đọc đi rồi biết nha !!!

By dung_dung

3.2K 2 1

More

Chí Minh và Xuân Kiều !!!!!

đọc đi rồi biết nha !!!

1.5K 2 1
By dung_dung

cái này là do mình lên mạng rồi copy về lâu rồi, ko nhớ tên mà chẳng nhớ nguồn mạn phép * tác giả,  dịch giả* * amen*

CHƯƠNG 1

“ĐOÁN XEM AI?”

Hai bàn tay ấm và ẩm ướt của Haven bịt thật chặt vào đôi mắt và khuôn mặt tôi, làm cho chiếc nhẫn đầu lâu màu bạc hằn lên da thịt. Mặc dù mắt bị che nhưng tôi có thể biết rõ mái tóc nhuộm đen của đứa bạn mình đang được chẽ ngôi giữa. Một chiếc áo nội y màu đen có túi đệm bân trong, phía ngoài là áo cổ lọ (tuân thủ đúng đồng phục của trường), rồi thì chiếc váy sa tanh đen dài quét đất có một lỗ thủng gần gấu váy, ngay nơi mũi giày ống hiệu Doc Marten. Và mắt của Haven đang có màu vàng – không phải màu mắt thật mà đó chỉ là vì cô nàng mang kính sát trong màu như thế.

Cái động tác va chạm rất mơ hồ cũng giúp tôi biết bố của Haven thật sự không hề đi “công tác” như ông nói, còn người huấn luyện viên riêng của mẹ cô thì đang làm chuyện “riêng” nhiều hơn là chuyện “huấn luyện”. Và nữa… Thằng em trai thì đã làm vỡ cái đĩa CD của cô mà chưa dám báo cho cô biết.

Vâng, tôi biết tất cả những điều ấy…!

Nhưng không phải tôi biết vì dọ thám, nghe lén hay được kể lại.

Tôi biết, bởi trong người tôi có một năng lực siêu linh!

“Nhanh lên! Đoán xem! Chuông reo bây giờ!”. Haven hấp tấp nói, giọng khàn khàn, bực tức:

Trong một tích tắc, tôi cảm nhận được rõ rệt đứa bạn của mình muốn tôi đoán nhầm cô ấy với ai.

“Có phải là Hilary Duff không?”, tôi lên tiếng.

“Không phải. Hi hi… Đoán lại xem!”. Hai tay Haven ép mạnh hơn, chẳng hề biết rằng tôi không cần phải thấy mới biết.

“Vậy thì… Có phải là Marilyn Manson?”.

Haven bật cười, buông hai bàn tay ra. Rồi cô đưa ngón tay như thể muốn chà nhẹ lên vết hằn mà chiếc nhẫn của cô đã tạo ra trên mặt tôi. Lập tức, tôi đưa tay cản lại.

Không phải tôi ngại động tác quan tâm của cô bạn. Tôi biết đứa bạn của mình hoàn toàn chỉ có ý tốt. Nhưng… Chỉ là vì tôi không muốn cô chạm tới tôi một lần nữa. Những động tác động chạm vô tình thế này làm tôi quá mệt mỏi. Vì thế, tôi cso tránh bằng mọi cách.

Haven chụp lấy cái mũ trùm đầu trên chiếc áo choàng dài tay cảu tôi, kéo bật cái mũ ra. Cô liếc nhìn chăm chăm chiếc tai nghe và cao giọng: “Cậu đang nghe gì vậy?”

Tôi thò tay vào trong lấy cái túi để iPod, làm một động tác điều chỉnh cho tiếng nhạc lớn lên. Đứa bạn háo hức chộp ngay lấy: “Ai hát đấy? Cậu cho lớn thêm chút nữa được không?”. Rồi cô đung đưa chiếc iPod giữa hai chúng toi để cả hai đều có thể nghe được tiếng Sid Vicious đang gào thét về tình trạng vô chính phủ ở Vương quốc Anh. Thật sự nghe là nghe thế, chứ tôi cũng không biết bài hát của Sid ủng hộ hay phản đối tình trạng ấy.

Tôi chỉ biết điều duy nhất rằng, ông ấy hát quá to, làm đờ đẫn hết cả các siêu giác quan của tôi.

“Ban nhạc Sex Pistols”, tôi lẩm bẩm, rồi tắt nhạc và trả chiếc iPod về lại chỗ bí mật ban đầu.

“Này, tớ ngạc nhiên vì tớ đã thử đổi giọng rồi mà cậu vẫn có thể đoán ra đấy!” Cô bạn cười toe toét trong lúc tiếng chuông vào lớp inh ỏi vang lên.

Nhưng tôi chỉ nhún vai.

Tôi không cần phải lắng nghe mới biết. Nhưng tôi giấu suy nghĩ ấy cho riêng mình, chỉ nói với bạn rằng tôi sẽ gặp lại cô ấy vào bữa trưa, rồi đi thẳng lên lớp.

Khi đi ngang qua sân trường, thốt nhiên, tôi cảm giác được hai gã lén lút theo sát phía sau Haven, đạp lên gấu váy cô, làm cô suýt ngã. Nhưng khi cô quay lại, làm một dấu hiệu cảnh báo và trừng trừng đôi mắt màu vàng vào họ, cả hai gã lập tức lùi lại để cô yên. Tôi thở dài nhẹ nhõm bước vào lớp học, biết rằng bạn mình chắc chắn sẽ an toàn.

Bước chân vào phòng, tôi đi thẳng đến chỗ ngồi của mình nơi cuối lớp, tránh cái ba lô bà Stacia Miller cố tình để ngay giữa đường đi, và lờ đi khúc nhạc đầy vẻ khiêu khích mà cô ta đang khe khẽ ư ử trong cổ họng. Tôi ngồi xuống ghế của mình, lấy sách, tập, bút, viết từ trong ba lô ra, nhét tai nghe vào lỗ tai, trùm cái nón của chiếc áo choàng trùm đầu lên, xếp cái ba lô rỗng không của mình vào chiếc ghế không người ngồi bên cạnh, và bình thản chờ thầy Robins.

Thầy Robins lúc nào cũng trễ.

Nguyên nhân là vì ông thích uống vài cốc rượu nhỏ (bằng chiếc cốc bạc của mình) vài khoảng thời gain giữa hai tiết học. Còn nguyên nhân sâu sa hơn nữa thì đó là vì vợ của ông cứ hay la mắng, gào thét inh ỏi. Con gái ông nghĩ bố mình là người thất bại, và ông cũng ghét cuộc sống của chính mình.

Tôi biết được những điều đó từ ngày đầu tiên đến trường này, khi tay tôi vô tình chạm vào đỡ ông lúc ông bị trượt chân.

Một va chạm nhỏ. Và tôi biết tất cả.

Cũng chính vì thế mà bây giờ, mỗi khi cần đưa ông cái gì, tôi chỉ để nó ở cạnh bàn ông thay vì trực tiếp đưa như những học trò khác.

Tôi nhắm mắt lại và chờ.

Những ngón tay của tôi lọ mọ bên trong chiếc áo ấm dài tay, chuyển bản nhạc gào thét quá mức của Sid sang bản nào đó nhẹ nhàng, êm dịu hơn. Những âm thanh to lớn đó bây giờ không còn cần thiết nữa bởi vì tôi đang ở trong lớp, nơi có lẽ chẳng mấy người có thứ năng lực siêu linh kỳ lạ này.

Thật ra, không phải lúc nào tôi cũng khác thường. Tôi từng có những ngày tháng tuổi thơ rất trong lành, giản dị. Những ngày tháng đi học… Cũng mơ mộng, cũng có nhiều “fan” hâm mộ, cũng ngấm ngầm tự hào về mái tóc dài vàng hoe cột cao như đuôi ngựa của mình. Tôi cũng từng có mẹ, có bố, có đứa em gái tên Riley, và một con chó dễ thương màu vàng tên Buttercup. Tôi sống trong một căn nhà xinh xắn, có những người láng giềng tốt, ở thành phố Eugene, tiểu bang Orgeon. Tôi khá nổi tiếng và hạnh phúc. Mọi thứ trong những ngày đó đều thật tuyệt vời. Nhưng… Lại phải dùng đến chữ “nhưng”! Rõ là cuộc sống không cho ai mọi thứ. Luôn có những điều gì đó chờ đợi bạn phía trước. Nghe có vẻ bà cụ non và đầy sách vở nhưng đó lại là sự thật mỉa mai.

Những gì tôi có thể nhớ sau đó chỉ là: Tôi – sắp – chết!

Tôi nhớ những người trong bệnh viên thì thào bảo nhau rằng tôi sắp GĐXT – cách nói “né” đi của chữ “gần đất xa trời” ấy mà. Nhưng họ đã sai. Bởi vì tin tôi đi, không có cái gì “gần” điều đó cả.

Tôi không chết.

Song đó không hẳn là điều tốt.

Bạn không thể biết cảm giác đó đâu. Cảm giác trong phút chốc, đứa em gái Riley và tôi đang ngồi phía sau chiếc xe hơi thể thao của bố cùng với con Buttercup. Đầu của nó gối lên váy Riley, còn cái đuôi thì vẫy nhè nhẹ quệt vào chân tôi… Chuyện tiếp theo mà tôi biết là túi hơi bung ra, chiếc xe vỡ tan tành và tôi thấy mình ở ngoài chiếc xe, chứng kiến tất cả những cảnh đó.

Tôi nhìn chằm chằm vào những mảnh vụn nát của cửa kính. Càng trước xe dính chặt vào cây thông. Chuyện gì nhỉ? Tôi gần như không biết chuyện gì đã xảy ra. Điều duy nhất tôi biết là mình đã cầu nguyện cho tất cả mọi người đều thoát được.

Sau đó, tôi nghe tiếng sủa quen thuộc. Tôi ngoái lại, thấy mọi người – những người thân của tôi -  đang lững thững đi về phía cuối đường, với con Buttercup vẫy đuôi dẫn đầu.

Tôi hối hả theo sau họ. Lúc đầu cố chạy để ráng bắt kịp, nhưng sau đó thì tôi chạy chậm hơn. Tôi thấy mình thơ thẩn qua cánh đồng mênh mông thơm ngát hương cây cỏ và hoa. Tôi thấy mọi người run rẩy. Tôi thấy mình nhắm mắt lại vì một tia chớp sáng rực lóe lên làm mắt tôi chói lòa. Và rồi mọi thứ bừng sáng lên.

