Thu coi triet hoc

Da conloncocanh

42 1 0

Altro

Triet hoc

42 1 0
Da conloncocanh

THẾ GIỚI QUAN – HÌNH THỨC THẾ GIỚI QUAN

1. Khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng thế giới quan DVBC là thế giới quan mà cơ sở của nó là duy vật và cách tiếp cận là biện chứng 

Là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình. Nó là khoa học về các quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy luật hệ thống. 

2. Hình thức thế giới quan duy vật biện chứng (Nội dung) 

Nội dung = Hình thức? Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy luật không cơ bản (cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực) . 

3. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng 

Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiễn cách mạng của nó. 

- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn 

Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Ở đây mối quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Bằng việc đưa quan điểm thực tiễn vào hoạt động nhận thức, đặc biệt việc thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thoả đáng các vấn đề cơ bản của triết học. 

- Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng 

Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản bị tách rời nhau. Chủ nghĩa duy vật tuy có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng nhìn chung phương pháp siêu hình giữ vai trò giữ vai trò thống trị đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII.  

Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến đỉnh cao ở chủ nghĩa duy tâm với quan niệm về sự phát triển của "ý niệm tuyệt đối" trong triết học cổ điển Đức. Việc tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác không hiểu về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất.

Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C. Mac và Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng. 

- Quan niệm duy vật triệt để (duy vật cả về mặt xã hội)

Chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ. 

- Tính thực tiễn - cách mạng 

Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết thể hiện ở: 

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản 

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới. 

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới. 

4. Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng 

Nguyên tắc luận được rút ra để định hướng cho hoạt động của con người là: Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức, con người phải tôn trọng khách quan đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình. 

4.1. Tôn trọng khách quan: Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Điều này đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện cho hành động của mình. 

- Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan:  

+ Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể.  

+ Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng là: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan". 

- Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được lực lượng vật chất để thực hiện nó. 

4.2. Phát huy tính năng động chủ quan: Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò của nhân tố con người trong việc vật chất hoá những tính chất ấy.  

- Một số biểu hiện cơ bản của nó là: 

Phải tôn trọng tri thức khoa học, phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng hành động. 

Như vậy, tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa là những ý nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn. 

5. Vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay 

- Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên đã phạm một số sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. 

- Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chúng ta xác định: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành kinh tế và của toàn xã hội" cũng chính là tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh phức tạp của thế giới hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta khẳng định "giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu". Việc đầu tư có trọng điểm trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, việc chủ trương xã hội hoá giáo dục để "cả nước trở thành một xã hội học tập"

HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

1.1. Khái niệm mối liên hệ

Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Để trả lời những câu hỏi đó ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau:

            * Trả lời câu hỏi thứ nhất:

            - Quan điểm siêu hình:

Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự giàng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.

            Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Nhưng cuối cùng họ lại phủ nhận khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ.

            - Quan điểm duy vật biện chứng:

            Những người theo quan điểm duy vật biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.

            * Trả lời câu hỏi thứ hai:

            - Chủ nghĩa duy tâm:

            Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan cho rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người. Chẳng hạn, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là cảm giác; Hêghen thì tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng ở ý niệm tuyệt đối.

            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng:

            Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính chất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.

Chính trên cơ sở đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng:

- Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.

- Liên hệ phổ là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới dù phong phú, đa dạng nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác, đều chịu sự tác động, sự quy định của các sự vật, hiện tượng khác.

1.2. Các tính chất của mối liên hệ

            Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

            - Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.

            - Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.

            - Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, ... Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

            Việc phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Tuy nhiên, sự phân biệt đó lại rất cần thiết, bởi mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

            - Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

            + Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải nhận thức sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các mặt, giữa các yếu tố của chính sự vật đó và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng đắn về sự vật.

            + Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.

            + Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của chúng mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

            Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.

            - Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể.

            Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.

            Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy, để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.

2. Nguyên lý về sự phát triển

2.1. Khái niệm phát triển

            * Quan điểm siêu hình về sự phát triển

            - Sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới.

            - Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.

            * Quan điểm duy tâm về sự phát triển

            Những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen lý giải sự phát triển của tự nhiên và xã hội là do ý niệm tuyệt đối quy định. Những người theo quan điểm duy tâm và tôn giáo tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, thượng đế ... nói chung là cũng ở các lực lượng siêu tự nhiên, phi vật chất.

            * Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển

            - Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.

            - Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.

            - Đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển, quan điểm biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật.

            Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: “phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”.

2.2. Tính chất của sự phát triển

            - Tính khách quan: sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là một quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.

            - Tính phổ biến: sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.

            - Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.

            Ví dụ: nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại ngày nay, thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước.

2.3. Ý nghĩa phương pháp luận

             Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.

            - Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

            - Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

            - Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.

            - Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

QUY LUẬT MÂU THUẪN

2.1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

            Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh vật có đồng hóa dị hóa, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, ... Những mặt trái ngược nhau đó phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.

            Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.

            Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

            Các mặt đối lập tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật. Chúng vừa thống nhất lại vừa đấu tranh với nhau.

            Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.

            Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.

2.2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển

            Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển của sự vật.

            Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển.

            Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập.

            Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.

            Lê nin viết: “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là không thể tách rời hau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

1.3. Phân loại mâu thuẫn

            * Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét:

            - Mâu thuẫn bên trong: là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.

            - Mâu thuẫn bên ngoài: là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa vật đó với vật khác.

             Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ mang tính tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên trong, xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên ngoài. Do đó, để xác định một mâu thuẫn là mâu thuẫn bên trong hay bên ngoài phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.

            Ví dụ: trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn bên trong, còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với cá nước khác trong khu vự ASEAN là mâu thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong.

            Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại với nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.

            * Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật:

            - Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về bản chất.

            - Mâu thuẫn không cơ bản: là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nẩy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.

            * Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định:

            - Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối cá mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.

            - Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. giải quyết mâu thuẫn thứ yếu góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.

            * Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích:

            - Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ: mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô sản với tư sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.

            - Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Ví dụ: mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn ...

            Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. giải quyết mâu thuẫn đối kháng bằng phương pháp đối kháng, giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.

1.4. Ý nghĩa phương pháp luận

            - Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.

            - Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của những mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.

            - Để thúc đẩy sự phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp khác nhau. Tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.

QUY LUẬT LƯỢNG & CHẤT

1.1. Khái niệm chất và khái niệm lượng

            * Khái niệm chất

            Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.

            Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật, ... Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên, những thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng chỉ được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ: chất của một người chỉ được bộc lộ thông qua quan hệ giữa người đó với những người khác, với môi trường xung quanh, thông qua lời nói và việc làm của họ. Như vậy, muốn nhận thức đúng đắn về những thuộc tính của sự vật, chúng ta phải thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc với các sự vật khác.

            - Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Không thể tồn tại sự vật không có chất và không có chất nằm ngoài sự vật.

            - Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.

            Sự phân chia thuộc tính thành cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này, thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, trong mối liên hệ khác thuộc tính khác lại là thuộc tính cơ bản.

            - Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.

            Ví dụ: kim cương và than chì đều được tạo nên bởi nguyên tố các bon, nhưng do phương thức liên kết giữa các phân tử các bon khác nhau nên chất của chúng khác nhau. Kim cương cứng, than chì mềm.

            * Khái niệm lượng

            Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.

            Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm, ... Trong thực tế, lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây, một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydro liên kết với một nguyên tử oxi. Bên cạnh đó, có những sự vật mà lượng của nó chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân, ... Trong trường hợp này chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa.

            Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội), có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).

            Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Ví dụ: số lượng sinh viên giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó.

1.2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất

            * Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất

Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại, nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.

            Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, lượng và chất luôn luôn biến đổi. Sự biến đổi đó không tách rời nhau mà chúng có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ, sự thay đổi về lượng có ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất và ngược lại sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng.

            Tuy nhiên, sự thay đổi về lượng trong một giới hạn nhất định chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Khi sự thay đổi về lượng vượt quá giới hạn nhất định thì chất cũ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khung giới hạn đó gọi là độ.

            Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.

            Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật. Trong độ, sự vật vẫn là nó chứ chưa biến đổi thành cái khác. Ví dụ: ở điều kiện áp suất bình thường, trong giới hạn từ 00C đến 1000C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng, nếu nhiệt độ của nước đó giảm xuống 00C thì nước từ thể lỏng chuyển sang thể rắn, nếu nhiệt độ của nước đó tăng từ 1000C trở lên thì nước đó chuyển dần sang thể hơi.

            Điểm giới hạn như 00C và 1000C ở ví dụ trên gọi là điểm nút.

            Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật.

            Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.

            Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.

            Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.

            Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.

            * Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng

            Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động đó thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhiệp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.

