiêu, nếu không Phúc “bồ” sẽ cho người đánh, hoặc không cho làm nữa. Bằng cách đó, Phúc “bồ” và Khánh “trắng” thu nhập mỗi tháng hàng trăm triệu đồng.

Phúc “bồ” và Khánh trắng” từng đụng độ nhau rất nhiều lần để dàn xếp lãnh thổ hoạt động của băng nhóm. Nhiều vụ “thanh toán” nhau diễn ra khá tàn bạo. Điển hình là vụ chém nhau giữa hai băng nhóm ở bốt Hàng Đậu mà kết quả là người tình của Phúc “bồ” – đội trưởng đội bốc xếp của thị, đã bị đàn em Khánh “trắng” lấy đi một mắt do bị chúng hắt axít. Sau nhiều lần dàn xếp, cuối cùng khu vực hoạt động của hai băng nhóm được xác lập. Khánh “trắng” cai quản khu vực chợ Đồng Xuân, Phúc “bồ” cai quản ở các khu vực lân cận.

Tồn tại vỏn vẹn 21 tháng, có vẻ như khoảng thời gian ấy là quá ít so với tiếng tăm lưu manh giang hồ nổi khắp Hà Nội của băng nhóm Phúc “bồ”. Cuối cùng thì Phúc cùng các đệ tử cũng đã bị pháp luật trừng trị đích đáng. Phúc “bồ” lĩnh án tù 11 năm ở trại 5 Thanh Hóa.

Khi còn bị “lưu kho” tại trại giam số 5 Thanh Hóa, lúc nào Nguyễn Thị Phúc cũng được vài ba chục chị em chăm bẵm từng miếng ăn, giấc ngủ. Ở đâu người đàn bà có nước da trắng, đôi mắt sắc lạnh như sói hoang, với những chiến tích độc nhất vô nhị, cũng được xếp vào vị trí đại ca.

Nhưng tất cả sự cung phụng của các phạm nhân trong buồng giam vẫn không thể khỏa lấp được nỗi nhớ nhà, nhớ chồng, con và cả người tình cùng những ngày tháng coi trời bằng vung của thị. Nhiều lúc Phúc “bồ” như điên dại, hết la hét lại khóc lóc một mình.

Cuối năm 2002 Phúc được ân xá ra tù. Không còn nhà cửa, nghề nghiệp, được sự giúp đỡ của anh trai và cô em gái, chị ta mua được một căn nhà ở phố Trần Khát Chân, mở hàng nước trà chén, sau đó chuyển qua buôn bán mỹ phẩm và điện thoại di động.

Có lẽ cái gì muốn thì người đàn bà này cũng thực hiện được nhờ quá khứ “thở ra khói nói ra lửa” của mình. Duy chỉ có một điều Phúc bất lực, đó là không thể cứu được hai con trai thoát khỏi nàng tiên nâu. Trước kia chuyên đi bắt chẹt người khác, nay Phúc “bồ” lại bị trắng tay bởi chính những đứa con của mình.

Do quá ham làm việc và nghĩ ngợi nhiều, bước sang tuổi 49 (tháng 8- 2005) Phúc đã bị một cơn tai biến mạch máu não. Trong những ngày chị ta vật lộn với cái chết tại bệnh viện, thì ở nhà 2 đứa con nghiện ngập lần lượt mang đồ đạc đi bán. Mặc dù có con nhưng Phúc thường xuyên bị bỏ đói và phải một mình vật lộn với nỗi đau thể xác.

Quá xót em, anh trai và em gái Phúc đã đưa chị ta về ngôi nhà nhỏ trong ngõ 57 Hàng Bồ để chăm sóc. Phúc thêm một lần đau đớn vì 2 đứa con, đứa phải vào trại cai nghiện, đứa thì đã chết trong một lần sốc thuốc. Chị ta đã suy sụp hoàn toàn.

Chúng tôi tìm đến ngõ 57 Hàng Bồ. “Bà trùm” một thời lừng lẫy trong giới giang hồ giờ ngồi bất động giữa chiếc giường sắt đen sì. Khi chúng tôi ngồi xuống cạnh người đàn bà bệnh tật đó cũng không có chút phản ứng nào. Trên khuôn mặt ngơ ngẩn chỉ duy nhất đôi mắt là phảng phất tia sắc lạnh của một thời vùng vẫy.

Thấy khách lạ, chị giúp việc tên Thanh tất tả chạy về. “Các anh có hỏi thì bà Phúc cũng chẳng biết trả lời đâu. Bây giờ bà ấy không nói được gì, chỉ giơ tay ra hiệu thôi. Trước tôi cũng có mấy người chăm sóc bà Phúc nhưng đều không chịu nổi vì bà ấy quá to béo và lại ăn uống nhiều, bài tiết lắm, tính nóng không thích cái gì là ném đi ngay”.

Tôi hỏi: “Một ngày bình thường của bà Phúc thế nào? Chị Thanh thật thà liệt kê: “Sáng sớm ngủ dậy phải đưa bà ấy vào nhà vệ sinh tắm rửa, khắc phục hết hậu quả của một đêm tự do bài tiết. Sau đó đi mua đồ ăn sáng đút cho ăn, rồi bật TV để tự ngồi xem, lúc đó tôi quay sang dọn nhà, giặt quần áo. Trưa bà Phúc chỉ ăn phở, đến tối mới ăn cơm. Xưa bà ấy ăn sướng quen, nên bây giờ đồ không ngon là vứt đi ngay.

Tuy không nói được nhưng thi thoảng hễ ai cho tiền là bà ấy giắt luôn vào cạp quần”. Chị Thanh nói, ngoài những người thân và hàng xóm chạy qua chạy lại hỏi thăm, thỉnh thoảng cũng có vài người tự nhận là đàn em đến, vội vàng dúi vào tay chị Phúc ít tiền rồi đi ngay, nhưng càng ngày càng thấy thưa dần. Chỉ có mấy anh công an khu vực thì vẫn đều dặn tới thăm hỏi, động viên.

Nhìn người đàn bà đã đờ đẫn cả về thể xác lẫn tinh thần, một mình cô đơn trong góc nhà, bao nhiêu ấn tượng về một Phúc “bồ” giang hồ khét tiếng chợt mờ đi. Chỉ còn lại trong lòng chúng tôi một nỗi buồn. Trong cuộc đời, dù cách này hay cách khác, có lẽ những người có quá khứ như chị ta đều ít nhất phải một lần trả giá
 
Dung Hà

Một góc phố Trạng Trình – Hải Phòng, nơi Dung “hà” sinh ra và lớn lên

Với những chiêu thức tinh khôn và không lạm dụng bạo lực, thị đã xây dựng được một “đế chế” độc tôn, trật tự và khá an toàn cho thế giới tội phạm ở phố cảng. Nhưng quá khứ đó đã được thay bằng cảnh “hỗn mang” từ khi Dung “hà” chết. Vậy người đàn bà đó là ai?

Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu có ba “ả tố nga” bên dòng sông Tam Bạc nước cả bốn mùa, Dung “hà” là út nhưng tính tình trầm lặng, lạnh lùng và quyết liệt nhất. Nhà ở phố Trạng Trình gần chợ, gần sông và gần bến xe nên tuổi dậy thì của Dung “hà” cũng là tuổi chập chững trong giới cướp giật móc túi ở Hải Phòng.

Cũng là kẻ đa đoan nên mối tình đầu của Dung “hà” là một gã du côn ít tên tuổi nhưng phong nhã tên là Hùng “chim chích” ở chợ Sắt. Hùng “chim chích” trưởng thành qua các tăng tù “bất khuất” (những trại tù có nhiều tội phạm nguy hiểm) nên hắn có những hình xăm hoa mỹ trên người. Ngập vào ma túy nên bản lĩnh Hùng “chim chích” trở nên thấp hèn. Một người “chí lớn” như Dung “hà” thì không thể coi đó là “tri âm”.

Chia tay Hùng “chim chích”, Dung “hà” yêu một đại bàng đầy số má, đẹp trai và cũng tên là Hùng – Hùng “cốm”. Dung “hà” sẵn cơ mưu, nhìn xa trông rộng, không cầu lợi nhỏ, không chấp chuyện vặt nên đôi uyên ương vùng vẫy trong giang hồ với kẻ tung người hứng, kẻ đấm người xoa rất ý hợp tâm đầu. Hùng “cốm” lãnh án dựa cột bởi tội giết người. Hận vì tình vỡ cộng với máu giang hồ, Dung “hà” tổ chức một cuộc cướp tù với kế hoạch cực kỳ táo bạo, công phu và đầy mưu mẹo.

Quà tắc tế được giấu một quả lựu đạn sẽ tìm một phương án khả dĩ nhất để đưa vào tới tay Hùng “cốm”. Một chiếc xe tải rách nát chuyên chở bắp cải, su hào sẽ đến gần cổng trại giam. Lựa thời điểm, Hùng “cốm” sẽ dùng lựu đạn cướp khóa, khống chế quản giáo, tháo thân. Lựu đạn cay, hỏa mù và các phương tiện đánh lạc hướng sẽ được đám đệ tử phát huy. Xe tải chở Hùng “cốm” phóng thẳng.

Hàng chục xe máy, công nông, xe thồ… sẽ có nhiệm vụ cản đường tại những trục chính đã được tính rằng xe công an có thể rượt đuổi. Hùng “cốm” chạy ra bờ biển. Xuồng nhỏ, xuồng lớn phục sẵn tại các điểm hẹn sẽ đưa kẻ đào tẩu đến phao số không và đi Hong Kong. Các tình tiết ngoại phạm, các phương án xóa dấu vết… được tính toán từng chi tiết.

Tuy nhiên kế hoạch bất thành. Người tình vẫn phải đền tội nhưng Dung “hà” đã khiến tất cả những tên côn đồ hữu dũng vô mưu hay những kẻ to mắt sợ ma phải cúi đầu bởi không chỉ vì lá gan, mưu sâu mà cả vì là liệt nữ hành hiệp “trọng nghĩa” hơn bất kỳ một đại ca nào.

Câu chuyện trên không được Công an Hải Phòng xác nhận nhưng nó đã trở thành một “huyền thoại” trong giới giang hồ đất cảng. Trong tất cả những trùm giang hồ Hải Phòng trong ba chục năm qua thì Dung “hà” được tôn trọng, nể vì nhất. Điều đó khiến đàn em thị trung thành nhất và đông đảo nhất.

Để được như vậy, Dung “hà” luôn tỏ ra độ lượng, thưởng phạt phân minh “ân đức” bao trùm lên thế giới giang hồ. Thị luôn tránh va chạm với dân thường bằng bạo lực. Trái lại, trong con mắt nhiều người, thị còn là một người đàn bà tốt bụng, hảo tâm. Đối với khu xóm, ai hoạn nạn ốm đau, thai sản đều được thị thăm hỏi, quà cáp.

Ngày lễ tết hay đi du lịch, chùa đền về, thị thường chia lộc, chia vui với bà con khu phố. Năm 1995, khi Dung “hà” bị công an bắt, có tới 45 người dân là bà con cùng khu phố thị ở đã viết đơn kêu oan cho Dung “hà”.

Không nuôi gái bán dâm, không ma túy, không đòi nợ thuê, không buôn lậu hay vận tải mà Dung “hà” chỉ tập trung “thâm canh” bằng cờ bạc và “làm luật” ở một vài khu chợ, bến bãi. Lựa chọn những ngạch làm ăn này vừa nhẹ nhàng, vừa ít va chạm lại thu nhập cao nên thị mở nhiều sòng bạc ở nhiều địa chỉ khác nhau. Tuy nhiên sới bạc tại nhà vẫn là qui mô nhất với đại gia đình tham gia.

Sau khi triệt phá hàng loạt băng nhóm tội phạm có tổ chức, năm 1995 Công an Hải Phòng bắt Dung “hà” về tội tổ chức đánh bạc và lãnh án 7 năm tù giam. Sau bốn năm thụ án, Dung “hà” được đặc xá. “Binh lực” và tiền bạc vẫn mạnh nhưng cửa làm ăn ở Hải Phòng đã hết, Dung “hà” tìm vào Sài Gòn và đã bị Năm Cam cho người hạ sát.

Vinh “lì” kể: “Lúc đó khoảng 9-10 giờ tối, bọn em đang chơi xóc đĩa ở phố Cát Dài thì một anh có điện thoại. Vừa nghe được mấy câu ông ấy rống lên như bò bị cắt tiết, ném điện thoại xuống chiếu, mặt không còn hạt máu: “Chúng mày ơi chị mất rồi! Chúng nó bắn chị Dung chết rồi!”.

Cả chiếu bạc hơn 40 người nháo nhác như gà mất mẹ. Một anh già có vẻ cứng bóng vía nhất quát lên: “Ai bảo mày? Ai nói chị chết?”. Liên tục những cuộc điện thoại gọi đến gọi đi. Nhiều tiếng khóc thảm như trẻ con”.
Đêm ấy, thành phố Hải Phòng như không ngủ. Tiếng khóc, tiếng chửi, tiếng bàn tán xì xào lẩn khuất khắp nơi trong thành phố. Ngôi vị cao nhất của giang hồ đất cảng đã chết không một lời trăng trối, đã bị hạ sát bởi một kẻ lạ mặt giữa lúc thị đang ngự trị giữa bầy đàn đệ tử. Lúc đó lòng thương xót và cơn uất hận của đám ong ve ngùn ngụt như lửa nhưng tất cả đều không biết ai là thủ phạm.

Thậm chí ban đầu ngay những đệ tử tháp tùng Dung “hà” vào Sài Gòn cũng không biết ai là kẻ chủ mưu hại Dung “hà”. Nhiều đầu lĩnh Hải Phòng đã thu xếp vào Nam đòi nợ máu nhưng không thể lên đường vì không rõ đối thủ. Vinh “lì” nói không biết là do quá khôn ngoan hay may mắn mà Năm Cam đã không lộ diện giết Dung “hà”.

Bởi nếu giang hồ đất cảng biết điều đó sớm thì dù Năm Cam có nhiều tiền và hùng mạnh đến đâu chắc chắn cũng không thể tránh khỏi thảm họa như Sìn “cơm” thời mới ở Hong Kong về.
Thi thể Dung “hà” đã được tắm gội, khâm liệm, cúng tế bằng những nghi thức trang trọng và ngay lập tức được đưa vào quan tài kẽm chở về Hải Phòng trong chuyến bay sớm nhất. Giang hồ đất cảng đã tiễn đưa “người chị” đoản mệnh về nơi chín suối bằng một đám tang kỳ quái chưa từng có ở VN.

Từ mờ sáng trên các tuyến phố lớn và đại lộ huyết mạch từ khu trung tâm thành phố (bến xe Tam Bạc, gần phố Trạng Trình, nhà Dung “hà”) dẫn ra nghĩa trang Ninh Hải nằm ở ngoại ô hướng đông nam đã xuất hiện hàng dãy dài những thanh thiếu niên nam khôi ngô tuấn tú mặc đồng phục comlê đen, kính đen, cài dải tang trên áo đứng nghiêm cẩn dọc hai bên để dẹp đường, cấm tất cả các loại xe hoạt động.

Tiếng trống phách, thanh la vang lên não nuột nhưng rất ồn ã từ phố Trạng Trình. Đi đầu đám tang là những cô bé, cậu bé mặc đồ trắng, cầm cờ, hoa, câu đối đi chậm rãi, ngay ngắn. Phía sau họ là một cái kiệu gỗ có ảnh người chết, bát hương và một số đồ cúng tế do những người đàn ông lực lưỡng cáng trên vai.

Vòng xung quanh kiệu là rất đông nhà sư, thầy cúng, ông đồng bà cốt vừa đọc kinh, lần hạt, nhảy múa và hát. Phía sau là những đoàn người trong tang phục đen mà chủ yếu là đàn ông với rất nhiều vòng hoa lớn. Hai bên đường là hai hàng xe hơi màu đen toàn loại sang trọng rì rì lăn bánh theo bước chân người.

Một chiếc quan tài phủ hoa rực rỡ được công kênh bằng những cánh tay người cao vút trên đầu. Đám tang ngày một thêm đông, người đưa ma kéo dài hàng cây số. Các loại phương tiện lớn nhỏ đều phải dừng lại dưới sự chỉ huy của những thanh niên mặc đồ đen. Dân đổ kín hai bên phố và theo chân quan tài đi nhiều tiếng đồng hồ ra tới nghĩa trang.

Tất cả những tên du đãng ở Hải Phòng lúc đó, dù trong đời chưa một lần được “chị” biết đến, thậm chí chưa được nhìn thấy “chị” cũng tự nhận mình là em, là cháu Dung “hà” mà khóc lóc thảm thiết…
Đám tang qui mô, long trọng và kỳ lạ chưa từng thấy ở thành phố này do một đại ca đầy danh tiếng ở Hải Phòng cũng đang lập nghiệp ở Sài Gòn là Minh “sứt” đạo diễn (Minh “sứt” nguyên là công an Hải Phòng, sau bị đưa ra khỏi ngành, vì buôn ma túy hắn bị Tòa án nhân dân TP.HCM xử chung thân).

Cu Nên

Dạo ấy Hải Phòng hầu như tháng nào cũng án mà toàn những vụ ghê gớm cả. Những cái tên Cu Nên, Lâm “già”, Dung “Hà” khi ấy làm nhiều người dân khiếp sợ, không dám đụng, cũng chẳng dám tố cáo bởi chúng là những tên cầm đầu của ba ổ nhóm tội phạm khét tiếng.

Riêng Cu Nên thì chơi trội hơn cả.

Nên sinh năm 1957, người gốc Hải Phòng, là con trai độc nhất trong một gia đình có 4 chị em vì anh trai của Nên đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Nên cao ráo, trắng trẻo nhưng có bộ mặt sát nhân, lạnh lùng và lỳ lợm.

