LUẬN ĐOÁN MỆNH

By o0osaoxao0o

101 0 0

VƯƠNG ĐÌNH CHI - TRUNG CHÂU PHÁI More

MỞ ĐẦU
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

25 0 0
By o0osaoxao0o

       1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

       Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quansát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cụccơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt,chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nàocung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷmỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa củaĐẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân ChủNhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

       Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 nămđược coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận,âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm.Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kimđồng hồ), bày lần lượt 11 cung c n lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của"Thiên bàn".

       Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộctam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đạihạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từcung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

-  CungĐinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn

-  CungBính Dần là cung Phu thê của Đại hạn

-  CungẤt Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn

...v.v...

-  Cho đếncung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

       Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao củacác cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thìcó thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hungthế nào.

       Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là"Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12cung của Đại hạn, c n phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó.Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

      1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc,lưu Hóa Quyền, lưu Hóa

Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn),lưu Dương (kình dương),lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiênviệt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

      2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã(thiên mã)

      Theo ví dụ trên:

-  Cungmệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can củacung mệnh Đại hạn

-  Vì vậytrong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóaQuyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ,lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.

-  Lạivì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

       Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhấtnên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), c n đối vớingười đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thìbiết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưuniên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hếtcác Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽlàm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc l ng phương pháp an sao làrất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từngthứ loại.

      Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cầnphải biết như sau:

       1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệulàm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng(xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinhbàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tamphương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, c n Đàlà gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với cácsao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn củatinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng khônglớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

       2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc,xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăngthêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị,lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đốixứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìnmà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm chotổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

       3)- Các sao xung động với "lưu diệu"thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung làkế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

      4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với"lưu diệu" của Đại hạn.

       Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệxung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồngở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu"đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụtrên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có LộcTồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưuniên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

       Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đạihạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột,sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xétKình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

       Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồngốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi,theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưngxung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

       Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ởcung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồnnày, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi,tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

       Lúc luận đoánLưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉkhi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh,các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thểkhông cần lưu ý gì thêm.

       Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượtgiảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinhbàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

       Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng,khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếukhông sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật,trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫnlộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết địnhtính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

     2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

       Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ởtrên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưudiệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương phápluận đoán.

      Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

       Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục,mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệugặp Tuần Không.

       Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị cóThiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ởcung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc),vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhậpcung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấyrất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được ngườichồng giầu sang.

       Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chấthiếu động, trôi nổi, thêm vào đó c n có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu độngtrôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồngđộ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cựmôn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnhbàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận làtất lớn.

       Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi,cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm cácsao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hộichiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóaKị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủvề tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được ngườibạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ởcung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽcó sóng gió, trắc trở về tình cảm.

       Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi,cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đốicung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cựmôn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kịxung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyềnở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây làvận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kịcùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Tháidương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãntính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyênnày thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

       Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niênvà cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lạithêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn màkhông có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưuniên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũngchẳng thể khen.

       Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979,vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương"và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu,bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạnở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụngma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

       Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn ĐinhDậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địakhông, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bậttừ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửulà tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dươngThiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

       C n trùng hợp một điều nữa là, cung mệnhcủa đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưngcho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

      Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần)bị Thái dương hóa Kị ở cung

Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửuvà Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn","song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà c n là cách xấu"Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không c n muốn sống,nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

       Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đãcó cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

      Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc vềcách quan sát các sao.

       Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thânchủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnhbàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dươngvà Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu"Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạngbị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnhbàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 củaphép quan sát các sao.

      Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu,trong đó có cung Tân

Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồngthời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linhtinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

       Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đếnphải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bịchúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc2 của phép quan sát các sao.

       Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm,vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấuhơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyêncục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyêncục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tínhcứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa c n đối diện với lưu Dương của đại hạnở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn làcung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấugì về phương diện cung Tai Ách hay không.

       Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lạitìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấuthế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

       Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị(cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưuniên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lạicó lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chiara cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnhthêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đếnhội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộckim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu,là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

       Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợikế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, vàThiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưuniên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạnxung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cungNhâm Tuất, c n bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó c n cóThiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên cóthể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sựkiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

       Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinhbàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thânchủ Hỏa tinh.

      Mệnh bàn nguyên cục:

 

-  Cungmệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt,Lâm quan tọa thủ.

-  Phụmẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng

-  Phúcđức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệtkhông, Suy - Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địakhông, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh

-  Sựnghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồngloan, Thiên hình, Tử.

-  Giaohữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái,Mộ.

-  Thiêndi lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái,Nguyệt đức, Tuyệt - Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc)Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai

-  Tàibạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tamthai, Long đức, Dưỡng

-  Tử tứclập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm,Trường sinh - Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương,Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.

-  Huynhđệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý,Quả tú, Giải thần, Quan đới.

       Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhấtlà cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lạilà Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợivề tiền tài nếu rời xa quê hương.

       Nhưng Thái âmlạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đóc n bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xungchiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cựmôn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung"cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài,nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

       Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúchóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồncủa đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc c n xung động Thamlang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ởnơi xa.

       Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫucủa đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn làhóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụmẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không nhữngchủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu c n sợrằng sẽ có sự cố phạm pháp.

      Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thìhóa Khoa, lưu niên thì hóa

Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồncủa lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưuniên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ vềnăm đó thu hoạch rất khá.

      Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đạihạn thì Hóa Kị) và

Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưuniên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợpvới Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, cn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cungDậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó c n có Thiên hìnhtừ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồncủa lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đếnpháp luật, kiện tụng và phá tài.

       Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên làcung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiênviệt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợpvới Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị),vì vậy mà bị cuốn vào v ng thị phi, bất h a, tranh chấp.

      Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cungvô chính diệu, lại mượn

Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đốicung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưuniên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà c n kèm theo Đà la của lưu niên,nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hungThiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạmpháp mà phá tài lớn.

       Ghichú về phép định Tiểu hạn

       Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm.Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôikhông trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

       3)-Cách luận đoán Lưu nguyệt

  

       Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, khôngnên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kểcát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có mộtsố tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất làluận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cốtránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trongv ng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

      Đơn cử một ví dụ:

       Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậymà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo củasự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tạicung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

       Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh củađại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địakhông và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn làhóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cungGiáp Thìn.

       Cung Di của lưu niên ở GiápDần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung",biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị(c n gọi là "Kình Đà giáp Kị"), c n hội hợp với Thái dương lạc hãm ởcung Canh Tuất.

      Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậycần phải tìm năm nào xảy ra.

       Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm QuýSửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoánxem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão,trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung(tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị,nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn"Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dươngvà lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũkhúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

       Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưuNiên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốchóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên vàThiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ởcung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị củađại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên nămđó chủ về có tai nạn.

       Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

       Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tứctháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đếncung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm ẤtMão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ,vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại cóKình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt c n xung khởi Đàla Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồngloạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất c n bị Đà la củalưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, c n bị Thái âm hóa Kị từ cungThìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

      Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chấtbị thương tổn thuộc Kim.

      Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầutìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu

Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thìmới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu

Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xucát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đíchnên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

     Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

      Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn,Thân chủ Văn xương.

-  Mệnhlập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát 

-  Nămkế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán.Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹchuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra,đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi. 

-  CungTai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sátLinh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điềukhông c n nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần haotổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi c nbé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh. 

-  Mộttuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ởtiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hôhấp có khối u. 

-  Hạn2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà củalưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại cóTham lang hóa thành sao Kị, c n hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếpsát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bégái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn. 

-  Hạn3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọathủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, c n có tứ sát tinh cùng chiếu,bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lươngvà Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưuNiên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi. 

-  Đếnhạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì.Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức,cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượtqua, có thể nói là sự may mắn trời ban 

Luận Mệnh thông qua Đẩu Số quanniệm: "Bất kể sự tình nào cũng đều có thể căn cứ vào mệnh bàn mà dự đoánra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không".

       Bộ sách Hiện đại Tử Vi quan niệm: "Đốivới những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu số mới có thể luậnđoán. Nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không có cách nào luậnđoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ". 

      1-Cung Mệnh  

       Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoánmệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếucung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niênquá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽkhó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi.Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung Mệnh. 

       Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứchính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũngchính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộnhư xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và cácyếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phúcó được như ý hay không, .v.v... 

       Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số làthen chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đãcó thể định được đại khái vận thế của một đời người. 

       C n cung Thân, theo thuyết thông thường,là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu thiên của người đó. Nếu cung Mệnh cát màcung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnhcát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắcđã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát mà cung Thân cũngkhông cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đươngnhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗlực hậu thiên để bổ cứu. 

      2-Cung Huynh đệ 

       Trong xã hộihiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, thực ra có khuyết điểm rấtlớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vàocác sao ở cung Huynh đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vìvậy ở tinh bàn, đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cungGiao hữu), tương hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách. 

       Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đếnNô Bộc nhiều hay ít và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thểbiết được những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xemgia tộc có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thờicổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát cung TậtÁch là rất quan trọng. 

       Xã hội hiện đại đã không c n chế độ đạigia đình, anh chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không c n tình trạngbị liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gìquan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn khôngc n hợp thời. 

       Theo Trung Châu phái, vẫn cóthể vận dụng tổ hợp các sao của cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng mộtxuất thân với mệnh tạo (theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn"đồng môn" và bạn "đồng niên") 

       Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bậtthì số anh chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủcư Huynh chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người,nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cungPhụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà định. 

       Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi,Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựavào chính diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có "sao đôi" hội hợpthì mới có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùngxuất thân. 

       Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu,Tá diệu, nhưng cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ vềnhiều anh chị em. 

       Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng,Thiên đồng, Thiên lương thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạnđồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp có sự h a hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủcung Huynh đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắcchủ về anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâmhiệp lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, c n gặp thêm các saoHình - Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng. 

       Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình - Kị,lại c n gặp thêm Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranhchấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương đồng độ chủ về kiệntụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 - 5 - 9 cư Tị, tháng 2 - 6 - 10 cư Thân,tháng 3 - 7 - 11 cư Dần, tháng 4 - 8 - 12 cư Hợi ]. 

       Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh,Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơikhác hoặc bất lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranhchấp.

Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình vàHóa Kị thì chủ về có hình thương. 

      Cung Huynh đệ gặp "Lộc Quyền Khoa", chưa chắc chủ về anh chịem phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh chị em ắtsẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có cung một xuấtthân thăng tiến nhanh hơn mệnh tạo. 

       Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứHóa cùng bay đến cung Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về h a hợp nhưngcó "hình thương", hoặc chủ về h a hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được,hoặc chủ về anh em nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồngsự, thì tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, c n bên trong lại cókhuynh hướng kết bè kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tìnhhình giữa đồng sự với nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt. 

