nữ hoàng tin đồn p2

By shinichi09

1.8K 1 0

More

nữ hoàng tin đồn p2

1.8K 1 0
By shinichi09

Chương I:

Chúa Tể Tung Hoành

Hai người đàn ông hiện ra từ vô định, đứng cách nhau không xa trong một con hẻm nhỏ sáng lờ mờ dưới ánh trăng. Trong một vài giây họ đứng lặng yên, đũa phép chỉ vào ngực đối phương; và rồi, nhận ra người còn lại, họ thu cây đũa phép về phía dưới chiếc áo chùng và cùng rảo bước đi về một hướng.

“Có tin gì không?” người đàn ông cao hơn hỏi cộc lốc.

“Thứ tuyệt vời nhất,” Severus Snape đáp lại.

Bên trái con hẻm là một vùng hoang vu, đầy những cây bụi gai lùn tịt mọc sát sạt, còn ở phía bên phải lại là một hàng rào cao được dựng lên công phu. Hai chiếc áo chùng dài bay nhẹ, phấp phới tầm mắt cá chân theo mỗi bước đi.

“Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi bị muộn rồi,” Yax­ley nói, sự thô kệch của hắn hiện rõ mồn một từ trong ra ngoài chả khác gì những nhánh cây dại kia đang cố tình vươn ra và xé toạc ánh trăng. “Việc đó thực sự không được tốt đẹp như mong muốn của tôi, nhưng hi vọng chủ nhân sẽ hài lòng. Còn ông trông có vẻ tự tin với những gì ông mang đến nhỉ?”

Snape gật đầu một cách qua quýt. Họ rẽ phải, rời khỏi con hẻm và đi trên một con đường lớn. Cái hàng rào cao bây giờ cong vút về phía họ, chạy dọc theo khoảng không bên cạnh cánh cổng sắt bọc kim loại bệ vệ chắn ngang đường đi. Không ai trong số hai người dừng bước: Trong im lặng, cả hai cùng giơ cánh tay trái như một lời chào và xuyên thẳng qua cánh cửa, tựa như tất cả chỗ kim loại đen sì đó chỉ là một làn khói.

Hàng rào cây thủy tùng như bọc lấy bước chân của 2 người. Có một tiếng xào xạc đâu đó bên phải họ: Yax­ley nâng cây đũa phép qua đầu người đồng hành với hắn, nhưng những âm thanh đó không phát ra bởi một vật gì khác ngoài một con công trắng muốt, đi lại đầy khệnh khạng trên đỉnh hàng rào.

“Luôn làm ra vẻ như mình tốt đẹp lắm, lão Lu­cius. Công với chả kiếc …” Yax­ley lại cất cây đũa phép đi, kèm theo một tiếng kịt mũi.

Một trang viên dần hiện lên trong bóng tối ở cuối con đường, với ánh sáng tỏa ra từ những ô cửa sổ kim cương ở tầng dưới. Đâu đó trong khu vườn tối om, bên cạnh cái hang rào là tiếng một con suối đang róc rách chảy. Tiếng sỏi lạo xạo theo từng bước nhanh của Snape và Yax­ley tiến về phía cái cửa chính đang từ từ hé ra khi họ lại gần dù cho chẳng có ai hữu hình mở nó.

Hành lang dẫn vào sảnh rộng lớn, sáng lờ nhờ, và được trang trí đầy xa hoa, với một tấm thảm lộng lẫy che phủ hết sàn nhà – vốn được lát đá. Ánh mắt của những bức chân dung nhợt nhạt trên tường gắn chặt vào từng bước chân của Snape và Yax­ley khi họ lướt qua. Hai kẻ đó dừng lại trước một cánh cửa gỗ lớn dẫn vào căn phòng tiếp theo, do dự một chút, rồi Snape vặn cái nắm đấm cửa bằng đồng.

Căn phòng này đầy những người ngồi lặng yên quanh một chiếc bàn dài với hoa văn tinh xảo. Các đồ nột thất thường ngày trong phòng thì được dựng vào tường một cách cẩu thả. Căn phòng được thắp sáng duy nhất bằng ngọn lửa đang tí tách trong chiếc lò sưởi bằng đá hoa cương, ánh sáng phản chiếu qua một chiếc gương mạ vàng. Snape và Yax­ley ngập ngừng trong vài giây ở bậc cửa. Trong khi đôi mắt chưa kịp quen với cái thứ ánh sang mờ nhạt này, hai gã bị cuốn vào một cảnh trông thật dị thường: một người trong trạng thái vô thức rõ ràng đang lơ lửng ngược hướng xuống cái bàn, quay chầm chậm như đang bị treo bởi một sợi dây thừng vô hình – hình ảnh này phản chiếu ở trong gương, trên trần nhà và trên cái mặt bàn nhẵn bóng ở phía dưới. Không có một ai trong những người ngồi bên dưới nhìn về phía cái cảnh tượng này ngoài trừ một gã trẻ tuổi, mặt tái xanh ngồi gần ngay phía dưới. Gã dường như không thể ngăn mình cứ ngước nhìn chằm chằm mỗi phút một lần hay đại loại như vậy.

“Yax­ley. Snape,” một giọng nói rõ cao và lạnh vút phát ra từ đầu bàn. “Hai ngươi gần như rất muộn rồi.”

Người vừa nói ngồi trực diện với ngọn lửa, cho nên lúc đầu, thật khó cho những người mới đến có thể nhận ra điều gì ngoài hình dáng của hắn. Mặc dù vậy, khi hai người tiến lại gần, gương mặt hắn sáng lên trong bóng tối căn phòng, trọc lóc, trông giống một con rắn, với lỗ mũi chìa ra và đôi mắt đỏ quạch với hai đồng tử dựng thẳng đứng. Hắn nhợt nhạt đến nỗi có vẻ như đang phát ra thứ ánh sáng màu ngọc trai.

“Severus, lại đây,” Volde­mort nói, chỉ vào cái ghế ngay sát bên phải hắn. “Còn Yax­ley – ngồi bên cạnh Dolo­hov.”

Hai gã ngồi vào đúng vị trí được định sẵn. Đa số những ánh mắt trong căn phòng đều đổ dồn vào Snape, người được Volde­mort cất lời trước.

“Vậy?”

“Thưa chủ nhân, Hội Phượng hoàng có ý định sẽ đưa Har­ry từ nơi trú ẩn hiện tại đến nơi an toàn vào thứ 7 tới, lúc hoàng hôn.”

Sự chú ý trong căn phòng dâng lên đến mức có thể cảm thấy được: Một số người nhảy dựng lên, số khác thì bồn chồn, tất cả đều đổ dồn về phía Snape và Volde­mort.

“Thứ bảy… lúc hoàng hôn,” Volde­mort nhắc lại. Đôi mắt đỏ quạch của Vol­der­mort hướng về phía đôi mắt đen của Snape, nhìn chăm chăm đến nỗi mà một vài kẻ đã hốt hoảng quay đi, cái nhìn đó đáng sợ, thực sự đáng sợ đến như có thể thiêu rụi, luồn lách vào mọi ngõ ngách trong tâm trí của chúng. Snape, tuy nhiên, nhìn một cách bình tĩnh vào khuôn mặt của Volde­mort, và, sau một hoặc vài phút, cái miệng không môi của Volde­mort cong lên như một nụ cười.

“Tốt. Quá tốt. và cái thông tin này đến –“

“ – từ nguồn mà chúng ta đã bàn luận,” Snape tiếp lời.

“Thưa Chủ nhân.”

Yax­ley khẽ nghiêng người, cúi mặt xuống chiếc bàn dài chỗ Volde­mort and Snape. Tất cả mọi khuôn mặt đổ dồn về phía hắn.

“Chủ nhân, tôi lại nghe khác với như thế”

Yax­ley đợi, nhưng Vol­der­mort không nói gì cả, nên hắn ta tiếp tục, “Dawlish, tên Thần Sáng, đã để lộ ra rằng Har­ry Pot­ter sẽ không dời đi đâu cả cho tới ngày 31, sinh nhật lần thứ 17 của nó.”

Snape mỉm cười.

“Nguồn của tôi nói rằng có nhiều kế hoạch nhằm tạo ra các dấu vết giả; chắc là như vậy rồi. Không có nghi ngờ gì việc Dawlish đã bị ếm bùa lú. Và đây không phải lần đầu; hắn ta được biết là một kẻ dễ bị sai khiến.”

“Tôi đảm bảo với ngài, chủ nhân, Dawlish dường như rất chắc chắn,” Yax­ley nói.

“Nếu hắn trúng bùa lú thì đúng là hắn luôn chắc chắn rồi,” Snape nói. “Tôi dám chắc với ông, Yax­ley, Văn phòng Thần sáng sẽ không tiếp tục đi xa hơn nữa trong việc bảo vệ Har­ry Pot­ter. Hội Phượng Hoàng tin rằng chúng ta đã xâm nhập được bộ.”

“Cái Hội đó chỉ biết có mỗi vậy thôi mà, nhỉ?” một gã béo ngồi không xa Yax­ley nói; cái câu hỏi của hắn mang đến những tiếng cười khúc khích và những tiếng khò khè đây đó khắp chiếc bàn dài.

Vol­der­mort không cười. Hắn chăm chú nhìn về phía cái thân thể đang xoay tròn chậm chạp phía bên trên, dường như đang suy nghĩ mông lung lắm.

“Chúa tể của tôi,” Yax­ley tiếp tục, “Dawlish tin rằng toàn bộ lực lượng thần sáng sẽ được huy động để bảo vệ cho thằng nhỏ“

Volde­mort giơ một bàn tay trắng bệch lênh, và Yax­ley im bặt, nhìn một cách tức tối, Volde­mort hướng cái nhìn đến Snape.

“Chúng sẽ giấu thằng bé ở đâu?”

“Ở nhà của một thành viên trong Hội,” Snape nói. “Ở một nơi mà – theo như nguồn tin – được sự kết hợp bảo vệ của cả Bộ Pháp thuật và Hội Phượng Hoàng. Tôi nghĩ rằng sẽ không có mấy cơ hội để tóm được thằng nhỏ khi chúng đã đến đó, thưa chủ nhân, trừ phi, tất nhiên rồi, Bộ Pháp thuật sẽ mắc một sai lầm nào đó trước thứ bảy tới, điều đó sẽ tạo một cơ hội đầy thuận lợi cho chúng ta trong việc tìm hiểu và gỡ bỏ đủ những phép thuật bảo vệ để có thể phá vỡ những rào cản còn lại trong việc tóm lấy thằng bé.”

“Còn Yax­ley?” Volde­mort gọi xuống cái bàn, ngọn lửa bùng lên trong đôi mắt đỏ quạch của hắn. “Liệu bộ pháp thuật có mắc sai lầm vào thứ 7 tới chứ?”

Một lần nữa, những cái đầu lại ngoái lại. Yax­ley điều chỉnh lại hai vai.

“Chủ nhân, tôi có thông tin tốt về việc đó. Tôi đã vượt qua những khó khăn, và bằng những nỗ lực phi thường thành công trong việc ếm Lời Nguyền Độc Đoán lên Pius Thick­nesse.”

Rất nhiều người xung quanh Yax­ley nhìn hắn đầy thán phục; ngồi cạnh hắn, Dolo­hov, kẻ với khuôn mặt dài, xoắn vặn, vỗ nhẹ vào lưng hắn.

“Đó mới là sự khởi đầu,” Volde­mort nói. “Nhưng Thick­nesse chả có ý nghĩa gì cả. Scrim­geour buộc phải bị vây bởi người của ta trước khi ta hành động. Mỗi một sự sai lầm trong cuộc sống của lão bộ trưởng sẽ khiến chúng ta phải lùi lại những bước dài.”

“Vâng – chủ nhân, điều đó chính xác – nhưng ngài biết đấy, với vai giò là giám đốc Sở Thi Hành Luật Pháp Thuật, Thick­nesse không chỉ tự mình tiếp xúc thường xuyên với lão Bộ Trưởng Min­is­ter, mà còn với rất nhiều giám đốc của các sở khác. Điều đó sẽ, theo tôi nghĩ, sẽ trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết khi có một quan chức cấp cao nằm dưới quyền điều khiển của chúng ta, để tiếp tục chinh phục nhưng kẻ còn lại, và rồi chúng sẽ cùng nhau hành động để nhấn chìm lão Scrim­geour.”

“Miễn là ông bạn Thick­nesse của chúng ta không bị phát hiện trước khi kịp thay đổi mọi chuyện.” Volde­mort nói “Bằng giá nào,vẫn phải chắc chắn rằng Bộ Pháp Thuật là của ta trước thứ bảy tới. Nếu chúng ta không thể đụng được thằng nhóc đó tại đích đến của nó, thì phải làm được việc đó trong khi nó đang di chuyển.”

“Chúng ta có lợi thế ở điểm đó, thưa ngài” Yax­ley nói. Hắn dường như chắc chắn nhận được vài sự tán thành.”Hiện tại, chúng ta có vài người được cài vào Bộ Vận Tải Pháp Thuật. Nếu Pot­ter độn thổ hay dùng mạng Floo, chúng ta sẽ biết ngay lập tức.”

“Nó sẽ không làm thế đâu” Snape đáp “Hội đang cố tránh bất kỳ hình thức vận chuyển nào được kiểm soát hay có liên quan đến Bộ. Bọn chúng không tin tưởng bất cứ thứ gì từ nơi đấy.”

“Càng hay” Volde­mort lên tiếng “Nó sẽ phải di chuyển lộ liễu. Dễ tóm hơn nhiều.”

Một lần nữa, Volde­mort nhìn lên thân người đang quay chầm chậm. Hắn ta nói tiếp “Đích thân ta sẽ gặp mặt thằng oắt ấy. Har­ry Pot­ter đã xớ rớ vào quá nhiều lỗi lầm. Một vài trong số những lỗi ấy là từ phía ta.Việc Pot­ter vẫn còn sống là do những sơ suất của ta hơn là do những thắng lợi của nó.”

Đám người ngồi quanh bàn quan sát Volde­mort một cách lo lắng, mỗi người trong số đó, bằng sự biểu lộ của mình, lo sợ rằng chúng có thể bị khiển trách vì Har­ry Pot­ter vẫn còn sống. Tuy vậy, Volde­mort dường như đang tự nói với mình hơn là bất kì ai trong số bọn chúng.Vẫn chăm chú vào cái thân người bất tỉnh trên đầu, hắn nói:

“Ta đã bất cẩn, đồng thời cũng bị thời vận và sự tình cờ phá đám, những kẻ phá hoại này từ mọi phía nhưng lại là sự phá hoại ghê gớm nhất kế hoạch. Nhưng giờ ta đã khôn ra. Ta hiểu được những điều mà trước đây ta mù tịt. Ta phải là người giết Har­ry, và ta sẽ làm thế!”

Đúng lúc nói ra những từ này, như để đáp lại chúng, một tiếng khóc thét thình lình vang lên,tiếng kêu khóc khủng khiếp, kéo dài của sự khổ ải và đau đớn. Nhiều người ngồi trên bàn nhìn xuống, giật nảy mình , dường như tiếng khóc phát ra từ dưới chân của họ.

”Đuôi Trùn” Volde­mort gọi, vẫn không thay đổi cái giọng nhẹ nhàng của hắn, giọng nói thâm trầm, và cũng không rời mắt khỏi cái thân người xoay tròn ở trên đầu. “Có phải là ta đã không nói gì với ngươi về việc giữ cho tù nhân của chúng ta im lặng ?”

“Dạ, thưa.. chủ nhân” một gã đàn ông nhỏ thó ngồi ở nửa cuối chiếc bàn hổn hển. Hắn ngồi lọt thỏm trong cái ghế mà khi nhìn thoáng qua trông như có vẻ như bị bỏ trống. Bây giờ hắn bò ra khỏi chỗ ngồi của mình và vội vã rời khỏi phòng, chẳng để lại gì sau lưng hắn ngoài một tia sáng bạc lập lòe trông rất kì dị.

“Như ta đã nói.” Volde­mort tiếp tục, nhìn lại những gương mặt căng thẳng của đám đệ tử, “Bây giờ ta đã hiểu biết hơn. Ta sẽ cần, cụ thể là mượn một cây đũa phép của một trong số các ngươi trước khi đi khử thằng Pot­ter.”

Những gương mặt xung quanh hắn không biểu lộ gì ngoại trừ vẻ sửng sốt; cứ như thể là hắn vừa thông báo rằng hắn muốn mượn một cánh tay của bọn chúng.

“Không một ai tình nguyện ư?” Volde­mort hỏi “Để xem nào … Lu­cius, ta thấy không có lý do gì để ngươi có một cây đũa nữa”.

Lu­cius Mal­foy ngước nhìn lên. Nước da vàng bủng của hắn trông nhợt nhạt dưới ánh lửa, đôi mắt gã trũng sâu và tăm tối. Khi lên tiếng, giọng của gã đã khản đặc.

“Dạ, thưa ngài?”

“Đũa phép của ngươi, Lu­cius. Ta yêu cầu đũa phép của ngươi.”

“Tôi …”

Mal­foy liếc ngang sang vợ hắn. Bà ta nhìn chằm chằm thẳng về phía trước, cũng tái nhợt đi như hắn. Mái tóc vàng hoe dốc xuống lưng, nhưng bàn những với ngón tay mảnh mai của bà ta khẽ nắm vào cổ tay hắn trong một thoáng. Sau cái chạm tay của mụ, Mal­foy đặt tay vào trong áo chùng, rút ra một cây đũa phép và dâng nó lên cho Volde­mort. Hắn giữ cây đũa phép trước đôi mắt đỏ ké , kiểm tra một cách tỉ mỉ.

“Chất liệu gì?”

“Gỗ Dâu, thưa chủ nhân.” Mal­foy run rẩy nói.

“Còn lõi?”

“Rồng… gân tim của rồng.”

“Tốt.” Volde­mort nói. Hắn rút cây đũa phép của mình ra và so sánh độ dài. Lu­cius Mal­foy vô tình làm một cử chỉ; trong một tích tắc, dường như gã mong chờ được nhận đũa phép của Volde­mort để đổi lại cái của hắn. Cử chỉ đó không qua được Volde­mort, hắn mở rộng đôi mắt một cách thâm hiểm.

“Đưa ngươi đũa phép của ta ư, Lu­cius? Đũa phép của ta chứ gì?”

Vài tên trong đám cười khẩy.

“Ta đã ban cho ngươi sự tự do của ngươi, Lu­cius, thế vẫn chưa đủ sao? Ta để ý thấy dạo này ngươi và gia đình của ngươi có vẻ không được vui… Có gì liên quan đến việc ta đến nhà ngươi và hất cẳng ngươi ra không Lu­cius?”

“Không có gì, không có chút gì đâu ,thưa chủ nhân!”

“Một sự dối trá, Lu­cius…”

Giọng nói nhẹ nhàng dường như vẫn rít lên ngay cả khi cái miệng tàn bạo đã ngừng lại. Một hay hai pháp sư cố ngăn cơn rùng mình một cách lộ liễu khi tiếng rít lớn dần lên lên; một cái gì đó nặng nề có thể nghe thấy là nó đang trườn ngang qua sàn nhà bên dưới gầm bàn.

Con rắn to tướng chậm chạp leo lên cái ghế của Volde­mort. Nó trườn lên,tưởng chừng như bất tận,và rồi vòng mình ngoan ngoãn trên vai của Volde­mort: cổ con rắn to bằng như bắp đùi một người đàn ông; mắt nó, với những con ngươi thẳng đứng của chúng nhìn không chớp. Volde­mort vuốt ve sinh vật yêu quý của mình một cách lơ đãng với những ngón tay rất dài, vẫn nhìn vào Lu­cius Mal­foy.

“Tại sao người nhà Mal­foy trông không được hạnh phúc với định mệnh của họ? Chẳng lẽ sự trở lại của ta, sự lớn mạnh quyền lực của ta, đó không phải là những thứ mà họ đã thề nguyện là cũng mong muốn trong nhiều năm qua?”

“Dĩ nhiên rồi, thưa

chủ nhân.” Lu­cius Mal­foy đáp. Bàn tay hắn run rẩy khi gã lau mồ hôi ở môi nhân trung. “Chúng tôi thực đã mong ước như thế… chúng tôi…”

Bên trái Mal­foy, vợ hắn làm một trò ngớ ngẩn, gật đầu một cách vất vả, đôi mắt bà tránh nhìn vào Volde­mort và con rắn.

Bên phải hắn, con trai hắn, Dra­co, nhìn chăm chăm cái thân người ì trệ trên đầu. Liếc nhanh Volde­mort rồi tránh đi, kinh hãi khi chạm mắt hắn.

“Thưa ngài.” một người đàn bà ngồi ở nửa dưới cái bàn, không trông rõ mặt nói, giọng bà ta vô cảm, “Thật vinh hạnh khi chủ nhân ở đây, trong ngôi nhà của gia đình chúng tôi. Không có gì vinh hạnh hơn thế.”

Bà ta ngồi bên cạnh em gái mình, trông không giống mụ lắm với mái tóc đen và mí mắt nặng chịch khi bà ta xun xoe rẻ rúng chính mình; trong khi Nar­cis­sa ngồi bất động bình thản, Bel­la­trix lại nghiêng người về phía Volde­mort, vì chỉ ngôn từ thì không thể chứng tỏ được sự thèm khát được xích lại gần chủ nhân của mụ ta.

“Không có gì vinh hạnh hơn.” Volde­mort lập lại, cái đầu hắn khẽ nghiêng một chút khi hắn ngắm nghía Bel­la­trix, “Điều này là một sự thẳng thắn vô cùng từ phía ngươi đấy, Bel­la­trix.”

Mặt mụ ta sáng lên, đôi mắt trào ra dòng nước mắt hạnh phúc.

“Chủ nhân biết là tôi không nói gì ngoài sự thật!”

“Không gì hân hạnh hơn … thậm chí là so với sự kiện mừng vui,mà ta nghe rằng, đã đến với gia đình ngươi trong tuần này?”

Bà ta nhìn hắn chăm chú, miệng há ra một cách rất bối rối.

“Chủ nhân, tôi không hiểu ý ngài.”

“Ta đang nói về cháu gái ngươi, Bel­la­trix. Và cũng là cháu của các người nữa, Lu­cius và Nar­cis­sa. Nó chỉ vừa mới kết hôn với thằng người sói Re­mus Lupin. Ngươi chắc hẳn phải tự hào lắm.”

Những tràng cười chế nhạo vang lên xung quanh cái bàn. Những tên Tử thần thực tử nhìn nhau với ánh mắt hân hoan; có những tên còn đập bàn ầm ỹ. Con rắn khổng lồ, khó chịu với sự ồn ào, há to miệng và rít lên một cách giận dữ, nhưng những tên Tử thần thực tử không nghe thấy nó, chúng vẫn cứ hân hoan trước nỗi nhục của gia đình Mal­foy. Gương mặt Bel­la­trix vừa mới giãn ra sung sướng đã cau lại xấu hổ, đỏ bầm.

“Nó không phải là cháu gái của chúng tôi, thưa chủ nhân.” mụ ta nức nở “Chúng tôi – Nar­cis­sa và tôi – chưa bao giờ đế mắt đến con em họ tôi từ khi nó cưới một tên máu bùn. Con bé ấy chẳng có gì liên hệ với chúng tôi, cũng như bất cứ con quái vật nào mà nó lấy làm chồng.”

“Mày nói sao hả Dra­co?” Volde­mort hỏi,và mặc dù giọng hắn nhẹ nhàng nhưng nó kéo theo những tiếng huýt sáo và tràng cười nhạo báng.“Mày sẽ trông nom đứa bé mất dạy đó chứ hả?”

Sự vui vẻ rộn lên; Dra­co Mal­foy hoảng sợ nhìn sang cha nó, còn ông ta đang dán mắt xuống tà áo chùng của mình, rồi quay sang bắt gặp ánh mắt của mẹ nó. Bà ta lắc khẽ lắc đầu, rồi gương mặt bà lại vô hồn nhìn chằm chặp lên bức tường đối diện.

“Đủ rồi.” Volde­mort nói, vuốt ve con rắn đang giận dữ. “Đủ rồi!”

Tiếng cười nhạo im bặt ngay lập tức.

“Nhiều cây gia phả lâu đời nhất của chúng ta đã tàn lụi theo thời gi­an.” Hắn nói khi Bel­la­trix nhìn hắn chăm chú, nín thở và cầu khẩn “Phải cắt tỉa chính bản thân các ngươi, phải làm thế, để giữ cho nó tươi tốt, phải không? Cắt hết những cành nhánh nào de đoạ đến mọi cành khác.”

“Vâng, thưa ngài.” Bel­la­trix thì thầm, và đôi mắt mụ một lần nữa lại đẫm những giọt nước mắt biết ơn. “Ngay khi có cơ hội.”

“Ngươi sẽ có nó.” Volde­mort đáp “Và trong gia đình ngươi, cũng như trên cả thế giới này… chúng ta sẽ cắt bỏ bất kỳ chỗ thối rữa nào gây bệnh cho chúng ta cho đến khi chỉ còn lại dòng máu thật thực sự còn lại…”

Volde­mort giơ cây đũa của Lu­cius Mal­foy lên, chỉ thẳng vào cái hình thù xoay vòng phía trên bàn, và cho nó một cái gõ nhẹ. Hình hài ấy sống dậy với tiếng rên rỉ và bắt đầu cật lực chống lại những dây trói vô hình.

“Ngươi có nhận ra vị khách của chúng ta không, Severus?” Volde­mort hỏi.

Snape giương mắt lên nhìn khuôn mặt úp xuống dưới. Bây giờ cả bọn Tử Thần Thực Tử cũng nhìn người bị gi­am giữ, như thể chúng được phép biểu lộ “đức tính” tò mò của mình. Khi gương mặt cô ta quay tới vùng lửa sáng, cô ta nói với giọng khiếp sợ và đứt quãng, “Severus! Cứu ta với!”

“Dạ, có.” Snape nói khi thân hình của tù nhân lại chầm chậm quay đi.

“Còn ngươi, Dra­co?” Volde­mort hỏi, gõ nhẹ vào mũi con rắn bằng tay kia không có đũa phép. Dra­co ngập ngừng lắc đầu. Giờ đây khi người phụ nữ kia đã thức dậy, có vẻ nó không thể tiếp tục nhìn cô ta thêm nữa.

“Nhưng ngươi đâu có học ở lớp con mụ này.” Volde­mort nói, “Cho những kẻ nào không biết: tham gia cùng chúng ta ở đây đêm nay là quý bà Char­ity Burbage, người đã dạy tại trường Ma thuật và Pháp thuật Hog­warts cho đến thời gi­an gần đây.”

Có tiếng xì xào nho nhỏ của sự hiểu biết xung quanh cái bàn, họ đã nhận ra người phụ nữ. Ở ngoài, một mụ bướu cổ cười khùng khục.

“Vâng … giáo sư Burbage dạy lũ trẻ của giới Pháp Sư và Phù Thuỷ chúng ta mọi thứ liên quan đến bọn Mug­gle… rằng bọn chúng khác chúng ta như thế nào đây mà…”

Một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử dẫm mạnh chân xuống sàn. Char­ity Burbage lại quay về phía mặt Snape.

“Severus… làm ơn… làm ơn…”

“Câm miệng” Volde­mort gầm lên, vẫy cây đũa của Mal­foy, và Char­ity nín thinh như bị bịt mồm. “Không chỉ làm sa đoạ và ô uế đầu óc của bọn nhóc phù thuỷ, tuần trước giáo sư Burbage đã viết cực lực bao biện cho bọn Máu Bùn trên tờ Nhật Báo Tiên Tri. Các pháp sư – mụ viết – phải chấp nhận những tên trộm của những kiến thức và phép thuật của họ. Việc lụi tàn của dòng máu thuần chủng, theo như bà giáo Burbage này, là hoàn cảnh đáng mong đợi nhất… mụ mong chúng ta sẽ kết bạn với bọn Mug­gle đó… hay, không còn nghi ngờ gì nữa, với cả lũ Người Sói…”

Lúc này không một ai cười. Không thể nhầm lẫn được sự giận dữ và khinh bỉ trong giọng nói của Volde­mort. Lần thứ ba, Char­ity Burbage quay lại trước mặt Snape. Nước mắt của bà ta lăn từ khoé mắt xuống mái tóc. Snape nhìn lại bà, điềm tĩnh, trong khi cô chậm chạp quay khỏi hắn ta lần nữa.

“Ava­da Ka­davra”

Một tia chớp sáng màu xanh lá soi sáng mọi góc trong căn phòng. Một tiếng gãy lớn vang lên và Char­ity rơi trên mặt bàn bên dưới, khiến nó rung lên và kêu cọt kẹt. Một vài Tử Thần Thực Tử lùi vội ra phía sau những cái ghế của họ. Dra­co ngã lăn trên sàn nhà.

“Bữa tối, Nagi­ni” Volde­mort nhẹ nhàng, và con rắn to lớn lắc lư trườn từ vai hắn xuống mặt sàn gỗ bóng loáng.

Chương II:

Trong Ký Ức

Har­ry đang bị chảy máu. Ép bàn tay phải vào phía trái người, vừa lẩm bẩm chửi thề vừa thở dốc, Har­ry hích cách cửa phòng ngủ mở ra. Một tiếng kêu lanh lảnh của đồ sứ bị vỡ vang lên. Nó đã dẫm phải một cái cốc trà lạnh được đặt trên sàn nhà bên ngoài phòng ngủ của nó.

“Cái quái–?”

Nó nhìn xung quanh, khu vực xung quanh số 4, đường Priv­et Drive trống trơn. Có lẽ chiếc cốc trà là một ý tưởng khá vụng về của Dud­ley cho một cái bẫy. Giữ bàn tay đau không bị hạ xuống, Har­ry nhặt những mảnh vỡ của chiếc cốc lại bằng tay kia và ném chúng vào trong cái thùng rác đã đầy ắp ở trong phòng ngủ của nó. Rồi nó lê chân vào trong buồng tắm để xả nước vào ngón tay đau.

Điều này thật là ngu ngốc, vớ vẩn, bực mình khi mà còn bốn ngày nữa và không được phép thực hiện bất cứ phép thuật nào… nhưng nó phải thừa nhận với chính mình rằng vết cắt khá sâu trên ngón tay của nó đã thực sự thắng nó. Nó chưa bao giờ học để chữa trị một vết thương, và bây giờ khi phải nghĩ tới điều này- đặc biệt là với những ý tưởng mới xuất hiện trong đầu – có vẻ như là một cơn gió thoảng qua trong vốn kiến thức pháp thuật của nó. Ghi nhớ trong đầu để sau này hỏi Hermione cách xử lý, nó dùng một đống giấy vệ sinh để cố gắng lau sạch đi vết nước trà trước khi lết chân về phòng ngủ và đóng sầm cái cửa sau lưng.

Har­ry đã sử dụng buổi sáng để dọn sạch cái rương ở trường của nó lần đầu tiên kể từ khi nó bắt đầu sử dụng nó sáu năm trước. Vào thời điểm trước khi bắt đầu những năm học trước đây, Har­ry chỉ lôi ba phần tư vật dụng ở trong để thay thế hoặc dọn dẹp lại chúng, để lại phần đáy với những thứ cũ và hỏng như: bút lông cũ, những cái mắt gián khô, vài cái tất đơn không còn vừa nữa. Vài phút trước, Har­ry đã thò tay vào đống hỗn tạp này, và hứng chịu một cơn đau trên ngón áp út của bàn tay phải, và nó đã bị chảy khá nhiều máu.

Bây giờ nó dọn dẹp một cách cẩn thận hơn. Quỳ xuống cạnh cái rương cũ nát, nó vơ xung quanh đáy và, sau khi kéo một cái phù hiệu luôn biến hình từ CỔ VŨ CEDRIC DIG­GORY và POT­TER THÚI HOẮC, một cái Ống kính mách lẻo đã bị vỡ tung, và một cái mặt dây chuyền bằng vàng chứa bên trong mẩu giấy có ghi R.A.B, và rồi nó tìm thấy vật sắc cạnh mà đã cắt vào tay nó. Nó nhận ra vật ấy ngay lập tức. Đó là một mảnh vỡ dài hai inch của chiếc gương ma thuật mà cha đỡ đầu Sir­ius đã trao cho nó. Har­ry đặt mảnh gương bên cạnh và đổ những thứ còn lại ra một cách cẩn thận, nhưng không có gì có giá trị sót lại ngoại trừ những hạt bột kính vụn từ món quà cuối cùng của chú Sir­ius bám vào những đồ vật còn lại như lớp bụi phủ lấp lánh.

Har­ry ngồi xuống và ngắm kỹ mảnh gương vỡ mà đã cắt vào tay, nó không thấy gì ngoài đôi mắt sáng xanh của nó nhìn chăm chú. Rồi nó đặt mảnh vỡ lên trên tờ Nhật báo tiên tri sáng nay chưa kịp đọc đang ở trên giường, sau đó Har­ry ngăn những kỷ niệm buồn tràn về, nhói lên những vết đau của tiếc nuối và nỗi trông chờ điều kỳ diệu ở chiếc gương vỡ bằng cách lục lọi tất cả những đồ vật hư hỏng còn lại trong chiếc rương.

Mất thêm một giờ nữa để hoàn toàn dọn sạch chiếc rương, ném đi những vật vô dụng, và sắp xếp những thứ còn lại theo chồng tuỳ thuộc việc nó sẽ cần chúng từ bây giờ trở đi hay không. Đồng phục trường và Quid­ditch, những cái vạc, giấy da, bút lông và hầu hết những sách học của nó được xếp vào góc để bỏ lại ở đây. Nó băn khoăn việc dì dượng của nó sẽ xử lý đống đồ ấy như thế nào; có lẽ là đốt chúng vào lúc nửa đêm như thể chúng là những bằng chứng của một tội ác nguy hiểm nào đấy. Đồ đạc Mug­gle của nó, Áo Choàng Tàng Hình, bộ pha chế độc dược, một vài cuốn sách, al­bum hình mà bác Ha­grid đã tặng cho nó trước đây, một chồng thư, và đũa phép của nó được gói gém trong một cái ba lô. Ở túi trước là tấm Bản Đồ Đạo Tặc và chiếc mặt dây chuyền với mảnh giấy có ký chữ R.A.B ở bên trong. Chiếc mặt dây chuyền được đặt ở vị trí trang trọng này không phải vì nó có giá trị nào đấy – vì về mọi mặt vật này là vô giá trị – mà bởi vì cái giá đã phải trả để có được nó.

Chỉ còn lại một chồng báo đặt ở trên bàn phía sau con cú trắng Hed­wig: mỗi một tờ là một ngày mà Har­ry đã ở tại đường Priv­et Drive mùa hè này.

Nó bước xuống sàn nhà, vươn người chồm qua cái bàn. Hed­wig vẫn đứng im khi nó rút chồng báo, ném chúng vào đống đồ bỏ đi từng tờ một. Con cú đang ngủ hoặc có lẽ là giả bộ như thế; Hed­wig khá bực mình với Har­ry vì lượng thời gi­an ít ỏi mà nó được cho phép ra khỏi cái lồng gần đây.

Khi ném gần hết chồng báo, Har­ry ngừng tay lại, tìm kiếm số báo đặc biệt mà nó nhớ là được phát hành ngay khi nó vừa quay trở lại đường Priv­et Drive cho kỳ nghỉ hè; nó nhớ chắc rằng đã có một tin nhỏ ở trang nhất về việc từ chức của Char­ity Burbage, giáo viên dạy môn Mug­gle học ở Hog­warts. Cuối cùng nó cũng tìm thấy nó. Mở trang mười ra, Har­ry ngồi phịch xuống ghế và đọc lại bài báo mà nó tìm được.

Nhớ về Al­bus Dumb­er­dore

Bởi El­phias Doge

Tôi gặp Al­bus Dumb­er­dore lúc tôi mười một tuổi, ngày đầu tiên tôi tới Hog­warts. Cảm tình của chúng tôi chắc chắn bắt nguồn từ việc chúng tôi đều bị đối xử như là những kẻ đứng ngoài. Tôi đã bị đậu rồng ngay trước khi nhập học, và mặc dầu tôi không còn truyền nhiễm bệnh nữa, nhưng khuôn mặt với những nốt mụn xanh nhạt đã khiến nhiều người không dám lại gần tôi. Còn riêng về cậu ấy, Al­bus đến Hog­warts trong lòng trĩu nặng những tai tiếng không muốn có. Đặc biệt là việc năm trước đấy, bố cậu ấy, Per­ci­val, đã bị kết tội về việc tấn công một cách độc ác và công khai ba thiếu niên Mug­gle trẻ tuổi.

Al­bus chưa bao giờ phủ nhận rằng cha cậu (người mà sẽ phải chết ở Azk­aban) đã phạm tội; mặt khác, khi tôi lấy hết can đảm để hỏi cậu, cậu ấy khẳng định rằng cậu biết rằng cha cậu có tội. Ngoài ra, Dum­ble­dore từ chối nói chuyện về vấn đề đau buồn này, mặc dù có nhiều người cố gắng gặng hỏi cậu ấy. Một vài người đã chộp lấy cơ hội để ca ngợi hành động đấy của cha cậu, và cho rằng Al­bus là một kẻ căm ghét Mug­gle. Họ đã không thể phạm sai lầm gì hơn: Những người biết về Dum­ble­dore sẽ chắc chắn khẳng định, ông ấy chưa bao giờ thể hiện một hành động dù nhỏ nhất chống lại Mug­gle. Ngược lại, sự ủng hộ kiên định của ông ấy cho quyền của Mug­gle đã tạo thêm nhiều kẻ thù của ông trong những năm sau đấy.

Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau, danh tiếng của chính Al­bus đã bắt đầu che phủ tai tiếng của cha cậu. Cuối năm học đầu tiên, cậu không còn bị xem là con của một kẻ ghét Mug­gle nữa, thay vào đấy được ca ngợi là một học sinh xuất sắc chưa từng thấy ở ngôi trường này. Những người trong chúng tôi có vinh hạnh được làm bạn cậu ấy xem cậu như là một tấm gương tiêu biểu, không kể đến những sự trợ giúp và cổ vũ, và việc cậu ấy luôn luôn rất rộng rãi với mọi người. Ông ấy có thú nhận với tôi sau này rằng ngay lúc ấy ông đã biết niềm đam mê lớn nhất của đời ông là giáo dục.

Cậu không chỉ đoạt được mọi phần thưởng mà nhà trường đưa ra, cậu còn nhanh chóng có thư từ qua lại thường xuyên với những phù thuỷ danh tiếng nhất lúc đó, bao gồm Nico­las Flamel, nhà giả thuật kim vĩ đại; Bathil­da Bagshot, vị sử gia được ghi danh sau này; và Al­dal­bert Waf­fling, nhà lý thuyết pháp thuật nổi tiếng. Một số trong những bài viết của cậu đã được xuất bản rất rộng rãi như là Thuật biến hình ngày nay, Những thử thách của Bùa chú, và Độc dược gia ứng dụng. Tương lai của Dum­ble­dore có vẻ rất sáng lạn, và câu hỏi duy nhất còn lại là khi nào cậu sẽ trở thành Bộ Trưởng bộ Pháp Thuật. Mặc dù nhiều năm sau đấy, ông được dự đoán là sẽ đảm nhiệm chức vụ này, nhưng ông chưa bao giờ có đam mê trở thành một vị Bộ trưởng.

Ba năm sau khi chúng tôi học ở Hog­warts, người em của Al­bus, Aber­forth cũng được nhập học. Họ không giống nhau cho lắm: Aber­forth chưa bao giờ đam mê sách vở, và không như Al­bus, cậu ta thích dàn xếp các tranh cãi bằng cách đấu phép hơn là qua những tranh luận hợp lý. Tuy nhiên, thật khá sai lầm khi nói như một số người rằng, anh em họ không phải là bạn bè. Họ cũng va chạm với nhau thoải mái như hai hai chàng trai khác biệt. Công bằng mà nói về Aber­forth, phải thừa nhận rằng sống trong cái bóng của Al­bus không thể có một sự thoải mái dễ chịu lắm. Luôn bị lấp bóng là điều rõ ràng khi ở bên cạnh cậu ấy, và càng không dễ chịu hơn với tư cách là một người em trai. Khi Al­bus và tôi rời Hog­warts, chúng tôi quyết định sau đấy sẽ đi một chuyến du lịch vòng quanh thế giới với nhau, viếng thăm và học hỏi những phù thuỷ ngoại quốc trước khi tiếp tục theo đuổi những sự nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, một thảm kịch đã xảy ra. Vào lúc bắt đầu chuyến đi của chúng tôi, mẹ của Al­bus, Kendra qua đời, để lại trọng trách gia đình nặng nề lên vài Al­bus. Tôi hoãn chuyến đi của mình một thời gi­an để tham dự lễ tang của Kendra, và rồi bắt đầu chuyến đi mà khi đó 

chỉ còn một mình tôi. Với một người em trai và một người em gái phải chăm sóc, và chỉ còn một ít vàng cho an hem họ họ, rõ ràng rằng Al­bus không thể đi cùng tôi trong chuyến du lịch này.

Khoảng thời gi­an đó là khoảng thời gi­an chúng tôi rất hiếm hoi có liên lạc với nhau. Tôi viết cho Al­bus, mô tả, một cách vô tình, những thú vị của chuyến du lịch, từ những lần chạy thoát đứng tim khỏi những con Chi­maera (Chú thích của người dịch: quái vật đầu sư tử, mình bò sát, đuôi là một con rắn, có một đầu dê mọc trên lưng – Thần thoại Hy Lạp), cho tới tới những thí nghiệm của những nhà giả kim thuật Ai Cập. Còn những lá thư của cậu kể với tôi khá ít ỏi về cuộc sống ngày qua ngày của cậu, theo tôi nghĩ thì đấy là một sự gò bó không dễ chịu cho một phù thuỷ tuyệt vời như thế. Đắm mình ở trong những khám phá mới của tôi, tôi đã sửng sốt khi nghe một tin về một chuyện buồn xảy ra với Dum­ble­dore vào cuối chuyến du lịch của tôi: cái chết của em gái cậu ấy, Ar­iana.

Mặc dù Ar­iana đã ở trong tình trạng sức khoẻ tồi tệ trong thời gi­an dài, cú chấn động lớn của việc mất đi người mẹ quá sớm đã tác động sâu sắc tới cả hai người anh em của cô. Và những người thân cận với Al­bus – tôi tính tôi là một trong những người may mắn đó – đều đồng ý rằng cái chết của Ar­iana, và việc Al­bus cảm thấy có trách nhiệm cá nhân ở trong đó (mặc dù, dĩ nhiên là ông ấy không có lỗi), đã để lại dấu ấn lớn trong cuộc đời cậu mãi mãi.

Tôi quay trở về và gặp chàng trai trẻ, người mà phải trải qua nhiều điều đau khổ hơn tuổi của mình. Al­bus đã trở nên kín đáo và dè dặt hơn trước, và kém vô tư hơn. Thêm vào những nỗi đau trên, sự ra đi của Ar­iana đã dẫn tới sự xa rời hơn nữa trong mối quan hệ giữa Al­bus và Aber­forth, vốn đã không thân thiết lắm. (Và đến lúc điều này cũng được xoá đi – trong những năm sau họ đã thân thiết trở lại, nếu không phải là một mối quan hệ gần gũi, thì chắc chắn là một mối quan hệ chân thành.) Tuy nhiên, cậu hiếm hoi nói về bố mẹ của cậu ấy hay Ar­iana kể từ đó, và bạn bè cậu học cách không nhắc tới điều đó nữa.

Những cây bút khác sẽ mô tả những thành công của ông ấy trong những năm sau này. Những cống hiến không kể xiết của Dum­ble­dore cho kho tàng kiến thức Phù thuỷ, bao gồm việc khám phá ra mười hai công dụng của máu rồng tạo ra nhiều lợi ích cho nhiều thế hệ sau này, cũng như những suy xét sáng suốt ông thể hiện trong những phán quyết khi còn làm phù thuỷ lãnh đạo của Wiz­eng­amot. Mọi người vẫn nói rằng, không có trận đấu phù thuỷ nào có thể sánh được với trận đấu giữa Dum­ble­dore và Grindel­wald vào năm 1945. Những người mà chứng kiến nó đã kể về sự khủng khiếp và đáng sợ khi họ chứng kiến hai phù thuỷ siêu phàm vào trận đấu. Chiến thắng của Dum­ble­dore, và những kết quả của nó cho thế giới Pháp thuật, được coi là bước ngoặt trong lịch sử pháp thuật sánh ngang với sự ra đời Đạo luật Quốc tế về Đảm bảo bí mật hay sự thất bại của Kẻ-Mà-Chớ-Gọi-Tên-Ra.

Al­bus Dum­ble­dore chưa bao giờ tự hào hay kiêu ngạo; ông luôn tìm thấy một điều gì đấy có giá trị trong mỗi con người, dù chúng có vẻ không nổi bật hay đặc biệt, và tôi tin rằng những mất mát trong tuổi trẻ của ông đã tạo nên trong ông lòng nhân đạo và cảm thông sâu sắc. Tôi sẽ nhớ tình bạn với ông ấy nhiều hơn tôi có thể nói ra, nhưng mất mát của tôi là không gì cả so với những tổn thất của thế giới phù thuỷ. Rằng ông ấy là người truyền cảm hứng và được yêu quý nhất trong tất cả những vị hiệu trưởng ở Hog­warts là một điều không thể chối cãi. Ông ấy ra đi như ông ấy đã sống: luôn làm việc cho những điều tốt đẹp hơn tới những giây phút cuối cùng, cũng như là mong muốn nắm lấy bàn tay của một cậu bé nhỏ bị đậu rồng trong ngày đầu tiên tôi gặp ông.

Har­ry đã đọc xong, nhưng vẫn nhìn chăm chú vào bức hình kèm theo bài viết. Cụ Dum­ble­dore vẫn có nụ cười quen thuộc, hiền hậu ấy, nhưng khi cụ hé mắt qua gờ tấm hính bán nguyệt, bức hình cho nó cảm giác, ngay cả trên tờ giấy báo, như là đang quét qua người Har­ry, nỗi buồn trộn lẫn với sự bẽ bàng xâm chiếm tâm trí nó.

Nó đã nghĩ rằng nó biết cụ Dum­ble­dore khá nhiều, nhưng khi đọc bài viết này, nó buộc phải thừa nhận rằng nó thực ra chỉ biết một chút ít về cụ. Chưa bao giờ Har­ry có thể tưởng tượng tuổi thơ của cụ Dum­ble­dore hay tuổi trẻ của cụ; hình ảnh của Dum­ble­dore trong Har­ry luôn là một người với mái tóc và chùm râu dài bạc óng đáng tôn kính. Ý nghĩ về tuổi trẻ của Dum­ble­dore đơn giản với Har­ry là lạ lẫm, như cố gắng hình dung một Hermione ngu ngốc hay một con Quái tôm đuôi nổ thân thiện.

Nó chưa bao giờ nghĩ tới việc hỏi cụ Dum­ble­dore về quá khứ của cụ. Không nghi ngờ gì điều ấy sẽ khá lạ lẫm, thậm chí là thiếu lễ độ, nhưng sau điều mà tất cả mọi người đều biết là Dum­ble­dore đã tham gia trận đấu phép lịch sử với Grindel­ward, Har­ry còn không nghĩ tới việc hỏi cụ Dum­ble­dore trận đánh như thế nào, hay hỏi về bất cứ thành công nổi tiếng nào mà cụ Dum­ble­dore đã giành được. Không, họ luôn luôn thảo luận về Har­ry, quá khứ của Har­ry, tương lai của Har­ry, những kế hoạch của Har­ry… và với Har­ry bây giờ, bất chấp sự thật là tương lai của cậu rất nguy hiểm và bấp bênh, rằng nó đã mất đi cơ hội không thể thay thế được khi đã không hỏi cụ Dum­ble­dore nhiều hơn nữa về chính nó, mặc dù câu hỏi riêng tư duy nhất mà nó từng đưa ra cho vị hiệu trưởng cũng là câu mà nó nghi ngờ cụ Dum­ble­dore đã không trả lời thành thật.

“Thầy thấy gì khi thầy nhìn vào trong gương ạ?”

“Ta ư? Ta thấy ta cần một đôi tất len dày.”

Sau một vài phút suy nghĩ, Har­ry xé bài báo ra khỏi tờ Nhật báo tiên tri, gấp lại cẩn thận, và kẹp nó vào tập đầu của Pháp thuật tự vệ Thực hành và Cách sử dụng chống lại Ma Thuật hắc ám. Sau đấy nó ném tờ báo vào trong chồng rác và quay lại nhìn căn phòng. Bây giờ nó đã gọn gàng hơn nhiều. Thứ duy nhất còn sót lại là tờ Nhật báo tiên tri ngày hôm nay, vẫn còn nằm ở trên giường, với mảnh gương vỡ nằm ở trên nó.

Har­ry chồm người lên giường, đẩy mảnh gương vỡ khỏi tờ Nhật báo tiên tri và mở tờ báo ra. Nó chỉ lướt qua cái tít lớn nhất khi lấy tờ báo được cuộn tròn từ con cú vận chuyển sáng sớm nay và ném nó bên cạnh, sau khi thấy rằng nó không viết gì về Volde­mort. Har­ry chắc chắn rằng Bộ Pháp thuật đã tác động lên tờ Nhật báo để giấu nhẹm đi các tin tức về Volde­mort. Và bây giờ, nó mới thấy là nó đã bỏ lỡ điều gì trên tờ báo đó.

Ngay phía nửa dưới của trang đầu tiên, có một cái tít nhỏ được in ngang trên hình cụ Dum­ble­dore kèm theo, trông rất khó chịu:

Dum­ble­dore – Sự thật cuối cùng.

Được xuất bản tuần tới, câu chuyện bất ngờ của của người đươc coi là thiên tài chói lọi bởi nhiều người và được xem là phù thuỷ vĩ đại nhất thế hệ của ông ta. Gạt sang một bên hình ảnh nổi tiếng của một nhà thông thái điềm đạm với bộ râu màu bạc, nhà báo Ri­ta Skeeter hẹ lộ sự thật về tuổi thơ bất trắc, về tuổi trẻ ngoài vòng pháp luật, về mối hận lâu năm, về những bí mật tội lỗi mà Dum­ble­dore đã mang xuống nấm mồ của ông ta, TẠI SAO người mà được đề cử là Bộ trưởng bộ Pháp thuật kiên định ở lại trên vị trí Hiệu trưởng đơn thuần? MỤC ĐÍCH GÌ của một tổ chức bí mật được biết tới cái tên là Hội Phượng Hoàng? Và Dum­ble­dore gặp kết cục thế này là NHƯ THẾ NÀO?

Câu trả lời cho những câu hỏi này và còn nhiều vấn đề khác được khám phá ở trong cuốn tiểu sử đặc biệt mới, Cuộc Đời và Sự Dối Trá của Al­bus Dum­ble­dore, bởi Ri­ta Skeeter, với bài phỏng vấn đặc biệt của Berry Braith­waite, trang số 13.

Har­ry mở vội tờ báo và tìm trang mười ba. Bài viết được kèm theo một hình ảnh với một bộ mặt quen thuộc: một người phụ nữ đeo một cái kính trang sức cầu kỳ với bộ tóc vàng xoăn trau chuốt kỹ lưỡng, hàm răng của mụ được lộ ra với một điều rõ ràng là một nụ cười chiến thắng, với những ngón tay uốn éo về phía nó. Cố gắng hết sức để tảng lờ bức hình tởm lợm, Har­ry đọc tiếp.

Về cảm nhận của tôi, Ri­ta Skeeter sôi nổi và dịu dàng hơn những bức hình nổi tiếng trên các tờ báo mang lại. Chào đón tôi ở tiền sảnh của ngôi nhà ấm cúng của cô, cô dẫn tôi đến nhà bếp để uống trà, dùng kèm một biếng bánh ngọt, và dĩ nhiên không phải nói, đấy là bắt đầu câu chuyện nóng hổi của chúng tôi.

“Vâng, hiển nhiên Dum­ble­dore là một giấc mơ của một tiểu sử gia,” Skeeterr nói. “Quả là một cuộc đời dài, với bao nhiêu chuyện. Tôi chắc chắn rằng cuốn sách của tôi là cuốn sách đầu tiên của rất rất nhiều trong số đó.”

Skeeter chắc chắn đã nhanh chóng ghi dấu ấn. Cuốn sách-chín-trăm-trang hoàn thành chỉ trong bốn tuần ngay sau cái chết bí ẩn của Dum­ble­dore vào tháng Sáu. Tôi hỏi cô bằng cách nào cô có thể hoàn thành một công việc lớn nhanh chóng như vậy.

“Ồ, khi bạn đã làm nghề viết phóng sự như tôi đây, làm việc đuổi kịp một thời hạn là một tính cách không thể thiếu. Tôi biết rằng thế giới phù thuỷ đã sôi sục muốn biết câu chuyện đầy đủ và tôi muốn là người đầu tiên đáp ứng được mong mỏi này.

Tôi nhắc tới bài viết khá nổi tiếng và ấn tượng gần đây của El­phias Do­gas, Tư vấn viên Đặc biệt của hiệp hội Wiz­eg­amot và cũng là một người bạn lâu năm của Al­bus Dum­ble­dore, rằng “cuốn sách của Skeeter chứa ít sự thật hơn là một cái thẻ của Sô-cô-la ếch.”

Skeeter đã ngửa bật cười rất vui vẻ và nói.

“Dodgy thân yêu! Tôi nhớ tôi đã phỏng vấn ông ấy vài năm trước về quyền lợi của người cá, trời phụ hộ cho ông ta. Thật sự lẩm cẩm, có vẻ như ông ta nghĩ rằng chúng ta đang ngồi trên đáy hồ Win­der­mere, luôn luôn nói với tôi phải đề phòng những con cá hồi.”

Và tuy vậy những cáo buộc về tính thiếu chính xác của El­phias Doge đã vang tới nhiều nơi. Thực sự có phải Skeeter nghĩ rằng bốn tuần ấy đủ dài để vẽ nên một hình ảnh đầy đủ của cuộc đời dài và kỳ lạ của Dum­ble­dore?

“Ồ, bạn yêu quý,” Skeeter cười rạng rỡ, kéo tôi ra khỏi những dòng suy nghĩ trong đầu, “bạn cũng biết tôi có thể kiếm được bao nhiêu thông tin bằng một cái túi lớn với những đồng Galleons, và tôi từ chối nghe từ ‘không’, và dĩ nhiên phải kể đên là cây Bút lông tự động ghi chép yêu quý của tôi! Mọi người đang xếp hàng để kể về những điều bẩn thỉu về cuộc đời Dum­ble­dore đấy! Không phải ai cũng nghĩ ông ta quá tuyệt vời đâu, bạn biết đấy – ông ta dẫm lên những phần quan trọng của những ngón chân. Nhưng lão già Dodgy Doge có thể xuống từ con bằng mã tự tin của lão được rồi, bởi tôi đã thâm nhập được vào một nguồn thông tin mà hầu hết các nhà phóng sự sẵn sàng đánh đổi đũa phép của họ để có được nó, nguồn mà chưa bao giờ phát biểu trước công chúng trước đây và là người rất gần gũi với Dum­ble­dore trong suốt những phần tuổi trẻ hỗn loạn của Dum­ble­dore.”

Sự xuất bản rộng rãi của cuốn hồi ký viết bởi Skeeter này chắc chắn sẽ gây ra nhiều ngạc nhiên lớn cho những ai tin rằng Dum­ble­dore đã có một cuộc đời không có tội lỗi gì. Những điều bất ngờ lớn nhất nào mà cô ấy đã bóc trần, tôi hỏi?

“Bây giờ, ngoài những điều đó nhé. Bet­ty thân mến, tôi sẽ không định nêu lên tất cả những điều thú vị trước khi ai đó mua cuốn sách đâu!” Skeeter cười và nói. “Nhưng tôi có thể hứa rằng bất cứ những ai mà vẫn nghĩ Dum­ble­dore vẫn trong trắng như cái bộ râu của lão sẽ phải thức tỉnh một cách rất chi là không dễ chịu! Đơn giản hãy nói rằng, những ai mà đã từng nghe về việc ông ta nổi giận với Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy chắc chắn chưa bao giờ nghĩ tới cảnh ông ta đã từng nhúng tay vào Nghệ Thuật Hắc Ám khi còn trẻ! Và về một phù thuỷ dành hết quãng đời sau này để thể hiện sự khoan dung, nhưng khi còn trẻ ông ta không hẳn đã có tâm hồn rộng rãi như thế! Vâng, Al­bus Dum­ble­dore có một quá khứ rất chi là tối tăm, không kể đến một gia đình với đầy sự ám muội, thứ mà ông ta đã phải làm việc rất nhiều để giữ cho nó kín bưng.”

Tôi hỏi có khi nào Skeeter đang nhắc tới người em trai của Dum­ble­dore, Aber­forth, người đã bị kết tội của hiệp hôi Wiz­eng­amot về việc sử dụng sai pháp thuật tạo nên một scan­dal nhỏ mười lăm năm trước đây.

“Ồ, Aber­forth chỉ là một hạt nhỏ trong đống phân ấy,” Skeeter cười. “Không không, tôi đang nói về những điều tệ hơn là một người anh em với sở thích chơi với những con dê, tệ hơn việc có một người cha tấn công Mug­gle – Dum­ble­dore dĩ nhiên không thể giữ cho những điều ấy im lặng được, họ đều bị trừng phạt bởi Wiz­eng­amot. Không phải là những điều đấy đâu, đây là về người mẹ và người em gái đã kích thích trí tò mò của tôi, và một chút khám phá về những bí mật ghê tởm của lão ta – nhưng, như tôi nói, bạn sẽ phải đọc tới những chương chín tới mười hai để thấy rõ hơn những chi tiết. Tất cả những gì tôi có thể nói bây giờ là, không có nghi ngờ gì là Dum­ble­dore chưa bao giờ nói về việc làm thế nào mà lão ấy lại có một cái mũi gãy.”

Gia đình chỉ là một phần, những liệu Skeeter có chối bỏ sự sáng suốt vĩ đại đã đưa Dum­ble­dore tới nhiều khám phá ma thuật?

“Ông ta có đầu óc,” cô thừa nhận, “mặc dù bây giờ nhiều người tự hỏi rằng có khi nào ông ta có thể thực sự là tác giả của những điều mà được cho là thành quả của ông. Như tôi hé lộ ở trong chương mười sau, Ivor Dil­lons­by tuyên bố rằng ông ấy đã khám phá ra tám công dụng của máu rồng rồi Dum­ble­dore đã ‘mượn tạm’ những bài viết của ông ấy.”

Nhưng sự quan trọng của những thành quả của Dum­ble­dore tôi phải thừa nhận là không thể chối cãi. Thế còn về chiến thắng của ông ấy trước Grindel­wald?

“Ồ, bây giờ tôi vui vì chị nhắc tới Grindel­wald,” Skeeter nói với một nụ cười hài lòng. “Tôi e rằng những người mờ mắt về chiến thắng đẹp mắt của Dum­ble­dore phải lấy tinh thần để nghe tin xấu này như một quả bom – hay có lẽ là bom thối sắp nổ. Một phi vụ rất bẩn thỉu! Tất cả những gì tôi sẽ nói là, đừng chắc chắn đấy là một vụ đấu phép huyền thoại. Sau khi họ đọc cuốn sách của tôi, nhiều người sẽ bị thuyết phục để nói rằng Grindel­wald đơn giản là biến ra một cái khăn tay trắng từ đầu đũa của ông ta và rời đi lặng lẽ!”

Skeeter từ chối tiếp tục cũng cấp thông tin về chủ đề thú vị này, vậy nên thay vào đó, chúng tôi chuyển sang chủ đề mà hiển nhiên đã khiến những độc giả của cô háo hức hơn bao giờ hết.

“Vâng,” Skeeter nói, gật đầu vui vẻ, “Tôi dành trọn một chương cho mối quan hệ Pot­ter-Dum­ble­dore. Mối quan hệ này được gọi là không tốt đẹp lắm, thậm chí là tiềm ẩn bát trắc. Lần nữa, những độc giả của tờ báo này sẽ phải mua cuốn sách để đọc câu chuyện đầy đủ, nhưng không có nghi ngờ gì là Dum­ble­dore thể hiện một sự hứng thú khác thường ở Pot­ter từ khi bắt đầu. Có khi nào cậu ta là sở thích lớn nhất của ông ta – vâng, chúng ta sẽ thấy. Chắc chắn chương sách này sẽ mở ra bí mật rằng Pot­ter đã có một thời kỳ trưởng thành khó khăn nhất.”

Tôi hỏi liệu Skeeter vẫn giữ liên lạc với Har­ry Pot­ter, người mà cô đã có một bài phỏng vấn rất nổi tiếng năm trước: một mẩu tin đặc biệt mà Pot­ter khẳng định chắc chắn rằng Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đã quay trở lại.

“Ồ, vâng, chúng tôi dã tạo dựng một mối quan hệ bền chặt hơn nữa,” Skeeter nói. “Tội nghiệp cho Pot­ter, cậu chỉ có rất ít bạn bè thật sự, và chúng tôi đã gặp nhau tại một trong những khoảnh khắc thử thách nhất trong cuộc đời cậu ấy – Cuộc thi Tam pháp thuật. Tôi có lẽ là một trong những người còn sống mà có thể nói rằng tôi biết con người thật của Har­ry Pot­ter.”

Điều mà rõ ràng 

đã khiến chúng ta có nhiều lời đồn thổi là xung quanh những giờ phút cuối cùng của Dum­ble­dore. Liệu Skeeter có tin rằng Pot­ter đã ở đấy khi Dum­ble­dore chết hay không?

“Thực sự tôi không muốn nói quá nhiều – tất cả đã được viết trong cuốn sách – những những nhân chứng ở trong lâu đài trường Hog­warts đã thấy Har­ry Pot­ter chạy trốn từ hiện trường ngay sau khi Dum­ble­dore ngã xuống, nhảy đi hay đã bị đẩy đi. Sau đấy cậu Pot­ter có đưa bằng chứng chống lại Severus Snape, một người mà ai cũng biết cậu ta có mối tư thù. Có vẻ mọi việc trông như thế? Đấy là để cộng đồng phù thuỷ quyết định – một khi họ đã đọc cuốn sách của tôi.”

Sau khi nghe lời nhắn khiến tôi thấy rất háo hức này, tôi rời khỏi nhà Skeeter. Không có nghi ngờ gì là Skeeter đã viết nên một trong những cuốn sách bán chạy nhất. Những người hâm mộ Dum­ble­dore trong lúc này đang bị lung lay mạnh khi mà hình ảnh người anh hùng của họ đang sắp sửa chìm xuồng.

Har­ry đọc xong bài viết, nhưng vẫn đăm đăm nhìn vào khoảng trắng ở dưới tờ báo. Một nỗi lo lắng và giận dữ trỗi lên trong nó như một cơn buồn nôn; nó vo tờ báo lại và ném vào tường với tất cả sức lực của của nó, gia nhập tờ báo với những rác rưởi xung quanh.

Nó sải bước xung quanh căn phòng, mở những ngăn kéo rỗng, nhặt những cuốn sách lên chỉ để đặt chúng lại chồng sách như cũ, nó không nhận biết được mình đang làm gì khi mà những dòng chữ từ bài viết của Ri­ta cứ lởn vởn trong đầu: Toàn bộ chương sách là về mối quan hệ Pot­ter-Dum­ble­dore… Mối quan hệ này được gọi là không tốt đẹp lắm, thậm chí là tai hại…. ông ta đã từng nhúng tay vào Nghệ Thuật Hắc Ám khi còn trẻ… tôi đã thâm nhập được vào một nguồn thông tin mà hầu hết các nhà phóng sự sẵn sàng đánh đổi đũa phép của họ để có được nó…

“Dối trá!” Har­ry gào lên, và qua cánh cửa sổ nó có thể thấy một người hàng xóm cạnh nhà dừng máy xét cỏ lại, nhìn lên tò mò.

Har­ry nặng nề ngồi xuống giường. Mảnh gương vỡ văng ra khỏi người, nó nhặt nó lên và xoay xoay nó trên đầu ngón tay, nghĩ, và nghĩ về cụ Dum­ble­dore cùng những lời dối trá của Ri­ta Skeeter đã phỉ báng cụ..

Một bóng màu xanh lướt qua. Har­ry sững người lại, ngón tay đau của nó lướt trên cái gờ lởm chởm của tấm gương lần nữa. Nó đã hình dung ra điều đấy, chắc chắn là thế. Nó khẽ nhìn qua vai của mình, nhưng bức tường chỉ có màu hồng đào ngán ngẩm mà dì Pen­tu­nia đã chọn: Không có gì màu xanh ở trên ấy để phản chiếu vào tấm gương. Nó nhìn chăm chú vào mảnh gương vỡ lần nữa, nhưng nó không thấy gì ngoài đôi mắt xanh lá cây của mình nhìn lại.

Nó đã tưởng tượng ra điều ấy, không còn lời giải thích nào khác; đã tưởng tượng ra điều ấy, bởi vì nó đã nghĩ về thầy hiệu trưởng đã qua đời. Nếu có điều gì chắc chắn, thì điều đấy là đôi mắt xanh da trời của cụ Al­bus Dum­ble­dore sẽ không bao giờ nhìn nó một lần nữa.

Chương III:

Chuyến ra đi của nhà Dursley

Tiếng sập cửa vọng lên tận cầu thang và một giọng nói rống lên: “Này! Thằng kia!”

Mười sáu năm trời bị gọi bằng kiểu này đã giúp Har­ry ko nghi ngờ gì mỗi khi dượng Ver­non kêu nó, mặc dù vậy, nó không trả lời ngay. Nó vẫn đang nhìn chằm chằm vào trong mảnh gương, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, nó nghĩ nó đã nhìn thấy ánh mắt của cụ Dum­ble­dore. Chỉ cho tới khi dượng gầm lên “THẰNG KIA” thì Har­ry mới uể oải đứng lên và đi về cánh cửa phòng ngủ, dừng lại một lúc để bỏ miếng gương vỡ vào cái ba lô đựng đồ mà nó sẽ mang theo cùng.

“Tốn thời gi­an quá rồi đấy” dượng Ver­non gào lên khi Har­ry vừa tới đầu cầu thang. “Xuống đây ngay. Tao có chuyện muốn nói”

Har­ry chậm chạp đi xuống, hai tay thọc sâu vào túi quần. Khi nhìn quanh phòng khách, nó thấy cả ba người nhà Durs­ley đều ở đấy. Họ đã ăn mặc tươm tất cho chuyến đi; dượng Ver­non mặc một cái áo khoác màu nâu vàng, dì Pen­tiu­nia diện chiếc áo màu hồng cam, còn Dud­ley, thằng anh họ to bự, tóc vàng hoe mũm mĩm đang ở trong bộ áo da.

“Dạ?” Har­ry hỏi.

“Ngồi xuống,” Dượng bảo. Har­ry nhướn lông mày lên. Dượng Ver­non nói thêm một cách nhăn nhó như thể cổ họng bị bóp nghẹt bởi những tự ngữ, “Đi nào!”

Har­ry ngồi xuống. Nó nghĩ nó biết chuyện gì sắp sửa xảy ra. Dượng nó cứ đi tới đi lui, dì Petu­nia với Dud­ley nhìn theo hành động của dượng với vẻ rất nóng lòng. Cuối cùng, khuôn mặt tím ngắt nhăn nhó lại bởi sự tập trung, dượng Ver­non dừng lại trước mặt Har­ry rồi nói:

“Tao suy nghĩ lại rồi,” dượng nói

“Ngạc nhiên chưa!”

“Đừng có nói bằng cái giọng đó-” dì Petu­nia rít lên, nhưng dượng phẩy tay ra hiệu im lặng.

“Tất cả chỉ toàn là kế hoạch lừa đảo” dượng nói, nhìn Har­ry bằng con mắt heo ti hí “Tao quyết định là ta không tin một từ nào cả. Bọn tao sẽ ở lại đây. Bọn tao sẽ không đi đâu hết.”

Har­ry nhìn lên dượng nó và cảm thấy một cảm giác pha trộn giữa tức giận và thích thú. Dượng Ver­non đã thay đổi suy nghĩ đều đặn hai mươi tư giờ một lần suốt bốn tuần nay, chấy đồ lên rồi lại dọn đồ xuống, và sau đó lại chất đồ len chiếc xe trong mỗi lần thay đổi ý kiến. Lần Har­ry cảm thấy thích thú nhất là lần dượng Ver­non, không biết rằng Dud­ley đã cho thêm mấy cái tạ vào vali sau lần đóng gói trước, đã cố mang nó để vào ngăn hành lý và kết cục là đã ngã một cú rất đau và còn chửi thề ầm ĩ.

“Theo như mày nói,” dượng Ver­non vừa nói vừa vòng đi vòng lại trong phòng khách, “thì bọn tao- Petu­nia, Dud­ley, và tao – đang gặp nguy hiểm từ – từ-”

“Từ ‘túa tể’ của con, phải không?” Har­ry nói

“Và tao không tin điều ấy,” dượng Ver­non nói, đứng sững lại trước mặt Har­ry lần nữa. “Tao đã thức nửa đêm đễ nghĩ về điều mày nói, và tao nghĩ là đây là kế hoạch để chiếm lấy căn nhà”

“Nhà?” Har­ry lặp lại. “Ngôi nhà nào??”

“Ngôi nhà này!” dượng Ver­non hét lên, những mạch máu trên trán ông đập mạnh. “Ngôi nhà của bọn tao! Quanh đây giá nhà đang tăng vọt. Mày muốn bọn ta dọn ra khỏi đây rồi mi sẽ giở mánh gì đó rồi trước khi bọn ta biết chuyện gì đã xảy ra căn nhà sẽ đứng tên mi và-”

“Dượng có điên rồi không?” Har­ry vặn hỏi. “Một kế hoạch để chiếm căn nhà ư? Dượng thực sự ngốc như bề ngoài của dượng vậy hả?”

“Mày dám –” dì Petu­nia kêu ré lên, nhưng 1 lần nữa dượng vẫy tay ra hiệu cho bà im lặng. Sự nhẹ nhàng trong vẻ ngoài của ông có vẻ không là gì so với mối nguy hiểm mà ông vừa nhận ra.

“Trong trường hợp giượng đã quên,” Har­ry nói, “Con đã có 1 căn nhà cha đỡ đầu của con cho. Vậy con muốn lấy căn nhà này để làm gì? Vì những kỷ niệm hạnh phúc hả?”

Sự im lặng bao trùm lên mọi người. Har­ry nghĩ chắc nó đã làm dượng khá bị thuyết phục với lý lẽ của nó.

“Mày tuyên bố là,” dượng Ver­non lại vừa đi vừa nói, “ cái thứ Chúa tể đó –“

“—Vol­der­mort,” Har­ry nói một cách sốt ruột, “chúng ta nói đi nói lại chuyện này cả trăm lần rồi. Đây không phải là tuyên bố, đây là sự thật hiển nhiên. Thầy Dum­ble­dore có nói với dượng vào năm ngoái, và chú Kings­ley và bác Weasley –”

Dượng Ver­non so vai lại giận dữ, và Har­ry đoán là dượng đang cố gắng tránh đi những kí ức về chuyến viếng thăm báo trước của 2 phù thủy hoàn toàn trưởng thành một vài ngày sau khi bắt đầu nghỉ hè của Har­ry. Sự xuất hiện của Kings­ley Shack­le­bolt và Arthur Weasley trên ngưỡng cửa là một bất ngờ khó chịu nhất đối với gia đình Durs­ley. Dù vậy Har­ry cũng phải công nhận, ông Weasley đã phá tan tành cả nửa phòng khách nhà Durs­ley, nên không thể trông đợi sự xuất hiện trở lại của ông lại làm dượng Ver­non hài lòng..

“– chú Kings­ley và bác Weasley đều đã giải thích hết tất cả rồi.” Har­ry tảng lờ và tiếp tục nói, “Một khi con 17 tuổi, bùa phép bảo vệ con sẽ bị phá vỡ, điều này sẽ đe doạ cả mấy người lẫn con. Hội nghĩ Vol­der­mort sẽ truy đuổi mấy người, hoặc là để tra tấn mọi người để tìm ra chỗ con ở, hoặc là vì hắn nghĩ việc bắt cóc gia đình dượng làm con tin sẽ khiến con sẽ phải tìm đường đến cứu”

Mắt dượng và Har­ry chạm nhau. Har­ry chắc rằng trong khoảnh khắc đó cả hai đều có một thắc mắc giống nhau. Rồi dượng Ver­non tiếp tục đi lòng vòng, Har­ry lại tiếp tục, “Mọi người phải trốn đi và Hội sẽ giúp. Dượng đang nhận được một sự bảo vệ nghiêm túc, là thứ tốt nhất hiện có thể có.”

Dượng Ver­non không nói gì mà tiếp tục đi đi lại lại trong căn phòng. Ở bên ngoài, mặt trời treo lững lờ trên những hàng rào thuỷ lạp. Máy cắt cỏ của nhà hàng xóm lại kêu trở lại.

“Tao tưởng có Bộ Pháp Thuật chứ?” dượng Ver­non đột ngột hỏi.

“Có chứ,” Har­ry ngạc nhiên nói.

“Vậy thì, tại sao họ không thể bảo vệ bọn ta? Theo ta thấy, những nạn nhân vô can, không có lỗi gì ngoài việc nuôi phải một kẻ bị truy đuổi, như bọn ta, thì nên được sự bảo vệ của chính phủ!”

Har­ry cười lớn; nó không nhịn được. Thật đúng là dượng Ver­non khi đặt niềm tin của mình vào chính quyền, cho dù đây là một thế giới dượng căm ghét và đã mất lòng tin.

“Dượng nghe chú Kings­ley và bác Weasley nói rồi đó,” Har­ry trả lời. “Bọn con nghĩ bộ pháp thuật đã bị trà trộn vào,”

Dượng quay trở về phía bếp lò và thở mạnh đến nỗi hàm râu vĩ đại làm nhăn nhó khuôn mặt vẫn còn tím ngắt bởi sự tập trung.

“Thôi được,” dượng nói, lại dừng lại trước Har­ry một lần nữa. “Được rồi, cứ coi như do lí lẽ của mày mà bọn tao chấp nhận sự bảo vệ này đi. Tao vẫn không hiểu tại sao bọn tao lại không được bảo vệ bởi lão Kings­ley đó.”

