cac vi vua nha tran

By mario08

1.1K 0 0

More

cac vi vua nha tran

1.1K 0 0
By mario08

8. Trần Nghệ Tông (1325 - 1399)

Năm Kỷ Dậu niên hiệu Đại Trị thứ 12 (1369), khi vua Trần Dụ Tông sắp mất, vì không có con nối dõi nên đã xuống chiếu đón Nhật Lễ, con của người phường chèo tên là Dương Khương lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Định, năm thứ nhất

Từ khi tiếm ngôi, Nhật Lễ càng ngày càng rượu chè, hoang dâm vô độ, suốt ngày chỉ mải mê vui chơi không quan tâm đến chính sự. Không chỉ có thế, Nhật Lễ còn giết cả người đã đón mình về để lên ngôi Hoàng đế là Hoàng Thái hậu Hiển Từ, vợ vua Trần Minh Tông, mẹ của Trần Nghệ Tông.

Vốn trước đây, Thái tử Phủ là con thứ ba của vua Trần Minh Tông, không có ý định làm vua để lấy lại đất nước. Vì Nhật Lễ ngày càng làm những điều bạo ngược, nên khi nghe công chúa Thiên Ninh nói:" Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại bỏ cho người khác". Thái tử Phủ đã quyết chí ra đi chiêu tập lực lượng, mưu dành lại cơ nghiệp nhà Trần.

Tâm tư của Thái tử được thể hiện trong bài thư gửi cho em là Cung Tuyên vương Kính (sau này là vua Trần Dụê Tông) trước lúc ra đi:

"Vì cực sàm thâm tiện khứ quan

Chính thân độ lĩnh nhập sơn man.

Thất lăng hồi thử thiên hàng lệ,

Vạn lý môn tâm lưỡng mấn ban.

Khứ Vũ tồn đồ Đường xã tắc,

An Lưu phục đổ Hán y quan.

Minh Tông sự nghiệp quân tu ký,

Khôi phục thần kinh chỉ nhật hoàn".

Dịch là:

Ngôi cả gièm nhiều ở lại chi?

Một mình vượt núi đến man di.

Bảy lăng(1) ngoảnh lại châu tuôn ứa,

Muôn dặm lòng đau tóc bạc đi.

Trừ Vũ(2) cho yên Đường xã tắc,

An Lưu lại thấy Hán uy nghi.

Minh Tông sự nghiệp ngươi lên nhớ,

Thu phục thần kinh nhất định về.

Người thời bấy giờ cho bài thơ ấy là một lời sầm truyền.

Lý do thứ hai khiến thái tử Phủ ra đi là ông có người con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, nên sợ bị vạ lây đến mình.

Tháng 11 năm Thiệu Khánh thứ nhất (1370), Thái tử Phủ cùng Cung Tuyên vương Kính và công chúa Thiên Ninh kéo quân về Kinh Sư, đến phủ Kiến Hưng (tên cũ là Hiển Khánh)(3) hạ lệnh phế Nhật Lễ làm Hôn Đức công. Ngày 15, lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá cho thiên hạ.

Sau sự kiện Nhật Lễ bóp cổ Ngô Lang, vua Nghệ Tông sai đánh chết Nhật Lễ và con của y là Liễu rồi đem chôn xác ở núi Đại Mông.

Mặc dù chỉ ở ngôi Hoàng đế trong thời gian ngắn ngủi có 3 năm (1370 - 1372) nhưng Trần Nghệ Tông đã xứng đáng với truyền thống độc lập tự chủ vốn có của các tiên đế nhà Trần. Khi mới lên ngôi, vua Trần Nghệ Tông đã nói:

" Triều trước dụng nước tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống là vì Nam, Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau..." . Câu nói đó đã được sử quan ghi vào quốc sử.

Trần Nghệ Tông đã tiến hành khôi phục lại các phép tắc, phong tục của thời Trần Minh Tông (1324) và cương quyết hủy bỏ những điều nhiễu nhương sinh ra dưới thời Trần Dụ Tông (1341 - 1369) do các nho sỹ nhập nội thiển cận bắt trước theo văn hóa Trung Quốc. Ông đã xuống chiếu bãi bỏ lệnh "Sa Châu liệt cước" do Chiêu Từ Thái hậu đặt ra nhằm mục đích chiếm lấy những bãi phù sa mới bồi tụ ven sông. Liền sau đó, ông còn bãi bỏ lệnh "kiểm điểm tài sản" của các nha quyền quý mà nội dung là sau khi họ chết thì tài sản và những bảo vật quý báu đều thuộc về sở hữu nhà nước ( thuộc thời Trần Dụ Tông ). Thực ra, những của cải thu được đều rơi vào túi những kẻ bề tôi tham nhũng vơ vét, khơi mối.

Ông còn xuống chiếu cho các hoàng thân, quốc thích, khi xây dựng cung thất cần phải làm đơn giản, mộc mạc, chỉ lấy các tản quan tôn thất phục dịch, không được gây phiền nhiễu nhân dân.

Trần Nghệ Tông thực sự là đấng minh quân khi ông xét khảo rất công minh những công trạng của các quan văn, võ trong triều. Khi lập em là Cung Tuyên Kính ( tức vua Trần Duệ Tông sau này), Trần Nghệ Tông đã làm tập " Hoàng Huấn" gồm 14 chương ban cho để giúp em trưởng thành, nắm quyền trị vì đất nước.

Vua Trần Nghệ Tông không những biết sử dụng nhân tài mà còn đánh giá đúng nhân tài khi ông ban lệnh thờ Tư nghịêp Quốc tử giám Chu Văn An, Thiếu phó Trương Hán Siêu... mặc dù bấy giờ có nhiều người không đồng tình với việc làm này.

Chu Văn An là người cương trực, trong sạch, biết giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, hiển đạt, học vấn tinh thuần vốn nổi tiếng ở đời. Chu Văn An còn để lại cho hậu thế sớ "thất trảm" xin chém bảy kẻ nịnh thần đều là người có quyền thế được vua Dụ Tông yêu. Trần Dụ Tông thích chơi bời, bỏ bễ việc triều chính, bọn quyền thần lộng hành. Chu Văn An đã nhiều lần can nhưng nhà vua không nghe. Khi dâng sớ "thất trảm" vua lại không trả lời, nên ông bèn treo mũ áo bỏ về. Đúng là một con người cao thượng tiết tháo, đáng bậc tôn sư của nhà nho nước Việt.

Trương Hán Siêu từ khi là môn khách của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cũng trưởng thành cả về tài năng lẫn đức độ. Trải qua 4 triều vua: Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông, Trương Hán Siêu đã tỏ rõ tài năng trị quốc, an dân. Ông còn để lại bài "Phú sông Bạch Đằng" là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học yêu nước Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm mọi người một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng, chiến thắng cuối cùng có giá trị quyết định đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù tàn bạo nhất thời bấy gìơ.

"Giặc tan muôn thủa thăng bình,

Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao".

Trần Nghệ Tông đã trân trọng đánh giá đúng tài năng, đức độ của Chu Văn An, Trương Hán Siêu... qua việc quyết định đưa những nhân tài đất Việt này vào thờ ở Văn Miếu.

Trần Nghệ Tông ở ngôi hoàng đế 3 năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi.