      3-Cung Phu Thê 

      Cung Phu Thê hội hợp "tam phương tứ chính" là cung Phúc Đức,cung Quan Lộc và cung Thiên Di.

Cách phối trí này rất logic. 

       Sự nghiệp của một người đương nhiên chịuảnh hưởng của sinh hoạt hôn nhân, di cư (Thiên di) tha hương, nếu không phải làvợ chồng sinh ly tử biệt thì hoặc là vợ chồng đều nên sống ở tha hương, đây cũnglà vấn đề trọng đại của đời người, c n cung Phúc đức chủ về sinh hoạt tinh thầncủa con người, mà quan hệ hôn nhân có ảnh hưởng đến sinh hoạt tinh thần, điềunày không nói cũng biết. 

       Cho nên việc quan sát và luận đoán cungPhu thê, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phúc đức, cung Quan lộc và cungThiên di, các sao của ba cung này cũng chịu ảnh hưởng các sao của cung Phu thê,đây là hiện tượng rất hợp lý. 

       Tiết này tuy dùng phương thức trình bàygiản lược về các tinh hệ của hiện tượng hôn nhân, nhưng đã suy tính đến mốiliên hệ của "tam phương tứ chính". Để tiện cho người nghiên cứu nhữngảnh hưởng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh đối với tính chất các tinh hệchính diệu, nên sau khi trình bầy tính chất của 14 tinh hệ chính diệu, vẫn cóthêm một mục trình bầy tính chất của các sao Phụ Tá Sát ở cung Phu thê, để cóthể dung hợp nó với tính chất của tinh hệ chính diệu, xem nó làm mạnh thêm hayyếu đi, hoặc tình hình chuyển hóa như thế nào. 

       Ví dụ tinh hệ "Thiên cơ Cựmôn" chủ về trước hôn nhân có sóng gió, trắc trở, hơn nữa c n chủ về phiêubạt, c n tính chất của Lộc tồn là vợ chồng ân ái, chỉ dễ bị người phối ngẫu bắtnạt, hà hiếp, vì vậy mà hai người chia ly. Nếu dung h a hai tính chất này, thìtham khảo thêm ở đại hạn hoặc lưu niên để luận đoán xem phần nhiều xảy ra chuyệngì. 

 Có điều khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xemcung Phu thê, mà c n nên xem kiêm tinh hệ của cung Mệnh. Trong xã hội hiện đại,sinh hoạt hôn nhân giữa vợ và chồng, việc luận đoán không ngoài những hạng mụcnhư tình cảm, tài năng, dung mạo, và tài phú. Thế sự lại rất khó toàn mỹ, tài năngvà dung mạo cũng rất khó lưỡng toàn, nhưng cũng không phải là không có khả năngtài năng, dung mạo, tài phú đều có đủ, cho tới trường hợp khi các phương diện đềuhợp với lý tưởng, thì tình cảm lại thường thường dễ xảy ra thay đổi. Cho nên đạocủa vợ chồng, quý ở chỗ biết thích ứng. Tiết này chỉ ra những hiện tượng quantrọng, mà c n gợi ý biện pháp dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu và thích ứng vớicuộc sống hôn nhân. 

      Dưới đây là một số thể lể thích hợp cho tính hình chung, dùng để luận đoáncung Phu thê. 

       Luận đoán cung Phu thê xem có mỹ mãn haykhông, ngoại trừ việc quan sát cung Phu thê ra, c n cần phải xem xét tinh hệ củacung Mệnh, sau đó dung h a hai tính chất này. 

       Mỗi một cung Phu thê của đại hạn đều phảichú ý xem xét, sau đó mới có thể nhìn ra sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân vàtình cảm vợ chồng. Nhưng thông thường không cần dùng thêm tinh hệ của cung Mệnhđại hạn để trợ giúp trong việc luận đoán, trừ khi xem tai nạn bệnh tật. 

       Muôn luận định về hôn nhân, tốt nhất làmang tinh bàn của cả hai người nam và nữ ra quan sát một lượt, chỉ càn quan sátcặn kẽ, tỷ mỉ thì có thể nhìn ra một số tình tiết. 

       Khi luận đoán cung Phu thê, phải lưu ý mộtnguyên tắc, nhiều Cát tinh chưa chắc có lợi, như Xương Khúc chủ về người phốingẫu quan tâm, chăm sóc, nhưng lại đồng thời có thể có tình nhân bên ngoài. Cácsao Hung, sao Ác cũng chưa chắc là không tốt, như Đà La chủ về phối ngẫu rời xaquê hương, nhưng nếu gặp Lộc tồn, nhưng nếu gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì lại chủvề phát tài ở nơi xa, hơn nữa tình cảm vợ chồng có thể rất tốt. Cho nên cần phảicân nhắc tỷ mỉ cẩn thận. 

      Luận đoán cung Phu thê của Đại hạn hoặc Lưu niên, ngoại trừ tham khảo tiếtnày, c n cần phải căn cứ vào bản chất của tinh hệ thủ cung Phu thê nguyên cục. 

      4-Cung Tử tức 

       Trong mệnh bàn Đẩu Số, cung Tử tức vàcung Điền trạch đối nhau, cung Tử tức tương hội với cung Phụ mẫu và cung Nô bộc.Kết cấu dạng này rõ ràng phản ảnh chế độ đại gia tộc thời xưa. 

       Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, concái là do đầy tớ (nô bộc) phục dịch, do đó cung Nô bộc có ảnh hưởng nhất định đốivới cung Tử tức. Đồng thời có thể nhìn ra quan hệ "kế thừa sự nghiệp củacha ông" từ tổ hợp các sao của cung Phụ mẫu và cung Tử tức, c n đối vớicung Điền trạch, Đẩu Số dùng để quan sát gia trạch, đương nhiên càng có tươngquan với cung Tử tức. 

       Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệcủa cung Huynh đệ là phô bầy cả một đại gia tộc, dùng để quan sát thế hệ bềngang của mệnh tạo, thì tổ hợp tinh hệ của cung Phụ mẫu và cung Tử tức là mộtbiểu đồ theo chiều dọc, dùng để quan sát từ ông Tổ đến cha mẹ, rồi từ cha mẹ đếncon cái, cả một d ng họ truyền từ đời trước sang đời sau. 

       Ngày nay, chế độ đại gia tộc theo kiểuphong kiến đã sụp đổ, kết cấu tinh hệ ở cung Tử tức và tam phương tứ chính đươngnhiên đã mất đi một số ý nghĩa ban đầu. Nhất là cung Nô bộc, ngoại trừ để xem mốiquan hệ với nhân viên làm thuê và người trực tiếp dưới quyền, thì ngày nay c ndùng để quan sát bạn bè, đương nhiên sẽ cảm thấy quá cách xa cung Tử tức. Vì vậytrong thực tế ứng dụng, càng cần phải định ra một số nguyên tắc khác. 

       Sự tương quan hợp lý thứ nhất giữa haicung, đó là lấy sự quan sát "mối quan hệ gia tộc" như trước kia, cảibiến thành quan sát "địa vị xã hội". Bởi vì từ các tình trạng tốt xấucủa cha mẹ, hay nhân viên làm thuê và bạn bè, cho tới con cái của mệnh tạo, cóthể luận đoán ra địa vị xã hội của đương số. 

       Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì mệnhtạo phải là người lúc c n nhỏ được cha mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng đượcbạn bè giúp đỡ ủng hộ, đồng thời c n được nhân viên làm thuê trợ lực, đến trungniên thì phát triển sự nghiệp, đến vãn niên thì có con cái có thể kế thừa sựnghiệp của cha ông. Người này là mẫu người điển hình của loại "lúc nhỏ làthiếu gia, lúc già gọi là lão gia", có địa vị xã hội như thế nào chắc làkhông cần phải nói. 

       Nếu cung Phụ mẫuvà cung Nô bộc không cát tường, nhưng cung Tử tức thì có Cát tinh tụ tập, như vậycó thể luận đoán mệnh tạo rất có khả năng phải trải quan gian lao vất vả, rồi mớitay trắng tạo nên sự nghiệp, sau trung niên ít nhất cũng có địa vị vào hạngtrung lưu. 

       Dựa vào điểm suy đoán này,có thể trợ giúp chúng ta luận đoán ra vận trình của bản thân mệnh tạo. Ngược lại,từ vận trình của bản thân mệnh tạo, cũng có thể luận đoán ra con cái của mệnh tạocó thành tựu hay không ! 

       Ví dụ như, nếu cung Phụ mẫu là Cát, cungMệnh cũng cát, cung Nô không xấu, nhưng cung Tử tức lại xấu, thế thì, có khả năngkhông có người thừa kế, cũng có thể là con cái bất tài, phẩm hạnh quá kém. 

       Vì vậy có thể căn cứ vào tinh bàn để tìmra một số chỉ dẫn. Ví dụ như quan sát sự hiển thị của cung Tử tức, để biết vềtính cách con cái của mệnh tạo mà đưa ra một số lời khuyên 

       Đây cũngchính là nói, từ "tam phương tứ chính" của cung Tử tức ngoại trừ xemcó con nhiều hay ít, c n luận đoán về tình cảm của mệnh tạo đối với con cái, vàtính cách chủ yếu của con cái. Liên quan về những luận đoán này, ta cần kết hợpvới cung Tử tức của đại hạn và lưu niên để đánh giá về vận mệnh của con cái đươngsố, để biết con cái của đương số có thành tựu hay không? 

      5-Cung Tài bạch 

       Tiền bạc (tài bạch) là tư liệu để nuôi sống,nhất là trong xã hội thương nghiệp, địa vị xã hội của một người đầu như do tiềnbạc quyết định, vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu làm nghềnghiệp gì để kiếm tiền, đã trở thành vấn đề khá quan trọng. 

       Liên quan đến vấnđề trọn nghề nghiệp gì cho thích hợp, đã được thảo luận khi tường thuật về tổ hợptinh hệ của cung Mệnh, nên khi nghiên cứu cung Tài bạch, chủ yếu tập trung vềthành tố "tài khí" như thế nào, có tiền của dần dần hay phát lên mộtcách nhanh chóng, sau khi có tiền của thì có giữ được hay không. 

       "Tam phương tứ chính" của cungTài bạch là đối cung Phúc đức, và hai cung tam phương là cung Mệnh và cung Sựnghiệp. Cung Phúc đức chủ về hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần. Chuyệncơm áo gạo tiền khiến cho người ta phải lo toan nghĩ ngợi, và tình trạng nghèohay giầu có thể ảnh hưởng đến tinh thần của một người. Đủ thấy tính chất ảnh hưởngqua lại của cung Phúc đức và cung Tài bạch. 

       Đối với cung Mệnh,vận thế của mệnh tạo và cách cục chủ yếu được quyết định từ đây, đương nhiên cóliên quan đến "tài bạch". Mối liên hệ giữa Sự nghiệp và Tài bạch, đươngnhiên cũng là then chốt hỗ tương. Cung Mệnh, cung Sự nghiệp, cung Tài bạch hộihợp, đúng là tượng trưng cho "vị thế của lợi lộc". 