Trong lịch sử tội phạm ở Việt Nam có lẽ Phạm Đình Nên là kẻ giữ kỷ lục về tiền sự với 22 tiền sự, trong đó đa số là về tội cướp và cố ý gây thương tích. Năm 1987, sau khi đi tập trung cải tạo về, vợ chồng Phạm Đình Nên chia tay và Nên trốn sang Hongkong. Ở trại tị nạn Hồng Kông 2 năm, Nên lấy vợ hai, sinh con rồi đến năm 1989 thì phải hồi hương.

Trở lại Hải Phòng, Nên thực sự trở thành một giang hồ cộm cán chuyên làm giàu bằng các sòng bạc. Chỉ trong vòng vài năm, với những đồng tiền bẩn thỉu kiếm được từ các hoạt động tội phạm, Nên trở thành một kẻ giàu có. Lúc đó, trong khi chiếc xe máy còn là tài sản lớn mà nhiều công chức cả đời ky cóp chưa mua nổi thì Phạm Đình Nên đã có xe hơi. Ngoài ngôi nhà 3 tầng to vật vã ở số 112 đường Lạch Tray, con đường đẹp và đắt giá nhất Hải Phòng, Nên còn bỏ tiền ra mua liền một lúc 5 căn hộ ở mặt đường ngay sát cạnh nhà Nên để phá bỏ làm xưởng sửa chữa ôtô.

Ngôi nhà 112 đường Lạch Tray trong một thời gian dài là hang ổ của băng tội phạm do Phạm Đình Nên cầm đầu. Trong nhà Nên, ngoài mẹ Nên, vợ chồng Nên và 3 đứa con lúc nào cũng có hàng chục tên đàn em túc trực, để bảo vệ tính mạng cho chú Nên như lời khai của Đinh Văn Lĩnh, tức Linh cu, một tay chân thân tín của Phạm Đình Nên.

Những tên đàn em này được Nên nuôi ăn hàng ngày, được Nên sắm sửa cho các vật dụng, trang sức đắt tiền, được Nên cho tiền tiêu và để đổi lại thì bọn chúng phải bắn, giết, cướp bất cứ lúc nào khi Nên ra lệnh.

Linh “cu” là một ví dụ. Nhà ở phố Lý Thường Kiệt, Linh nghiện ma túy từ năm 15 tuổi, mỗi ngày đốt khoảng 500 nghìn đồng. Cha mẹ Linh bỏ nhau, Linh ở với bố, một người cũng khá tiếng tăm trong giới giang hồ Hải Phòng. Cha Linh do có mối quan hệ thâm tình với Phạm Đình Nên từ khi Nên mới chỉ là tay trộm cắp vặt nên mới gửi Linh xuống ở nhà Nên để “nhờ chú cai nghiện và bảo ban cháu (?!).

Ở nhà Nên, Linh không những không cai được nghiện mà còn được huấn luyện thành tay đao búa. Sau này, trong tất cả các phi vụ cướp giết để bảo vệ danh dự cho chú Nên Linh “cu” đều có mặt và là kẻ hành động chính. Tuy nhiên, khi băng tội phạm Phạm Đình Nên bị đưa ra xét xử, Linh “cu” mới 16 tuổi nên y không bị kết án tử hình mà chỉ phải chịu hình phạt cao nhất đối với trẻ vị thành niên là 20 năm tù giam.

Khi thi hành án ở trại giam Nam Hà, Linh đã đánh chết một đồng phạm cùng buồng giam và tiếp tục bị xử phạt tù chung thân. Một thời gian sau, Linh “cu” trốn trại. Khi bị lực lượng cảnh sát trại giam truy bắt, Linh “cu” đã bắn trọng thương Đại úy Nguyễn Văn Phục, cán bộ trinh sát của Cục Cảnh sát trại giam. Với tội trạng này, Linh “cu” đã bị tuyên án tử hình.

Không giống như Linh “cu”, Đinh Văn Tuyển lại trở thành tay chân đắc lực của Phạm Đình Nên bởi sự lóa mắt vì tiền bạc. Tuyển sinh năm 1967, đẹp trai, cao to. Nhà Tuyển ở phường Vạn Hương, thị xã Đồ Sơn. Cả gia đình Tuyển làm nghề đi biển. Tuyển cũng xuất cảnh trái phép sang Hongkong và ở cùng trại tị nạn với vợ chồng Phạm Đình Nên. Sau này khi đã hồi hương, Tuyển không muốn quay về với nghề đi biển vì ngại khổ.

Vì thế, Tuyển đã tìm đến với Phạm Đình Nên và chỉ một thời gian sau Tuyển cũng được huấn luyện thành một tay đao búa. Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án còn lưu trữ tại Công an Hải Phòng thì trong tất cả 8 vụ cướp, giết, cố ý gây thương tích do Phạm Đình Nên chỉ huy, Tuyển và Linh “cu” thực hiện tội phạm “tích cực” nhất.

Sẵn có trong tay tiền bạc, vũ khí và cả một đám tay chân sát thủ, Phạm Đình Nên lộng hành như một ông trùm đao búa. Giữa ban ngày Nên xông vào tận trụ sở Công an phường Lạch Tray, nơi gia đình Nên cư trú để giải cứu cho đồng bọn khi tên này bị công an phường bắt giữ vì có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Không chỉ thế, Nên còn đe dọa sẽ bắn và tạt axít vào mặt phó trưởng công an phường.

Chỉ vì một xô xát nhỏ giữa gia đình chị ruột Nên và người hàng xóm, Nên đã cho đàn em đánh trọng thương một cán bộ của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hải Phòng. Thậm chí ban đêm nhà Nên có trộm, một người đi đường không đuổi trộm hộ Nên cũng bị Nên sai tay chân ra đánh cho sây sẩm mặt mày.

Một tối gia đình Nên đang ăn cơm bỗng thấy có ai đó bắn vào cửa. Đoán đó là đám tay chân của Lâm già, lập tức Nên sai Linh “cu” và Tuyển, mỗi tên mang một khẩu súng đến tận cửa nhà Lâm “già” nã liền lúc hàng chục phát đạn vào nhà để dằn mặt.

Lần khác, Linh “cu” đi chơi xô xát với một thanh niên tên là Nguyễn Văn Cường. Linh gọi điện về báo cho Nên, lập tức Nên bảo Tuyển và mấy tên đàn em mang súng tới “giải quyết”. Nên bảo Tuyển cứ bắn chết thằng ấy cho tao và Tuyển đã nhằm vào Cường nổ hai phát súng nhưng may là Cường không trúng đạn. Hậm hực vì không giết được Cường, Nên bảo Tuyển đi đến nhà Cường lấy báng súng đập vào đầu bố Cường cho bõ tức (?!).

Khi cháu của Nên va chạm xe với một người đi đường, Nên sai Linh “cu”, Tuyển và một vài tên khác đi cùng Nên để xử lý. Tới nơi theo lệnh của Nên đám đàn em này không chỉ đâm trọng thương bạn của người đàn ông đã va chạm với cháu Nên mà khi người này phải vào Bệnh viện Việt – Tiệp cấp cứu, Nên còn cho tay chân theo vào tận bệnh viện để tiếp tục đâm.

Anh Trần Anh Tuấn, nhà ở Hồ Sen, con trai độc nhất của một người thương binh mù, bạn của người đàn ông nói trên khi hay tin bạn mình bị cấp cứu đến thăm đã bị Linh “cu”, Tuyển và đám đàn em của Phạm Đình Nên đâm chết ngay tại nhà gửi xe của bệnh viện. Vụ án này đã gây căm phẫn cao độ trong quần chúng nhân dân thành phố Cảng…

Chỉ vài tháng sau khi đảm nhận trách nhiệm Phó giám đốc Công an thành phố phụ trách cảnh sát, Đại tá Trần Đồn đã có trong tay toàn bộ hồ sơ về tội trạng của băng tội phạm Phạm Đình Nên. Trong khi làm án, ông luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người thương binh mù cả hai mắt trong nỗi đau mất con.

Tờ mờ sáng ngày 15/3, hàng đoàn xe ôtô của Công an Hải Phòng được hóa trang bằng các biển số xe Hà Nội đã đổ quân xuống tiền sảnh của Cung Văn hóa hữu nghị Việt – Tiệp, để từ đây hàng trăm cán bộ chiến sĩ thuộc các lực lượng cảnh sát điều tra, cảnh sát hình sự, cảnh sát bảo vệ… đã bao vây chốt giữ ở tất cả các điểm xung quanh ngôi nhà 112 Lạch Tray.

Đúng 10h30, ông ra lệnh cho các lực lượng vây bắt từ các vị trí phục kích đồng loạt đột nhập vào nhà số 112. Công an đã bắt giữ Phạm Đình Nên cùng 6 tên đồng bọn, thu 10 nghìn USD cùng nhiều trang sức bằng vàng.

Khám xét nhà Nên và khu vực hầm ở phía sau nhà thu giữ 1 súng tiểu liên, 3 súng ngắn, 47 viên đạn, 1 quả lựu đạn và nhiều lê, kiếm. Trận đánh nhanh, gọn, không phải nổ súng, đảm bảo an toàn cho lực lượng công an và nhân dân xung quanh. Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã gửi điện khen Công an Tp. Hải Phòng.

Nhân dân thành phố đổ ra đường chào đón lực lượng công an. Hoa và thư khen của quần chúng nhân gửi đến Công an thành phố nhiều vô kể. Phạm Đình Nên sau đó bị tuyên án tử hình.

Trong những ngày chờ thi hành án, Phạm Đình Nên đã làm thơ gửi vợ, ao ước được trở về với cuộc sống nghèo khó mà lương thiện: “Đêm lạnh trong tù anh nhớ về dĩ vãng/ Nhớ vợ hiền và đứa con thơ/ Nhớ mái nhà tranh dột nát năm nào/ Giờ thân tội tù như chim lồng cá chậu…
Lâm ” già “

Trích dẫn:
Mặc dù ra tù với trọng lượng 27kg, nằm bẹp trên cáng vì bệnh lao kháng thuốc hành hạ, nhưng Lâm “già” vẫn thấy số mình còn “hên”, bởi bạn bè, chiến hữu trên chiếu giang hồ cùng thời với Lâm như Năm Cam, Khánh Trắng, Dung Hà, Cu Nên giờ đều đã xanh cỏ.

Trong ngôi nhà rộng mênh mông mặt tiền phố Lê Lợi, TP Hải Phòng, một chân kiềng trong thế tam trụ của giang hồ đất Cảng thập niên 90 – Lâm “già” chậm rãi kể lại những tháng năm bão tố của cuộc đời mình. Và, cũng chính cái giọng nhè nhẹ, từ tốn ấy, khác xa với kiểu ăn nói ngông nghênh, thét ra lửa hồi nào, Lâm khát khao hướng về bến thiện cho những ngày sắp tới…

Quyết chí làm giàu

Những năm thập niên 90, chiếu giang hồ Hải Phòng được thống lĩnh bởi thế kiềng 3 chân: Lâm “già” – Dung “hà” – Cu Nên. Trong đó Dung “hà” khôn ngoan xảo quyệt, ẩn mình để thống lĩnh giang hồ. Cu Nên thì khoái dùng vũ lực để nổi đình nổi đám, khuyếch trương thanh thế. Chỉ có Lâm “già”, tức Ngô Thế Lâm (SN 1956 ) là người rất nhạy bén, thức thời và hơn hẳn hai đối thủ của mình ở chỗ biết lấy tội phạm để làm kinh tế và ngược lại, lấy kinh tế nuôi tội phạm.

Thời trai tráng, Lâm phụ giúp mẹ ở chợ Sắt, Hải Phòng. Cuộc đời Lâm chỉ thực sự rẽ lối khi hoàn tất việc thụ án trong trại giam về tội trộm cắp tài sản và về làm bốc vác tại cảng cá Máy Trai. Khi ấy, Lâm 31 tuổi. Và, cũng từ ngày ấy, giang hồ gọi đặt cho Lâm biệt hiệu Lâm “già” bởi chẳng biết bệnh tật thế nào mà mặt Lâm nhăn nheo như ông lão tuổi 60.

Vốn thông minh, nhanh nhẹn nên Lâm đã được một ông chủ tổ hợp đánh bắt cá quý mến, ưu ái dành cho công việc tìm người khuân vác hàng, đồng thời tìm mối tiêu thụ hải sản tươi sống, nhờ đó mà Lâm giàu lên nhanh chóng.

Có tiền, Lâm móc ngoặc với các thủy thủ viễn dương buôn lậu hàng điện tử, xe máy, đồ gia dụng. Những năm 1990, xe mi-ni Nhật, xe cúp kim vàng giọt lệ, quạt điện là những thứ tài sản được coi là rất giá trị trong gia đình… được Lâm đánh cả container với giá rẻ mạt rồi phân phối cho khắp các thành phố lớn ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… Nhờ buôn lậu, đã giàu lại càng giàu hơn, Lâm lại bỏ tiền đầu tư 11 chiếc tầu đánh cá tải trọng lớn đánh bắt xa bờ, rồi đứng ra thu mua, tiêu thụ sản phẩm. Tiếp đó, Lâm đầu tư một đội quân xích lô du lịch chuyên chở khách nước ngoài đến thăm quan thành phố Cảng, đồng thời kiêm luôn việc phục vụ đám cưới, đám hỏi. Đã có lúc, đội quân xích lô này lên đến hàng trăm chiếc và tất cả các khách sạn trong thành phố đều được Lâm bao thầu việc chở khách đi tham quan, dã ngoại.

Đại bàng gãy cánh

Càng đầu tư nhiều lĩnh vực, Lâm càng lôi kéo được nhiều đàn em, đệ tử. Và câu chuyện về đối đãi với đàn em của Lâm đến giờ vẫn được giới giang hồ Hải Phòng truyền tụng. Lâm không chỉ tạo công ăn việc làm mà còn không thu bất cứ một khoản phí nào của đàn em, y còn luôn tỏ ra hào phóng mỗi khi gia đình nào đó có chuyện chẳng lành.

Vì vậy, xung quanh Lâm luôn có nhiều đệ tử trung thành, trong đó có khá nhiều người từng có tiền án, tiền sự. Và tất nhiên, cũng nhờ những đệ tử này mà công việc làm ăn của Lâm luôn được thuận lợi, vì hễ có bất cứ một đối thủ nào muốn cạnh tranh với Lâm thì bằng mọi cách, đám đệ tử ép bằng được đối thủ của Lâm phải “chết yểu”.

Biết thế nào công an cũng sờ gáy trước sự giầu có bất thường của mình, nên Lâm quyết định “rửa tiền” bằng cách đấu và trúng thầu hồ đào Lạch Tray rộng 13ha để thả cá và xây dựng khu du lịch sinh thái. Nhưng thực chất là một mũi tên trúng hai mục đích: vừa qua mặt công an, vừa xây dựng tại đây một kho tập kết hàng lậu lớn nhất Hải Phòng thời bấy giờ. Ngoài ra, Lâm còn trang bị một dàn xe ô tô 4 chỗ để chuẩn bị thành lập công ty taxi đầu tiên ở miền Bắc.

Tuy nhiên như đã nói ở trên, trên chiếu giang hồ TP Cảng ngày ấy tựa thế kiềng ba chân nên Lâm càng ăn nên làm ra, băng nhóm Cu Nên càng sợ bị lép vế. Vì vậy, mặc dù chẳng tranh giành đất làm ăn, nhưng thi thoảng Cu Nên lại cho đàn em nghễu nghện vác súng đến trước nhà của Lâm để… dằn mặt. Sau mỗi lần như vậy, Lâm lại cho đàn em đến tận nhà riêng của Cu Nên xả cả băng AK để trả đũa, khiến Dung “hà” phải nhiều phen đứng ra giảng hoà.

Cũng trong một trận dằn mặt nhau kiểu ấy, một đàn em thân tín của Lâm bị trọng thương, khiến Lâm điên tiết cho đàn em đi trả thù, xong vẫn chưa nguôi giận. Trước đó, y đã bị công an “rung giật” về chuyện sẽ đấu tranh triệt để với những ổ nhóm tội phạm xã hội đen như của Lâm, khiến y đau đầu tìm lối thoát.

Thấy đại ca buồn bã, một đệ tử đã hiến kế phải “giải đen” bằng cách phá trinh con gái (tên này đã đi bắt cóc một bé gái 14 tuổi phụ giúp nhà hàng bên cạnh hồ cá của Lâm về dâng tặng đại ca, sau đó do không bịt miệng được bà chủ nhà hàng bằng tiền và vàng, đàn em của Lâm đã ra tay “xử lý” người này – PV). Và chính kế sách sai lầm này của đàn em đã khiến Lâm phải vào “bóc lịch” trong tù với mức án 16 năm tù giam vì hai tội: giết người và xâm hại tình dục vị thành niên.

Hạnh phúc lớn nhất là vẫn được chăm nom mẹ già

Chúng tôi gặp Lâm “già” tại nhà riêng khi đại ca giang hồ này vừa được trả tự do. Một trong tam trụ của giang hồ Hải Phòng một thời giờ đã là ông lão 60, dáng người nhỏ thó, gầy gò nhưng giọng nói có vẻ cởi mở hơn. Bấm đốt ngón tay, Lâm “già” tính đã bóc lịch trong trại giam đúng 10 năm, 6 tháng, 27 ngày.

Lần lượt chuyển từ trại Xuân Nguyên (Hai Phòng) qua Trại 5 (Thanh Hoá) rồi vòng về Phú Sơn (Thái Nguyên), ở bất cứ trại nào khi Lâm đến, đều được các đàn em đang thụ án tại đó đón tiếp tử tế. Có nhiều kẻ tứ chiếng giang hồ không ở Hải Phòng nhưng nghe danh Lâm “già” cũng đều bày tỏ thái độ kính nể.

Tuy nhiên căn bệnh lao kháng thuốc đã vắt kiệt sinh lực của Lâm. Ngày được đặc xá, Lâm chỉ nặng 27kg, hai chân gần như liệt, nên đành phải nằm trên cáng để vợ con đưa về. Về nhà, được một số đàn em, những người từng mang ơn Lâm ngày trước giúp đỡ về tài chính để Lâm chạy chữa bệnh tật. Khi gặp chúng tôi, Lâm cho biết vừa trả bình oxy được 3 giờ đồng hồ, tức là đã qua cơn nguy kịch.