            Ví dụ: khi nước từ trạng lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hòa tan một số chất tan của nó cũng khác đi, ...

            * Các hình thức bước nhảy

            Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết định bởi bản thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.

            - Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia bước nhảy thành:

            + Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.

            Ví dụ: Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam diễn ra trong thời gian ngắn từ 10 đến 15 ngày, làm thay đổi tất cả các mặt trong đời sống xã hội. Khối lượng Uranium 235 (Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn sẽ xảy ra một vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.

            + Bước nhảy dần dần: là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.

            Ví dụ: quá trình chuyển hóa từ vượn thành người diễn ra rất lâu dài, hàng vạn năm. Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài, qua nhiều bước nhảy dần dần.

            Cần phân biệt bước nhảy dần dẫn với sự thay đổi dần dần về lượng của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa dần dần từ chất này sang chất khác, còn sự thay đổi dần dần về lượng là sự tích lũy liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hóa về chất.

            - Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy có thể phân chia thành:

            + Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.

            Ví dụ: sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến sang hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

            + Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.

            Ví dụ: Những cuộc cách mạng về y tế, văn hóa giáo dục, ... trong xã hội Việt Nam trong một giai đoạn phát triển nhất định là bước nhảy cục bộ.

            Trong hiện thực, muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ.

            Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân chia sự thay đổi đó thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính chất tiến hóa.

            Cách mạng là sự thay đổi trong đó chất của sự vật biến đổi căn bản, không phụ thuộc vào hình thức biến đổi của nó. Tiến hóa là sự thay đổi về lượng với những biến đổi nhất định về chất không cơ bản của sự vật.

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

            - Sự vận động và phát triển của các sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển hóa về chất. Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Điều này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan duy ý chí, nôn nóng “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.

            - Khi đã tích lũy đủ về lượng phải có quyết tâm để tiến hành các bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng “hữu khuynh”, bảo thủ trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất khi đã tích lũy đủ về lượng.

            - Trong hoạt động, con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy.

            - Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.

            - Trong thực tiễn, muốn duy trì sự vật ở trạng thái nào đó phải nắm được giới hạn độ, không để cho lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ.

QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH

Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.

Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Trong lịch sử triết học, tuỳ theo thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và các trường phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định. Có quan niệm cho rằng, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu như lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ. Pitago cho rằng sự phát triển của xã hội phải trải qua chu kỳ là 78 vạn năm. Còn triết học Phật giáo lại quan niệm kiếp người tuân theo vòng luân hồi: “ Cát bụi lại trở về với cát bụi”. Những người theo quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một lực lượng siêu nhiên nào đó .

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng .

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản sau: Tính khách quan và tính kế thừa

Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người  con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật. Chẳng hạn trong lịch sử triết học, sự phát triển của phép biện chứng là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát thời cổ đại qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện chứng duy vật. Sự phát triển của các học thuyết khoa học là kết quả của những sự phủ định liên tục những chi thức về sự vật, hiện tượng hay quá trình của thế giới.

Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo nhữnh mặt còn thích hợp, những mặt tích cực bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thức

Điều đó nói nên rằng, phủ định biện chứng mang tính kế thừa. Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Ví dụ, Trong sinh vật các giống loài đều có tính di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, xã hội mới ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trước, đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới. Trong lĩnh vực nhận thức các học thuyết khoa học ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những giá trị tư tưởng của các học thuyết khoa học ra đời trước.v.v.

Những điều phân tích trên cho thấy, phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định và sự phủ định, quá khứ với hiện thực, phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.

2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định

Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển.

Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối  lập trong bản thân sự vật- giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái đựợc sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy, sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.

Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những làn phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung hoàn thiện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.

Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật- xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy ốc”.

Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy ốc”.

Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ định của phủ định chúng ta không được hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định phủ định mới hoàn thành một chu kỳ nhất định của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật trải qua ba, bốn, năm lần phủ định … mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào từng sự vật cụ thể. Chẳng hạn: Vòng đời của con tằm: trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng. Ở đây vòng đời của tằm trải qua bốn lần phủ định.

Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau

Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ xung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường “xoáy ốc”.

3. Ý nghĩa phương pháp luận

Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận sau đây:

Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của con người đều diễn ra theo chiều hướng đó. Xã hội loài người phát triển từ công xã nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản sẽ đến xã hội phủ định xã hội tư bản - chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội tư bản đã đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó, đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lại.

Ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng. Do đó, chúng ta phải tìm hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho sự phát triển nhanh hoặc phát triển chậm. Điều này phụ thuộc vào tác dụng của sự vật đối với đời sống của con người. Chẳng hạn, nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy nhanh sự phát triển của nó, còn nếu nó có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó.

Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở phát triển kế thừa tất cả những nhân tố  tích cực của cái cũ, do đó, nó luôn luôn biểu hiện là giai đoạn phát triển cao của sự vật vận dụng vào xem xét sự vật, điều này tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.

Trong giới tự nhiên cái mới xuất hiện một cách tự phát, còn trong xã hội cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế, trong hoạt động của mình chúng ta phải biết phát hiện cái mới, tích cực và ủng hộ nó. Khi mới ra đời cái mới luôn còn yếu ớt, ít ỏi, vì vậy, chúng ta phải ra sức bồi dưỡng, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó. Trong khi đấu tranh chống lại cái cũ chúng ta phải biết  “lọc thô, lấy tinh”, cải tạo cái cũ để nó phù hợp với điều kiện mới, phải biết chân trọng những giá trị của quá khứ. Đồng thời, chúng ta phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của con người và xã hội. Chẳng hạn, hiện tại có những người muốn khôi phục lại tục lệ cũ trong việc cưới, việc tang, lễ hội,…

Theo quan điểm biện chứng về sự phát triển, trong quá trình phủ định, chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử dụng chúng như là tiền đề của sự nảy sinh cái mới tiến bộ hơn, biết giữ hình thức và cải tạo nội dung cho phù hợp như ông cha ta đã nói: “bình cũ rượu mới”. Hơn nữa chúng ta phải biết lựa chọn để tiếp thu cái mới cho phù hợp chống cả tư tưởng “cũ người mới ta” trong đời sống xã hội và cuộc sống của con người.

Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật mà chúng ta nghiên cứu trên dây, đề cập đến những phương diện khác nhau của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự tác động tổng hợp của tất cả những quy luật cơ bản do phép biện chứng duy vật trừu tượng hoá và khái quát hoá. Do đó trong hoạt động của mình, cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn, chúng ta phải vận dụng tổng hợp những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy, hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập mới đạt được chất lượng và hiệu quả cao.

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

I. KHÁI NIỆM:

1. Thực tiễn

- Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội.

- Đặc trưng của thực tiễn:

            + Thực tiễn là hoạt động vật chất chứ không phải hoạt động tinh thần. Đó là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích của mình.

            + Là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người.

            + Nó mang tính lịch sử - xã hội, bởi nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử.

            + Thực tiễn có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

- Các hình thức của hoạt động thực tiễn:

            + Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.

            + Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.

            + Thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội, nhằm xác định cá quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò quan trọng trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ       

- Mối quan hệ giữa các hình thức của hoạt động thực tiễn:

            Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Thể hiện:

            + Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cở bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người.

            + Các hình thức khác không hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất mà chúng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển. Nếu hoạt động chính trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển. Nếu hoạt động chính trị xã hội lạc hậu, phản cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm mà sai lầm, không khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất.

2. Lý luận

- Lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới.

- Phân biệt tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.

+ Tri thức kinh nghiệm chủ yếu thu được từ sự quan sát trong cuộc sống và thực tiễn.

+ Tri thức lý luận là sự khái quát từ những tri thức kinh nghiệm.

- Khái niệm lý luận trong triết học được hiểu theo nghĩa rộng.

        Tất cả những tri thức nào phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng đều là tri thức lý luận.

II. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC

1. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận

(1). Thực tiễn là cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất của nhận thức, lý luận

+ Bằng thực tiễn con người tác động vào thế giới bắt sự vật phải bộc lộ những thuộc tính của mình từ đó cung cấp những thông tin cho nhận thức

+ Thông qua thực tiễn con người đúc rút, tích lũy được kinh nghiệm và lý luận, khoa học chính là sự khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn đó.

(2). Thực tiễn là động lực chủ yếu của nhận thức, lý luận

+ Thực tiễn luôn luôn mới, luôn làm nẩy sinh những vấn đề mới, làm nẩy sinh những “tình huống có vấn đề” buộc, lý luận, khoa học phải lý giải và định hướng cho thực tiễn

+ Chế tạo ra những công cụ hỗ trợ cho tư duy  

(3). Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Hay nói cách khác thực tiễn định hướng cho sự phát triển nhận thức, lý luận.