Har­ry cố gắng một cách khó khăn để không trợn tròn mắt. Câu hỏi này cũng được trả lời cả nửa tá lần rồi.

“Như con nói với dượng rồi đó,” Har­ry nói qua kẽ răng nghiến chặt “chú Kings­ley đang bảo vệ thủ tướng người Mug- ý con là, ông Thủ Tướng của mấy người.”

“Chính xác — hắn là người cừ nhất,” dượng Ver­non nói, chỉ tay vào màn hình tivi trống trơn. Gia đình Durs­ley đã phát hiện ra Kings­ley trong một tin thời sự, lúc ấy ông đi bên cạnh thủ tướng người Mug­gle đến thăm một bệnh viện. Điều này này, cộng với việc là chú Kings­ley rất thông thạo việc ăn mặc như một Mug­gle, chưa kể giọng nói chậm rãi và trầm của ông luôn khiến người khác an tâm đã làm cho nhà Durs­ley khoái Kings­ley hơn bất kì phù thủy nào mà họ từng gặp, mặc dù đúng là họ chưa hề nhìn thấy ông đeo mấy cái khuyên tai.

“Ừm, chú ấy bận rồi,” Har­ry nói. “Nhưng Hes­tia Jones và Dedalus Dig­gle đều thừa sức đảm đương việc –”

“Nếu mà chúng ta thấy mấy bản lý lịch…” dượng Ver­non bắt đầu, nhưng Har­ry thực sự mất hết kiên nhẫn. Nó đứng dậy, hướng về giượng Ver­non mà không chỉ tay vào cái TV.

“Những tai nạn đó không phải là sự tình cờ – những vụ đâm nhau hay những vụ nổ và trật đường ray xe lửa hay bất cứ thứ gì khác kể từ lần gần nhất chúng ta coi thời sự. Nhiều người ta đang mất tích, bị giết và hắn đang đứng sau chuyện này –đó là Vol­der­mort. Con đã lặp đi lặp lại với dượng điều này bao nhiêu lần, rằng hắn giết Mug­gle để làm trò vui. Ngay cả sương mù – đấy cũng do bọn giám ngục làm ra, và nếu dượng không thể nhớ ra chúng là thứ gì thì hãy hỏi con trai dượng ấy.”

Dud­ley đưa tay lên che lấy miệng. Với ánh mắt của ông bố mẹ và Har­ry cùng hướng về phía nó, nó chậm chạp hạ tay xuống và hỏi, “Còn…nhiều bọn chúng hơn nữa hả?”

“Nhiều hơn ư?” Har­ry bật cười. “Ý mày là nhiều hơn hai tên đã tấn công bọn mình hả?? Dĩ nhiên là có hàng trăm tên, dám chắc lần này là hàng ngàn tên, bởi chúng sống nhờ vào nỗi sợ hãi và tuyệt vọng –”

“Thôi được rồi, đừng có ầm ĩ nữa,” dượng Ver­non Durs­ley quát tháo. “ Mày đã nói rõ ý mày -”

“Con cũng hi vọng vậy,” Har­ry nói, “bởi vì, một khi mà con đủ mười bảy tuổi, tất cả bọn chúng – Tử thần thực tử, giám ngục, có thể cả Âm– tức là những xác chết bị ếm bởi Phù thuỷ hắc ám – sẽ đủ khả năng tìm và chắc chắn là sẽ tấn công dượng. Và nếu dượng nhớ lại lần gần đây nhất mà dượng cố gắng đánh gục hai phù thủy, con nghĩ dượng sẽ đồng ý là dượng cần sự giúp đỡ.”

Có một sự im lặng ngắn ngủi vọng lại khoảnh khắc Ha­grid làm đổ sập cánh cửa trước bằng gỗ từ những năm về trước. Dì Petu­nia nhìn dượng Ver­non; Dud­ley thì nhìn Har­ry. Cuối cùng dượng Ver­non bật nói, “Nhưng còn công việc của ta? Về việc học hành của Dud­ley, ta không nghĩ chuyện đó quan trọng đối với một đám phù thủy lười nhác vô công –”

“Dượng không hiểu sao?” Har­ry hét lên. “Chúng sẽ tra tấn và giết dượng như chúng đã làm với ba mẹ con!”

“Ba,” Dud­ley nói bằng một giọng rất to “Ba, con sẽ đi với mấy người của Hội này”

“Dud­ley” Har­ry nói,“lần đầu tiên trong đời mày nói được một điều ra hồn đó”

Nó biết đã chiến thắng trong cuộc tranh luận này. Nếu Dud­ley sợ hãi đến nỗi đã chịu nhận sự trợ giúp của Hội, cha mẹ nó sẽ chấp nhận đi theo nó. Không phải nghi ngờ gì về việc họ hoàn toàn không mong muốn bị chia cắt với Dud­dy mỏng manh yêu quý. Har­ry liếc nhìn cái đồng hồ quả lắc đặt trên bệ lò sưởi.

“Họ sẽ đến đây trong khoảng năm phút nữa,” Har­ry nói, và nó rời phòng sau khi nghe một người của nhà Durs­ley trả lời. Cảnh chia tay – có lẽ là mãi mãi – khỏi dì dượng và người em họ là một điều nó đã nghĩ về như một niềm vui và thích thú, nhưng dường như có một điều gì đó lúng túng ở trong bầu không khí lúc này. Bạn sẽ nói gì với những người kia trong thời điểm kết thúc của mười sáu năm ghét bỏ nhau?

Quay trở về phòng ngủ, Har­ry thẩn thơ với cái ba lô đựng đồ, rồi lại đẩy vài hạt thức ăn qua nan lồng cho Hed­wig. Mấy hạt thức ăn rơi thịch xuống nền vì con cú tảng lờ chúng.

“Chúng ta sắp sửa rời đi, rất nhanh thôi,” Har­ry nói. “Và sau đấy mày sẽ được phép bay lượn tự do lần nữa.”

Chuông cửa vang lên. Hơi chần chừ, Har­ry đi ra khỏi phòng và xuống tầng dưới. Nó không hy vọng Hes­tia và Dedalus có thể tự họ dàn xếp ổn thoả với gia đình nhà Durs­ley.

“Har­ry Pot­ter!” một giọng vui vẻ cao vút vang lên khi Har­ry mở cửa ra; một người đàn ông nhỏ bé trong bộ đồ màu hoa cà cúi đầu thật thấp chào nó, “Thật là một vinh hạnh!”

“Cảm ơn ông, Dedalus,” Har­ry cười ngượng ngùng khi nhìn thấy mái tóc đen của Hes­tia. “Thật tốt khi có hai người giúp đỡ việc này… Họ đang ở trong nhà, giượng, dì và đứa em họ của cháu…”

“Chúc một ngày tốt lành, họ hàng của Har­ry Pot­ter.” Dedalus vui vẻ nói và sải bước vào phòng khách. Nhà Durs­ley không có vẻ gì vui vẻ khi được gọi như vậy. Har­ry nửa trông chờ một sự đổi ý nữa. Dud­ley rụt sát vào mẹ nó khi nhìn thấy hai vị phù thủy.

“Ta thấy mấy người đã soạn sửa sẵn sàng xong rồi. Quá tuyệt vời! Kế hoạch, như Har­ry đã nói với mấy người, khá là đơn giản,” Dedalus nói, kéo cái đồng hồ quả quýt ra khỏi túi áo gi-lê và xem xét nó. “Chúng ta nên rời khỏi đây trước Har­ry. Đề phòng nguy hiểm của việc sử dụng pháp thuật trong nhà của mấy người – Har­ry vẫn là phù thuỷ tuổi vị thành niên và điều này có thể cho Bộ Pháp Thuật một lý do để bắt gi­am cậu ta – chúng ta sẽ lái xe, xem nào, mười dặm trước khi chúng ta Độn thổ tới một vị trí bí mật an toàn mà chúng tôi đã chọn ra cho các vị. Ông biết lái xe chứ, tôi nghĩ thế?” Ông hỏi giượng Ver­non một cách lịch sự.

“Biết lái -? Dĩ nhiên là tôi quá biết rõ phải lái xe thế nào!” giượng Ver­non lắp bắp.

“Ông thật thông minh, thật thông minh. Riêng tôi thì hoàn toàn không thể hiểu nổi mấy cái nút bấm này nọ,” Dedalus nói. Lão đang có ấn tượng là mình đang phỉnh nịnh được dượng Ver­non, người rõ ràng đang dần mất tin tưởng vào kế hoạch này theo mỗi từ mà Dedalus thốt ra.

“Thậm chí không biết lái xe 

xe,” dượng lầm bầm, bộ ria mép rúng động bực tức, nhưng may mắn là cả Dedalus và Het­ia đều có vẻ không nghe thấy lời dượng.

“Cậu, Har­ry,” Dedalus tiếp tục nói “sẽ chờ người bảo vệ của cậu ở đây. Có một số thay đổi trong kế hoạch-”

“Ý bác là gì?” Har­ry lập tức hỏi. “Con tưởng thầy Mắt Điên sẽ tới và đưa con đi bằng Độn Thổ Quá Gi­ang?”

“Không làm vậy được,” Dedalus trả lời ngắn gọn “Mắt điên sẽ giải thích sau”

Gia đình Durs­ley, những người từ lũ nãy tới giờ đang theo dõi cuộc đối thoại mà hoàn toàn không hiểu gì cả, bị nhảy dựng lên khi một giọng nói chói ta rít lên “Nhanh lên!”.Har­ry nhìn quanh trước khi nhận giọng nói phát ra từ cái đồng hồ bỏ túi của Dedalus.

“Đúng vậy, đang trong một kế hoạch chặt chẽ mà,” Dedalus nói, gật đầu với cái đồng hồ, và nhét nó vào lại trong túi áo Gilê. “Bọn ta đang cố gắng xác định thời gi­an lúc con rời khỏi gia đình cùng với việc Độn thổ gia đình của con, vậy nên bùa yếm bảo vệ sẽ bị phá vỡ vào khoảnh khắc mọi người đều hướng về địa điểm an toàn.” Lão quay về phía gia đình Durs­ley “Vậy, chúng ta đã chuẩn bị đồ đạc và sẵn sàng đi chưa?”

Không có ai trong họ trả lời lão. Dượng Ver­non còn quá hoảng sợ nhìn vào vật cồm cộm ở trong túi áo Dedalus.

“Dedalus, có lẽ chúng ta nên chờ ở ngoài trong phòng lớn,” Het­ia thì thầm. Cô nghĩ 2 người họ thật thiếu tế nhị khi hiện diện trong căn phòng trong lúc người nhà Durs­ley và Har­ry trao đổi với nhau những lời chào tạm biệt đầy tình yêu và, dám lắm, nước mắt.

“Không cần đâu ạ,” Har­ry nói nhỏ, nhưng dượng Ver­non làm bất kì sự giải thích nào cũng thành không cần thiết khi lớn giọng.

“Vậy thì chào tạm biệt nhé, chàng trai.”

Ông đưa tay lên trước để bắt tay nó, nhưng có vẻ không chịu nổi chuyện đó, ông nắm chặt bàn tay lại, ngập ngừng rút về.

“Sẵn sàng chưa, bé Dud­dy?” dì Petu­nia rối rít xem xét lại cái khóa của giỏ xách để tránh phải nhìn vào Har­ry.

Dud­ley không trả lời mà đứng đó với cái miệng mấp máy, gợi Har­ry nhớ tới một chút về gã khổng lồ, tên Grawp.

“Vậy đi nào,” Dượng ver­non nói.

Dượng ra gần tới cửa phòng khách thì Dud­ley lầm bầm, “Con không hiểu.”

“Con không hiểu cái gì con yêu?” dì Petu­nia hỏi cậu quý tử.

Dud­ley đưa bàn tay to bự như giò lợn lên chỉ vào Har­ry.

“Tại sao nó không đi với chúng ta?”

Dì và dượng đứng sững người nhìn chằm chằm con trai họ như nó mới vừa thổ lộ mơ ước của nó là trở thành một diễn viên múa balê.

“Cái gì?” Dượng ver­non nói to.

“Tại sao nó không cùng đi luôn?” Dud­ley hỏi.

“À, bởi vì — nó không muốn,” dượng Ver­non nói, quay lại nhìn Har­ry và thêm vào “Mày không muốn, đúng không?”

“Không hề,” Har­ry nói.

“Vậy đó,” dượng nói với Dud­ley “Bây giờ thì nhanh lên, chúng ta phải đi.”

Dượng diễu ra khỏi phòng. Họ nghe tiếng cửa trước mở, nhưng Dud­ley không nhúc nhích, và sau vài bước thì dì Pen­tu­nia cũng dừng lại.

“Gì nữa đây?” dượng Ver­non quát, hiện trở ra trên ngưỡng cửa.

Có vẻ như Dud­ley đang đấu tranh với những khái niệm quá khó để diễn đạt thành lời. Sau bao nhiêu phút với sự đấu tranh nội tại chắc hẳn rất dữ dội, nó nói, “Nhưng mà nó sẽ đi đâu?”

Dì Petu­nia và dượng Ver­non nhìn nhau. Rõ ràng là Dud­ley đang làm cho họ hoảng sợ. Hes­tia Jones phá tan sự im lặng đó.

“Nhưng hẳn… mấy người biết cháu của người đang sắp sửa đi đâu chứ?” cô hỏi một cách bối rối.

“Dĩ nhiên là bọn tôi biết,” dượng Ver­non nói “Nó đi với túa tể nào đó của mấy người, đúng chứ? Vậy thì, Dud­ley, vào xe đi, con nghe lão kia nói rồi đó, phải nhanh lên.”

Một lần nữa, dượng Ver­non đi nhanh đến cửa trước ,nhưng Dud­ley không theo sau.

“Đi với túa tể của bọn tôi?”

Hes­tia nói, vẻ giận dữ. Har­ry đã gặp thái độ này, nhiều phù thủy đã ngạc nhiên sững sờ khi thấy họ hàng gần nhất của nó không thèm đếm xỉa gì đến Har­ry Pot­ter nổi tiếng.

“Không sao đâu,” Har­ry trấn an cô. “Chuyện đó không thành vấn đề, thật tình ạ.”

“Không thành vấn đề ư?” Hes­tia nâng giọng lên và lặp lại..

“Những người này không nhận ra cậu đã phải trải qua những gì? Cậu đang trong nguy hiểm như thế nào? Về vị trí đặc biệt của cậu trong tim những người trong cuộc vận động chống Vol­der­mort?”

“Ờ — không, họ không biết,” Har­ry nói. “Họ nghĩ tôi làm lãng phí đất ở, nhưng mà tôi cũng quen rồi –”

“Tao không nghĩ mày làm lãng phí đất ở.”

Nếu Har­ry không thấy môi Dud­ley mấp máy, nó chắc đã không tin vào điều đó. Nó nhìn chằm chằm vào Dud­ley vài giây liền trước khi thừa nhận là Dud­ley đã nói ra những lời đó; bởi vì có 1 điều, mặt Dud­ley đang đỏ ửng lên. Và Har­ry bản thân nó cũng cảm thấy ngượng nghịu và kinh ngạc

“À…ờ…cảm ơn Dud­ley.”

Một lần nữa, Dud­ley có vẻ như phải dằn vặt với những suy nghĩ quá khó điều khiển để nói thành lời trước khi nó lầm bầm, “Mày đã cứu sống tao.”

“Không hẳn vậy,” Har­ry nói. “Bọn giám ngục chỉ định lấy đi linh hồn mày…”

Nó nhìn tò mò vào thằng anh họ Dud­ley. Bọn chúng gần như hoàn toàn không thực sự gặp gỡ gì trong mùa hè này, và có lẽ là mùa hè cuối cùng, bởi vì Har­ry quay lại đường Priv­et Drive quá ngắn ngủi và chủ yếu dành thời gi­an ở trong phòng nó. Dù vậy thì bây giờ thì Har­ry nhận ra rằng cái tách trà lạnh sáng nay nó dẫm lên có lẽ không phải là một cái bẫy ngu xuẩn như nó nghĩ. Mặc dù khá cảm động, Har­ry cảm thấy thật nhẹ nhõm khi Dud­ley trông có vẻ như đã cạn kiệt khả năng biểu lộ thêm cảm xúc. Sau khi há miệng ra khoảng một hay hai lần nữa, Dud­ley chìm vào im lặng với cái mặt đỏ ửng.

Dì Petu­nia bật lên khóc. Hes­tia Jones gửi cho bà một cái nhìn đầy tán thành rồi trở thành đầy tức giận khi dì chạy đến ôm Dud­ley chứ không phải Har­ry. “D-dễ thư-thương quá, bé Dud­der…” bà nức nở lên bộ ngực vĩ đại của thằng nhỏ. “th..thật là một đứa bé đ…đáng yêu, biết nói cảm ơn…”

“Nhưng mà nó đã nói cảm ơn gì đâu!” Hes­tia bực dọc nói. “Nó chỉ nói là nó không nghĩ Har­ry làm lãng phí đất.”

“Đúng, nhưng mà câu đó mà thoát ra từ miệng Dud­ley là giống như ‘tao yêu quý mày’ rồi,” Har­ry nói, bị giằng xé giữa cảm giác bực bội và ước muốn cười phá lên khi dì Petu­nia tiếp tục ôm chầm lấy Dud­ley như thể nó mới cứu Har­ry thoát khỏi một tòa nhà đang bốc cháy.

“Chúng ta có đi hay là không đây?” dượng Ver­non gầm lên, lại xuất hiện trước cửa phòng khách. “Tôi tưởng là chúng ta có một kế hoạch chặt chẽ!”

“Có, có, dĩ nhiên rồi,” Dedalus Dig­gle, nãy giờ nhìn cảnh tượng này với sự thích thú bây giờ có vẻ như đã tỉnh trí lại, nói. “Chúng ta thật phải đi thôi. Har­ry–”

Lão bước ra trước và nắm chạy bàn tay Har­ry bằng cả hai tay.

“Chúc may mắn, tôi mong chúng ta sẽ gặp lại nhau. Mọi hi vọng của cộng đồng phù thủy đều đặt lên vai cậu”

“Ừm,” Har­ry nói, “vâng, cảm ơn bác”

“Tạm biệt, Har­ry,” Hes­tia nói, cũng nắm lấy tay nó, “Chúng tôi sẽ luôn nghĩ về cậu.”

“Cháu mong mọi chuyện sẽ tốt đẹp,” Har­ry nói, liếc nhìn dì Petu­nia và Dud­ley.

“À tôi chắc chắn chúng tôi sẽ trở nên bằng hữu thân thiết,” Dig­gle vui vẻ nói, vẫy tay và bước ra khỏi phòng khách. Hes­tia theo bước lão.

Dud­ley nhự nhàng gỡ cái ôm của mẹ nó và tiến về phía Har­ry, Har­ry phải tự ngăn mình đừng lấy phép thuật hù nó. Dud­ley đưa bàn tay phì nộn hồng hào của nó ra.

“Trời đất, Dud­ley,” Har­ry nói trong những tiếng nức nở trở lại của dì Petu­nia, “Bọn giám ngục đã thổi một tính cách khác vào con người mày hay sao vậy?”

“Không biết nữa,” Dud­ley lầm bầm, “Hẹn gặp lại, har­ry”

“Ừa..” Har­ry nói, nhìn kỹ bàn tay Dud­ley và bắt lấy. “Có lẽ. Bảo trọng, bé bự D.”

Dud­ley gần như mỉm cười. Bọn họ lê bước ra khỏi căn phòng. Har­ry nghe tiếng chân của họ trên con đường lát sỏi, và tiếng đóng cửa xe.

Dì Petu­nia, mặt nãy giờ vùi trong chiếc khăn tay, nhìn quanh khi nghe thấy tiếng động đó. Dì có vẻ như không nhận ra là chỉ còn lại một mình dì với Har­ry. Vội vàng nhét chiếc khăn vào túi, dì nói, “Ừm – tạm-biệt,” và sải bước về phía cửa mà không ngoại lại nhìn Har­ry.

“Tạm biệt,” Har­ry nói.

Dì dừng bước và quay lại nhìn. Trong một khoảnh khắc Har­ry có một cảm giác kì lạ nhất là dì đang định nói điều gì đó với nó; dì nhìn nó với ánh mắt lạ lùng, run rẩy và có vẻ như muốn bật ra những từ ngữ, nhưng sau đấy, với một cái gật đầu nhẹ, dì hối hả rời khỏi phòng theo chồng và con trai.

Chương IV:

Bảy Potter

Har­ry chạy lên vô phòng ngủ rồi tới bên cửa số, vừa kịp lúc chiếc xe nhà Durs­ley rồ ga lao xuống phố. Lọt thỏm giữa dì Pen­tu­nia và Dud­ley ở ghế sau là chóp mũ của bác Dedalus. Chiếc xe quặt phải ngay cuối đường Priv­et Drive. Trong một thoáng, những ô cửa kính phản chiếu ánh đỏ thắm của ánh mặt trời buổi hoàng hôn, và rồi mất hút khỏi tầm mắt

Har­ry gom lại cái lồng của con Hed­wig, cây tia chớp, và cái ba lô; nhìn lại căn phòng vốn chẳng mấy khi gọn gàng của nó một lần cuối, rồi luống cuống mang mấy thứ lích kích xuống phòng khách, đặt cái lồng, cây chổi và cái túi xuống chân cầu thang. Ánh nắng nhạt đi rất nhanh, bóng tối dần dân bao trùm căn phòng. Đứng đó, giữa sự tĩnh lặng, và biết mình sẽ rời khói đây mãi mãi…. một cảm xúc thật kỳ lạ… Lâu lắm rồi, những khi nhà Durs­ley đi ra ngoài bỏ mặc Har­ry ở nhà một mình, sự yên ắng cô độc như vầy quả là món quà hậu hĩnh. Những khi đó, nó có thể nhón một món gì ngon lành trong tủ lạnh thật nhanh, chạy ù lên tầng nghịch máy vi tính của Dud­ley, hoặc bật TV xem thoải mái, và chuyển kênh mặc sức đến chán mới thôi. Nhớ lại những lần đó, Har­ry chợt thấy một cảm giác kỳ lạ, giống như nhớ lại một nhóc em trai sẽ chẳng còn gặp lại nữa vậy.

Nó quay sang hỏi Hed­wig: “ Mày không muốn nhìn lại chỗ này lần cuối ư?” trong khi cô nàng vẫn rúc đầu dưới cánh một cách giận dỗi. “ Chúng mình sẽ chẳng bao giờ về đây nữa. Mày không muốn hoài niệm những ký ức tốt đẹp đó ư? Nhìn cái cửa sổ trên tầng gác mái này…. Nhớ lần Dud­ley khóc trên đó khi tao cứu nó khỏi bọn giám ngục chứ? …. Hóa ra nó cũng biết có một chút lòng biết ơn, mày tin nổi không vậy?… Và hè năm ngoài, chính thầy Dum­ble­dore đã đi vào bằng cánh cửa chính kia….”

Trong phút chốc những suy tư trong đầu Har­ry như bốc hơi, và Hed­wig cũng chỉ biết cách tiếp tục rúc đầu dưới cánh để giúp chủ nó. Har­ry quay lưng lại với cánh cửa chính.

“Và chính dưới này này, Hed­wig” – Har­ry mở cánh cửa ngay dưới cầu thang -“ trước kia tao đã ngủ ở chính chỗ này! Hồi đó mày chưa biết biết tao đâu. Ừ… trong này nhỏ lắm… tao suýt nữa đã quên mất căn phòng này đấy…”

Har­ry ngắm đống ô và giày cũ rúm ró, nhớ lại những buổi sáng khi nó thức giấc, ngước nhìn lên gầm cầu thang không khi nào vắng bóng vài ba tấm mạng nhện phất phơ. Đó là những ngày trước khi nó biết sự thực về bản thân nó; trước khi nó biết được bố mẹ nó đã chết như thế nào, và biết về những điều kì lạ xảy ra quanh nó hàng ngày. Nhưng Har­ry vẫn luôn nhớ những giấc mơ đã ám ảnh nó từ những ngày đấy: những giấc mơ khó hiểu với những luồng sáng xanh. Một lần, khi nó kể lại chi tiết về giấc mơ ấy, một chiếc xe mô tô bay… giượng Ver­non đã suýt đâm vào xe khác.

Đột nhiên có tiếng gầm đinh tai nhức óc ngay kế bên. Har­ry bật dậy cụng đầu vào khung cửa sổ. Vừa mường tượng ra những câu chửi ưa thích của dượng Ver­non nó vừa loạng choàng bước ra khỏi bếp, sang phòng khách và ngó ra ngoài cửa sổ.

Màn đêm như gợn sóng và không khí khẽ rung lên. Và rồi, từng bóng người đột ngột hiện ra khi thần chú Ảo Ảnh được ngừng lại. Nổi bật trong bóng tối là Ha­grid, đội mũ và kính bảo hiểm, ngồi dạng chân trên chiếc xe mô tô khổng lồ gắn thêm một buồng phụ màu đen. Xung quanh bác, những người khác đang tiếp đất từ cây chổi, cùng 2 người nữa đi 2 con ngựa cánh đen xương xẩu.

Mở tung cánh cửa sau nhà, Har­ry chạy hộc tốc tới đám bụi mù cùng họ. Lại là tiếng kêu mừng rỡ khi Hermione ôm chầm lấy Har­ry, rồi cái vỗ vai của Ron, bác Ha­grid hỏi : “Ổn cả chứ Har­ry? Sẵn sàng đi khỏi đây chưa?”

“Dĩ nhiên rồi,” Har­ry quay ra cười toe toét với tất cả mọi người. “ Nhưng cháu không ngờ lại có nhiều người đến thế này”

“Kế hoạch thay đổi,” Mắt Điên gầm gừ, tay cầm 2 cái túi xách to phồng, con mắt thần đảo qua đảo lại dò xét khắp từ vườn từ nhà tới bầu trời đen kịt đến chóng mặt. “Cứ trốn vào đâu đó xong xuôi bọn ta sẽ kể cho con nghe đầu đuôi mọi chuyện”

Har­ry dẫn họ vào trong bếp, vừa cười nói rôm rả, từng người một vừa ngồi xuống ghế, an tọa lên ngay những tác phẩm long lanh của dì Petu­nia, hoặc dựa vào những dụng cụ bóng loáng của dì. Ron, gầy cao lêu nghêu; Hermione, mớ tóc dày được tết gọn lại sau gáy thành đuôi sam dài; Fred và George, đang nhăn nhở giống hệt nhau; Anh Bill, sẹo khắp người với tóc dài; bác Weasley, khuôn mặt hiền từ, cái đầu hói và cặp kiếng hơi lệch; thầy Mắt Điên, xác xơ vì những trận đánh, một chân, con mắt thần màu xanh ngó nghiêng đảo đều trong hốc mắt; cô Tonks, tóc vẫn ngắn với màu hồng ưa thích; thầy Lupin, tóc bạc hơn, nhiều nếp nhăn hơn; Fleur, gầy đi và tuyệt đẹp với mái tóc dài vàng óng ánh bạc; chú Kings­ley, đôi vai rộng và cái đầu hói; bác Ha­grid, với mái tóc và đám râu hoang dã đang phải đứng gù gù lưng hòng khỏi cộc đầu vào trần nhà; và Mundun­gus Fletch­er, nhỏ thó, bẩn thỉu, khúm núm với cặp mắt hau háu tròn nhỏ chằm chặp nhìn xuống dưới mớ tóc mờ xỉn. Trái tim Har­ry như nhẩy cẫng lên vì vui sướng và tự hào vì tất cả bọn họ, kể cả Mundun­gus Fletch­er, kẻ mà lần cuối cùng gặp mặt nó đã cố bóp chết nghẹt.

“Kings­ley, cháu tưởng chú đang trông nom ngài Thủ tướng Mug­gle mà?” nó nói với sang bên kia phòng

“ Một đêm không có chú thì ông ta vẫn tự xoay xở được,” chú Kings­ley nói, “ Cháu quan trọng hơn nhiều”

“Har­ry, đoán xem nào?” cô Tonks nói từ bến đậu trên nóc cái máy giặt, và cô lắc lắc tay trái với chiếc nhẫn lấp lánh.

“Cô cưới rồi ạ?” Har­ry liếc từ cô Tonk sang thầy Lupin.

“Ta xin lỗi vì cháu không tham dự được, Har­ry à, nó khá yên lặng mà.”

“Tuyệt vời, chúc mừng -”

“Được rồi, được rồi, sẽ có thời gi­an cập nhật thông tin một cách thoải mái sau,” thầy Mắt điên gầm lên làm cho sự ồn ào xẹp xuống, trả lại sự yên bình cho căn bếp. Thầy bỏ túi xách xuống, và quay về phía Har­ry. “Như Dedalus đã nói với con, chúng ta phải huy kế hoạch A. Pius Thick­nesse đã đảo lộn mọi thứ, hắn khiến việc nối ngôi nhà này vào mạng Floo, hoặc là đặt Khóa cảng ở đây hoặc là Độn thổ đến hoặc đi đều trở nên cực kỳ nguy hiểm. Những việc làm dưới danh nghĩa cho sự bảo vệ của con, để ngăn Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy tiếp cận con rõ ràng là vô nghĩa, vì bùa phép của mẹ con đã làm được điều đó rồi. Điều hắn ta thực sự nhắm tới là ngăn việc con an toàn rời khỏi nơi này.”

“Vấn đề thứ hai, là con vẫn chưa trưởng thành, nghĩa là con vẫn bị yếm bùa Truy Nguyên ở trên người.”

“Con không -”

“Bùa Truy nguyên, bùa Truy nguyên!” Mắt điên bực mình lặp lại, “Bùa này sẽ phát hiện tất cả các hoạt động ma thuật xung quanh những người dưới mười bảy tuổi, đây là cách mà Bộ Pháp thuật dùng để tìm ra việc sử dụng pháp thuật của những người vị thành niên! Nếu con, hoặc bất cứ ai, sử dụng thần chú để ra khỏi đây ,Thick­nesse sẽ biết ngay, và quân Tử thần thực tử cũng thế.”

“Chúng ta không thể đợi cho đến khi bùa Truy nguyên bị phá vỡ, bởi vì khi đó con sẽ mất đi sự bảo vệ mà mẹ con đã trao cho con. Tóm lại là, 

Thick­nesse nghĩ hắn đã nắm thóp con hoàn toàn rồi”

Har­ry cũng phải đồng ý với tên Thick­nesse xa lạ ấy.

“Vậy giờ chúng ta sẽ làm gì ạ?”

“Chúng ta sẽ dùng những phương tiện duy nhất có thể sử dụng để đi khỏi đây, bởi vì chúng ta sẽ không phải dùng thần chú với chúng: chổi, Tử mã, và xe mô tô của Ha­grid.”

Har­ry dư sức thấy kế hoạch này có chỗ không ổn; tuy nhiêng nó kịp ngăn lại lại để Mắt điên nói tiếp.

“Thế này nhé, bùa chú của mẹ con sẽ mất hiệu lực trong hai trường hợp: một, là khi con đến tuổi trưởng thành, hoặc là -” Moody đi lại trong căn bếp bóng lộn, “- con không còn gọi nơi này là nhà nữa. Tối nay con, dì và dượng con đã đường ai nấy đi, nghĩa là con sẽ không bao giờ sống cùng họ nữa, đúng không?”

Har­ry gật đầu.

“Vì vậy trong lần này, khi con rời nơi này, con sẽ không quay lại được, và bùa chú bảo vệ sẽ hết hiệu lực lúc con ra khỏi tầm bảo vệ của nó. Chúng ta chọn cách phá nó sớm hơn, bởi vì cách còn lại là chờ cho Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đến và tóm con trong thời điểm con sang tuổi mười bảy.”

“Chúng ta có một lợi thế là cho Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy không biết chúng ta sẽ đưa con rời khỏi đây trong tối nay. Bọn ta đã để lộ thông tin giả ở Bộ: Họ nghĩ rằng con sẽ không rời đi trước ngày ba mươi. Tuy vậy, kẻ mà chúng ta đang đương đầu không ai khác chính là Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy, nên chưa chắc hắn dễ bị lừa như vậy. Chắc chắn hắn sẽ cho Tử thần thực tử tuần tra ở trên không trong khu vực này. Vì vậy bọn ta đã chuẩn bị sẵn, niệm những bùa chú bảo vệ cho một tá ngôi nhà khác nhau, mấy nơi đó có thể đưa con đến trú được, vì đều có liên hệ với hội Phượng Hoàng: nhà của ta, nhà Kings­ley, trang trại của bà Mol­ly- con hiểu chứ?”

“Dạ,” Har­ry đáp, vẫn hơi ngần ngừ bởi cậu vẫn thấy một lỗ hổng lớn của kế hoạch.

“Con sẽ tới nhà Tonks. Ngay khi tới nơi đó, những bùa chú chúng ta rải xung quanh nhà thừa sức giúp con dùng Khóa cảng để tới Hang Sóc. Còn câu hỏi gì nữa không?”

“Ơ… có ạ” Har­ry ngần ngại “Có lẽ bọn chúng sẽ không biết con định đi tới đâu trong cả tá chốn trú ẩn đó, nhưng nhưng việc ấy sẽ không kéo dài một khi” -nó nhẩm tính trong đầu- “cả mười bốn người chúng ta cùng bay tới nhà của gia đình cô Tonks?”

“À,” Moody hắng giọng, “ Ta quên không nói đến phần cốt yếu nhất. Mười bốn người chúng ta sẽ không cùng lúc bay đến nhà Tonk. Tối nay sẽ có bảy Har­ry Pot­ter đi cùng bảy bạn đồng hành, mỗi cặp bay tới một địa điểm khác nhau”

Moody rút từ trong áo choàng ra một hũ đựng thứ chất lỏng trông lầy nhầy như bùn. Không cần ông phải nói thêm từ nào nữa; Har­ry ngay lập tức hiểu ra phần còn lại của kế hoạch.

“Không!” Har­ry gào lên, giọng nó lanh lảnh trong căn bếp. “Không thể nào!”

”Mình đã nói với mọi người cậu sẽ phản ứng vậy mà,” Hermione nói, giọng hơi đắc thắng.

“Sao mọi người lại nghĩ cháu sẽ để sau người mạo hiểm tính mạng–”

“– bởi đây là lần đầu tiên bọn này có cơ hội,“ Ron nói.

“ Chuyện này thì khác, mọi người sẽ phải đóng giả mình -”

“Ôi dào, thực ra có ai thích thú gì trò này đâu hả Har­ry,” Fred sốt sắng nói. “Thử tưởng tượng, giả sử có chuyện gì trục trặc, và bọn này sẽ chết cứng trong bộ dạng một tên kính cận gầy nhẳng mãi mãi”

Har­ry không buồn nhếch mép.

“Mấy người không thể làm thế nếu cháu không đồng ý, mấy người cần nắm tóc của cháu mà.”

“Ồ, đúng là lỗ hổng lớn trong kế hoạch,” George cợt nhả. “Rõ ràng là tất cả chúng ta lại chẳng nhón được nắm tóc của em nếu em không muốn tham gia.”

“Phải, mười ba người bọn này chọi một cậu nhóc không được dùng phép thuật; thật là khó khăn đấy,” Fred tiếp lời.

“Thú vị thật,” Har­ry đáp, “thật sự hay ho.”

“Nếu phải ép buộc con thì đành phải vậy,” Moody gầm gừ, con mắt thần đảo lên khi ông nhìn chằm chặp vào Har­ry. “Mọi người ở đây đều đã trưởng thành, và sẵn sàng hứng chịu rủi ro.”

Mundun­gus nhún vai và nhăn nhó, con mắt thần của Moody xoáy nhìn hắn đến nỗi lệch khỏi hốc mắt.

“ Không bàn cãi nữa. Thời gi­an không còn nhiều. Giờ bọn ta cần một nắm tóc của con đó, cậu nhóc”

“Nhưng thế này thì thật là điên rồ, đâu có cần thiết phải –”

“Không cần ư?” Moody gắt lên. “Với Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy ngoài kia cùng một nửa Bộ đã theo phe hắn? Pot­ter, nếu chúng ta may mắn, có thể hắn đã cắn cái mồi giả và sẽ cố tóm được con trong ngày ba mưoi, nhưng chắc chắn hắn sẽ cử một hoặc hai tên Tử thần thục tử tới theo dõi con, nếu là ta, hiển nhiên ta sẽ làm thế. Bọn chúng có thể chưa làm gì được con hoặc tấn công ngôi nhà này vì bùa chú của mẹ con vẫn còn hiệu lực. Aong nó sẽ nhanh chóng bị xóa bỏ, và bọn chúng đã thừa biết con đang ở đâu rồi. Chúng ta chỉ còn có thể giăng bẫy bọn chúng mà thôi. Đến Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy cũng không thể phân thân làm bảy.”

Har­ry liếc nhìn Hermione rồi quay vội đi.

“Vì thế, Pot­ter – một nhúm tóc của con, nếu con có thể.”

Har­ry liếc nhìn Ron, cậu nhăn nhó với nét mặt kiểu cứ-làm-như-vậy-đi.

“Ngay bây giờ!” Moody quát.

Những con mắt đều đổ dồn về nó, Har­ry thò tay lên đầu, túm một nùi tóc, và kéo mạnh.