Tuy nhiên căn bệnh lao kháng thuốc vẫn phải điều trị. Mỗi tháng, chỉ tính nguyên tiền thuốc đã mất gần 5 triệu, nhưng Lâm không phải lo, vì khoản này đã có một đàn em xung phong chịu trách nhiệm. Một số đàn em khác xung phong “trả lương” người 5 triệu, người vài ba triệu hàng tháng cho “anh Lâm” để… tiêu vặt. Những người này sẵn sàng trải chiếu hoa mời Lâm đến làm việc tại công ty mình nhưng Lâm đều từ chối.

Chia sẻ với chúng tôi, về tương lai của gia đình, Lâm cho biết, mặc dù của nả đã đội nón ra đi hết nhưng điều Lâm mừng nhất là ba cô con gái xinh đẹp đã trưởng thành, thông minh, sắc sảo. Mẹ già tuy hơi lẫn một chút nhưng ông ta vẫn còn có cơ hội được cùng vợ chăm sóc.

Hiện kinh tế gia đình đang trông vào quán bún ngan buổi sáng rất đông khách của vợ. Nếu chỉ mưu cầu một cuộc sống bình thường, thì số tiền vợ kiếm được cũng đủ để cả gia đình sống tằn tiện qua ngày. Tuy nhiên, theo Lâm thì ông ta không muốn phải sống dựa vào vợ, lòng tốt của mọi người. Chính thế, Lâm bảo, chỉ cần đợi sức khoẻ khá lên một chút, Lâm sẽ lại xông ra thương trường để kiếm sống.

Kế hoạch của Lâm có thể là sẽ bán ngôi nhà rộng thênh thang ở mặt phố Lê Lợi, mua một ngôi nhà nhỏ hơn để lấy vài tỷ dôi ra đó làm vốn kinh doanh. Tất nhiên, lần này sẽ là làm ăn đúng đắn, không vi phạm pháp luật, vì theo nhận định của Lâm thì bây giờ mới là thời điểm vàng của thương gia.

Sài Gòn

Đại Cathay




Hình ảnh của Đại Cathay cứ lẩn vẩn mãi, rảnh rỗi xem lại những câu chuyện về Đại Cathay với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ, trên môi không rời điều thuốc, Zippo, ... Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng chỗ đứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt. Ở đó sự liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống "tình nghĩa" đáng để suy ngẫm...

Đại Cathay : sinh ra để làm TRÙM của những thằng trùm

Nếu ai có theo dõi vụ án của Năm Cam thì chắc k0 ngạc nhiên khi nghe đến tên Đại Cathay, đại ca của Lâm chín ngón - kẻ đã bị nữ quái Dung hà tạt axit. Bài đầu của "Huyền thoại" giang hồ phương Nam xin post nhân vật này đầu tiên vì ảnh của Đại Cathay trên báo thực sự ấn tượng bởi vẻ điển trai cũng như nụ cười nhếch khóe môi của kẻ sinh ra để làm Trùm của những ông trùm này.

Ngày ấy, thời Mỹ Ngụy, danh tiếng của người đứng đầu “tứ đại giang hồ” là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua cuốn tiểu thuyết rẻ tiền của nhà văn Duyên Anh “điệu ru nước mắt”. Trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam cũ với sự hà hơi tiếp sức của quan thầy Mỹ há sợ một tên du đãng Đại Cathay đến nỗi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời ra làm nhân viên công lực quốc gia hay tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát. Xem ra báo chí văn chương đề cao gã du đãng này quá?

Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng… không biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lên Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự… Mẹ của Đại Cathay cũng khá… nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng… con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.

Kì thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay la Đoàn Văn Bơ Quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ, Quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất "lì đòn", những đức tính được "thừa kế" đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.

Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị bắt vào cuối năm 1946, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại nghiện thuốc phiện năng nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ. Tại đó có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm "tên đất" vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, "đại ca" đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954 lúc Đại mới 14 tuồi.

Trở thành "anh chị", Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em "đi làm" mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là những tên thuyết khách) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên "chăn chíp" tham lam khác mà còn lấy của đứa "trúng mánh" cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời "anh Đại". Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.

Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các công cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẵn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà phú lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của đại đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.

Ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại Tế Bần nằm bên kia cầu Trình Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi vòng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.

Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hang vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần đầu. Ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm chín ngón, Hắc quảy quảy, Hòa áo thun… những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ.

Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng - vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.

Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này đón tiếp Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu vựa cá, vựa rau cải – vốn có hạng trong nghề dao búa – đều bị Đại Cathay qui phục về dưới trướng.

Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn "hàng mã", sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai.

Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm "chịu" Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.

Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào "thu thuế" giật bà con thiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi.

Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán!

Tám lâu gạt phắt:
- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái đinh gỉ!

Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn "chém bậy" vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình "trải đệm", bất ngờ "luộc" băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉ cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.

Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn "tài ba" của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió.

Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất "não nùng")... và nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã- trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối.

Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... Mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.

Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm Cam – ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm, khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng đầu bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp "phơi" đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.

Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các "vu", Đại Cathay cũng làm quen, "chơi chịu" được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.

Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm "lừng lẫy" khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ông trùm Lê Lại, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại "chơi kèo trên", giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định "hội đồng" diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm Hùng phốc và Luân - 2 giang hồ cộm cán khác cùng hỗ trợ, mời Đại đến "bàn công việc". Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý "hòa giải". Danh xưng "Tứ Đại giang hồ" ĐẠI - TỲ - CÁI - THẾ bắt nguồn từ đó.

Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hang sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trượng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện móc hầu bao.

Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.

So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11/1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, "Con ngựa điên" đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là "cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu". Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nhằm củng cố địa vị "Vua Hắc Đạo" của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.

Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.

Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em "chiến đấu" nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều.

Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vị nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. "Con ngựa điên" phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị "trải điệm" nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền . Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm "dzách bạc hồ hãn" (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.


Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe loạn xạ…

Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc hắn.

Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội – bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:

- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.

Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:

- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?

Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:

- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi.

Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:

- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được…

Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tướng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đính thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:

- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng.

Đại Cathay từ chối:

- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt.

Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:

- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.

Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa:

- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!

Đại Cathay trả lời:

- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được.

Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.


Quá ngạo mạn, đang đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.

Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập tràn trong không khí sống gấp và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thường của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hoà hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thường thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường.

Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu – tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.

So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm củng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẵn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.

Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối – một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo – không có chủ tướng đi cùng – xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẵn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rich của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:

- Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”

Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:

- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?

Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:

- Đừng chơi quê tụi này chớ!

- Thì đã sao? – Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích!

Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:

- Không thích cũng bắt!

Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên:

- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây.

Pằng! Pằng! Pằng! Ầm

Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung toé, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên:

- Anh em rút đi, để tôi lo!

Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcon dịu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.

Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý:

- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…

Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:

- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.

Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:

- Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.

Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi.

Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc.

Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.
Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:

- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi.

Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:

- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.

Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.

Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và sảnh sát ngụy, Trại “Cửu Sừng" chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đểu trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.

Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.

Đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tông, trong chợ Dân Sinh… chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỉ niệm.
Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng.

Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn.

Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón… Đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón – gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám:

- Thằng Lâm lóc choc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.

Trước giờ khới sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo:

- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.

Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7/1/1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.

Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.

Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục… Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK47, giả trang làm Quân giải phóng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách Mạng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay – tên du đãng ngoại hạng.

Năm Cam



Năm Cam (giữa)

Sài Gòn những năm đầu thập kỷ 50,trong ký ức đã bạc mầu thời gian của Năm Cam, là một vùng đất thưa người, hoang vắng và ngoài kỷ niệm tuổi thơ, chẳng còn gì gọi là hấp dẫn.

Thuở ấy,con kinh chạy dài từ đầu Cầu Quay đến tận Chợ Lớn còn sạch lắm. Nước lên xuống theo thủy triều và đủ để cho lũ trẻ con ở truồng nhồng nhỗng lặn hụp suốt ngày chơi trò thủy chiến.

Quận 4, nơi sinh ra và lớn lên của Năm Cam-lúc ấy là mảnh ruộng đồng đầy ao vũng, sình lầy và lắm muỗi mòng.Còn nhớ, cho đến tận những năm đầu thế kỷ, nơi này còn có cả lũ cá sấu hoa cà dữ tợn từ Rừng Sác-Cần Giờ tìm về gây họa.

Những khu xóm lụp xụp tối tăm,ban đêm được soi bằng những bóng đèn dầu hột vịt hoặc tệ hơn, bằng ánh trăng huyền hoặc.Năm Cam đã trưởng thành từ nơi khốn khó,

Chẳng trách y có một tham vọng đổi đời bất chấp mọi thủ đoạn để dành thắng lợi.

Cha của Năm Cam tên thật là Trương Văn Bưởi-còn được gọi là ông Mừơi Củi, đó chính là lý do khi có ai đó nói đùa với y: Chanh,Tắc(quất)gì cũng được, nhưng nói đến Bưởi và Quýt thì không xong!Đã rời bỏ quê hương Quảng Nam để vào đất Sài Gòn sinh sống từ những năm 30. Nghe đâu ngoài Tư Xẩm, Năm Cam, hai ông bà Mười Củi đã ngậm ngùi bỏ mất hai đứa con trai ở quê cũ vì không có tiền mua thuốc trị bệnh. Đó cũng chính là nguyên nhân hai vợ chồng quyết tâm ra đi không chút quyến luyến và gần như quên đi rằng họ từng có một quê hương nào đó xa vời vợi tận miền Trung. Khát vọng đô(i đời thoát nghèo đã buộc họ ra đi.

Năm Cam đã ngỡ rằng ngoài cha mẹvà chị Tư Xẩm, chẳng còn ai để nó gọi bà con. Thế nhưng, vào một buổi chiều tối, cha nó dắt hai chị em ăn mặc tươm tất, tương đối khá hơn cái gọi vựa củi của ông già Mười nhiều. Năm Cam và Tư Xẩm được giới thiệu với người đàn bà chủ nhà, và được đeo tang ông chồng của bà chủ nhà vừa chết. Từ đó, trong trí óc non nớt của Năm Cam đã ghi nhận được rằng: ở ngôi nhà tại chợ Xóm Chiếu này, cha nó có một người em gái tên là Trương Thị Quýt. Chồng của cô Quýt vừa chết, Năm Cam và Tư Xẩm phải gọi là dượng- Dượng Thừa, một ông dượng mơ hồ xa lạ dù hoàn toàn có thật.

Nhưng cũng mối quan hệ bà con duy nhất này đã dạy cho Năm Cam một bài học, quan trọng và đầy chua xót khi nó đã bắt đầu lớn khôn đủ nhận thức về một thế giới phức tạp đầy dẫy chuyện tồi tệ ở chung quanh. Một thế giới quan khắc nghiệt đã định hình bởi bài học cay đắng ấy.

Ngày ông Mười Củi dắt hai đứa con đến đám tang của chồng em gái trờ về, ông bắt đầu ngã bệnh và các triệu chứng của căn bệnh lao phổi thời kỳ cuối cùng. Đó là kết quả của công việc lao động quá sức để nuôi vợ và hai con.

Được gần hai năm, ông Mười mất. Năm Cam còn nhớ, lúc cha chết, những chiếc xe của phòng thông tin chạy rông khắp ngõ phát ra rả trên loa: “ Nghe vẻ nghe ve, nghe vè Bảo Đại....”. Nhờ vậy sau này, một người bạn trí thức của Năm Cam có thể khẳng định được năm ông Mười qua đời là năm 1955, năm thủ tướng Ngô Đình Diệm chơi trò trưng cầu dân ý để phế truất Bảo Đại khỏi cương vị quốc trưởng và bắt đầu cho việc lập nền đệ nhứt cộng hòa.

Cô Quýt cũng được báo tin dữ bởi đích thân bà chị dâu nghèo khổ. Không khác gì một người khách vãng lai, cô Quýt ghé đến đám ma thắp một nén nhang, uống vội một ngụm trà, và dúi vào tay chị dâu một ít tiền phúng điếu trước khi bước lên Taxi ra về. Nét mặt cô như một tảng nước đá, không buồn cũng chẳng vui.

Lúc ấy, trí óc non nớt của Năm Cam chưa cho phép nó hiểu rằng người cô cư xử hết sức xấu với gia đình người anh, cô Quýt thậm chí không buồn có mặt khi hạ huyệt. Đối với cô đến thắp nhang ông anh đã là tốt lắm rồi.

Về sau khi chớm hiểu cuộc đời, Năm Cam đã hiểu được một điều rất đơn giản nhưng cũng là nổi ám ảnh suốt một đời của một gã giang hồ ít học: Phải giàu có dù bằng bất cứ cách nào: nếu nghèo khó- những điều đơn giản và dễ hiểu nhứt như tình thân bằng quyến thuộc, cũng đừng hòng!

Bài học càng rõ nét hơn khi bà Mười, vào một lúc quá bế tắc, đã dắt đứa con đến tìm con của cô Quýt nghe đâu rất khá giả.

Hai mẹ con cùng đi chân đất, đầu trần giữa một buổi trưa Sài Gòn đầy nắng và bụi, đến đứng tần ngần trước cửa hàng tạp hoá bề thế của Sang- đứa con trai đầu của Dưỡng Thừa và cô Quýt. Anh ta thờ ơ theo kiễu một con buôn.

- Xin lỗi, thực ra tôi cũng chẳng nhớ là có một người bà con nào, nếu có hẳn mẹ tôi nói cho chúng tôi biết rồi chứ!? Sang nói một cách lạnh lùng sau khi quan sát kỹ cách ăn mặc của hai mẹ con của người muốn nhận họ hàng với gã. Chắc mối quan hệ thân quyến này chẳng mang đến cho gã chút lợi lộc nào mà ngược lại, sẽ làm cho gã hao tốn không ít thời giờ và tiền bạc. Với bản chất một con buôn, Sang hiểu- tốt nhứt là gã nên vờ đi là xong! Theo thói đời, cách xử sự ấy hoàn toàn hợp lý...

Bà Mười tủi thân bật khóc rồi dắt con trai quay về. Cuộc sống nghèo khó rồi cứ thế tiếp diễn.

Mỗi buổi, bà lọ mọ mua về ít khoai, bắp bên vựa và luộc lên bán quẩn quanh trong xóm cho lũ trẻ con trong bụng ỏng eo. Năm Cam, dù mới chỉ mười hai, muời ba tuổi đầu cũng biết cùng bọn đồng trang lứa qua khu chợ cá Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối để xoáy từng con cá, củ khoai về “cải thiện”. Đối với những cư dân làng Khánh Hội lúc bấy giờ, đó là lẽ tất nhiên, chẳng có gì là lạ. Sống tươm tất, đó mới là chuyện đáng lưu ý...

Và rồi Tư Xẩm có chồng. Chồng cô là một tay anh chị có chút ít tiếng tăm ở địa phương: Bảy Xi- tên thật của Nguyển Văn Xi.

Thực ra Bảy Xi không phải là người sống ở hẻm Chủ Phước. Cha mẹ của Bảy Xi có nhà cửa ở chợ Xóm Chiếu. Anh ta đến hẻm chôn nhau cắt rốn của chị em Năm Cam do mối quan hệ giang hồ với Mười Sở, một tay giang hồ có máu mặt ở khu Cống Lấp.

Như bất kỳ một cuộc tình nào khác xảy ra ở một vùng đất nghèo khổ, sình lầy này, Bảy Xi yêu và cưới Tư Xẩm thật gọn gàng chóng vánh khi cô gái chớm bước qua tuổi mười tám. Tình nghèo thuở ấy như vậy là phổ biến.

Chỉ là một mâm cơm tương đối gọi là, với khách mời duy nhất là Mười Sở, Bảy Xi ra mắt mẹ vợ và sống tạm ở căn nhà rách nát ấy một thời gian ngắn, trước khi đưa vợ về ở chung cùng cha mẹ mình.

Bảy Xi có một nghề để kiếm tiền mà hiện nay, cách kiếm tiền ấy không còn bắt gặp đâu trên toàn cõi Việt Nam nữa.

Không đẹp trai, chân lại bị khập khiễng, bù lại Bảy Xi có giọng ca khá mượt đủ làm xiêu đổ trái tim các cô gái lối xóm hằng đêm tụ tập ở phong ten nước. Bằng giọng ca trời phú, Bảy Xi mỗi ngày ôm một xấp bài tân cổ thời thượng đi khắp các hóc hẻm Sài Gòn để bán. Tất nhiên, muốn bán được một cách dễ dàng với số lượng nhiều, Bảy Xi phải ca thử, ca một cách hết sức ai oán mùi mẫn.

Theo chân anh rể, năm Cam cũng bắt đầu biết đến một Sài Gòn khác hẳn. Một Sài Gòn với những đường phố rộng thênh thang, nhà cửa tráng lệ, người mua bán tấp nập. Sài Gòn được biết đến sau này khác xa với Sài Gòn tuổi thơ của Năm Cam, có không ít trò lừa lọc và lối cư xử có không ít tàn nhẫn.

Tư Xẩm chuyển qua buôn bán nồi niêu xoong chảo bằng nhôm và bắt đầu chuẩn bị cho đứa con đầu lòng chào đời.

Bảy Xi đưa vợ về hẻm Sáu Căn ở Tôn Đản để thuê nhà.

Đúng với tên gọi của nó, hẻm 148 thời bấy giờ chỉ lèo tèo vài căn nhà nằm lọt thỏm giữa một bãi tha ma tiêu điều quạnh vắng.

Thọ, đứa con trai đầu của Bảy Xi và Tư Xẩm đã ra đời trong một căn nhà mái lá, vách phên tre vào năm 1957, năm mà Bảy Xi vẫn tất bật với công việc mua bán bài nhạc một cách lương thiện.

Mỗi chiều, Năm Cam lại theo lũ bạn ra cây cầu Ông Lãnh để tắm táp, vui đùa. Thuở ấy, bọn trẻ có thể nương theo dòng nước để lội từ Cầu Chông đến tận chợ Cầu Cống mới trèo lên con lộ nhựa trèo về nhà. Vài năm sau khi về ở hẻm Sáu Căn, Bảy Xi sinh tật có thêm vợ bé.