       Nếu chỉ đơn thuần dựa vào cung Tài bạchcủa nguyên cục để luận đoán tiến bạc "được mất", thường thì chẳng đúng,bởi vì nó chỉ hiện thị những tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán mộtcách tinh tế và chính xác, nhất định phải xem xét tới cung Tài bạch của đại hạnđể luận đoán, sau đó mới có thể biết sự phát triển tài vận của một đời người, cn cung Tài bạch nguyên cục chỉ chủ về xu thế chung của tài vận. 

       Điều cần chú ý là, lúc luận đoán cungTài bạch của đại hạn mà gặp "lưu Lộc", "lưu Quyền", "lưuKhoa", "lưu Tồn", "lưu Mã", "lưu Dương","lưu Đà", thì tất cả chúng có cùng một tác dụng như các điều đã thuậtvề tính chất cơ bản của chúng. 

      6-Cung Tai ách 

       "Tam phương tứ chính" của cungTai ách là cung Phụ mẫu, cung Huynh đệ và cung Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ nàylà do trong chế độ đại gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hộiphong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội, thường thường có thểliên lụy đến người thân, vì vậy tổ hợp "tam phương tứ chính" này có mộtý nghĩa đặc thù. 

       Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi,nhưng cung Tật ách đối xung với cung Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hộiphương với cung Điền trạch để xem trạng thái sức khỏe của các thành viên tronggia đình. Thậm chí quan sát các sao thủ các cung hội hợp với cung Huynh đệ đểxem "đời người" có hung ách hay không, theo kinh nghiệm của pháiTrung Châu mà Vương Đình Chi đại diện thì vẫn hữu hiệu. 

       Cung Tai ách chủ về bệnh tật và tai ách.Nhưng liên quan đến vấn đề tai ách có xảy ra hay không, cung Tai ách thực ra chỉcó thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải phốihợp thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung Tai ách.C n đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem xét cả tinh hệ của cung Mệnh lẫntinh hệ của cung Tai ách, hai cung đều quan trong ngang nhau. Ví dụ như"Liêm trinh Thất sát" thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cungTai ách gặp tinh hệ này thì đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật áchgặp sao Ác, mà cung Mệnh là "Liêm trinh Thất sát", thì cũng chủ về đườnghô hấp. 

       Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ củacung Mệnh và tinh hệ của cung Tai ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật.Ví dụ cung Tật ách gặp "Liêm trinh Thất sát", có Sát tinh hội chiếu,cung Mệnh gặp Hồng loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có thểphát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tác, đến khi cung Mệnh của đại hạn hoặclưu niên gặp Hồng loan, Thiên Hỷ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì mớiphát bệnh. 

       Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào cácsao để luận đoán tật bệnh là rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinhnghiệm bí truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệtrong vấn đề bệnh tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh hoạt, khôngnên quá câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung Mệnh và cung Tai ách, cùng vớicác sao hội hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí c n phảimang "Lưu diệu" của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mớicó thể chính xác. 

       Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư v m họng,tinh hệ chủ yếu vẫn là "Liêm trinh Thất sát", hành vận đến cung hạnThiên đồng và Cự môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà c ngặp Long trì đồng độ hoặc xung chiếu cung Mệnh, c n "Liêm trinh Thấtsát" lại hội hợp với Hỏa tinh Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong đại hạnnày sẽ phát bệnh. Lấy trường hợp này làm ví dụ, để người nghiên cứu có thể thấyđược phần nào phép tắc luận đoán bệnh tật. 

       Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấynguyên lý Âm Dương Ngũ hành của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kếthợp với tên gọi các bệnh theo Y học hiện đại. 

      7-Cung Thiên Di  

       Trong Đẩu Số, cung Thiên di dùng để luậnđoán về vấn đề từ nơi sinh ra dời đến nơi khác để ở, đồng thời cũng có thể dùngđể luận đoán tình trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên di của lưu niên, cũngluận đoán về những tao ngộ khi đi đâu xa, như có vui vẻ hay không? có bị trộm cướphay không? có gặp điều gì bất ngờ hay không? 

       Do cung Thiên di và cung Mệnh xung chiếunhau, vì vậy các sao của cung Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo, đặcbiệt là về năng lực xã giao, quan hệ giao tế, .v.v... 

       Cung Di tương hội với cung Phúc, nên sựhưởng thụ tinh thần của một người đúng là có liên quan với quan hệ giao tế vàhoạt động xã giao củ người đó. C n việc đi ở nơi khác đem lại kết quả tốt hay xấu,đương nhiên có thể căn cứ phần nào vào tinh trạng hưởng thụ tinh thần mà luận đoán. 

       Cung Di tương hội với cung Phu thê là rấthợp lý, bởi vì cho dù ở thời cổ đại, một người rời đại gia đình để phát triểnhoặc vẫn ở quê hương sinh sống làm ăn, đương nhiên cũng có quan hệ với sinh hoạtvợ chồng. Các mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh hưởng của ngườiphối ngẫu. Đối với việc mang gia đinh đi nơi khác lập nghiệp thì càng có quan hệmật thiết với người phối ngẫu. 

       Do đó có thể thấy, tổ hợp các sao ở cungDi trong Đẩu Số là rất quan trọng, thậm chí có thể nói chỉ kém hơn cung Mệnh vàcung Thân. Hơn nữa khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có một điểm cầnbiết, đó là khi một người rời nơi sinh ra, đến nơi khác để ở, xu thế vận mệnh củanăm đầu tiên, là do cung Di quyết định, mà không phải do cung Mệnh quyết định.Do đó cần phải lấy cung Di làm cung Mệnh để xem xét, các cung vị khác vẫn khôngthay đổi. 