+ Thế giới vô cùng vô tận, do đó nhận thức cũng vô cùng, vô tận, mà nhận thức của một chủ thể lại có giới han.

+ Nhận thức phải theo yêu cầu của thực tiễn thì mới có tác động thiết thực (giáo dục,đào tạo; nghiên cứu khoa học).

(4).Thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá, nhận thức, chân lý

+ Các quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn của chân lý

+ Mác: lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn – lí do:

* Thực tiễn là hoạt động vật chất, nên mang tính khách quan

* Thực tiễn là mục đích của nhận thức

* Thông qua thực tiễn con người có thể so sánh, đối chiếu, khảo nghiệm nhận thức của mình trong thế giới khách quan

2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn

(1) Lý luận hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, giúp cho thực tiễn hoạt động đúng hướng, có hiệu quả tránh được những hoạt động mò mẫm tự phát (thực tiễn mù quáng).

(2) Lý luận góp phần giáo dục, động viên, cổ vũ tổ chức quần chúng. Lý luận biến thành niềm tin và hành động của quần chúng sẽ là một lực lượng vật chất to lớn.

(3) Vai trò của lý luận trong thời đại khoa học công nghệ, thời đại văn minh trí tuệ (quyết định sự thành bại)

    III. QUAN ĐIỂM THỰC TIỄN

1.Những yêu cầu

(1). Lý luận phải trên cơ sở thực tiễn.

+ Không chỉ dựa vào kiến thức sách vở rồi suy luận một cách tư biện chủ quan

+ Dựa trên thực tiễn, coi thực tiễn như công cụ, phương tiện nhận thức ( tác động vào sự vật bắt sự vật bộc lộ những thuộc tính của mình cung cấp thông tin cho nhận thức, tích lũy kinh nghiệm, kiểm nghiệm nhận thức – thực tiễn đổi mới)

(2). Nhận thức phải theo yêu cầu của thực tiễn

+ Thực tiễn của thế giới đương đại

+ Nhu cầu của thực tiễn của từng chủ thể hoạt động (đào tạo, nghiên cứu …)

(3). Bám sát sự vận động và phát triển của thực tiễn để sửa đổi, bổ sung, phát triển lý luận

- Nhận thức là một quá trình và thực tiễn cũng không bất biến, luôn vận động, biến đổi không ngừng theo tiến trình phát triển của nhân loại

- Thực tiễn mách bảo: Nhận thức đúng hay sai? nhận thức có phù hợp hay không? Có còn phù hợp hay không?

- Tăng cường công tác tổ chức và tổng kết thực tiễn

    * Tổ chức thực hiện

    * Tổng kết thực tiễn sửa đổi, bổ sung và phát triển nhận thức, lý luận

(4). Tôn trọng thực tiễn, tôn trọng tiếng nói từ thực tiễn

- Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn trước hết phải xem xét lại lý luận

- Nhận thức có đúng có sai, tôn trọng thực tiễn sai lầm sẽ không kéo dài.

2. Ý nghĩa trong việc khắc phục bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm

(1). Bệnh giáo điều

- Là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn.

- Biểu hiện:

* Học, nghiên cứu lý luận dừng lại ở câu chữ (tầm chương, trích cú) không tiêu hóa được kiến thức sách vở, không nắm được thực chất khoa học của lý luận.

* Coi lý luận như là một cái gì đã xong xuôi không cần phải bổ sung, phát triển (tôn giáo hóa khoa học).

* Vận dụng lý luận và kinh nghiệm đã có rập khuôn máy móc không tính đến điều kiện lịch sử - cụ thể, không tính đến trình độ của thực tiễn.

(2). Bệnh kinh nghiệm

- Là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, coi thường lý luận, ít hiểu biết về lý luận.

- Biểu hiện.

+ Thỏa mãn với vốn liếng kinh nghiệm, chỉ đạo thực tiễn bằng kinh nghiệm, ngộ nhận kinh nghiệm là lý luận, là quy luật.

+ Tiếp xúc với với lý luận ở trình độ tư duy kinh nghiệm từ đó tầm thường hóa, thô tục hóa lý luận, biến lý luận thành công thức, đơn thuốc cứng nhắc dẫn đến xuyên tạc lý luận

+ Coi thường lý luận, không chịu khó vận dụng lý luận vào thực tiễn, cuộc sống

    * Không tin vào lý luận

    * Tâm lý ngại vận dụng lý luận

(3). Nguyên nhân và cách khắc phục 2 căn bệnh

- Không quán triệt đầy đủ nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

- Do trình độ lý luận thấp kém, bất cập.