Tuy vậy, anh ta vẫn quan tâm đến Tư Xẩm và đứa con mới chập chững biết đi.

Hai mẹ con Năm Cam ở căn nhà phía ngoài, còn Tư Xẩm ở trong sâu. Khi hai vợ chồng cãi nhau kịch liệt về việc vợ bé- vợ mọn của Bảy Xi, Tư Xẩm dứt khoát: “ hoặc thôi vợ bé, hoặc đi luôn!”. Bảy Xi bỏ đi. Thế là Tư Xẩm bế luôn đứa con trai về với mẹ trong một căn nhà tồi tàn rách nát cách đấy không xa.

Rất nhiều năm sau này, Năm Cam cố nhớ lại vì sao cả Bảy Xi lẫn mẹ con Năm Cam lại tìm đến hẻm 148 Tôn Đản này để sinh cơ lập nghiệp. Phần Năm Cam và mẹ thì rõ rồi, họ phải theo vợ chồng Bảy Xi đi bất kỳ nơi đâu để tồn tại, dù tồn tại theo kiễu hết sức khổ cực. Còn Bảy Xi?

Hoá ra, người rủ Bảy Xi về hẻm Sáu Căn sinh sống là anh Bảy Huê Kỳ. Anh Bảy Huê Kỳ là một tay kỳ bẻo có tầm cở nhứt nhì Sài Gòn lúc bấy giờ, nhưng nghèo rớt mồng tơi. Có tay nghề giỏi nhưng vẫn có thể chết đói nếu không biết liên kết và thiếu kế hoạch, Năm Cam đã nghiệm ra được như vậy ở tấm gương anh Bảy Huê Kỳ.

Để phụ giúp gia đình, Năm Cam theo bạn bè gia nhập đội ngũ những kẻ bán xà bông bột quanh chợ Bến Thành.

Mỗi bịch xà bông bán được chỉ đem đến mười xu lãi nhưng nếu mỗi ngày nếu chịu khó đi cho đến cặp chân mõi rũ rượi, Năm Cam cũng có thể mang về nhà được hơn chục đồng bạc.

Năm Cam đó được một người bạn thân mồ côi cha mẹ cũng làm nghề đi bán dạo xà bông như nó. Bé Tám ở chung nhà với anh chị nhưng cũng được giành cho một không gian riêng biệt ở phía sau và thường rủ thằng bạn quận 4 quí hóa về ngủ qua đêm trên chiếc ghế bố hẹp bốc mùi ngai ngái.

Tuy là một đứa trẻ con loắt choắt vì thiếu ăn và phải bươn chải nhưng Năm Cam đã thực sự trưởng thành theo cách nhìn của bọn giang hồ lưu manh từ năm 14 tuổi. Nó theo chân các ông anh trời ơi ở khu Cống Lấp để đáp xe buýt lên ngã ba Chú Ía, trong tay cầm chặt tờ giấy bạc hai mươi đồng!

Cô gái mặt bự phấn cười rũ ra khi nhìn thấy thằng trẻ con đang thập thò núp sau lưng gã anh chị mặt mũi cô hồn mình xâm chằng chịt!

- Nó à? Cô gái hỏi gã đàn anh của Năm Cam khi đã ngừng trận cười

*

* *

Sau lần tìm hiểu đàn bà đầu tiên trong đời, Năm Cam trở nên dạn dĩ, nó sẵn sàng đi một mình khi thấy rủng rỉnh ít tiền trong túi. Tệ hại hơn, như những hạt cỏ dại khác mọc xô bồ ở mảnh đất phức tạp ở quận Tư, nó cũng tham gia hầu hết các trò đồi bại của bọn trẻ con quỉ quái. Nó cũng bơi dọc theo bờ kinh để rình rập những phụ nữ sơ hở trong lúc tắm táp vệ sinh và cũng chẳng từ cơ hội nào để thỏa mãn trí tưởng tượng hết sức phong phú về tình dục của nó.

Cho đến một ngày nọ...

Ơû chợ Bến Thành, nó và bé Tám có một bà chị nuôi rất xinh đẹp và tử tế. Nguyệt, tên cô gái-năm ấy 23 tuổi, sống bằng gánh trái cây và quen biết Năm Cam qua sự giới thiệu của bé Tám.

Chính cô cũng không ngờ thằng trẻ con láu lỉnh, khéo ăn nói và nhiệt tình phụ giúp cô mỗi khi dọn hàng, lại có thể nhìn cô với kiểu nhìn hết sức dung tục, đồi bại.

Hai chị em quấn quýt nhau những ngày mưa gío buôn bán ế ẩm. Công việc buôn bán xà bông của Năm Cam tỏ ra nhiều thời giờ rảnh hơn cô gái nên nó giúp đỡ cô khá nhiều.

Hôm ấy, trời đổ mưa to. Nhìn cơn mưa ngày lúc càng nặng hạt không có dấu hiệu gì sẽ chấm dứt. Nguyệt thở dài với đứa em nuôi:

- Kiểu này chắc dọn về luôn chớ buôn bán gì nữa?

Năm Cam hăng hái lao vào trong mưa để gọi xích lô và nó thoăn thoắt dọn hàng cho cô chị nuôi lên xe. Tất nhiên khi dọn xong, đầu tóc nó ướt đẫm.

- Thôi, lên xe về nhà chị...để ướt đầu cổ thế này bệnh chết! Cô nói.

Cô ngồi lên ghế, hàng và đỗi quang gánh đặt dưới chân. Năm Cam lay hoay chẳng biết phải ngồi vào đâu. Nguyệt phì cười, cô ngoắc tay:

- Leo lên đây, ngồi vào lòng chị nè ông tướng!

Nó mừng rỡ trèo lên xe ngồi lọt tỏm vào lòng cô chị nuôi xinh đẹp.

Nguyệt thoạt đầu cũng không nghĩ ngợi gì khi ôm thằng em nuôi trong lòng. Thế nhưng khi xe chuyển bánh, sự cọ xát giữa hai cơ thể khác giới khiến cô có chút bồi hồi. Tấm bạt che, đủ để những tư tưởng đồi bại phát sinh, và đủ để hai chị em không cùng huyết thống bớt đi sự xấu hổ cần thiết. Nguyệt bất giác thở dài rồi ghì xiết vòng tay ngang bụng thằng bé.... Nó cũng chẳng phải là trẻ con như ngoại hình loắt choắt dễ đánh lừa tâm lý phòng thủ của phụ nữ, nên cũng bắt đầu giở trò.

Nguyệt không còn tự chủ, cô nói nhỏ vào tai đứa em nuôi:

- Em có thương chị Nguyệt không?

Dĩ nhiên là Năm Cam gật đầu. Về đến nhà, cô đưa thằng em nuôi ra sau nhà tắm rữa rồi rúc vào phòng riêng trước cái nhìn không chút nghi ngại của gia đình.

Từ đó, Nguyệt luôn tranh thủ cơ hội để bày trò với Năm Cam.

Tất nhiên, sau đó ít lâu, Nguyệt có thai. Cô giấu biệt tác giả cái bào thai với gia đình vì làm sao thuyết phục được mọi người thân đồng ý với “ cuộc tình” trái khoáy của cô với đứa em nuôi mới 15 tuổi đầu!

Đứa con trai đầu tiên của Năm Cam ra đời trong hoàn cảnh như thế và mãi sau này, ngay cả với nó, Năm Cam cũng không bao giờ kể lại một cách cụ thể mối quan hệ của Nguyệt và y.

Nguyệt đặt tên cho đứa bé là Trương Văn Hùng và bế con giao lại cho Năm Cam. Cô không thể tiếp tục quan hệ với Năm Cam bởi áp lực của gia đình và một phần vì cô, vốn là một phụ nữ xinh đẹp hiếm có, làm sao có thể chấp nhận lấy một đứa trẻ con không mấy gì xuất sắc, điển trai. Chẳng qua đó cũng chỉ là nỗi đam mê nhất thời trót gây ra hậu quả mà thôi!

Cũng lại là chị Tư Xẩm, thương em trai nên phải è cổ gánh luôn trách nhiệm nuôi thằng con trai của Năm Cam. Chị đặt cho nó cái tên Hai ************ theo thông tục của các gia đình ít học để tránh bệnh tật, tai ương cho thằng bé.

Tuy nhiên, đối với bất kỳ ai, Hai Dái không hề là con trai của Năm Cam và coi như Năm Cam chưa từng có vợ. Ai có thể tưởng tượng nổi một thằng nhóc loắt choắt mới 15 tuổi đầu như Năm Cam đã lên chức bố? Càng lớn, Trương Văn Hùng giống như Năm Cam như tạc...

Hẻm Sáu Căn có thêm một thành viên mới, nghe đâu rất có máu mặt.

Năm Cam nghe lũ bạn kháo nhau nên cũng quay về để xem “ ông Mười Côn Lôn là ai ?”

Nô Cao Giò, một thanh niên ở xóm cũng thuộc vào loại “ có tiếng nói” do đã có lần tù tội. Lúc bấy giờ, việc đi ở tù là ghê gớm lắm, trừ những ai đi làm quốc sự, ngoài ra-đều được nhìn với ánh mắt e dè sợ sệt.

Mười Côn Lôn được Nô Cao Giò đưa về xóm giới thiệu với bạn bè đồng trang lứa: “ Anh Mười đàn anh của tao!” .

Lời giới thiệu không cần dài dòng nhưng hết sức hiệu quả.

Năm Cam không cần biết nhiều, như thế đã quá đủ để nó và các bạn ngưỡng mộ Mười Côn Lôn lắm rồi.

Có một lần “ anh Mười” làm Năm Cam phải thất vọng.

Một rừng không thể hai cọp, huống hồ con cọp đến sau chưa có một thành tích nào khả dĩ thuyết phục các hảo hán địa phương.

Hẻm 122 nổi danh đã từ lâu về việc cung cấp hàng loạt anh chị cho giới giang hồ bến tàu, đâu thể chấp nhận một tay lạ hoắc nào đó đến xưng hùng xưng bá ở con đường Tôn Đản này?

Thế là một buổi chiều tối, hai anh em Được-Lót, xếp sòng hẻm 122 dắt một tốp em út cỡ vài chục mạng, mang theo dao bầu, mã tấu, gậy gộc, xuống thẳng hẻm 148 để tìm anh Mười Côn Lôn với mục đích thử lửa xem là vàng thật hay vàng dỏm!

Vừa bước trong nhà ra chưa tới đầu hẻm, Năm Cam đã lãnh luôn một gậy vào lưng! Khổ thân thằng bé, mới 14-15 tuổi, biết gì chuyện tranh bá đồ vương của các bậc đàn anh, nhưng vẫn bị đối phương xem là “ đàn em của Mười Côn Lôn” để nện với mục đích buộc Mười Côn Lôn phải lộ diện ứng chiến.

Tất nhiên Mười Côn Lôn không phải là thằng ngốc!

Diễu võ dương oai suốt cả giờ đồng hồ vẫn không thấy tướng địch xuất hiện, Được-Lót hạ lệnh thu quân.

Mãi đến lúc đó Năm Cam mới lóp ngóp chui lên từ mé ao cạn, vừa vào nhà tắm rửa giặt giũ vừa làu bàu trách “ ông Mười” tại sao không ra mặt để đối phương đừng “ khi dễ”!

Tuy nhiên, cũng qua sự việc trên-Năm Cam cũng rút ra được một bài học: đừng vì hai chữ anh hùng mà húc đầu vào đó! Khi cần, vẫn có thể chịu nhục mà lánh thân, miễn là bảo toàn được tánh mạng, danh tiếng vẫn còn lấy lại như thường!

Đầu năm 1962, mẹ Năm Cam qua đời sau một cơn bạo bệnh.

Năm Cam đã trở thành một kẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời của Năm Cam đã lật sang trang mới, cay đắng và khốc liệt hơn trước nhiều!

Bình Kiểm
Phạm Đức Bình (tức Bình "kiểm") là một đối tượng côn đồ hung hãn. Trong con người hắn hội đủ bản chất của một tên giang hồ cộm cán, lì lợm, tàn ác và vô cùng gian manh. Nhiều lần vào tù ra khám nhưng Bình "kiểm" chưa một lần hoàn lương, cứ ra trại là hắn tiếp tục gây tội ác…


"Kho" vũ khí của Bình "kiểm"
Vào thời điểm năm 1996, Bình "kiểm" đang chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân về tội cố ý gây thương tích và tổ chức đánh bạc. Ngày 4/4/1996, Bình "kiểm" trốn trại về Tp.HCM tiếp tục mở lại sòng bạc. Hàng đêm, Bình "kiểm" cùng đám đàn em kéo lên vũ trường Viễn Đông ăn chơi trác táng. Tại đây, Bình "kiểm" quen với một gái nhảy tên Nguyễn Thị Quỳnh (30 tuổi). Quỳnh sinh ra và lớn lên ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. 19 tuổi, Quỳnh trở thành gái nhảy có tiếng tăm ở vũ trường Viễn Đông. Trước khi đến với Bình "kiểm", Quỳnh đã sống như vợ chồng với Chung Quốc Minh (A Lấn). A Lấn (37 tuổi), xuất thân là nghề thợ bạc kiêm buôn bán ma túy. Tối nào A Lấn cũng đến vũ trường Viễn Đông với một xấp tiền và xài hết mới chịu về. Vì thế, A Lấn sớm nằm trong tầm ngắm của Quỳnh. Chỉ sau ít lần gặp gỡ, A Lấn đã "dính lưới" của Quỳnh. Cả hai thuê một căn nhà ở quận 5 để sống với nhau như vợ chồng.
Vụ cưỡng đoạt 15.000 USD
Người ta nói, "phụ nữ hư trước mới có tiền", nhưng khi có tiền Quỳnh càng hư hỏng, chị ta thường xuyên đi đánh bạc với Lê Thị Kim Anh (vợ nhỏ Năm Cam) và nhiều lần bị Kim Anh vét sạch túi. Càng thua càng gỡ và càng gỡ càng nợ chồng chất. Những lần như thế, Quỳnh thường về nhà ăn cắp tiền, vàng của A Lấn để trả nợ. Cuối cùng thì A Lấn cũng phát hiện ra và đoạn tình với Quỳnh.
Thấy A Lấn đã cặp bồ với người khác, Quỳnh tìm cách trả thù. Biết Bình "kiểm" là tên giang hồ có số má, Quỳnh đã chủ động làm quen với Bình "kiểm" và dựng lên những chuyện ly kỳ để kể xấu về A Lấn cho Bình "kiểm" nghe. Một buổi tối tháng 8/1998, A Lấn và cô bồ tên Xuân đang vui vẻ ở vũ trường Viễn Đông thì đàn em của Bình "kiểm" bao vây, gí “hàng nóng” vào bụng hăm dọa: "Nếu không chung cho anh Bình (Bình "kiểm")10.000 USD thì chúng tao sẽ báo Công an về tội buôn bán ma túy của mày và con bồ mày sẽ bị rạch nát mặt". Mấy hôm sau, A Lấn mò đến vũ trường và xin số điện thoại của Bình "kiểm". Sau khi liên lạc, Bình "kiểm" hẹn A Lấn đến một nhà hàng trên đường Nguyễn Du, quận 1 để “đàm đạo”. Biết không thể chậm trễ với tên giang hồ gớm mặt này, ngay hôm sau, A Lấn đã vội vàng mang đủ 10.000 USD nộp cho Bình "kiểm".
Thấy bở, Bình "kiểm" tiếp tục hăm dọa A Lấn để đào "mỏ vàng" này. Một lần, đang đi trên đường thì A Lấn nhận được điện thoại của Bình "kiểm": "Tôi đang gặp khó khăn, cần 5.000 USD. Hẹn trong 7 ngày, ông anh thu xếp cho" rồi cúp máy. A Lấn nghe xong cú điện thoại mà chân tay rụng rời. A Lấn điện thoại hẹn Bình "kiểm" đến nhà hàng Tân Hải Vân để giao tiền. Trong lần giao tiền này có sự chứng kiến của "nữ quái" Kim Anh, Quỳnh và một vài "nữ quái" đàn em của Năm Cam. May mắn cho A Lấn là sau vụ chung tiền này được ít bữa thì ngày 12/9/1998, Bình "kiểm" bị Công an Tp.HCM bắt theo lệnh truy nã về tội tổ chức đánh bạc và trốn trại.