Sách Đai Việt sử ký toàn thư chép về ông nhu sau: "Vua dẹp yên loạn trong nước, khôi phục lại nghiệp lớn lao, rực rỡ vũ trụ", xứng đáng với truyền thống nhà Trần.

(1) Bảy lăng: Tức lăng mộ của Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông.

(2) Trừ Vũ: Tức Vũ Tắc Thiên cướp ngôi Đường Trung Tông lập lên nhà Chu. Về sau Trương Giản Chi diệt phe cánh Vũ Tắc Thiên khôi phục cơ nghiệp nhà Đường.

(3) Phủ Kiến Hưng: Đời Lê đổi tên làm phủ Nghĩa Hưng, nay là đất thuộc các huyện: Vụ Bản, Nghĩa Hưng và Ý Yên tỉnh Nam Định.

9. Trần Duệ Tông (1336-1377)

Duệ Tông Hoàng đế - ông vua thứ 9 của thời đại nhà Trần, tên là Trần Kính, là con thứ mười một của Trần Minh Tông, em của vua Trần Nghệ Tông. Mẹ là Đôn Từ Hoàng Thái phi.

Vua sinh ngày 2-6-1336. Khi Trần Nghệ Tông tránh loạn, mọi vũ khí, quân đội đều do Trần Kính đảm nhận, do vậy, vua Nghệ Tông đã truyền ngôi cho em. Ba mươi sáu tuổi lên làm vua, ở ngôi 4 năm, thọ 41 tuổi.

Trong 4 năm cầm quyền, trị vì đất nước, Trần Dụê Tông đã cùng vua cha Trần Minh Tông(1) (Thái Thượng Hoàng) tổ chức thi Đình tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Những nho sĩ thời đó như Đào Sư Tích ( Trạng nguyên), Lê Hiến Phủ (Bảng nhãn), Trần Đình Thám (Thám hoa)...đều xuất thân từ bình dân, không trong hàng ngũ hoàng tộc. Đức vua rất coi trọng nho sỹ, coi đó là đại diện văn hiến nước nhà, nên cho ăn yến, áo xấp, tước phẩm...

Đặc biệt nhà vua rất chú trọng trong việc xây dựng quân đội. Sử cũ chép lại rằng: "Mùa thu tháng tám (1374) cho dân đinh xung vào quân ngũ: hạng nhất xung vào Lan Đô, rồi đến hạng nhì, hạng ba. Người thấp bé nhưng mạnh khỏe cũng được xung lên hạng trên. Trước đây, quân Túc vệ có quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Sau đặt thêm các quân Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực, Ý Yên, Thiên Trường, Bắc Giang, Điện Hậu, Long Tiệp, thích ba chữ đen vào trán. Các quân Thị vệ, Tạc Ngạch, Hoa Ngạch, Tả Ban, Hữu Ban, Thanh Hóa Nghệ An, Hóa Châu, Thuận Châu, Lâm Bình đều đặt quân hiệu. Có đại đội trưởng, đại đội phó làm tướng hiệu"(1)

Tháng 12 năm 1376, vua tự cầm quân đi đánh giặc ở vào thời điểm quyết liệt, do có người cản ngăn nên vua nói với quân sĩ rằng: " Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông, trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói "Dụng binh quý ở nhanh chóng". Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác, thì hối không kịp?". Là ông vua, nhưng lại cùng quân sỹ xông pha nơi trận mạc, chỉ vì chủ quan, khinh địch, không nghe lời can gián, phân tích lợi hại của quần thần, cho nên Duệ Tông bị hãm trong trận và bị Chiêm Thành giết chết, các tướng lĩnh Đồ Lễ, Nguyễn Lạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng đều bị giết hại.

Cũng trong thời kỳ làm vua, Trần Duệ Tông đã tiếp tục đường lối của cha ông mình là liên tục tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Sử cũ có chép lại rằng: "Ất Mão (năm 1375)...xuống chiếu chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập nghề võ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là tôn thất đều làm tướng coi quân ", đồng thời cho ra khỏi quân ngũ những người lính già cả , ốm yếu, bệnh tật...

Đặc biệt là ý thức dân tộc ở Trần Duệ Tông được đề cao. Ông hạ lệnh cho quân dân không được mặc áo kiểu người phương Bắc và bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm - Lào. Vừa bảo vệ được thuần phong mỹ tục, vừa biểu hiện ý thức tự lập, tự cường, ông còn quy định cụ thể về mẫu mã các loại thuyền, xe, kiệu, tán, nghi, trượng và y phục.

Thời gian trị vì đất nước rất ngắn ngủi, nhưng vua Duệ Tông đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc về lòng quả cảm, về ý thức tự lập tự cường. Cũng thời gian đó, lịch sử còn ghi lại nhiều tư liệu về các hành động của quan quân, về đức tính trong sạch thanh liêm của quan lại thời ấy. Chẳng hạn như: Đỗ Tử Bình lãnh hậu quân không đến cứu được vua (đi đánh Chiêm Thành) thoát chết, khi trở về qua Thiên Trường, người ta tranh nhau lấy ngói, gạch ném vào thuyền mà chửi! Hoặc Trương Đỗ là một vị quan thanh liêm, mà tài cao đức trọng, khi vua đi đánh Chiêm Thành, ông đã ba lần dâng sớ can ngăn, vua không nghe, ông bèn treo mũ từ quan bỏ về...

Thượng hoàng Trần Minh Tông cho là vua Dụê Tông vì việc nước mà bỏ mình, nên chiêu hồn chôn ở Hy Lăng và cho lập con trưởng của Duệ Tông là Kiến Đức Đại vương Trần Hiện nối nghiệp nhà Trần.

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđđ... trang 183

10. Trần Phế Đế (1361 - 1388)

Sau khi Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành và mất tại chiến trận, Thượng hoàng đã chon con trưởng của Duệ Tông là Trần Hiện laen ngôi Hoàng đế, tước hiệu là Phế Đế.

Click vào ảnh để xem kích thước thật

Vua là con Gia Huệ Hoàng hậu Lê Thị, sinh ngày 6-3-1361, lên ngôi năm 16 tuổi, làm vua 12 năm, thọ 28 tuổi

Là vị vua thứ 10 của triều đại nhà Trần, Trần Phế Đế trị vì đất nước Đại Việt trong 12 năm. Đó cũng là thời điểm lịch sử Đại Việt gặp nhiều biến động, nhà Trần đang đi vào con đường suy vi.

Cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành liên tục xảy ra. Các bộ sử cũ của ta ghi lại nhiều sự kiện này. Người Chiêm Thành từ năm 1377, 1378, 1383 liên tục xâm lấn và quấy rối Đại Việt. Trần Phế đế ngoài việc tổ chức phòng bị đất nước còn cho sơ tán của cải về các nơi hiểm yếu như: Đem tiền đồng về chôn giấu ở núi Thiên Kiện (Kim Bảng - Hà Nam ngày nay), hoặc đưa tượng các tiên đế nhà Trần từ Long Hưng (Thái Bình) về Yên Sinh (Chí Linh, Hải Dương) để tránh giặc Chiêm Thành.

