Mối quan hệ giữa lạm phát và...

By akai611

8.4K 9 21

More

Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

8.4K 9 21
By akai611

                           MỤC LỤC

 

Chương 1 . Lý luận chung về lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

 

1.1.         Lạm phát và nguyên nhân gây ra lạm phát.

1.1.1.  Lạm phát.

1.1.2.  Nguyên nhân gây ra lạm phát.

 

1.2.         Tăng trưởng kinh tế và các công cụ phản ánh.

1.2.1.  Tăng trưởng kinh tế.

1.2.2.   Các công cụ phản ánh.

 

1.3.         Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

 

    Chương 2 . Thực trạng lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

 

2.1.         Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua.

2.1.1.  Các nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam thời gian qua.

 

2.1.2.  Các tác động của lạm phát.

 

2.2.         Mối quan hệ giữa lạm phát và tằng trưởng kinh tế.

 

     Chương 3. Giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay.

 

3.1.         Định hướng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.

 

3.2.         Giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay.

3.2.1.  Giải pháp tình thế.

3.2.2.  Giải pháp chiến lược.

3.2.3.  Giải pháp chủ yếu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam .

 

            3.3.     Lạm phát và vấn đề xử lý lạm phát của một số nước trên thế giới, học tập và áp dụng vào Việt Nam.

 

 

                                 LỜI NÓI ĐẦU

 

 

 

 

         Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề cơ bản và lớn trong kinh tế vĩ mô. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp và không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế .

         Lạm phát là một vấn đề không phải xa lạ và là một đặc diểm của nền kinh tế hàng hoá và ở mỗi thời kì kinh tế với các mức tăng trưởng kinh té khác nhau

sẽ có những mức lạm phát phù hợp.

         Do vậy vấn đề lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế là một đề tài rất hấp dẫn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Việc xác định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế. Mục đích chính là phân tích để khẳng định và tiến tới xác lập mối quan hệ định hướng giữa tăng trưởng kinh tế với lạm phát và có thể sử dụng lạm phát là một trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì đương nhiên các giải pháp điều hành vĩ mô đưa ra là nhằm nâng cao lạm phát của nền kinh tế nếu như chúng có quan hệ thuận với nhau và do vậy các giải pháp như cung ứng tiền, phá giá đồng nội tệ… sẽ được xem xét ở mức độ hợp lý. Còn không, các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc các giải pháp vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và yếu tố lạm phát trở thành thứ yếu. Mặc dù vẫn phải duy trì mức độ kiểm soát. Ở nước ta trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát không những là một tiêu thức kinh tế mà còn kiến mang ý nghĩa chính trị.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương 1: Lý luận chung về lạm phát và tăng trưởng kinh tế

 

1.1.Lạm phát, nguyên nhân gây ra  lạm phát

1.1.1.Lạm phát  

 

1.1.1.1           Khái niệm lạm phát:

Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình các nhà kinh tế đã đưa ra các khái niệm về lạm phát.

·                    Theo Các Mác trong bộ tư bản: lạm phát là việc làm tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt.

·                    Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát là biểu thị một sự tăng lên của mức giá chung. Theo ông: “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng”.

·                    Milton Friedmen thì quan niệm: “ lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế  thuộc phái tiền tệ và phái Keynes tán thành.

    1.1.1.2      Phân loại lạm phát:

   1.1.1.2.1  Căn cứ vào mức độ lạm phát:

·         Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới 10%. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay không tăng cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn…Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý yên tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro.

·        Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với 2 hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã lạm phát làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế. lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất thông thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.

·        Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng rất nhanh, tiền lương thực tế giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn.

             1.1.1.1.2 Căn cứ vào định tính::

·      Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng :

* Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung.

* Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .

·              Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:

* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .

* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.

Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang

phát triển thường diễn ra trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp

và trầm trọng hơn .Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ

khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm .

1.1.2.     Nguyên nhân gây ra lạm phát:

 

·              Lạm phát khởi thuỷ từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

.Thứ nhất là lạm phát có thể xảy ra do tác động chủ quan của hệ thống tiền tệ-tín dụng-ngân hàng,bất cứ một sự biến đổi nhỏ nào của hệ thống này đều có tác động hoặc tăng hoặc giảm tỉ lệ lạm phát.

.Thứ hai là lạm phát cũng chịu ảnh hưởng củamột số đIều kiện khách quan khác như chính trị xã hội,thiên tai bão lụt,tìnhtrạng thất nghiệp,nền sản xuất..Do chịu nhiều tác động của nhiều yếu tốtrong nền kinh tế như vậy nên hiện tượng lạm phát diễn biến hết sức phức tạp đòi hỏi trong quá trình tăng trưởng và chống lạm phát có chiến lược đúng đắn để lạm phát luôn nằm trong quỹ đạo mà nền kinh tế có thể kiểm soát được.

Lạm phát xuất hiện cũng gây ra nhiều hậu quả đến kinh tế như bất kì một biến cố hại nào khác:nạn thất nghiệp,nạn thiên tai Lạm phát tàn phákinh tế,nó không những làm suy giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính mà còn tác động trực tiếp đến đời sống chính trị ,văn hoá,xã hội và sinh hoạt bình thường của người dân.Bằng chứng là cuộc khủng hoảng ở Đức xảy ra dữ dội vào những năm đầu thế kỷ,ở các nước phát triển những năm 70 và mới đây là ở Nga.Đặc biệt là hậu quả lạm phát rất trầm trọng ở các nước đang phát triển với nền kinh tế chưa đủ sức hạn chế có hiệu quả sự lây lan của lạm phát..Những điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia không chỉ riêng nước ta cần có chính sách chống lạm phát để hạn chế bớt những thiệt hại do hiện tượng này gây ra cho nền kinh tế.Vấn đề đặt ra một cách cấp thiết cần phải giải quyết khi nghiên cứu lạm phát là lý giải xác đáng lạm phát xảy ra và diễn biến như thế nào? và cần có những biện pháp gì để chống lạm phát.Nếu giải quyết tốt vấn đề đó thì chúng ta mới có cơ sở vững chắc hợp logic để tiến tới thành công trong việc phát triển kinh tế .