“Tốt,” Moody hơi cúi người về phía trước khi bật được cái nút của lọ thuốc. “Con bỏ giùm vào trong này cho ta”

Har­ry bỏ nắm tóc vào cái lọ đựng chất lỏng trông giống đám bùn. Ngay khi tóc chạm vào bề mặt chất lỏng, chất thuốc bắt đầu sủi bọt và bốc khói, rồi đột nhiên trở thành màu vàng tươi, trong suốt.

“Ồ, món của cậu trông hấp dẫn hơn của Crabbe và Goyle nhiều đấy, Har­ry à,” Hermione buột miệng, rồi khi nhìn thấy cái nhíu mày của Ron, cô bé thoáng chốc đỏ mặt và chữa thẹn, “Ý mình là – món thuốc của Goyle vị như xác chết vậy”

“Được rồi, các Har­ry giả xếp hàng lại đây nào,” Moody gọi.

Ron, Hermione, Fred, George và Fleur đứng thành hàng trước cái bồn rửa mặt sáng bóng của dì Petu­nia.

“Chúng ta còn thiếu một người,” Lupin đếm.

“Có ngay đây,” Ha­grid túm lấy cổ Mundun­gus một cách cộc cằn, thả bịch hắn xuống bên cạnh Fluer, làm cô nàng nhăn mũi và chuyển sang đứng giữa Fred và George.

“Tôi là chiến binh, và rồi sẽ là người bảo hộ,” Mundun­gus càu nhàu

“Im ngay,” Moody quát. “Ta đã nói với mi rồi đồ sâu bọ ẻo lả, bất cứ Tử thần thực tử nào nhắm tới Har­ry cũng chỉ muốn bắt nó, chứ không phải giết nó. Dum­ble­dore đã từng nói Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy muốn xử lý riêng Har­ry. Vì vậy chính những người đi theo bảo vệ mới đáng lo hơn cả, những người sẽ bị bọn Tử thần thực tử sẽ thèm khát được phanh thây.”

Mundun­gus vẫn chưa có vẻ bình tâm lắm, song Moody đã rút nửa tá cốc chỉ to bằng chén đựng trứng ra khỏi áo choàng, rót vào mỗi cốc một ít thuốc và đưa cho mọi người.

“Cùng uống thôi nào mọi người…”

Ron, Hermione, Fred, Go­erge, Fluer và Mundun­gus uống cạn cốc. Tất cả đều thở hổn hển, nhăn nhó ngay khi thứ dung dịch đó chạm vào cuống họng. Cùng một lúc cơ thể họ bắt đầu sủi bọt và biến dạng như sáp nóng vậy. Hermione và Mundugus bắt đầu phình ra, Ron, Fred và George thu nhỏ lại, tóc tối màu dần, hộp sọ Hermione và Fleur trông như bị lồi ra phía sau.

Moody, tỏ vẻ bàng quan, cúi xuống cởi bỏ mấy cái túi khổng lồ ông đem theo. Và khi đứng lên, đã có sáu Har­ry Pot­ter đang thở dốc trước mặt.

Fred và George quay ra nhìn nhau và đồng thanh, “Wow, chúng ta giống nhau như đúc này!”

“Tao không biết, hình như tao vẫn đẹp trai hơn,” Fred vừa nói vừa soi mình trước cái ấm.

“Oa” Fleur thì ngắm nghía mình tr­rên cửa lò vi sóng “ Bill, đừng nhìn em nha – trông em gớm guốc quá”

“Mấy bộ đồ đó hơi rộng thì phải, ta có mấy bộ nhỏ hơn ở đây” Moody chỉ về phía cái túi đầu tiên, “và đừng quên kính, có sáu cặp kính ở mấy túi bên. Khi thay đồ xong rồi thì lấy hành lý trong ba lô”

Đối với Har­ry thật thì đây quả là điều quái lạ nhất nó từng thấy, dù nó đã chứng kiến không ít những điều kỳ lạ. Nó quan sát sáu bản sao của mình lục lọi tìm đồ trong túi xách, đeo kính, và đóng gói đồ đạc của riêng họ lại. Har­ry chỉ muốn họ có thể lịch sự hơn khi thản nhiên cởi đồ, lộ liễu khoe ra thân thể nó trong khi nếu đó là chính họ thì chắc đã khác hẳn.

“Mình biết Gin­ny đã nói dối về chuyện hình xăm,” Ron nhìn xuống bộ ngực trống trơn của nó.

“Har­ry, mắt bồ kém thật đó” Hermione đeo kính vào và lẩm bẩm.

Thay đồ xong, cả sáu Har­ry Pot­ter giả đều cầm ba lô và một lồng chim chứa con cú nhồi bông trắng như tuyết lấy từ túi đồ thứ hai.

“Tốt” Moody hài lòng khi cả bảy Har­ry đều đã đeo kính và trang bị đủ hành lý dàn hàng trước mặt. “Các cặp sẽ chia ra như thế này: Mundun­gus sẽ đi với ta, bay bằng chổi -”

“Sao tôi lại đi với ông?” Har­ry đứng gần cửa sau nhất cằn nhằn.

“Vì mi là kẻ cần phải theo dõi nhất,” Moody gầm gừ, và ông nói tiếp dù con mắt thần vẫn không ngừng nhìn xoáy vào Mundun­gus “Arthur và Fred – ”

“Con là George,” một trong hai anh em sinh đôi người đang được Moody chỉ tay nói “Thầy không thể phân biệt nổi bọn con kể cả khi bọn con biến thành Har­ry sao?”

“Xin lỗi George – “

“Con đùa ấy mà, thực ra con là Fred – ”

“Đùa đủ rồi đấy!” Moody quát “Đứa còn laị – Fred hoặc Go­erge hoặc bất cứ đứa quái nào trong hai đứa – sẽ đi với Re­mus. Cô Dela­cour – ”

“Con sẽ đi cùng với Fleur trên một con Tử mã,” Bill đỡ lời. “ Cô ấy không thích chổi lắm.”

Fleur bước tới chỗ Bill, nhìn Bill với ánh mắt đắm đuối tới mức Har­ry cầu nguyện là sẽ không bao giờ phải thấy lại cái nhìn đó thêm một lần nữa trên gương mặt của chính mình.

“Cô Granger đi với Kings­ley, cũng đi bằng một Tử mã -”

Hermione trông có vẻ yên tâm hơn, đáp lại nụ cười của Kings­ley; Har­ry biết Hermione cũng không tự tin chút khi cưỡi chổi.

“Như vậy là còn cô và cháu đó, Ron!” Tonks vẫy Ron rối rít, làm đổ cả một chai nước xuống sàn.

Ron trông có vẻ không thoả mãn như Hermione.

“Và cháu đi với ta, được không Har­ry?” Ha­grid hỏi với một chút lo lắng. “ Chúng ta sẽ đi bằng mô tô, chổi và Tử mã đều không thể chịu nổi sức nặng của ta, hiểu không? Ta sẽ choán nhiều chỗ lắm đó, nhưng không sao, cháu sẽ ngồi trong buồng phụ”

“Tuyệt vời,” Har­ry đáp, mặc dù không thật lòng lắm.

“Bọn ta nghĩ lũ Tử thần thực tử sẽ hi vọng túm được cháu trên một cây chổi,” Moody nói, như đã đọc được ý nghĩ của Har­ry. “Snape chắc hẳn có thừa thời gi­an để kể cho bọn chúng tất cả những gì hắn biết về cháu, nên nếu chúng ta gặp phải bọn Tử thần thực tử, chắc chắn chúng sẽ nhắm vào Har­ry nào có vẻ sử dụng chổi thật thành thạo. Thôi được rồi,” Moody cầm mấy chiéc túi bước ra cửa, “trong ba phút nữa chúng ta sẽ xuất phát. Không cần thiết phải đóng cửa sau đâu, cũng đâu có ngăn bọn Tử thần thực tử vào nhà được. Đi nào…”

Har­ry đeo balô, cầm cây tia chớp, cái lồng con Hed­wig và đi theo cả nhóm ra ngoài khu vườn tối mịt.

Khắp mọi phía chổi bay tới nằm trong tay mọi người, trong khi Kings­ley giúp Hermione trèo lên một con Tử mã, và Bill với Fleur trên con còn lại. Ha­grid đứng cạnh một chiếc mô tô, sẵn sàng cho chuyến đi.

“Có phải nó không? Đó chính là xe của Sir­ius?”

“Chính nó đây” Ha­grid nhìn xuống cười rạng rỡ với Har­ry “Lần cuối cháu ngồi trên xe này, bác có thể ôm cháu chỉ bằng một tay thôi đấy”

Har­ry không thể không cảm thấy phần nào bẽ mặt khi phải ngồi vào buồng phụ của chiếc xe. Từ chỗ này nhìn lên nó thấp hơn tất cả mọi người vài thước. Ron cười ruồi khi nhìn nó ngồi đó như đứa nhóc ngồi xe ô tô đồ chơi. Har­ry nhét túi đồ và cây chổi xuống dưới chân và kẹp lồng con Heg­wig giữa hai đầu gối: nó thật sự không hề cảm thấy thoải mái chút nào.

“Arthur đã gắn lại một chút,” Ha­grid nói, dường như không hề biết Har­ry đang bị gò bó thế nào. Bác chật vật ngồi lên xe, làm chiếc mô tô rên rỉ và lún xuống đất vài inch. “Giờ nó có thêm vài trò vui rồi. Ý tưởng của bác đấy.” Ha­grid trỏ vào một nút màu tím ngay cạnh đồng hồ công tơ mét.

“Cẩn thận đấy Ha­grid.” ông Weasley tay cầm chổi, đứng cạnh hai bác cháu nói dõi vào “Tôi không chắc nó có ổn không, và nếu có dùng thì cũng chỉ trong những trường hợp khẩn cấp thôi”

“Được rồi.” Moody nói “Mọi người sẵn sàng. Tôi muốn tất cả chúng ta xuất phát cùng một lúc, nếu không kế hoạch này sẽ đi tong”

Mọi người đồng lọat gật đầu.

“Ngồi chắc nhé Ron” cô Tonks nói, và Har­ry thấy Ron ném về phía thầy Lupin một cái nhìn ăn năn tội lỗi trong khi hai tay đưa ra bám chặt lấy hông Tonks. Ha­grid khởi động chiếc xe: Nó gầm lên như một con rồng, cái buồng phụ bắt đầu rung lên bần bật.

“Chúc may mắn nhé tất cả mọi người,” Moody hét lớn. “Hẹn gặp lại ở Hang Sóc trong vòng một tiếng nữa. Đếm tới ba nhé. Một…hai…BA!”

Một tiếng rú ga đinh tai, và Har­ry thấy buồng phụ lắc lư dữ dội. Nó đang bay lên không trung, mắt hơi nhòe nước, tóc bị thổi bạt về phía sau. Quanh nó, những cây chổi quen thuộc cũng đang bay vút lên, những cái đuôi dài đen bóng của hai con Tử mã thoắt vẫy phía trước. Đôi chân đau nhưc bị kẹp giữa túi hành lý và cái lồng của con Hed­wig giờ đã bắt đầu tê cứng. Cơn đau nhức tê tái làm nó suýt quên ngoái nhìn lần cuối căn nhà số bốn Priv­et Drive. Nhưng khi Har­ry quay lại nhìn phía sau thì nó chẳng còn phân biệt nổi ngồi nhà nằm ở đâu nữa.

Và rồi, tự dưng, không biết khi nào, không biết từ đâu ra, cả nhóm đột nhiên bị bao vây. Ít nhất ba chục cái bóng đội mũ trùm đầu xông tới từ trong bóng đêm, lượn thành một vòng tròn quanh nơi mọi người của Hội vừa bay lên, rõ ràng là -

Những tiếng hét, những luồng sáng xanh tới tấp khắp nơi: Ha­grid gào lên và chiếc xe lộn ngược. Har­ry không thể nhìn ra được họ đang ở đâu; đèn đường ở phía trên đầu nó, tay nó đang bám chặt lấy cạnh buồng phụ của chiếc xe theo bản năng. Chuồng của Hed­wig, túi xách và cây Tia Chớp tuột khỏi đầu gối nó.

“Không – CỨU!”

Cây chổi xoay vòng tròn, nhưng Har­ry chỉ kịp túm lấy góc chiếc ba lô và lồng con Hed­wig khi chiếc xe phóng ngược lên. Har­ry vừa mới yên tâm một chút, thì thêm một luồng sáng xanh chói lòa vút tới. Con cú rít lên và ngã xuống đáy chiếc lồng.

“Không – KHÔNG!”

Chiếc xe bật về phía trước. Har­ry thấy bọn Tử thân thực tử đội mũ trùm bay tản ra khi Ha­grid phóng thẳng vào vòng vây của chúng.

“Hed­wig – Hed­wig -”

Con cú nằm bất động và tàn tạ như món đồ chơi cũ trên đáy chiếc lồng. Har­ry không thể nhìn nổi cảnh ấy, và khiếp hãi nghĩ về những người còn lại. Har­ry nhìn qua vai thấy một đám đông người lẫn lộn trong những luồng sáng xanh lè, và có hai người đang bay về phía xa, nhưng nó không nhìn ra đó là ai -

“Ha­grid, chúng ta phải quay lại, chúng ta phải quay lại!” nó gào lên cố át tiếng động cơ xe ầm ĩ, rút đũa thần ra, ném lồng của Hed­wig dính chặt xuống sàn xe, không chịu tin con cú đã chết. “ Ha­grid, QUAY LẠI!”

“Nhiệm vụ của bác là đưa cháu đến nơi an toàn” Ha­grid hét lên và bật mở van tiết lưu. “Dừng lại – DỪNG LẠI!” Har­ry gào lên, nhưng khi nó quay lại nhìn , hai luồng sáng xanh bay lướt qua tai trái nó: bốn Tử thần thực tử đã tách khỏi vòng vây, đuổi theo họ và nhằm vào tấm lưng rộng của Ha­grid. Ha­grid lái chệch sang hướng khác, nhưng bọn Tử thần thực tử đã đuổi kịp chiếc xe, càng nhiều bùa chú bay về phía hai bác cháu hơn, và Har­ry phải ngồi lọt thỏm vào trong buồng phụ của xe để tránh đòn. Vẹo người quay lại nó hét lên, “Stu­pe­fy!” (Bùa choáng – ND) một tia chớp màu đỏ bật ra từ đầu đũa của Har­ry xé 

toạc khoàng không, tạo một lỗ trống lớn khi bốn tên Tử thần thực tử bay tách ra để tránh câu bùa chú.

“Chờ đã, Har­ry, có thứ này là dành cho chúng đây!” Ha­grid hét lớn; khi Har­ry nhìn lên thì đã thấy bác đập mạnh vào cái nút màu xanh lá cạnh tay lái. Một bức tường màu đen, khối đặc chui ra từ ống bô xe, và phình to ra trong không khí. Ba tên Tử thần thực tử bay vòng sang và tránh được bức tường, nhưng tên thứ tư thì kém may mắn hơn. Hắn biến khỏi tầm mắt, và rơi như hòn đã cuội lại sau lưng, cây chổi của hắn gẫy tan tác ra từng mảnh. Một tên khác bay chậm lại, bay xuống giúp bạn hắn, và ngay lập tức hai cái bóng biến mất vào trong màn đêm khi Ha­grid gò mình trên tay lái và tăng tốc.

Thêm những lời nguyền Chết chóc bay vụt qua đầu Har­ry từ phía hai tên Tử thần thực tử còn lại: chúng nhằm vào Ha­grid. Har­ry ném trả lại một lô Bùa choáng, những tia sáng xanh và đỏ gặp nhau tạo thành những khối đủ màu trên không trung khiến Har­ry liên tưởng một cách man dại về pháo hoa, và hững Muglle ở dưới đất hẳn đang không hiểu có chuyện gì đang xảy ra.

“Thêm một lần nữa nào, bám chắc nhé Har­ry!” Ha­grid lại hét lên, và bác ấn mạnh vào cái nút thứ hai. Lần này một cái lưới khổng lồ phóng ra từ ống xả của xe, song tất cả bọn Tử thần thực tử đều đã tiên đoán trước được. Không những chúng bay tránh được, mà gã thứ ba, kẻ quay lại cứu người bạn bị bất tỉnh cũng đã đuổi kịp. Hắn đột nhiên hiện ra từ trong màn đêm và giờ cả ba tên đều đuổi theo chiếc xe, bắn vèo vèo những câu thần chú vào hai người phe Har­ry.

“Lần này chắc chắn được, Har­ry, ngồi cẩn thận!” Ha­grid gào lên, và Har­ry thấy bác đập cả bàn tay vào cái nút màu tím bên cạnh đồng hồ công tơ mét.

Với tiếng gầm vang như bò rống, ngọn lửa rồng xanh trắng phun ra từ ống xả, chiếc xe phóng vụt lên phía trước như một viên đạn cùng âm thanh của kim loại gẫy. Har­ry thấy bọn Tử thần thực tử bay vòng đi để tránh luồng lửa nóng chết người, đồng thời thấy buồng phụ của xe đang rung lên một cách đáng sợ báo hiệu điềm gở: mối hàn giữa buồng phụ và thân xe đã vỡ vụn khi chiếc xe tăng tốc.

“Sẽ ổn thôi, Har­ry” Ha­grid rống lên, giờ đang lật ngửa ra sau bởi tăng tốc quá đột ngột, chiếc xe không có người lái, và buồng phụ thì đang long dần ra, trượt trên rãnh mối hàn.

“Bác sẽ lo, Har­ry, đừng cuống” Ha­grid lôi từ trong túi áo jack­et ra cái ô màu hồng hoa lá của bác.

“Ha­grid! Không! Để cháu!”

“REPARO!” (Khôi phục – ND)

Một tiếng nổ điếc tai, và buồng phụ rời hoàn toàn ra khỏi chiếc xe.

Har­ry bắn nhanh đi, bị quán tính của vụ nổ đẩy đi, rồi buồng phụ xe bắt đầu mất độ cao…

Har­ry tuyệt vọng chĩa đũa thần vào cái buồng xe và hét lên “Wingardi­um Leviosa!” (Bay lên – ND)

Buồng phụ xe tăng độ cao, dù không người lái nhưng ít ra vẫn ở trên không. Har­ry vừa mới kịp nhen nhóm một chút vui mừng thì một loạt bùa chú bay tới tấp về phía nó: ba tên Tử thần thực tử đã tới sát chiếc xe.

“Bác đến đây, Har­ry!” tiếng gọi của Ha­grid vang lên từ trong bóng tối, nhưng Har­ry cảm thấy cái buồng phụ xe lại bắt đầu rơi xuống: Cúi thấp hết mức có thể, nó chĩa đũa phép vào giữa những hình người đang bay tới gần “Im­ped­imen­ta!” (Ngăn trở – ND)

Câu thần chú đập vào giữa ngực tên ở giữa, làm hắn oặt ra như đâm trúng một cái thanh chắn vô hình: Một tên nữa trong bọn suýt bị hắn va vào -

Chiếc bồung bắt xe rớt xuống với tốc độ kinh hoàng, và tên Tử thần thực tử cuối cùng sót lại phóng một câu thần chú tới sát đến mức Har­ry phải ngụp xuống dưới vành bánh xe để tránh, va mạnh vào ghế ngồi khiến một chiếc răng bị gãy -

“Bác tới đây, Har­ry, bác tới đây”

Một bàn tay khổng lồ túm lấy lưng áo choàng của Har­ry và kéo tuột nó ra khỏi cái buồng phụ xe đang rơi thẳng xuống. Har­ry túm lấy túi xách và ngồi thụp vào yên chiếc mô tô lưng đối lưng với Ha­grid. Họ bay cao lên, tách ra khỏi hai tên Tử thần thực tử còn lại, Har­ry nhổ ra một ngụm máu, chĩa đũa thần vào buồng phụ xe đang rơi xuống và hét “Con­fringo!” (Nổ tung – ND)

Một tiếng nổ kinh hoàng, và Har­ry biết đó là giây phút cuối cùng của Hed­wig. Tên đội mũ trùm đầu gần cái buồng phụ nhất bị đánh ngã khỏi chổi và rơi xuống, tên kia tụt lại và biến mất khỏi tâm nhìn.

“Xin lỗi Har­ry, bác xin lỗi,” Ha­grid rên rỉ, “Đáng lẽ bác không nên tự mình sửa … cháu không có đủ chỗ….”

“Không sao, không vấn đề gì, bác cứ tập trung bay đi!” Har­ry hét lên, khi nhìn thấy thêm hai tên Tử thần thực tử nữa lại xuất hiện.

Khi những câu thần chú lại tới tấp bay đến, Ha­grid lái chiếc xe ngoằn ngoèo theo đường zích zắc; Har­ry biết: bác không dám dùng nút lửa-rồng thêm lần nữa, trong khi Har­ry ngồi một cách cheo leo như thế. Har­ry liên tiếp phóng hết Bùa choáng này đến Bùa choáng khác về phía bọn mũ trùm, dù thế cũng không thể giữ chân chúng được. Har­ry tiếp tục phóng một thần chú ngăn cản, một tên bay vòng để tránh và làm rơi mũ trùm, và nhờ quầng sáng đỏ của Bùa choáng tiếp theo mà Har­ry nhận ra gương mặt vô cảm đến kinh ngạc của Stan­ley Shun­pike – Stan -

“Ex­pel­liar­mus!” (Giải giới – ND) Har­ry hét lên.

“Chính nó! Nó là đứa thật!”

Những tiếng kêu của bọn Tử thần thực tử vọng đến tai Har­ry vang qua cả tiếng động cơ xe rền rĩ. Ngay lập tức cả hai kẻ săn đuổi tụt lại và biến mất.

“Har­ry, chuyện gì thế?” Ha­grid thì thầm “ Bọn chúng đâu rồi?”

“Cháu cũng không biết!”

Har­ry bắt đầu thấy sợ: Tên Tử thần thực tử trùm đầu đã gào lên, “Nó là đứa thật!”; làm thế nào hắn biết được? Har­ry nhìn xoáy vào bóng tối trống rỗng và cảm thấy bị đe doạ. Bọn chúng biến mất đâu rồi nhỉ?

Har­ry lần lần quay lại để ngồi quay mặt về phái trước, túm lấy vạt sau áo jack­et của Ha­grid.

“Bác Ha­grid, hãy bấm lại cái nút lửa rồng đó, và chúng ta sẽ biến khỏi đây!”

Lại một tiếng rú ầm ĩ của chiếc xe, và ngọn lửa trắng xanh phụt ra từ ống xả. Har­ry giật ngã người ra sau, phải cố lắm mới trụ lại tren chỗ yên xe nhỏ xíu, Ha­grid quay ngược người hẳn lại, tay gần như không cầm lái.

“Bác nghĩ chúng ta cắt đuôi được chúng rồi, Har­ry ah, cuối cùng cũng xong việc!”

Nhưng Har­ry không tin như vậy; Nỗi sợ hãi bao trùm nó, nó liếc ngang liếc dọc mong chờ những kẻ săn đuổi mà nó chắc chắn sẽ sớm xuất hiện. Tại sao bọn chúng lại tụt lại? Một trong số bọn chúng vẫn còn cầm đũa thần… Chính là nó… Nó là đứa thật… Chúng đã nói vậy ngay sau khi Har­ry cố Giải giới Stan -

“Har­ry, chúng ta sắp tới nơi rồi, sắp thành công rồi!” Ha­grid reo lên.

Har­ry cảm thấy chiếc xe bắt đầu hạ xuống một chút, dù đèn đường phía dưới vẫn xa tít mù như sao trời vậy.

Đột nhiên vết sẹo trên trán nó nóng như lửa đốt: hai Tử thần thục tử xuất hiện hai bên xe, và hai lời nguyền Chết người sượt qua Har­ry chỉ vài milimet, phát ra từ phía sau -

Và Hary nhìn thấy hắn. Volde­mort lơ lửng trong không trung như làn khói trong gió, không hề có chổi hay Tử mã đỡ lấy, khuôn mặt như đầu rắn nổi rõ trên nền trời đen, bàn tay dài trắng toát nâng cây đũa lên một lần nữa -

Ha­grid kêu lên sợ hãi, và bẻ lái chiếc mô tô đi thành một đường cua. Bấu víu lấy chiếc xe, Har­ry lúng túng phóng Bùa choáng khắp mọi nơi lên bầu trời đầy gió xoáy. Nó thấy một bóng người bay ngang qua, nghĩa là bùa chú đã trúng một kẻ nào đó, nhưng rồi nó nghe thấy một tiếng nổ lớn và những tia lửa từ động cơ, chiếc mô tô xoay tròn và hoàn toàn mất kiểm soát -

Những luồng sáng xanh lại bay vụt tới. Har­ry không thể phân biệt nổi đâu là trên, đâu là dưới: Vết sẹo như bị thiêu đốt; nó nghĩ như sẽ chết bất cứ lúc nào.Một bóng đen đội mũ trùm cách nó chỉ một thước, nó thấy hắn nâng đũa thần lên –

“KHÔNG!”

Sau tiếng hét bác Ha­grid văng mình ra khỏi xe lao vào tên tử thần thực tử, trong cơn hoảng sợ, Har­ry thấy bác và cả tên Tử thần thực tử rơi ra khỏi tầm mắt, trọng lượng của hai người quá nặng cho một cây chổi.

Bám vào chiếc xe đang lao thẳng xuống chỉ bằng đầu ngón tay, Har­ry nghe thấy giọng Volde­mort hét: “Của ta!”

Thế là hết: Nó không còn nghe được hay nhìn thấy Volde­mort đang ở đâu, nó thấy lờ mờ một tên Tử thần thực tử nữa lướt qua để tránh đường, và nghe thấy “Ava­da -”

Cơn đau của vết sẹo làm Har­ry phải nhắm chặt mắt lại, đũa thần của nó tự ý hành động. Har­ry cảm thấy chiếc đũa hướng bàn tay nó đi như một cái nam châm, và nhìn thấy từ đầu đũa phun tóe ra một luồng lửa như vàng chói loà qua đôi mắt nhằm hờ của nó. Nó nghe thấy một tiếng nổ, và tiếng gào thét giận dữ. Bọn Tử thần thực tử kêu lên, Volde­mort hét lên giận dữ: “KHÔNG!” Bằng cách nào đó, Har­ry thấy chiếc nút lửa rồng ở sát mũi nó cách có một inch. Nó ấn mạnh chiếc nút bằng bên tay không cầm đũa, chiếc xe phóng vút, đâm xuống dưới phía mặt đất.

“Ha­grid!” Har­ry kêu gào, tay bám chặt lấy chiếc xe. “Ac­cio Ha­grid! (Triệu hồi Ha­grid!)”

Chiếc xe lao thẳng xuống, mũi chúc thẳng xuống đất. Har­ry cúi mặt sát vào tay lái, chỉ nhìn thấy những đốm sáng xa xa trở nên to dần: Nó sắp đâm xuống mặt đất nhưng chẳng thể làm gì để ngăn lại. Từ phía sau lại thêm một tiếng hét: “Đũa của mi, Sel­wyn, đưa đũa cho ta!”

Nó cảm thấy Volde­mort trước khi thực sự nhìn thấy hắn. Liếc sang hai phía, và rồi nó nhìn thẳng vào hai con mắt đỏ rực mà nó nghĩ sẽ là thứ cuối cùng nó thấy trên đời: Volde­mort sắp sửa tung lời nguyền vào nó thêm một lần nữa -

Và rồi Volde­mort biến mất. Har­ry nhìn xuống và thấy Ha­grid nằm sõng xoài trên đất ngay phía dưới. Nó vặn tay lái cố để không đâm vào bác, mò mầm tìm cái phanh, nhưng rồi, với một tiếng va đập thủng màng nhĩ, nó lao thẳng vào một cái ao bùn lầy nhầy nhụa…

Chương V:

Người chiến binh gục ngã

“Bác Ha­grid?”

Har­ry vẫn đang loay hoay để thoát ra khỏi đống kim loại bị vỡ và lông vũ đang bao quanh người; tay nó ngập sâu vào đống bùn khi cố gắng đứng dậy. Nó không thể hiểu vì sao Volde­mort đột nhiên biến mất trong khi nó nghĩ chắc hắn sẽ tấn công từ trong bóng tối vào bất cứ thời điểm nào. Một thứ gì đó nóng và ướt át chảy từ trên trán nó xuống cằm. Trườn khỏi vũng bùn, nó đi loạng choạng về phía hình thù to lớn nằm trên mặt đất. Đó là bác Ha­grid.

Bác Ha­grid? Bác Ha­grid, bác nói gì đi –”

Nhưng cái hình thù màu đen đó vẫn không nhúc nhích.

“Ai đó? Có phải Pot­ter không? Har­ry Pot­ter à?”

Har­ry không nhận ra tiếng nói của người đó. Sau đó, tiếng người phụ nữ vang lên. “Bọn họ bị tai nạn! Anh Ted! Họ bị rơi xuống vườn!”

Đầu óc Har­ry vẫn đang quay cuồng.

“Bác Ha­grid,” nó lặp lại một cách ngu ngốc, và gục xuống trên đầu gối của mình.

Điều tiếp theo mà nó biết, nó đang nằm trên một thứ cảm giác êm ái dễ chịu, có cái gì đấy như đang thiêu đốt cháy bỏng ở sương xườn và cánh tay phải của nó. Chiếc răng bị gãy đã được mọc lại. Vết thẹo trên trán vẫn cứ nhức nhối.

“Bác Ha­grid!”

Nó mở mắt, và thấy mình đang nằm trên một cái ghế so­fa trong một căn phòng khách xa lạ đầy ánh đèn. Gần đấy là cái balô của nó nằm trên sàn, ướt đẫm và bám đầy bùn. Một người đàn ông tóc vàng với cái bụng bệ vệ đang nhìn Har­ry một cách lo lắng.

“Ha­grid sẽ ổn thôi, cậu bé,” người đàn ông nói, “vợ ta đang chăm sóc cho ông ấy. Cháu cảm thấy thế nào? Còn gì không ổn không? Ta đã gắn lại lại xương sườn, tay và răng cho cháu. Ta là Ted, Ted Tonks – cha của Do­ra.”

Har­ry đứng dậy khá nhanh.Ánh sáng chiếu vào mắt làm nó mệt mỏi và choáng váng.

“Volde­mort–”

“Hãy thoải mái đi,” ông Ted Tonks nói, đặt tay lên vai Har­ry và đẩy nó nằm xuống nhẹ nhàng. “Cháu vừa trải qua một vụ va chạm khủng khiếp. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Cái xe bị trục trặc à? Hay anh Arthur Weasley đã quá lạm dụng vào những đồ vật kỳ dị của dân Mug­gle?”

“Không!” Har­ry nói, khi cái thẹo của nó cứ nở ra co lại như một vết thương hở. “Tử Thần Thực Tử, rất nhiều tên- bọn cháu bị truy đuổi-”

“Tử Thần Thực Tử?” Ông Ted vội ngắt lời. “Cháu nói về Tử Thần Thực Tử là có ý gì? Ta nghĩ rằng chúng không biết cháu sẽ di chuyển tối nay, ta nghĩ -”

“Bọn chúng biết,” Har­ry nói.

Ông Ted Tonks nhìn lên trần nhà như thể ông có thể nhìn xuyên qua bầu trời. “Ồ, chúng ta đã được ếm bùa bảo vệ quanh đây, phải không? Chúng không thể vào đây trong phạm vi một trăm trượng từ bất kỳ hướng nào.”

Giờ Har­ry đã hiểu tại sao Volde­mort phải biến mất; đó là lúc chiếc mô tô bay vượt qua hàng rào bùa chú của Hội. Nó chỉ hy vọng những bùa chú ấy vẫn phát huy tác dụng: Nó có thể tưởng tượng thấy Volde­mort, cách nơi họ nói chuyện gần một trăm mét, cố tìm cách để lọt vào một nơi mà Har­ry hình dung giống như một quả bong bóng trong suốt khổng lồ.

Nó nhấc người khỏi cái ghế so­fa; nó cần phải chính mắt nhìn thấy lão Ha­grid, có như thế nó mới tin là lão còn sống. Har­ry chỉ vừa đứng lên, thì cánh cửa đã mở, lão Ha­grid bệ vệ bước vào, mặt đầy bùn và máu, đi khập khiễng, nhưng kỳ diệu là bác vẫn sống sót.

“Har­ry!”

Lách qua qua hai cái bàn được chạm trổ tinh vi và một cây tỏi rừng, lão bước tới phía trước hai bước và ôm hôn Har­ry chặt đến nỗi gần như làm gãy cái xương sườn vừa được gắn lại của nó. “Lạy Chúa, Har­ry, làm thế nào con ra khỏi đó được? Bác đã nghĩ chúng ta đều là những kẻ thua cuộc.”

“Vâng, con cũng thế.Con cũng không thể tin -”

Har­ry chợt sững lại. Nó vừa nhận ra người phụ nữ bước vào phòng sau lão Ha­grid.

“Mi!” Nó thét lên, thọc mạnh tay vào túi, nhưng túi của nó trống rỗng.

“Đũa của cháu ở đây, cậu bé,” ông Ted nói, đặt nó vào tay Har­ry. “Nó nằm bên phải cháu, nên ta đã nhặt nó lên… Và người cháu vừa hét vào mặt là vợ ta đấy…”

“Ồ, cháu – cháu xin lỗi.”

Người phụ nữ đi vào phòng, bà Tonks giống người chị Bel­la­trix một cách lạ lùng: Tóc bà cũng màu nâu, nhưng đôi mắt thì to hơn và thân thiện hơn. Tuy nhiên, bà có vẻ hơi kiêu căng sau thái độ chào đón của Har­ry.

“Chuyện gì đã xảy ra với con gái của ta?” Bà hỏi. “Lão Ha­grid nói là mấy người bị phục kích; Nymphado­ra giờ ở đâu?”

“Cháu không biết.” Har­ry nói. “Cháu không biết chuyện gì đã xảy ra với những người khác.”

Bà và ông Ted quay sang nhìn nhau. Một cảm giác trộn lẫn giữa sợ hãi và tội lỗi dâng trào trong Har­ry khi thấy thái độ của họ. Nếu bất kỳ ai chết, thì đó là lỗi của nó, tất cả là lỗi của nó. Nó đã đồng ý với kế hoạch, đưa cho mọi người tóc của nó…

“Khoá Cảng.” Nó nói, bất chợt nhớ ra. “Chúng ta phải quay về trang trại Hang sóc và tìm ra – sau đó cháu mới có thể gửi lời cho hai bác, hoặc – hoặc cô Tonks sẽ làm vậy, một khi cô ấy -”

“Do­ra sẽ ổn thôi, Drome­da à,” ông Ted nói. “Nó biết phải làm gì mà, nó đã tham gia nhiều trận với các Thần Sáng. Cái Khoá Cảng đang ở đây!” Ông thêm vào. “Nó sẽ rời khỏi đây trong vòng ba phút nữa, nếu mấy người muốn đi.”

“Vâng, chúng cháu sẽ đi sẽ đi,” Har­ry nói, nó khoác ba lô lên vai. “Cháu -”

Nó nhìn vào bà Tonks, muốn xin lỗi bà về cái cảm giác sợ hãi mà nó gây ra khi gặp bà, nó cảm thấy mình phải có trách nhiệm, nhưng nó cảm thấy mọi từ ngữ lúc này đều thật trống rỗng và giả tạo.

“Cháu sẽ nói với cô Tonks – cô Do­ra – gửi lời khi cô ấy… Cám ơn vì đã cứu bọn cháu, cảm ơn hai người về tất cả, cháu -”

Nó thấy dễ chịu khi rời khỏi căn phòng và đi theo ông Ted qua một hành lang ngắn và đi vào phòng ngủ. Lão Ha­grid đi sau họ, ông loay hoay cúi thấp người để tránh va đầu vào vào xà nhà.

“Hãy đi đi, cháu bé.

Đấy là Khoá cảng.”

Ông Tonks chỉ vào một cái bàn chải nhỏ màu bạc đang nằm trên chiếc khăn trải bàn.

“Cháu cám ơn!” Har­ry nói, rướn ngón tay về phía trước, sẵn sàng rời đi.

“Chờ một lát!” Lão Ha­grid nói, nhìn quanh. “Har­ry, Hed­wig đâu rồi?”

“Nó… nó bị trúng…” Har­ry nói.

Nhiều điều hiện ra trong đầu nó: Nó thấy xấu hổ vì những giọt nước mắt chảy ra từ đôi mắt nó. Con cú đã từng là sinh vật duy nhất bầu bạn với nó, là kết nối duy nhất giữa nó và thế giới phép thuật mỗi lần nó buộc phải quay về nhà Durs­ley.

Lão Ha­grid chìa bàn tay to tướng ra, vỗ vỗ lên vai nó một cách thông cảm.

“Không sao đâu,” Lão Ha­grid nói cộc lốc. “Không sao đâu. Nó đã có một cuộc sống dài và tuyệt vời…”

“Ha­grid!” Ông Ted cảnh báo, khi cái bàn chải phát lên ánh sáng màu xanh dương, và lão Ha­grid chỉ kịp chạm ngón trỏ vào vừa kịp lúc.

Vớt một cú giật mạnh chấn động cả cơ thể như thể một cái móc và một sợi dây vô hình kéo nó về phía trước, Har­ry bị đẩy vào hư không, quay tròn một cách không kiểm soát, ngón tay của nó dính chặt vào cái khóa cảng khi nó và lão Ha­grid bị đẩy xa khỏi ông Tonks. Vài giây sau, chân của Har­ry chạm mạnh xuống nền đất cứng, nó chống tay và đầu gối xuống nhà kho của trang trại Hang Sóc. Nó nghe thấy những tiếng kêu. Lăn người ra xa cái bàn chải không còn phát sáng, nó đứng dậy khẽ lắc lắc người, và thấy bà Weasley và Gin­ny đang chạy xuống từ phía cửa sau… Lão Ha­grid cũng bị ngã xuống sàn nhà, giờ cũng đã đứng dậy.