Những vụ thanh toán giang hồ tại Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm
Ngày 22/5/2000, Bình "kiểm" bị cưỡng bức đi lao động cải tạo tại Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm 24 tháng vì hành vi "côn đồ hung hãn, có tiền án tiền sự, mới được tha về tiếp tục hoạt động theo kiểu xã hội đen, tổ chức đánh bạc, cho vay nặng lãi…". Trong thời gian ở Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm đóng tại huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, Bình "kiểm" có điều kiện tập hợp và dung dưỡng đám đàn em ngay trong trại. Trung tâm này có hàng chục đối tượng của 8 băng nhóm giang hồ cộm cán ở Tp.HCM bị tập trung giáo dục cải tạo như băng "Nghĩa râu" ở Bình Thạnh; băng "Được đen" quận 6; băng "Hải đen" ở quận 5; băng "Tí khùng" ở quận 11; băng "Hiển con" ở Thủ Đức; băng "Cảnh đô la" ở quận 10. Ngoài ra, còn có băng "Danh Chùa Miếu" ở Bà Rịa-Vũng Tàu gồm "Bình thổ", Hoàng Văn Danh, Nguyễn Tiến Việt, Nguyễn Ngọc Tuấn và những băng nhóm này đều bị Bình "kiểm" thống trị. Bình "kiểm" đã tổ chức cho đàn em đánh "Tài ba đô" và "Lâm sát thủ" - đàn em của Năm Cam suýt chết ngay trong Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm.
Vào những năm 2000, "Tài ba đô" và "Lâm sát thủ" chuyên bảo kê các dịch vụ xe taxi, xe ôm, nhà hàng, vũ trường, quán bar và chăn dắt gái ở khu vực quận 1. Một lần, "Tài ba đô" kéo đàn em tới vũ trường Phi Thuyền ở quận 1 chơi, bất ngờ gặp Dương Ngọc Lan (31 tuổi), vợ Bình "kiểm" trong vũ trường. "Tài ba đô" giở trò sàm sỡ, bị Lan chửi, "Tài ba đô" liền "tặng" Lan một bạt tai. Lúc này, Bình "kiểm" đang nằm ở Trung Tâm Giáo dục Huy Khiêm, Lan đành điện cho đám đàn em của Bình "kiểm" là "Hậu lé" (Mai Phúc Hậu). "Hậu lé" kêu "Thanh xà bông" và một lũ lau nhau kéo tới móc "hàng" tính đánh "Tài ba đô". "Tài ba đô" xua đám đàn em như: "Sơn chóe", "Dũng bia", "Sơn đen", "Ba râu", "Dũng nẫu", "Vũ cụt", "Hạnh nhí", "Lâm sát thủ"… toàn những tên đâm thuê chém mướn vằn vện chiến tích giang hồ ở khu vực bến đò Cây Bàng, Thủ Thiêm, rượt đánh đám đàn em Bình "kiểm" chạy trối chết. Ngay hôm sau, đàn em Bình "kiểm" thuê taxi lên Trung tâm Huy Khiêm “hót” với Bình. Ít ngày sau, "Lâm sát thủ" cũng bị nhập Trại Huy Khiêm. Ngay buổi chiều nhập trại, Bình "kiểm" đã sai đàn em "tặng" "Lâm sát thủ" nguyên một hòn gạch đinh vào giữa mặt, làm gẫy sống mũi.
Thế rồi duyên nợ giang hồ đưa đẩy, ngày 22/6/2001, "Tài ba đô" cũng bị đưa vào Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm cưỡng bức lao động, cải tạo về tội gây rối TTCC. Được tin, Bình "kiểm" đã gian manh chỉ đạo "Bình thổ" (Phạm Văn Bình, 31 tuổi), Phạm Tiến Việt (29 tuổi) là những tên giang hồ ở Bà Rịa-Vũng Tàu đứng ra gom đám đàn em trong trại, chuẩn bị mỗi tên một cây gỗ giấu trong người. Chiều 24/6/2001, "Tài ba đô" vừa xuất hiện ở sân đá bóng của trại, "Bình thổ" cùng đám đàn em lao vào nện "Tài ba đô" một trận mưa gậy. Khi lực lượng quản giáo có mặt thì "Tài ba đô" đã bị trọng thương, mặt bê bết máu. Tài được đưa đi bệnh viện cấp cứu, vết thương trên mặt phải khâu tới hơn chục mũi. Sau hai vụ ân oán giang hồ này, đám đàn em của Bình "kiểm" bị kỷ luật và phải kéo dài thời hạn giáo dục cải tạo tại trại. Riêng Bình "kiểm" gian manh đứng sau giật dây nên "vô can".

Bố già đất cảng-Minh Sứt

Minh “Sứt” tên thật là Ngô Đức Minh, SN 1956, trú tại phố Đinh Tiên Hoàng, TP Hải Phòng. Sau khi tốt nghiệp cấp III, Minh “sứt” được đi học lớp sơ cấp CA tại Hải Phòng. Khi ra trường, Minh được điều động về phục vụ đội bóng CA Hải Phòng rồi chuyển qua Cảnh sát bảo vệ và cuối cùng về CA quận Lê Chân.


Nếu xuôi chèo, mát mái, chắc giờ này Minh “sứt” cũng sắp nghỉ hưu. Một giang hồ đất cảng kể lại, khi đã có số má trong giới giang hồ Hải Phòng, mỗi lần nhậu hắn thường cao giọng: “Nếu còn trong ngành, ít ra tao cũng leo đến chức trưởng phòng hình sự TP”(?!) Vì chỉ thích lêu lổng ăn chơi, không tuân theo kỷ luật của đơn vị nên Minh “sứt” bị tước quân tịch, loại ra khỏi lực lượng CA.

Đầu năm 1981, Minh ‘sứt” được nhận vào làm việc tại Cty Vận tải biển Hải Phòng. Nhưng đến cuối năm 1981, khi đang là công nhân bảo vệ Xí nghiệp vận tải tàu biển, Minh bị cơ quan CA ra Quyết định khởi tố bị can với tội danh “Cướp tài sản riêng của công dân” và bị giam đến tháng 1-1984 mới được tha. Từ đây, Minh tiến sâu vào con đường đánh hàng lậu và heroin từ nước ngoài về Việt Nam tiêu thụ.

Cũng từ đó, sự cạnh tranh giữa y với trùm buôn lậu đất cảng L. “đen” gia tăng. Xung đột giữa hai ông trùm đã có lúc phải giải quyết bằng… máu, và Minh thường về… nhì. Chính điều đó đã khiến Minh “sứt” tìm đến với Dung “hà”.

Vì hơn tuổi và nổi tiếng lọc lõi nên Minh được ngôi Hậu của xã hội đen Hải Phòng coi như “anh giai”. Khi đó, Dung “hà” đang nổi như cồn, dưới trướng có hàng chục tay côn đồ,… Sự bắt tay của trùm buôn lậu với trùm giang hồ đã tạo ra nhiều phi vụ thanh toán làm rung chuyển TP Hoa phượng đỏ…

Không chỉ hợp tác với Dung “hà”, Minh “sứt” còn bắt tay với Hạnh “sự” thâu tóm việc mua sắt vụn ở các tỉnh miền Bắc để xuất khẩu. Năm 1987, Minh đánh một quả lớn hàng điện tử và bị L. “đen” tố cáo với cơ quan chức năng, Minh bị bắt giam và sau đó bị đi tù hai năm về tội Buôn lậu hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.

Khi ra tù, Minh “sứt” bắt tay với Phương “trộm trâu”, một Việt kiều Nhật, tổ chức một đường dây buôn lậu ma túy lớn, có lúc đường dây này vận chuyển cả tấn cần sa và hàng ngàn bánh heroin từ Lào, Campuchia về Việt Nam, sau đó chuyển sang Nhật, Mỹ, Australia, Hà Lan để tiêu thụ.

Trung bình mỗi bánh heroin bán tại Nhật, bọn chúng kiếm lời 8.000-10.000 USD. Trong số các đầu mối cung cấp hàng cho Phương “trộm trâu” và Minh “sứt” có cả nữ quái Dung “hà” và chị ruột của Hà là Vũ Hoàng Oanh. Một nhân vật cộm cán khác cũng tham gia cung cấp “hàng” cho đường dây này là Vũ Xuân Trường.

Năm 1991, Minh “sứt” vào Qui Nhơn lập nghiệp. Tại đây Minh móc nối với một trùm giang hồ địa phương để bảo kê cho y đánh hàng trắng. Đang lên như diều gặp gió nhưng chỉ vì ham gái mà Minh “sứt” đã phạm vào điều kiêng kỵ là không “con thầy, vợ bạn…”. Minh cặp bồ với một ả tên là Ng. vợ của một bạn hàng. Sau đó cặp “mèo mả gà đồng” này đã lập mưu, báo CA bắt chồng Ng. đi tù vì tội buôn hàng lậu để tiện bề sống với nhau. Chính điều này đã phần nào làm Minh “sứt” bị mất điểm trong con mắt của Dung “hà” và giới giang hồ đất cảng.

Ai đẩy Dung “hà” vào cửa tử?

Hàng chục năm lăn lộn trong giới giang hồ và buôn bán cái chết trắng nhưng vì có thói ăn chơi, cờ bạc theo kiểu “nghìn vàng đổi lấy trận cười như không” nên của nả của Minh “sứt” cũng có chẳng đáng là bao. Hơn nữa, từ khi về Sài Gòn lập Cty và ở hẳn với Ng.

Minh trở nên sợ chết và muốn chuyển hướng sang kinh doanh và bảo kê nhà hàng, khách sạn, quán bar… giống như ông trùm Năm Cam. Tuy nhiên, khi đó những chỗ ngon ăn ở Sài Gòn đã bị anh Năm cùng các đàn em như Sơn “bạch tạng”, Hải “bánh” chiếm hết nên Minh “sứt” rất tức tối…

Minh lên kế hoạch và bàn với Dung “hà” giảm buôn bán ma túy để chiếm lãnh địa bảo kê sòng bạc, khánh sạn, vũ trường rồi tiếm quyền Năm Cam trong giới giang hồ. Việc làm của Minh và Dung “hà” khiến đám giang hồ đất Bắc thù tận xương vì mất miếng ăn. Cũng vào thời điểm đó, Dung “hà” bị Năm Cam ruồng rẫy vì thói đành hanh và nóng giận thất thường của phụ nữ. Một đệ tử của Dung “hà” tiết lộ, sở dĩ Năm Cam nhạt với nữ quái đất cảng là vì bên cạnh đã có Sơn “bạch tạng”, một kẻ đa mưu túc trí và cũng nổi tiếng máu lạnh trong giới dao búa ở Hà Nội. Đương nhiên, Sơn hơn hẳn cô em kết nghĩa của Năm Cam.

Kết cục của Minh “sứt”

Sau khi Dung “hà” bị Năm Cam sai đàn em sát hại, Minh “sứt” buộc phải nằm im để tránh một cuộc tắm máu vì hơn ai hết, hắn hiểu ai đã đẩy nữ quái này vào quan tài. Tuy nhiên, những ân oán từ thời buôn bán ma túy vẫn không buông tha cho Minh “sứt”.

Khi còn buôn bán ma túy ở Nghệ An, băng nhóm của Minh “sứt” có mâu thuẫn lớn với băng của Dũng “đui”. Năm 1999, khi Dũng “Bắc Cạn”, Dũng “đui” cùng Dũng “mode” mua thuốc phiện mang vào TP HCM tiêu thụ, Minh đã sai đàn em đi báo CA đến bắt. Mất hết tiền, “hàng” nhưng chạy được thoát thân, Dũng “đui” thù Minh thấu xương.

Tháng 2-2001, CA tỉnh An Giang bắt Dũng “đui” về tội buôn bán ma túy. Sẵn oán thù từ trước, Dũng “đui” khai đã bán cho Minh hàng chục bánh heroin để… chết cùng chết.

Ngày 16-6-2004, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM tuyên phạt Ngô Đức Minh mức án tử hình. Sau đó, Minh “sứt” làm đơn xin tha tội chết và được Chủ tịch nước ký quyết định ân xá. Với mức án chung thân, Minh “sứt” có rất nhiều thời gian để suy ngẫm về những gì hắn đã gây ra. Một đệ tử của Minh “sứt” cho biết, điều khiến Minh day dứt nhất chính là việc gián tiếp đẩy Dung “hà” vão cõi chết…

Đa mưu như Thành “chân”

Thành “chân” tên thật là Ngô Chí Thành. Nếu giang hồ Hải Phòng nhắc đến Cu Nên với sự cay cú thì lại nhắc đến Thành “chân” với thái độ vừa nể, vừa sợ. Khi bước qua tuổi 20, Thành “chân” đã nổi tiếng với sự lạnh lùng, bản lĩnh và khôn ngoan. Một giang hồ đất cảng 25 tuổi cho biết: “Khi còn 15 tuổi, mỗi lần có va chạm, em đều tự nhận là cháu Thành “chân”. Như có bùa mê, chỉ xưng một cái tên mà nhiều thằng đang vung dao lên lại phải hạ xuống rồi lủi mất”.

Tay anh chị này cũng thuật lại một câu chuyện về Thành “chân”, thực hư thế nào không rõ nhưng với cách nói nể trọng từ miệng một kẻ có đến 3 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” thì xem ra cái tên Thành “chân” không phải là hư danh. Năm 26 tuổi, Thành “chân” chém một tên lưu manh chuyên móc túi ở khu vực chợ Sắt bị thương. Đại ca của tên lưu manh kia có quan hệ khá gần gũi với Cu Nên, Cu Lý nên thách Thành “chân” đến khu vực cầu Niệm để “chiến”. Thành “chân” xách kiếm lên đường và nhất định không cho lũ đàn em đi theo. Đến gần khu vực cầu Niệm, hàng chục tên giang hồ lượn lờ không làm nét mặt Thành “chân” biến sắc. Một trận hỗn chiến đã diễn ra... Khi người Thành “chân” đầy máu và sắp khụy ngã thì đám đàn em kịp thời lao đến giải cứu. Từ đó, nhân vật này được đặt ngang hàng với Cu Nên, Lâm “già”, Dũng “Bắc Kạn”...

Sau khi nên giữ ngôi Hậu trong giới giang hồ đất cảng với các sòng bạc qui mô tại Kiến An, Trạng Trình... Dung “hà” được Thành “chân” quí nể bởi tính cách không ỷ mạnh hiếp yếu, không gây sự với người dân lương thiện. Thành “chân” trở thành hộ pháp của Dung “hà” và được thị nhận là anh giai. Giới giang hồ Hải Phòng cho rằng, nếu gặp thời, Thành “chân” không thua Thắng “tài dậu” (đàn anh của Sơn “bạch tạng”). Bị Cảnh sát Hình sự Hải Phòng truy quét, Dung “hà” hết cửa làm ăn nên phải vào Nam “lập nghiệp”. Theo Dung “hà” là Thành “chân”, Minh “sứt” và hàng chục đàn em...

Dù không muốn phải chia chác thị phần nhưng ông trùm Năm Cam đành ngậm bồ hòn làm ngọt, cắt lãnh địa cho Dung “hà” để tránh phiền phức. Thực ra, cái tên Dung “hà” không khiến ông trùm xã hội đen Sài Gòn lúc đó phải e ngại, kẻ mà Năm Cam phải kiềng mặt chính là Thành “chân”, người không thích trống giong cờ mở và có bộ mặt lúc nào cũng lạnh như băng. Thành “chân” có sở thích hết việc là đến các vũ trường Mưa rừng nhiệt đới, Đêm màu hồng, Phi thuyền... ngồi uống rượu một mình. Thành ngồi chỗ nào là quanh khu vực đó tuyệt nhiên không có đám giang hồ nào dám bén mảng tới ngồi gần vì vừa không dám “nổ” trước mặt đàn anh, sợ bị vạ miệng.

Trong cuộc chiến với Năm Cam để tranh giành lãnh địa, Dung “hà” đã nhiều lần bỏ ngoài tai lời khuyên của Thành “chân” để nghe lời Minh “sứt”, kẻ được coi là ngoại đạo trong giới dao búa. Hơn ai hết, Thành “chân” hiểu vị thế của cô em kết nghĩa chưa thể so được với Năm Cam, với sự hậu thuẫn của Thắng “tài dậu”, Sơn “bạch tạng” và Hải “bánh”… Thấy Dung không nghe lời, chán chường, Thành “chân” rời TP HCM sang Canađa sinh sống... Hậu quả mà Dung “hà” phải gánh chính là phát đạn bắn ở cự ly cực gần của Hưng “phi nhon”…

Điên khùng như Giới “trâu”

Giới “trâu” là một kẻ thừa sức nhưng ít mưu kiểu như Lý Qùy trong tác phẩm Thủy Hử của Trung Quốc. Y cũng được coi là một trong những thủ hạ tâm phúc nhất của Dung “hà”. Thậm chí có người còn đặt Giới lên ngang với Thành “chân” và coi hắn như hộ pháp thứ hai của nữ giang hồ đất cảng. Khi Nam tiến, Giới “trâu” là một trong những cái tên đầu tiên được trùm xã hội đen Dung “hà” lựa chọn đem theo.

Giới giang hồ đồn rằng, trong hầu hết những vụ đâm chém, quậy phá của băng nhóm này, Giới “trâu” đều xách dao lao lên tuyến đầu với những tiếng thét kinh người, lúc rút lui hắn cũng là người đi sau cùng yểm trợ. Khi đàn chị bị bắn chết tức tưởi nhưng không biết ai là thủ phạm, Giới “trâu” như phát rồ và tuyên bố sẽ uống máu sát thủ để trả thù cho Dung “hà”, bất kể kẻ đó là ai. Trước nguy cơ sẽ có những cuộc trả thù đẫm máu, lực lượng CA TP HCM tăng cường lực lượng để giám sát chặt chẽ mọi động thái của các nhóm giang hồ đất Bắc nên Giới và lũ đàn em buộc phải nằm im.

Một thời gian sau, Giới “trâu” trở về Hải Phòng vì thân cô, thế cô. Vừa chân ướt, chân ráo đặt chân lên đất cảng, Giới “trâu” ra lệnh cho đám đàn em “cứ tìm thằng nào gấu nhất mà “bem” chết”. Đó là chiêu “lấy số” của một sát thủ khi muốn thâu tóm lãnh địa, độc chiếm ngôi bá chủ. Lập tức, những thiên lôi của Giới “trâu” là Bình “thể”. Cường “gà” và Trung “nhom” vác đao đưa đàn em lên đường. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều nhân vật có số má ở Hải Phòng đã gục ngã bởi lưỡi dao của đàn em Giới “trâu”. Đất nước có pháp luật, Bình “thể” rồi Cường “gà” lần lượt bị CA Hải Phòng bắt gọn. Trong một lần giao chiến, Trung “nhom” cũng bị đám giang hồ Nam “vân” thanh toán bằng súng bắn đạn ghém. Trung nhập viện với hơn 40 viên bi thép găm vào cổ, vào đầu. Mổ trong nước mấy lần mà tính mạng Trung “nhom” vẫn như “chỉ mành treo chuông”, Giới “trâu” gom tiền để đưa đàn em ra nước ngoài chạy chữa. Sau đó, có người đồn Trung đã chết bên Bỉ.

Một đàn em của Long “tuýp” nhận xét: “Nếu Giới “trâu” có cái đầu của Thành “chân”, giang hồ Hải Phòng sẽ tồn tại hai thế lực mới là Long “tuýp” và Giới “trâu”. Ở Hải Phòng, kẻ máu lạnh như Giới “trâu” không ít, muốn ngồi ngôi đầu phải có mưu”.