Ngày nay khi đánh giá trình độ tăng trưởng của nền kinh tế của một quốc

gia một trong những tiêu chuẩn đầu tiên người ta xét đến đó là tỉ lệ lạm phát

như thế nào?Điều đó cũng nói lên một phần mối quan hệ chặt chẽ giữa lạm

phát và tăng trưởng.Nếu tỉ lệ lạm phát đang ở mức thấp hoặc vừa phải điều

đó chứng tỏ nền kinh tế nước đó có sức mạnh điều tiết và quản lý kinh tế vĩ

mô có hiệu quả đã và đang tạo cơ hội thuận lợi để tăng trưởng.Xung quanh

lạm phát có rất nhiều nảy sinh như cách phòng và chữa căn bệnh lạm phát

như thế nào?Nguyên nhân gây ra lạm phát và có nên duy trì tỉ lệ lạm phát

thấp hay chấm dứt lạm phát.Từ đó gây ra nhiều cuộc bàn cãi,tranh luận

không chỉ giữa các nhà kinh tế mà còn xảy ra với các quốc gia,các tổ chức

tài chính quốc tế.Vởy hiểu lạm phát như thế nào?Có một câu hỏi nhưng rất

nhiề câu trả lời,tuy nhiên người ta vẫn thường công nhận lạm phát là sự tăng

lên của giá cả trung bình trong một thời kỳ “Sự tăng lên của giá” do có nhiều

nguyên nhân hoặc do các yếu tố chủ quan của các cấp quản lý kinh tế hoặc

do những đIều kiện chính trị,xã hội,thiên tai..gây ra.Có thể giảI thích quy về

những cách đây:

1.Theo thuyết tiền tệ lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền .

2.Theo trường phái Keynes lạm phát có thể xảy ra là do dư cầu về hàng hoá trong nền kinh tế.

3.Theo thuyết chi phí đẩy lạm phát xảy ra do tăng chi phí sản xuất.Tuy

nhiên đây cũng chỉ là những luận đIểm lý thuyết mang tính tương đối còn

trong thực tế lạm phát xảy ra thường là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố ở

những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế.

1.2.Tăng trưởng kinh tế và các công cụ phản ánh

1.2.1.Tăng trưởng kinh tế:

 

·              Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia.

     Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định( thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối ( quy mô tăng trưởng) hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc kỳ gốc.

    Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng. chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:

-                              Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài.

-                              Phát triển có hiệu quả thể hiện qua năng suất lao động, năng suất tài sản cao và ổn định. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) cao.

-                              Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ;

-                              Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao;

-                              Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội;

-                              Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.

1.2.2.Các công cụ phản ánh

 

·              Để phản ánh tăng trưởng kinh tế , các nhà kinh tế sử dụng số liệu về GDP – một chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập của mọi người dân trong nền kinh tế .

·                          Để phản ánh rõ hơn về tăng trưởng kinh tế , người ta thiết lập mô hình tăng trưởng kinh tế có tên là: “ mô hình solow “ . Mô hình solow chỉ ra ảnh hưởng của tiết kiệm , tỷ lệ tăng dân số và tiến bộ công nghệ với sự tăng trưởng theo thời gian của sản lượng . Mô hình còn xác định một vài nguyên nhân gây ra sự khác biệt lớn về mức sống giữa các nước. Sự tăng trưởng kinh tế của các nước không phải lúc nào cũng dương mà trong thời kì khủng hoảng , nền kinh tế suy thoái thì mức tăng trưởng kinh tế sẽ đạt giá trị âm.

1.3.Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. 

 

          Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội , là hai vấn đề kinh tế trong nền kinh tế . Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau .

           Trong thực tế , không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không tránh khỏi lạm phát . Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các cuộc khủnh hỏang kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau . Tỷ lệ lạmphát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của cáccông nhân không tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi công đòi tăng lương và cho sản xuất trì trệ , đình đốn khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm.Khi nềnkinh tế găp khó khăn , suy thoái sẽ làm thâm hụt ngân sách và đó là điều kiện , nguyênnhân gây ra lạm phát . Khi lạm phát tăng cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ rất nhanh , khi đó người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ . Tệ nạn tham nhũng tăng cao , nạn buôn lậu phát triển mạnh , tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh , trốn thuế và thuế khôngthu được đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương 2: Thực trạng lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay

 

2.1.Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua

 

  2.1.1 .Các nguyên nhân gây ra lạm phát ở VN

 

2.1.1.1Thời kỳ 1987-1997:

            Bảng chỉ số lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 1987-1997

Năm

1987

1988

1989

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

Lạm

Phát

3.64

5.98

4.69

5.10

5.96

8.65

8.07

8.84

9.56

9.34

8.80

Tăng trưởng

223.1

393.8

34.7

67.1

67.5

17.5

5.2

14.4

12.7

4.5

3.5

                                                                                              Nguồn ADB

Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, phần này ta xét đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể.

Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam có nhiều.

- Thứ nhất : lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp, đóng cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến

sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi ngân sách thể hiện nền kinh tế

kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ…Đó là những nguyên nhân dẫn

đến lạm phát phi mã.

- Thứ hai : do sự điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác

định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là

chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của

nhà nước, chính sách lãi xuất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân

không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh

tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn

vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây

dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân bằng cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi

một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn

sốt xi măng, thép, xăng dầu và ngoại tệ.

- Thứ ba : cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là

các doanh nghiệp. những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách

nhà nước. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà

nước phải bù lỗ, bù giá qua lớn chiếm gần 40% tổng số thu chi cho ngân

sách.

- Thứ tư : môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn

ở mức thấp. Đầu tư nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài

qua sức chịu đựng của nền kinh té trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu

lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn

cách nào khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã gây ra lạm phát.

- Thứ năm : nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan liêu bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong khu vực.

 2.1.1.2 Thời kỳ 1998-2008:

           Bảng chỉ số lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 1998-2008:

Năm

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Lạm phát

5.8

4.8

6.8

6.8

7.0

7.3

7.6

8.5

8.17

8.5

6.36

Tăng trưởng

9.2

4.2

-1.6

-0.4

4.0

4.3

7.8

8.4

6.6

8.8

19.89

                                                                                              Nguồn ADB

Thời kỳ 1999-2002: là thời kỳ lạm phát ở mức rất thấp thậm chí là thiểu phát. Thời kỳ này tốc độ tăng trưởng cũng rất thấp. Năm 1998-1999 tốc độ tăng trưởng giảm xuống mức dưới 6% là mức đáng lo ngại đối với một nền kinh tế có tốc độ tăng dân số 2% một năm, tỷ lệ tăng năng suất lao động 5-7% và tỷ lệ thất nghiệp là 7%. Nguyên nhân chủ yếu của thời kỳ này là do chính sách thắt chặt tiền tệ và cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực

Từ năm 2004 lạm phát đột ngột tăng tốc. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 9.5%(2004); 8.4%(2005);6.6%(2006) . Để tránh tác động của khủng hoảng Việt Nam đã thực hiện chính sách kích cầu đi liền với việc gia tăng tín dụng và cuối cùng là in tiền. Do vậy đây là nguyên nhân gây ra sự gia tăng đến mức báo động giá vào năm 2003 và tăng trên 10% vào năm 2004.