“Har­ry? Con có phải Har­ry thật không? Chuyện gì đã xảy ra vậy? Những người khác đâu?” Bà Weasley hét lên.

“Ý bác là gì vậy? Chưa có ai quay lại ư?” Har­ry thở hổn hển.

Câu trả lời đã hiện ra rõ ràng trên khuôn mặt tái xám của bà Weasley.

“Bọn Tử Thần Thực Tử đã đợi sẵn chúng ta,” Har­ry nói. “Chúng ta đã bị bao vây ngay khi rời đi – bọn chúng đã biết tối nay – con không biết chuyện gì xảy ra với những người còn lại, bốn Tử Thần Thực Tử đuổi theo con, con phải tìm mọi cách để chạy thoát, và rồi Volde­mort bắt kịp -”

Nó có thể nghe thấy sự bào chữa trong giọng nói của mình, lời biện hộ để bà Weasley hiểu là nó không hề biết chuyện gì đã xảy ra với những đứa con trai của bà, nhưng -

“Cám ơn chúa vì con vẫn ổn!” Bà nói, ôm chầm lấy nó, điều mà nó có cảm giác là không xứng đáng được hưởng điều này.

“Chị có rượu mạnh không, chị Mol­ly?” Lão Ha­grid run run nói. “Để chữa bệnh?”

Bà Weasley có thể gọi ra bằng pháp thuật, nhưng khi thấy bà vội vã đi về căn nhà xiêu vẹo, Har­ry biết bà muốn che giấu khuôn mặt của mình. Nó quay lại Gin­ny, ngay lập tức cô bé trả lời nó những vấn đề mà nó cần biết nhưng chưa hề nói ra.

“Anh Ron và cô Tonks đáng lẽ phải về đầu tiên, nhưng họ đã bỏ lỡ cái Khoá Cảng, nó quay về mà không có họ,” Cô bé nói, chỉ vào cái bình đầy dầu mỡ nằm trên mặt đất gần đó. “Và cái này,” cô chỉ vào một cái giày cổ, “đáng lẽ là của ba và anh Fred, họ phải là những người về thứ hai. Anh và bác Ha­grid về thứ ba và,” Cô bé nhìn đồng hồ, “nếu họ đến kịp, anh George và thầy Lupin phải về trong vòng vài phút nữa…”

Bà Weasley đã trở lại với một chai rượu mạnh, bà đưa cho lão Ha­grid. Lão mở nắp ra và tu ừng ực.

“Má!” Gin­ny thét lên, chỉ vào đốm sáng cách đó khá xa.

Một ánh sáng xanh hiện ra từ bóng tối: nó trở nên sáng và rực rỡ hơn, thầy Lupin và George xuất hiện, xoay tròn rồi ngã xuống. Har­ry biết có điều gì đó không ổn: Thầy Lupin đang đỡ lấy George đang bất tỉnh và mặt bê bết máu.

Har­ry chạy đến và đỡ lấy chân George. Nó và thầy Lupin cùng đưa George vào nhà, qua bếp rồi vào phòng khách, họ đặt George trên ghế so­fa. Khi ánh đèn chiếu lên đầu George, Gin­ny thở hổn hển và bụng Har­ry như run lên: George đã mất một tai. Một bên đầu và cổ ướt nhẹp, đầy máu đỏ tươi.

Ngay khi bà Weasley quỳ xuống cạnh con trai, thầy Lupin nắm lấy tay Har­ry một cách hơi thô bạo và kéo ra ngoài quay trở lại phòng bếp, nơi mà lão Ha­grid đang bị kẹt ở cánh cửa sau.

“Ôi!” Lão Ha­grid tức giận. “Bỏ Har­ry ra! Bỏ Har­ry ra!”

Thầy Lupin lờ lão đi.

“Con vật nào ngồi trong góc khi lần đầu tiên Har­ry Pot­ter đến văn phòng của ta ở Hog­warts?” Thầy nói, lắc Har­ry. “Trả lời mau!”

“Một – một con Grindy­low trong bồn nước, phải không ạ?”

Thầy Lupin thả Har­ry ra và đi về phía tủ bếp.

“Chuyện này là sao vậy!” Lão Ha­grid phàn nàn.

“Thầy xin lỗi, Har­ry, nhưng thầy phải kiểm tra…” Thầy Lupin nói ngắn gọn. “Chúng ta đã bị phản bội. Volde­mort biết con sẽ được di chuyển vào tối nay và người có thể nói cho hắn biết chỉ có thể là người tham gia vào kế hoạch này. Con có thể là một kẻ mạo danh.”

“Vậy tại sao anh không kiểm tra tôi?” Lão Ha­grid hổn hển, vẫn vật lộn với cái cửa.

“Anh có người khổng lồ lai!” Thầy Lupin nói, nhìn lên lão Ha­grid. “Thuốc Đa Dịch chỉ có thể sử dụng cho con người thôi.”

“Không thể ai trong Hội báo với Volde­mort về kế hoạch tối nay,” Har­ry nói. Cái ý tưởng đó thật tệ hại, nó không thể tin có bất kỳ ai phản bội. “Volde­mort chỉ đuổi kịp con lúc cuối cùng, hắn không biết được con đi theo hướng nào vào lúc đầu. Nếu hắn biết kế hoạch đó thì hắn phải biết con là người đi cùng bác Ha­grid.”

“Volde­mort đuổi kịp con á?” Thầy Lupin đột ngột nói. “Chuyện gì xảy ra vậy? Làm thế nào con trốn thoát?”

Har­ry bèn giải thích làm thế nào bọn Tử Thần Thực Tử đuổi theo và nhận ra nó là Har­ry thật, bọn chúng đã bỏ cuộc đuổi bắt như thế nào, triệu tập Volde­mort đến như thế nào, rồi hắn đã xuất hiện ngay trước khi Har­ry và lão Ha­grid đi tới nơi ẩn náu chỗ bố mẹ cô Tonks.

“Bọn chúng nhận ra con? Nhưng bằng thế nào? Con đã làm gì?”

“Con…” Har­ry cố nhớ lại, toàn bộ cuộc hành trình có vẻ như là một sự hỗn độn và hoảng loạn không rõ ràng. “Con thấy Stan Shun­pike… Thầy biết đấy, người bán vé trên chuyến Xe Đò Hiệp Sĩ? Và con cố tước vũ khí của anh ta thay vì – ừm, anh ta không biết mình đang làm gì, phải không? Có lẽ, anh ta bị trúng lời nguyền Độc Đoán!”

Thầy Lupin nhìn một cách kinh ngạc

“Har­ry, cái thời dành cho thần chú Giải giới đã qua rồi! Bọn chúng đang cố bắt và giết con! Ít nhất hãy sử dụng bùa Choáng nếu con chưa sẵn sàng để giết!”

“Con ở hàng trăm thước trên cao! Stan đã đánh mất lý trí, và nếu con yểm bùa Choáng anh ta, anh ta sẽ ngã xuống, anh ta cũng sẽ chết giống như nếu con dùng lời nguyền Ava­da Ke­davra! Phép Giải giới đã giúp con thoát khỏi Volde­mort hai năm trước.” Har­ry nói thêm một cách bướng bỉnh. Thầy Lupin nhắc nó nhớ đến Zacharias Smith, một gã ngu ngốc đến từ nhà Huf­flepuff, người luôn chế nhạo Har­ry khi nó muốn dậy phép Giải giới cho mọi người ở Đoàn Quân Dum­ble­dore.

“Đúng, Har­ry!” Thầy Lupin nói với vẻ kiềm chế đau khổ. “và rất nhiều tên Tử Thần Thực Tử đã nhìn thấy cảnh ấy! Tha lỗi cho ta, nhưng đó thực sự là một hành động không bình thường, nhất là dưới sự nguy hiểm của cái chết cận kề. Lặp lại hành động đó trước mặt những Tử Thần Thực Tử đã chứng kiến hoặc nghe chuyện đó gần như sẽ là tự sát!”

“Vậy thầy nghĩ là con nên giết Stan Shun­pike?” Har­ry hỏi một cách giận dữ.

“Dĩ nhiên là không!” Thầy Lupin nói. “Bọn Tử Thần Thực Tử – và nói thẳng ra là phần lớn mọi người! – đều mong chờ con sẽ tấn công lại! Phép giải giới tước vũ khí là một phép thuật có ích, Har­ry à, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử sẽ nghĩ đó là một điểm đặc trưng của con, và thầy đề nghị con đừng để điều đó xảy ra!”

Thầy Lupin khiến Har­ry cảm thấy mình thật ngu ngốc, nhưng có điều gì đó ở bên trong nó như vẫn muốn kháng cự lại.

“Con sẽ không làm nổ tung những người đứng trên con đường con đang đi chỉ vì họ đứng đó!” Har­ry nói. “Đó là việc mà Volde­mort làm!”

Thầy Lupin không nói gì bắt bẻ lại: Cuối cùng cũng thành công trong việc ép thân mình chui qua được cái cửa, lão Ha­grid lảo đảo tiến tới một cái ghế và ngồi xuống; nó gãy ngay lập tức. Lờ đi cái cảm giác muốn chửi thề trộn lẫn xin lỗi, Har­ry hỏi thầy Lupin lần nữa.

“Anh George sẽ ổn chứ ạ?”

Tất cả sự giận dữ của thầy Lupin với Har­ry dường như đã tan biến sau câu hỏi đó.

“Thầy nghĩ vậy, mặc dù không có cách nào có thể phục hồi lại cái tai, nhất là khi nó đã bị nguyền rủa -”

Có tiếng va chạm từ bên ngoài vọng vào. Thầy Lupin lao về phía cửa sau; Har­ry nhảy qua chân lão Ha­grid và lao về phía sân nhà.

Hai hình người hiện ra ở phía nhà kho, và khi Har­ry chạy lại, nó nhận ra đó là Hermione, giờ đã trở lại hình dạng bình thường, và chú Kings­ley, cả hai đều đang nắm lấy giá treo quần áo. Hermione ngã ngay vao Har­ry, nhưng chú Kings­ley không tỏ vẻ gì là vui mừng khi nhìn thấy họ. Qua vai của Hermione, Har­ry thấy chú giơ đũa phép lên và chỉ vào ngực thầy Lupin.

“Câu cuối cùng mà cụ Al­bus Dum­ble­dore nói với hai chúng ta?”

“Har­ry là hy vọng tốt nhất của chúng ta. Hãy tin thằng bé!” Thầy Lupin từ tốn đáp lại.

Chú Kings­ley quay đũa phép về phía Har­ry nhưng thầy Lupin nói. “Đúng là thằng bé đấy. Tôi đã kiểm tra rồi!”

“Được rồi, được rồi!” Chú Kings­ley nói, cất đũa phép vào áo choàng, “Nhưng ai đó đã phản bội chúng ta! Bọn chúng biết, bọn chúng biết là tối nay!”

“Có vẻ như vậy!” Thầy Lupin trả lời. “Nhưng có vẻ chúng không nhận ra rằng sẽ có bảy Har­ry.”

“Một sự an ủi nhỏ đây!” Chú Kings­ley gầm gừ. “Vậy những ai đã trở lại?”

“Chỉ có Har­ry, lão Ha­grid, George, và tôi.”

Hermione cố giấu một tiếng rên nhẹ lên sau bàn tay của mình.

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với hai người?” Thầy Lupin hỏi chú Kings­ley.

“Bị năm tên đuổi theo, đã làm bị thương hai tên và suýt giết chết một tên.,” chú Kings­ley tiếp tục. “Và chúng tôi cũng thấy Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy, hắn tham gia cuộc đuổi bắt được nửa đường nhưng biến mất khá nhanh sau đó. Anh Re­mus, hắn có thể -”

“Bay!” Har­ry tiếp tục. “Con đã thấy hắn, hắn đuổi theo bác Ha­grid và con!”

“Vậy đó là lý do hắn đã bỏ đi, để đuổi theo thằng bé à!” Chú Kings­ley nói. “Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao hắn lại biến mất. Điều gì đã khiến hắn thay đổi mục tiêu vậy?”

“Har­ry đối xử một cách hơi tốt bụng với Stan Shun­pike!” Thầy Lupin nói.

“Stan?” Hermione lặp lại. “Con tưởng anh ta đang ở ngục Azk­aban?”

Chú Kings­ley nở một nụ cười buồn.

“Hermione, đó chắc chắn là một vụ vượt ngục lớn mà Bộ Pháp thuật cố gắng ỉm đi. Cái mũ trùm đầu của Travers đã bay đi khi tôi ném lời nguyền vào hắn, chắc chắn hắn ở dưới cái mũ đó. Nhưng chuyện gì đã xảy ra với anh vậy, Re­mus? George đâu?”

“Cậu bị mất một tai rồi,” Thầy Lupin đáp.

“Mất một –” Hermione nói lanh lảnh.

“Tác phẩm của Snape đấy!” Thầy Lupin nói.

“Snape?” Har­ry hét lên. “Thầy không nói –”

“Hắn đã rơi mất mũ trùm đầu trong lúc truy đuổi. Lời nguyền Cắt sâu mãi mãi luôn luôn là lời nguyền đặc trưng của Snape. Tôi ước gì có thể trả đũa hắn, nhưng tất cả những gì tôi làm được là cố giữ George trên cái chổi sau khi nó bị thương, nó bị mất quá nhiều máu!”

Sự im lặng trùm lên bốn người khi họ cùng ngước trời. Không có dấu hiệu gì chuyển động; những vì sao sáng đều đặn, không nhấp nháy, không hề có dấu hiệu của những người đang bay. Ron đang ở đâu? Fred và ông Weasley nữa? Còn cả Bill, Fleur, cô Tonks, Mắt-Điên, và Mundun­gus?

“Har­ry, hãy vào giúp một tay!” Giọng lão Ha­grid khàn khàn vang ra từ phía cánh cửa, nơi lão lại bị mắc kẹt lần nữa. Phấn khởi vì có việc để làm, Har­ry cho phép mình tự do, đi qua cái bếp trống rỗng và quay trở lại phòng khách, nơi mà bà Weasley và Gin­ny đang chăm sóc George. Bà Weasley đã cầm được máu, và bằng ánh sáng từ những chiếc đèn, Har­ry thấy một cái lỗ to, nơi đã từng là tai của George.

“Anh ấy thế nào rồi ạ?”

Bà Weasley nhìn quanh và nói. “Bác không thể làm nó mọc lại, không thể khi nó bị cắt ra bởi phép thuật Hắc ám. Nhưng như thế này là vẫn chưa quá tệ… Thằng bé vẫn sống!”

“Vâng ạ,” Har­ry nói. “Ơn trời.”

“Anh có thấy ai khác ở ngoài sân không?” Gin­ny hỏi.

“Hermione và chú Kings­ley!” Har­ry đáp.

“Cảm ơn trời,” Gin­ny thì thầm. Họ nhìn nhau; Har­ry muốn ôm lấy cô bé, nắm chặt lấy cô; nó thậm chí còn chẳng quan tâm nhiều rằng bà Weasley ở đó, nhưng trước khi nó kịp hành động nông nổi, có một tiếng loảng xoảng ầm ĩ từ nhà bếp.

“Kings­ley,tôi sẽ cho cậu thấy tôi là ai ngay sau khi tôi được gặp con trai tôi, giờ nếu khôn hồn thì hãy tránh ra.”

Har­ry chưa bao giờ nghe ông Weasley hét lên như thế trước đây. Ông lao xổ vào phòng khách,cái đầu hói bóng lưỡng mồ hôi, gọng kính lệch đi, Fred ở ngay sau ông, trông cả hai người tái nhợt nhưng không bị thương.

“Athur!” Bà Weasley nức nở “Ôi, tạ ơn trời!”

“Nó sao rồi?”

Ông Weasley khụy chân bên cạnh George. Lần đầu tiên kể từ khi nó biết anh, Fred trông như bị á khẩu. Anh nhìn chăm chăm vào lưng của chiếc ghế sô pha chỗ người anh em song sinh bị thương của mình cứ như thể là anh không thể tin vào những gì mình đang thấy.

Hình như bị đánh thức bởi tiếng ồn từ cuộc viếng thăm của cha và Fred, George cựa mình.

“Con thấy sao hả George?” Bà Weasley thì thầm.

Ngón tay của George dò dẫm một bên đầu của cậu.

“Tuyệt như thánh,” George thì thầm.

“Có gì không ổn với nó thế?” Fred càu nhàu, trông khiếp đảm .”Đầu óc nó có bị ảnh hưởng không?”

“Tuyệt như thánh” George nhắc lại, mở mắt và nhìn lên người anh của mình “Mày thấy đấy… tao giờ là một vị thánh. Có một cái lỗ Fred ạ, hiểu không?”

(Chỗ này cần giải nghĩa 1 tí: cô JK đã chơi chữ. Holy(thánh thần) và Ho­ley(có lỗ) đều phát âm là [ 'Houli ] và George dù bị thương nhưng vẫn hài hước. Mất một tai và trông như có 1 cái lỗ trên đầu(ho­ley)[khiếp] nhưng lại nhận rằng mình là thánh thiện như một vị thánh (Holy) – Minh lết)

Bà Weasley càng nức nở lớn hơn. Màu sắc tràn ngập khuôn mặt tái nhợt của Fred. “Thật thống thiết,” cậu nói với George. “Thống thiết lắm! Với cả một đống truyện tiếu lâm có liên quan đến cái tai, thì mày lại đi kể một câu truyện về cái lỗ hả?”

“À cũng tốt mà,” George đáp, cười toét ra với người mẹ đang ướt đãm nước mắt của mình. “Giờ thì dù thế nào đi nữa, mẹ cũng có thể phân biệt chúng con riêng rẽ, mẹ à”

Cậu nhìn quanh.

“Chào, Har­ry— Chú mày là Har­ry , phải không nhỉ?”

“Vâng, em đây” Har­ry đáp, đến gần chiếc Sô pha hơn.

“Tốt quá, ít nhất thì chúng ta cũng đem chú mày về yên ổn” George nói. “Tại sao Ron và Bill không đến bu quanh giường bệnh của mình nhỉ?”

“Họ chưa về George ạ” bà Weasley nói. Nụ cười rộng đến mang tai của George héo đi. Har­ry liếc nhìn Gin­ny, và đi về chỗ cô bé để cùng đi ra ngoài. Khi họ đi qua nhà bếp, cô nói nhỏ.

“Anh Ron và cô Tonks chắc phải về rồi. Họ không có một chuyến đi dài; nhà cô Muriel đâu có ở xa đây.”

Har­ry không nói gì. Nó đã cố giữ cho nỗi sợ hãi không lại gần mình kể từ lúc đến trang trại Hang Sóc, nhưng bây giờ nỗi sợ hãi lại bao trùm lấy nó, dường như trườn bò qua da, nện thình thình lên lồng ngực, làm nghẹn cổ họng nó. Khi họ đi xuống bậc tam cấp vào trong khu vườn tối, Gin­ny nắm tay nó.

Kings­ley đi lên đi xuống, liếc nhìn lên trời mỗi lần chú quay người. Điều này gợi cho Har­ry về dượng Ver­non khi ông đi quanh phòng khách một triệu năm về trước. Bác Ha­grid, Hermione và thầy Lupin đứng vai kề vai, đăm đắm ngước nhìn trong im lặng. Không ai trong số họ nhìn ngang khi Har­ry và Gin­ny tham dự cầu nguyện im lìm của mình.

Từng phút kéo dài như hàng năm. Chỉ một hơi gió nhẹ nhất cũng làm họ nhảy dựng lên và quảy về phía bụi rậm hay cái cây đang xào xạc trong niềm hi vọng rằng một thành viên còn thiếu của Hội có thể sẽ nhảy ra nguyên lành từ những cái lá đấy -

Và rồi một cây chổi bay hiện ra hướng thẳng về phía họ và vạch một đường trên mặt đất”

“Họ đấy!” Hermione thét lên.

Cô Tonks đáp xuống với một rãnh dài và bắn đất sỏi khắp nơi.

“Re­mus!” Cô Tonks khóc khi cô loạng choạng rời cây chổi vào vòng tay của thầy Lupin. Khuôn mặt thầy nghiêm nghị và trắng bệch. Thầy trông như á khẩu. Ron tự dưng ngã xuống khi đi về phía Har­ry và Hermione.

“Cậu ổn rồi,” cậu lẩm bẩm trước khi Hermione lao tới ôm ghì lấy cậu.

“Tớ cứ tưởng -cứ tưởng”

“Ớ ổn mà” Ron nói, vỗ về lưng cô bé. “Ớ vẫn khoẻ”

“Ron tuyệt lắm,” cô Tonks nói vui vẻ, và cô buông thầy Lupin ra “Rất tuyệt. Đánh bất tỉnh một Tử thần Thực tử, ngay vào đầu, và cháu đã làm thế lúc hắn bay trên chổi -”

“Thật á?” Hermione nói, tròn mắt nhìn Ron trong lúc tay cô bé vẫn vòng quanh cổ nó.

“Lúc nào cũng là những tiếng kêu ngạc nhiên,” Ron càu nhàu và đứng dậy. “Chúng tớ có phải là những người sau cùng chưa?”

“Chưa đâu,” Gin­ny đáp, “Bọn em đang chờ Bill, Fleur ,thầy Mắt Điên và Mundun­gus. Em sẽ vào báo với bố mẹ là anh đã ổn”

Rồi cô chạy vào trong.

“Thế là điều gì đã giữ chân em? Đã xảy ra chuyện gì?”giọng thầy Lupin gần như là bực bội với cô Tonks.

“Bel­la­trix,” Tonks đáp. “Mụ ta cũng cũng muốn bắt em như là muốn bắt Har­ry, Re­mus à. Mụ ấy rất cố gắng giết em. Em chỉ ước sao em tóm được mụ ta. Em nợ mụ ta. Nhưng chắc chắn là bọn em đã đánh bị thương Rodol­phus… Sau đấy bọn em tới chỗ dì Muriel của Ron và bọn em đã lỡ khoá cảng, bà ấy ấy quát tháo tụi em tơi bời –“

Một sợi cơ nhảy trên miệng thầy Lupin. Thầy gật đầu, nhưng có vẻ nhưng không thể nói bất kì điều gì khác.

“Thế chuyện gì xảy ra với mấy người?” Cô Tonks hỏi. Quay sang Har­ry ,Hermione, và Kings­ley.

Họ thuật lại câu chuyện về chuyến đi của mình. Nhưng thời gi­an trôi đi mà thiếu vắng Bill, Fleur, Mắt điên, và Mundun­gus cho mọi người trong lòng cảm giác băng giá, cái lạnh nhức nhối của nó ngày càng nặng nề, khó mà phớt lờ.

“Tôi phải về phố Down­ing đây. Tôi đáng ra phải ở đó cách đây một giờ,” chú Kings­ley nói, sau khi ngước nhìn lần cuối lên bầu trời. “Hãy cho tôi biết khi họ trở về!”

Thầy Lupin gật đầu. Vẫy tay chào mọi người, chú Kings­ley đi bộ hoà mình trong bóng tối về phía cánh cổng. Har­ry nghĩ là nó đã nghe thấy một tiếng Bốp khẽ khi chú Kings­ley độn thổ ở ngay ngoài hàng rào trang trại Hang Sóc.

Ông bà Weasley chạy vội xuống bậc tam cấp, Gin­ny theo sau họ. Cả 2 người cùng ôm chầm lấy Ron trước khi quay sang thầy Lupin và cô Tonks.

“Cám ơn,” Bà Weasley nói, “vì những đứa con trai của chúng tôi,”

“Đừng nói như thế chị Mol­ly à,” Cô Tonks nói ngay.

“George sao rồi?” Thầy Lupin hỏi.

“Anh ấy bị sao?” Ron nói lớn.

“Nó mất đi-” Nhưng đoạn kết của lời nói của bà Weasley bị dìm đi trong một tiếng la của mọi người. Một con Vong mã chỉ vừa mới xuất hiện và hạ cánh cách họ vài bước. Bill và Fluer trượt xuống từ lưng nó, hai người ướt đẫm nhưng đều không bị thương.

“Bill. tạ ơn trời, ơn trời -”

Bà Weasley chạy về phía, nhưng Bill chỉ hờ hững ôm lấy bà. Nhiùn thẳng vào mặt bố mình, anh chầm chậm nói “Thầy Mắt Điên chết rồi.”

Không ai nói, không ai cử động. Har­ry cảm thấy như có cái gì đó bên trong nó rơi xuống, rơi xuyên qua trái đất, rời bỏ nó, mãi mãi.

“Chúng con đã nhìn thấy,” Bill nói; Fleur gật đầu, hàng nước mắt trên má cô long lanh trong ánh sáng từ nhà bếp hắt ra. “Ngay sau khi chúng con phá vỡ vòng vây, Mắt điên và Mundun­gus-phân ở ngay sau bọn con, họ cũng hướng về phía bắc. Vol­der­mort – hắn biết bay- hắn thẳng tiến về phía bọn họ. Mundun­gus-cứt khiếp vía, con nghe tiếng lão ta gào khóc, Mắt Điên cố ngăn lão ta lại, nhưng lão ta độn thổ. Lời nguyền của Vol­der­mort đánh thẳng vào mặt thầy Mắt điên, ông ấy văng ra khỏi chổi và – bọn con chẳng thể làm gì được, bọn con có nửa tá tên Tử thần Thực tử đang theo đuôi.”

Giọng Bill nghẹn lại.

“Tất nhiên là các con không thể làm gì,” thầy Lupin nói.

Họ đứng và nhìn nhau. Har­ry chưa thể chấp nhận chuyện này.Thầy Mắt điên ra đi; không thể nào… thầy Mắt Điên, rất dũng cảm, rất mạnh mẽ, một chiến binh hoàn hảo…”

Cuối cùng thì có vẻ mọi người đều đã rõ ràng. Không ai bảo ai chẳng còn gì để đợi chờ trong vườn nữa và trong im lặng, họ theo chân ông bà Weasley trở lại trang trại Hang sóc, mọi người cùng vào phòng khách, nơi Fred và George đang cười đùa với nhau.

“Có chuyện gì không ổn à?” Fred nói, nhìn lướt qua mặt mọi người khi họ vào phòng, “Có chuyện gì? Ai đã–?”

“Mắt điên,” bà Weasley nói, “Chết.”

Nụ cười toe toét của cặp song sinh chuyển thành nét ngạc nhiên bất ngờ. Không ai biết phải làm gì. Cô Tonks khóc âm thầm vào một cái khăn tay: Cô rất gần gũi với thầy Mắt Điên, Har­ry biết thế, một trong những người ông quý mến và là người mà ông đỡ đầu ở bộ pháp thuật. Ha­grid, ngồi trên sàn, ở một góc nhà , nơi bác có nhiều không gi­an nhất, đang chấm mắt mình với một cái khăn tay to như cái khăn trải bàn.

Bill đi về phía cái tủ bếp, lôi ra một chai Whisky Lửa và vài cái ly.

“Này,” anh nói và với một cái vẫy đũa, 12 ly rượu đầy vụt ngang căn phòng, đến với mỗi người, anh nâng cái ly thứ 13 lên, “Vì Mắt Điên.”

“Vì Mắt Điên,” mọi người đồng thanh và uống.

“Vì Mắt Điên” Bác Ha­grid nhắc lại, hơi chậm với một tiếng nấc. Whisky Lửa làm cổ họng Har­ry khan đi. Dường như nó đốt cháy cảm xúc trong Har­ry, xua đi tình trạng đờ đẫn, cảm giác mơ hồ và thiêu đốt nó với thứ gì đó tựa hồ lòng dũng cảm.

“Vậy là Mundun­gus đã độn thổ?” Thầy Lupin nói, uống cạn cái ly chỉ với một hớp.

Bầu không khí thay đổi lập tức. Nhìn thầy thầy Lupin căng thẳng, mọi người vừa muốn thầy tiếp lục nói lại vừa sợ những điều mà mình sẽ phải nghe thấy.

“Cháu biết chính xác chú muốn nói đến cái gì,” Bill nói, “Và cháu cũng phân vân như thế trên đường về đây, bởi vì có vẻ như chúng đợi chúng ta , phải không? Nhưng Mundun­gus không thể phản lại chúng ta. Chúng không biết về việc có đến 7 Har­ry, Điều đó đã làm chúng bối rối vào khoảnh khắc mà chúng ta xuất hiện và trong trường hợp mà mọi người quên,chính Mundun­gus đã đề xuất cái mẹo này. Tại sao ông ta không nói cho chúng về việc điểm trọng yếu này? Cháu nghĩ là Mundun­gus-phân đã sợ hãi ,chỉ đơn giản thế thôi. Ông ta không muốn đi đầu nhưng Mắt Điên đã bắt ông ta làm thế và Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy tiến thẳng về phía họ. Thế cũng đủ làm bất kì ai vãi mật. ”

“ Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy đã hành động đúng như chú Mắt Điên muốn,” cô Tonks sụt sịt. “Chú Mắt Điên bảo là hắn mong Har­ry đi cùng Thần sáng mạnh mẽ, già dặn nhất và khi phát hiện ra Mundun­gus , hắn chuyển sang chú Kings­ley…”

“Ừ thế thì mọi ziệc điều ổn.” Fleur chen vào “Nhưng ó vẫn không giải thích ại sao húng biết chúng ta đưa Ar­ry đi tối nay phải không? Phải có ai đó bất cẩn, một ai đó để lộ kế hoạch cho người ngoài.nó là sự giải thích duy nhất vì sao bọn chúng biết ngày giờ nhưng không biết cả kế hoạch.”

Cô nhìn quanh dòng nước mắt vẫn chảy trên khuôn mặt xinh xắn, chờ đợi người nào đấy đứng lên phản đối. Không ai cả. Tiếng động phá tan sự im lặng chỉ là tiếng nấc của bác Ha­grid từ sau chiếc khăn tay. Har­ry liếc nhìn bác Ha­grid, người đã mạo hiểm cả mạng sống để cứu nó – Bác Ha­grid, người mà nó yêu mến, người mà nó tin tưởng, người mà đã một lần bị lừa, trao cho Vol­der­mort thông tin chủ chốt trong một vụ trao đổi trứng rồng..

“Không,” Har­ry nói lớn, và mọi người nhìn nó ngạc nhiên: Whisky Lửa dường như làm giọng nói của nó dõng dạc lên. “Ý cháu là… nếu có ai đó làm sai,” Har­ry nói tiếp, “và để lộ điều gì, thì cháu biết rằng người đó không cố ý. Đó không phải lỗi của ai cả,” nó lặp lại, vẫn với cái giọng to hơn nó thường nói một chút. “Chúng ta phải tin lẫn nhau. Cháu tin tưởng mọi người. Cháu chẳng nghĩ bất kì ai trong chỗ này có thể bán cháu cho Vol­der­mort.”

Càng im lặng hơn sau khi nó nói. Tất cả đều nhìn nó; Har­ry lại cảm thấy nóng , nó uống thêm Whisky lửa chỉ để cho có việc mà làm. Khi uống, nó nghĩ về thầy Mắt Điên. Thầy Mắt Điên luôn bất đồng với quan điểm luôn tin tưởng và một ai đó của cụ Dum­ble­dore.

“Nói hay lắm, Har­ry,” Fred thình lình nói.

“Ừ hai hai,” George nói với một cái liếc nửa mắt về phía Fred, khóe miệng của họ nhếch lên.

Thầy Lupin diễn tả một bộ mặt kì lạ khi thầy nhìn Har­ry. Cái nhìn đấy gần như là thương hại.

“Thầy nghĩ con là hai thằng ngốc à?” Har­ry gặng hỏi.

“Không, thầy nghĩ là con rất giống James” thầy Lupin đáp “Anh ấy cho rằng sẽ là vô cùng nhục nhã nếu nghi ngờ bạn bè của mình.”

Har­ry biết thầy Lupin đang đề cập đến điều gì: rằng cha của nó đã bị phản bội bởi bạn của ông – Pe­ter Pet­ti­grew. Nó thấy giận dữ một cách vô cớ. Nó muốn tranh cãi nhưng thầy Lupin đã quay đi, đặt cái ly của ông xuống một góc bàn và bảo Bill, “Có việc để làm đấy. Chú có thể hỏi Kings­ley xem-”

“Không,” Bill đáp ngay, “Cháu sẽ làm, cháu sẽ đi.”

“Anh định đi đâu?” cô Tonks và Fleur đồng thanh.

“Thi thể của thầy Mắt Điên,” thầy Lupin đáp. “Chúng ta phải tìm lại nó chứ”.

“Không phải –” Bà Weasley chen vào, nhìn Bill cầu khẩn.

“Khoan đã?” Bill nói “Không phải mẹ muốn bọn Tử thần thực tử cướp ông ấy đi đấy chứ?”

Không ai nói gì. Thầy Lupin và Bill chào tạm biệt và ra đi.

Những người khác ngồi phịch xuống ghế tất cả, trừ Har­ry, nó vẫn đứng. Sự bất ngờ và toàn vẹn của cái chết đến với họ gần như là ngay lập tức.

“Cháu cũng phải đi,” Har­ry nói.

Mười đôi mắt hoảng hốt nhìn nó.

“Đừng ngốc thế Har­ry,” bà Weasley nói “Cháu đang nói về cái gì thế hả?”

“Cháu không thể ở đây được.”

Nó xoa trán; trán nó lại có cảm giác kiến cắn. hơn một năm rồi nó chưa bị đau như thế này.

“Tất cả mọi người sẽ gặp nguy hiểm khi cháu ở đây.Cháu không muốn -”

“Nhưng đừng có ngớ ngẩn!” bà Weasley nói “Mục đích của cả tối nay, chỉ là đưa cháu về đây an toàn, và tạ ơn trời nó đã xong rồi. Fleur cũng đã đồng ý là cưới ở đây thì hơn cưới ở Pháp, chúng ta đã sắp xếp mọi chuyện để có thể ở đây cùng nhau trông nom cháu -”

Bà không hiểu vấn đề; bà chỉ làm cho nó cảm thấy tồi tệ hơn, không khá lên chút nào.

“Nếu Vol­der­mort tìm ra cháu ở đây -”

“Làm sao hắn có thể?” Bà Weasley hỏi. “Có cả tá chỗ mà cháu có thể đang ở bây giờ, Har­ry à,” bà Weasley nói. “Hắn chẳng có cách nào biết được cháu đang ở chỗ trú ẩn nào đâu.”

“Không phải là cháu đang lo lắng cho cháu!” Har­ry nói.

“Chúng ta biết thế.” bà Weasley nhẹ nhàng nói, “Nhưng nếu cháu đi thì những nỗ lực của chúng ta sẽ là vô ích”

“Cáu không được đi đâu hết,” Bác Ha­grid gầm lên. “Ôi, Har­ry, sau tất cả những gì mà chúng ta đã chải qua tể mang được cháu đến đây à?”

“Ừ, thế còn cái tai đang chảy máu của anh thì sao hả?” George nói, nhổm mình trên cái nệm của anh.

“Em biết là –”

“Thầy Mắt Đien sẽ không muốn-”

“EM BIẾT” Har­ry hét lên.

Har­ry thấy như bị bao vây và hăm dọa: Chẳng lẽ họ nghĩ nó không biết những gì họ làm cho nó, sao họ không hiểu là có lí do chính đáng để nó ra đi, trước khi họ phải gánh chịu một tí gì thay cho nó nữa? Bà Weasley phá vỡ sự im lặng ngượng ngùng kéo dài một lúc lâu trong khi vết sẹo của nó vẫn khó chịu và đau âm ỉ.

“Hed­wig đâu hả Har­ry?” bà dỗ dành. “Chúng ta có thể đem nó lên với Pid­wid­geon và cho nó chút gì để ăn.”

Ruột gan Har­ry thắt lại. Nó không thể nói sự thật với bà được. Nó uống cạn li Whisky lửa của mình để tránh phải trả lời.

“Chờ cho đến khi mọi chuyện lan ra, cháu lại làm điều đó lần nữa Har­ry à!” bác Ha­grid nói. “Thoát khỏi hắn, chiến đấu với hắn ngay cả khi hắn đang ở ngay trên đầu cháu!”

“Đâu phải cháu,” Har­ry thằng thừng. “Đó là cây đũa phép của cháu. Nó hành động theo ý nó đấy chứ.”

Sau một lúc, Hermione nhẹ nhàng, “Không thể thế được Har­ry ạ. Chắc ý cậu là cậu làm phép mà không có chủ định, cậu hành động theo phản xạ.”

“Không,cái xe rơi xuống, mình không biết Vol­der­mort đang ở đâu, nhưng cây đũa xoay tít trong tay tớ, tìm ra hắn và bắn một lời nguyền vào hắn, và thậm chí tớ còn chẳng biết đấy là lời nguyền gì nữa. Tớ chưa bao giờ tạo được một ngọn lửa vàng hiện ra cả.”