       Giả dụ một người không ngừng di chuyển(như thuyền viên, phi công, .v.v...), không ở cố định một nơi nào, cũng phải lấycung Di làm cung Mệnh để luận đoán. 

      8-Cung Giao hữu (Nô bộc)  

       Cung Giao hữu cổ nhân gọi là cung Nô bộc.Trong xã hội cổ đại, "nô bộc" là thành viên của gia đình. Một đời làm"nô bộc", đời đời là "nô bộc", cho nên sự tốt xấu của cungNô bộc đúng là có liên quan đến sự thịnh suy của gia tộc. Vì vậy các nhà Đẩu Sốcổ đại khi luận đoán khá xem trọng "nô bộc" có lực hay không? nô bộcnhiều hay ít? có phản chủ không? có giúp đỡ chủ không? mức độ trợ lực cho chủlà cao hay thấp? 

       Ngày nay, cung Nô bộc đổi thành cungGiao hữu là một sự cách tân rất lớn. Về mặt lý luận, ngày nay đã không c n mốiquan hệ chủ tớ như ngày xưa, dó đó về căn bản, không cần nhìn từ "nô bộc"để suy diễn ra vận mệnh của một gia tộc. Nhưng sự tốt xấu của các mối quan hệgiao tế là rất quan trọng đối với người hiện đại, việc sửa đổi thành cung Giaohữu đúng là đã mang lại cho khoa Đẩu Số cổ xưa một hàm nghĩa mới. 

       Có lẽ, nhiều người sẽ hoài nghi rằng:"Cổ nhân truyền lại pháp môn này, sao có thể tùy tiện sửa đổi?" Thựcra Đẩu Số là đời đời tương truyền, đã luôn luôn biến động thay đổi, từ "Thậpbát phi tinh" phát triển thành "Tử Vi Đẩu Số" chính là một biến độngthay đổi cực lớn. Về sau, từ thời Nam Tống cho đến Minh Thanh, đời nào cũng cóngười truyền lại không ít khẩu quyết khá hữu dụng, đó cũng là sự biến đổi cáchtân trong Đẩu Số. Vì vậy vấn đề không phải ở chỗ có nên thay đổi hay không, màlà những thay đổi cách tân đó có hợp lý hay không? 

       Thử xét tam phươngtứ chính của cung Nô bộc, đối cung là cung Huynh đệ, cung hội hợp là cung Phụ mẫuvà cung Tử tức, đây rõ ràng là một tổ hợp tổ tông ba đời và nô bộc, cũng tức làmột mô thức điển hình của gia tộc cổ xưa. 

       Ngày nay lấy tính chất "nô bộc"biến đổi thành tính chất "quan hệ giao tế". Theo phái Trung Châu, cũnglấy cung Huynh đệ xem là quan hệ với người ngang vai. Lấy cung Phụ mẫu xem làquan hệ với bậc trưởng bối. Lấy cung Tử tức xem là quan hệ với những người thuộcvãn bối. Các sao của ba cung vị này hội chiếu với cung Giao hữu, vì vậy sẽ phảnảnh các mối quan hệ giao tế một cách chỉnh thể. 

       Lúc luận đoán Đẩu Số, khi lấy cung Giaohữu dùng để luận đoán về mối quan hệ với nhân viên làm thuê hoặc người dưới quyền,cũng cần đồng thời lấy "Phụ mẫu"xem là ông chủ, thượng cấp, hoặc bậctiền bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, lấy "Tử tức" xem là trợ thủtrực thuộc, hoặc những người thuộc lớp vãn bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo,và lấy "Huynh đệ" xem thành nhưng người ngang vai với mệnh tạo, c ncung Giao hữu là một phản ánh chung. 

       Người mới bắt đầu tiếp cận với Đẩu số thườngmắc phải một bệnh, đó là không quan sát toàn diện các sao của các cung có liênquan. Lấy việc không quan sát các sao của cung "nô bộc" làm ví dụ, cổnhân lấy cung Phụ mẫu và cung Nô bộc có quan hệ hỗ tương như thế nào, từ đó cóthể biểu thị tình trạng "nô bộc" của đời "phụ mẫu". Nếu cũnglấy cung Huynh đệ và cung Tử tức ra quan sát, xem xét mối quan hệ hỗ tương củachúng với cung Nô bộc, thì có thể biết được tình trạng "nô bộc" ba đời. 

       Ngày nay quan sát cung Giao hữu cũng cóthể dùng biện pháp như vậy. Nếu lấy cung Phụ mẫu và cung Giao hữu ra so sánh, đồngthời tiến hành nghiên cứu mối quan hệ của chúng, thì có thể nhìn ra mối quan hệcủa thượng cấp và người dưới quyền của mệnh tạo. 

       Ví dụ như cung Phụ mẫu có Thiên lương độctọa ở Ngọ, cung Giao hữu có Thiên đồng độc tọa ở Tuất, c n cung Huynh đệ là Cựmôn ở Thìn có Sát tinh chiếu xạ, thế là chúng ta có một giả định tốt nhất là:thượng cấp là một người rất thích soi bói, bới lông tìm vết, trong đồng sự cóngười ưa đâm bị thóc chọc bị gạo, vì vậy mà bản thân mệnh tạo thường bị ở vàotình trạng lúng túng, khó xử về quan hệ giao tế ở nơi làm việc, có thể sẽ bịlôi kéo vào v ng tranh chấp, bất h a. Điềm này có thể nhìn ra từ tính chất củaThiên đồng ở cung Tuất. 