 Ngoài ra, những nguyên nhân gây ra lạm phát ở VN không nằm ngoài khuôn khổ lý thuyết. Tuy nhiên, nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở VN thời gian qua được cho là do cung tiền và do chi phí đẩy.

a)Lạm phát do chi phí đẩy

 Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP (2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát.

Tuy nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế giới không thể giải thích hoàn toàn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan sát bảng sau chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam chính là lạm phát do nguyên nhân cung tiền.

(Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác)

b)Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam

Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này không giải thích được hoàn toàn nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời gian qua, cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên lạm phát ở Việt Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này.

Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện biện pháp Vô hiệu hóa  lượng tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên.

Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt 49.1%. Như vậy tăng trưởng tín dụng cao và dòng tiền mua ngoại tệ của NHNN đã làm cho cung tiền tăng mạnh dẫn đến lạm phát.

c)Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ trên thực tế

Lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian qua được cho là nguyên nhân tiền tệ. Thực tế quan sát biểu đồ hình dưới giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát không có một mối quan hệ chặt với nhau rõ ràng. Các kiểm định thống kê cũng không thấy có tương quan đáng tin cậy giữa tăng trưởng M2 và lạm phát.

Nguồn: WB và Vietstock dự báo

Tuy nhiên, chúng ta cũng không đủ cơ sở để phủ định được lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và cung tiền đối với Việt Nam bởi một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất: Số liệu thống kê về lạm phát và cung tiền ở Việt Nam không đủ lớn, số liệu tính theo năm đáng tin cậy mà chúng tôi có được từ năm 1992 đến nay. Với chuỗi số liệu như vậy không đủ lớn cho việc làm các kiểm định thống kê cho kết quả có ý nghĩa.

Thứ hai: Một biến số rất khó đo lường hiện nay là thay đổi trong vòng quay tiền (ΔV). Trong các mô hình lý thuyết giả định ΔV =0, tuy nhiên thực tế vòng quay tiền tệ biến động khá lớn qua các thời điểm khác nhau. Tốc độ lưu thông tiền tệ sẽ bị giảm mạnh khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn khó khăn. Lúc này người dân mất lòng tin vào sự phục hồi kinh tế do đó họ hạn chế chi tiêu làm cho vòng quay tiền giảm. Chẳng hạn vào năm 2000 vòng quay tiền tệ là 1.95, năm 2002 chỉ còn 1.53  giảm 21.5%. Dù cho cung tiền tăng cao hơn bình thường nhưng không gây ra lạm phát. Khi đó lượng tăng trưởng cung tiền sẽ chuyển tác động đến việc gia tăng mức giá trong dài hạn có thể từ 8 đến 12 tháng trong một số giai đoạn có thể cao hơn. Chính vì những lý do này chúng ta thấy trong thực tế có giai đoạn mặc dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 khá cao nhưng lại không gây ra lạm phát tức thời.

Để làm sáng tỏ thêm một số luận điểm nêu trên, sau đây chúng ta xem xét quan hệ giữa cung tiền và lạm phát. Chúng ta xét tăng trưởng tín dụng và lạm phát trong khoảng thời gian ngắn hơn:

Nguồn: IFM và VietstoctFinance

Biểu đồ cho chúng ta thấy giữa 3 yếu tố này có một sự tương quan khá chặt chẽ nhưng thường có độ trễ nhất định. Lạm phát thường tăng hay giảm sau khi cung tiền tăng giảm từ 3-5. Các kiểm định thống kê chúng tôi thực hiện cũng cho thấy lạm phát và độ trễ tăng trưởng tín dụng 4-7 tháng có quan hệ khá chặt. Đây là một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm phát cao ở Việt Nam.

Vậy tại sao có kết quả khác nhau khi xem xét mối quan hệ cung tiền và lạm phát theo tháng và năm? Nguyên nhân xuất phát từ sự khác biệt giữa biến vòng quay tiền. Khi xét trong một khoảng thời gian dài vòng quay tiền giữa các năm có thể rất khác nhau đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế có nhiều biến động. Đối với dữ liệu tháng chúng ta có thể có một số lượng quan sát đủ lớn chỉ trong thời gian ngắn, trong giai đoạn ngắn sự thay đổi vòng quay tiền rất nhỏ nên sự thay đổi cung tiền sẽ phản ánh vào biến động giá trên thị trường.

d)Những yếu tố khác

Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai đoạn mà một nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trò chính. Nhiều khi các nguyên nhân có thể đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch ròi. Theo quan điểm của chúng tôi một số nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát ở Việt Nam đó là sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân sách cao thường xuyên.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất thế giới. Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư/GDP luôn lớn hơn 40% trong khi đó tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở trung bình chưa đến 8%. ICOR của Việt Nam lớn hơn 5 lần, cao hơn nhiều so với các nước Đông Á, và các quốc gia khác cùng trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Trong một nghiên cứu trước đây của chúng tôi có tựa đề “Các vấn đề tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” chúng tôi đã nêu ra các nguyên nhân yếu kém trong cơ cấu nền kinh tế. Chính những yếu kém này là những nguyên nhân sâu xa cho bất ổn vĩ mô và lạm phát cao.

Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua, áp lực in tiền tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát. Ngoài ra, việc kiểm soát giá hàng hóa và neo tỷ giá ngoại tệ một cách khá cứng nhắc cũng gây ra những xáo trộn kéo dài cho nền kinh tế. Tỷ giá hay giá hàng hóa không phản ánh giá thị trường do kiểm soát hoặc độc quyền đều ẩn chứa khả năng lạm phát tiềm tàng trong tương lai.

  2.1.2. Các tác động của lạm phát

 

2.1.2.1. Tác động đến lĩnh vực sản xuất :

Ở vị trí các nhà sản xuất ,khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu

vào và đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình

sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch

toán kinh doanh .Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có

thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế .Nếu một doanh nghiệp nào

đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.

Tuy nhiên ,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp ,không gây

ảnh hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế .Từ đó sẽ

khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ

tăng lên .Ngoài ra cũng khuyến khích tiêu dùng ,cầu tiêu dùng tăng lên ,do

đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng tăng .