- Cách khắc phục:

    * Có cơ chế kết hợp hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn một cách nhuần nguyễn (cán bộ nghiên cứu lý luận và cán bộ lãnh đạo chỉ đạo thực tiễn)

    * Phát triển lý luận trên cơ sở bám sát thực tiễn, tăng cường tổng kết thực tiễn.

    * Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trên cơ sở đổi mới nội dung, chương trình, hình thức truyền bá, giáo dục.

QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

            * Phương thức sản xuất:

            Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.

            Trong sản xuất, con người có mối quan hệ song trùng, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, biểu hiện ở lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Do vậy, phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

            * Lực lượng sản xuất:

            Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.

            Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.

            - Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh  và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.

            - Công cụ lao động là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa, nó nhân sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động được cải tiến và phát triển trong quá trình lao động. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.

            Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng có vai trò to lớn trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.

            * Quan hệ sản xuất:

            Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

            Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

            - Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.

            + Sở hữu tư nhân: là loại sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung trong tay một số ít người, còn lại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, quan hệ bóc lột và bị bóc lột.

            + Sở hữu công cộng: là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trong đời sống xã hội là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.

            - Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất.

            - Quan hệ phân phối sản phẩm lao động mặc dù do hai quan hệ trên chi phối song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, do đó nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.

1.2. Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

            Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã  hội.

            Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

            Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.

            Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.

            * Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó:

            - Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, ở giai đoạn đầu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất với tất cả các mặt của nó tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển.

            - Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành vật cản, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Sự thay thế đó có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. Nhưng rồi quan hệ sản xuất mới sẽ lại trở nên không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển hơn nữa; sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra.

            * Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:

            - Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, ... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.

            - Sự tác động của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng:

+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nó sẽ thúc đẩy, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.

+ Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất do nó quá lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, bởi vì theo tính tất yếu chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

            * Vận dụng quy luật: 

Ở Việt Nam, sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) chúng ta đã tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Vào buổi đầu, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng ta đã xây dựng CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện chiến tranh, mô hình đó đã đóng vai trò tích cực nhưng trong điều kiện hoà bình, mô hình đó dần dần bộc lộ những hạn chế và dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội. 

Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của ĐCSVN đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên CNXH ở nước ta. ĐCSVN đã định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của LLSX của nước ta trong điều kiện hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước, và gắn phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng. Những thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong 20 năm đổi mới đã chính minh tính đúng đắn của đường lối đó. 

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa LLSX, phát huy nguồn lực toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi ngành kinh tế, phát triển, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XH CN, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế trí thức, định hướng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.  

Với sự phát triển của LLSX, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Xu hướng tất yếu là không dừng ở CNTB mà tiến lên CNCS. Việt Nam đang trong quá trình quá độ lên CNXH, vì thế chúng ta cần hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chính trị và cơ cấu chính trị.

CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

Khái niệm CSHT và KTTT 

* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. 

Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những QHSX thống trị, những QHSX là tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chugn của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT. 

* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. 

KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. 

1. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT: 

- CSHT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX đang tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội tạo thành cơ cấu nền tảng kinh tế của xã hội đó. 

+ 3 khả năng tồn tại của CSHT trong xã hội: 

> CSHT đồng nhất với 1 kiểu QHSX. 

> CSHT đồng nhất với 2 kiểu QHSX. 

> CSHT có số lượng QHSX lớn hơn 2. 

+ Số lượng QHSX lớn hơn 1 đặc trưng cho CSHT của xã hội đó là kiểu QHSX thuộc về phương thức SX chiếm sự thống trị trong xã hội đó. 

- KTTT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và các thiết chế tương ứng phản ánh CSHT của xã hội đó. 

+ 2 bộ phận: 

> Tư tưởng, tinh thần 

> Thiết chế tổ chức 

- Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT: 

+ Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT: 

> CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT. 

> Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT do vậy để giải quyết triệt để mâu thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết mâu thuẫn trong CSHT làm nhân tố quyết định. 

+ KTTT tác động trở lại đối với CSHT: 

> Khi KTTT phù hợp với CSHT sẽ góp phần thúc đẩy CSHT phát triển. 

> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT. 

2. Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay? 

- CSHT nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nên KTTT phải xây dựng, củng cố, đối mới phù hợp. 