Đồng thời ở phía Bắc Giang, Nguyễn Bổ nổi loạn, viện quân tới tấp, mà kho tàng trống rỗng. Do vậy, nghe theo lời Đỗ Tử Bình, vua bắt "đinh nam" không phân biệt có ruộng hay không, phải nộp 3 quan tiền một năm, rồi ra lệnh cho các quân sỹ rèn đúc vũ khí, đóng chiến thuyền...

Tháng 11 - 1382, xuống chiếu cho quân dân Nghệ An và Diễn Châu đào các kênh ở Hải Tây...

Đây cũng là thời điểm Hồ Quý Ly bắt đầu đưa vây cánh vào trong triều chính. Vương triều Trần thời điểm này các chức vụ quan trọng không hoàn toàn còn là của các tướng lĩnh người hoàng tộc nữa, nên đã xuất hiện nhiều nhân vật từ trong trăm họ mà trưởng thành như: Hồ Quý Ly, Nguyễn Đa Phương, Phạm Cự Luận, Đào Sư Tích, Đào Toàn Mân...

Trước tình hình đó, tháng 12 - 1283, sau khi người Chiêm Thành rút quân về, Thượng hoàng Nghệ Tông đã cho Nguyễn Mậu Tiên, Phan Nghĩa hàng ngày ghi chép lại những sự kiện cũ của nhà Trần, biên chế thàn 8 quyển, đề là "Bảo hòa dư bút", sai Đào Sư Tích đề tựa để răn dạy quan gia (vua Phế Đế). Đồng thời tổ chức thi Thái học sinh (Tiến sỹ) ở chùa Vạn Phúc (núi Tiên Du - Bắc Ninh), chọn được 30 Tiến sỹ, trong đó có Đoàn Xuân Lôi, Hoành Hối Khanh, bổ nhiệm vào các chức vụ trong hàng ngũ từ triều đình xuống huyện, phủ...

Năm 1384, người Minh bắt đầu đánh Vân Nam và có ý đồ thôn tính Đại Việt. Trong nước lúc này lúng túng, ngoại thích tham gia triều chính và lộng quyền, nhiều tướng lĩnh quý tộc Trần bắt đầu tìm đường ở ẩn như Chương túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán nghỉ quan về Côn Sơn...

Vua Trần Phế Đế lúc này đã thấy rõ bối cảnh triều chính, Thượng hoàng Nghệ Tông thì yêu quý người họ ngoại là Hồ Quý Ly, cho tự ý làm gì thì làm, nên vua bàn mưu với Thái úy (Ngạc) muốn hại Hồ Quý Ly ... Nhưng âm mưu đó bị bại lộ, Hồ Quý Ly mật tâu với Thượng hoàng.

Thế là ngày 6-12-1388, buổi sáng sớm, Thượng hoàng Nghệ Tông giả cách đi ra Yên sinh, sai quần thần theo hầu và cử Chi hậu nội nhân gọi vua đến bàn việc nước. Vua chưa kịp ăn sáng, đi ngay, chỉ mang theo hai người hầu. Khi đến nơi, Thượng hoàng nói:"Đại Vương lại đây" rồi sai người đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc và xuống chiếu cho toàn dân biết rằng: "Trước kia Duệ Tông (là em vua Nghệ Tông) đi tuần phương nam không trở về, dùng con đích để nối ngôi là theo đạo thời xưa. Song, quan gia (tức vua Phế Đế) từ khi lên ngôi đến giờ vẫn còn trẻ con lắm; giữ đức không thường, thân mật với bọn tiểu nhân, nghe bọn Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị gièm pha vu hãm người công thần làm dao động xã tắc, nên giáng xuống là Linh Đức Đại vương. Song nhà nước không thể không có người đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không, nên đón Chiêu Định vương vào nối đại thống".

Một số tướng lĩnh thân cận của vua muốn đem quân vào ứng cứu, nhưng vua viết hai chữ "giải giáp" nghĩa là phải tuân theo lệnh Thượng hoàng, giả tán quan quân. Được một lát, đem vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ giết chết.

Một số tướng lĩnh khác âm mưu chống lại Hồ Quý Ly đều bị giết hại như : Á Phu, Khoái, Vân Nhi, Kha, Bát Sách...

Trần Phế Đế, vua thứ 10 của dòng họ Trần đã không tiếp tục được truyền thống của ông cha mình. Tuy nhà vua có thi hành một số kế sách nhưng không đem lại lợi ích gì cho Đại Việt, và đây cũng chính là bi kịch của dòng họ Trần. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông (bác ruột Phế Đế) buộc phải bắt và giết vua để lập vua mới, giữ an cho xã tắc cuối thế kỷ XIV và đó cũng là thời điểm nhà Trần chuẩn bị rời khỏi vũ đài chính trị, nhường chỗ cho một lưc lượng, một thế lực phong kiến khác nắm quyền quản lý nhà nước Đại Việt.

11. Trần Thuận Tông (1377-1399)

Trần Ngung con út của Thượng hoàng Nghệ Tông lên làm vua đặt niên hiệu là Thuận Tông lúc mới 11 tuổi.

Ông sinh năm 1377, thọ 22 tuổi nhưng làm vua 10 năm, xuất gia 1 năm rồi bị Hồ Quý Ly bức hại. Đây là thời điểm lịch sử đầy biến động trong cung đình nhà Trần và các thế lực ngoại bang: Chiêm Thành (phía Nam), nhà Minh (phía Bắc) luôn luôn quấy rối, xâm lấn. Nhà vua phải cử Hồ Quý Ly vào kháng cự với người Chiêm ở Thanh Hóa, hoặc sư tăng Phạm Sư Ôn chống lại triều đình ở vùng Quốc Oai thượng, lăm le đánh chiếm Kinh Sư, nhà vua cùng Thượng hoàng và tướng Hoàng Phụng Thế đi đánh dẹp...

Năm 1390, Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được vua Chế Bồng Nga. Cùng năm ấy vua ngự đến Long Hưng, Kiến Xương, Yên Sinh làm lễ bái yết Chiêu Lăng.

Ngày 14 tháng 11 năm 1390, Chương túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán từ trần. Trần Nguyên Đán (cháu nội Trần Quang Khải) là người nhân từ, phúc hậu và nho nhã. Có lần Thượng hoàng hỏi về mọi việc, ông nói:"Xin bệ hạ kính nước mình như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nhà nước được vô sự...".

Hồ Quý Ly tự là Lý Nguyên. Đời thứ 12 Hồ Quý Liêm dời đến hương Đại Lại (Phủ Thanh Hóa) làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn từ đấy đổi làm họ Lê. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Hồ Liêm. Đời Trần Nghệ Tông, Hồ Quý Ly từ chức Chi hậu tứ cục Chánh chưởng dần dần thăng lên Phụ chính Thái sư nhiếp chính. Chính vì vậy, Hồ Quý Ly đã từng bước tham gia triều Trần và thực sự là người có tài, được Thượng hoàng Nghệ Tông rất tin dùng. Vua Thuận Tông còn nhỏ. Thượng hoàng thì già cả nhưng đây cũng là giai đoạn nhà Trần cố gắng thực hiện những truyền thống của tiên liệt như tổ chức thi Thái học sinh tuyển chọn nhân tài cho xã tắc. Năm 1396, vua Thuận Tông xuống chiếu định cách thi cử, dùng thể văn bốn kỳ, bãi bỏ phép viết ám tả cổ văn. Kỳ đệ nhất thi một bài kinh nghĩa, có các đoạn phá đề, đại giảng, kết luận từ 500 chữ trở lên. Kỳ thi thứ ba thi một bài chiếu dùng thể Hán, một bài chế, một bài biểu dùng thể tứ lục đời Đường. Kỳ thi thứ tư thi một bài văn sách, lấy kinh sử hay ra đề từ 1.000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi hương, thì năm sau thi hội, ai đỗ thì vua cho thi một bài văn sách để định cao thấp.