2.1.2.2. Đối với lĩnh vực lưu thông:

Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan

hiếm hàng hoá .Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của

mình để vơ vét và thu gom hàng hoá ,tài sản ,tình trạng này càng làm mất

cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả

hàng hoá tăng lên nhiều hơn .

Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh

vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao .Do có nhiều người tham gia vào

lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn .Tiền vừa ở trong tay

người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông ,tốc đọ lưu

thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng .

2.1.2.3. Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng:

Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng ,thương mại và ngân hàng bị thu

hẹp .Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng

tiền bị giảm xuống .Về phía hệ thống ngân hàng ,do lượng tiền gửi vào ngân

hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay ,cộng

với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền ,sự điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ

không làm an tâm những cá nhân ,doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt

nhàn rỗi trong tay.Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động

vốn ,hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mứclãi suất ổn định .Mà

lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát ,khi tỷ lệ lạm phát tăng

cao ,muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng

với tỷ lệ lạm phát .

Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá

đồng tiền nhanh chóng .Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không

còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiềntệ bị hạn chế, không

cònnguyên vẹn bởi khi có lạm phátthì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình

thức tiền mặt.

2.1.2.4.Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà

nước :

Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá,

khi lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động

của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt

được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước

thiếu vốn, các khoản thu cho ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà

nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã

hội, các nghành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị

thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì

các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều

kiện để thực hiện.

2.2 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở VN.

 

Trong thời gian gần đây, một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng, tỷ lệ lạm phat

 ở Việt Nam gần bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế la tốt cho sự phát triển kinhh

 tế. Phải chăng đấy la mức lạm phat tối ưu cho tăng trưởng kinh tế?

Giữa tăng trưởng kinh tế va lạm phat thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nao vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên cứu theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế va lạm phát là phi tuyến tinh. Fischer (1993) là người đầu tiên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm chí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ nay la nghịch biến. Một số các nhà Nghiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và philip(1998), Shan và Senhadji(2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phat và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan và Senhadji ngưỡng lạm phát cho các nước đang phat triển la 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan(2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra

mức lạm phát tối ưu đối với cac nước vung Trung Đông và Trung Á là khoảng 3.2%.

Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006 lạm phát thế giới gia tăng, ngòai nguyên nhân gia dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phat triển qua nóng.

 Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong mấy năm gần đây, phải chăng cũng có chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vuợt mức tiềm năng?. Theo đánh giá của IMF(2006) về cac nguyên nhân làm tăng lạm phát ở Việt Nam , bắt đầu từ năm 2005 co dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng ( những năm trước đo mối quan hệ nay la khong nhất quan va khong rõ nét).

Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phat va tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng lạm phat cao để thuc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kem bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng”.

Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở gia cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do gia tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất. Hiện nay, các nước phat triển chọn mức lạm phát gần 2% la mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chinh phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật.....

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương 3 : Giải pháp kiểm soát lạm phát ở VN hiện nay:

 

3.1 Định hướng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới:

 Đối với Việt Nam mức lạm phat nao la tối ưu cho tăng trưởng kinh tế?

Cac ngưỡng cung với cac phan tich neu tren co thể cung cấp một mức chuẩn cho Việt Nam, với một thực tế rằng, cac doanh nghiệp Việt Nam va người tieu dung khong thich một mức lạm phat cao va khong ổn định. Mức lạm phat chuẩn của Việt Nam co thể gần với mức lạm phat của cac nước Đong nam Á. Nghiên cứu bước đầu của IFM(2006) về mức độ lạm phat ở Việt Nam với các nước Đông Nam Á cũng đã chỉ ra răng , mức lạm lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở cac nước vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam khoảng 3.6%.

Một thực tế rằng, các kết quả nghien cứu về ngưỡng lạm phát tốt cho tăng trưởng đều không đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu hỏi quan trọng cho Việt Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế.

3.2 Giải pháp kiểm soát lạm phát ở VN hiện nay:

        3.2.1. Giải pháp tình thế

 

       Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm phát” trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.

Thứ nhất:các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp dụng , trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông .Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ . Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ triết khấu và tái triết khấu đối với các tổ chức tín dụng , dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ ,không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , bán ngoại tệ vàvay , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi suất tiền gửi tiét kiệm dân cư . các biệnpháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường . ở việt nam các biện pháp này đã dược áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 .

Thứ hai:thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản chi

chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được .

Thứ ba: tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu

thông bằng cách khuyến khichs tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.

Thứ tư : đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .

Thứ năm: cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn .

   3.2.2. Giải pháp chiến lược:

Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho

 đất nước.

Thứ nhất: thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng

hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân . Sản xuất trong nước càng phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …

Thứ hai: kiện toàn bộ máy hành chính , cắt giảm biên chế quản lý hành chính .

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .

Thứ ba: tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở

tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý , chống thất thu , đặc biệt là thất thu về thuế , nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước .

3.2.3. Các biện pháp chủ yếu chống lạm phát ở Việt Nam

 

Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đạt mục tiêu dân

giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thực hiện mục tiêu công

nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, vấn đề chống lạm phát cần được bảo

đảm và luôn duy trì ở mức hợp lý. Trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh

kiềm chế và đẩy lùi lạm phát tuy đã thu được kết quả nhất định, nhưng kết quả chưa thật vững chắc và nguy cơ tái lạm phát cao vẫn còn tiềm ẩn. Do đó kiềm chế và kiểm soát lạm phátvẫn là một nhiệm vụ quan trọng. Để kiềm chế và kiểm soát có hiệu quả, cần áp dụng tổng thể các giải pháp: đây mạnh phát triển sản xuất, giảm chi phí sản xuất và lưu thông, triệt để tiết kiệm trong chi tiêu, tăng nhanh nguồn vốn dự trữ, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế nhằm bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế theo dự kiến, đồng thời phải đẩy mạnh cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, làm cho các yếu tố tích cực của thị trường ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Vậy để thực hiện chống lạm phát chúng ta có những chủ trương và giải pháp sau:

3.2.3.1.Tập chung mọi nguồn lực, nâng cao năng suất lao động, triệt để tiết

kiệm, giảm chi phí sản xuất để đẩy mạnh sản xuất. Thủ tướng chính phủ đã giao cho bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với các Bộ các ngành có liên quan nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các cơ ché chính sách chung về quản lý kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững;

tập chung mọi nguồn lực nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất với hiệu quả

ngày càng cao; giữ vững chấn chỉnh hệ thống doanh nghiệp Nhà nước để

hoạt động có hiệu quả hơn, sắp xếp tốt mạng lưới lưu thông hàng hoá, xây

dựng khối lượng dự trữ lưu thông đủ mạnh, nhất là những mặt hàng thiết

yếu, để Nhà nước có khả năng can thiệp vào thị trường, bình ổn giá cả, tạo

môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động bình đẳng, tham gia

cạnh tranh lành mạnh, hàng hoá lưu thông thông suốt từ sản xuất đến tiêu

dùng.