- Phát triển kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết phải đa nguyên chính trị tuy nhiên yêu cầu khách quan đặt ra là KTTT nước ta phải đổi mới phát triển theo hướng nâng cao chất lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình.

- Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu "xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả". Trong một số năm gần đây, cải cách hành chính (CCHC) đã được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.  

- Tuy nhiên, tốc độ CCHC còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp. Nền hành chính có chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu cầu cải cách của nền hành chính hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng chung là nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ công chức ngại thực hiện cơ chế một cửa, do ngại bị bó buộc, ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục bộ... Mặt khác, trình độ công chức, cán bộ ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn nhiều bất cập, tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều nơi chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế, tuy là "một cửa" nhưng vẫn còn nhiều "ổ khóa" do không ít cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên người dân chưa hết phiền hà. Trong khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên quyết và nhất quán ở các cấp, các ngành; tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thảo luận các giải pháp đẩy mạnh CCHC giai đoạn 2, từ 2006-2010. 

Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước.

GIAI CẤP –DÂN TỘC.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc nhận loại 

+ Giai cấp: những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.(khác về: đối với tlsx ; vai trò trong tổ chức lao động ; cách hưởng thụ ) 

+ Đấu tranh g/c : là cuộc đấu tranh giữa các g/c có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đỉnh cao của đấu tranh g/c là CM xã hội.  

Đấu tranh g/c nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và không điều hoà được của các g/c có địa vị khác nhau trong hệ thống SX xã hội nhất định. Thông qua đấu tranh g/c mà mâu thuẫn llsx và qhsx được giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển. 

Dân tộc: là khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người trong lịch sử. 

Quan hệ giai cấp - dân tộc:  

- Vai trò g/c đối với dân tộc: 

+ Quan hệ g/c xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng, bản chất xá hội , tính chất quan hệ giữa các dân tộc. 

+ Áp bức g/c là cơ sở , nguyên nhân của áp bức dân tộc. 

+ Nhân tố g/c là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. 

- Vai trò dân tộc đối với g/c: 

+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cmvs. 

+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bứcg/c, nuôi dưỡng áp bức g/c, làm sâu sắc thên áp bức g/c. 

+ Đ tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh g/c. 

+ Dân tộc là cơ sở của g/c, nuôi dưỡng đấu tranh g/c, tạo cơ sở sức mạnh g/c. 

Quan hệ g/c - nhân loại :  

Nhân loại là khái niệm chỉ toàn thể công đồng người sống trên trái đất, không phân biệt dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, g/c. 

+ Các nhà tư tưởng trước Mác họ chư được tính lịch sửcủa khái niệm nhân loại, mà chỉ thấy mặt tự nhiên, mặt sinh vật của tính thống nhất nhân loại. 

+ CNM cho rằng con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là cộng đồng của những thực thể xã hội. 

+ Trong XH có g/c, vấn đề g/c không phải vấn đề riêng của 1 g/c, 1 tầng lớp nào đó, mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu trnh giải phóng g/c, giải phóng dân tộc bị áp bứclà nội dung cơ bản của quá trình giả phóng con người, đưa nhân loại tiến lên. Do vây, không thể tách rời vấn đề g/c với vấn đề nhân loại. 

+ GCCN-sản phẩm của phương thức SX tbcn, đại diện cho llsx tiên tiến, có tính chất xã hội hoá cao-do vậy gccn có bản chất cm và có tính chất quốc tế. Lợi ích của gccn phù hợp với lợi ích nhân loại.  

2. Sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay 

- Nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang đó là ĐCSVN đứng đầu là HCM đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Nét đặc biệt nhất của việc giải quyết mối quan hệ đó là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mối liên hệ này xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, chi phối các mặt khác của cuộc cách mạng. 

- Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên, vấn đế quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở Việt Nam cần đảm bảo những nội dung sau: 

+ Giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc. 

+ Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc 

+ Giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại. 

BẢN CHẤT CON NGƯỜI

1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người: 

Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới quan của CNDVBC, Mác khẳng định: " Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bQuan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con người là: mặt sinh học và mặt xã hội. 

+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển của nó. 

+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của thế giới vật chất. 

+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. 

+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao tiếp trong đời sống xã hội. 

2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người 

- Triết học Mác nói chung, của triết học về con người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng những con người cụ thể sẽ tiến đến giải phóng nhân loại. 

- Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài tự nhiên - Chỉ là giải phóng ảo tưởng.  