Thành “chân” , Giới “trâu” hay trước đó là Cu Nên, Cu Lý, dù có được đồn thổi, tâng bốc bao nhiêu trong giới giang hồ thì rốt cuộc, hoặc cũng chết đớn hèn vì ma túy hoặc phải chôn vùi tuổi xuân trong cảnh “cơm cân, áo số”…

ào khoảng năm 1988, trong một trận hỗn chiến giữa hai băng nhóm ở khu vực Cát Cụt, TP Hải Phòng, người ta nhìn thấy một thiếu niên mặt non choẹt bỏ chạy khỏi trận thư hùng. Được khoảng gần 100m, bất chợt thiếu niên này quay lại, chạy vào quán ăn cướp một con dao rồi lao tới, chém nhàu... Kẻ đó chính là Nguyễn Xuân Thắng, sinh năm 1974 còn gọi là Thắng "dừa", vừa bước qua tuổi 13. Được đàn anh khích lệ, bạn bè hơn vài tuổi nể phục, Thắng tuyên bố: “Nếu không phải là đại ca, không ai tao không dám chém”. Sự điên khùng, không biết trời đất là gì của Thắng “dừa” khiến nhiều tay anh chị ở đất cảng cũng phải e dè…

Trải qua nhiều trận chinh phạt đối thủ để lấy số, cái tên Thắng “dừa” đã làm xiêu lòng bà trùm giang hồ Dung “hà”. Lúc này Dung “hà” đang phải cạnh tranh với Lâm “già” và nhóm Cu Nên, Cu Lý, Cu Linh nên rất cần loại người “coi trời bằng vung” như Thắng “dừa” để tranh giành địa bàn và gây thanh thế. Giang hồ đồn rằng, trong một lần Thắng “dừa” bị thua bạc cháy túi, đang ra cửa để về thì gặp bà trùm. Dung “hà” ném cho Thắng một cục tiền rồi nói: “Cầm lấy để vào đòi lại. Tiền của chị xuân lắm đấy”. Trận đấy Thắng “dừa” thắng to nên tự tìm đến sới bạc của Dung “hà” tại phố Trạng Trình để cảm ơn. Khi biết trận thắng bạc đó là do chính Dung “hà” chỉ đạo cho đàn em tự thua, Thắng rất cảm kích và xin được “sống chết” dưới bàn tay chỉ đạo của nữ giang hồ đất cảng.

Năm 1996, khi Thắng mới 21 tuổi đã được Dung “hà” giao nhiệm vụ quản lý thùng tiền sòng bạc tại một quận ở Hải Phòng. Đây là trường hợp đặc biệt vì công việc quan trọng này vốn chỉ được giao cho những người thân tín nhất và đã thành danh trong giới đao búa. Tuy Thắng “dừa” không chính thức nhận “lương” nhưng lại là kẻ “thích gì được nấy” trong tập đoàn tội ác này. Năm 1997, Thắng bị bắt về hành vi gây rối trật tự công cộng. Cũng trong thời gian đó, vì bị hình sự Hải Phòng đưa vào tầm ngắm nên Dung “hà” buộc phải vào Nam để bắt tay với Năm Cam thao túng giang hồ TP HCM. Trước khi lên tàu, Dung nhắn Thắng “dừa”: “Chị Dung đợi em ở Sài Gòn”. Sau khi ra tù, Thắng cũng vài lần vào TP HCM thăm đàn chị nhưng vẫn muốn bám Hải Phòng để kiếm sống. Tháng 10-2000, Dung “hà” bị sát hại… Tại đám tang của bà trùm giang hồ Hải Phòng, Thắng “dừa” mắt đỏ hoe, lặng lẽ đi bên quan tài kẽm…

Khi Dung “hà” bị sát hại, không chỉ Thắng “dừa” mà nhiều giang hồ khác ở Hải Phòng đã ra tuyên bố lấy máu những kẻ đã dính dáng đến vụ án này. Tuy nhiên, “lưới trời lồng lộng” nên lần lượt tất cả các tên, từ kẻ bày binh bố trận đến kẻ trực tiếp ra tay đều bị sa lưới. Đầu năm 2009, Thắng cùng vợ hai tên là Phạm Thị Phương Nhung, khi đó đang có lệnh truy nã của Bộ Công an về tội mua bán trái phép chất ma túy, vào TP.HCM lập nghiệp. Ngay khi chân ướt, chân ráo vào TP HCM, Thắng lập tức móc nối với các thủ hạ còn lại của Dung “hà” để tiếp tục buôn bán cái chết trắng và đòi nợ thuê, đâm thuê, chém mướn. Chỉ vài tháng, cái tên Thắng “dừa” đã khiến không ít kẻ trong đám lưu manh Sài Gòn sợ vỡ mật.

Giận mẹ vợ, chém người khác

Để che đậy hành vi phạm tội, Thắng cậy cục xin vào làm bảo vệ cho một khách sạn trên đường Bùi Thị Xuân, Q.1. Giữa năm 2009, Thắng “dừa” được một đối tượng là T. “trọc” thuê đòi món nợ 20 tỷ đồng của một cặp vợ chồng Hà Nội đang lẩn trốn vào Nam. Vụ này Thắng thực hiện ngon lành…

Trong quá trình làm nghề cho vay nặng lãi, Thắng đã nhiều lần đụng độ với các băng nhóm khác để phô trương thanh thế, ép trả nợ. Tháng 5-2009, Thắng “dừa’ và hai đối tượng cùng quê Hải Phòng xuống Đồng Nai đòi tiền. Dù đã chịu ngồi với nhau thương lượng nhưng vì không thể trả ngay cho Thắng món nợ với lãi cắt cổ, hai bên đã lăn xả vào đâm chém nhau. Vì lực mỏng nên hai đàn em của Thắng bị chém trọng thương…

Cuối năm 2009, Thắng “dừa” và mẹ vợ là bà Đỗ Thị Hạnh, cùng quê Hải Phòng đã hùn vốn với bà Phạm Thị Dung, đồng hương Hải Phòng với Thắng, tạm trú Q.12, chủ quán cà phê Phú Gia để cho vay nặng lãi. Thắng đã đưa 160 triệu đồng cho bà Hạnh để góp với bà Dung “trói” các đối tượng có nhu cầu ở khu vực Q.2. Vì là con nghiện lô đề nên đầu năm 2010, mẹ vợ Thắng “dừa” bị vỡ nợ nên bỏ trốn biệt tích. Tìm hỏi mẹ vợ khắp nơi để đòi tiền nhưng không được, Thắng vô cùng tức giận và tuyên bố “mẹ vợ cướp công thì cũng chém”. Biết tính chồng, vợ Thắng chỉ biết thút thít khóc và van xin chứ không dám can thiệp nửa câu.

Nghi bà Dung vẫn thường xuyên liên lạc với bà Hạnh để tiếp tục cho vay nặng lãi, nhiều lần Thắng “dừa” đã truy hỏi bà Dung về nơi ẩn náu của bà Hạnh và tên tuổi của người đã xù tiền bà Hạnh để hắn đi “thanh toán cả gốc lẫn lãi” nhưng người phụ nữ 60 tuổi này luôn trả lời “không biết”. Thực ra, bà Dung không lạ gì sự tàn độc của Thắng “dừa” nhưng lại chủ quan vì nghĩ rằng hắn không nỡ xuống tay với một bà già. Chính suy nghĩ này đã khiến bà Dung phải trả giá.

Ngày 20-3, Thắng “dừa” giả vờ đến thăm bà Dung và tiện thể hỏi về tung tích của mẹ vợ. Sát thủ này đã ngồi nhậu chung với đám bạn của bà Dung từ chiều đến tối và giả say để xin ngủ lại quán của bà Dung. Khoảng 3g ngày 21-3, Thắng xuống bếp lấy con dao dài khoảng 40 cm rồi nhẹ nhàng đi lên gác, nơi con mồi đang say giấc. Thấy bạn của mẹ vợ đang ngáy o o, Thắng “dừa’ lấy chiếc gối bịt mồm, mặt của nạn nhân rồi lấy dao đâm hơn 10 nhát vào người khiến bà Dung chết ngay tại chỗ. Thắng thản nhiên đi tắm rửa rồi vào phòng bà Dung bật đèn lục tìm tài sản, số điện thoại của mẹ vợ và cuốn sổ ghi tên các con nợ nhưng không thành. Lật xác bà Dung, Thắng tháo nhẫn gắn kim cương, vòng đá quí...

Sau đó, Thắng mang áo dính máu và con dao vứt xuống cầu Bình Phước phi tang rồi đón xe khách về Hải Phòng. Ngày 19-4, Thắng quay lại TP.HCM và bị bắt giữ sau đó.

 Luân “con” - kẻ cầm đầu đám “ong ve”

Được Dung “hà” thu nạp

Chiều 18-11-2009, ông Đặng Xuân Sĩ, 51 tuổi, trú tại quận 10, TP HCM là Phó Giám đốc Cty TNHH Hoàng Hải vừa rời khỏi Sở Kế hoạch và Đầu tư thì có bốn người lạ mặt đi trên hai xe gắn máy bám theo. Đến trước số nhà 88, Hai Bà Trưng, quận 1, hai tên tăng tốc xe máy vọt lên ép xe ông Sĩ vào lề… Sát thủ ngồi sau vung dao nhọn đâm ông Sĩ nhiều nhát rồi rồ ga bỏ chạy. Đứng sau vụ giết người manh động này là Luân “con”, một trong những đệ tử thân tín của Dung “hà”.

Luân “con” tên gọi đầy đủ là Vũ Văn Luân, SN 1965, thường trú tại TP Hải Phòng, từng là cánh tay phải của Hà “tí tô”, em họ của bà trùm Dung “hà”. Thấy Luân có thể “dùng” được, Dung “hà” đã thâu nạp và coi y như những kẻ tâm phúc nhất. Tại Hải Phòng, Luân “con” tuy không thể so với Cu Nên, Cu Lý nhưng ngay cả Long “tuýp” gặp y cũng vẫn phải nể vì. Có nguồn tin rằng, năm 1992, một đám giang hồ đi ăn đêm ở khu vực gần sân bay Cát Bi đã phải quì xuống lạy một gã đàn ông nhỏ thó vì tội dám ba hoa về sới bạc của bà trùm Dung “hà”. Nhân vật buộc những kẻ phải quì lạy chính là Luân “con”, một kẻ “coi trời bằng vung”…

Tại TP.HCM, Luân “con” vẫn được bà trùm tin dùng, cho cầm đầu một đám lâu la bảo vệ sòng bạc. Sau khi Dung “hà” bị sát hại vào năm 2000, Luân “con” biệt tăm một thời gian, hành tung cũng rất bí ẩn, đi đến đâu, tạm trú ở chỗ nào đều không khai báo với cơ quan CA. Các sòng bạc dưới sự bảo trợ hoặc do chính y tổ chức đều thay đổi địa điểm liên tục. Một đệ tử của Luân tiết lộ, trong một cuộc rượu, Luân “con” than: “Cảnh giác như Dung “hà” còn bị nã súng vào đầu thì cái mạng tao còn mong manh hơn. Lúc nào chúng mày cũng phải cẩn thận và hành động phải dùng cái đầu chứ không phải cơ bắp”. Nhiều đệ tử của hắn quay mặt cười vì thực tế Luân “con” mới là kẻ “nghiện” bạo lực.

Luân “con” đã nằm trong “sổ đen” của CA từ lâu vì hắn dính đến nhiều vụ án phức tạp trên địa bàn TP.HCM. Khoảng gần 24g ngày 31-5-2009, Luân “con” cùng với nhóm đàn em khoảng 10 tên đến nhà anh Đ. ở phường Linh Trung, Thủ Đức để chơi xóc đĩa. Vì bị thua nhiều nên Luân “con” vu cho người xóc cái gian lận và hô lũ đệ tử lao vào đánh anh này rất tàn nhẫn. Sau đó, chúng lôi người thanh niên này lên taxi đưa về khách sạn Giấc Mơ ở đường Gò Gầu, quận Tân Phú. Tại đây, chúng lấy hết tiền của nạn nhân rồi buộc vợ nạn nhân mang đến 10 triệu đồng và 200 USD mới cho về nhà. Luân “con” tuyên bố: “Trong hai ngày, nếu không nộp phạt đủ 260 triệu đồng, tao sẽ lấy cái mạng chó của mày”.

Quá một ngày so với cam kết mà không thấy nạn nhân nộp tiền phạt, Luân “con” cùng khoảng 20 đàn em đi tìm và phát hiện anh này đang đánh bài tại quán ăn Ba Miền ở xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn. Lập tức cả bọn lao vào đánh trọng thương một con bạc và bắt “con nợ” đưa về một khách sạn ở quận 12 để đánh đập và buộc anh này phải viết giấy nợ 290 triệu đồng... Sau khi được thả, nạn nhân đã tố cáo hành vi của Luân “con” và đồng bọn với cơ quan CA TP.HCM. Trong lúc các trinh sát đang truy tìm Luân “con” thì xảy ra vụ giết ông Sĩ…

Và kết cục...

Ông Sĩ là Phó Giám đốc, Ngô Quang Trưởng là Giám đốc Cty TNHH Hoàng Hải, chuyên kinh doanh bất động sản. Trong quá trình làm ăn chung, thấy Trưởng có những hành vi gian dối, lừa đảo nên ông Sĩ đề nghị được rút vốn và làm đơn tố cáo Trưởng đến CQĐT. Sau khi gửi đơn, ông Sĩ bị Trưởng đánh trọng thương một lần và một lần khác bị bốn đối tượng lạ mặt dọa sẽ “làm thịt” nếu như ông Sĩ không rút đơn. Tuy nhiên, ông Sĩ vẫn không sợ và quyết đấu tranh đến cùng. Cay cú, Trưởng thuê Luân “con” giết ông Sĩ để bịt đầu mối…


Ngô Quang Trưởng, kẻ thuê giết ông Sĩ

Sơn bạch tạng 
Đó là Trần Quốc Sơn, kẻ mà Năm Cam từng tuyên bố với Dung Hà: "Nếu cô có ý định bắn Sơn thì hãy bắn anh trước". Và 15h ngày 16/3, y đã bị Cơ quan CSĐT, Bộ Công an, ra lệnh khởi tố, bắt khẩn tại nhà riêng ở ngõ Lương Sử A, Quốc Tử Giám, Hà Nội về tội tổ chức đánh bạc.

Sơn ăn mặc lịch sự, sang trọng, dáng vẻ thư sinh… nhưng đã có 4 tiền án, 6 tiền sự và hai lần bị tập trung cải tạo.

Đầu thập niên 90, ở Hà Nội, Sơn quản lý nhóm đàn em gồm 17 tên, đều là những đối tượng lưu manh khét tiếng. Bọn chúng chuyên bảo kê các nhà hàng, đòi nợ và đâm thuê chém mướn.

Năm 1995, Sơn "bạch tạng" bị phạt thi hành án tại trại tạm giam Thanh Hà (Phú Thọ), tiếng tăm của hắn vang đến tai Năm Cam, lúc đó cũng đang cải tạo tại đây. Hai người làm quen, và nhanh chóng trở thành cạ cứng của nhau. Năm Cam rất quý Sơn "bạch tạng", chúng kết tình huynh đệ. Ra khỏi trại giam, Năm Cam tin tưởng giao cho Sơn quản lý nhiều sòng cá độ ở thành phố, có việc gì quan trọng cũng đều gọi và giao trực tiếp cho người em kết nghĩa này.

Dung Hà từng lên kế hoạch bắn Sơn "bạch tạng"

Trở thành đàn em thân tín của anh Năm, được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, Sơn trở thành cái gai trong mắt nữ quái Dung Hà.

Trước khi Sơn xuất hiện, Dung Hà được anh Năm sùng ái. Năm Cam từng hứa giúp thị mở sòng bạc tại 17, phố Bùi Thị Xuân, TP HCM. Sòng bạc mở được 3-4 hôm, đang làm ăn thuận lợi, mỗi ngày thu về hơn 70 triệu đồng thì bỗng nhiên vắng khách. Cho đàn em điều tra, Dung Hà biết Thắng "tài dậu" cùng Sơn "bạch tạng" vừa từ Bắc vào, được Năm Cam tin dùng, giao cho quản lý một số sòng. Vì vậy sòng bài của thị bị phong toả, số con bạc lai vãng đến đây ít đi.

Để cứu vãn tình hình bi đát, Dung Hà đến xin được làm ăn cùng Năm Cam tại sòng bạc ở quận 8, nhưng bị từ chối thẳng thừng. Mở sòng thì không có khách, muốn chung sòng cũng không xong, Dung Hà càng nhảy dựng lên khi phát hiện, trong khi từ chối lời đề nghị của thị, Năm Cam lại cho Sơn chung sòng ở quận 8. Hơn nữa, Sơn không phải đóng "thùng tẩy", được hưởng 30% lãi thu được, đây là ngoại lệ trong giới giang hồ TP HCM. Thế là bao nhiêu nỗi cay cú được trút lên đầu Sơn "bạch tạng".CANON - HÀNG CHÍNH HÃNG - BẢO HÀNH CHÍNH HÃNG


Biết Sơn có việc phải ra Hà Nội, Dung Hà tổ chức đàn em phục kích tại khách sạn Las Vegas ở số 7 Lê Văn Hưu. Nhưng kế hoạch bị đổ bể vì Sơn đã được báo trước nên không xuất hiện.

Về Sài Gòn, Sơn thưa lại mọi chuyện với ông anh kết nghĩa, Năm Cam lập tức cho gọi Dung Hà để hỏi, thị chối đây đẩy. Để làm rõ chuyện, Năm Cam tổ chức buổi đối chất tại nhà hàng Maxim giữa Thắng "tài dậu", Sơn "bạch tạng", Dung Hà cùng hai người nữa. Hà tiếp tục không thừa nhận, vì vậy Năm Cam đưa cho thị 3.000 USD với yêu cầu bỏ qua xích mích, và không quên cảnh cáo Dung Hà nếu muốn lấy mạng Sơn "bạch tạng" thì phải bước qua xác anh Năm.