Cũng cùng năm ấy, vua hạ lệnh bắt đầu phát hành tiền giấy Thông Bảo hội sao, ai làm giả phải tội chết, tịch thu điền sản vào nước, cấm hẳn tiền đồng, không được chứa và tiêu riêng. Đồng thời, quy định lại các thể thức mũ áo các quan văn võ. Nhất phẩm thì sắc tía, nhị phẩm thì sắc đại hồng, tam phẩm sắc đỏ hoa đào, tứ phẩm sắc lục...

Vua còn nhỏ tuổi, việc nước lại hệ trọng, nên Thượng Hoàng Nghệ Tông đã gọi Hồ Quý Ly lại và giao công việc trong nước cho họ Hồ. Rõ ràng vị vua Thuận Tông lúc này quả là còn non yếu không đủ sức gánh vác nổi giang sơn xã tắc, cũng vì vậy mà tháng 11 năm 1397, Hồ Quý Ly bức vua dời đô đến phủ Thanh Hóa. Hồ Quý Ly ép vua nhường ngôi cho Hoàng Thái tử Án và khuyên vua nên tu hành, gia nhập đạo tiên.

12. Trần Thiếu Đế hoàng đế (1398-1400)

Tên là Án, con trưởng vua Thuận Tôn, ở ngôi vua được 2 năm, Quý Ly phế làm Bảo Ninh Đại Vương.

Phụ thêm Hồ Quý Ly, và Hán Xương.

Quý Ly tên ngự là Lý Nguyên, tự xét vốn tổ tiên là Hồ Hưng Dật, người Triết Giang (nước Tàu) đời hậu Hán đến làm quan ở Diễn Châu, sau ở lại làng Bào Đột[1] châu ấy, đời nào cũng làm chủ trại, cháu 12 đời Hồ Liêm rời đến ở làng Đại Lại, trấn Thanh Hóa, làm con nuôi Lê Huấn, mới đổi ra họ Lê, 4 đời sau đến Quý Ly, làm quan trong triều Trần Nghệ Tôn, lên đến chức Thái sư nhiếp chính, rồi cướp ngôi của nhà Trần, quốc hiệu là Đại Ngu, trở lại họ Hồ; chưa được mấy lâu lại truyền ngôi cho con là Hán Thương, tiếm vị 6 năm, sau cả 2 cha con bị người minh bắt.

Niên hiệu Kiến Tân thứ hai, Quý Ly bắt ép Vua xuất gia đi tu, ở Ngọc Thanh Quan thôn Đạm Thủy, làm bài thơ đưa cho Vua đại ý nói: "Trước đã có vị Vua kèn kém là Hôn Đức và Linh Đức, sao bây giờ không biết sớm tự liệu lấy mình, để phải mệt sức người khác?". Lại mật sai Nguyễn Cẩn đi theo coi chừng, bảo rằng: "Nguyên quân không chết, thì mày nên chết đi". Cẩn dâng thuốc độc lên, nhưng Vua không chết, liền sai Phạm Khả Vĩnh treo cổ Vua lên cho chết.

Click vào ảnh để xem kích thước thật

Quý Ly hội minh thệ ở Đốn Sơn, ngồi ở nhà lầu của Khát Chân, thích khách Phạm Ngưu Tất mưu toan giết Quý Ly, cầm kiếm đứng bên, Khát Chân đưa mắt bảo thôi, nên không làm được việc, Quý Ly thấy trong lòng không yên, đứng lên. Ngưu Tất ném kiếm đi, nói: "Chỉ chết uổng thôi". Việc đó phát giác, lũ Khát Chân hơn 370 người đều bị giết.

Vì việc này mà lùng bắt dư đảng, liền hàng năm không thôi, đi đường nhìn người quen chỉ lấy mắt nhìn, không dám đứng nói chuyện; hành khách có trọ ở đâu, thì hỏi kỹ giấy tờ, thôn xóm đều đặt điếm canh, hỏi xét rất ngặt, trên đường vắng người đi.

Khát Chân người Hà Lương, huyện Vĩnh Phúc, khi đem ra hành hình thì lên núi Đốn Sơn, kêu to 3 tiếng. Chết đã 3 ngày, mặt vẫn như còn sống, ruồi bọ không dám đậu lên. Hiện còn có đền thờ, khi gặp đại hạn, cầu đảo tất được linh ứng.

Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng, mặc áo màu bồ hoàng. Ở Nhân Thọ cung, (hãy còn xưng là Dư, chưa dám xưng là Trẫm), Nguyễn Dụng Phủ, người làng Cổ Đằng, trấn Thanh Hóa, đưa thư nói: "Chương hoàng là danh hiệu gì? Bồ hoàng là màu áo gì? Đối với Tiên đế làm sao?". Quý Ly bắt giam vài ngày lại tha.

Quý Ly hung hăng đến thế, mà trước khi có Bùi Mộng Hoa chê bai, đây lại có Nguyễn Dụng Phủ trách móc, hai người này có khí tiết ngang tàng, Quý Ly không dám giết hại, là vì những kẻ loạn tặc trong lòng vẫn sợ sệt, mà người trung hưng thì đã có trời giúp cho được an toàn.

Quý Ly muốn lấy Hán Thượng làm Thái tử, mà chưa quyết định hẳn, mượn cái nghiên đá làm câu đối rằng: "Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân vi vũ dĩ nhuận sinh dân"[2], bắt các con đối, để xem chí khí thế nào; người con cả là Nguyên Trừng biết được ý của Quý Ly mới đối rằng: "Giá tam thốn tiểu tùng tha nhật tác đống tác lương kham phò xã tắc"[3], để tỏ ý mình chỉ đáng làm người giúp việc thôi, Ư thị Quý Ly mới lập Hán Thượng làm Thái tử, bắt ép vua phải truyền ngôi cho, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu.

Quý Ly thi Thái Học sinh, các ông Nguyễn Trãi, Lý Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành đều dự trúng. Bài phú là Linh Kim Tàng, học trò xin giảng nghĩa đầu đề, có sự tích xưa nay hay không? Duy có Bùi Ứng Đẩu lấy câu Chi ngôn nhật (?) của Tôn Hà Khoa triều Tống trả lời, và giảng nghĩa.

Quý Ly giao hết ngôi vua cho Hán Thương tự xưng là Thượng hoàng, hai cha con cùng giữ chính quyền; sai sứ sang báo với nhà Minh, nói rằng họ Trần hết người rồi, Hán Thương là cháu ngoại vua Minh Tôn quyền giữ việc nước. Vua Minh sai sứ sang hỏi các kỳ mục nước ta xem con cháu nhà Trần còn hay không? Người trong nước lập Hán Thương lên là sự thật hay dối? Hán Thương liền cho người sang cống nhà Minh và xin phong vương, nhà Minh phong cho Hán Thương là An Nam Quốc Vương.