Tôi tự hứa với lòng mình rằng đấy chỉ là một khoảnh khắc ảo giác thôi. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ quay trở lại và tìm ra họ. Nhưng khi tôi cố nhìn những người thân của mình lần cuối, tôi loáng thoáng bắt gặp họ tươi cười, vẫy tay và đi xa dần, xa dần… Khi ngang qua một cây cầu, chỉ trong tích tắc, tất cả họ đều biến mất.

Tôi kinh hoàng.

Tôi nhìn khắp mọi nơi.

Tôi chạy hoảng loạn từ nơi này sang nơi khác. Nhưng tất cả cảnh vật đều trông giống như nhau - ấm áp, trắng lóa, lấp lánh, lung linh, xinh đẹp, không thật, u u mê mê.

Và tôi té xuống đất, lạnh cắt da, toàn thân tôi co rúm. Tôi khóc lóc, kêu la, gào thét, van xin, hứa hẹn những điều mà tôi biết mình không bao giờ thực hiện được.

Rồi tôi nghe tiếng một ai đó nói: “Ever! Ever! Hãy mở mắt ra và nhìn anh này. Em nhìn thấy anh không?”

Tôi thấy mình vấp té trở lại mặt đất. Trở lại nơi mà mọi thứ đều đau đớn, đau đớn tột cùng. Một cảm giác nhoi nhói ở trán. Tôi nhìn chằm chằm vào người đàn ông đang cố sức lay tôi. Đôi mắt anh thẳm sâu, đen láy. Tôi nhìn vào đó và thì thào: “Vầng, tôi là Ever!” trước khi bất tỉnh, ngất lịm đi một lần nữa…

CHƯƠNG 2

VÀI GIÂY TRƯỚC KHI THẦY ROBINS bước vào, tôi kéo sụp cái mũ trùm đầu của áo khoác xuống và tắt iPod, giả vờ đang say sưa đọc sách. Tôi cũng không buồn nhìn lên khi nghe tiếng thầy phía trên bục giảng: “Các em, đây là Damen Auguste. Bạn ấy vừa mới từ New Mexico đến đây. Được rồi Damen, em có thể ngồi ở cái ghế trống phía cuối, kế Ever. Đó… Chỗ đó… Đúng rồi. Em sẽ phải sem chung sách với Ever cho đến khi có sách học nhé!”

Damen rất đẹp trai và sang trọng.

Tôi biết điều đó dù chẳng thèm nhìn lên lấy một lần. Tôi cố tập trung vào cuốn sách của mình trong suốt vài giây Damen băng qua dãy bàn học để đến chỗ tôi. Tôi biết cả những suy nghĩ của các bạn trong lớp. Những suy nghĩ ấy vang lên, rõ mồn một giữa ban ngày.

Tôi nghe được thâm tâm của Stacia Miller, người ngồi phía trước tôi hai dãy bàn đang háo hức bảo rằng: Trời ơi, cái anh chàng Damen Auguste này sao hấp dẫn đến thế!

Honor -  cô bạn thân của Stacia -  cũng vang lên suy nghĩ hoàn toàn đồng ý.

Craig, bạn trai của Honor cũng vậy, dù xen trong đó là cả cảm giác bực tức nữa.

“Xin chào!”, Damen ngồi vào ghế kế bên tôi, vô tình làm cho cái ba lô của tôi rơi bịch xuống sàn.

Tôi gật đầu mà chẳng thèm nhìn vào cái gì khác ngoài đôi giày mô tô đen bóng loáng. Kiểu giày này thuộc câu lạc bộ GQ chứ không phải Hells Angels.

Đôi giày trông có vẻ nổi bật hẳn lên so với những đôi dép lê đủ màu sắc đang hiện hữu trên tấm thảm trải sàn màu xanh lá.

Thầy Robins yêu cầu tất cả chúng tôi lật sách trang 133. Damen nhanh chóng chồm qua bên tôi, thì thào: “Vui lòng cho tôi xem chung với nhé?”

Tôi lưỡng lự, một chút cảm giác hoảng sợ vì khoảng cách giữa cả hai quá gần, nhưng tôi vẫn đẩy cuốn sách của mình ra phía giữa bàn. Damen nhanh nhẹn kéo cái ghế lại gần tôi hơn – chỉ còn khoảng cách nhỏ giữa hai chúng tôi. Lập tức, tôi cúng nhích người ra phần xa nhất trong chiếc ghế của mình và giấu người vào trong chiếc mũ trùm đầu.

Tôi cảm nhận được Damen khẽ cười trong hơi thở, nhưng vì chưa hề nhìn anh ta nên tôi không biết nụ cười đó có ý nghĩa gì. Tất cả những gì tôi biết là nụ cười đó nhẹ tênh, vui vẻ, dễ chịu, nhưng chừng như nó còn chứa đựng điều gì khang khác bên trong nữa.

Tôi khom người xuống thấp hơn, tay chống cằm, mắt nhìn đồng hồ, quyết định lơ đi tất cả những cái nhìn khinh khi và những ý nghĩ chỉ trích đang nhắm đến tôi. Kiểu như: Tội nghiệp anh chàng đẹp trai đến thế lại phải ngồi gần con nhỏ kỳ dị!

Những câu đại loại như vậy thường xuất phát từ Stacia, Honor, Craig và hầu hết mọi người trong lớp này.

Thầy Robins cũng muốn kết thúc lớp học như tôi.

Vào bữa trưa, tôi cảm nhận được mọi người bàn tán xôn xao về Damen.

Cậu có thấy anh chàng mới vào lớp không? Damen đó. Trông hấp dẫn nhỉ. Tớ nghe nói anh ấy đến từ Mexico. Không, tớ nghĩ từ Tây Ban Nha. Gì cũng được, từ nước ngoài nào đó. Chắc chắn tớ sẽ mời anh ta tham dự dạ hội của trường. Cậu còn chưa làm quen được với anh ta nữa là. Đừng lo tớ sẽ làm được.

“Này, cậu có biết trong trường mình có một bạn mới không? Damen đấy! Hình như học lớp cậu. Cậu thấy anh ta ra sao?”. Haven thì thào ngay khi ngồi xuống bên cạnh tôi, môi khẽ mím lại.

“Làm ơn đừng có phá tớ nữa!”, tôi lắc đầu và cắn một miếng táo.

“Cậu sẽ không nói vậy nếu cậu may mắn tiếp xúc với anh ta.”Haven vừa nói vừa lấy cái bánh nướng ra khỏi lớp vỏ bằng giấy màu hồng, xịt lên mặt bánh một lớp kem theo thói quen dùng bữa trưa thường ngày, mặc dù lối ăn mặc của cô thì trông giống như sắp… ăn tươi nuốt sống một người chứ không phải chỉ nhâm nhi chiếc bánh ngọt nhỏ hiền lành như thế.

“Các cậu đang bàn về Damen à?”, Miles thì thào, sà vào băng ghế và chống hai khuỷu tay lên bàn. Đôi mắt nâu của anh ta nhìn chúng tôi. Gương mặt phinh phính phảng phất nét trẻ thơ nở một nụ cười toe toét. “Đẹp trai ghê!”Mấy cậu có thấy đôi giày không? Cực kỳ mốt nhé! Tớ nghĩ tớ sẽ mời anh ta làm bạn trai kế tiếp của tớ…

Haven trợn tròn mắt nhìn Miles, nửa muốn phì cười, nửa muốn giả bộ thật nghiêm. Cặp mắt màu vàng nheo lại. “Quá trễ rồi, tớ cũng có phần trong đó! Cậu nhắm có giành nổi với tớ không?”

“Ơ, thế cơ à…!”. Anh chàng làm một động tác đầy vẻ yểu điệu trong khi mở chiếc bánh sandwich.

Haven phá lên cười thành tiếng. “Ever, tớ thề đấy… Anh chàng cực kỳ tuyệt vời. Cậu phải tiếp xúc với anh ta thôi.” Cô tiếp tục lắc đầu khi nhận ra tôi không cso ý định tham gia “cuộc vui” này. “Anh ta cứ như là… hừng hực một sức sống mãnh liệt ấy”

“Cậu chưa nói câu nào với anh ta sao?”, Miles kẹp chặt miếng sandwich và nhìn chằm chằm vào tôi.

Tôi thì nhìn chằm chằm vào cái bàn, tự hỏi không biết có nên nói dối không. Haven và Miles là hai người bạn tốt nhất của tôi, là “gia tài” còn lại của tôi trong ngôi trường này. Cảm thấy không thể giữ bí mật được hơn, tôi ấp úng: “Tớ ngồi kế bên anh ta trong lớp tiếng Anh. Bọn tớ buộc phải cùng xem chung một cuốn sách. Nhưng thật tình là tớ không có nhìn kỹ anh ta.”

“Buộc phải?”, Haven vén những sợi tóc lòa xòa trước trán sang một bên, để nhìn rõ cái kẻ kỳ dị vừa mở miệng dám nói buộc phải. “Trời đất, cậu thật là lạ lùng!”. Cô trợn mắt và thở dài “Tớ dám chắc là cậu không biết mình may mắn thế nào đâu. Con gái cả trường này ước ao được như cậu. Vậy mà cậu cũng không biết giá trị của nó nữa?”

“Cậu nói xem chung một cuốn sách. Cuốn sách gì thế?”, Miles hỏi như thể tên sách có ý nghĩa gì đó.

“Đỉnh gió hú”. Tôi đáp ngắn gọn, nhún vai, và để hạt táo vào giữa chiếc khăn giấy, gói lại.

“Còn cái nón của cậu? Lúc nãy cậu có trùm lên hay không?”, Haven vẫn tra vấn.

Tôi nhớ mình đã trùm cái nón ngay sau khi Damen bước đến bên tôi “Có… Ừm… Tớ có trùm lên.”. Tôi gật đầu.

“Ôi, cám ơn vì điều đó!”, Haven làm bầm, bẻ một nửa cái bánh nướng vani nhỏ. “Nếu cậu không trùm nón lên thì chắc tớ phải tiến hành một cuộc chiến đâu với nữ-thần-tóc-vàng”.