           3.2.3.2.Các giải pháp tièn tệ tài chính: Khống chế tổng phương tiện

 thanh toán phù hợp vơí yêu cầu của tăng trưởng kinh tế mức tăng tối đa trong khoảng

21%; dư nợ tín dụng tăng khoảng 21-26%, huy động vốn tăng 40-45%, trong

đó vốn trong nước tăng 19-20%; tiếp tục điều chỉnh lãi suất và tỷ giá phù

hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế-xã hội trong giai đoạn mới. Để

thực hiện ục tiêu trên. ngân hàng nhà nước phải phối hợp chặt chẽ với bộ kế

hoạch và đầu tư. Bộ tài chính và các Bộ, các ngành có liên quan tập trung

thực hiện kiên quyết một số giải pháp sau đây:

a) Tiếp tục triển khai phát triển thị trường vốn ngắn hạn, củng cố thị

trường tín phiếu kho bạc. Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với Bộ tài chính

tổ chức điều hành có hiệu quả hoạt động của các thị trường này nhằm thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát nhất là trong dip tết

nguyên đán.

b). Ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ phương tiện thanh toán đã

dự kiến:Thu hồi nợ đến hạn và quá hạn, không chê hạn mức tín dụng kiểm

soát định mức dự trữ bắt buộc theo pháp lệnh Ngân hàng, loại bỏ tín phiếu

kho bạc trong cơ cấu dự trữ bắt buộc và tăng tương ứng phần tiền gửi trên tài

khoản của Ngân hàng nhà nước.

c. ) Ngân hàng Nhà nước cần sơ kết kinh nghiệm điều hàng thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng để có những sửa đổi bổ sung cần thiết nhằm đáp ứng

yêu cầu mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng với các tổ chức kinh tế. Việc

mua ngoại tệ của ngân hàng nhà nước chỉ thực hiện khi có Quyết định của Thủ

tướng Chính phủ. tăng cường kiểm tra kiểm soát và từng bước thực hiện nhanh

hơn chủ trương “ trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt nam.

d). Bên cạnh các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp, cần áp

dụng thành các chuyển gián tiếp để điều hành lãi suất thị trường, điều hoà

lưu thông tiền tệ, mở rộng việc thanh toán. Ngân hàng nhà nước theo dõi

kiểm tra tại các ngân hàng thương mại việc giảm lãi suất cho vay so với hiện

nay để có phương án giảm tiếp lãi suất cho vay kích thích đầu tư.

3.2.3.3.Các biện pháp về ngân sách nhà nước.

a. ) Phấn đấu tăng thu, thực hiện triệt để tiết kiệm chi nhằm giảm bội

chi ngân sách nhà nước, tăng dự trữ tài chính bảo đảm cân đối ngân sách nhà

nước vững chắc, lành mạnh là biện pháp cơ bản để góp phần kiềm chế lạm

phát. Các ngành, các cấp phải có việc chỉ đạo thu, chi ngân sách là nhiệm vụ

trọng tâm của mình.

b) Đi đôi với việc nghiên cứu chính sách thuế. Bọ tài chính, Tỏng cục

hải quan và uỷ ban nhân dân các cấp cần tăng cường công tác quản lý thu và

chống thất thu thuế, bảo đảm thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.

Phối hợp với các nghành các cấp quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, đấu

tranh chống buôn lậu và kinh doanh trái pháp luật, khai man doanh số và

chầy ỳ trong việc nộp thuế. Tổ chức thanh tra và kiêmt tra việc thu thuế, cải

tiến thủ tục nộp thuế, tránh phiền hà cho người nộp thuế.

c) Các Bộ ngành dịa phương và đơn vị cơ sở thực hiện nghiêm túc chỉ

thi của Ban Bí thư, Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện tiết kiêm, chống

lãng phí, chốngtham nhũng, chống buôn lậu, tổ chức sử dụng vốn ngân sách

Nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả và phải chiu trách nhiệm đối với

khoản chi sai chế độ làm thất thoát tài sản và những khoản chi lãng phí, phô

trương hình thức.

d) Tiếp tục sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao

năng suất lao động, chống thất thoát, lãng phí vồn tài sản Nhà nước. Bộ tài

chính khẩ chương hoàn thành đề án đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp

nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ, triển khai rộng rãi chế độ kế toán mới

trong các doanh nghiệp, tăng cường kiểm tra, hướng dẫn để đưa hoạt động

tài chính của doanh nghiệp đi vào nề nếp, đúng chế độ.

3.2.3.4.Các biện pháp về điều hành cung cầu thị trường:

a) Thực hiện các biện pháp để hàng hoá lưu thông thông suốt trong cả

nước nhằm ngăn chặn các hiên tượng đầu cơ, tích trữ khan hiếm giả tạo, kích

giá tăng lên thiệt hại cho sản suất và đời sống. Bộ thương mại chủ trì cùng

các bộ ngành liên quán sớm có đề án quản lý thị trường, tiêu thụ hàng hoá

phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Xây dựng mạng

lưới thương nghiệp với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó

doang nghiệp quốc doanh phải chủ động chi phối thị trường Việc quản lý thị

trường phải gắn với đặc thù của từng khu vực.

b)Về diều hành cân đối cung cầu hàng hoá. Bộ Kế Hoạch và Đầu tư chủ

trì phối hợp với các cơ quan quản lý ngành hàng phối hợp với cơ quan chức

năng chịu trách nhiệm theo dõi diễn biến cung cầu những mặt hàng thuộc

Bộ, cơ quan của mình quản lý. Phát hiện và sử lý kịp thời những mất cân đối

phát sinh trong quá trìng điều hành. Bộ thương mại có trách nhiệm điều hoà

hàng hoà trong cả nước, nhất là những mặt hàng quan trọng để giải quyết

những mất cân đối cục bộ ở từng khu vực. Đối với những mặt hàng quan

trọng cho sản xuất và đời sống ( lương thực, đường, xăng dầu, xi măng... )thì

việc cân đối cung cầu phải tiến hành từng quí, từng tháng. Đối với các mặt

hàng này, phải xây dựng lực lượng dự trữ lưu thông hàng hoá là công cụ

không thể thiếu để điều hoà thị trường. Các Bộ, các cơ quan quản lý ngành

hàng, hội đồng quản lý, các tổng công ty này sớm trình Chính phủ đề án về

cơ chế lưu thông, bảo mức dự trữ cần thiết, dù sức chi phối khi thị trường

phát sinh mất cân đối.

c) Bộ thương mại khẩn trương tổ chức tốt việc triển khai thực hiên

quyết định số 864/ITg ngày 30 tháng 12 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ

về chính sách hàng hoá và điều hành và điều hành công tác suất nhập khẩu.