Quý Ly từng nói: "Làm thế nào có được trăm vạn quân để địch với giặc Tàu". Hoàn Hối Khánh xin làm hộ tịch, biên nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên, phàm dân đinh ngụ nơi khác thì đuổi về nguyên quán hết cả. Họ Hồ nghe theo, làm sổ 2 nơi Diễn Châu và Thanh Hóa; làm sổ xong, điểm từ người 15 tuổi trở lên, số nhân khẩu gấp bội khi trước, cho nên đến niên hiệu Thiện Thành thứ ba điểm số quân được rất nhiều.

Đặt ra kho Thường bình, cấp tiền giấy cho các lộ, theo thời giá đong thóc chứa vào kho.

Định quan chế và hình luật Đại Ngu, sửa sang đường sá, từ Tây Đô đến Hóa Châu, dọc theo đường đặt ra nhà trạm gọi là "Thiên Lý cù" (đường thiên lý).

Đại cử đánh Chiêm Thành, chúa Chiêm là Ba Đích lại sợ, sai Bố Điền đến dâng đất Chiêm Động, để cầu xin lui quân về; Quý Ly bắt hiếp phải đổi tờ biểu khác, lấy cả đất Cổ Lũy Động dâng nộp, nhân tiện chia đất ấy ra làm 4 châu Hoa, Tư Nghĩa, cử Nguyễn Cảnh Chân làm quan An Phủ sứ ở Thăng Hoa. Cảnh Chân xin bắt chước Hán và Đường, mộ người nộp thóc vào kho, để biên giới có đủ dùng. Quý Ly phê rằng: "Biết được bao nhiêu chữ, mà nói đến việc xưa Hán, Đường gọi là người cầm tập nói, chỉ làm trò cười mà thôi".

Tạo ra nhã nhạc, lấy con các quan văn làm kinh vĩ lang, con các quan võ làm chỉnh đốn lang, đề tập múa văn và võ. Theo lệ xưa: lễ tế giao, bách quan theo hầu Vua đông lắm, đời trần chưa cử hành việc tế này, Hán Thương đắp đàn tế giao ở Đốn Sơn, làm lễ tế giao, ngồi kiệu long vân đi ra cửa Nam, bách quan, mệnh phụ theo thứ tự đi hầu, đàn bà cũng mũ áo, chỉ kém chồng một bậc, khi tế, lúc dâng chén rượu, run tay rượu đổ xuống đất, mới thôi.

Định thể lệ thuế đinh điền.

Lấy các người không có ruộng mà có tiền của dời vào ở Thăng Hoa, chọn đất mà cho ở, thích 2 chữ tên châu mình ở vào 2 cánh tay làm dấu ghi.

Lúc bấy giờ nước Chiêm Thành dâng đất, nhưng đất trống không có dân, nên phải di dân vào ở đó. Lúc trước Chiêm Thành không có họ, nay từ Thăng Hoa trở vào Nam, người dân có họ, đều là dân đến ở sau lúc thiên cư.

Cải tên Thanh Hóa làm Thiên Xương phủ, cùng với Cửu Chân, Ái Châu, gọi là Kinh kỳ tam phụ.

Hán Thương sai nguyễn Côi đánh Chiêm Thành, không được, rồi trở về. Nước Chiêm cầu cứu với nhà Minh, người Minh cho thuyền biển sang cứu, gặp Nguyễn Côi ở ngoài biển, người Minh bảo rằng: "Nên kéo quân về ngay". Nguyễn Côi ở nước Chiêm về, Quý Ly trách rằng sao không giết hết quân Minh đi.

Thời bấy giờ sứ nhà Minh đi lại liền liền ở đường, có khi thì trưng cầu, có khi thì trách hỏi. Hán Thương sai người tùy tiện mà cứu giải, thật là vất vả về ứng đối.

Xưa kia vua Minh Thái Tổ từng yêu cầu gửi sang cho họ: thầy tăng lên hỏa đàn được và đàn bà đồng cốt, nước ta vẫn phải chiều lòng đưa cho; đến khi vua Thành Tổ tức vị, vẫn để ý xâm lấn nước ta, sai Nguyễn Toán, Tôn Đại đi sứ và dò tìm người thân thuộc, Toán mật bảo người thân rằng: "Nếu có quân Tàu sang thì nên treo lá cờ vàng đề: nội quan họ tên, thân thuộc, tất không bị hại", việc đó phát giác, Hán Thương bắt giết hết.

Nhà Minh lại sai quan Hành nhân Lý Kỳ sang xem xét hình thế Khắp các nơi; đến khi về, Quý Ly sợ tiết lộ sự tình, sai Phạm Lục Tài đuổi theo giết đi, đến Lạng Sơn thì Kỳ đã sang qua Nam Quan rồi. Kỳ về nước có tâu vua Minh xin hạch họ Hồ về cớ tự xưng là Đế và làm thơ có nhiều câu khinh mạn.

Bắt quan viên không được đi giày da, chỉ cho đi giày bằng gai sống; dân thì không được dùng lụa nện, tơ chín làm áo mặc, lại cho những người không có ruộng vào làm "cùng nhân đội".

Sử thần bàn: Hán Thương thống trị một nước, không làm được cho người trong nước có thừa áo mặc, mà lại phân biệt thứ tơ lụa sống hay chín; không làm sao cho kẻ nghèo cùng không bị thất sở, mà lại gọi rõ là cùng nhân đội. hành vi lúc vong quốc không một việc gì đáng nưu ý, nhiếu việc như loại này.

Quý Ly làm thơ răn bảo Hán Thương và Trừng rằng: "Thiên dã phú, đại dã tái, huynh đệ nhị nhân như hà bất tương ái. Ô hô ai tai hề ca khang khái". Nguyễn Ông Kiều truyền tụng bài thơ này, Quý Ly bắt giết đi.

Nhà Minh yêu cầu lấy đất Lộc Châu thuộc trấn Lạng Sơn. Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm Cát Địa sứ, lấy 59 thôn Cổ Lâu trả về cho Minh, (Thổ quan Quảng Tây, Hoàng Quảng Thành bảo rằng: Lộc Châu là đất cũ của phủ Tư Minh). Quý Ly thấy số đất trả lại nhiều quá; phàm thổ quan do Minh bổ đến thì mật sai người thổ ở đấy đánh thuốc độc giết đi.

Bị nạn đói, sai điểm các nhà giầu có nhiều thóc thì đong cho dân.

Quý Ly tự cho rằng mình 70 tuổi, cho các bậc phụ lão 70 tuổi một bậc tước vị, gọi là Thất tuần khánh (mừng 70 tuổi).

Định số quân Nam, Bắc ban, chia làm 12 vệ (mỗi vệ một đội, mỗi đội một người), đại quân 30 đội, trung quân 20 đội, doanh 15 đội, đoàn 10 đội, đặt chức Đại tướng tổng lĩnh cả các quân.

Cử Nguyễn Ngạn Quang làm chức Tuyên Phủ sứ.