Tôi bối rối miết nhẹ ngón tay trên mặt bàn. Hình như khá lâu rồi, tôi không nghe ai gọi mình như thế. Một nữ-thần-tóc-vàng tươi tắn, trẻ trung và đầy cuốn hút. Tôi từng quen với cách gọi đó, nhưng bây giờ thì không còn nữa.

“Ơ, còn Miles thì sao? Cậu không nghĩ cậu ấy cũng là đối tượng cạnh tranh với cậu à?”, tôi hỏi bâng quơ, nỗ lực để làm phân tán sự chú ý của hai đứa bạn vào mình.

“Ê…!”, Miles dùng tay vuốt ngay mái tóc ngắn màu nâu của mình lại và quay sang chúng tôi. “Đừng có loại trừ tớ ra khỏi danh sách cạnh tranh à nghen!”

“Chắc chắn là tớ loại đấy!”, Haven vừa nói vừa phủi mẩu bánh vụn ra khỏi chiếc váy của mình. “Damen và Miles không cùng kiểu với nhau đâu. Điều đó có nghĩa là tất cả vũ khí của Miles sẽ chẳng có tí ti giá trị nào với tớ!”

“Làm sao cậu biết Damen sẽ thích cậu hay thích tớ?”, Miles vặn nắp chai nước khoáng, rồi nhíu mắt. “Làm sao cậu có thể biết chắc được?”

“Damen không cùng nhóm của cậu đâu”, Haven gõ gõ ngón tay lên trán. “Tin tớ đi, cậu mà cứ mộng tưởng thế thì vỡ mộng đấy. Tớ đánh cuộc!”

Damen học chung với tôi tiết đầu tiên môn tiếng Anh và tiết thứ sáu môn Mỹ thuật (tôi biết điều này không phải vì anh ta ngồi gần tôi, không phải tại vì tôi thấy anh ta mà chỉ là vì những suy nghĩ của mọi người cứ bay loanh quanh trong phòng, kể cả suy nghĩ từ cô giáo của chúng tôi, cô Mochado, tất cả đã kể cho tôi nghe những điều tôi cần biết). Rồi bây giờ tôi còn phát hiện là anh ta đỗ xe kế bên tôi nữa chứ. Mặc dù tôi tránh nhìn những thứ khác ngoài đôi giày của anh ta, nhưng tôi biết có một điều gì đó sẽ thay đổi cuộc đời tôi.

“Trời đất ơi! Anh ta kìa! Sát bên chúng ta!”. Miles thét lên một cách sung sướng: “Coi kìa, chiếc BMW màu đen láng cóong. Đẹp lung linh lộng lẫy. Ôi, bây giờ vầy nhé, tó sẽ mở cửa và… và… vô tình va vào xe anh ta, sau đó tớ sẽ xin lỗi và bắt chuyện với anh ta”. Miles lắp bắp, quay sang chờ sự đồng ý của tôi.

“Ừm, nhưng đừng có làm trầy xe tớ hay xe anh ta. Hay bất kỳ xe nào khác!”. Tôi thờ ơ gật đầu, lục lọi tìm chìa khóa.

“Được thôi!” Miles hí hởn. “Ôi trời ơi… Giấc mơ của tôi! Cậu muốn cái gì cũng được hết. Tó chiều theo hết. Miễn là cậu ủng hộ tớ. Nhìn anh ấy một cái đi, rồi cậu sẽ nhận ra ngay rằng anh ấy tuyệt vời đến mức độ nào!”

Tôi trợn mắt, núp mình giữa chiếc xe của tôi và chiếc con bọ VW. Khi tôi chuẩn bị mở cửa xe, Miles kéo mạnh cái nón tôi xuống, giật kính mát của tôi ra và chạy qua bên kia xe, làm những động tác ra sức thúc giục tôi nhìn Damen, bằng cách nghiêng nghiêng đầu và chỉ chỉ trỏ trỏ ngón tay cái. Damen đang đứng ngay phía sau Miles.

Tôi hít một hơi thật sâu, biết mình không thể tránh né chuyện này mãi được. Cũng đến lúc rồi. Tôi ngẩng lên, nhìn thẳng vào anh ta.

Những gì tôi thấy lập tức khiến tôi cứng đờ cả người. Không thể nói. Không thể chớp mắt. Không thể nhúc nhích hay ấp úng thốt nên dù một câu vô nghĩa nào.

Mặc cho Miles vẫy tay rối rít với tôi, nhìn trừng trừng vào tôi, ra hiệu cho tôi thôi đừng nhìn nữa, nhưng tôi không thể!

Trước mắt tôi, chính là Damen.

Khuôn mặt quyến rũ. Mái tóc đen mượt vừa chấm vai, gợn xoăn nhẹ đầy vẻ lãng tử. Khi anh ta thong thả nhấc chiếc kính mát sẫm màu ra để nhìn thẳng vào tôi, tôi chết điếng khi nhận ra rằng đôi mắt sâu, đầy nam tính và mạnh mẽ ấy trông thân quen một cách lạ lùng. Chân mày rậm. Hàng lông mi hoàn hảo. Và môi của anh ta nữa! Đôi môi đầy vẻ mời gọi, như vòng cánh cung của thần tình ái. Đi “kèm” với khuôn mặt ấy là một thân hình cao ráo, vạm vỡ, không có chút mỡ thừa. Tất cả đều đầy vẻ gợi cảm trong bộ trang phục màu đen sang trọng và bí ẩn, từ đầu đến chân.

“Trời đất, Ever… Ever… Nghe tớ nói không? Làm ơn tỉnh lại đi!”

Tôi nghe thấy suy nghĩ đó của Miles. Anh chàng lúc này đang quay sang Damen cười bối rối. “Xin lỗi về người bạn của tớ, cô ấy lúc nào cũng đội mũ trùm đầu.”

Đương nhiên là tôi biết mình phải dừng lại. Tôi cần dừng lại ngay bây giờ. Nhưng cặp mắt của Damen như dán chặt vào mắt tôi. Nó có sức thôi miên!

Thật ra, không phải vẻ đẹp trai sang trọng của anh làm cho tôi sững sờ. Hoàn toàn không phải như vậy! Nó là một điều gì đó khác. Là bởi vì trọn vẹn thân hình ấy, bắt đầu từ đỉnh đầu xuống cho đến tận đôi giày mô tô màu đen hợp mốt, tất cả đều hoàn-toàn-vô-sắc xung quanh.

Không màu sắc.

Không ánh sáng tỏa ra.

Tất cả mọi người đều có thứ ánh sáng rất đặc biệt tỏa ra xung quanh. Bất cứ sinh vật sống nào cũng có một vầng hào quang nhiều màu sắc khác nhau bao quanh thân thể họ.

Một trường năng lượng cầu vồng mà mắt thường không nhìn thấy được và chính người đó không cảm nhận được. Nó chẳng có gì là nguy hiểm hay đáng sợ hãi. Nhưng nó tồn tại như thế, và là một phần hiện hữu của con người.

Trước khi gặp tai nạn, tôi chưa từng bao giờ biết về điều này. Tôi như tất cả mọi người bình thường, chẳng bao giờ thấy được nó.

Nhưng kể từ khi tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi thấy vầng hào quang màu sắc đó hiện hữu ở khắp mọi nơi, bao quanh mọi con người.

Tôi nhớ, một nữ y tá tóc đỏ đã cúi xuống hỏi tôi một cách đầy lo lắng lúc tôi ở trong bệnh viện: “Em có ổn không?”

“Ổn ạ! Nhưng… Sao toàn người cô có màu hồng vậy?” Tôi bối rối khi nhìn thấy vầng hào quang mang sắc hồng bao quanh người cô.

“Tại sao… cái gì?”, Cô y tá giấu vẻ lo sợ.

“Màu hồng ạ. Cô biết không, có một vầng sáng màu hồng ở xung quanh cô, đặc biệt quanh đầu cô, thật đó…”

“Không sao, cô bé ạ. Có lẽ là em còn mệt… Em cứ nằm nghỉ đi. Tôi sẽ đi gọi bác sĩ!” Cô ấy nói rồi ra khỏi phòng và đi gần như chạy xuống phía cuối hành lang.

Tôi cứ tưởng đó chỉ là ảo giác ban đầu. Nhưng rồi, cái khả năng nhìn thấy vầng hào quang bao quanh mỗi con người vẫn tiếp tục tồn tại trong tôi, kể cả khi tôi được đưa đi kiểm tra mắt, scan não và đánh giá tâm lý. Sau đó, tôi bắt đầu nghe được những suy nghĩ, biết được cuộc sống trong quá khứ của mỗi người bằng cách chạm vào họ, và tôi có thêm niềm hành phúc riêng với những cuộc viếng thăm thường xuyên của đứa em gái đã chết tỏng tai nạn: Riley.

Tôi đã quên với cuộc sống như vậy. Tôi đã quen với một thế giới như thế, cho đến khi tôi nhìn thấy Damen. Damen không hề có bất kỳ vầng hào quang hay đường viền màu sắc nào xung quanh anh như những người khác có! Chỉ là bộ trang phục đen bóng, sang trọng đi kèm với chiếc xe hơi đắt tiền làm tôi mơ hồ nhớ lại những ngày xưa thanh bình và hạnh phúc của chính mình.

“Ever, phải không?”, Damen hỏi. Gương mặt anh trở nên ấm áp hơn với một nụ cười tỏa rạng, để lộ thêm một nét hoàn hảo khác. Hàm răng trắng sáng, đều tăm tắp.

Tôi vẫn đứng sững đó, cố quyết tâm rời mắt khỏi anh thì thật may, Miles tằng hắng giọng. Biết cậu ấy rất ghét bị “bỏ quên”, nên tôi vội vàng bước tới mấy bước và nhanh nhẹn giới thiệu: “Ồ, xin lỗi! Miles, đây là Damen. Damen, đây là Miles!”

Tôi nói như cái máy. Và trong suốt thời gian đó, mắt tôi vẫn không một lần chớp.