Sau khi Dung Hà bị hạ sát, Sơn "bạch tạng" trở ra Bắc. Y sẽ được di lý vào Nam để tập trung điều tra làm rõ hơn những tội ác mà Năm Cam và đồng bọn đã gây ra

Trước khi bị giết chín ngày, ông Sĩ có gửi đơn trình báo về “hành vi giang hồ, xã hội đen” đến CA xã Bà Điểm (huyện Hóc Môn) về việc ông bị một nhóm người dọa giết. Vụ việc xảy ra vào hồi 21g ngày 1-9-2009, bốn đối tượng đã đi xe máy đến nhà riêng của ông. Hai thanh niên trùm áo mưa, nổ máy sẵn chờ bên ngoài, hai người còn lại xông vào gặp ông Sĩ và chửi bới đe doạ sẽ giết chết nếu không rút đơn tố cáo.

Sáng ngày 18-11-2009, ông Sĩ bị sát hại như đã nói ở phần đầu bài viết. Tuy bị thương nặng nhưng ông Sĩ vẫn cố đuổi theo và tri hô cướp. Cùng lúc đó, các chiến sĩ trinh sát hình sự CA quận 1 đang trên đường tuần tra đã đuổi theo và bắt được tên Bùi Quốc Huy, 24 tuổi, trú tại tỉnh Ninh Thuận.

Một người thân của ông Sĩ cho biết, sau những lần đối diện trước sự thù hằn ra mặt từ phía Trưởng, ông Sĩ cũng đã hết sức cảnh giác và hạn chế đi lại vào ban đêm, đến những chỗ vắng người cũng như tiếp xúc với người lạ mặt. Nhưng hôm đó là ban ngày, giữa thanh thiên bạch nhật, nơi phố thị đông người, có lẽ ông Sĩ không nghĩ rằng mình đang bị hiểm nguy chết người rình rập…

Tại cơ quan CA, Huy khai nhận toàn bộ quá trình được người khác thuê mướn sát hại ông Sĩ để bịt đầu mối là Ngô Quang Trưởng. Còn kẻ nhận “hợp đồng” thuê giết ông Sĩ là Luân “con”. Trước khi ông Sĩ bị sát hại thì CA TP.HCM đã thành lập chuyên án đấu tranh truy bắt các băng nhóm giang hồ đến từ phía Bắc, chủ yếu ở Hải Phòng có liên quan đến nhiều vụ án khác tại TP.HCM và các tỉnh lân cận. Trong số đó, đối tượng Luân “con” và hàng chục đàn em chuyên đâm thuê chém mướn, cho vay nặng lãi, cưỡng đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc...

Sau khi tổ chức giết chết ông Sĩ, Luân “con” và đồng bọn đã trốn biệt tăm nhưng hàng chục đàn em của hắn vẫn còn ở TP.HCM và tiếp tục tổ chức đánh bạc dưới sự điều hành của Ngọc, vợ Luân “con”. Ngày 24-10, trong lúc Ngọc và đàn em của Luân “con” đang sát phạt tại một sòng bạc ở quận 12 thì bị CA TP.HCM bắt quả tang với trên 30 đối tượng. Qua khai thác các đối tượng này, trinh sát biết được Luân “con” và nhóm “sát thủ” đang lẩn trốn ở các tỉnh phía Bắc.

Được sự hỗ trợ nhiệt tình của CA Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang... Ngày 29-10, Luân “con”, Trần Văn Khoa, còn gọi là Khoa “thầy giáo” và Hưu Trí Huẩn đã bị bắt giữ tại Hà Nội. Sau khi bị bắt, Luân “con” đã khai ra toàn bộ quá trình thực hiện “hợp đồng giết người” với Ngô Quang Trưởng

Thắng tài dậu
Từ tay giang hồ vặt với biệt danh Thắng “tài… tráo”, Nguyễn Văn Thắng đã trở thành một “đại ca trong các đại ca” giang hồ đất Hà thành với biệt danh “lịch sự” hơn: Thắng “Tài Dậu”. Con đường “xưng hùng” của Thắng “Tài Dậu”, sự bắt tay giữa Thắng và trùm Năm Cam như thế nào?

Những năm 80 thế kỷ XX, giới giang hồ Hà Nội mới chỉ biết đến Nguyễn Văn Thắng (SN 1956) với biệt danh là Thắng “tài… tráo”. Một thời ở Hà Nội thường xảy ra những vụ "ví giả… vàng rơi" đại loại: trên đường phố đông người qua lại, một hành khách vừa đi vừa lục lọi trong túi xách như tìm một đồ vật gì quan trọng. Trong lúc vội vã, người khách này đã "vô tình" đánh rơi ví tiền, nhẫn vàng hay một sợi dây chuyền mà "không hay biết". 


Kỳ 1: Thắng “tài… tráo” đến Thắng "Tài Dậu" 


Một người qua đường nhìn thấy và nhặt được "vàng rơi", trong lúc đang hí hửng thì Nguyễn Văn Thắng hoặc đồng bọn xuất hiện. Vì cả hai cùng nhìn thấy "vàng rơi" nên tài sản nhặt được phải chia đôi và bao giờ Thắng “tài tráo" và đồng bọn cũng nhận được một phần tài sản như chiếc đồng hồ khách đang đeo, hoặc một khoản tiền giá trị nhỏ hơn phân nửa tài sản nhặt được, còn vị khách kia được hưởng trọn chiếc dây chuyền hoặc chiếc nhẫn "vàng" vừa nhặt được. Nhiều người hí hửng cả tuần mới phát hiện ra mình bị lừa thì Thắng và đồng bọn đã nướng sạch số tiền đó vào sới bạc. 


Chiêu"ví giả… vàng rơi" ấy còn được Thắng và đồng bọn diễn suốt một thời gian dài. Vì thế những đối tượng trộm cắp ở Hà Nội mới đặt cho Thắng biệt danh Thắng “tài… tráo”. Sau này khi có số có má thì mọi người mới "quên" cái biệt danh ấy để đổi thành Thắng “Tài Dậu” (Thắng là con một tài xế tên Dậu) cho Thắng đỡ quê. 


Thắng thường chặn và hớt tay trên những chiếc đồng hồ mà đám đàn em đi "móc đổng" có được. Đám đàn em tức quá đi tố Công an, Thắng bị Công an quận Đống Đa bắt quả tang ngày 21/6/1977 . Ngày 17/6/1984 , Thắng “Tài Dậu” lại bị Công an quận Đống Đa Hà Nội bắt một lần nữa. 


Nói về máu cờ bạc của Thắng “Tài Dậu” thì ít con bạc nào bằng. Đồng bọn đi chôm chỉa, lừa đảo để ăn chơi trác táng. Riêng Thắng “Tài Dậu” đi lừa đảo lấy tiền phục vụ máu đỏ đen của hắn. Vào những năm 1990-1995, Năm Cam mở một loạt sòng bạc tại quận 4, quận 8 và cả ở đường Lê Lai, quận I, TP Hồ Chí Minh. 


Cùng thời điểm này, Thắng “Tài Dậu” vừa đi tập trung cải tạo về, thấy bị Công an luôn theo dõi gắt gao, Thắng “Tài Dậu” đã mò vào tận Sài Gòn để lánh mặt và máu cờ bạc đã dẫn lối cho hắn mon men đến sới bạc của Năm Cam. Chính vì thế hằng đêm Thắng “Tài Dậu” thường vật vờ uống chè chén tại khu vực Công viên 23-9. 


Thấy sòng Năm Cam tổ chức quy mô và lợi nhuận từ sới bạc là vô cùng lớn. Với sự lọc lõi của mình, Thắng thừa biết, nếu học được những chiêu cờ gian, bạc bịp cùng với quy mô và cách tổ chức của Năm Cam đem ra áp dụng ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc thì thắng to. 


Từ suy nghĩ ấy, Thắng “Tài Dậu” quyết tâm tính đến chuyện xin đầu quân làm đệ tử cho Năm Cam để học hỏi kinh nghiệm. Thế nhưng lúc này, Thắng “Tài Dậu” chỉ là con bạc còm và một tên giang hồ không số má, vì thế hắn không được Năm Cam để mắt tới. Sau một thời gian vạ vật ở Sài Gòn, trắng tay, cháy túi, Thắng “Tài Dậu” đắng cay quay về Hà Nội. 


Cũng may cho hắn, sau chuyến du Nam ấy, Thắng “Tài Dậu” nhận ra rằng, khu vực ngõ Lương Sử A mà hắn đang sống phần nhiều là dân buôn đường dài hoặc dân làm ăn ở ga Hàng Cỏ, rất giống với địa bàn quận 4, TP Hồ Chí Minh và rất thích hợp để mở sòng bạc. Hơn nữa, lúc này Thắng “Tài Dậu” có cậu em rể tên là Hội “con”. Hội “con” là một dân chơi nổi tiếng Hà thành và cũng là một tay cờ bạc khét tiếng. 


Tận dụng những thế mạnh ấy, đầu năm 1994, Thắng đã quyết định mở sòng xóc đĩa ngay tại nhà mình ở 77 Lương Sử A, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội. Từ một tên lừa đảo chuyển ngạch sang chủ sòng bạc, Thắng “Tài Dậu” thấy mình trống lưng và thiếu hẳn một lực lượng xã hội đen có thể giúp sức trong việc bảo kê và dắt mối để các con bạc dẫn xác tới sòng của mình giống như Năm Cam. 


Tại thời điểm này, trong giới giang hồ cộm cán ở Hà Nội thìSơn “bạch tạng" đang nổi đình nổi đám hơn cả. Sau khi Khánh “trắng" dựa cột, Phúc “bồ" bị giới giang hồ hạ bệ coi bằng nửa con mắt thì Sơn “bạch tạng” càng có giá, ảnh hưởng của Sơn “bạch tạng” trong giới giang hồ là rất lớn. 


Dưới tay Sơn “bạch tạng” có một đám đàn em đều là những tên có số má như Hải “bánh", Khang “con", Kỳ “con", Thắng “điếc", Toàn “béo"…chuyên bảo kê một số vũ trường, quán bar, nhà hàng, khách sạn lớn ở Hà Nội. Nhưng một điểm yếu chết người của Sơn “bạch tạng” lúc này là hắn cần rất nhiều tiền để nuôi đám đàn em. Điểm yếu này đã không lọt qua mắt của con cáo - Thắng “Tài Dậu”. 


Thắng “Tài Dậu” bắt đầu ve vãn và mua chuộc Sơn “bạch tạng” về đầu quân cho mình. Ngay sau khi Sơn “bạch tạng” nhận lời, Thắng “Tài Dậu” đã phải chi tiền tậu luôn cho Sơn “bạch tạng” một căn nhà nhỏ nằm sát phía sau nhà Thắng ở ngõ Lương Sử A để giữ chân Sơn “bạch tạng”. 


Hằng ngày Sơn “bạch tạng” ngồi đồng ở nhà Thắng “Tài Dậu” và chỉ luồn về nhà ngủ lúc hai con mắt mở không lên. Thấy Sơn “bạch tạng” bạc nhược nên nhiều dân anh chị nói cạch nói khoé rằng, Thắng “Tài Dậu” mua được một con chó béc giê nên phải mua luôn chiếc "chuồng chó" sau nhà mình để nhốt… 


Quả từ sau khi kéo được Sơn “bạch tạng” về dưới trướng, sòng xóc đĩa của Thắng “Tài Dậu” ngày một đông khách. Hằng ngày nhiều chủ tiệm vàng, nhà hàng, khách sạn, quán bar kéo đến sới bạc của Thắng để "làm thịt" nhau. Cũng dễ hiểu điều này, bởi một số ông bà chủ này muốn yên ổn làm ăn thì phải nịnh Sơn “bạch tạng”.Hơn nữa từ khi có Sơn “bạch tạng” bảo kê thì sòng này sẽ "an toàn" hơn nên "nhất cử lưỡng tiện" mà bước chân tới sới bạc của Thắng “Tài Dậu” cho yên. 


Cũng từ đó sòng của Thắng trở thành "cao cấp" và chỉ dành cho dân có máu mặt và dư tiền mặt tới chơi. Mỗi lần đánh khấu mặt phải là 100 USD trở lên và tiền bạc chảy vào túi Thắng “Tài Dậu” cũng như nước. 


Tiền sâu thu được, Thắng tiếp tục tuồn cho đám đàn em Sơn “bạch tạng” quay vòng cho các con bạc "khát nước" vay nóng vay nguội để tiếp tục sát phạt nhau cho thỏa cơn khát.

Những thông tin rò rỉ từ giới giang hồ cho rằng, đầy lo xa, con đường trốn chạy của Thắng đã được vạch từ trước với một lộ trình hết sức vòng vèo.

Từ Hồng Công, hộ chiếu và vé máy bay cho Thắng, Phát, anh ruột Hạnh “sự” - một Việt kiều Canada - đã sắp sẵn, giúp gã đàn anh lên máy bay chuồn sang Ba Lan. Từ đó, những tay buôn thuốc lá lậu người Việt lại đưa Thắng sang Đức, CH Séc rồi sang TP Tula, CHLB Nga. 


Từ đầu năm 2002, Ban chuyên án Năm Cam và đồng bọn đã liệt Nguyễn Văn Thắng, tức Thắng “Tài Dậu” vào danh sách một trong 3 đối tượng đặc biệt nguy hiểm. Hai đối tượng kia là Thọ “Đại úy” (Nguyễn Văn Thọ) và Phát “lợn” (Nguyễn Thế Phát). CANON - HÀNG CHÍNH HÃNG - BẢO HÀNH CHÍNH HÃNG



Thế nhưng, trước khi lệnh truy nã được phát ra vào ngày 20/3/2002, Thắng “Tài Dậu” đã nhanh chân biến mất. Từ đó đến nay, Thắng đã 3 lần xin ra đầu thú nhưng không thực hiện. 


Bất ngờ, lúc 14h chiều ngày 27/11/2007, Thắng “Tài Dậu” đã trình diện tại Cơ quan điều tra Bộ Công an, kết thúc cuộc trốn chạy gần 6 năm trời. 


Sau khi Năm Cam và một loạt chiến hữu khác trong Nam lần lượt nối nhau vào trại, Thắng “Tài Dậu” biết chắc sớm muộn bản thân mình cũng bị “điểm danh”. Ngoài những mối quan hệ với Năm Cam, luật pháp chắc chắn cũng sẽ tìm ra và không tha cho Thắng những tội lỗi liên quan đến cờ bạc và tổ chức cá độ bóng đá. 


Trên mặt báo, hàng loạt những vụ “đi đêm”, dàn xếp tỉ số mà Thắng là kẻ đầu trò đã bắt đầu được đề cập. Hàng loạt mối quan hệ của Thắng “Tài Dậu” với các nhân vật sân cỏ đã được trưng ra, chứng tỏ Thắng có quen biết, thậm chí rất thân thiết với nhiều cầu thủ và quan chức của Liên đoàn bóng đá... 


Tuy nhiên, tất cả những nhân vật được nhắc tới đều khẳng định “chỉ quen biết chứ không hề hợp tác hay dính líu gì đến Thắng” trong việc dàn xếp tỉ số trận này trận nọ cả trên đấu trường trong nước lẫn quốc tế. 


Dĩ nhiên, tẩu vi thượng sách. Ngày 9/1/2002, tức chưa đầy một tháng sau ngày Năm Cam bị bắt (12/12/2001), một bữa tiệc chia tay Thắng “Tài Dậu” đã được Nguyễn Thị Hạnh (Hạnh “sự) đứng ra tổ chức tại một quán ăn trên đường Nguyễn Biểu, Hà Nội. 


Hai ngày sau, nhờ anh ruột Hạnh “sự” tên là Phát, một Việt kiều Canada giúp đỡ, Thắng “tài dậu” đã vượt biên bằng đường bộ sang Trung Quốc, từ đó trốn sang Hồng Công. 


Đáng lưu ý là vào thời điểm đó, Thắng “Tài Dậu” vẫn chưa bị xem là tội phạm. Phải hai tháng rưỡi sau, ngày 20/3/2002, lệnh truy nã Thắng mới được phát ra. 


Từ đó đến nay, CQĐT tuyệt đối chưa bao giờ đưa ra một tuyên bố hay xác nhận bất kỳ thông tin nào liên quan đến Thắng “Tài Dậu”. Tuy nhiên, những thông tin rò rỉ từ giới giang hồ lại cho rằng, đầy lo xa, con đường trốn chạy của Thắng đã được vạch từ trước với một lộ trình hết sức vòng vèo. 


Từ Hồng Công, hộ chiếu và vé máy bay cho Thắng, Phát đã sắp sẵn, giúp gã đàn anh lên máy bay chuồn sang Ba Lan. Từ đó, những tay buôn thuốc lá lậu người Việt lại đưa Thắng sang Đức, CH Séc rồi sang TP Tula, CHLB Nga. 


Theo Trung tướng Nguyễn Việt Thành, Tổng cục Cảnh sát đã từng biết rõ nơi lẩn trốn của Thắng tại Tula và tổ chức truy bắt. Nhưng trước khi tổ công tác sang đến nơi, Thắng đã kịp thời bỏ trốn. Không dừng lại ở đâu quá lâu, “đường dây Nghệ An” lại đưa Thắng “Tài Dậu” sang Tasken, thủ đô Uzbekistan. 


“Vuốt nanh” đã mất, Thắng đành chấp nhận làm một tay bảo kê cò con cho một “soái” người Việt, chịu sự sai phái của đám con buôn người Việt mà gã chỉ xem bằng nửa con mắt để kiếm cơm và tìm nơi tá túc. 


Từ đó đến nay, cuộc trốn chạy của Thắng “Tài Dậu” thỉnh thoảng vẫn được đề cập với hàng loạt thông tin nửa hư nửa thực. Có tin cho rằng, tại Uzbekistan, Thắng đã... gia nhập đạo Hồi nhằm mai danh ẩn tích. 