       Nhưng nếu Thiên lương có hóa Lộc, hóaQuyền, hóa Khoa hội hợp, thì tính chất của Thiên lương sẽ biến thành cao thượng,độ lượng, Thiên đồng thủ cung Giao hữu cũng sẽ bị ảnh hưởng của "Lộc QuyềnKhoa hội" mà được cải thiện. 

       Trung Châu phái đưa ra phương pháp luận đoánnày, có thể giúp cho người mới nghiên cứu Đẩu Số

tìm ra tình trạng quan hệ nhân tế của mỗigiai đoạn trong cuộc đời một người khá rõ ràng. 

      9-Cung Sự nghiệp (Quan lộc)  

       Cung Sự nghiệp cổnhân gọi là cung Quan lộc, đó là vì ở thời cổ đại địa vị xã hội của những ngườitrong giới "công", "thương", "nông", đều rất thấp,chỉ có học hành để ra làm quan mới là con đường tốt nhất. 

       Cho nên trong tinh bàn Tử vi Đẩu Số,cung Quan lộc và cung Phu thê phải đối nhau. Đó là vì Quan lộc sự nghiệp của mộtngười có thể ảnh hưởng đến địa vị của vợ con. 

       Ngày nay xã hội đã hoàn toàn khác, địa vịcủa giới doanh nhân rất cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, có thể nói mọi con đườngđều quy tụ về tiền. Học hành để ra làm quan không c n là con đường lý tưởng duynhất. Người đàn ông thường lấy sự nghiệp làm trọng, vì vậy "cung Quan lộc"được các nhà Đẩu Số hiện đại đổi lại cách gọi tên, được gọi là cung Sự nghiệp.Mà cung Sự nghiệp và cung Phu thê xung chiếu nhau, cũng có nghĩa là xem sự nghiệpvà gia đình mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát các sao của hai cung này xem cóđiều h a hay không. 

       Trong bối cảnh như vậy, cổ nhân đã địnhra một số nguyên tắc luận đoán "cung Quan lộc" có thể nói là không cn hợp thời. Ví như "Thái dương nhập miếu được Cát tinh vây chiếu là quannhất phẩm đương triều" (Thái dương nhập miếu đắc cát củng, nhất phẩm đươngtriều), "Thiên đồng nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm" (Thiên đồngnhập miếu, văn vũ tam phẩm chi chức), "Phá quân ở cung nhàn nên làm nghềthủ công, gặp Cát tinh thì có thể mua chức quan" (Phá quân nhàn cung nghithủ nghệ, kiến cát tắc khả quyên ban). Tất cả những luận đoán này, ít nhiều đãlỗi thời ở thời hiện đại. 

       Nói một cách thẳng thắn, chúng ta có thểbiết tính chất tổ hợp các sao phù hợp với nghề gì, nhưng lại không thể dựa vàocác sao mà nói ra nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngoài ra, khi phán đoán nghề nghiệpcủa một người, c n phải tham khảo các sao của cung Mệnh và cung Phúc đức, điểmnày cần chú ý. 

      Liên quan đến vận thế sự nghiệp cuộc đờicủa một người, cũng không nên chỉ căn cứ ở cung Sự nghiệp nguyên cục để luận đoán,mà c n cần phải quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên, căn cứ vào cungSự nghiệp của hành hạn, để nghiên cứu một cách tỷ mỉ, thêm vào đó là phối hợp"Lưu diệu", xem vận thế nghề nghiệp thuận hay nghịch như thế nào, tựnhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác hơn. 

      10-Cung Điền trạch  

Trong Đẩu Số, cung Điền trạch có hai ý nghĩa: 

       Một là, quan sát các sao ở cung Điền trạchcủa nguyên cục, có thể biết được vận thế địa sản của cuộc đời mệnh tạo, như chamẹ có để lại di sản không, sau khi thừa kế di sản có phá tán, thất bại không,và vận thế mua thêm nhà cửa đất đai của mệnh tạo như thế nào? 

       Hai là, quan sát các sao cua cung Điềntrạch của lưu niên hoặc đại hạn, có thể biết được năm (hoặc đại hạn) nào có thểmua thêm nhà cửa đất đai không, có dời chỗ ở không. 

       Hai điểm vừa thuật ở trên, là ý nghĩa phổbiến của cung Điền trạch. Ngoài ra, cung Điền trạch c n có thể dùng để trợ giúpluận đoán vận gia trạch của lưu niên. Lúc này liên quan đến tính chất của tổ hợpcác sao ở cung Điền trạch. 

      11-Cung Phúc Đức  

       Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số,là dùng để luận đoán hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người.Nếu so với cung Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân là chủ vềhưởng thụ vật chất, vận trình thực tế, c n cung Phúc đức thì chủ về những thứtrìu tượng hơn. 

       Có một số người nhìn bề ngoài thì nhậnthấy "công thành danh toại" khiến cho người ta phải ngưỡng mộ, nhưngcó thể nội tâm của người này đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đâylà vì cung Mệnh và cung Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có nhữngkhiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm mà thôi,nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung Mệnh và cung Thân không tốtmấy, mà cung Phúc đức lại tốt. 