Damen liếc nhìn Miles, gật nhẹ đầu chào lịch sự rồi quay trở lại chú ý vào tôi. Tôi biết, nghe có vẻ thật điên rồi, nhưng trỏng khoảnh khắc anh ấy quay đi chỗ khác, tôi cảm thấy mình bỗng nhiên yếu đuối lạ lùng.

Song chỉ cần đến lúc anh quay lại nhìn, tất cả mọi thứ lại đều tở nên ấm áp và sáng bứng lên. “Có thể vui lòng giúp tôi không?”, anh cười. “Có thể cho tôi mượn cuốn Đỉnh Gió Hú? Tôi muốn đọc trước để theo kịp bài, vì tối nay chắc tôi không có thời gian đến tiệm sách.” 

Tôi thò tay vào ba lô, tìm lấy cuốn sách đã có nhiều nếp quăn ở góc, và đắn đo giữ nó một lúc lâu trong tay mình. Một phần trong tôi khao khát được chạm những ngón tay vào anh ấy, được có một cử chỉ tiếp xúc với anh chàng bí ẩn và đẹp trai này. Nhưng một phần khác, một điều gì đó mạnh hơn, thì như ngăn cản, như e dè – như sợ cái cảm giác thấu đến tâm can mỗi người khi tôi chạm tay vào họ.

Anh ta thoáng một nụ cười, đặt cuốn sách vào trong xe, kéo kính mát xuống che kín đôi mắt, và nhẹ nhàng: “Cảm ơn, Ever! Hẹn gặp lại ngày mai!”

Trước khi tôi kịp trả lời, Damen đã ngồi xuống sau vô lăng và lái đi.

“Xin lỗi”, Miles lắc đầu khi leo lên xe ngồi cạnh tôi. “Nếu tớ nói cậu như bị thôi miên khi gặp anh ta, thì đó khong phải là lời nói quá. Chuyện gì xảy ra vậy, Ever? Nét mặt, cử chỉ của cậu đầy vẻ lúng túng, căng thẳng, cứ như thể cậu nói thẳng vào mặt anh ấy: Xin chào, tên tôi là Ever, tôi sẽ là người kết tiếp đeo đuổi anh đến cùng. Tớ nói nghiêm túc đấy, tớ nghĩ bọn tớ phải giúp cho cậu tỉnh lại. Và tin tớ đi, cậu là cực kỳ may mắn vì Haven không có ở đây để chứng kiến. Tớ không muốn nhắc lại, nhưng rõ là Haven cũng đã tuyên bố xí phần theo đuổi anh ấy rồi đấy nhé!”

Miles cứ càu nhàu như thế trên suốt đoạn đường về nhà. Nhưng tôi cứ mặc kệ cho Miles nói. Trong lúc lái xe, ngón tay tôi vô tình chạm vào vết sẹo dày màu đỏ trên trán -  vết sẹo được giấu kín sau mái tóc.

Kể từ sau tai nạn khủng khiếp đó, chỉ duy nhất khi tiếp xúc với những người chết, tôi mới không nghe được ý nghĩ của họ, không biết được cuộc sống của họ, và không thấy được hào quang xung quanh họ. Vậy thì, rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra?

CHƯƠNG 3

Tôi đi vào nhà, lấy một chai nước trong tủ lanh, rồi đi thẳng lên phòng mình ở trên lầu. Không cần lên tiếng gọi hay chạy đi tìm, tôi cũng biết lúc này cô Sabine vẫn còn đang làm việc.

Cô Sabine lúc nào cũng làm việc.

Điều đó nghĩa là tôi chỉ có một mình trong căn nhà to đùng, rộng lớn này. Và cũng vì thế nên hầu như lúc nào cũng vậy, tôi chỉ ở trong phòng riêng của mình.

Tôi cảm thấy buồn cho cô Sabine.

Tôi cảm thấy buồn, vì cuộc sống mà cô phải làm việc cật lực để tạo dựng đã mãi mãi thay đổi kể từ khi cô “kẹt cứng” với tôi.

Ông bà nôi ngoại của tôi đều mất sớm khi mẹ tôi mới lên hai. Cô là em song sinh của bố - người thân duy nhất còn lại của tôi. Vì vậy, có vẻ như cô chẳng có nhiều chọn lựa. Sau tai nạn, chỉ có cách duy nhất là cô nhận nuôi tôi, nếu không muốn cho tôi vào trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi đến khi tôi mười tám tuổi.

Mặc dù chẳng biết tí gì về việc nuôi dạy một đứa trẻ trước đó, nhưng trước khi tôi được ra viện, cô đã kịp bán căn chung cư để mua cái nhà to đùng này và thuê người trang trí lại căn phòng cảu tôi theo cách cô cho là phù hợp với tôi nhất.

Tôi có tất cả mọi thứ trong phòng: Giường ngủ, tủ quần áo, bàn học. Có cả ti vi màn hình phẳng, một bể tắm nhỏ tuyệt đẹp với buồng tắm vòi sen kế bên. Một hành lang có tầm nhìn hướng ra biển. Rồi thì phòng chơi game riêng với một tivi màn hình phẳng nữa. Một quầy bar nhỏ để thức uống, lò viva, tủ lạnh mini, máy rửa chén, dàn âm thanh stereo, sofa, bàn, ghế ngồi có đệm, và cả những bức tranh.

Thật buồn cười vì trước đây tôi chưa bao giờ có được một căn phòng riêng như thế. Nhưng bây giờ, tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả để được trở về với những gì mình từng có!

Tôi đoán, vì cô Sabine suốt ngày phải dành thời gain cho công ty, cho những nhân vật quan trọng nên cô nghĩ rằng những đồ vật như vậy là cần thiết và có thể làm tôi hạnh phúc – dẫu chỉ là đôi chút. Tôi cũng chưa bao giờ chắc rằng liệu việc cô không có con là bởi vì cô làm việc suốt ngày nên không rảnh lên kế hoạch; vì cô chưa gặp được người vừa ý; vì cô không muốn yêu ai; hay vì cả ba lý do trên.

Là một người có năng lực siêu linh, thế nhưng trường hợp của cô Sabine giống như một “ca” khó với tôi, Hầu hết những điều tôi thấy được về cô chỉ là những sự kiện. Mọi thứ giống như một chuỗi những hình ảnh, xếp nối tiếp nhau. Và đôi khi, những gì tôi thấy được chỉ là những biểu tượng mà tôi chưa thể giải mã hết.

Thỉnh thoảng, với những người khác, mặc dù tôi thấy được những sự kiện liên quan đến họ hết sức rõ ràng, nhưng có những lúc tôi vẫn đoán sai. Tự bản thân hình ảnh thì lúc nào cũng chân thật. Nhưng để xác định được hình ảnh thấy được đó nghĩa là gì thì không phải lúc nào tôi cũng làm chính xác.

Nhưng chắc hẳn là dù không có thứ năng lực siêu linh này, tôi vẫn có thể dễ dàng biết được một người phụ nữ như cô Sabine khao khát có một đứa con đến thế nào khi mà những gì cô nghĩ đến thường xuyên là những con búp bê nhỏ xinh xắn, chứ không phải là một thiếu nữ cao một mét sáu, mắt xanh, tóc vàng hoe với một tấn cảm xúc chứa trong người như tôi. Vì điều đó mà tôi luôn cố gắng giữ im lặng, cố gắng tôn trọng, và cố gắng không làm vướng bận cô Sabine.

Tôi nói chuyện với đứa em gái đã qua đời trong tai nạn hầu như mỗi ngày. Lần đầu tiên Riley xuất hiện, con bé đứng phía cuối giường của tôi trong bệnh viện vào khoảng nửa đêm, một tay cầm bó hoa, tay kia vẫy vẫy. Tôi ngỡ ngàng trong cảm giác thực và ảo. Con bé chẳng nói chẳng rằng, thậm chí chẳng tạo ra một tiếng động dù nhỏ nhất. Tôi đoán đó chỉ là ảo giác của mình, hay chẳng qua đó có thể là một thứ gì đó mờ mờ trong không khí. Tôi còn tưởng mình bị ảo giác vì phản ứng phụ của thứ thuốc giảm đau mà tôi mới uống. Nhưng sau khi chớp mắt liên hồi, chà nhiều lần vào mắt mình, tôi nhận ra con bé vẫn ở đó, rõ mồn một. Tôi đoán, nó tin tưởng rằng tôi sẽ không sợ hãi kêu la hay gọi người đến giúp.

Quả là tôi im lặng thật. Không sợ hãi. Không kêu là hay gọi người đến giúp.

Tôi nhìn con bé khi đứa em thân yêu đến bên cạnh giường tôi, chỉ tay và cánh tay và cái chân đang bó bột của tôi, rồi cười. Nó cười không thành tiếng. Chỉ là một động tác trên mặt giống như nụ cười “ảo” vậy. Nhưng ngay khi thấy tôi có vẻ giận thì con bé liền thay đổi nét mặt, không đùa nghịch, không cười chọc quê nữa mà như muốn hỏi có đau không chị.

Tôi nhún vai, vẫn còn một chút giận giận kiểu trẻ con vì nụ cười của em mình ban nãy. Rồi mặc dù không hoàn toàn tin con bé có thật, nhưng điều đó cũng không thể ngăn tôi hỏi: “Bố mẹ và con Buttercup đâu rồi?”

Con bé làm động tác nghiêng đầu sang một bên, như thể họ đang đứng ngay đằng sau nó. Nhưng tất cả những gì tôi có thể thấy là khoảng không trống rỗng.

“Chị không thấy!”.

Tôi thở dài hơi tuyệt vọng. Nhưng con bé chỉ mỉm cười, áp hai bàn tay lại, nghiêng đầu sang một bên như kiểu các em bé vẫn làm để khuyên tôi ngủ lại đi.

Tôi ngoan ngoãn nhắm mắt như thể nghe theo lời khuyên của con bé. Nhưng ngay sau đó, tôi lập tức mở mắt ra và hỏi: “Ê, ai cho em mượn cái áo lạnh của chị?”.

Chỉ có thế thôi. Rồi con bé biến mất.