“Cũng thường thôi,” bà Weasley nó,i “Trong những hoàn cảnh bức thiết, cháu có thể làm ra những phép lạ mà cháu chưa từng mơ tới .Bọn trẻ con vẫn thường thế, trước khi chúng được dạy dỗ”

“Không phải thế đâu,” Har­ry nói qua hàm răng nghiến chặt. Vết sẹo của nó đang nhức nhối. Nó thấy tức giận và chán nản; nó ghét cái ý nghĩ là mọi người đều tưởng nó có đủ quyền năng sánh tầm Volde­mort .

Chẳng ai nói gì. Nó biết họ không tin mình. Bây giờ nó lại suy nghĩ lại về chuyện đó, đúng là nó chưa từng nghe ai nói về việc một cây đũa tự làm phép.

Cái sẹo của lại buốt lên vì đau, nó làm tất cả để không lớn tiếng rên rỉ. Muốn hít thở không khí trong lành, nó đặt cái ly xuống và rời phòng

Khi nó đi ngang qua sân, con Vong mã xương xẩu có cánh khổng lồ ngước nhìn lên, sột soạt đôi cánh dơi khổng lồ của nó và rồi lại quay vào bãi thả mình. Har­ry dừng ở cánh cổng vườn, nhìn đăm chiêu vào những cái cây mọc trên mặt đất, xoa cái trán đang nhức nhối của nó và nghĩ về cụ Dum­ble­dore.

Cụ Dum­ble­dore sẽ tin nó, nó biết thế. Cụ Dum­ble­dore cũng sẽ biết như thế nào và tại sao cây đũa của Har­ry lại hành động một cách tự chủ, vì cụ Dum­ble­dore luôn có câu trả lời; cụ hiểu biết về đũa phép, đã giải thích được sự nối kết kì lạ đã tồn tại giữa cây đũa của nó và Vol­der­mort… Nhưng cụ Dum­ble­dore cũng như thầy Mắt Điên, chú Sir­ius, như bố mẹ nó và cả con cú tội nghiệp của nó, tất cả đều đi đến nơi mà Har­ry không còn có thể nói chuyện được với họ nữa. Nó lại cảm thấy cổ họng khô cháy dù nó chẳng uống giọt Whiskey lửa nào cả…

Và rồi, bất thình lình, cơn đau từ vết sẹo trỗi dậy. Nó ôm chặt lấy trán và nhắm tịt mắt lại, một tiếng thét vang lên trong đầu nó.

“Ngươi nói với ta rằng vấn đề đấy có thể giải quyết bằng cách sử dụng đũa phép của kẻ khác.”

“Không! Không! Tôi cầu xin ngài, tôi cầu xin…”

“Ol­li­van­der! Ngươi đã nói dối Chúa Tể Vol­der­mort,”

“Tôi không… Tôi thề là tôi không…”

“Mi tìm cách giúp đỡ Pot­ter, mi giúp nó trốn thoát khỏi tay ta!”

“Tôi thề là tôi không làm thế… Tôi đã tưởng là cây đũa khác sẽ làm được…”

“Thế thì giải thích đi, chuyện gì đã xảy ra. Cây đũa của Lu­cius đã bị phá hủy!”

“Tôi không hiểu được… Sự kết nối… Chỉ có giữa 2 cây đũa của ngài và…”

“Dối trá”

“Làm ơn… Tôi cầu xin ngài…”

Har­ry thấy bàn tay trắng bệch nâng cây đũa của nó lên và cảm nhận cơn giận giữ khủng khiếp của Vol­der­mort đang dâng tràn, và thấy ông già yếu đuối trên sàn nhà, quằn quại trong đau đớn-

“Har­ry?”

Cũng nhanh như khi nó đến :Har­ry run rẩy đứng trong bóng tối, nắm chặt lấy cánh cổng vườn, trái tim của nó đập mạnh, vết sẹo của nó vẫn nóng ran. Phải mất một lúc lâu trước khi nó nhận ra Ron và Her­mi­none đang ở bên cạnh mình.

“Har­ry, vào nhà đi” Hermione thì thầm “Không phải là cậu vẫn đang nghĩ về chuyện bỏ đi đấy chứ?”

“Ừ, cậu phải ở đây chứ anh 

bạn.” Ron nói, thụi vào lưng Har­ry.

“Cậu ổn chứ?” Hermione hỏi, cô ở đủ gần để nhìn vào mặt của Har­ry. “Trông cậu khiếp quá!”

“À ừ,” Har­ry nói, giọng hơi run, “Chắc là tớ trông còn khá hơn cụ Ol­li­van­der….”

Khi nó kể xong những gì mà nó thấy, Ron trông sợ hãi, nhưng còn Hermione thì rõ là khiếp vía.

“Nhưng mình tưởng là điều này phải ngừng rồi chứ! Vết sẹo của cậu – điều này không được tiếp tục xảy ra ! Cậu không thể để sự nối kết ấy lại mở ra một lần nữa – thầy Dum­ble­dore muốn cậu khép kín tâm trí mình!”

Khi nó không trả lời, cô bé kẹp chặt tay nó.

“Har­ry, hắn đang chiếm lấy Bộ Pháp thuật, báo chí và một nửa thế giới pháp thuật! Đừng để cho hắn vào được tâm trí của cậu.”

Chương VI:

Con ma cà rồng mặc pajamas

Cú sốc sau sự ra đi của thầy Mắt-Điên bao trùm lấy căn nhà nhiều ngày sau đó: Har­ry vẫn cứ mong mỏi thấy ông lộp cộp đi vào qua cửa sau như những thành viên khác của Hội, những người thường xuyên qua lại để chuyển tin tức. Nó cảm giác không gì ngoài hành động thực sự mới có thể làm dịu đi cảm giác tội lỗi và đau khổ ở trong lòng, và rằng nó phải lên kế hoạch cho nhiệm vụ tìm và tiêu diệt những Trường Sinh Linh Giá sớm nhất có thể.

“Ừm, cậu không thể làm bất cứ điều gì về những” – Ron hạ giọng ở từ Trường sinh linh giá – “cho đến khi cậu đủ mười bảy tuổi. Cậu vẫn còn chịu sự giám sát của Bộ Pháp thuật đấy! Và liệu chúng ta có thể lên kế hoạch ở đây hay bất cứ nơi nào khác? Hay,” Ron hạ giọng xuống thì thầm, “cậu có nghĩ là cậu đã biêt Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết –Là-Ai-Đấy ở đâu chưa?”

“Chưa,” Har­ry thừa nhận.

“Tớ nghĩ Hermione đã và đang làm một vài nghiên cứu nhỏ,” Ron nói. “Cậu ấy bảo cậu ấy giữ riêng cho cậu khi cậu tới đây.”

Mọi người cùng ngồi xung quanh bàn ăn sáng; ông Weasley và Bill vừa rời khỏi nhà đi làm. Bà Weasley đã đi lên tầng để đánh thức Hermione và Gin­ny, còn Fleur vừa rời khỏi bàn ăn để vào nhà tắm.

“Sự giám sát sẽ không còn vào ngày ba mươi mốt,” Har­ry nói. “Điều này nghĩa là tớ chỉ phải ở đây bốn ngày. Sau đấy tớ có thể -“

“Năm, Har­ry à” Ron nói chắc nịch. “Chúng ta phải ở đây cho tới lễ cưới. Họ sẽ giết chúng ta nếu chúng ta bỏ lỡ nó.”

Har­ry hiểu rằng “họ” ở đây là Fleur và bà Weasley.

“Chỉ đơn thuần là thêm một ngày mà,” Ron nói khi thấy Har­ry có vẻ hơi đăm chiêu.

“Họ đâu có hiểu rằng việc này quan trọng như thế nào -?”

“Dĩ nhiên là họ không hiểu rồi,” Ron nói. “Họ không có một khái niệm gì về chuyện này. Nhân tiện về chuyện này, tớ muốn nói với cậu một điều.”

Ron liếc nhanh về phía cửa hướng ra sảnh để chắc chắn là bà Weasley chưa quay trở lại, rồi cậu cúi người lại gần Har­ry.

“Mẹ đang cố tách tớ và Hermione ra khỏi nhau. Chúng tớ bị bắt làm nhiều việc tách khỏi nhau. Bả sẽ cố tách cậu tiếp, vậy nên cậu chuẩn bị tinh thần đi nhé. Bố và thầy Lupin cũng đã dò hỏi về chuyện này, nhưng khi chúng tớ nói rằng cụ Dum­ble­dore bảo cậu không được nói cho ai ngoài chúng tớ, họ từ bỏ ý định. Tuy nhiên điều này thì không đúng với mẹ. Bà ấy rất kiên định.”

Dự đoán của Ron trở thành sự thật chỉ sau vài giờ. Ngay trước bữa trưa, bà Weasley tách Har­ry khỏi những người khác bằng việc nhờ nó giúp tìm kiếm một cái tất đơn của nam mà bà nghĩ có thể đã rơi ra khỏi ba lô của nó. Rồi khi bà cùng nó ở trong cái phòng rửa bát nhỏ hẹp, bà bắt đầu nói.

“Ron và Hermione có vẻ như đang nghĩ về chuyện ba đứa sẽ bỏ học ở Hog­warts,” Bà bắt đầu bằng một giọng nhẹ nhàng và thân mật.

“Dạ,” Har­ry nói. “Ừm, vâng ạ. Chúng con sẽ làm thế.”

Chiếc máy giặt đồ rung rung ở phía trong góc, đang vắt một thứ đồ trông như chiếc áo vest của bà Weasley.

“Ta có thể hỏi con tại sao các con lại bỏ học được chứ?” bà Weasley hỏi.

“Dạ, là do cụ Dum­ble­dore đã để lại cho con… việc phải làm,” Har­ry lí nhí nói. “Ron và Hermion biết về chuyện này, và họ cũng muốn đi cùng với con.”

“Thế ‘việc phải làm’ là những gì thế?”

“Con xin lỗi, con không thể -”

“Thực lòng mà nói, ta nghĩ Arthur và ta có quyền được biết, và ta chắc chắn rằng ông và bà Granger cũng sẽ đồng ý!” bà Weasley ngắt lời. Har­ry đã e sợ của sự tấn công bằng “những mối quan tâm của phụ huynh” này từ trước. Cậu ép mình nhìn thẳng vào mắt của bà, và để ý thấy đôi mắt của bà có cùng màu nâu như của Gin­ny. Nhưng việc này không có tác dụng gì.

“Cụ Dum­ble­dore không muốn bất cứ ai khác biết, bác Weasley à. Cháu thực sự xin lỗi. Ron và Hermione không bắt buộc phải đi cùng, đấy là lựa chọn của các bạn ấy -”

“Ta không nghĩ rằng con cũng phải đi!” bà ngắt lời, không còn ra vẻ hiền hậu nữa. “Các con chỉ vừa đủ tuổi, tất cả mấy đứa tụi mày! Thật sự hoàn toàn vô nghĩa, nếu cụ Dum­ble­dore cần công việc gì đó phải hoàn tất, cụ có toàn bộ Hội để ra lệnh cho! Har­ry, con thực sự đã hiểu nhầm ý của ông ấy. Có lẽ ông ấy đã nói với con về một điều gì đấy mà ông ấy muốn được hoàn thành, và con đã hiểu nó theo cách là ông ấy muốn con -”

“Con không hiểu nhầm ạ,” Har­ry nói dứt khoát. “Chắc chắn con phải làm.”

Nó đưa cho bà một cái tất đơn mà nó đã được yêu cầu tìm, cái tất với trang trí hoa văn với những cây hương bồ màu vàng.

“Và thứ này không phải của con. Con không ủng hộ đội Pud­dle­mere Unit­ed.”

“Ồ, dĩ nhiên là không,” bà Weasley bất ngờ đổi sang giọng nhẹ nhàng của bà. “Ta phải nhận ra điều đó chứ. Vậy thì, Har­ry à, khi mà chúng ta còn có con ở đây, con sẽ không phiền giúp tay cho việc chuẩn bị cho đám cưới của Bill và Fleur chứ? Vẫn có nhiều việc phải làm lắm.”

“Không – con – dĩ nhiên là không ạ,” Har­ry nói, hơi lúng túng vì bị chuyển chủ đề quá bất ngờ.

“Con thật là ngoan,” bà trả lời, rồi mỉm cười và rời khỏi phòng rửa bát.

Từ giây phút đó trở đi, bà Weasley luôn khiến cho Har­ry, Ron và Hermione bận bịu với những công việc chuẩn bị cho đám cưới khiến cho ba người không có thời gi­an để nghĩ ngợi. Sự giải thích thích cho hành động này theo Har­ry nghĩ lúc đầu là việc bà Weasley muốn sao nhãng mấy người khỏi những ý nghĩ về thầy Mắt-Điên, và những thảm kịch trong chuyến đi vừa rồi của họ. Tuy nhiên, sau hai ngày không ngừng nghỉ với những việc lau chùi dao kéo, chọn các màu sắc thích hợp, với băng rôn, hoa cỏ và đuổi những con yêu tinh ra khỏi vườn, cũng như giúp bà Weasley nấu những mẻ bánh canapé, Har­ry bắt đầu nghi ngờ bà làm vậy với lý do khác. Tất cả những công việc bà gi­ao ra có vẻ như để giữ cho nó, Ron và Hermione tách ra khỏi những người kia; thậm chí nó chưa có cơ hội để nói chuyện với hai người một cách riêng tư kể từ đêm đầu tiên, kể từ khi nó cho họ về việc Volde­mort tra tấn Ol­li­van­der.

“Em cho rằng mẹ nghĩ nếu bà có thể không cho mấy người gặp nhau và lên kế hoạch, bà sẽ có khả năng ngăn việc anh rời khỏi đây,” Gin­ny hạ giọng nói với Har­ry khi hai đứa dọn bàn cho bữa tối thứ ba của nó ở đây.

“Và bà ấy nghĩ là chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?” Har­ry thì thầm. “Ai đó khác có thể giết Volde­mort trong khi bà đang giữ bọn anh ở đây làm nhưng việc lặt vặt ư?”

Har­ry đã nói mà không suy nghĩ, khuôn mặt Gin­ny trở nên trắng bệch ra.

“Vậy… đó là sự thật?” cô bé hỏi. “Đó là việc mà mấy người đang cố để làm ư?”

“Anh – không – Anh chỉ đùa thôi,” Har­ry thoái thác.

Hai người nhìn vào nhau, và có điều gì đấy còn chấn động hơn thái độ sửng sốt lúc nãy của Gin­ny. Bỗng nhiên Har­ry nhận thấy rằng, đây là lần đầu tiên cậu và cô bé ở riêng với nhau kể từ những giây phút vội vàng ở trong những góc nhỏ của sân trường Hog­warts. Cậu chắc chắn rằng cô bé cũng nhớ về điều ấy. Và cả hai vội đứng dậy khi cánh cửa mở ra, ông Weasley, chú Kings­ley cùng Bil­ly đi vào.

Mọi người ở đây thường ăn tối cùng với những thành viên khác của Hội, bởi vì trang trại Hang Sóc giờ đã thay thế số mười hai, quảng trường Grim­mauld với tư cách là trụ sở đầu não. Ông Weasley giải thích rằng, sau sự ra đi của cụ Dum­ble­dore, vốn là Người Giữ Bí Mật của họ, mỗi người trong số họ mà được cụ Dum­ble­dore chỉ điểm địa điểm ở quảng trường Grim­mauld cũng trở thành một Người giữ Bí mật.

“Và vì có hai mươi người chúng ta, điều ấy thực sự làm giảm hiểu lực của bùa Trung Tín đi rất nhiều. Thêm hai mươi lần cơ hội cho những Tử Thần Thực Tử để tìm ra bí mật từ ai đó. Chúng ta không thể trông đợi nó được bảo vệ lâu hơn nữa.”

“Nhưng chắc chắn Snape sẽ nói với những tên Tử thần thực tử địa chỉ ấy rồi chứ ạ?” Har­ry hỏi.

“À ừ, Mắt-Điên đã yếm vài câu thần chú chống lại Snape trong trường hợp hắn ta quay trở lại nơi đấy lần nữa. Chúng ta hy vọng chúng sẽ đủ mạnh để giữ cho hắn ta ở ngoài và để bịt lưỡi hắn nếu hắn cố nói về địa điểm ấy, nhưng chúng ta không chắc chắn được. Thật quá liều lĩnh khi tiếp tục sử dụng một địa điểm làm đầu não trong khi sự bảo vệ của nó đã trở nên quá lỏng lẻo.”

Căn nhà bếp trở nên quá đông đúc tối ấy nên sử dụng dao và nĩa khá khó khăn. Har­ry bị nhét vào ngồi cạnh Gin­ny; có những điều khó nói ra đã lướt qua giữa hai người khiến Har­ry ước rằng họ được tách ra bởi vài người thì tốt hơn. Việc cố gắng hết mức để không chạm vào tay của cô bé khiến cho nó loay hoay mãi mới cắt được con gà trong đĩa của mình.

“Không tin mới gì về thầy Mắt-Điên hả anh?” Har­ry hỏi Bill.

“Không có gì cả,” Bill đáp lời.

Họ đã không thể tổ chức tang lễ cho thầy Moody vì Bill và thầy Lupin đã không thể tìm được thi thể của thầy. Thật quá khó để biết vị trí mà thầy có thể đã rơi xuống trong đêm tối và trong một trận chiến khốc liệt như thế.

“Tờ Nhật báo Tiên tri chưa viết một dòng nào về cái chết của thầy hay về việc tìm thi thể thầy,” Bill tiếp tục. “Nhưng điều ấy không có ý nghĩa lắm. Tờ báo ấy đang cố giữ yên lặng những ngày này.”

“Và họ vẫn chưa mở một phiên toà nào về việc sử dụng ma thuật chưa đủ tuổi mà cháu đã dung để trốn thoát khỏi những tên tử thần thực tử?” Har­ry nói với qua bàn với ông Weasley, và ông lắc đầu.

“Bởi vì họ biết cháu không có lựa chọn nào khác hay họ không muốn cháu nói với cả thế giới là Volde­mort đã tấn công cháu?”

“Điều thứ hai, ta nghĩ vậy. Scrim­geour không muốn thừa nhận rằng Kẻ-Mà-Ai-Cũng-Biết-Là-Ai-Đấy mạnh như thế nào, hay rằng việc Azk­aban đang chứng kiến một loạt vụ vượt ngục.”

“Vâng đúng vậy, tại sao lại nói cho công luận biết sự thật?” Har­ry nói, nắm chặt cán dao khiến cho những vết sẹo mờ trên mu bàn tay phải của nó hiện ra trên làn da: Tôi không được nói dối.

“Không có ai trong Bộ pháp thuật chuẩn bị để chống lại hắn ta ư?” Ron hỏi một cách giận giữ.

“Dĩ nhiên Ron à, nhưng mọi người đang lo sợ,” ông Weasley từ tốn nói, “lo sợ rằng họ sẽ là người tiếp theo bị biến mất, rằng con cái họ sẽ là những người bị tấn công tiếp theo! Có nhiều tin đồn khó chịu xung quanh chuyện này; như ta là một người không tin vào việc giáo sư Mug­gle học ở Hog­warts đã từ chức. Bà ấy đã mất tích mấy tuần rồi. Trong khi đó Scrim­geour vẫn cứ bắt văn phòng của ông ta ngậm miệng; ta chỉ hy vọng ông ta đang có kế hoạch nào đấy.”

Mọi người ngừng lại khi bà Weasley biến ra những đĩa trống trên mặt bàn và phục vụ món mứt táo.

“Chúng ta phải quyết định xem cách em sẽ cải trang như thế nào, Har­ry à,” Fleur nói khi mọi người đã có món tráng miệng. “Cho lễ cưới,” cô nói thêm, trông hơi bối rối. “Dĩ nhiên rằng, không có ai trong các khách mời của chúng ta là Tử thần thực tử, nhưng chúng ta không đảm bảo việc họ sẽ không để điều gì đấy lộ ra ngoài sau khi họ đã uống sâm banh.”

Ở điểm này, Har­ry hiểu rằng cô vẫn nghi ngờ Ha­grid.

“Đúng, một ý kiến chính xác,” bà Weasley nói vọng từ đầu bàn nơi bà ngồi, món tráng miệng dính vào mũi của bà, và lướt qua danh sách chi chít những việc mà bà đã viết vội lên một mảnh giấy. “Bây giờ, Ron, con đã dọn phòng chưa vậy?”

“Tại sao?” Ron kêu lên, đặt mạnh thìa xuống bàn và nhìn vào mẹ cậu. “Tại sao phòng của con lại phải được dọn dẹp? Har­ry và con thấy ổn với tình trạng hiện tại của nó mà!”

“Chúng ta đang chuẩn bị cho đám cưới của anh con ở đây trong vài ngày nữa, cậu trẻ ạ-”

“Và họ sẽ cưới ở trong phòng ngủ của con ư?” Ron bực mình nói. “Dĩ nhiên là không! Vậy tại sao trong tên của Mer­lin -”

“Đừng nói chuyện với mẹ kiểu ấy,” ông Weasley rắn giọng. “Và hãy làm như con được bảo đi.”

Ron cau có nhìn bố mẹ, rồi cậu nhặt thìa lên tống vào miệng mấy muỗng đầy mứt táo.

“Tớ có thể giúp, trong số đấy cũng có phần do tớ.” Har­ry nói với Ron, nhưng bà Weasley ngắt ngang lời của cậu.

“Không, Har­ry thân mến à, ta sẽ vui hơn nếu cháu giúp bác Arthur cho lũ gà ăn, và Hermione, ta rất cảm ơn nếu cháu dọn dẹp những tấm khăn trải giường cho quý ông và quý bà Dela­cour; cháu biết là họ sẽ đến đây vào mười một giờ sáng mai mà.”

Nhưng rốt cục, chỉ có một xíu việc để làm với những lũ gà. “Không cần, ờ, nói điều này với Mol­ly đâu,” ông Weasley nói với Har­ry, ngăn cho nó không lại gần chuồng gà, “nhưng, ừm, Ted Tonks gửi cho ta những gì còn lại của chiếc xe máy của Sir­ius và, ờm, ta đã giấu chúng – nói đúng hơn là – giữ chúng ở đây. Những thứ thật tuyệt vời! Có một cái ống xả, như ta tin thì nó được gọi là một cái pin ấn tượng nhất, và sẽ là một cơ hội tuyệt để tìm hiểu sự hoạt động của cái phanh. Ta đang cố gắng để ghép chúng lại với nhau khi mà Mol­ly không – ý ta là – khi ta có thời gi­an.”

Khi hai người quay trở lại nhà, bà Weasley không còn có mặt ở trong nhà, Har­ry vội chạy lên tầng vào phòng ngủ của Ron.

“Con đang làm, con đang -! Ồ, ra là bồ,” Ron nói thở phào nhẹ nhõm khi Har­ry vào phòng. Ron nằm ngửa lên giường, nơi duy nhất cậu ta chỉ vừa mới dọn dẹp. Căn phòng vẫn bừa bộn như là cả tuần vừa rồi; chỉ có một sự thay đổi là Hermione đang ngồi ở góc kia của căn phòng, với con mèo lông xù của cô bé, Crook­shanks, cuộn ở dưới chân, và cô bé đang sắp xếp các cuốn sách thành những chồng lớn, trong đó có một vài cuốn Har­ry nhận ra là của mình.

“Chào Har­ry,” cô nói, Har­ry ngồi xuống cạnh cái giường cắm trại của nó.

“Và làm thế nào cậu thoát khỏi việc đấy thế?”

“À, mẹ của Ron quên rằng bà đã nhờ Gin­ny và tớ thay ga trải giường ngày hôm qua,” Hermione nói. Cô ném cuốn Thuật số và Ngữ Pháp vào một chồng và cuốn Sự trỗi dậy và Suy thoái của nghệ thuật Hắc Ám vào một chồng khác.

“Chúng tớ vừa nói chuyện về Mắt-Điên,” Ron nói với Har­ry. “Tớ nghĩ ông ấy có thể còn sống.”

“Nhưng Bill đã thấy ông ấy bị đánh trúng bởi một Lời Nguyền Chết Chóc,” Har­ry nói.

“Đúng thế, nhưng Bill cũng đã bị tấn công,” Ron nói. “Làm thế nào anh ấy chắc chắn những gì anh ấy thấy?”

“Ngay cả khi nếu Lời Nguyền Chết Chóc đánh trật, Mắt-Điên đã bị ngã từ độ cao một ngàn feet,” Hermione nói, tay cô cầm cuốn Những đội Quid­ditch của Anh và Ire­land.

“Ông ấy có thể sử dụng bùa Khiên -”

“Fleur nói rằng đũa phép của ông đã bị đánh văng khỏi tay của ông ấy,” Har­ry nói.

“Ừm, được rồi, nếu hai người muốn ông ấy chết,” Ron gắt gỏng nói, thụi tay mạnh vào cái gối.

“Dĩ nhiên chúng tớ không muốn ông ấy chết!” Hermione nói, tỏ vẻ rất ngạc nhiên. “Thật tồi tệ về sự ra đi của thầy ấy! Nhưng chúng tớ đang suy nghĩ một cách thực tế!”

Và bây giờ Har­ry lần đầu tiên hình dung cảnh thi thể của thầy Mắt-Điên, cũng rũ rượi như của cụ Dum­ble­dore, nhưng với một mắt vẫn quay tròn trong hố mắt. Nó cảm giác vừa khiếp sợ vừa cảm thấy muốn bật cười lên một cách kỳ quái.

“Có lẽ 

những tên Tử thần thực tử đã dọn dẹp sau đấy, điều đấy giải thích tại sao không ai tìm thấy ông ấy,” Ron nói một cách sáng suốt.

“Đúng thế,” Har­ry nói. “Như Bar­ty Crouch, bị biến thành một khúc xương và bị chôn ở vườn trước của Ha­grid. Bọn chúng có lẽ đã biến thấy Moody và -”

“Đừng nói nữa!” Hermione thét lên. Giật mình, Har­ry nhìn lên vừa kịp thấy cô bé bật khóc trên cuốn sách Đánh vần cho người học thần chú.

“Ôi không,” Har­ry nói, luống cuống đứng dậy khỏi cái giường trại. “Hermione, tớ không cố ý khiến cậu buồn -”

Nhưng Ron bật vội khỏi giường cùng một tiếng cọt kẹt lớn của chiếc giường lò xo cũ kỹ và đến trước Har­ry. Vòng một tay quanh người Hermione, tay kia kéo vội chiếc khăn bẩn mà cậu dung để lau cái lò sưởi trước ấy. Ron vội kéo đũa phép ra, cậu chỉ vào chiếc giẻ và nói, “Ter­geo.” (Tẩy sạch – ND)

Chiếc đũa phép hút gần hết những vết dầu mỡ. Có vẻ khá hài lòng với chính mình, Ron đưa nhẹ chiếc khăn màu khói cho Hermione.

“Ừm… cảm ơn Ron… Tớ xin lỗi…” cô sụt sịt mũi và nấc nghẹn. “Điều đấy thật quá kh.. khủng khiếp, phải không? Ngay… ngay sau cụ Dum­ble­dore… tớ ch-chỉ chư-chưa bao giờ nghĩ tới việc thầy Mắt Điên sẽ ra đi, theo một cách nào đấy, thầy ấy trông rất cứng rắn!”

“Ừ, tớ biết,” Ron nói, khẽ ôm cô. “Nhưng cậu biết thầy ấy sẽ nói gì với chúng ta nếu thầy ấy ở đây chứ?”

“L-Luôn phải cảnh giác,” Hermione khẽ lau mắt và nói.

“Đúng thế,” Ron gật đầu, nói tiếp. “Ông sẽ nói với chúng ta học từ những điều đã xảy ra với ông ấy. Và điều mà tớ học được là không nên tin tưởng vào một tên hèn hạ nhát gan như Mundun­gus.”

Hermione cười run run và với người tới để nhặt thêm hai cuốn sách nữa. Và ngay sau đấy, Ron vột rút tay khỏi vai của cô; đơn giản là vì cô đã làm rơi cuốn Quái vật của Những Quái Vật lên chân của cậu. Cuốn sách được giải thoát khỏi cái dây da và đang kẹp chặt lấy cổ chân của Ron.

“Tớ xin lỗi, tớ xin lỗi!” Hermione hét lên khi Har­ry cố kéo cuốn sách khỏi chân Ron và trói cái của nợ ấy lại.

“Mà cậu đang làm gì với những cuốn sách này thế?” Ron hỏi, nằm ngửa người lên giường.

“Tớ chỉ đang cố chọn cuốn nào để mang chúng cùng với bọn mình,” Hermione nói, “khi mà chúng ta đi tìm kiếm những Trường Sinh Linh Giá.”

“Ôi, dĩ nhiên,” Ron nói, vỗ vỗ tay lên trán. “Tớ quên là chúng ta sẽ truy tìm Volde­mort ở trong một thư viện sách di động.”

“Ha ha,” Hermione cười, nhìn xuống cuốn Đánh vần cho người học thần chú. “Tớ chỉ băn khoăn… chúng ta liệu có cần phải dịch cổ ngữ Rune không? Có khả năng… Tớ nghĩ chúng ta nên mang nó đi để đề phòng.”

Cô thả cuốn học vần vào trong chồng lớn hơn và nhặt cuốn Hog­warts, một lịch sử lên.

“Nghe này,” Har­ry nói.

Nó đã ngồi dậy nghiêm chỉnh. Ron và Hermione nhìn nó với vẻ kiên nhẫn lẫn chờ đợi.

“Tớ biết các cậu nói sau đám tang cụ Dum­ble­dore rằng hai người muốn đi cùng với tớ,” Har­ry bắt đầu.

“Chàng ta bắt đầu đây,” Ron nói với Hermione, mắt đảo vòng quanh.

“Đúng như bọn mình đã dự đoán,” Ron thở dài, quay về phía những cuốn sách. “Cậu biết đấy, tớ nghĩ tớ sẽ mang cuốn Hog­warts, Một lịch sử. Ngay cả khi nếu chúng ta không quay trở về đấy, tớ không nghĩ tớ sẽ thấy vô tội nếu tớ không mang nó cùng -”

“Nghe này!” Har­ry kiên nhẫn nói lần nữa.

“Không, Har­ry, cậu nghe này,” Hermione nói. “Chúng tớ sẽ đi với cậu. Điều này được quyết định từ nhiều tháng – thậm chí là năm trước, thật đấy.”

“Nhưng -”

“Im lặng đi,” Ron khuyên Har­ry.

“- bọn cậu có chắc là bọn cậu đã suy nghĩ thấu đáo chưa?” Har­ry nhấn mạnh.

“Hãy xem nào,” Hermione nói, ném mạnh cuốn Du lịch cùng Chằn tinh vào trong đống sách bỏ lại kèm theo một cái quắc mắt. “Tớ đã sửa soạn nhiều ngày rồi, cho nên chúng tớ sẵn sàng ra đi ngay trong tức khắc, để cho cậu biết thêm là tớ đã luyện tập một vài pháp thuật thực sự khá khó, không kể việc lấy trộm toàn bộ thuốc Đa dịch ngay dưới mũi mẹ của Ron.”

“Tớ còn chỉnh sửa ký ức của bố mẹ tớ để bây giờ họ tin rằng họ là Wen­dell và Mon­ica Wilkins, và rằng đam mê của cuộc đời họ là di cư tới Aus­tralia, điều mà họ đã thực hiện xong. Điều ấy sẽ khiến cho Volde­mort thêm khó khăn để truy tìm họ và tra hỏi họ về tớ – hay cậu, bởi vì không may là, tớ có kể khá nhiều về cậu cho họ.

“Nếu cho rằng tớ sống sót sau cuộc truy tìm những Trường Sinh Linh Giá, tớ sẽ tìm bố và mẹ và phá bỏ bùa chú ấy. Nếu tớ không làm được – ừm, tớ nghĩ tớ đã yếm bùa đủ tốt để giữ cho họ an toàn và hạnh phúc. Wen­dell và Mon­ical Wilkins không biết là họ có một đứa con gái, cậu thấy đấy.”

Đôi mắt của Hermione lại đẫm nước mắt. Ron vội bật dậy khỏi giường, ôm lấy cô bé lần nữa, nhìn Har­ry một cách giận giữ vì sự thiếu tế nhị. Har­ry không thể nghĩ được điều gì hơn để nói, ít ra là vì thật hiếm hoi khi thấy Ron dạy ai đó xử sự tế nhị.

“Tớ – Hermione, tớ xin lỗi – Tớ không -”

“Không nhận ra là Ron và tớ hoàn toàn biết rõ điều gì có thể xảy ra nếu tớ đi cùng với cậu? Thực sự bọn tớ biết. Ron, hãy cho Har­ry xem điều cậu đã làm đi.”

“Không, tớ không muốn,” Ron nói.

“Đi nào, cậu ấy cần phải biết!”

“Ừm, được rồi! Har­ry, lại đây nào.”

Lần thứ hai, Ron thu tay khỏi Hermione và đi lộp cộp lên sàn.

“Nhanh lên nào.”

“Tại sao?” Har­ry hỏi, theo sau Ron ra khỏi căn phòng tới một cái cầu thang nhỏ.

“De­scen­do,” (Hạ xuống, ND), Ron thì thầm, chỉ đũa phép vào cái trần nhà. Một cái cửa sấp mở ngay trên đầu họ với một cái thang hạ xuống chân hai người. Một âm thanh kinh khủng, nửa đau khổ, nửa rên rỉ phát ra từ cái hố hình vuông, kèm theo một mùi khó chịu như mùi cống rãnh.

“Đó là con ma cà rồng của cậu, phải không?” Har­ry hỏi, dù cậu chưa bao giờ gặp sinh vật mà thỉnh thoảng phá vỡ sự yên tĩnh của màn đêm này.

“Ừ đúng rồi,” Ron nói, trèo lên cái thang. “Lên đây và xem qua nó nào.”

Har­ry theo sau Ron trèo vài bậc lên cái không gi­an nhỏ bé ở trên. Đầu và vai của cậu lọt vào căn phòng trước khi cậu nhìn thấy một sinh vật cuộn tròn cách cậu vài thước, đang ngủ trong bóng tối với cái miệng há rộng.

“Nhưng nó… nó trông… ma cà rông thường mặc pa­ja­mas à?”

“Không,” Ron nói. “Chúng cũng không thường có tóc đỏ hay nhiều mụn mủ như thế.”

Har­ry ngắm kỹ thứ đấy, trông khá là ghê tởm. Nó cũng ở kích cỡ và hình dạng người, khi mắt cậu quen dần với bóng tối, Har­ry nhận ra thứ nó đang mặc rõ ràng là một đôi pa­ja­mas cũ của Ron. Cậu thường nghĩ chắc chắn rằng ma cà rông thường khá nhầy nhụa và hói, hơn là lông lá rậm rạp và bao phủ với nhiều mụn phồng màu tím.

“Nó là tớ, thấy chưa?” Ron nói.

“Không,” Har­ry nói. “Tớ không thấy thế.”

“Tớ sẽ giải thích nó sau khi quay lại phòng của tớ, mùi này khiến tớ khó chịu quá,” Ron nói. Hai người trèo xuống thang và quay lại phòng của Ron, gặp Hermione vẫn đang sắp xếp các cuốn sách.

“Một khi chúng ta rời đi, con ma cà rồng sẽ đến sống ở đây trong phòng của tớ,” Ron nói. “Tớ nghĩ nó thực sự trông chờ điều đấy – ừm, khá là khó để nói, vì tất cả những gì nó có thể làm là gầm gừ và nhỏ dãi – nhưng nó gật đầu liên tục khi cậu nhắc tới nó. Dẫu sao, nó cũng sẽ là tớ với bệnh mụn phồng (Spat­ter­groid – ND). Tốt, phải không?

Har­ry trông thực sự rất bối rối.

“Nó là thế mà!” Ron nói, thực sự làm Har­ry lúng túng khi mà không nắm bắt được mấu chốt của kế hoạch này. “Nghe này, khi chúng ta không đến trường Hog­warts nữa, mọi người sẽ nghĩ rằng Hermione và tớ sẽ đi cùng cậu, phải không? Điều đấy nghĩa là những tên Tử thần thực tử sẽ đến thẳng gia đình bọn tớ để xem liệu họ có thông tin về nơi chúng ta ở không.”

“Nhưng có vẻ như rằng tớ đã rời đi cùng bố và mẹ tớ; khi mà hàng loạt phù thuỷ gốc Mug­gle đang nói về việc đi trú ẩn vào lúc này,” Hermione nói.

“Chúng ta không thể ẩn giấu cả toàn bộ giá đình, nó sẽ trông quá lộ liễu và họ cũng không thể từ bỏ hết công việc của họ,” Ron nói. “Vậy nên chúng ta sẽ dựng nên một câu chuyện là tớ đang bị bệnh nặng với bệnh mụn phồng, đấy là lý do tại sao tớ không thể đến trường. Nếu ai đó đến để điều tra, mẹ và bố sẽ cho họ xem con ma cà rồng trên giường của tớ, bị phủ đầy mụn nước. Bệnh mụn phồng rất dễ lây, vậy nên họ sẽ không muốn lại gần nó. Không có vấn đề gì khi nó không nói được gì cả, bởi vì dĩ nhiên cậu sẽ chả thể nói một từ nào một khi mụn đã lan tới cổ họng của cậu.

“Và bố mẹ cậu cũng ở trong kế hoạch này?” Har­ry hỏi.

“Bố đồng ý. Ông ấy giúp Fred và Ge­ogre biến hình con ma cà rông. Còn về mẹ… ừm, cậu thấy bà ấy như thế nào đấy. Bà sẽ không chấp nhận chúng ta ra đi cho đến khi chúng ta đã đi hẳn.”