Phối hợp với các Bộ ngành liên quan thực hiện các biện pháp để bảo đảm sự

cân đối giữa lực lượng hàng hoá, dịch vụ với tổng sức mua của xã hội. Chỉ

đạo và đôn đốc các doanh nghiệp suất nhập khẩu đưa đại bộ phận hàng hoá

nhập khẩu về nước ngay từ những tháng đầu năm, đáp ứng kịp cho sản xuất

và cân đối cung cầu hàng hoá ở trong nước. Chấn chỉnh tình trạng xuất nhập

khẩu bằng việc sắp xếp đầu mối xuất nhập khẩu hợp lý, nhất là xuất khẩu

lương thực. Tổ chức việc mua hàng hoá xuất khẩu có trật tự, ngăn chặn tình

trạng tranh mua hàng xuất khẩu đẩy giá lên. Nghiên cứu hình thành quỹ hỗ

trợ xuất nhập khẩu để có nguồn sử lý những rủi ro trong kinh doanh.

d) Để ngăn chặn ngay từ đầu những dấu hiệu dẫn đến phát sinh biến đổi

giá. Ban vật giá Chính Phủ phải theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường, nắm

bắt kịp thời những thông tin về tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông

hàng hoá, tiền tệ trên thị trường, từ đó đề xuất với Thủ tướng Chính Phủ

những biện pháp bình ổn giá cả, giúp các Bộ ngành quản lý sản xuất, kinh

doanh, hình thành các mức giá cụ thể theo định hướng của Nhà nước.

Để chặn đứng tình trạng giá cả tăng cao thường diễn ra vào những tháng

đầu năm, các Bộ ngành cần nghiêm chỉnh chấp hành những yêu cầu của Thủ

tướng Chính phủ. Bộ lao động thương binh xã hội chủ trì phối hợp với các Bộ

ngành có liên quan tổ chức tiền lương, năng suất lao động chi phí sản xuất, lưu

thông và viẹc hình thành giá ở một số đơn vị sản xuất, kinh doanh các lạo hàng

hoá đại diện cho các ngành kinh tế quốc dân để đề suất chính sách và biện phát

giải quyết tiền lương gắn với năng suất lao động đối với khu vực sản xuất kinh

doanh.

3.2.3.5.Về chỉ dạo điều hành:

a) Bộ Kế hoạch vf đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngâ hàng

Nhà nước, Bộ thương mại, ban vật giá chính phủ, Tổng cục hải quan, Tổng

cục thống kê... tổ chức giao bạn định kỳ hàng tháng để nắm chắc diễn biến

tình hình vận động của hàng hoá, thị trường, tiền tệ, tình hình cân đối hàng

tiền qua đó phát hiện những khâu yếu phát sinh trong công tác điều hành và

đề xuất với Chính phủ các biện pháp sử lý kịp thời.

b) Tổ tư vấn giá cả do Trưởng ban Vật giá Chính phủ làm tổ trưởng cần

nắm bắt thông tin về diễn biến giá cả trong nước, ngoài nước chính xác kịp

thời, phát hiện những vấn đề vướng mắc trong điều hành hàng hoá và thông

báo tình hình đến các Bộ các ngành liên quan để xử lý.

c) Các Tổng công ty kinh doanh, nhất là các Tổng công ty kinh doanh các mặt

hàng quan trọng, thiết yếu phải định kỳ báo cáo tình hình sản xuất, tiêu thụ sản

phẩm cho cơ quan cấp trên, cơ quan quản lý chức năng và chiu trách nhiệm trước

Bộ quản lý chuyên ngành về tình hình giá cả các mặt hàng do mình phụ trách. Bộ

quản lý chuyên ngành phải chịu trách nhiệm trước chính phủ về việc tăng giá đột

biến với những mặt hàng thuộc phạm vi mình quản lý.

 

3.3 Lạm phát và vấn đề xử lý lạm phát của một số nước trên thế giới, học tập và áp dụng vào Việt Nam

 

·        MỸ:

Gần 30 năm nay, tình hình lạm phát ở Mỹ có thể khái quát:trước thập

kỷ 60 mức lạm phát bình quân 5 năm là 1, 3% năm, từ năm 60 trở đi lạm

phát bình quân lạm phát năm năm liền là 4, 7%. Đến thập kỷ đã vọt lên 7,

5%kéo dài đến đầu thập kỷ 80, 10 năm trở lại đây đã giảm xuống còn 4, 7%

một năm. Đến thập kỷ 70, lạm phát Mỹ đã đạt đỉnh cao nhất và nguyên nhân

chủ yếu là do Chính Phủ coi nhẹ những điểm nóng kinh tế, thiếu chú ý xử lý

lạm phát. Đầu những năm 80, nước mỹ đứng trước tình hình chưa từng thấy

về suy thoái kinh tế và lạm phát. Để ngăn chặn lạm phát phi mã đó, Mỹ đã

thực hiện một chính sách về lãi suất và tiền tệ để giảm dần lạm phát.

·        NHẬT:

50 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong quá trình khôi phục và

phát triển kinh tế. Lạm phát ở Nhật Bản xảy ra vào những năm 50- 51 do ảnh

hưởng của chiến tranh Triều Tiên và năm 1973-1974 do cuộc chiến tranh

vùng vịnh. Để ngăn chặn lạm phát, và đưa nền kinh tế thoát khỏi cảnh khó

khăn. Chính phủ Nhật đã áp dụng nhiều biện pháp để đối phó. Tháng 12 năm

1984 Chính Phủ đã nêu 9 nguyên tắc nhằm ổn định kinh tế. Đối phó với đợt

lạm phát 1970, Nhật đã áp dụng chính sách giảm chi tài chính và tăng xuất

khẩu nhằm ổn định vật giá. Từ tháng 4-12 năm 1973 đã năm lần nâng lãi

suất, đồng thời quản lý vật giá một cách hữu hiệu. Nhờ những giải pháp

đúng đắn Nhật Bản không những chặn đứng được lạm phát mà còn tăng thực

lực cuả nền kinh tế.