Một nguồn tin khác khẳng định: ngày 13/11/2002, Thắng đã cầm đầu một nhóm bảo kê người Việt kịch chiến với một băng bảo kê khác ở xứ người, bị cảnh sát nước bạn bắt giữ, sắp bị dẫn độ về nước. 


Chờ mãi không thấy, lại có tin là Thắng đã thiệt mạng trong cuộc hỗn chiến nói trên rồi sau đó là tin Thắng bị giang hồ người Việt ở xứ người thủ tiêu. 


Nhưng cuối tháng 12/2005, các nguồn tin trên lại bị bác bỏ bởi có thông tin từ CHLB Nga, Thắng “Tài Dậu” đã gọi điện về cho vợ, báo với Cơ quan Công an xin được ra đầu thú với điều kiện được bảo đảm an toàn. 


Sau đó, có ít nhất hai lần khác vào tháng 1 và tháng 8/2006, Thắng lại tiếp tục từ nước ngoài bắn tin xin về đầu thú nhưng rồi cũng chẳng thấy tăm hơi. 


Cuối cùng, ngày 27/11/2007, Thắng đến đầu thú tại Phòng 3, Cục CSĐT tội phạm về TTXH (C14) tại Hà Nội. Thắng cho biết, trước khi ra đầu thú, anh ta đã trốn tránh một thời gian dài tại huyện đảo Vân Đồn, khu vực Bãi Cháy và huyện biên giới Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. 


Thời gian này, Thắng chung sống với một cô gái tên là N. Tuy nhiên, N là ai, hiện ở đâu thì Thắng tuyệt nhiên không chịu tiết lộ. 


Thắng cũng “tâm sự” rằng, vào thời điểm năm 2002, mẹ anh ta đang ốm nặng nên Thắng “không dám vào tù”, sợ bà mẹ bị sốc và lo lắng không có lợi cho sức khỏe!”. Vì thế Thắng mới bỏ trốn. 


Ngay tối 27/11, Thắng “Tài Dậu” đã được đưa vào Trại Tạm giam của Bộ Công an. 


Tạm thời, những lời khai của đầu mối tội phạm quan trọng này vẫn đang trong vòng bí mật. Nhưng chắc chắn, với sự xuất hiện của Thắng, hàng loạt nghi án liên quan đến tội phạm cờ bạc và nhất là những vụ bê bối, tiêu cực trong bóng đá sẽ có cơ hội được làm rõ

Sinh năm Đinh Mùi (1967) cầm tinh con dê, năm nay Hải Bánh đã "đầu bốn, đít bốn", nhưng đường đời xem ra vẫn mụ mẫm lắm, đến nỗi không cắt nghĩa được tại sao mình trở thành giang hồ. Hải “bánh” ngô nghê: "Em sống giữa giang hồ mà em không nghĩ em là giang hồ. Đến đâu em cũng đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên… vậy mà em lại là thằng phá giời, phá đất…". 


Sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, hộ khẩu thường trú tại 36 phố Hàng Cót, phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Để phân biệt Hải “hấp”, Hải “lớ”, Hải “bén” và những người tên Hải khác, người ta gắn luôn tên ông bố của Nguyễn Tuấn Hải ghép là Hải “Bánh” để gọi cho tiện. 

Hải “Bánh” triết lý: "Chính cái phố Hàng Cót đã tạo nên con người phiêu phiêu của em. Từ nhỏ, trong con người em luôn tồn tại hai thái cực thiện và ác", rồi Hải lý giải: Trước nhà là bến xe điện, cạnh nhà là rạp chiếu phim Đại Đồng, xung quanh còn có chợ xe máy, chợ Đồng Xuân, trường học... Từ thời Pháp thuộc, bọn trộm cắp, cao bồi đầu yêu trán khỉ thời đó cũng chọn khu phố quanh nhà Hải để tụ tập.

Khi Hải “Bánh” sinh ra và lớn lên ở cái phố Hàng Cót này thì hàng ngày phải chứng kiến biết bao vụ đâm chém, trộm cắp, cướp giật... xảy ra như cơm bữa. Mỗi chuyến tàu điện về lại í a, í ới tiếng kêu mất cắp, mất trộm. Lũ đầu gấu, đầu mèo, móc túi rạch giỏ Hải “Bánh” đều nhẵn mặt. Mà cũng quái lạ là tất cả cái xấu ấy ngấm vào con người Hải rất nhanh. Vì thế khi cắp sách đến trường Hải “Bánh” là một học sinh ngoan. Nhưng buông cặp sách ra là Hải đã trở thành... kẻ phá giời phá đất. 

Hải “Bánh” nhớ thuở nhỏ, hàng ngày sau khi tan trường về, Hải “Bánh” lại cùng cậu em trai - Long "tròn" leo lên sân thượng nhà mình tia xuống đường. Khi tiếng phanh ken két giảm tốc độ của những chuyến tàu điện rít lên thì cũng là lúc bọn móc túi rạch giỏ chen lấn xô đẩy để ra tay “ăn” hàng của khách đi tàu. Tất cả những tên "ăn" được hàng đều bị anh em Hải “Bánh” điểm mặt và tìm cách chặn đường trấn lột lại bằng sạch. Thế là nghiễm nhiên Hải “Bánh” trở thành đàn anh của đám tiểu yêu khi còn tuổi teen.

Hải “Bánh” còn thừa nhận, lúc còn cắp sách đến trường, trong đám bạn, chỉ cần đứa nào chỉ vào một người khách qua đường nói tao thích một cái mũ cối hay chiếc áo lông Đức, đôi tông Lào... giống như thế kia là hắn phóng xe đuổi theo vị khách xấu số cướp bằng được món đồ đó để "tặng" bạn. Thế rồi những việc xấu đó thường xuyên xảy ra và Hải “Bánh” coi đó như là những chiến tích để lấy le với bạn bè. 

Hải “Bánh” còn khoe rằng, khu vực nhà Hải thường xuất hiện những nhân vật nổi tiếng như các diễn viên điện ảnh tên tuổi, những danh thủ bóng đá từng vang bóng một thời và nhiều văn sĩ trí thức khác. Những nhân vật này đã để lại trong con người hắn một nhân cách tốt nên con người hắn đôi lúc hơi "phiêu phiêu" giữa cái thiện và cái tà, điều mà tốn phân nửa cuộc đời nhưng Hải “Bánh” không sao cắt nghĩa được. 

Nhà mặt phố, có tiệm làm cửa sắt, sau khi bỏ học dở dang ở Trường thể thao Quần Ngựa, Hải “Bánh” về nhà làm thợ sắt phụ gia đình. Ngày nào cũng vậy, sáng sớm Hải “Bánh” phóng xe ra đường để... cướp giật. Từ 9h sáng đến 5h chiều là thời gian Hải “Bánh” cặm cụi làm cửa sắt quần quật lượm từng xu từng đồng. Hắn thấy công việc làm cửa sắt hàng ngày cũng khá thú vị và những đồng tiền sạm khói hàn ấy rất có ý nghĩa đối với hắn. Nhưng chỉ sau 5h chiều, sau khi đã trút bỏ bộ quần áo thợ là Hải lại nhảy lên xe máy phóng ra phố để đi... cướp. Vì thế, chưa đủ tuổi vị thành niên mà tiền án tiền sự của Hải “Bánh” đã nhiều hơn tiền mặt - 6 tiền án tội trộm cắp, cố ý gây thương tích, gây rối.

Hải “Bánh” nói với chúng tôi rằng, hắn không thể giải thích nổi những mâu thuẫn nội tại ngay trong chính con người mình. Các cụ nói "nhân chi sơ tính bản thiện", con người do giáo dục mà nên, nhưng con đường trở thành giang hồ của Hải “Bánh” có thể đúc kết gọn trong ba chữ: thiếu giáo dục, có vậy mà Hải “Bánh” vẫn không nhận thức được. 

Hải "Bánh".


Năm 1980, ở Hà Nội đám "đầu gấu", "đầu mèo" chia lãnh địa hoạt động thành từng "quân khu" thì Nguyễn Hải Long (Long “tròn”) em Hải “Bánh” cũng cầm đầu một băng nhóm du thủ, du thực. Suốt ngày Long lận dao trong người, trốn gia đình đi gây gổ đánh nhau ngoài phố, mỗi khi gây hấn là Long rút dao bầu ra hành xử và từng gây thương tích cho rất nhiều người. Vì thế đám côn đồ Hà Nội mệnh danh Long “tròn” là Long "máy chém". Ngược lại cũng rất nhiều lần Long “máy chém” bị các băng nhóm khác chém cho nát mình mẩy, và một trong những lần ấy, Long bị chém trọng thương đến liệt hẳn một cánh tay. 

Thương em, Hải “Bánh” cũng lận dao đi theo để "bảo vệ". Thế là Long “tròn” đi đánh nhau ở đâu là Hải “Bánh” có mặt ở đó. Vào trận thì Hải “Bánh” vào trước, Long “tròn” thất thế thì Hải là người chặn hậu cho Long và đồng bọn rút lui... Có lần anh em Hải, Long và đồng bọn chém một thanh niên đến chấn thương sọ não. Long cũng bị trọng thương phải nhập viện. Không ngờ cả "đầu gấu" và "đầu mèo" cùng phải nằm điều trị vết thương cùng một khoa. Hải “Bánh” sợ băng nhóm kia trả thù nên lận dao găm trong người trực trong bệnh viện 24/24 giờ để bảo vệ cho Long khỏi bị đồng bọn đối thủ “lấy số”. Đối phương thấy Hải “Bánh” ngầu quá nên cũng không dám manh động... Sau nhiều chiến tích, Hải “Bánh” đã được đám đàn em tôn làm "đại ca" và Hải “Bánh” cho đó là một sự tưởng thưởng.

Khi đã là trùm một băng nhóm giang hồ thì Hải “Bánh” bắt đầu mở rộng tầm hoạt động và điểm đầu tiên là tổ chức bảo kê đám móc túi trong chợ Đồng Xuân. Hàng ngày Hải “Bánh” và Long “tròn” xuất hiện ở chợ Đồng Xuân chỉ để thu tiền bảo kê. Và cũng không tốn nhiều thời gian, Hải “Bánh” đã trở thành một trùm giang hồ nắm trong tay hàng chục tên “đầu gấu” “đầu mèo” cộm cán.

Vừa qua, được sự đồng ý của lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát, Thiếu tá Nguyễn Đại Sơn, người trực tiếp truy bắt Nguyễn Việt Hưng đã kể lại cho phóng viên Báo CAND về quá trình truy bắt Hưng…

Vào những năm 2000, băng nhóm tội phạm do Trương Văn Cam cầm đầu đã phát triển thành một tổ chức quy mô, hoạt động rất phức tạp, gây ra nhiều vụ giết người theo kiểu xã hội đen tại TP HCM như vụ tạt axít Nguyễn Ngọc Lâm (Lâm “chín ngón"); bắn Vũ Hoàng Dung (Dung “Hà”); giết Cảnh sát hình sự Phan Lê Sơn; bắn chết anh Phạm Ngọc Hiền tại vũ trường Apocalise…

Bản chất của các vụ án này là do thanh toán nhau trong việc tranh giành lợi nhuận bảo kê của băng nhóm “xã hội đen” Năm Cam với các băng nhóm khác.

Thấy có đủ căn cứ xác định tội phạm, ngày 12/12/2001, Tổng cục Cảnh sát đã cùng Công an TP HCM và Tiền Giang mở đợt tấn công quy mô, bắt giữ và triệt phá băng nhóm tội phạm do Năm Cam cầm đầu.

Trước đó, ngày 20/12/2000, Tổng cục Cảnh sát đã có Quyết định số 2884/C11B thành lập Ban chỉ đạo điều tra vụ giết Vũ Hoàng Dung, do Trung tướng Nguyễn Việt Thành, Phó Tổng cục trưởng làm Trưởng ban.

Ngày 25/5/2001, Ban chỉ đạo chuyên án quyết định bắt Hải “bánh" về tội gây rối trật tự công cộng. Hải “bánh" chính là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa vụ án Năm Cam và vụ giết Dung Hà.

Thế nhưng quá trình khai thác trong 7 tháng tại TP HCM, Hải “bánh” không hé răng khai nhận hành vi của hắn và đồng bọn. Tổng cục Cảnh sát quyết định chuyển Hải “bánh” về Trại giam Công an tỉnh Tiền Giang để tiếp tục khai thác.

Bằng các biện pháp nghiệp vụ kết hợp với giáo dục động viên, ngày 5/12/2001, Hải “bánh” đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của y và tố giác Trương Văn Cam là kẻ chủ mưu trong vụ bắn Dung “Hà”.

Hải “bánh” là người nhận lệnh của Năm Cam và đã đưa súng cho Nguyễn Việt Hưng (Hưng “phi nhon") và Nguyễn Xuân Trường (Trường “xoăn") đồng thời giao nhiệm vụ cho hai tên này đi hạ sát Dung “Hà”.

0h25' ngày 2/10/2000, Hưng “phi nhon" và Trường “xoăn" đã ra tay giết Dung “Hà” tại trước số nhà 17 Bùi Thị Xuân, phường Bến Thành, quận 1, TP HCM bằng hai phát đạn bắn vào đầu.

Thời điểm này, Ban chỉ đạo chuyên án xác định Nguyễn Việt Hưng là đầu mối rất quan trọng trong chuyên án Năm Cam. Vấn đề đặt ra là bằng mọi giá phải bắt bằng được Hưng “phi nhon".

Vì thế ngoài việc triển khai cho Công an các tỉnh cùng tham gia truy bắt, Ban chuyên án còn mở rộng việc truy tìm sang các nước như Thái Lan, Campuchia, Lào.

Tổng cục Cảnh sát cũng treo giải thưởng cả trăm triệu kèm một xe ôtô cho đơn vị hoặc cá nhân nào truy bắt được Nguyễn Việt Hưng. Nhưng sau một thời gian truy lùng mà vẫn không có tin tức gì về Nguyễn Việt Hưng.

Ngay sau thời điểm Dung “Hà” bị giết, Ban chỉ đạo chuyên án cũng đã đặt vấn đề: Vùng núi Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam là vùng núi hiểm trở, hẻo lánh. Tại đây lúc nào cũng có trên chục nghìn cửu vạn từ khắp các tỉnh đến đào đãi vàng. Số này rất ô hợp và không thể kiểm soát hết, vì thế bọn tội phạm thường hay trà trộn với cửu vạn để lẩn trốn sự truy bắt của Công an.

Thiếu tá Nguyễn Đại Sơn, điều tra viên cao cấp của Cục C16 được Ban chỉ đạo chuyên án giao nhiệm vụ: Bằng các biện pháp nghiệp vụ, rà soát trên địa bàn huyện Phước Sơn xem có Nguyễn Việt Hưng xuất hiện ở đây không.

Thiếu tá Sơn là người thông thuộc địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng, từng nhiều lần trực tiếp đi trinh sát tại các khu khai thác vàng thuộc địa bàn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Thiếu tá Sơn cũng đã xây dựng được một số cơ sở tại khu vực phức tạp này.

Nhận lệnh, Thiếu tá Sơn khẩn trương triển khai nắm tình hình và đi đến nhận định: Địa bàn miền núi huyện Phước Sơn có rất nhiều hầm khai thác vàng, nhưng hầm khai thác vàng ở núi Khe Tăng thuộc thôn 2, xã Phước Thành là hiểm trở nhất.

Từ trung tâm tỉnh Quảng Nam đi Khe Tăng phải mất 3 ngày đường, trong đó phải đi bộ, luồn rừng mất hai ngày. Hơn nữa từ núi Khe Tăng chỉ cuốc bộ 5 giờ đồng hồ là sang địa phận tỉnh Gia Lai và Kon Tum và sang Campuchia rất thuận lợi.

Một yếu tố nữa là Khe Tăng có khoảng trên 5.000 cửu vạn, hầu hết là người Thái Nguyên do hai chủ bưởng là Thủy và Hát chỉ huy. Trong số cửu vạn có rất nhiều con nghiện heroin. Nguyễn Việt Hưng là một trùm giang hồ, bản tính gian ngoan xảo quyệt và cũng là con nghiện, nhiều khả năng hắn sẽ chọn nơi hẻo lánh nhất này để nương thân.

Sau khi triển khai cơ sở rà soát ở khu vực Khe Tăng, quả nhiên Thiếu tá Sơn nhận được thông tin của cơ sở báo cáo: Khoảng trung tuần tháng 1/2002, có một thanh niên giọng Hà Nội đến bãi vàng Khe Tăng xin đầu quân cho chủ bưởng Thuỷ và Hát.

Người thanh niên này khai tên là Hùng, đầu trọc lốc. Thuỷ và Hát thấy dáng vẻ "sáng sủa" nên tiến hành kiểm tra thân thể.

Lúc Hùng “trọc" lột quần áo ra thì người hắn xanh lè các hình xăm đầy người. Trên ngực Hùng “trọc" xăm con đại bàng to vật. Tay phải xăm hình con rồng, tay trái xăm mũi tên xuyên qua trái tim. Lưng xăm một bầy ma nữ trần như nhộng. Hai bắp chân xăm hai con hổ nhe nanh. Mười ngón chân hắn xăm 10 con bọ cạp.

Qua các hình xăm, chủ bưởng Thuỷ và Hát biết Hùng “trọc” là một tên giang hồ cộm cán. Hơn nữa, trong lúc đám phó tướng của Thuỷ và Hát gần đây thường hay gây hấn với nhau, có tên còn tổ chức "thăn" vàng của chủ bưởng, vì thế Thuỷ và Hát đã thâu nhận Hùng “trọc" và phân làm phó tướng chịu trách nhiệm trực tiếp thống lĩnh và cai quản đám phó tướng dưới trướng chủ bưởng.

Cơ sở còn cho biết, Hùng “trọc" nghiện heroin và hắn mang rất nhiều hàng trắng theo để sử dụng…

Đây là thông tin quý giá đối với Ban chuyên án. Song Hùng “trọc" có phải Nguyễn Việt Hưng hay không?

Continue Reading