Tôi thừa nhận, tối hôm đó tôi đã rất giận chính mình vì câu hỏi ngu ngốc, hời hợt và ích kỷ mà tôi đã thốt ra. Đáng lẽ lúc đó tôi phải hỏi về những điều quan trọng nhất liên quan đến cuộc sống con người. Ví dụ nư có thật sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại như thế không? Bố mẹ như thế nào? Em tôi như thế nào? Vậy mà tôi đã phí thời gian căn vặn em mình về những điều vớ vẩn như kiểu sao em lấy cái áo lạnh của chị mà không hỏi. Tôi đoán, có lẽ đó là một thói quen lâu đời rât khó bỏ của con người.

Lần thứ hai con bé xuất hiện, tôi rất đỗi vui mừng. Tôi không còn đề cập đến chuyện sao em mặc chiếc áo lạnh yêu thích nhất của tôi, sao em mặc chiếc quần jeans đẹp nhất của tôi (chiếc quần vẫn dài thượt qua khỏi mắt cá chân của con bé), hay sao em giành đeo cái vòng tay sinh đẹp mà tôi được tặng nhân dịp sinh nhật lần thứ mười ba – cái vòn tôi biết em rât thích.

Tôi chỉ mỉm cười, gật đầu, ra vẻ như không nhận ra đó là những đồ vật của mình. Tôi nghiêng người về phía em và hỏi: “Bố mẹ đâu?”, lòng thầm tin họ sẽ xuất hiện nếu tôi chịu nhìn thật kỹ.

Nhưng Riley chỉ cười và vẫy hai tay hai bên

“Ý em… bố mẹ là thiên thần hả?”, mắt tôi mở to vẻ ngạc nhiên.

Con bé lập tức trộn tròn mắt và lắc đầu, ôm bụng cười dù không hề phát ra bất kỳ âm thanh nào.

“Thôi được rồi, sao cũng được!”. Tôi nằm trở lại vào giường. “Vậy cho chị biết ở bên đó ra làm sao?”. Tôi hỏi một cách nhẹ nhàng. “Em… Em có thích… À, có thích cuộc sống ở thiên đường không?”

Con bé nhắm mắt, giơ hai tay lên cao như thể cố giữ thăng bằng vật gì, và ngay sau đấy một bức tranh xuất hiện.

Tôi chồm người tới trước, nhìn chằm chằm vào bức tranh. Chắc chắn đây là cảnh thiên đường được vẽ nên sau cái khung ảnh bằng vàng, chạm trổ tinh vi. Đại dương xanh thẳm, những vách đá hùng vĩ nhô ra biển, bãi cát vàng, cây cỏ đầy hoa, và bóng mờ của một hòn đảo xa xa.

“Vậy sao em không ở đó?”, tôi hỏi.

Con bé khẽ nhún vai. Ngay sau cái nhún vai, bức tranh biến mất. Em tôi cũng biến mất.

Tôi ở lại trong bệnh viện hơn một tháng, chịu đau đớn vì bị gãy xương, chấn động, chảy máu bên trong, trầy và thâm tím khắp cơ thể. Cộng với một vết thương khá sâu trước trán. Trong suốt thời gian tôi đang điều trị tại bệnh viện, thì cô Sabine phải một mình lo việc dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp đám tang, và chuẩn bị đồ đạc của tôi để chuyển về nhà mới.

Cô dặn tôi lên danh sách những món đồ mà tôi muốn mang theo. Nhưng ngoài những bộ quần áo, thì tôi không muốn mang theo gì cả. Tôi không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy những thứ có thể khơi gợi, nhắc nhở tôi nhớ lại những điều thiêng liêng mà tôi đã mất đi. Những thứ đồ vật vô tri vô giác ấy chỉ làm tôi đau đớn, chứ không thể trả lại cho tôi gia đình của tôi được.

Trong suốt thời gian nhốt mình trong căn phòng lạnh lẽo màu trắng, tôi được một bác sĩ tâm lý đến thăm đều đặn. Đấy là một bác sĩ tâm lý hay mặc cai áo len màu be và lúc nào cũng kè kè bìa kẹp hồ sơ. Ông luôn bắt đầu câu chuyện bằng những câu hỏi không đâu vào đâu, hướng dẫn cho tôi làm cách nào để đối phó với “những mất mát sâu sắc”. dù thực tế là những cách ấy chỉ phù hợp với ông chứ không phải với tôi. Sau đó, ông cố thuyết phục tôi đến phòng 618 – nơi tư vấn cho những nỗi niềm đau đớn như tôi.

Nhưng tôi không tham gia vào cuộc tư vấn đó.

Tôi không thể ngồi cùng với những người đâu khổ khác để chờ đến lượt mình chia sẻ câu chuyện về một ngày tồi tệ nhất đời tôi.

Như thế thì giải quyết được cái gì? Làm sao tôi có thể cảm thấy tốt hơn sau khi kể những câu chuyện đó cho một người xa lạ được?

Cô Sabine và tôi chẳng nói chuyện với nhau nhiều trên chuyến bay từ Eugene đến sân bay John Wayne. Tôi giả vờ như đó là vì những vết thương trên cả thể xác lẫn tâm hồn của mình còn quá nặng nề. Nhưng thật ra, đơn giản chỉ là tôi cần một khoảng không tĩnh lặng. Tôi biết tất cả nhưng cảm xúc đối lập bên trong cô. Một bên, cô thật sự mong muốn làm một việc tốt cho tôi, nhưng một bên khác cô lại luôn suy nghĩ: Sao lại là mình - phải đứng ra giải quyết hết tất cả những chuyện này?

Tôi biết điều đó. Nhưng tôi hoàn toàn không muốn làm tổn thương cô. Sau tất cả những rắc rối, những bấn loạn mà cô vừa trải qua, sau tất cả những nỗ lực và hi sinh của cô để có thể đón tôi về một căn nhà đẹp, tôi không thể làm một hành động ngốc nghếch để cho cô biết rằng tất cả những việc vất vả mà cô đã làm với mục đích tốt đẹp lại hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi!

Con đường vào nhà mới lờ mờ trong ánh mặt trời, biển và cát.

Khi cô Sabine mở cửa, dẫn tôi lên lầu đến phòng tôi, tôi nhanh chóng liếc nhìn cô một cái rồi thì thào một câu gần như cảm ơn.

“Cô xin lỗi, cô chưa kịp dọn dẹp hết mọi thứ. Chắc con phải tự dọn dẹp phòng này!”, cô nói như thể cho có chuyện để nói, rồi quay gót trở lại căn phòng làm việc ngăn nắp của mình.

Khép cánh cửa lại, khi chỉ còn một mình trong phòng, tôi quăng mình lên giường, úp mặt vào hai cánh tay, thờ thẫn.

Cho đến khi tôi nghe tiếng một ai đó vang lên: “Ôi trời ơi, chỗ này mới đẹp làm sao! Chị ngắm nó chưa? Màn hình phẳng, lò sưởi, bồn tắm…”. Con bé liến thoắng.

“Chị tưởng em không thể nói được?”, tôi xoay mình lại, nhìn chằm chằm vào em gái tôi. Con bé đang mặc bộ quần áo thể thao màu hồng, hàng hiệu hẳn hoi. Giày Nike màu vàng. Và mái tóc nhuộm màu sáng.

“Dĩ nhiên là em có thể nói chứ! Chị đừng hung tợn với em thế!”. Con bé tròn xoe mắt, vẫn kiểu hay “gây sự” của chị em gái với nhau.

“Nhưng sao mấy lần trước đây…”, tôi ấp úng không hết câu.

“Em chỉ đùa thôi!”. Con bé đi xung quanh phòng tôi, lướt tay trên chiếc bàn, lướt tay trên chiếc laptop mới cáu cạnh và chiếc iPod mà cô Sabine đã để sẵn ở đó.

“Em không thể tin được chị lại có cả một căn phòng như thế này. Thật là không công bằng!”. Con bé chống nạnh, nét mặt hơi cau có. “Vậy mà chị còn không biết giá trị của nó, cứ nằm thừ ra như thể mình là người đau khổ nhất trần gian ấy. Chị có thấy khung cảnh ngoài ban công chưa? Trời ơi, ở đây có cả một không gian tuyệt vời xung quanh!”

“Chị chẳng quan tâm đến khung cảnh”, tôi khoanh tay trước ngực. “Và chị không thể tin là em đối xử với chị như thế, giả vờ không nói được hết lần này đến lần khác…!”

Con bé nháy mắt, khẽ cười: “Rồi chị sẽ bỏ qua thôi.”

Tôi nhìn theo bóng con bé sải bước đi ngang qua phòng tôi, kéo rèm sang một bên và cố mở cánh cửa.

“Ở đâu em có những thứ trang phục, quần áo này vậy?”, tôi chăm chú nhìn em gái mình từ đầu đến ngón chân, nhanh chóng trở lại với thói quen thường ngày – hay cãi vặt và hay ganh tức lẫn nhau.

“Lần trước em mặc áo quần của chị. Còn lần này thì áo quần của ai nữa đây? Chị biết chắc mẹ không bao giờ mua cho em những thứ như thế này!”

Con bé cười.

“Thôi đi bà chị ơi, làm như em cần mẹ cho phép mới được đến phòng để quần áo và chọn những thứ mà em muốn vậy. Miễn phí mà!”, con bé lại nháy mắt, cười cười.

“Thật hả?”, mắt tôi mở to hơn, ngơ ngác.

Nhưng thay vì xác định lại câu vừa nói, con bé chỉ lắc đầu và vẫy tay gọi tôi. “Đi xem cảnh đẹp ở ngoài kia đi!”

Tôi ra khỏi giường, lấy tay áo dụi mắt và đi thẳng ra ban công. Theo sau là em tôi. Khi tôi bước chân lên nền gạch đá, mắt tôi mở to nhìn khung cảnh xung quanh mình.

“Cái gì nữa đây?”, tôi nhìn chằm chằm vào cảnh tượng xung quanh mình. Đó chính xác là những gì như trong bức tranh vẽ thiên đường mà em tôi đã cho tôi xem lúc ở bệnh viện.

Nhưng khi tôi quay sang tìm con bé thì nó đã biến đi mất.