Sự im lặng bao trùm lấy căn phòng, và nó chỉ bị phá vỡ khi Hermione tiếp tục ném những cuốn sách lên hai chồng sách. Ron ngồi nhìn cô, còn Har­ry thì nhìn người này rồi lại chuyển sang người kia, không thể nói gì cả. Những biện pháp mà họ đã làm để bảo vệ gia đình của họ khiến nó nhận ra, hơn bất cứ điều gì khác, là việc họ chắc chắn quyết tâm đi cùng với nó, và rằng họ biết rõ việc đấy sẽ nguy hiểm như thế nào. Har­ry muốn nói với hai người điều đó có ý nghĩa như thế nào với chính nó, nhưng nó không thể tìm được từ ngữ thích hợp nào để nói.

Rồi một âm thanh vọng từ dưới nhà lên xuyên qua sự im lặng đang bao trùm lấy ba người, đó là tiếng quát của bà Weasley.

“Có lẽ Gin­ny đã vô tình làm sót lại một vết bẩn trong đống khăn ăn,” Ron nói. “Tớ không biết tại sao nhà Dela­cour phải đến đây hai ngày trước lễ cưới.”

“Chị của Fleur là phù dâu, cô ấy cần ở đây cho lễ đính ước, và cô ấy quá trẻ để đến đây một mình,” Hermione vừa nói, lưỡng lự nhìn cuốn sách Ngăn đỡ Nữ thần báo tử.

“À há, những vị khách sẽ không giúp mẹ giảm đau đầu đi đâu,” Ron nói.

“Điều chúng ta cần phải quyết định là,” Hermione nói, bỏ cuốn Lý thuyết Ma Thuật Phòng Vệ vào trong thùng rác mà không buồn liếc nhìn, rồi cô nhặt cuốn Đánh giá việc Giáo dục Pháp thuật ở Châu Âu, “là việc chúng ta sẽ đi đâu sau khi chúng ta rời khỏi nơi này. Tớ biết cậu muốn tới Thung lũng Go­dric trước, Har­ry à, và tớ hiểu lý do tại sao, nhưng… ừm… chúng ta nên đặt những Trường Sinh Linh Giá lên vị trí ưu tiên chứ?”

“Nếu chúng ta biết vị trí của bất cứ Trường SInh Linh Giá nào, tớ sẽ đồng ý với cậu,” Har­ry nói, mặc dù không tin Hermione thực sự hiểu mong muốn quay lại Thung lũng Go­dric của Har­ry. Mộ của cha mẹ nó chỉ thực sự là một phần khiến nó muốn đến đó: nó có một cảm giác mạnh mẽ, dù không thể giải thích được, rằng địa điểm đấy giữ câu trả lời cho những câu hỏi. Có lẽ đơn giản chỉ vì đấy là nơi nó đã sống sót sau Lời Nguyền Chết Chóc của Volde­mort; và bây giờ cậu đối mặt cái thử thách để đối mặt nơi đấy, Har­ry bị kéo tới địa điểm nơi điều ấy xảy ra, mong muốn được hiểu lý do.

“Cậu có nghĩ rằng có khả năng Volde­mort sẽ cài người theo dõi ở Thung lũng Go­dric?” Hermione hỏi. “Hắn ta hẳn sẽ trông đợi cậu quay lại và viếng thăm mộ của cha mẹ cậu một khi cậu có thể tự do đi đến nơi nào cậu muốn?”

Điều này Har­ry chưa nghĩ tới. Trong khi còn loay hoay nghĩ lý do để phản bác lại, Ron lên tiếng, hiển nhiên cậu ấy đang nghĩ về vấn đề khác.

“Người được gọi là R.A.B đó,” cậu nói. “Cậu biết chứ, người mà đã ăn trộm cái mề đay thật ấy?”

Hermione gật đầu.

“Ông ấy nói trong mẩu giấy nhắn là ông ấy sẽ phá huỷ nó, phải không?”

Har­ry kéo cái ba lô lại và lôi cái Trường Sinh Linh Giá giả ra, lôi mẩu giấy của R.A.B vẫn được gấp ở bên trong ra.

“’Ta đã ăn trộm cái Trường Sinh Linh Giá thật và dự định phá huỷ nó sớm nhất có thể.’” Har­ry đọc to.

“Vậy, nếu như ông ấy đã xử lý xong nó?” Ron nói.

“Hay bà ấy.” Hermione xen vào.

“Bất cứ gì cũng được,” Ron bảo. “như thế chúng ta sẽ đỡ phải làm việc với một cái!”

“Đúng thế! Nhưng chúng ta vẫn phải thử truy tìm cái mặt dây chuyền thật, phải không?” Hermione nói, “để tìm ra thực sự nó bị tiêu huỷ hay là chưa.”

“Và một khi chúng ta nắm giữ được nó, bằng cách nào cậu thực hiện việc tiêu huỷ một cái Trường Sinh Linh Giá?” Ron hỏi lại.

“Như thế nào?” Har­ry hỏi. “Tớ không nghĩ không có cuốn sách nào nhắc tới Trường sinh linh giá ở trong thư viện ?”

“Không có,” Hermione nói, mặt cô chuyển sang màu hồng. “Dum­ble­dore đã tịch thu tất cả chúng, nhưng cụ – cụ đã không tiêu huỷ chúng.”

Ron ngồi bật dậy, mắt mở tròn ra.

“Ôi lạy chúa, đừng bảo cậu đã tìm cách thó những cuốn sách về Trường Sinh Linh Giá đấy nhé?”

“Đấy – đấy không phải là thó!” Hermione nói, khổ sở nhìn Har­ry rồi chuyển sang Ron. “Chúng vẫn ở trong thư viện sách, ngay cả nếu Dum­ble­dore đã mang chúng xuống khỏi giá. Dù sao đi nữa, nếu thầy ấy thực sự không muốn bất cứ ai đọc được chúng, tớ chắc chắn thầy ấy sẽ gây khó khăn hơn để -”

“Nói thẳng vào vấn đề đi nào!” Ron nói.

“Ừm… nó rất dễ dàng,” Hermione hạ giọng nói. “Tớ chỉ thực hiện bùa Triệu tập. Cậu biết đấy – thần chú Ac­cio. Và – chúng bay ra khỏi cửa sổ phòng đọc của thầy Dum­ble­dore đến thẳng ký túc xá nữ.

“Nhưng cậu làm việc này khi nào?” Har­ry hỏi, nửa nghi ngờ nửa khâm phục.

“Ngay sau khi đám tang của thầy Dum­ble­dore kết thúc,” Hermione nói còn lí nhí hơn nữa. “Ngay sau khi chúng ta đồng ý chúng ta sẽ rời trường và đi tìm kiếm những Trường Sinh Linh Giá. Khi tớ đi lên tầng trên để dọn dẹp đồ đạc – ý nghĩ ấy chợt hiện ra trong đầu tớ rằng sẽ tốt hơn khi chúng ta biết nhiều hơn về chúng… và khi tớ chỉ còn một mình ở đấy… vậy nên tớ thử… và câu thần chú đã hoạt động. Những cuốn sách bay thẳng qua cửa sổ đang mở và tớ – tớ đã đóng gói chúng.”

Cô bé im lặng và sau đó nói một cách khẩn nài, “Tớ không tin là thầy Dum­ble­dore sẽ tức giận về việc này, vì chắc chắn là chúng ta sẽ không dùng những thông tin ấy để tạo ra một Trường Sinh Linh Giá, phải không?”

“Cậu có nghe thấy bọn tớ phàn này gì không?” Ron vui vẻ nói. “Vậy những cuốn sách ấy ở đâu vậy?”

Hermione lục lọi một lúc và lôi từ chồng sách một cuốn sách dày được bọc bìa da màu đen đã bạc màu. Cô trông có vẻ nhăn nhó và giữ nó thận trọng như thể nó là một thứ gì vừa chết gần đây.

“Đây là cuốn sách cho những hướng dẫn rõ ràng làm thế nào để tạo một Trường Sinh Linh Giá. Những bí mật của Nghệ Thuật Hắc Ám Nhất – nó là một cuốn sách kinh tởm, thực sự khủng khiếp, toàn những pháp thuật ma quỷ. Tớ băn khoăn thầy Dum­ble­dore đã dỡ nó ra khỏi thư viện khi nào… nếu thầy không làm việc ấy trước khi thầy là hiệu trưởng, tớ dám chắc Volde­mort có được những hướng dẫn hắn cần từ đây.”

“Nhưng tại sao hắn phải hỏi thầy Slughorn làm thế nào để tạo một Trường Sinh Linh Giá, khi mà hắn ta đã đọc cuốn sách này?” Ron hỏi.

“Hắn chỉ tiếp cận thần Slughorn đẻ tìm hiểu việc gì sẽ xảy ra nếu chia linh hồn con người thành bảy phần,” Har­ry nói. “Thầy Dum­ble­dore chắc chắn rằng Rid­dle đã biết làm thế nào để tạo ra một cái Trường Sinh Linh Giá trước khi hắn ta hỏi thầy Slughorn về chúng. Tớ nghĩ cậu đúng, Hermione à, đây có thể là nơi mà hắn ta học được những điều đó.”

“Và càng đọc về những thứ này,” Hermione nói, “chúng càng trở nên tồi tệ và khủng khiếp, và càng khó tin cho tớ hơn là hắn ta thực sự đã tạo ra sáu cái. Trong cuốn sách này cảnh báo rằng sẽ rất không bền vững khi người ta cắt nhỏ toàn bộ linh hồn ra, ngay cả khi chỉ làm một cái Trường Sinh Linh Giá thôi.

Har­ry nhớ lại rằng thầy Dum­ble­dore đã nói về Volde­mort là hắn ta đã đạt tới một thái cực vượt xa “ma 

quỷ thông thường.”

“Không có cách nào để đặt linh hồn về vị trí cũ à?” Ron hỏi.

“Có đấy,” Hermione nói với nụ cười giả bộ, “nhưng điều ấy sẽ là đau đớn tột cùng.”

“Tại sao? Và làm thế nào để làm điều ấy?” Har­ry hỏi.

“Sự hối cải,” Hermione nói. “Cậu phải thực sự cảm thấy những gì cậu đã gây ra. Có một mẩu ghi chú trong cuốn sách. Một điều rõ ràng là nỗi đau của việc ấy có thể huỷ diệt người ta. Tớ không nghĩ là bằng cách nào đấy Volde­mort sẽ cố làm việc này đâu, phải không?”

“Đúng vậy,” Ron nói, trước khi Har­ry có thể trả lời. “Thế nó có nói làm thế nào để huỷ diệt một cái Trường Sinh Linh Giá trong cuốn sách này không?”

“Có,” Hermione trả lời, mở một trang sách trông rất mong may như thể đang xem xét bên trong mục nát, “bởi vì cuốn sách cảnh báo các phù thuỷ Hắc ám về việc họ phải đặt các bùa yếm mạnh như thế nào lên chúng. Từ những điều tớ đọc được, việc Har­ry làm với cuốn nhật ký của Rid­dle chỉ là một trong vài cách để huỷ diệt một cái Trường Sinh Linh Giá.”

“Cái gì? Dùng một cái răng nanh của tử xà ư?” Har­ry hỏi.

“À, thế thì may mắn sao chúng ta có một đống răng nanh của tử xà đấy,” Ron bảo. “Tớ từng băn khoăn chúng ta nên làm gì với chúng.”

“Thứ đấy không nhất thiết phải là một cái răng nanh tử xà,” Hermio­nen ói. “Đấy phải là một thứ gì đấy thật huỷ diệt đến mức Trường Sinh Linh Giá không thể tự cứu chữa chính mình. Nọc tử xà chỉ có một thứ thuốc giải cực kỳ hiếm có -”

“- nước mắt phượng hoàng,” Har­ry gật đầu nói.

“Đúng vậy,” Hermione nói. “Vấn đề của chúng ta là chỉ có rất ít chất có khả năng huỷ diệt như nọc độc của tử xà, và chúng quá nguy hiểm để mang theo bên mình. Đấy là một vấn đề mà chúng ta phải giải quyết bởi vì đập vỡ, kéo, xé hay nghiền đều không làm sứt mẻ gì Trường Sinh Linh Giá được. Cậu phải khiến nó bị hư hỏng quá mức sửa chữa của pháp thuật.”

“Nhưng nếu chúng ta phá huỷ thứ mà nó trốn ở trong,” Ron nói, “tại sao cái mảnh linh hồn ở trong ấy không đi và sống trong thứ khác?”

“Bởi vì Trường Sinh Linh Giá là một thứ hoàn toàn đối lập với con người.”

Nhận thấy Har­ry và Ron trông rất bối rối, Hermione vội tiếp tục. “Nghe này, nếu tớ nhặt một thanh kiếm lên bây giờ, và Ron, tớ sẽ đâm xuyên cậu với thanh kiếm ấy, tớ không thể làm tổn hại linh hồn của cậu một chút nào cả.”

“Điều ấy sẽ thật sự thoải mái với tớ đấy, tớ chắc chắn,” Ron nói, Har­ry bật lên cười.

“Đúng như thế, thật sự đấy! Nhưng ý của tớ là dù bất cứ điều gì xảy ra với cơ thể của cậu, linh hồn của cậu vẫn sống sót, không sao cả,” Hermione nói. “Nhưng điều này thì khác với Trường Sinh Linh Giá. Mảnh linh hồn ở trong nó phụ thuộc vào cái vật chứa nó, vật đã bị phù phép cùng, cho sự tồn tại của nó. Nó không thể tồn tại thiếu vật chứa đựng.”

“Cuốn nhật ký cũng chết theo một cách nói nào đấy khi tớ đâm nó,” Har­ry nói, nhớ lại cảnh mực chảy ra như máu từ những trang sách bị rách, và tiếng hét của mảnh linh hồn Volde­mort hét lên khi nó biến mất.

“Và một khi cuốn nhật ký đã hoàn toàn bị huỷ diệt, mảnh linh hồn trú ngụ ở trong ấy không thể tiếp tục tồn tại. Gin­ny đã cố thoát ra khỏi cuốn nhật ký trước đấy, cố xả nước cho nó trôi đi, nhưng nó vẫn cứ quay lại như mới.”

“Chờ đã,” Ron nói, vẻ mặt lo lắng. “Mảnh linh hồn trong cuốn nhật ký đấy đã chiếm giữ Gin­ny, phải không? Làm thế nào chuyện ấy xảy ra nhỉ?”

“Khi đồ linh vật chứa nó vẫn còn nguyen vẹn, mảnh linh hồn chứa trong có thể di chuyển ra ngoài và trong một ai đó nếu họ gần gũi với vật đấy. Tớ không có ý là giữ vật ấy quá lâu, chuyện này không liên quan gì tới việc chạm vào nó,” cô tiếp tục trước khi Ron có thể nói. “Ý tớ gần gũi ở đây là về mặt tinh thần. Gin­ny đã trao tinh thần của cô bé vào trong cuốn nhật ký, cô bé khiến chính mình trở nên cực kỳ dễ bị xâm hại. Cậu sẽ gặp rắc rối lớn nếu cậu quá hứng thú hay phụ thuộc vào Trường Sinh Linh Giá.”

“Tớ tự hỏi làm thế nào thầy Dum­ble­dore huỷ diệt cái nhẫn?” Har­ry nói. “Tại sao tớ chưa bao giờ hỏi thầy cả? Tớ chưa bao giờ thực sự…”

Giọng của nó nhỏ lại: nó đang nghĩ về tất cả những điều mà cậu nên hỏi cụ Dum­ble­dore, và khi mà thầy hiệu trưởng còn sống, không hiểu tại sao nó có thể lãng phí quá nhiều cơ hội để tìm hiểu thêm… để tìm hiểu tất cả mọi thứ…

Sự im lặng trải trong căn phòng ngủ bị phá tan khi cảnh cửa phòng ngủ mở ra kèm theo tiếng kêu răng rắc ở trong tường. Hermione giật mình hét lên và làm rơi cuốn Những bí mật của Nghệ Thuật Hắc Ám Nhất; Crook­shanks rúc vào dưới gầm giường, rít lên khó chịu; Ron nhảy vội xuống giường, dẫm lên mấy mảnh vỏ bìa sô-cô-la ếch, rồi va đầu vào bức tường đối diện; còn Har­ry theo bản năng giơ đũa phép lên trước khi nhận ra là cậu đối diện bà Weasley, tóc bà xoã ra còn khuôn mặt thể hiện sự giận dữ.

“Ta thành thật xin lỗi vì phá hỏng sự gặp gỡ của ba con,” bà nói, giọng hơi run. “Ta chắc chắn tất cả các con cần nghỉ ngơi… nhưng có những món quà cưới chất đống ở trong phòng ta và ta cần ai đó làm cùng ta. Ta nghĩ là mấy đứa sẽ đồng ý giúp đỡ ta.”

“Dạ vâng ạ,” Hermione nói, cô có vẻ sợ hãi khi cô đứng dậy, điều khiển những cuốn sách bay theo mọi hướng. “chúng cháu sẽ giúp… chúng cháu xin lỗi”

Nhìn Har­ry và Ron với vẻ mặt đau khổ, Hermione vội ra khỏi phòng theo sau bà Weasley.

“Điều này như thể là những con gia tinh,” Ron hạ giọng phàn nàn, tay vẫn xoa xoa đâu và Har­ry theo sau. “Không hề có sự hài lòng về công việc. Cái đám cưới này kết thúc càng nhanh, tớ sẽ càng hạnh phúc.”

“Đúng vậy,” Har­ry đồng ý, “và sau đấy chúng ta sẽ không có gì phải làm ngoài việc tìm những Trường Sinh Linh Giá… Nó sẽ như là một kỳ nghỉ, phải không nhỉ?”

Ron cười lớn, nhưng khi nhìn thấy chồng quà cưới vĩ đại đang chờ đợi ở trong phòng của bà Weasley, nụ cười của cậu chợt tắt ngóm.

Nhà Dela­cours đến nơi vào sáng ngày hôm sau vào lúc mười một giờ. Har­ry, Ron, Hermione và Gin­ny cảm giác khá bực mình về gia định Fleur lúc này; và với một vẻ duyên dáng mệt mỏi, Ron chạy vội lên tầng để đi một đôi tất không bị lệch loại, và Har­ry phải cố gắng vuốt thẳng tóc của cậu. Và khi tưởng mọi việc đã xong xuôi rồi, họ bị lôi ra ngoài sân sau dưới cái nắng chói chang để chờ những vị khách quý.

Har­ry chưa bao giờ thấy nơi này trông gọn gàng đến thế. Những cái vạc rỉ sét và những đôi ủng Wel­ing­ton cũ nát thường trải dọc theo đường đi đã được dọn sạch, thay thế bằng hai bụi cây rung (Flut­ter­by bush­es – ND) đứng ở hai bên cánh cửa trong hai cai chậu lớn; mặc dù không hề có gió, những lá cây vẫy nhẹ nhàng, tạo nên một hiệu ứng gợn sóng ấn tượng. Những con gà đã bị đuổi đi nơi khác, sân vườn được quét dọn sạch sẽ, và khu vườn gần đấy đã được tỉa xén, cắt trổ, và nói chung là dọn dẹp gọn gàng lại, mặc dù vậy với Har­ry, nó thích tình trạng cây cối mọc tràn lan hơn, cảm giác về cảnh này khá là tẻ nhạt khi thiếu đi những con yêu tinh bụi nhảy lóc chóc khắp nơi.

Nó giờ đã quên mất bao nhiêu bùa phép đã được yếm xung quanh trang trại Hang Sóc bởi cả Hội lẫn Bộ pháp thuật; tất cả những gì cậu biết là nơi này không còn là địa điểm cho bất cứ ai di chuyển một cách trực tiếp bằng pháp thuật vào bên trong. Do đó, ông Weasley phải đi gặp nhà Dela­cours ở đỉnh một ngọn đồi gần đấy, nơi họ sẽ đến bằng Khoá Cảng. Âm thanh đầu tiên khi gia đình này tiến vào cổng là một tiếng cười cao vút kỳ lạ, hoá ra là từ ông Weasley, người vừa xuất hiện ở cổng ngay sau đấy, khệ nệ với hành lý và dẫn đường cho một phụ nữ tóc vàng xinh đẹp ở trong bộ áo choàng dài màu lá cây, có thể đây là mẹ của Fleur.

“Má!” Fleur hét lên, chạy lại ôm choàng lấy bà ấy. “Cha!”

Ngài Dela­cour không có vẻ gì thu hút như là vợ ông ấy; ông ấy là thấp hơn bà một cái đầu và cực kỳ phẳng phiu, với một chùm râu nhỏ nhọn. Tuy nhiên, ông ấy trông khá tự nhiên. Hướng về phía bà Weasley trên đôi ủng cao gót, ông hôn vào má bà mỗi bên hai cái, khiến cho bà hơi bối rối.

“Mọi người chắc đã có nhiều khó khăn,” ông ấy nói với một giọng thâm trầm. “Fleur kể với chúng tôi mọi người đã phải làm việc rất vất vả.”

“Ôi, không có gì cả đâu, không có gì cả!” bà Weasley nói rung rung. “Không có vấn đề gì cả!”

Ron hạ cơn khó chịu bằng việc nhắm đá một con yêu tinh vừa ló ra từ sau một bụi cây rung mới đặt.

“Thưa quý bà!” Ngài Dela­cour nói, trong khi vẫn nắn tay bà Weasley giữa hai bàn tay mũm mĩm và rạng rỡ nói. “Chúng tôi thật vinh hạnh được tiến tới sự gi­ao kết giữa hai gia đình! Hãy để tôi giới thiệu phu nhân của tôi, Apolline.”

Quý bà Del­ca­cour bước nhẹ ra và khom người để hôn bà Weasley.

“En­chan­tée,” (Rất hân hạnh – tiếng Pháp) bà nói. “Chồng của bà đã kể cho chúng tôi rất nhiều câu chuyện thú vị!”

Ông Weasley cười hơi vang thoải mái; bà Weasley ném cho ông một cái quắc mắt, lập tức ông im lặng và giả bộ như đang thể hiện sự xúc động của một người bạn thân thiết.

“Và, dĩ nhiên, mọi người phải gặp cô con gái nhỏ của chúng tôi, Gabrielle!” Ngày Dela­cour nói. Gabriel­ly trông như là một Fleur khi còn nhỏ; mười một tuổi, với mái tóc ngang lưng màu đồng ánh bạc, cô bé cười thân mật và ôm bà Weasley, sau đấy nhìn sang Har­ry với ánh mắt rạng rỡ, chớp chớp đôi lông mi của cô bé. Gin­ny cạnh đấy hắng to giọng.

“Ồ vâng, hãy vào trong nào!” bà Weasley rạng rỡ nói, và bà dẫn gia đình Dela­cours vào trong ngôi nhà, với rất nhiều câu nói “Không, làm ơn!” và “Xin mời đi trước!” và “Không có gì!”.

Nhà Dela­cour nhanh chóng trở thành những người khách nhiệt tình và dễ chịu. Họ luôn hài lòng với mọi thứ và luôn giúp đỡ nhiệt tình cho lễ cưới. Ngài Dela­cour phát âm mọi thứ từ sơ đồ chỗ ngồi cho tới đôi giày của phù dâu “Char­mant!” (quyến rũ – Tiếng Pháp), còn Quý bà Dela­cour gần như nắm trọn những thần chú làm việc nhà và bà lau sạch cái lò nướng chỉ trong một khoảnh khắc; Gabrielle thì theo chị gái đi khắp nơi, cố gắng giúp đỡ mọi cách có thể và nói liến thoắng bằng thứ tiếng Pháp khẩu điểu nhanh.

Mặt xấu của vấn đề là, trang trại Hang Sóc không được xây nên để cho quá nhiều người sống như thế. Ông bà Weasley bây giờ ngủ ở trong phòng khách, họ phải tranh cãi với cả Quý Ngài và Quý bà Dela­cour và yêu cầu họ sử dụng phòng ngủ của hai người. Gabrielle ngủ cùng Fleur trong căn phòng cũ của Per­cy, còn Bill phải ngủ chung giường với Char­lie, người phù rể của cậu một khi Char­lie quay trở về từ Ro­ma­nia. Cơ hội để thảo luận các kế hoạch với nhau trở nên gần như là không thể, và điều đó thực sự khiến Har­ry khổ sở. Ron và Hermione đã tình nguyện làm việc cho gà ăn chỉ để thoát khỏi cái nhà quá tải.

“Nhưng mẹ vẫn không chịu để chúng ta một mình!” Ron gầm gừ, và cố gắng thứ hai của họ để gặp nhau ở sân nhà đã bị phá huỷ bởi sự xuất hiện của bà Weasley mang theo một giỏ lớn đựng quần áo trên tay.

“Ồ, tốt quá, hai người vừa cho gà ăn,” bà nói lớn khi bà tiền lại gần. “Chúng ta có lẽ nên đuổi chúng đi lần nữa trước khi mọi người đến vào sáng mai… để dựng trại cho buổi cắm trại,” bà giải thích, ngừng một tý rồi tựa vào chuồng gà. Bà trông có vẻ mệt mỏi. “Rạp ma thuật của Mil­la­mant… chúng rất tốt… Bill đang hộ tống chúng… Con nên ở trong khi họ ở đây, Har­ry à. Ta phải nói rằng điều ấy thật sự phức tạp để tổ chức một đám cưới, lại có những bùa chú bảo vệ xung quanh nơi này.

“Cháu xin lỗi,” Har­ry vội nói.

“Ôi, đừng suy nghĩ ngớ ngẩn thế, cháu ngoan!” bà Weasley nói ngay. “Ta không có ý – thực ra an toàn của cháu quan trọng hơn nhiều! Thực ra, ta đang muốn hỏi cháu muốn tổ chức sinh nhật như thế nào. Mười bảy tuổi, dĩ nhiên, nó là một ngày quan trọng…”

“Cháu không muốn ồn ào đâu ạ,” Har­ry vội nói, nghĩ tới sự căng thẳng sẽ phải đè nặng lên mọi người. “Thật sự đấy, bác Weasley à, chỉ một bữa tối bình thừong là tốt rồi ạ… Đó là ngày trước đám cưới…”

“Ồ, vậy, nếu cháu chắc chắn, cháu yêu. Ta sẽ mời Re­mus và Tonk, được chứ? Và còn Ha­grid nữa?”

“Như thế sẽ tuyệt lắm ạ,” Har­ry nói. “Nhưng bác đừng khiến nó có thêm rườm rà nhé!”

Bà nhìn vào cậu, một cái nhìn dài, một cái nhìn tìm kiếm, và cười hơi buồn, rồi bà đứng dậy, đi thẳng vào nhà. Har­ry lặng nhìn bà vẫy đũa phép nơi gần đường dẫn nước, kéo quần áo vào trong không khí và treo chúng lên, bỗng nhiên cậu cảm thấy sự hối hận trào dâng trong lòng vì những điều phiền muộn và vì nỗi buồn mà cậu đã mang đến cho bà.

Chương VII:

Di chúc của cụ Dumbledore

Har­ry đang đi trên một con đường núi trong ánh sáng xanh mát của buổi bình minh. Ở xa phía dưới, trong màn sương là một hình bóng mờ ảo của một cái thị trấn nhỏ. Có phải người mà nó đang cố công tìm kiếm đang ở kia? Người nó cảm thấy quá cần thiết đến nỗi nó không thể nghĩ ngợi được điều gì nữa cả, người đang nắm giữ câu trả lời, câu trả lời cho vấn đề của nó…

“Har­ry, dậy đi”

Har­ry hé mắt. Nó vẫn đang nằm trên chiếc giường trại trong căn phòng xám xịt của Ron. Mặt trời vẫn chưa ló dạng và căn phòng vẫn đang chìm trong sự mờ ảo. Con Pig­wid­geon vẫn đang vục đầu dưới đôi cánh nhỏ ngủ ngon lành. Cái sẹo trên trán vẫn cứ như bị kim châm.

“Cậu nói mê trong lúc ngủ”

“Thế à?”

“Ừ. ‘Gre­gorovitch.’ Cậu đã không ngừng nhắc đến ‘Gre­gorovitch.’”

Har­ry chưa đeo kính, khuôn mặt Ron hiện lên mờ mờ.

“Ai là Gre­gorovitch thế?”

“Mình không biết, cậu mới là người đã nói ra cái tên đấy”

Har­ry xoa nhẹ cái trán, trầm ngâm. Nó có một ý tưởng mơ hồ về cái tên đấy. nhưng thực sự, nó không nhớ đã nghe nhắc mìn­hi ở đâu.

“Mình nghĩ là ông ta đang bị Vol­der­mort săn đuổi”

“Tội nghiệp lão,” Ron nói rất tha thiết.

Har­ry đứng dậy, vẫn còn xoa xoa cái thẹo, giờ có thể suy nghĩ sáng suốt hơn. Nó cố nhớ những gì đã diễn ra trong giấc mơ đêm qua, nhưng tất cả những gì nó có thể nhớ chỉ là một chân trời với những ngọn nói và những nét thoáng qua của một ngôi làng.

“Mình nghĩ hắn ở nước ngoài.”

“Ai, Gre­gorovitch á?”

“Volde­mort. Mình nghĩ hắn đang ở một vùng xa xôi nào đó, tìm kiếm Gre­gorovitch. Ở Anh mình không nghĩ có một nơi nào trông như vậy.”

“Cậu nghĩ rằng cậu lại đột nhập vào tâm trí hắn một lần nữa?”

Ron nói một cách lo lắng.

“Hãy giúp mình và đừng nói gì cho Hermione,” Har­ry nói. “Mặc dù tớ biết cậu ấy mong muốn việc mình ngừng nhìn thấy những điều ấy trong giấc ngủ như thế nào …”

Nó nhìn chằm chằm vào cái lồng của con Pig­wid­geon, suy tư…Tại sao cái tên “Gre­gorovitch” nghe rất quen­thuộc?

“Mình nghĩ,” Har­ry nói chậm rãi, “ông ấy phải có một cái gì đó liên quan tới Quid­ditch. Có một­mối liên quan nào đấy, nhưng mình không thể-không thể nghĩ được đó là cái gì.”

“Quid­ditch?” Ron nói. “Không phải cậu đang nói về Gor­gov­itch đấy chứ?”

“Ai cơ?”

“Dragomir Gor­gov­itch, truy thủ, đã chuyển qua Chud­ley Can­nons cho một bản hợp đồng hai năm. Kỷ lục bỏ được nhiều Quaf­fle nhất trong một mùa.”

“Không,” Har­ry nói. “Hiển nhiên tớ không nghĩ về Gor­gov­itch.”

“Mình sẽ không cố nghĩ tiếp nữa,” Ron nói. “Tốt, dù gì cũng chúc mừng sinh nhật.”

“Wow- Đúng rồi ! Mình quên mất là đã mười bảy!”

Har­ry với lấy chiếc đũa phép đang năm bên cạnh chiếc giường , vẫy nó về phía cái bàn bừa bộn mà nó đặt chiếc kính, hô lên, “Ac­cio kính!” Dù cho cũng chỉ cách một bước chân, nhưng nó cũng là một sự thỏa mãn lớn lao khi nhìn thấy chiếc kính bay về phía mình, ít nhất cho đến khi chúng đang nằm ở trước 

mắt nó.“Nhanh nhẹn đấy,” Ron cười hô hố.

Hân hoan trong việc thoát khỏi bùa Truy Nguyên, Har­ry làm cho đồ đạc của Ron bay tứ tung trong phòng, làm con Pig­wid­geon thức giấc và vẫy ánh một cách đầy kích động trong chiếc lồng. Har­ry cũng thử thắt những chiếc dây giầy bằng phép thuật (những cái nút này cũng mất vài phút để gỡ ra bằng tay) và, bổ sung cho sự hào hứng của nó, nó đã làm cho mấy cái vỏ cam gắn chặt lên những tấm poster đội Chud­ley Can­nons xanh sáng rực của Ron.

“Mình sẽ cài khoá quần lại bằng tay đấy,” Ron khuyên Har­ry, cười khẩy khi Har­ry lập tức ngừng tay lại kiểm tra. “Đây là quà của cậu. Mở nó luôn đi, chắc mẹ mình sẽ không vừa mắt mấy thứ này đâu.”

“Một cuốn sách?” Har­ry thắc mắc khi nó nhận được một gói quà vuông vức. “Hơi khác với truyền thống, phải không?”

“Đó không phải là một quyển sách bình thường đâu,” Ron nói. “Nó thực sự là vàng: Mười hai Cách cực kỳ An toàn để Quyến rũ nữ phù thuỷ. Giải thích tất tần tật những gì cậu cần biết về các cô gái. Giá như mình có nó năm ngoái thì mình đã biết chính xác làm thế nào để thoát khỏi cô nàng Laven­der và mình cũng đã có thể biết được làm thế nào để đi với… Ừ, Fred và Ge­ogre đã cho mình một bản của cuốn sách và mình đã học được nhiều điều từ nó. Cậu sẽ bất ngờ đấy, và nó cũng không chỉ viết về đũa phép đâu.”

Khi Har­ry và Ron xuống đến nhà bếp thì đã có một đống quà sinh nhật nằm trên mặt bàn. Bill và Mon­sieur Dela­cour đã ăn xong bữa sáng của họ, trong khi bà Weasley cứ tiếp tục đứng trò chuyện với họ qua cái chảo rán.

“Bác Arthur gửi lời chúc cháu một tuổi mười bảy hạnh phúc, Har­ry,” Bà Weasley nói, tươi cười với nó. “Bác ấy phải đi làm từ sớm, nhưng chắc sẽ về vào bữa tối. Quà của chúng ta ở trên đầu đấy.”

Har­ry ngồi xuống, cầm lấy gói quà mà bà Weasley nóimở ra. Bên trong gói quà là một chiếc đồng hồ trông từa tựa cái mà ông bà Weasley đã mua tặng Ron khi nó 17 tuổi; nó bằng vàng, với những ngôi sao đang bay vòng vòng ở viền thay cho mấy cái kim.

“Theo truyền thống thì một phù thủy sẽ nhận được một chiếc đồng hồ khi ở tuổi trưởng thành,” Bà Weasley nói, đứng bên cạnh mấy cài nồi và nhìn Har­ry một cách áy náy . “Bác rất tiếc vì cái đồng hồ này không mới bằng cái của Ron, nó là của người em trai của bác – Fabi­an và chú ấy chả bao giờ cẩn thận với những đồ đạc của mình, cái đồng hồ hơi bị móp về đằng sau, nhưng…”

Bà Wes­ley không nói thêm nữa vì Har­ry đã đứng dậy và ôm chặt lấy bà. Nó đã cố gắng để nói lên những điều không thể nói qua cái ôm nhưng có lẽ bà Weasley hiểu, bởi vì bà xoa má của Har­ry một cách vụng về khi nó bỏ tay ra, rồi bà vung đũa một cách ngẫu nhiên, làm cho một nửa chỗ thịt lợn xông khói bắn lên khỏi cái chảo và rơi xuống nền.

“Sinh nhật vui vẻ, Har­ry!” Hermione nói, đi nhanh vào trong bếp và đặt một cái gói lên trên chồng quà. “Nó thì không có gì nhiều nhưng mình nghĩ là cậu sẽ thích. Thế còn bạn tặng gì cho Har­ry?” cô ấy quay sang hỏi Ron, và cậu chàng thì phớt lờ câu hỏi này.

“Ồ, nhanh nhanh, bóc quà của Hermione nào!” Ron nói.

Hermione đã mua cho Har­ry một cái Bông Vụ Mách lẻo mới. Còn một gói quà nữa thì có một chiếc dao cạo tự động từ Bill và Fleur (”nớ thì sẻ giúp cảo dâu chơ bạn một cạch iển chiển nhứt,” Mon­sieur Dela­cour đảm bảo với nó, “nhưng bạn sẽ phải cho nó biết chính xác những gì bạn muốn…còn níu khôn thì bản sẽ phát hiển rơ dằng bản sẻ có ít tót hơn bản muổn…”), thêm một vài thanh sô cô la từ Dela­cours, và một hộp to đùng chứa mặt hàng mới nhất từ tiệm phù thỉ wỉ wái của 2 anh em Fred and George.

Har­ry, Ron và Hermione đã không chần chừ rời khỏi chiếc bàn khi Dela­cour, Fleur, và Gabrielle xuống bếp và làm cho cái nhà bếp ồn ào một cách khó chịu.

“Mình sẽ gói hết chúng lại cho cậu,” Hermione nói nhanh, và lấy đống quà của Har­ry ra khỏi tay nó và ba trong số chúng thì hưởng lên trên cầu thang. “Mình gần xong rồi, Mình chỉ đang đợi cái quần đùi của cậu nhanh chóng được giặt xong , Ron!”

Ron đang lắp bắp bỗng nhiên bị cắt ngang bởi một tiếng mở cửa ở tầng một.

“Har­ry, anh có thể qua đây một lát được không?”

Đó là Gin­ny. Ron đột ngột ngừng lại, nhưng Hermione giữ lấy khuỷu tay Ron và kéo lên tầng trên. Har­ry đi theo Gin­ny lên phòng của cô bé trong sự cậun chồn.