- Triết học Mác - Lênin xác định 'bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa'. 

- Giải phóng con người là xoá bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình. 

- Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.  

3. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới:  

+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:  

+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người. 

+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải biến thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất, cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử. 

+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau: 

- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. 

- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề. 

- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cả cộng đồng. 

- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH.(coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội).ản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội".

NGUỒN GỐC NHÀ NƯỚC – NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1. Nguồn gốc  

+ Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia g/c  

+ Nguồn gốc sâu xa của nhà nước chính là do sự phát triển của llsx, trước hết là công cụ lao động. LLSX phát triển đã làm cho chế độ sở hữu tư nhân ra đời, các g/c bóc lột và bị bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ-hai g/c đối kháng đầu tiên trong lịch sử-dẫn đến nguy cơ huỷ diệt luôn cả xã hội. Để điều này không xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. 

+ Nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước chính là mâu thuẫn g/c gay gắt không điều hoà được. 

Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một yếu tố khách quan để làm cho mâu thuẫn g/c diễn ra trong vòng "trật tự" có thể duy trì chế độ kinh tế -xã hội và g/c thống trị mới. 

2. Bản chất 

+ Là nền chuyên chế của g/c này đối với g/c khác và đối với toàn xã hội. Nói khác đi, nhà nước là tổ chức trính trị của g/c thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành phù hợp với lợ ích của mình và đàn áp sự phản kháng của các g/c khác. 

+ Trong xã hội có g/c đối kháng, g/c nào thống trị về kinh tế sẽ nắm chính quyền nhà nước trong tay vì chỉ có g/c ấy mới có khả năng vật chất, để tổ chức, duy trì bộ máy nhà nước. G/c bị trị xét về bản chất không có nhà nước. 

+ Xét về bản chất, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một g/c, không có nhà nước đứng trên g/c, đứng ngoài g/c, là công cụ bảo vệ lợi ích của g/c thống trị về kinh tế nhằm trấn áp các g/c khác và toàn xã hội. 

3. Nhà nước pháp quyền:  

a/ Nhà nước pháp quyền: "Nhà nước pháp quyền là một hình thức tỏ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật với nội dung thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân. 

b/ Những đặc điểm tiêu biểu:  

- Ngự trị cao nhất của pháp luật, ko ai được đứng trên luật pháp.  

- Quyền lực nhà nước thể hiện lợi ích và ý chí đại đa số nhân dân  

- Bảo đảm thực tế quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân . 

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:  

a/ Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:  

Là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng, đó là Đảng cộng sản VN; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa g/c cn với g/c ndân và đội ngũ trí thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập XHCN theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.  

b/ Xây dựng hoàn thiện nhà nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường... Tính chất xã hội dân sự yêu cầu tự do và sáng tạo của từng cá nhân, là cạnh tranh thực hiện lợi ích kinh tế nên các khế ước các hợp đồng phải được tôn trọng.. Tuy nhiên, sự phân hoá giai cấp giầu nghèo ko thể tránh vì vậy phải có sự giải quyết thích hợp. 

4. Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam 

Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước pháp quyền nói chung; quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng về nhà nuớc pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 5 đặc trưng chủ yếu sau:

- Một, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

- Hai, trong Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nuớc là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nuớc là trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Ba, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đuợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật. Ở đó hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thợng trong việc điều chỉnh các quan hệ trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

- Bốn, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nuớc và công dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương.

- Năm, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận.

5 đặc trưng trên là kết luận đã được rút ra từ việc thực hiện Chuơng trình "Tổng kết 20 năm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Continua a leggere

Ti piacerà anche

38.7K 1.2K 8
សាច់រឿងមិនសាកសមសម្រាប់ក្មេងក្រោម(18+)មានពាក្យរោលរាលអាសអាភាស🔞
241K 1.3K 33
This is a mix of different animes that have smut in them
199K 10.1K 89
Being flat broke is hard. To overcome these hardships sometimes take extreme measures, such as choosing to become a manager for the worst team in Blu...
281K 13.2K 61
ပုံတိုင်းဆောင် +ရာချီဒွေး သူကြီးသားလေးနဲ့ အပေါင်ဆိုင်သားလေးတို့ကိုဖတ်ပေးကြပါအုန်းရှင့် တောရွာပုံစံလေးကိုမှ ကြိုက်နှစ်သက်ရင်တော့ဒါလေးဖတ်ဖို့တောင်းဆိုပ...