Xuống chiếu các quan An Phủ sứ các lộ phải đến kinh khuyết cùng các quan kinh đô bàn kế sách chiến hay hòa (trước sai Phạm Canh sang Minh cầu hòa, người Minh giữ lại, thanh ngôn sang đánh Nam, cho nên bắt các trấn nộp gỗ thông và gỗ mễ vào trại quân, để sẽ cắm ở các cửa biển và chỗ xung yếu ở sông lớn, phòng khi quân Tàu vào cướp), Nguyễn Quân xin hãy tạm hòa để hoãn cho quân, Tướng quốc là Trừng nói: "Thần không sợ đánh nhau, chỉ sợ lòng dân theo hay không thôi".

Nhà Minh sai Hàn Quân, Hoàng Trung đem quân sang xâm lấn, nói giả là đưa vua Trần là Thiêm Bình về nước, Hoàng Trung đánh vào cửa Lãnh kinh, quân Hồ bị thua, Trừng thấy quân địch ít, coi khinh muốn đánh, bỏ thuyền lên bộ, gần bĩ hãm, lại phải chạy xuống thuyền mới được thoát; duy có Hồn Xạ chẹn cửa Chi Lăng, lối đi của quân Minh, tắc đường không lối đi, phải sai quân y là Cao Cảnh Chiếu đưa thư cho ta xin giao trả Thiêm Bình, mà cho quân Minh ra cửa ải, Hồ Xạ bằng lòng cho; nên tuy có bắt được nhiều tù binh, mà quân Minh cũng chạy trốn được, còn bao nhiêu thì phát phối vào Nghệ An. (Thiêm Bình tức là tên Nguyễn Khang, gia nô của Trần Nguyên Huy, trong năm Quang Thái trốn vào theo giặc Chiêm, khi giặc bình, bị bắt trị tội, mới trốn sang Tàu, nhận bậy là con vua Nghệ Tôn, cải tên là Thiêm Bình, xin quân để về nước báo thù. Người Minh vẫn nuôi chí định xâm nước Nam, nhân lấy việc đưa Thiêm Bình về nước làm cớ, không hỏi gì thật hay giả, Thiêm Bình đã được về, bị vặn hỏi là thuộc môn phái nào, nhưng không dám nhận, liền bị giết. Lại xét trước kia Lưu Quang Đình sang sứ nước Tàu, đã lạy Thiêm Bình cũng bị bắt giết).

Hán Thương thưởng những người có chiến công, mỗi người được lên tước vị ba bậc, Hồ Xạ vì nghe kế giả Thiêm Bình của người Minh, để cho Hoàng Trung lẩn trốn được mà không toàn thắng, nên chỉ được thăng một bậc.

Vua sai Trần Cung Túc sang nhà Minh cầu hòa, và biện bạch sự dối trá của Thiêm Bình, người Minh giữ ở lại.

Quý Ly nằm mộng vị thần đọc thơ rằng: "Nhị nguyệt tại gia, tứ nguyệt loạn hoa, ngũ nguyệt phong ba, bát nguyệt sơn hà, thập nguyệt long xa". Đến khi nghe tin quân Minh lại sang, mới có ý lo sợ, (Vua Nghệ Tôn nằm mộng được câu thơ bạch kê, rồi họ Hồ cướp ngôi; Quý Ly nằm mộng được câu thơ phong ba, sơn hà, rồi bị bắt giải về Kim Lăng, thế gọi là làm điều bất thiện tất trong lòng tự biết trước). (Tháng 12 năm sau Hồ Trừng bị thua ở Lỗ Giang, tháng 4, hai cha con Hồ phải đi ra biển, liền bị bại ở Điển Canh, tháng 5 bị bắt ở cửa biển Chỉ Chỉ, tháng 8 bị giải đi, tháng 10 bị giết; số tháng trong bài thơ đều đúng cả. Con bọ ngựa chưa bị bắt, mà hồn bướm đã mơ thấy rồi).

Người Minh lại sang xâm lăng. Trước kia nhà Minh đã phong vương cho Hán Thương, cựu thần nhà Trần là Bùi Bá Kỳ đến đất Bắc cáo nạn, Nguyễn Khang lại giả làm con cháu nhà Trần xin quân phục quốc, vua Minh mới hối là lầm, sai sứ sang trách tội thoán đoạt của Quý Ly, Hán Thương tạ tội, xin rước Thiêm Bình về, lại không đưa vào nước được; vua Minh càng giận, quyết tâm sang đánh, trước hãy sai Chu Năng, Trương Phụ mang ấn Chinh Di Tướng quân thống lĩnh quân đánh nước Nam, một toán quân thì phục, một toán quân thì đi, thay phiên giúp lẫn nhau; Mộc Thạnh, Lý Bân 2 đạo quân kéo đi liền sau, hội nhau ở sông Bạch Hạc, đóng quân dinh ở bờ sông phía bắc. Hán Thương sai Trừng ra cự chiến, đồn quân đóng đối nhau, chưa đánh trận nào. Chu Năng trước hãy ra bảng kể tội họ Hồ, lại dương ngôn là sang lấy lại nước cho nhà Trần, viết vào cái bài bằng gỗ thả cho trôi xuống sông, những người được thấy bài gỗ đó tin là thật; vả lại người dân đương giận sự tàn ngược của Hồ, không có lòng chiến đấu nữa. Quý Ly biết rồi quân Tàu sẽ sang, trước hãy cắm gỗ ở cửa biển, cửa sông, lại xây đắp thành Đa Bang để cố thủ; đến lúc ấy quân Minh đánh lấy được thành Đa Bang, lại đương đêm tập kích quân Hồ ở sông Mộc Hoàn, thuyền bè bị cháy hết, phải làm cầu phao cho quân sang; Trương Phụ đánh mặt tây bắc. Mộc Thạnh đánh mặt đông nam, quân chết cao gần bằng thành, vẫn còn đánh chưa thôi; canh 4 ban đêm, Phụ sai quân sĩ cầm đuốc, tù và đồng, lội qua hai lần hào, bắc thang vào thành, quân bám vào thang bò lên như kiến, tiếng tù và tiếng trống long trời, hàng vạn bó đuốc cùng sáng, Nguyễn Tôn Xã khoét thành cho voi ra; Phụ lấy bức vẽ sư tử phủ lên mình ngựa cho xông vào, voi phải lùi, quân sĩ theo vào, hãm được thành. Người Minh vào được Đông Đô, chia đặt quan, chiêu tập dân để làm kế lâu dài, cướp hết của báu, con gái, thiếu các đồng nam, thu nhặt đồ cống, cho trạm đưa về Kim Lăng.

Các đời Vua Hậu Trần

13. Trần Giản Định hoàng đế (1407-1409)

Vua húy Trần Ngỗi, con thứ của Nghệ Tông được Trần Triệu Cơ cùng quân tướng phủ Thiên Trường tôn lên làm vua ở Mộ Độ (Yên Mô, Ninh Bình) đặt niên hiệu Hưng Khánh, xưng là Giản Định Đế.

Ngay từ buổi đầu lên ngôi, quân Minh đánh hơi thấy đã tiến quân vây hãm, vua phải chạy vào Nghệ An lánh nạn. Đại tri châu Đặng Tất nghe tin, liền giết chết tướng nhà Minh, đem quân ở Châu Hóa đến giúp vua, lại tiến con gái vào hậu cung. Giản Định phong Đặng Tất làm quốc công cùng lo đánh giặc phục hưng đất nước.