       Cung Phúc đức và cung Tài bạch đối nhau,có thể thấy sinh hoạt tinh thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tàiphú, tam phương hội chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự hưởng thụ tinhthần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt hôn nhân, tam phương cũngtương hội với cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của con người ta, có thể ảnhhưởng đến động hướng của người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm hướng phát triển,thường chỉ quyết định trong một hoài niệm. 

       Những điều trình bầy trong "tiết"này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Cn về phương diện hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độkhác nhau, thì rất khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ramột số điểm chính yếu quan trọng. 

Khi luận đoáncung Phúc đức, lấy cung Phúc đức của Thiên bàn làm chủ, dùng để luận đoán bảnchất tư tưởng và xu thế chủ yếu về phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo.Cung Phúc đức của đại hạn và lưu niên (Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từngnăm mà xác định được sự thay đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về một vấn đề củangười đó. Như cung Phúc đức của Thiên bàn là sao Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bảnchất, trong một vận trình gặp Thiên cơ ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu niên,thì tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, nhưng lại chủ vềmệnh tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến. Nhưvậy khi luận đoán nhát thiết không được xem thường tính chất chủ yếu của cungPhúc đức nguyên cục. 

      12- Cung Phụ Mẫu:  

      Trong Đẩu Số, cung Phụ mẫu có 3 ý nghĩa về luận đoán: 

       Một là, luận đoán duyên phận của mệnh tạođối với cha mẹ, các tình huống sống chết tồn vong, cát hung họa phúc của cha mẹ. 

      Hai là, mối quan hệ giữa mệnh tạo với thượng cấp, hay ông chủ như thếnào ? 

       Ba là, trong xã hội phải có quan lại quảnhạt, hoặc cấp chủ quản trong công việc, họ có thể ước thúc hành động của mệnh tạotrong một thời kỳ. Những quan lại quản hạt hoặc cấp chủ quản trong công việcnày có mối quan hệ như thế nào đối với mệnh tạo ? 

       Trong ba điểm trên, cung Phụ mẫu củaThiên bàn (hoặc Địa bàn) chủ yếu dùng để luận đoán điểm "Một". 

       Sau khi luận đoán được tính chất chủ yếu,vẫn cần phải căn cứ vào cung Phụ mẫu của từng Đại hạn và mỗi một lưu niên (Nhânbàn) để luận đoán, để xác định cát hung họa phúc của cha mẹ mỗi thời kỳ. 

       C n điểm "Hai" và"Ba" chủ yếu được dùng để luận đoán cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc lưuniên (Nhân bàn). Nhưng cần phải ứng dụng một cách linh hoạt những tính chất thuậtở Tiết này. 

       Ví dụ như Thiên Cơ thủ cung Phụ Mẫu, khicó Thiên Mã đồng độ hoặc xung chiếu, thì chủ về c n bé đã chia ly với gia đình.Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, lại có thể là một vậntrình ly biệt do thượng cấp đề bạt mệnh tạo, hoặc chủ về mệnh tạo rời khỏi côngty mình đang làm. 

Ví dụ khác, "Thiên đồng Cự môn" đồng độ thủcung Phụ mẫu chủ về cha con bất h a. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫucủa lưu niên, thì có thể trong năm đó, chủ về có sự bất h a với người chủ củamình. 

       Hiểu rõ ý nghĩa thực sự của cung Phụ mẫuthì khi luận đoán mới phát huy tác dụng. Trong lúc ứng dụng thực tế, ngườinghiên cứu nhát định sẽ cảm thấy bối rối khi gặp tổ hợp các sao ở cung Phụ mẫucủa đại hạn hoặc lưu niên, không biết tính chất của tinh hệ rốt cuộc dùng để đạibiểu cho cha mẹ, hay đại biểu cho thượng cấp, hay là đại biểu cho cơ cấu chủ quảnhoặc quan lại quản hạt? 

       Trung Châu phái cho rằng, thông thườngcó thể dùng biện pháp xem kèm cung vị khác để giải quyết, như xem kèm cung Quanđể luận đoán tình trạng quan hệ với thượng cấp, xem kèm cung Điền trạch để luậnđoán tình trạng cát hung của cha mẹ, xem kèm cung Phúc đức để luận đoán tình trạnggiao thiệp với với cơ cấu chủ quản hạt, cả ba đều nên xem kèm cung Mệnh để luậnđoán. 

       Đương nhiên, cũng có một số tình hình thựctế vốn không có gì phức tạp. Ví dụ một người qua tuổi trung niên, có thể cha mẹđã qua đời, bản thân lại là ông chủ, thế thì tính chất các sao ở cung Phụ mẫu củađại hạn và lưu niên đương nhiên chỉ liên quan đến đơn vị quản lý hạt. Ví dụThiên Lương nhập thủ cung Phụ mẫu của lưu niên, có Thiên Khôi Thiên Việt đồng độhoặc hội chiếu, vốn chủ về mệnh tạo được cha mẹ che trở, lúc này sẽ biến thànhcó thể được cơ quan giúp đỡ. 

       Hiểu rõ những nguyên tác luận đoán vừathuật ở trên, người nghiên cứu Đẩu Số có thể tự luận thuật một cách linh hoạt.

Continue Reading

You'll Also Like

937K 39.4K 59
8.1M 343K 52
"I hope you realize you made the worst f**king decision of your life." She could feel his cold icy blue eyes piercing through her soul. "I didn't as...
26K 3.8K 20
She was not only born with a silver spoon, she was rocked in a diamond cradle and raised in a gold castle. She had the world at her feet and on her f...
13.7M 550K 80
"I know that we will never be a real couple, but we can at least be nice to each other Aneel" I told him. I've had enough. Tears were starting to pri...