CHƯƠNG 4

RILEY LÀ NGƯỜI GIÚP TÔI phục hồi lại trí nhớ của mình. Con bé nhắc tôi nhớ lại những chuyện thời thơ ấu, những khoảnh khắc mà chúng tôi đã từng sống với nhau, và những bạn bè mà chúng tôi từng có. Nó cũng giúp tôi yêu mến, nâng niu hơn cuộc sống mới của mình ở miền nam California này. Việc Riley tỏ ra rất thích thú căn phòng xinh đẹp của tôi, chiếc xe mới màu đỏ bóng lộn của tôi, những bãi biển của tôi và ngôi trường mới của tôi làm cho tôi nhận ra rằng mặc dù đó không phải là cuộc sống tôi thích, nhưng những điều này vẫn có giá trị của nó.

Chúng tôi vẫn tranh cãi với nhau đủ thứ chuyện vặt vãnh, nhiều như trước đây, nhưng thật sự là tôi tồn tại chính nhờ những lần viếng thăm của đứa em gái của mình. Vì có thể gặp lại được con bé nên tôi bớt đi một người để nhớ. Quãng thời gian chúng tôi được ở với nhau là quãng thời gian vui vẻ nhất trong ngày.

Chỉ có một vấn đề là nó không bao giờ chịu nhượng bộ để nói cho tôi biết những điều mà tôi nung nấu trong lòng. Mỗi khi tôi hỏi: “Khi nào thì chị có thể gặp bố mẹ và con Buttercup? Em đi đâu khi không ở đây?”, nó liền phạt tôi bằng cách không cho tôi gặp mặt.

Sự từ chối chia sẻ của Riley làm tôi cảm thấy khó chịu nhưng tôi biết dẫu sao thì có nó bên cạnh vẫn hơn. Tôi thay đổi nhiều so với trước đây. Không chỉ là việc nhìn thấy những vầng hào quang mắt thường không thấy được, không chỉ là việc đọc được suy nghĩ của người khác, mà còn là những thay đổi rất lớn như cách ăn mặc ngày thường.

“Chị không bao giờ muốn bạn trai mình ăn mặc như thế!”, Riley vừa lẩm bẩm vừa đi thơ thẩn trên giường tôi trong khi tôi đang cuống cuồng làm những việc thường nhật vào buổi sáng, chuẩn bị để ra khỏi nhà và đến trường đúng giờ.

“Vâng, không ai trong chúng ta có thể nhắm mắt và hô biến, rồi có ngay tủ quần áo mới”, tôi nói, xỏ chân vô đôi giày tennis đã mòn và buộc sợi dây giày sờn cũ.

“Này… Cô Sabine đâu có tự nhiên đưa cho chị cái thẻ tín dụng của cô ấy! Và cái mũ trùm đầu nữa. Chị thuộc nhóm găng-xtơ à?”

“Chị không có thời giờ để tranh cãi chuyện này”, tôi với tay chụp lấy mấy quyển sách, iPod và cái ba lô, rồi đi thẳng ra cửa. “Em đi cùng không?”, tôi quay sang nhìn con bé, sự kiên nhẫn mỏng dần đi khi cứ phải nhìn nó mím môi suy nghĩ.

“Được thôi”, cuối cùng Riley cũng chịu lên tiếng. “Nhưng chỉ khi chị để mui trần. Em thích cảm giác gió thổi vào tóc.”

“Ừ”, tôi đi đến cầu thang. “Chỉ cần em bảo đảm rằng em sẽ đi khi chúng ta đến chỗ của Miles. Chị không thích cái trò em ngồi trên xe, trong lòng của cậu ta, chọc ghẹo đủ điều mà cậu ta thì không thể thấy đâu nhé!”

Khi Miles và tôi đến trường thì Haven cũng đang chờ ở cổng. Chỉ nhìn mặt thôi, cũng biết Haven đang sốt ruột đến độ nào. “Còn chừng năm phút nữa chuông sẽ reo mà chẳng thấy bóng dáng của Damen đâu. Các cậu có nghĩ anh ấy bỏ học không?”. Cô bạn nhìn chúng tôi, đôi mắt vàng mở to đầy vẻ hoang mang.

“Sao anh ta có thể bỏ học chứ? Anh ta mới bắt đầu mà”. Tôi nói, đi thẳng đến ngăn tủ đựng vật dụng cá nhân của mình trong khi cô bạn vẫn vừa đi vừa nhảy nhót bên cạnh. Đế giày cao su nện xuống mặt đường.

“Ừm, anh ta nghỉ học bởi vì… Bởi vì chúng ta chẳng có giá trị gì? Bởi anh ấy quá tuyệt vời đến mức không có thật?”

“Nhưng anh ta phải quay lại chứ. Damen mượn của Ever cuốn Đỉnh Gió Hú mà, anh ta phải trả lại chứ!”. Miles nói trước khi tôi kịp ngăn cậu bạn mình.

Tôi nhăn mặt, lắc đầu và vặn mở ổ khóa tủ, cảm nhận được cái nhìn trừng trừng giận dữ của Haven ngay phía sau lưng.

“Chuyện đó xảy ra hồi nào vậy?”. Cô bạn chống nạnh nhìn tôi chằm chằm. “Tớ cũng là một phần trong nhóm của chúng ta, đúng không? Vậy tại sao tớ không được cập nhật thông tin? Tại sao không ai nói với tớ điều đó? Lần cuối cùng tớ nghe cậu nói thì cậu còn khẳng định chưa từng nhìn anh ta lấy một lần.”

“Ô, thôi nào… Ever gặp anh ấy rồi. Tớ hầu như phải gọi cấp cứu đấy! Trông cậu ấy cứ như bị thôi miên”, Miles cười.

Tôi nhíu mày, lắc đầu, đóng ngăn tủ cái rầm và đi thẳng xuống hội trường.

“Đó là sự thật mà!”. Cậu bạn nhún vai.

“Hãy để tớ đi thẳng vào vấn đề. Cậu có vẻ như không xem bọn tớ ra gì… Thích làm bất cứ điều gì cậu thích… Và thích trở thành một trở ngại cho chính tớ?”, Haven săm soi tôi bằng cặp mắt nhíu lại, giống như hai lằn gạch đậm trên gương mặt. Lòng ghen tị của cô nổi lên cũng khiến vầng hào quang quanh cô đổi sang màu xanh lá nhợt nhạt và tối sầm.

Tôi hít một hơi thật dài rồi nhìn họ, trong đầu nghĩ thầm, nếu họ không phải là bạn tôi, tôi sẽ nói cho họ biết chuyện này buồn cười ra sao. Chẳng lẽ Damen là người có thể để cho những người khác tuyên bố đồng-sở-hữu? Nhưng tôi không thốt ra thêm tiếng nào. Tôi chỉ nói khẽ khàng “Vâng, tớ là người gây khó khăn. Tớ là thảm họa to lớn chực chờ xảy ra mà không hề báo trước được. Nhưng tớ nhất định không phải là mối đe dọa của cậu. Chủ yếu bới vì tớ không quan tâm. Tớ biết điều đó thật khó có thể tin được. Anh ta quá đẹp trai, quyến rũ, nóng bỏng, nhưng sự thật là tớ không thích Damen Auguste, và tớ không biết làm thế nào để nói ra điều đó.”  

“Ừm, tó không nghĩ cậu cần nói điều gì nữa!”. Haven lầm bầm. Gương mặt như đóng băng khi nhìn chằm chằm thẳng về phía trước.

Tôi nhìn theo cô ta. Phía đó, nơi ánh mắt Haven hướng tới, chính là Damen. Tóc đen bóng mượt, cặp mắt cháy bỏng, thể hình tuyệt vời. Nụ cười đầy vẻ thấu cảm. Tôi thấy tim mình đập loạn nhịp khi anh giữ cánh cửa mở và lịch sự nói khẽ: “Chào Ever! Vào trước đi!”

Tôi lao về phía bàn của mình, cẩn thận tránh cái ba lô mà Stacia đặt giữa đường, mặt đỏ bừng lên bối rối khi biết rằng Damen đi ngay phía sau lưng tôi và anh ta có thể đã nghe thấy tất cả những lời khủng khiếp mà tôi vừa nói.

Tôi quăng cái ba lô xuống sàn, ngồi vào chỗ của mình, lật cái mũ trùm đầu ra, đeo tai nghe vào và mở cái iPod thật lớn với hi vọng những thanh âm ồn ã này sẽ làm phải nhạt đi những chuyện vừa mới xảy ra. Hy vọng thế. Một chàng trai cuốn hút, hoàn hảo, tự tin và tuyệt vời như thế này chắc chắn không thể bị quấy rầy bởi những câu nói kinh khủng từ một cô gái như tôi.

Nhưng ngay khi tôi vừa mới bắt đầu thư giãn, vừa mới thuyết phục mình đừng có bận tâm quá nhiều đến chuyện xảy ra, thì tôi giật nảy người lên bởi một cảm gaics như có dòng điện truyền thẳng vào người, làm nghẽn tĩnh mạch và làm toàn thân tôi chới với.

Đó là vì Damen nhẹ nhàng đặt tay anh ta lên bàn tay tôi.

Thật kỳ lạ. Kỳ lạ không giải thích nổi! Kể từ khi tôi có năng lực siêu linh, không ai làm được như thế với tôi, trừ đứa em gái Riley – người lúc nào cũng tìm ra cách mới để cố tình chọc phá tôi cho bằng được.

Mọi cử chỉ “va chạm” với người khác đều giúp tôi cảm nhận được suy nghĩ của họ, thấy được điều họ nghĩ. Chỉ duy nhất động tác của Damen khiến tôi như bị điện giật song lại hoàn toàn trống rỗng, không cảm nhận được gì như thế này.

Khi tôi liếc nhìn bàn tay mình và gương mặt Damen, anh chỉ cười, nói khẽ: “Cám ơn Ever về cuốn sách!”. Rồi anh đưa lại cho tôi cuốn Đỉnh Gió Hú.

Thật kỳ lạ. Tôi có cảm giác như lúc anh ta nói, cả căn phòng này thốt nhiên đều im bặt. Không một thanh âm. Không một suy nghĩ vang lên như tôi luôn nghe được. Không gì cả. Cứ như một cái gì đó, rỗng không.

Tôi lắc đầu, lúng búng trong miệng những câu chữ lắp bắp: “Anh có thể giữ nó mà! Tôi đọc rồi… Tôi biết câu chuyện kết thúc ra sao rồi!”