Mùa xuân năm Mậu Tý (1408) tướng Minh là Trương Phụ cùng bọn thổ quan đầu hàng giặc đánh Diễm Châu. Vua và Đặng Tất vì quân ít nên phải lui vào Châu Hóa. Trương Phụ tiến công vào cửa biển Bố Chính, cho bọn quan lại đầu hàng cai trị, rồi lại kéo quân về Đông Đô.

Tháng 6, quốc công Đặng Tất đánh phá được bọn quan quân đầu hàng giặc là Phạm Thế Căng giải về hành tại giết chế để răn đe bọn bán nước. Mùa đông, tháng 10 quốc công Đặng Tất điều quân các lộ Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa tiến hành Đông Đô. Trên đường tiến quân, hào kiệt bốn phương thi nhau hưởng ứng, Đặng Tất phân bổ quân ngũ, chọn người tài làm tướng rồi nhất loạt ra quân.

Ngày 14 tháng 12 quân Trần tiến đến Bô Cô, vừa gặp quân cứu viện nhà Minh với 5 vạn binh do Mộc Thạnh chỉ huy, hai bên dàn thế trận chiến đấu. Trần Giản Định tay cầm dùi trống thúc liên hồi, quân Trần ào ào khí thế tiến công, suốt từ giờ tỵ (9-11 giờ) đến giờ Thân (3-5 giờ chiều) thì quân Minh vỡ trận thua chạy. Các tướng binh bộ thượng thư Lưu Tuy, đô ty Lữ Nghị bị tử trận, 10 vạn quân cả cũ lẫn mới tan nát, chết trận rất nhiều, riền Mộc Thanh là tổng binh thoát chết chạy đến thành Cổ Lông (thuộc xã Thanh Hải tỉnh Hà Nam).

Đáng tiếc là vua quan nhà Hậu Trần không cương quyết thừa thế phản công, lại chia quân vây hãm các thành, khiến quân Minh ở Đông Quan đến giải vây cứu Mộc Thạnh...

Đáng tiếc nữa là khi cơ sự chưa thành, tháng 2 năm Kỷ Sửu 1409 Trần Giản Định nghe bọn gian thần nghi Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân chuyên quyenef, nếu không tính sớm e sau sẽ khó kiềm chế, rồi cho gọi hai người đến giết chết. Đây là việc làm kém cỏi, tàn nhẫn của Trần Ngỗi, sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: "Vua may thoát hiểm, cầu người giúp nạn nước, được cha con Đặng tất có tài làm tướng, cha con Cảnh Chân có mưu lược đủ lập được công khôi phục, dựng nghiệp trung hưng, trận thằng Bô Cô, thế nước lại dâng, thế mà nghe lời dèm của bọn hoạn quan, một lúc giết hại người bề tôi phò tá, tự mình chặt bỏ chân tay vây cánh thì làm sao nên việc được".

Con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị, con Đặng Tất là Đặng Dung bực tức vì cha bị giết oan, liền đem quân Thuận Hóa vào Thanh - Nghệ đón Trần Quý Khoáng lập làm vua tại huyện Chi La (nay là huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh).

Ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Sửu Trần Quý Khoáng lên ngôi, lấy niên hiệu là Trùng Quang, phong Nguyễn Súy làm Thái phó và bọn Nguyễn Súy để phòng Trần Ngỗi chống đối nên đem quân đánh úp, bắt được vua quan Trần Giản Định, chấm dứt thời kỳ I, nhà Hậu Trần - Giản Định Đế.

Bọn tay chân của Giản Định cùng với Hành Khiển Lê Triệt, Lê Nguyên Đỉnh ngầm dấy quân đánh lại Trùng Quang, nhưng cơ mưu bại lộ, bọn phản trắc đều bị giết.

Ngày 20 tháng 4 bọn Nguyễn Súy dẫn Trần Giản Định vào Nghệ An, Trùng Quang đế rất khiêm nhường, mặc thường phục xuống thuyền đón rước, lập Giản Định làm thượng hoàng, cùng lòng lo chống ngoại xâm. Nhưng cuối tháng 7 thượng hoàng bỏ thuyền lên bờ đến trấn Thiên Quan, vua ngờ thượng hoàng có bụng khác, sai Nguyễn Súy đuổi theo không kịp. Nhưng Thượng Hoàng lại sa vào tay giặc, bị giải về Kim Lăng giết chết.

14. Trùng Quang Đế ( ? - 1414 )

Là vua thứ hai của triều Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam

Tên huý là Quý Khoáng

Người hương Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định, Việt Nam.

Trị vì 1409 - 1414

Triều đại Hậu Trần

Niên hiệu Trùng Quang

Thời gian ở ngôi của Trùng Quang Đế là thời kỳ chống sự đô hộ của nhà Minh sau khi nước Đại Ngu của nhà Hồ bị xâm chiếm.

Trùng Quang Đế là con của Trang Định vương Trần Ngạc, cháu nội vua Trần Nghệ Tông. Khi Giản Định Đế (Trần Ngỗi) nghe lời gièm pha giết chết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, ông được Đặng Dung (con của Đặng Tất) và Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đưa lên làm vua thay thế cho Giản Định Đế. Tuy nhiên Giản Định Đế vẫn được ông tôn lên làm thượng hoàng.

Thân thế

Trùng Quang Đế là con của Trang Định vương Trần Ngạc, cháu nội vua Trần Nghệ Tông. Khi Giản Định Đế (Trần Ngỗi) nghe lời gièm pha giết chết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, ông được Đặng Dung (con của Đặng Tất) và Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đưa lên làm vua thay thế cho Giản Định Đế. Tuy nhiên Giản Định Đế vẫn được ông tôn lên làm thượng hoàng.

Tôn lập thượng hoàng

Trần Quý Khoáng lên ngôi ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Sửu (1409), phong Nguyễn Suý làm thái phó, sai đem quân đón Giản Định Đế để tránh sự phân tán lực lượng. Quân của Trần Giản Định là Hành khiển Lê Triệt và Lê Nguyên Đỉnh dấy quân chống lại xong bại lộ, bị giết. Ngày 20 tháng 4, Giản Định bị dẫn về Nghệ An, Trùng Quang khiêm nhường mặc thường phục xuống thuyền đón rước, lập Giản Định làm thượng hoàng.

Tháng 7 năm 1409, vua Trùng Quang cùng thượng hoàng chia quân hai đường đánh quân Minh. Thượng hoàng Trần Ngỗi đóng ở Hạ Hồng (Ninh Giang, Hải Dương), Trùng Quang đế đóng ở Bình Than. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh. Tướng Minh là Trương Phụ đem quân cứu viện, thượng hoàng thấy liền rời thuyền chạy lên trấn Thiên Quan, Quý Khoáng ngời thượng hoàng có lòng khác, liền sai người đuổi theo. Nguyễn Súy đuổi theo không kịp, nhưng Trương Phụ lại bắt được thượng hoàng Trần Ngỗi, giải về Kim Lăng giết chết.