·        Tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát của “ Bốn con rồng” Châu Á:

Tăng trưởng kinh tế nhanh thì tỷ lệ lạm phát tương đối thông thường

cũng sẽ cao và ngược lại. nhưng trong thực tế, ở một số nước tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao mà vẫn có thể duy trì mức lạm phát thích hợp hoặc tương

đối thấp. Đó là trường hợp của bốn con rồng Châu Á. Trong suốt 31 năm qua,

Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapore có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

nhưng tỷ lệ lạm phát vẫn giữ ở mức thấp hoặc tương đối thấp. Vậy “bốn con

rồng” đó đã dựa vào yếu tố gì mà đồng thời thực hiện được sự tăng trưởng kinh

tế cao mà vẫn đảm bảo mức lạm phát tương đối thấp ?

Trong thời kỳ đầu “ Bốn con rồng” đều thực hiện chính sách kinh tế thị

trường tự do hay mở cửa, nhưng kinh tế hàng hoá không phát triển, sản xuất

lạc hậu. Khi đó lại bị các nước cạnh tranh mạnh mẽ và lũng đoạn nặng nề,

cho nên các nước này đều ý thức được rằng không thể buông lỏng tự do cho

cơ chế thhi trường. Ho buộc phải áp dụng biện pháp: “ Chính Phủ can thiệp

mạnh”bằng cách thực hiện một chính sách phát triển kinh tế có lý trí và trình

tự. Chế độ quan chức liêm khiết có hiệu quả, không ngừng hoàn thiện chế độ

luật pháp nhà nước và hệ thống chấp hành luật pháp nghiêm ngặt. Tất cả

những điều kiện đó tạo thành cơ sở bảo đảm cho bước phát triển kinh tế

thuận lợi và nó còn giúp cho Chính Phủ thực hiện những biện pháp can thiệp

của mình vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện môi trường

xã hội và kinh tế có trật tự thì các mặt công tác của Chính phủ được quán

triệt và chấp hành tương đối nghiêm chỉnh, từ đó giúp Chính phủ thức hiện

được các mục tiêu dự định: phát triển kinh tế cao lạm phát giảm thấp.

Vậy Chính phủ các quốc gia đã làm gì để can thiệp một cách khoa học

và có hiệu quả. Có thể nêu 6 biện pháp mà các chính phủ đã thực hiện chủ

yếu sau:

3.3.1. Lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn; nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế để kịp thời điều chỉnh co phù hợp:

 

- Chiến lược phát triển kinh tế có quan hệ mật thiết với lạm phát.

- Trong điều kiện thực hiện chiến lược kinh tế theo mô hình hướng nội

thì quan hệ cung cầu chủ yếu là sự quyết định ở sự gia tăng những nhu cầu

và khả năng cung cấp nội bộ, sức mua có hạn không dễ gì gây lên lạm phát

được. Sự phát triển khép kín cách ly tương đối với thế giới bên ngoài đã

tránh được sự xung đột giá cả hàng hoá với giá cả thị trường quốc tế, đồng

thời cũng khó gây ra lạm phát. giá cả trong nước tự điều chỉnh. Bước sang

thập kỷ 60, khi hoàn cảnh quốc tế đa có nhiều thay đổi có lợi cho nền kinh tế

hướng ngoại, họ đã nhanh chóng nắm bắt thời cơ thuận lợi và kịp thời điều

chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đối

ngoại. Nhưng dù thực hiện chiến lược nào thì “bốn con rồng” vẫn kiên trì

nguyên tắc giữ vững ổn định để phát triển, phát triển trong ổn định, coi ổn

định là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế. Để đề phòng lạm phát

cao, sẽ mang lại những tổn thất cho quốc gia và khu vực. Họ rất thận trọng

và dè dặt, trong bất kỳ chính sách quan trọng nào đều thương lượng cẩn thận

với các nhà kinh tế, các chủ công ty lớn, các nhà chiến lược rồi mới đi đến

quyết định, trong quá trình thực hiện luôn ý thức điều chỉnh cho phù hợp với

tình hình thế giới mới.

3.3.2 Nghiêm khắc khống chế giá cả và bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người người tiêu dùng:

 

- Giá cả hàng hoá là một yếu tố có liên quan tới nhiều vấn đề kinh tế và

xã hội khác. Bất kỳ giá cả của một hàng hoá nào lên xuống đều ảnh hưởng

đến giá cả của hàng hoá khác. “ Bốn coa rồng” thực hiện một nền kinh tế

hàng hoá tự do tư bản chủ nghĩa, giá cả cơ bản tự do hình thành. Nhưng như

vậy không phải tự do tuỳ ý lộn xộn, Chính phủ đã dùng nhiều công cụ trong

tay cả hữu hình lẫn vô hình để phát huy tác dụng quan trọng trong việc hình

thành giá cả làm cho sự hình thành về giá cơ bản về cơ bản là do ba đối tác

tạo nên. Đó là giá cả của Chính phủ can thiệp, giá do các tổ chức đồng

nghiệp hiệp thương tạo nên và giá do các xí nghiệp quy định. Phạm vi can

thiệp của Chính phủ bao gồm giá của sự nghiệp công cộng, giá lương thực,

giá của những hàng hoá đặc biệt. Những biến động giá của những hàng hoá

này là tuỳ thuộc vào những biến động của tình trạng cung cầu và của những

người có mức thu nhập bình quân cao do Nhà nước qui định. mục đích chủ

yếu của nó là bảo đảm những nhu cầu tiêu hao cơ bản của nhân dân và an

toàn xã hội.