Nhưng Damen đã lấy bàn tay ra khỏi tay tôi.

Tức thì, cảm giác như điện giật cũng không còn.

“Tôi cũng đã biết cái kết của nó rồi!”, anh ta nói, nhìn chằm chằm tôi với một ánh nhìn mãnh liệt khó tả nhưng đầy vẻ thân thiện. Tôi vội vàng nhìn ngay sang chỗ khác.

Khi tôi gắn tai nghe vào để không phải nghe những lời bình luận xì xào không tốt của Stacia và Honor thì Damen đặt tay anh ta lên tay tôi trở lại và hỏi khẽ: “Ever, bản nhạc gì đấy?”

Trong tích tắc, cả căn phòng lại chìm trong im lặng.

Trong tích tắc, tôi tuyệt đối không còn nghe thấy có suy nghĩ nào bay vòng vèo. Không có tiếng xì xào. Không có gì cả ngoại trừ chất giọng âm ấm, đê mê của anh ta.

Rõ ràng đó không phải là cảm giác hay ảo tưởng. Tôi biết đó là sự thật. Mặc dù xung quanh tôi, mọi người vẫn đang nói chuyện, đang suy nghĩ, đang làm đủ thứ như thường lệ nhưng âm thanh của anh đủ sức mạnh ngăn cản tất cả.

Tôi nghiêng người, cảm nhận toàn thân tôi trở nên ấm và như có dòng điện đang chạy xuyên suốt, tự hỏi không biết điều gì có thể tạo ra cảm giác như vậy. Tôi chư bao giờ trải nghiệm cảm giác như thế này.

“Ever đang nghe gì vậy?”. Anh ta cười. Một nụ cười thân thiện dành riêng cho tôi, tôi cảm thấy máu dồng lên mặt làm đỏ bừng hai má và cả hai vành tai.

“Ừm… Chỉ là những bản hòa âm do cô bạn Haven của tôi làm. Cũ lắm rồi, đâu những năm tám mươi, như Cure, Siouxsie và Banshess, Bauhaus”. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta, cố xác định chính xác màu mắt.

“Ever nghe dòng nhạc đó thật à?”. Anh ta hỏi, chân mày nhíu lại đầy vẻ hoài nghi. Ánh mắt lướt qua tôi từ đầu đến chân, như để “kiểm định” rằng mái tóc vàng buộc kiểu đuôi ngựa, cái áo khoác màu xám đậm, không chút phấn son lòe loẹt, không vết xăm hay nét vẽ nào này lại có thể phù hợp với dòng nhạc ấy.

“Không hẳn vậy. Haven mới chính hiệu là fan của dòng nhạc đó”. Tôi cười, nhưng giọng cười đầy vẻ căng thẳng. Cảm giác như tiếng cười vang vọng vào bốn bức tường rồi quay trở lại với tôi.

“Thế Ever thì thích dòng nhạc nào?”. Mắt anh ta vẫn nhìn tôi, gương mặt đến là sáng.

Ngay khi tôi chuẩn bị trả lời thì thầy Robins bước vào. Hai má của ông ửng hồng, nhưng không phải vì đi nhanh như mọi người vẫn nghĩ.

Damen tựa lưng vào ghế của mình. Tôi định thần, hít một hơi thật sâu và hạ cái mũ trùm đầu xuống, chìm trong trạng thái quen thuộc ẩn chứa đầy những lo âu tuổi mới lớn: Nào căng thẳng vì các bài kiểm tra, nào băn khoăn về ngoại hình của mình, nào bức bối vì giấc mơ không thành của thầy Robins, nào bối rối khi biết rằng Stacia, Honor, Craig và mọi người trong lớp đang tự hỏi cái anh chàng quyến rũ Damen này thấy cái gì hay ho ở tôi…

CHƯƠNG 5

LÚC TÔI ĐI ĐẾN CHỖ BÀN ĂN TRƯA thì Haven và Miles đã ở đó. Nhưng vừa thấy Damen ngồi cạnh họ, tôi lập tức tự khuyên mình nên đi chỗ khác.

“Cậu cứ tự nhiên ngồi với bọn tớ, nhưng nhớ phải hứa là không nhìn chằm chằm vào anh bạn mới này!”, Miles cười, nửa đùa nửa thật. “Nhìn chằm chằm kiểu ấy rất bất lịch sự. Có ai nói với cậu điều đó chưa?”

Tôi trợn mắt ngồi xuống cạnh bên Miles, lòng chỉ ước gì cậu bạn của mình… nói ít đi một chút.

“Tớ được nuôi bởi những con sói. Vì vậy, tớ quên kiểu nhìn chằm chằm bất-lịch-sự ấy rồi!”. Tôi ra vẻ tự nhiên, cố gắng không chú tâm đến sự có mặt của Damen và loay hoay ở hộp cơm trưa của mình.

“Tớ được nuôi bởi một người đàn ông chuyên cải trang thành phụ nữ và một tiểu thuyết gia lãng mạn.”, Miles nói, chồm tới cướp mất hạt ngũ cốc ngào đường trên cái bánh nướng của Haven.

Haven cũng bật cười: “Tớ, ngược lại, được nuôi bởi các mụ phù thủy. Tớ là công chúa ma cà rồng xinh đẹp, đáng yêu, được kính trọng, được ngưỡng mộ,. Tớ sống trong một lâu đài xa hoa lộng lẫy, và tớ không biết sẽ kết thúc thế nào…”

Trong một tích tắc, cô liếc nhìn Damen và mỉm cười: “Còn anh?”

Anh thong thả hớp một ngụm nước uống – một chất lỏng màu đỏ óng ánh trong chiếc ly thủy tinh, rồi nhìn cả ba chúng tôi: “Tôi lớn lên ở Ý, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bỉ, New York, New Orleans, Oregon, Ấn Độ, New Mexico, Ai Cập, và một số nơi nữa…”, anh cười.

“Vậy anh là con nhà lính phải không?”, Haven tò mò hỏi, trong lúc nhặt hạt ngũ cốc bỏ qua cho Miles.

“Ever đã từng sống ở Oregon đấy!”. Miles nói, cắn nhẹ hạt ngũ cốc trước khi nhấp thêm một ngụm nước khoáng.

Damen cười, mắt nhìn tôi: “Ở đâu?”

“Eugene”, tôi lầm bầm, cố tập trung vào miếng sandwich chứ không phải anh ta, bởi vì cũng giống như trong lớp học, mỗi lần Damen nói thì y như rằng tôi chỉ nghe được tiếng của anh ta mà thôi.

Mỗi khi đôi mắt chúng tôi gặp nhau, tôi lại có cảm giác ấm áp.

Mỗi khi chân của anh -  không hiểu vô tình hay cố ý, giẫm nhẹ lên chân của tôi thì cả người tôi như điện giật.

Và thật sự là tôi đê mê trong một thứ cảm xúc mới mẻ này.

“Sao Ever rời bỏ nơi đó?”. Anh ta làm một động tác chuyển động, gần như chồm người tới tôi.

Tôi nhìn chằm chằm xuống bàn, mím chặt môi như một thói quen mỗi khi bối rối. Tôi không muốn nói về cuộc sống ngày xưa của mình. Tôi không thấy có lý do gì để kể về những câu chuyện đau đớn trong quá khứ. Làm sao tôi có thể giải thích rằng cả gia đình tôi đã chết, còn tôi thì phải gắng gượng để sống tiếp như thế này.

Tôi xé một mẩu nhỏ cái bánh sandwich và thì thầm: “Đó là một câu chuyện dài.”

Chỉ thế thôi.

Nhưng tôi có thể cảm thấy cái nhìn chằm chằm của Damen, nồng ấm và thấu hiểu, gần gũi và chia sẻ. Điều đó làm tôi bối rối đến nỗi bàn tay tôi bắt đầu đổ mồ hôi và chai nước đang cầm bị vuột khỏi tay.

Nó rơi xuống rất nhanh, tôi không thể chụp lại kịp. Trong một tích tắc, tôi biết tất cả những việc tôi có thể làm là chờ cho nước văng tung tóe lên.

Nhưng trước khi chai nước rơi xuống bàn thì Damen đã ra tay bắt kịp và trả nó lại cho tôi. Và tôi ngồi ở đó, nhìn chằm chằm vào chai nước để tránh cái nhìn của anh, tự hỏi liệu có phải chỉ một mình tôi thấy anh ra tay rất nhanh, nhanh như điện vậy?

Sau đó Miles hỏi về New York. Haven thì nhích người ngồi rất gần Damen. Còn tôi, tôi hít một hơi dài, hoàn tất bữa trưa, cố thuyết phục mình rằng tất cả những chuyện vừa rồi chỉ là do tôi tưởng tượng ra mà thôi.

Khi tiếng chuông vang lên, chúng tôi chộp vội đồ ăn của mình và đi thẳng vào lớp học. Bắt lấy cơ hội Damen đi trước, tôi quay sang Miles thì thào: “Làm sao mà cậu mời được anh ấy ngồi chung bàn ăn trưa?”

Miles nhún vai, bỏ vỏ chai nước vào thùng rác và dẫn đầu cả nhóm hướng về các dãy phòng học: “Không có gì đâu! Anh ấy chủ động mà!”

Tôi có cảm giác mình vẫn chưa hài lòng với câu trả lời. Nghe có vẻ buồn cười và quá nhạy cảm, nhưng trong đầu tôi cứ vang lên câu hỏi: Tại sao người như Damen lại đi với bọn mình?

Thật tình, có quá nhiều người trong trường, có nhiều nhóm sành điệu phù hợp mà anh ấy có thể tham gia, vậy tại sao anh ấy lại chọn ngồi chung với nhóm chúng tôi, ba đứa lập dị nhất?

“Thư giãn nào, chắc anh ấy nghĩ bọn mình thú vị và vui vui.”Miles nhún vai. “Hơn nữa, anh ấy nói sẽ đến nhà cậu tối nay. Tớ bảo anh ấy đến vào khoảng tám giờ.”