Tận lực chống Minh

Nhà Minh muốn đánh chiếm Đại Việt lâu dài nên năm 1410, tổng binh Trương Phụ sai quân mở đồn điền ở địa bàn Tuyên Quang,Thái Nguyên, Tam Giang tạo lương thực cho quân, lại cấp ruộng đất cho các thổ quan đầu hàng để họ thu tô thay cho bổng lộc, cấp ruộng đất cho quân đội để cày cấy lấy lương thực. Nhà Minh còn cấp bằng ghi công trạng cho các thổ quan đi đánh dẹp quân khởi nghĩa người Việt. Vì vậy có một bộ phận người Việt là thổ quan, hàng tướng phản bội, cùng với những kẻ nhát gan đã từng tiếp tay cho địch diệt nhà Hồ, nay lại tiếp tay cho giặc đàn áp cuộc khởi nghĩa của Trùng Quang Đế, khiến cuộc khởi nghĩa gặp trăm ngàn khó khăn. Nhưng vua tôi Trùng Quang vẫn dũng cảm chiến đấu.

Tháng năm năm 1410, Trùng Quang Đế và Nguyễn Cảnh Dị đánh thắng quân của Đô đốc Giang Hạo nhà Minh ở La Châu, Hạ Hồng, thừa thắng truy kích đến bến Bình Than, đốt phá thuyền trại của giặc.

Tháng bảy năm 1411, Trùng Quang Đế và Nguyễn Súy chia quân đánh các cửa biển, bắt bọn thổ quan theo giặc và Nguyễn Chính ở Bài Lâm, chém bêu đầu cảnh cáo.

Tháng sáu năm 1412, Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh Nghệ An gặp quân của Nguyễn Suý, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ ở vùng Ninh Bình, Nam Định. Chưa phân thắng bại thì Nguyễn Suý, Cảnh Dị rồi Hồ Bối đều bỏ chạy, Đặng Dung phải dùng thuyền nhẹ rút lui ra biển, các thành tại Thanh Hoá, Diễn Châu, Nghệ An bị chiếm.

Cùng lúc đó, Nông Văn Lịch ở Lạng Sơn cầm đầu quân khởi nghĩa "áo đỏ" chẹn đường giao thông, giết chết được Tham chính người Việt là Mạc Thuý của giặc và tiêu diệt được khác nhiều quân giặc. Người Liễu, người Lỵ Nhân ở Lục Na, Vũ Lễ cũng tập hợp đánh giặc, nhưng do thiếu sự liên kết với vua nên các thế lực này dần tan vỡ.

Sau khi bị dồn về phía Nam, đến tháng ba năm 1413 Trùng Quang Đế mới trở lại Nghệ An với một lực lượng đã suy yếu nhiều, nhưng vẫn nuôi hy vọng phục hồi thế trận. Trương Phụ lại đánh vào Nghệ An, vua phải rút về Châu Hóa, sai Nguyễn Biểu làm sứ đi cầu phong, đến Nghệ An bị Trương Phụ bắt giữ, Nguyễn Biều tức giận mắng Trương Phụ :

Trong bụng thì mưu đánh lấy nước, bên ngoài giả làm quân nhân nghĩa. Đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận huyện, không chỉ cướp lấy vàng bạc châu báu, lại còn giết hại nhân dân, thực là giặc tàn ngược

rồi bị Phụ giết chết.

Trương Phụ được Việt gian Phan Liêu chỉ điểm cho biết nơi quân Hậu Trần ẩn náu liền đem quân vào châu Hoá, song vấp phải sự phản kháng quyết liệt của các tướng nhà Trần. Nguyễn Súy dàn trận tại kênh Thái Đà, đánh nhau ác liệt, Đặng Dung dùng voi đánh úp dinh của Phụ, định nhảy lên thuyền Phụ bắt sống mà không nhận được mặt, Phụ nhảy lên thuyền nhỏ trốn mất, quân Minh tan vỡ quá nửa, thuyền chiến vũ khí bị đốt phá gần hết. Thế nhưng Nguyễn Súy không chịu hợp sức cùng Đặng Dung chiến đấu, mà quân thì còn rất ít. Trương Phụ thấy vậy xua tàn quân phản công, thay đổi cục diện. Quân Đặng Dung phải lui, ẩn nấp trong hang núi, thế lực suy giảm. Sau đó, cả Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bị giặc bắt, Nguyễn Cảnh Dị mắng Phụ: Ta muốn giết mày, thành ra lại bị mày bắt được, Phụ giận sôi tiết sai mổ lấy gan ăn.

Trùng Quang Đế chạy sang nước Lão Qua, sau đó bị người của Phụ bắt. Các tướng Hậu Trần cũng lần lượt bị bắt. Người của Thuận Hóa cũng ra hàng, từ đó nhà Hậu Trần chấm dứt.

Đầu năm 1414, vua Trùng Quang cùng các bầy tôi bị giải về Trung Quốc. Giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống nước tự vẫn. Các bầy tôi của ông là Đặng Dung, Nguyễn Súy sau đó cũng đều tự vẫn chết vì nước.

Nhận định

Trùng Quang Đế là vị vua yêu nước, trọng nghĩa, yêu thơ văn chữ Nôm, các tác phẩm của ông có nội dung trong sáng, đề cao tinh thần thượng võ của dân tộc. Trong nhiều sách còn ghi lại bài thơ tiễn Nguyễn Biểu đi sứ và bài văn tế Nguyễn Biểu của vua, thể hiện lòng cảm kích của vua với khí tiết đáng trân trọng của Nguyễn Biểu.

Vua tôi Trùng Quang Đế có thừa lòng quyết tâm phục quốc nhưng lực bất tòng tâm, không thể chống lại được quân đội nhà Minh dưới thời Minh Thành Tổ Chu Đệ hiếu chiến hơn các vua Nhân Tông, Tuyên Tông đời sau (thời khởi nghĩa Lam Sơn) và tướng Trương Phụ giỏi bậc nhất của Trung Quốc khi đó. Giống như Hậu Lý Nam Đế, Khúc Thừa Mỹ, cha con Hồ Quý Ly và thượng hoàng Giản Định Đế, vua Trùng Quang bị sa vào tay giặc. Nhưng khác với tất cả các vị đi trước, Trùng Quang Đế đã tự vẫn mất theo nước. Ông là vị vua duy nhất trong lịch sử Việt Nam chọn cái chết oanh liệt khi chống ngoại xâm thất bại. Cái chết của ông để người Minh thấy rằng dù chiếm được nước Đại Ngu nhưng họ không thể nào khuất phục được người Việt.

Continue Reading

You'll Also Like

15K 1.8K 61
Tác phẩm: Cấp Trên Có Mưu Đồ Làm Loạn Với Tôi (上司她对我图谋不轨) Tác giả: Thái Thái Cẩn (菜菜槿) Thể loại: Bách hợp, hiện đại, hài hước, điềm văn, 1×1, HE. Nhâ...
872K 35.7K 109
Tác giả: Ngã Ái Cật Băng Bổng Tình trạng tác phẩm gốc: Hoàn thành (99 chương + 11 ngoại truyện) Tình trạng edit: Hoàn thành (28/04/2024) Thể loại: Na...
287K 20.2K 96
[Trọng Sinh] Tên cũ: Rời Xa Cố Chấp Giáo Thảo Tác giả: Sở chấp Thể loại: Trọng sinh, trưởng thành, hoa quý vũ quý*, 1v1, vườn trường, công truy thụ...