Nó chưa từng đặt chân vào căn phòng này trước đây. Căn phòng nhỏ nhưng rất sáng sủa. Có một tấm poster lớn của ban nhạc Wiz­ard­ing the Weird Sis­ters trên tường, và một bức hình của Gwenog Jones, đội trưởng của đội Quid­ditch nữ – Holy­head Harpies, trên một bức tường khác. Một cái bàn được dựng đối mặt với cửa sổ nhìn ra vườn, nơi nó với Gin­ny đã một lần chơi Quid­ditch-hai-người-một-đội với Ron và Hermione, và là nơi đặt cái lều to, trắng màu ngọc trai. Cái cờ màu vàng cũng cao ngang với cái cửa sổ phòng Gin­ny.

Gin­ny nhìn thẳng vào khuôn mặt của Har­ry, hít một hơi sâu và nói, “Chúc mừng anh sinh nhật thứ mười bảy.”

“Ừ….. cám ơn em.”

Cô bé vẫn đang nhìn chăm chù Har­ry; nó tuy nhiên, cảm thấy thật khó mà nhìn vào Gin­ny vì điều đó chẳng khác gì cố căng mặt nhìn chằm chằm vào một cái ánh sáng chói lòa.

“Cảnh ngoài kia đẹp thật,” nó nói một cách yếu ớt, hường về phía ô cửa sổ.

Cô bé phớt lờ câu nói đó. Har­ry không thể cứ trách cô bé.

“Em không biết nên mua gì cho anh,” cô bé nói.

“Em không cần mua gì cả.”

Cô bé không để ý đến lời nói đó.

“Em không thể nghĩ ra có cái gì hữu dụng cả. Không thể nào quá lớn vì anh sẽ không thể đem nó bên mình.”

Har­ry liếc nhìn về phía Gin­ny. Cô bé không khóc; đó là một trong những thứ tuyệt vời của cô bé Gin­ny, có bé hiếm khi khóc lóc. Đôi khi nó nghĩ rằng việc có sáu ông anh trai đã giúp cô bé cứng cỏi lên nhiều.

Cô bé bước lại gần nó.

“Cho nên em nghĩ, anh nên có cái gì đó để luôn nghĩ về em bởi, anh biết đấy, nếu anh gặp một nữ thần khi anh được tự do làm những gì anh bắt đầu làm những gì anh đang dự định .”

“Anh thật lòng nghĩ rằng những cơ hội hẹn hò khác khá là mờ nhạt.”

“Vậy là có một cơ hội may mắn cho những gì em đã tìm kiếm,” cô bé nói khẽ, và cô bé hôn Har­ry như chưa bao giờ được hôn trước đó, và Har­ry cũng hôn cô bé, và đó là một sự lãng quên sung sướng hơn cả khi uống nhiều Whiskey, cô bé là thứ duy nhất còn tồn tại trên đời, Gin­ny, cái cảm nhận về cô, một tay nó ôm lấy lưng và tay còn lại thì đang luồn vào mái tóc dài với hương thơm thật quyến rũ của cô–

Cánh cửa bỗng nhiên mở tung ra và hai đứa vội nhảy vọt ra, tách khỏi nhau.

“Ôi,” Ron nói mỉa mai. “Xin lỗi.”

“Ron!” Hermione lên ngay sau nó, thở nhẹ. Một thoáng im lặng bao trùm lên không gi­an rồi Gin­ny nói khẽ,

“Chúc mừng sinh nhật, anh Har­ry.”

Tai của Ron đỏ gay còn Hermione thì đầy lo lắng. Har­ry muốn đóng sầm cái cánh cửa trước mặt chúng, nhưng có vẻ như một dòng nước lạnh đã ập vào căn phòng khi cánh cửa bật mở, và cái cảm giác vui vẻ đã nhanh chóng vỡ tan như những bong bong nước. Tất cả những lí lẽ để kết thúc mối quan hệ với Gin­ny, để có thể xa khỏi cô ấy mà không buồn khổ, dường như đã lén vào căn phòng cùng với Ron, và tất cả những hạnh phúc đã ra đi.

Nó nhìn về phía Gin­ny, muốn nói một điều gì đó với cô bé, dù cho nó thật khó để biết được nên nói gì, nhưng cô bé đã quay lưng lại phía nó. Nó nghĩ rằng cô bé đã không thế nào có thể ngăn cản, một lần nữa, cô bé rơi lệ. Nó không thể nói điều gì để giúp cô bé yên lòng khi ở trước mặt của Ron.

“Anh sẽ gặp em sau,” nó nói và đi theo hai đứa bạn rời khỏi phòng.

Ron bỏ xuống dưới nhà, đi qua căn nhà bếp-vẫn-còn-ồn-ã và ra ngoài sân, Har­ry vẫn bước theo Ron, Hermione bước nhanh đằng sau chúng, đầy lo lắng.

Khi Ron đã đi tách biệt hẳn khỏi bãi cỏ, nó quay qua Har­ry.

“Cậu đã đùa cợt với con bé. Thử nghĩ xem cậu đang làm cái quái gì, đảo lộn mọi thứ xung quanh con bé à?”

“Mình chả làm đảo lộn cái gì cả,” Har­ry nói, Hermione cuối cùng cũng đuổi kịp chúng.

“Ron!”

Nhưng Ron đã giơ cánh tay ý muốn ngắt lời cô bé.

“Khi cậu dừng mối quan hệ, con bé đã thực sự từ bỏ nó…”

“Mình cũng thế. Cậu biết rằng tại sao mình chấm dứt nó, và đó không phải vì mình muốn như thế.”

“Vâng, nhưng bây giờ thì cậu lại quay qua hôn hít nó và nhóm lên hi vọng bên trong nó…”

“Gin­ny không ngu ngốc, cô bé biết điều đó không thể nào xảy ra , và cô bé biết không trông mong gì vào chúng mình – đi tới một cuộc hôn nhân, hay là–”

Khi nó nói đến điều đó, một bức tranh rõ nét hiện ra trong ý nghĩ của Har­ry với cảnh Gin­ny mặc chiếc áo cưới trắng muốt, kết hôn với một kẻ cao to, vô danh và đầy khó chịu.

Và trông một khoảng khắc, nó như xoáy vào Har­ry: tương lai của cô bé thì tự do và không bị choán chỗ, còn nó…nó không nhìn thấy bất kì điều gì, trừ Volde­mort ở phía trước.

“Nếu như cậu vẫn tiếp tục tìm kiếm ở con bé ấy những cơ hội.”

“Nó sẽ không xảy ra nữa,” Har­ry gắt giọng nói. Ngày hôm nay trời quang đãng nhưng nó cảm thấy như mặt trời đã đi mất. “Được chứ?”

Ron nhìn nửa bất bình, nửa ngượng ngập; nó đưa chân đá qua đá lại một lúc rồi nói, “ừ, tốt rồi, nó… Ừ, tốt.”

Gin­ny không tìm kiếm thêm bất kì một cuộc chuyện trò riêng nào với Har­ry trong phần còn lại của ngày, cũng không có một ánh mắt hay cử chỉ nào nói lên rằng chúng đã có một cuộc trò chuyện trên mức bình thường ở phòng của cô bé. Nhưng dù gì, sự có mặt của anh Char­lie đã giải tỏa cho Har­ry. Nó mang đến một khoành khắc nhẹ lòng, nhìn và Weasley bắt Char­lie ngồi xuống một cái ghế, giơ đũa phép lên đầy đe dọa, và cảnh báo rằng mái tóc của anh ấy phải được cắt tỉa thích hợp.

Trong ngày sinh nhật của Har­ry, bữa tối đã kéo giãn cái bếp của của trang trại hang Sóc để có thể đủ cho sự có mặt của anh Char­lie, thầy Lupin, cô Tonks, và bác Ha­grid, một vài chiếc bàn đã được xếp nối nhau ngoài vườn. Fred and George đã phù phép một số đèn lồng màu đỏ tía để chúng xếp thành con số 17 khổng lồ, được treo phía trên đầu những vị khách. Nhờ sự chăm sóc của bà Weasley, vết thương của George đã liền lại và sạch sẽ, nhưng Har­ry vẫn chưa quen với cái lỗ ở một bên đầu anh ấy­dù cho hai anh em sinh đôi cứ thích đùa về nó.

Hermione làm ra những biểu ngữ vàng và đỏ tía từ đầu đũa phép và chúng tự mình giăng đầy nghệ thuật qua những cái cây và bụi cây.

“Đẹp đấy,” Ron nói, cùng lúc với dung biểu ngữ cuối cùng bắn ra khỏi đầu đũa phép, Hermione làm cho những lá táo dại biến thành màu vàng. “Cậu đã luôn rất tốt về mấy vấn đề này.”

“Cám ơn, Ron!” Hermione nói, ánh mắt của cô nàng có một chút vui lòng xen lẫn một chút ngượng ngừng. Har­ry phải quay đi để tránh bật cười. Nó có một ý nghĩ buồn cười là nếu nó bỏ thời gi­an một chút thì nó sẽ tìm được một chương về những lời khen ngợi trong cuốn Mười hai Cách cực kỳ An toàn để Quyến rũ nữ phù thuỷ; nó bắt gặp ánh mắt của Gin­ny và cười với cô bé trước khi nhớ tới lời hứa của nó với Ron và nhanh chóng quay sang bắt chuyện với Mon­sieur Dela­cour.

“Tránh đường nào – tránh đường nào!”- Bà Weasley ngâm nga, từ cái bếp lò xuất hiện một trái Snitch khổng lồ to như một quả bóng chuyền bãi biển lơ lửng trước mặt bà. Tận sau mấy giây thì Har­ry mới nhận ra đấy là cái bánh sinh nhật của mình được bà Weasley đã dùng đũa phép phép treo lên, thay vì liều lĩnh để nó dưới mặt sàn gồ ghề. Khi cái bánh đã hạ cánh ở giữa mặt bàn, Har­ry nói:

“Trông nó tuyệt thật, bác Weasley à.”

“Ồ, Không có gì đâu, cháu yêu, Bà nói một cách âu yếm. Qua vai bà, Ron giơ ngón tay cái và làm điệu bộ với Har­ry,Tốt đấy.

Đến bảy giờ thì tất cả khách mời đã đến đông đủ, Fred và Ge­ogre đã đứng đợi sẵn ở cuối lối đi để đón khách vào nhà. Ha­grid thể hiện niềm vinh dự được đến bữa tiệc bằng cách mặc bộ trang phục đẹp nhất cùng với mái tóc nâu rậm khủng khiếp. Mặc dù Lupin vừa cười vừa bắt tay Har­ry, nó vẫn nghĩ là Lupin trông có vẻ không vui. Tất cả trông đều có vẻ kì quặc, cô Tonks, đứng cạnh nó, trông rất rạng rỡ.

“Chúc mừng sinh nhật, Har­ry”- Bà cô ấy ôm chặt Har­ry và nói.

“Mày bảy tuổi tuổi, à”- Ha­grid nói, nhận một cốc rượu to như cái vại từ Fred. “Thế là chúng ta đã gặp nhau đc sáu năm rồi đấy, Har­ry àh, con còn nhớ không?”

”Hình như thế ạ”, nó nhe răng cười. “Không phải bác xô cái cửa trước, tặng Dud­ley thêm một cái đuôi heo, và nói với con rằng con là một phù thuỷ đấy chứ?”

“Bác quên hết chi tiết rồi”, Ha­grid cười như nắc nẻ. “Ron, Hermione, các con có khoẻ không?”

”Chúng con vẫn tốt ạ”. Hermione nói. “Bác thì sao?”

”Cũng không tệ lắm. Khá bận, chúng ta mới có những con kì lân mới sinh. Bác sẽ cho các con xem khi các con trở về –” Har­ry cố gắng để Ron và Hermione thôi nhìn chằm chằm khi Ha­grid lục túi. “Đây này. Har­ry – ta không nghĩ được nên mang cái gì, nhưng rồi ta nhớ ra cái này.” Bác lấy ra một cái túi nhỏ bằng lông thú có dải rút dài, rõ rằng là đã được định sẵn để buộc xung quanh miệng túi. “Moke­skin, có thế giấu tất cả mọi thứ ở đây, Không ai có thể lấy nó ra trừ người chủ. Hiếm lắm đấy.”

“Rất cảm ơn bác, Ha­grid”

“Không có gì,” Ha­grid nói và phấy phấy bàn tay to như nắp thùng rác. “A, Char­lie kia rồi. Lúc nào cũng thế. Này, Char­lie,”

Char­lie tiến lại gần, nhẹ vẫy cái tay một cách buồn bã . Anh Char­lie còn thấp hơn cả Ron, người thấp mập, trên bắp tay có một số vết bỏng và cào.

“Chào, Ha­grid, thế nào rồi?”

“Ta đang có ý viết cho cậu vài dòng.Nobert thế nào rồi?”

”Nobert?”- Char­lie cười phá lên. “Con rồng đấy hả? Bây giờ bọn cháu gọi nó là Rober­ta.”

“Ồ, Nobert là con rồng cái à?”

”Vâng đúng vậy”- Char­lie nói.

“Làm sao anh biết được?”- Hermione hỏi.

“Chúng hoang dại hơn”, Char­lie nói. Char­lie liếc nhìn phía sau và hạ giọng. “Ước gì bố khẩn trương lên đến đây ngay. Mẹ bắt đầu bực mình rồi đấy.

Mấy người quay lại nhìn bà Weasley. Bà vừa cố gắng nói chuyện với Dela­cour vừa không thôi liếc nhìn ra cổng.

“Tôi nghĩ là chúng ta nên bắt đầu mà Không cần đợi Arthur”. Bà gọi đầy đủ những người đang ở vườn sau một hoặc hai phút. “Chắc là ông ấy bị kẹt ở… ô”

Tất cả mọi người cùng lập tức nhìn vào một vệt sáng vụt qua vườn và vụt lên mặt bàn, rồi tự biến thành một con chồn bạc đứng trên chân sau và nói bằng giọng của ông Weasley.

“Bộ Trưởng bộ pháp thuật cũng đến cùng tôi”

Vị thần hộ mệnh tan biến thành một làn khói mỏng, khiến cả nhà Fleur nhìn xăm xoi vào cái chỗ nó vừa biến mất một cách ngạc nhiên.

“Chúng ta không nên ở đây,”- Lupin nói ngay. “Har­ry — ta xin lỗi — Ta sẽ giải thích cho con vào lúc khác”

Ông nắm cổ tay Tonk và kéo cô ta đi xa. Họ đến hàng rào, trèo qua và biến mất trong tầm mắt. Bà Weasley ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

“Ông bộ trưởng — Nhưng tại sao? –Ta không hiểu –”

Nhưng cũng chẳng còn thời gi­an để bàn chuyện đấy nữa; Một giây sau, ông Weasley hiện ra từ trong làn không khí, cùng với ông Ru­fus Scrim­geour, dễ nhận ra ngay lập tức bởi mái tóc hoa râm bờm xờm.

Hai người mới đến đi bộ qua sân hướng về cái vườn và cái bàn đèn lồng, nơi mọi người ngồi một cách im lặng, nhìn họ đang tiến đến dần. Scrim­geour càng đến gần thì ánh đèn lồng càng chiếu rõ hơn. Har­ry nhận ra là ông ta già hơn nhiều so với lần cuối gặp mặt, gầy dơ xương và trông thật khắc khổ.

“Xin lỗi vì tôi đã xen ngang”- ông Scrim­geour vừa nói vừa đi khập khiễng dừng chân 

bàn tiệc. “Nhất là tôi nhận ra tôi còn phá hỏng cả một buổi tiệc”- Đôi mắt ông nấn ná nhìn chiếc bánh sinh nhật Snitch khổng lồ.

“Chúc mọi điều hạnh phúc sẽ đến với cháu”

”Dạ, cảm ơn”- Har­ry nói.

“Ta cần nói chuyện riêng với cháu”- Scrim­geour nói tiếp. “À, với cả cậu Ronald Weasley cùng cô Hermione Granger nữa”.

“Chúng cháu à ?” – Ron sửng sốt. “Tại sao lại là chúng cháu?”

”Ta sẽ nói với riêng với các cháu” – Scrim­geour nói. “Ở đây có chỗ nào như thế không?” Ông hỏi bà Weasley.

“Có, tất nhiên rồi” – Bà Weasley đáp, trông rất căng thẳng. “Cái, ờ, cái phòng khách, tại sao ông không dùng nó nhỉ?”

”Cháu dẫn đường đi”- Scrim­geour nói với Ron. “Arthur, anh Không cần đi theo chúng tôi đâu”.

Har­ry nhận thấy hai ông bà Weasley nhìn nhau một cách lo lắng, và rồi nó, Ron cùng Her­mi­none đứng dậy. Trên đường quay về nhà trong yên lặng, Har­ry biết là hai đứa kia cũng đang nghĩ như nó. Ông Scrim­geour chắc chắn, bằng cách nào đó, biết là ba đứa nó định rời khỏi Hog­ward.

Scrim­geour vẫn không nói gì khi cả bốn người đi qua cái nhà bếp bừa bộn và đến phòng khách của trang trại. Mặc dù cả khu vườn đã được trang hoàng bằng ánh đèn vàng dịu buổi tối, ở trong đây vẫn rất tối. Har­ry vẩy nhẹ đũa thần vào cái đèn dầu khi nó bước vào, làm căn phòng tồi tàn nhưng khá ấm cúng được chiếu sáng. Ông Scrim­geour ngồi vào cái ghế võng, cái mà Ron vẫn hay chiếm, còn Ron, Har­ry và Hermione ngồi chen chúc nhau trên cái ghế so­fa. Khi mọi người đã ổn định, Scrim­geour bắt đầu nói.

“Ta có vài câu hỏi cho cả ba cháu, và ta nghĩ tốt nhất là nên nói với từng đứa một. Nếu hai cháu” – ông chỉ vào Har­ry và Hermione – “có thể lên gác đợi, thì ta sẽ bắt đầu với Ronald.

“Chúng cháu sẽ chẳng đi đâu cả” Har­ry nói, Hermione gật đầu cương quyết. “Ông có thể nói chuyện với cả bọn, hoặc là không gì cả.”

Scrim­geour nhìn Har­ry một cách lạnh lùng và đầy suy tính. Har­ry cảm tưởng là ông bộ trưởng đang nghĩ xem khai chiến về việc này có nên không.

“Cũng được thôi, cả ba đứa”. Ông ta lưỡng lự. Rồi ông ta nói rõ ràng: “Ta ở đây, chắc chắn là các cháu cũng biết, vì di chúc của cụ Dum­ble­dore.

Har­ry, Ron và Hermione nhìn nhau.

“Thật là ngạc nhiên! Các cháu không biết là cụ Dum­ble­dore đã để lại cho mình cái gì à?”

”Tâ…Tất cả bọn cháu ư?” Ron nói. “Cháu và cả Hermione nữa à?”

”Đúng vậy, tất cả –”

Nhưng Har­ry ngắt lời.

“Nhưng thầy Dum­ble­dore đã mất từ hơn một tháng trước rồi. Tại sao đến tận bây giờ ông mới trao cho chúng cháu những gì thầy để lại?”

”Nó không quá rõ ràng sao?”- Hermione nói, trước khi ông Scrim­geour có thể trả lời. “Họ muốn kiểm tra xem thầy đã để lại cho chúng ta những gì. Ông không có quyền làm việc đó!” Hermione tức giận, giọng nói hơi run run.

“Ta có mọi quyền,”- ông Scrim­geour tức giận. “Quy định Tịch thu Hợp lý khiến Bộ trưởng có quyền để tịch thu những nội dung của di chúc ấy”

“Bộ luật ấy đã được viết ra để ngăn việc các pháp sự chuyển nhượng các đồ vật Hắc ám,” Hermione nói, “và Bộ phải có bằng chứng rõ ràng rằng việc sở hữu những tài sản ấy là bất hợp pháp trước khi tịch thu chúng! Có phải ông đang nói với cháu rằng ông nghĩ cụ Dum­ble­dore đã để lại cho chúng cháu thứ gì đấy bị nguyền rủa ư?”

“Cô có định theo nghề Luật Ma Thuật không đấy, cô Granger?” ông Scrim­geour hỏi.

“Không, tôi không có ý đinh,” Har­ry đáp lại. “Tôi đang hy vọng sẽ làm điều gì tốt cho thế giới này.

Ron cười phá lên. Ánh mắt của Scrim­geour nhìn cậu rồi lại lướt đi khi Har­ry nói.i:

”Thế tại sao ông quyết định trao cho bọn cháu những gì thuộc về chúng cháu ngay bây giờ đi? Không có lí do để giữ chúng nữa hả?”

”Không, ông ta sẽ đưa vì hạn ba mươi mốt ngày đã hết”. Hermione nói ngay tức khắc. “Họ Không thể giữ được những vật đó lâu hơn phi họ chứng minh được chúng nguy hiểm. Đúng vậy không?”

”Có phải cậu nói là cậu thân với ông Dum­ble­dore không, Ronald?”- Scrim­geour hỏi, lờ đi Hermione. Ron hoảng hốt:

“Cháu? Cũng Không,… Không hẳn. Har­ry luôn là người…”

Ron thoáng nhìn Har­ry và Hermione, và nhận ra Hermione ra hiệu không được nói tiếp. Nhìn thoáng thôi, nhưng hậu quả thì đã xảy ra. Scrim­geour trông có vẻn­hư là đã nghe thấy những gì ông ta trông đợi, và muốn nghe từ Ron.

“Nếu như cậu không thân với ông Dum­ble­dore, thế thì cháu giải thích như thế nào về việc ông ta nhớ tên cậu trong bản di chúc? Ông đã để lại rất nhiều thứ đặc biệt- thư viện cá nhân, những dụng cụ pháp thuật, và những tài sản cá nhân khác — được để lại cho Hog­wart. Cậu nghĩ tại sao cậu lại được chọn ra?”

”C…cháu Không rõ”- Ron đáp “Cháu… khi cháu nói con không thân với thầy, … có nghĩa là thầy rất quý cháu…”

“Cậu quá khiêm tốn đấy”- Hermione nói. “Thầy Dum­ble­dore rất tự hào về cậu đấy”.

Sự thật đã gần đến thời điểm bị phanh phui; theo như Har­ry biết, Ron và thầy Dum­ble­dore chưa từng ở riêng với nhau bao giờ, và những lần gặp trực tiếp giữa họ thì không đáng kể. Tuy nhiên, dường như ông Scrim­geour không nghe thấy. Ông ta cho tay vào trong áo choàng và lấy ra một cái túi dải rút, thậm chí còn lớn hơn cả cái mà bác Ha­grid đã đưa cho Har­ry. Từ trong túi, ông rút ra một cuộn giấy bằng da dê, mở ra và bắt đầu đọc lớn:

“’Di chúc và chúc thư cuối cùng của Al­bus Per­ci­val Wul­fric Bri­an Dum­ble­dore’… Rồi, chúng ta đây… ‘Cho cậu Ronald Bil­ius Weasley, ta để lại cho con cái De­lu­mi­na­tor của ta, mong rằng con sẽ nhớ đến ta mỗi lần con dùng nó.’”

Scrim­geour lấy từ trong túi ra một thứ mà Har­ry đã được nhìn thấy trước đó: Nó trông giống như là một cái bật lửa thuốc màu bạc, nhưng Har­ry biết nó có quyền năng để hút hết ánh sáng của cả một vùng, và rồi trả lại chúng chỉ bằng một cú nhấn. Scrim­geour cúi người xuống và đưa nó cho Ron, cậu nhận lấy và xoay đi xoay lại bằng những ngón tay một cách sững sờ.

“Nó rất giá trị đấy”- ông Scrim­geour nói, nhìn Ron. “Nó thậm chí còn độc nhất vô nhị. Chắc chắn nó là do ông Dum­ble­dore tự thiết kế. Tại sao ông ta lại để lại cho cháu những thứ hiếm có như vậy?”

Ron lắc lắc đầu, ngơ ngác.

“ Ông Dum­ble­dore chắc chắn đã từng dạy hàng nghìn học sinh” – ông Scrim­geour kiên nhẫn. “Thế nhưng những học sinh ông ta nhớ trong di chúc chỉ là ba người. Tại sao lại thế? Ông ta nghĩ nghĩ cháu có thể sử dụng được cái De­lu­mi­na­tor như thé nào, hả Weasley? ”

“Để tắt đèn, cháu nghĩ thế” – Ron lầm bầm. “Cháu có thể làm gì hơn được với nó nữa?”

Hiển nhiên là Scrim­geour khôn có gợi ý gì. Sau khi liếc nhìn Ron một hai lần lần, hắn quay trở lại di chúc của cụ Dum­ble­dore.

“’Cho cô Hermione Jean Granger, ta để lại cho con bản sao của Chuyện kể về những Hiệp Sĩ xứ Bee­dle” mong rằng con sẽ thấy nó thú vị và có ích’”.

Scrim­geour bây h lấy ra khỏi túi một quyển sách trông như là bản sao cổ của cuốn Bí mật của Nghệ thuật Hắc Ám Nhất trên tâng. Bìa sách trông nhơ nhuốc và bị bong ra thành từng mảng. Hermione nhận lấy nó từ tay Scrim­geour mà không nói lời nào. Cô để quyển sách trên váy và nhìn chằm chằm. Har­ry nhìn thấy tựa sách được viết bằng chứ Rune; nó chưa bao giờ học để đọc được loại chữ ấy. Khi nó nhìn, một giọt nước mắt rơi lên những kí tự in nổi của cuốn sách.

“Tại sao cháu nghĩ là ông Dum­ble­dore lại để lại cho cháu quyển sách này, cô Granger?” – ông Scrim­geour hỏi.

“Thầy… thầy biết là cháu thích đọc sách.”- Hermione nói

“Nhưng tại sao lại là cuốn sách đặc biệt ấy?”

”Cháu không biết. Chắc thầy nghĩ cháu sẽ thích nó.”

“Cháu đã bao giờ trao đổi về mật mã, hay là bất kì hình thức nào về việc trao đổi những tin nhắn bí mật, với Dum­ble­dore chưa?”

”Không, con chưa từng”- Hermione vừa nói vừa dùng tay áo lau mắt. “Và nếu như Bộ đã không tìm thấy những gì bí ẩn trong vòng ba mươi mốt ngày, cháu nghi ngờ là cháu sẽ tìm được đấy..”

Hermione nín khỏi bật khóc nức nở. Ba người bịnêm chặt trên ghế khiến Ron rất khó khăn mới quang được tay lên vai Hermione. Scrim­geour quay trở lại bản di chúc.

“’Cho cậu Har­ry James Pot­ter,’” ông đọc, và bên trong Har­ry dường như thu nhỏ lại vì sự phấn khíc,. “Ta để lại cho con trái Snitch con bắt được lần đầu tiên tại trận Quit­ditch đầu tiên của con ở Hog­wart, như là sự nhắc nhở về phần thưởng cho tính kiên trì và khéo léo.”

Khi ông Scrim­geour lấy ra một quả bóng nhỏ cỡ quả óc chó màu vàng, những cái cánh màu bạc của nó vãy vẫy một cách yêu đuối, Har­ry Không thể không cảm giác thất vọng.

“Tại sao Dum­ble­dore để lại cho cậu trái Snitch này?” – ông Scrim­geour hỏi.

“Cháu không biết,” – Har­ry nói. “Những cái lí do mà bác vừa đọc, con nghĩ là….. để nhắc nhở con về những gì con có thể nhận được nếu như con……. kiên trì và bất cứ cái gì khác.”

“Cậu nghĩ rằng quà tặng đó chỉ mang tính tượng trưng thôi sao?”

“Cháu nghĩ như vậy,” Har­ry nói. “Không thì còn là cái gì hơn được nữa?”

“Tôi mới đang là người đặt câu hỏi,” ông Scrim­geour nói, dịch cái ghế của ông lại gần chiếc so­fa. Bóng tối đã bao trùm lên mọi vật; qua chiếc hàng rào, cái lều to mang trên mình nó một màu trắng trông đến sởn gai ốc.

“Cháu cần nhấn mạnh với cậu là chiếc bánh sinh nhật cậu hôm nay cũng có hình của trái Snitch,” Scrim­geour nói với Har­ry. “Vì sao?”

Hermione nở một nụ cười đầy nhạo báng.

“Ồ, hiển nhiên như vậy mà ông không biết sao, nó đang hướng vào một sự thật bằng Har­ry là một tầm thủ xuất sắc, hay ông cho rằng,” cô nói. “Chắc chắn có một thông điệp bí mật từ cụ Dum­ble­dore ở bên dưới lớp kem!”

“Tôi không nghĩ là có thứ gì giấu dưới lớp kem,” ông Scrim­geour nói, “nhưng một trái banh Snitch có thể là chỗ che dấu tốt cho một vật gì đó nho nhỏ. Các cô cậu biết vì sao, tôi chắc chắn vậy?”

Har­ry nhún vai, Hermione, tuy nhiên, lại trả lời: Har­ry nghĩ răng việc trả lời một cách chính xác như là một thói quen đã ăn sâu vào tư tưởng cô bé mà giờ đây, cô bé không ngăn nó lại được.

“Bởi vì tất cả những trái Snitch thì đều có một bộ nhớ,” cô bé nói .

“Cái gì?”Har­ry và Ron đồng thanh; cả hai đứa vẫn cứ quan niệm rằng Hermione thì chả biết gì nhiều về Quid­ditch.

“Chính xác,” Scrim­geour nói. “Một trái Snitch thì không được chạm bởi một bàn tay trần trước khi nó được phóng, với người làm ra nó cũng thế, họ phải đeo găng tay. Nó mang trong mình một sự kích thích bởi thế nó có thể nhận ra được người mà lần đầu tiên có thể chạm tay vô nó, trong một tình huống ganh đua để gi­anh lấy nó. Trái Snitch này” – ông ấy cầm trái banh vàng nhỏ xíu lên — “vẫn nhớ được cái lần bị cậu bắt, Pot­ter. Nó thì làm cho tôi nghĩ rằng Dum­ble­dore, người có một năng lực phép thuật vĩ đại, dù cho có một vài sơ suất nhỏ, có thể đã phù phép trái Snitch này chỉ để mở cho mỗi mình cậu.”

Tim Har­ry đập nhanh. Nó chắc chắng rằng ông Scrim­geour đã đúng. Làm thế nào để nói có thể không phải cầm trái Snitch bằng bàn tay trần của mìn­htrước mặt ông Bộ trưởng.

“Cậu không nói gì cả,” Scrim­geour nói. “Có thể cậu đã biết trước cái đang được ẩn dấu trong trái banh Snitch?”

“Không,”Har­ry thốt lên, vẫn đang băn khoăn làm sao nó có thể chạm vào trái Snitch mà không thực sự làm điều đó. Nếu như một mình nó biết được phép Đọc tư tưởng, thực sự biết, và có thể biết được ý nghĩ của Hermione; nó có thể đọc được điều gì đang diễn ra trong đầu Hermione.

“Cầm lấy nó,” Scrim­geour nói nhỏ.

Har­ry bắt gặp đôi mắt màu vàng của ông Bộ trưởng và biết rằng, nó không có một lựa chọn nào khác ngoài việc tuân lệnh . Nó giơ bàn tay của mình ra, ông Scrim­geour lại ngồi thẳng lên một lần nữa và đặt trái Snitch, chậm rãi và đầy cân nhắc, vào trong lòng bàn tay của Har­ry.

Chả có gì xảy ra. Những ngón tay của Har­ry khép lại đế giữ chặt trái Snitch, trái banh đã mệt vì vùng vẫy hết sức. Scrim­geour, Ron, và Hermione , và vẫn còn le lói hi vọng là sẽ có một điều gì đó xảy ra trong một vài tính huống.

“Đầy kịch tính nhỉ,” Har­ry nói lạnh băng. Cả Ron và Hermione đều phá ra cười.

“Đó là tất cả rồi đúng không?” Hermione hỏi, đứng dậy khỏi chiếc ghế võng.

“Không hẳn thế,” Scrim­geour nói, lúc này đang giận dữ “Cụ Dum­ble­dore còn để lại một chúc thư nữa, Pot­ter.”

“Đó là cái gì?” Har­ry khỏi, đầy kích động.

Lần này ông Scrim­geour không có ý định tìm hiểu cái ý nghĩa của di chúc nữa.

“Thanh gươm của Go­dric Gryffind­or,” ông ta nói. Hermione và Ron như bật dậy. Har­ry nhìn quanh để tìm một dấu hiệu của cái chuôi cẩn hồng ngọc, nhưng ông Scrim­geour thì không mang theo thanh gươm cùng với cái túi da bởi vì trong bất cứ trường hợp nào, cái túi quá nhỏ.

“Vậy giờ nó ở đâu?” Har­ry hỏi đầy nghi hoặc.

“Thật không may,” Scrim­geour nói, “Cái thanh gươm đó không thuộc về cụ Dum­ble­dore để cụ có thể cho đi. Thanh gươm của Go­dric Gryffind­or là một vật mang tính lịch sử quan trọng, và như vật, thuộc về…”

“Nó thuộc về Har­ry!” Hermione nói nóng nảy. “Nó đã chọn Har­ry, chính bạn ấy mới là người tìm thấy nó và rút nó ra từ chiếc nón phân loại–”

“Theo như những dẫn chứng lịch sử đáng tin cậy, thanh gươm trao nó vào tay bất kì một Gryffind­or xuất sắc nào,” Scrim­geour nói. “Và điều đó thì sẽ không làm cho nó chính xác thuộc về ngài Pot­ter đây, dù cho cụ Dum­ble­dore có thể đã quyết định.” ông Scrim­geour gãi nhẹ má, xem xét kĩ lưỡng Har­ry. “Sao cậu nghĩ vậy –?”

“Thầy Dum­ble­dore muốn đưa cho cháu thanh gươm à?” Har­ry nói, cố gắng để giữ mình kiềm chế. “Bởi vì có thể cụ ấy nghĩ là nó đẹp khi treo trên tường của cháu chăng?”

“Đây là một trò đùa à, Pot­ter!” ông Scrim­geour gầm lên. “Có phải vì cụ Dum­ble­dore nghĩ rằng chỉ có thanh gươm của Go­dric Gryffind­or mới đủ khả năng để tiêu diệt người kế vị Slytherin? Có phải cụ ấy trao cho cậu thanh gươm, Pot­ter, bởi vì cụ ấy nghĩ rằng, cũng như bao người khác đnag nghĩ, cậu là môt người đựa chọn để tiêu diệt Kẻ-Chớ-Gọi-Tên-Ra?”

“Một lý thuyết nghe xuôi tai đấy,” Har­ry nói. “Đã có một ai thử đâm thanh kiếm qua Vol­der­mort chưa? Có thể bộ nên cử một vài người thử làm điều đó, thay vì việc cứ phí hoài thời gi­an của họ để dập tắt mấy chiếc bât-lửa-tắt-đèn hay để che đậy những vụ tẩu thoát khỏi Azk­aban. Đó có phải điều ông đang làm, thưa ngài Bộ trưởng, im thin thít ở trong phòng, hí hoáy cậy tung trái banh Snitch? Rất nhiều người đang chết đi – và tôi cũng suýt trở thành một trong số đấy – Volde­mort săn đuổi tôi ngang qua cả ba tỉnh, hắn đã giết chết thầy Moody, nhưng rồi chả thấy một lời nói nào từ phía bộ pháp thuật, phải không? Và ông vẫn trông đợi là bọn tôi sẽ hợp tác với ông ư!”

“Cậu đi xa rồi đấy!” ông Scrim­geour hét lên, đứng bật dậy: Har­ry cũng bật dậy. Ông Scrim­geour khập khiễng tiến lại gần Har­ry và ấn đầu đũa phép vào ngực của Har­ry; Nó để lại một lỗ cháy đen trên cái áo của Har­ry như một ít tàn thuộc lá.

“Ôi!” Ron nói, nhảy ra khỏi ghế và rút đũa phép nhưng Har­ry ngăn lại,

“Đừng! Đừng cho ông ta cái cớ để bắt chúng ta?”

“Hãy nhớ rằng cậu đang ở một nơi không phải Hog­warts, được chứ?” Ông Scrim­geour nói và thở gấp, hơi thở phả vào mặt Har­ry. “Và nhớ luôn cho rằng, ta không phải = Dum­ble­dore để mà có thể tha thứ cho cái thói láo xược và thiếu vâng lời của cậu? Cậu có thể coi cái thẹo đó như một chiếc vương miện, Pot­ter, nhưng đây không phải lúc để mà một thằng-nhãi-mười-bảy-tuổi được phép

Continue Reading

You'll Also Like

40.8K 4K 124
Tác phẩm: Trời Tối. Tác giả: Hổ Đầu Miêu Diện. "Sau khi mặt trời biến mất, họ trở thành ánh sáng của nhau" Note: 1. Cố chấp biến dị trung khuyển công...
524K 64.4K 99
SAU KHI NGƯỜI CHƠI VÔ HẠN LƯU VỀ HƯU - TANG ỐC Tên: Sau khi người chơi vô hạn lưu về hưu Tác giả: Tang Ốc Thể loại: Hiện đại, vô hạn lưu, ngọt ngào...
66.8K 308 12
Truyện chỉ được đăng trên kênh này. Lưu ý: Tuyệt đối không re-up trên Wattpad hay bất kỳ ứng dụng, website khác.
30.2K 2.6K 49
Cuộc Sống Ở Khu SVT Của Các Em Bé: Choi SeungWoo Kwon SoonJi Kim MinWon Chwe SolYun Moon Junho Lee SooHee Phi Hư Cấu