3.3.3 Bảo đảm cân bằng thu chi tài chính, sử dụng biện pháp tài chính

ngân hàng để khống chế lạm phát:

 

- Về mặt này, cách làm của bốn con rồng rất khác nhau. Hàn quốc, đầu

thập kỷ 60 đã lấy phương thức bội chi tài chính để duy trì tốc độ tăng trưởng

kinh tế cao. Do hoàn cảnh trong nước thiếu vốn, qui mô đầu tư xây dựng lại

lớn, và tư tưởng chỉ đạo của họ đặt xuất khẩu lên hàng đầu, để bù lỗ và giữ

lợi nhuận thấp cho các xí nghiệp xuất khẩu dẫn đến kết quả, cùng với sản

xuất và tốc độ xuất khẩu tăng nhanh, lạm phát cũng ngày càng thêm nghiêm

trọng, tỷ lệ lạm phát lên tới 30% một năm. Cuối cùng buộc Chính phủ phải

can thiệp bằng hành chính, dùng biện pháp “đông kết”giá để khống chế lạm

phát. Tình hình tương tự cũng xảy ra ở Đài loan. Trong thời gian đó Hồng

Kông và Singapore thu chi tài chính tương đối ổn định. Singapore thức thi

một chính sách tích trữ vàng để tạo điều kiện tốt cho thu chi tài chính được

thăng bằng. Chính phủ qui định, tất cả các xí nghiệp hàng tháng đều phải

trích một tỷ lệ lương nhất định nộp cho trưng ương làm quĩ tiết kiệm cho cá

nhân. Một phần quĩ này được trích ra đưa vào quĩ dưỡng lão, mua nhà ở, y tế

giáo dục... Nhờ làm như vậy đã giảm nhẹ gánh nặng chi phí phúc lợi cho

Chính phủ, mặt khác lại điều tiết được tốc độ tăng trưởng về nhu cầu tiêu

dùng cá nhân. Hiệu quả đầu tư cao khiến nhà nước tăng thu nhập tài chính.

Tại Singapore vòng tuần hoàn kín tích luỹ cao-đầu tư cao-hiệu quả cao-tăng

trưởng cao-thu nhập cao. Tích luỹ cao là nhân tố quyết định bảo đảm cho

thời gian kéo dài tăng trưởng kinh tế cao mà lạm phát lại giảm. Ngoài việc

phát hành và quản lý tiền tệ ở Hồng kông và Singapore cũng rất đặc sắc. việc

phát hành và quản lý tiền ở Singapore do cục tiền tệ độc quyền phụ trách.

Khi kinh tế tăng trưởng, nhu cầu tiền tệ lớn lên, thì cục tiền tệ căn cứ vào dự

trữ ngoại tệ để quyết định khối lượng phát hành tiền trong nước. Còn sự phát

hành tiền ở Hồng kông thì chịu sự chi phối của quỹ ngoại hối. Chính phủ

phát hành một số tiền rất hạn chế và Chính phủ không qui định số lượng cụ

thể cho họ. Khong bất kỳ một ngân hàng nào được phép phát hành tiền. Kiểu

tổ chức này ngăn được việc phát hành lượng tiền vượt quá mức cho phép

mỗi khi nhu cầu xã hôị tăng lên, đồng thời khống chế hiện tượng bội chi tài chính ở ngay trong cơ quan tài chính.

3.3.4 Tăng cường quản lý ngoại hối, khống chế lạm phát:

 

- “ Bốn con rồng” là những quốc gia và khu vực hướng ngoại cao độ và

mậu dịch lớn của thế giới, cho nên việc điều chỉnh giá hối đoái có ảnh hưởng

trực tiếp tới lạm phát. Trước thập kỷ 60 họ dựa vào xuất khẩu để thúc đẩy

phát triển kinh tế. Để mở rộng xuất khẩu, trước tiên họ đã tự đánh tụt tỷ giá

đồng tiền của mình; khi thực lực nền kinh tế mạnh lên, nhu cầu nguồn

nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, linh kiện bên ngoài tăng mạnh thì họ lại

điều chỉnh tỷ giá hối đoái làm cho giá trị đồng tiền trong nước tăng lên có lợi

cho nhập khẩu. Đương nhiên việc gì cũng có hai mặt của nó, giá trị đồng tiền

trong nước quá cao hoặc quá thấp đều bất lợi cho nền kinh tế. Do đó cơ quan

quản lý ngoại hối làm sao để nắm được “độ” thích hợp là vấn đề quyết định.

3.3.5. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài:

 

- Trong sự lưu chuyển trên phạm vi thế giới, tư bản sẽ thúc đẩy quá  trình nhất thể hoá nền kinh tế toàn cầu. nguồn tư bản lưu chuyển chủ yếu ở các nước tư bản phát triển, mục đích là tìm lợi nhuận cao ở chính quốc và đẩy mạnh suất khẩu hàng hoá. Người tiếp thu nguồn tư bản chủ yếu là các nước đang phát triển. Nguồn vốn chảy vào nhiều sẽ tạo nên và thúc đẩy lạm phát của các nước đang phát triển, đã nhiều nước thấm thía bài học cay đắng này. Trước kinh nghiệm đó “Bốn con rồng” đã dựa vào nhu cầu của các giai đoạn phát triển khác nhau để định rõ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài.

3.3.6. Qui định những hành vi của xí nghiệp và thương nhân phối hợp chặt chẽ với chính phủ:

 

- Trong nhiều trương hợp, lạm phát liên quan mật thiết với những hoạt

động lộn xộn bất thường của các xí nghiệp và thương nhân. Mỗi khi xuất

hiện lạm phát Chính phủ tìm cách khống chế nhưng đều không mang lại kết

quả mong muốn. Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự bất hợp tác

của các xí nghiệp và thương nhân. Chính phủ của bốn nước đã sử dụng cơ chế

thưởng phạt để qui định hành vi của xí nghiệp và thương nhân làm cho xí

nghiệp và thương nhân phối hợp chặt chẽ với Chính phủ bảo đảm cho các chính

sách của Chính phủ được quán triệt và thực hiện thuận lợi.

                                          KẾT LUẬN

 

 

 

 

 

Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ,

phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể

là tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí . Vì vậy cần chú trọng sự

cân đối, mối quan hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo

sự phát triển bền vững của Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.

Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định

về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh

tỉ lệ lạm phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát

trong một số thời gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra

những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ

góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.

                   DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Giáo trình “ Lý thuyết tài chính - tiền tệ” PGS.TS Nguyễn Hữu Tài. ĐH Kinh Tế Quốc Dân.

2 Giáo trình “ Kinh tế vĩ mô” ĐH KTQD

3 Giáo trình “ Kinh tế Việt Nam” GS.TS Nguyễn Văn Thường. ĐH Kinh tế quốc dân.

4 website “ xaluan.com”

5 website “ vietstock.vn”

6 “ Nhìn lai lý thuyết truyền thống về lạm phát và phân tích trường hợp Việt Nam”. Trương Quang Hùng & Nguyễn Hoài Bảo 09/09/2004.

7  Lý thuyết lạm phát, giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam.

Tập thể tác giả:PTS:Nguyễn Minh Phong,TS:Võ Đại Lược,TS:Nguyễn Thị Hiền, Và một số tác giả khác.

8 Số liệu thống kê của ADB và Tổng cục thống kê.

HÀ NỘI 12-2009

Sinh viên thực hiện   : Lê Thu Hằng.

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương.

Continue Reading