“Cậu nói cái gì?”. Tôi gần như trợn mắt nhìn cậu bạn của mình, bất ngờ nhớ lại trong suốt bữa trưa Haven toàn lo chuyện sẽ mặc gì, trong khi Miles lo không biết có đủ thời gian để nhuộm da rám nắng. Giờ thì đã biết tại sao!

“Rõ ràng Damen cũng không thích bóng đá. Bọn tớ vô tình biết được điều đó tỏng cuộc trò chuyện với anh ta, vừa ngay lúc trước khi cậu đến”. Haven cười, khẽ nhún đầu gối, “Và bởi vì anh ta còn mới, chưa biết những người khác, nên bọn tớ tính giữ anh ấy cho riêng nhóm chúng ta, không cho anh ấy cơ hội làm bạn với những người khác”.

“Nhưng…”. Tôi chặn câu nói của Haven lại mà không biết nói gì tiếp. Tất cả những điều tôi đang nghĩ là tôi không muốn Damen đến nhà.

Không phải là tối nay.

Và không! Mãi mãi!

“Tớ sẽ đến sau tám giờ một chút”, Haven nói “Cuộc họp của tớ sẽ kết thúc lúc bảy giờ, vừa đủ giờ để về nhà và thay đồ. Và, nhân tiện, tớ giành chỗ ngồi kế Damen ở hồ bơi nhé!”

“Cậu không thể làm như thế được!”, Miles nói, lắc đầu lia lịa. “Tớ không chấp nhận!”

Nhưng cô bạn đã làm động tác vẫy chào trong khi đi nhanh về lớp. Tôi quay sang Miles: “Cuộc họp nào hôm nay thế?”

Miles mở của lớp, phá lên cười: “Thứ sáu là buổi họp dành cho mấy người ăn nhiều. Nhớ không?”

Thế đấy. Haven là mẫu người nghiện tụ tập nhóm. Trong thời gian ngắn tôi biết cô ấy, cco bạn dã tham gia rất nhiều cuộc họp dành cho người nghiện rượu, nghiện ma túy, người đồng cảnh ngộ, người mắc nợ, con bạc, người nghiện thế giới mạng, người nghiện thuốc lá, người bị ám ảnh sợ hãi, người thích nói tục,…

Theo những gì tôi biết thì hôm nay là ngày họp đầu tiên của nhóm những người ăn nhiều. Cao một mét năm mươi lăm, thân hình mảnh khảnh mềm mại như diễn viên múa ba lê, Haven chắc chắn không phải là người ăn quá nhiều. Cô bạn cũng không phải là người nghiện rượu, người thiếu nợ, người nghiện chơi bài, hay bất cứ cái gì đã nêu ở trên. Cô ấy chỉ không được bố mẹ dành cho nhiều sự quan tâm. Và vì thế, Haven tìm kiếm tình cảm cũng như sự chấp nhận mình ở bất kỳ nơi đâu.

Haven học được rằng cách nhanh nhất để nổi bật trong cái thành phố đầy những cô gái tóc vàng này là ăn mặc như Công chúa Bóng đêm.

Nhưng điều đó không mang lại kết quả như cô ấy mong muốn.

Lần đầu tiên mẹ Haven thấy con gái ăn mặc như thế, bà chỉ thở dài, chộp lấy chìa khóa của con, và đi thẳng đến phòng tập thể dục. Bố Haven thì không ở nhà đủ lâu để ngắm nhìn. Đứa em trai, Austin, hoảng sợ chút ít, nhưng nó cũng làm quen nhanh chóng. Và kể từ khi hầu hết mọi người trong trường quen dần với những màn trình diễn thái quá của chương trình MTV, thì bọn họ cũng lơ Haven luôn.

Một cách ngẫu nhiên, tôi vô tình biết được bên dưới của những trang sức đầu lâu, những đôi giày đinh, những cung cách trang điểm theo kiểu rock nặng là một cô gái chỉ muốn được nhìn thấy, được nghe, được yêu, được quan tâm như những người bình thường khác. Đó là điều mà trước đây Haven đã không có được. Tôi cảm nhận điều đó. Thật sự, nếu đứng trước một căn phòng đầy người, kể một vài chuyện về những ngày đấu tranh với nỗi khổ đau của mình làm cho cô bạn cảm thấy quan trọng, thì có gì xấu đâu cơ chứ.

Ngày xưa tôi chẳng bao giờ giao du với những người như Miles và Haven.

Tôi không có chút liên hệ dù mong manh nhất nào với những đứa trẻ có vấn đề gia đình, những đứa trẻ không bình thường, hay những đứa trẻ mà ai cũng chế nhạo.

Tôi thuộc về đám đông nổi tiếng. Ở đó, đa số chúng tôi đều dễ thương, khỏe mạnh, thông minh, tài giỏi, xuất thân trong gia đình giàu có, được mọi người yêu thích và trọng vọng. Tôi đến trường múa và có một người bạn thân nhất tên là Rachel (cũng là trưởng nhóm giống tôi). Tôi còn có cả bạn trai, Brandon, là đứa con trai lớp sáu mà tôi đã hôn (người đầu tiên là Lucas, hồi lớp sáu!). Tôi không bao giờ chơi xấu những người không thuộc nhóm mình, nhưng tôi cũng không chú ý đến họ. Những đứa trẻ đủ mọi vấn đề phức tạp kia chẳng có chuyện gì dính dáng đến tôi. Vì thế, tôi hành động như thể họ vô hình vậy.

Nhưng bây giờ, tôi cũng là một trong những người họ xem-là-vô-hình.

Tôi biết điều đó vào cái ngày Rachel và Brandon thăm tôi trong bệnh viện.

Bên ngoài, họ đối xử với tôi vẫn đầy vẻ ân cần. Nhưng bên trong, những suy nghĩ của họ hoàn toàn khác.

Họ hoảng sợ nhìn cái bịch ny-lông đang nhỏ những giọt chất lỏng vào tĩnh mạch của tôi. Họ ghê ghê khi nhìn những vết cắt thâm tím, nhìn cái băng bột trên chân tay tôi. Họ buồn với những chuyện đã xảy ra, với tât cả những điều tôi đã mất đi, nhưng họ cố tình không nhìn vào vết sẹo màu đỏ trên trán tôi. Điều mà họ thật sự muốn làm là “thoát” khỏi cái bệnh viện và đứa bạn thương tật cùng mình này càng nhanh càng tốt.

Tôi nghe thấy suy nghĩ của họ. Tôi nhìn thấy cả hai vầng hào quang bao quanh người họ quấn vào nhau, cùng chuyển sang màu nâu sẫm, để biết rằng họ đã tử bỏ tôi và đang đến với nhau.

Vì thế, trong ngày đầu tiên của tôi ở ngôi trường mới này, thay vì tốn thời gian với những “lễ nghi” thường lệ để gia nhập vào những nhóm của Stacia và Honor, tôi đi thẳng đến Miles và Haven. Hai kẻ bị ruồng bỏ trong trường đã chấp nhận tình bạn của tôi mà không cần hỏi một câu nào. Mặc dù chúng tôi có ngoại hình trông khá khác nhau, nhưng sự thật là, tôi không biết sẽ làm gì nếu không có họ.

Có được tình bạn với họ là một trong những việc rất hiếm hoi mang đến cho tôi cảm giác vui vẻ với cuộc sống này. Có tình bạn với họ, tôi cảm thấy mình gần như bình thường trở lại/

Và đó chính là lý do tại sao tôi muốn cách xa Damen. Tôi hiểu sức mạnh của anh ấy. Sức mạnh của những luồng điện khi anh chạm vào tôi. Sức mạnh bắt cả thế giới này im lặng mỗi khi anh cất tiếng. Tất cả những điều đó là một sự cám dỗ nguy hiểm mà tôi không thể không đề phòng và ngăn cản chính mình.

Tôi sẽ không đánh liều để xúc phạm đến tình bạn của tôi với Haven hay Miles.

Tôi không thể đánh liều đế đến quá gần anh!

CHƯƠNG 6

MẶC DÙ DAMEN VÀ TÔI cùng học chung hai môn, nhưng chỉ có môn tiếng Anh là chúng tôi ngồi cạnh nhau. Hết giờ học Mỹ thuật, Damen chạy đuổi theo tôi, rồi vượt lên mở cửa cho tôi bước qua.

“Ever này…”, anh ngập ngừng đôi chút. “Haven và Miles nói tôi ghé chơi vào tối nay. Nhưng tiếc quá, tôi không đến được!”

“Ồ!”. Tôi thốt len theo một phản xạ tự nhiên và thấy hối hận vì âm thanh đầy vẻ vui sướng của mình ẩn chứa trong đó.

“Anh có chắc không vậy?”, tôi cố phát âm mềm mỏng hơn, thoải mái hơn, giống như là tôi thật sự muốn anh ghé chơi mặc dù giờ đó là quá trễ.

Damen nhìn tôi. Đôi mắt long lanh quyến rũ và mời gọi. “Vâng… Chắc! Hẹn gặp lại Ever vào thứ hai nhé!”. Anh nói và sải bước đến bên chiếc xe. Tiếng động cơ kêu rền mạnh mẽ.

Khi tôi dến được chỗ chiếc Miata của mình, Miles đang đứng chờ, tay khoanh trước ngực, mắt nhíu lại, sự buồn buồn thất vọng thể hiện rõ trong nụ cười ngớ ngẩn.

“Tốt hơn là cậu hãy nói cho tớ biết chuyện gì xảy ra? Hình như có chuyện không tốt thì phải?”, Miles bước vào xe trong khi tôi bận bịu mở cánh cửa phía bên tôi.

“Damen hủy cuộc gặp rồi. Anh ấy nói không thể đến được!”. Tôi nhún vai, liếc nhìn qua kính chiếu hậu để lùi xe.

“Nhưng cậu đã nói gì để anh ta hủy cuộc gặp?”, Miles nhìn tôi chằm chằm.

“Tó đâu có nói gì”.

Lại một nụ cười ngơ ngẩn buồn và thất vọng. Lớn hơn.

“Thật tình tớ không hề muốn làm hỏng cuộc gặp đêm nay của các cậu”. Tôi lái xe khỏi bãi đậu, lao ra đường.

Khi cảm thấy Miles vẫn còn nhìn tôi chằm chằm, tôi lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng ngột ngạt: “Chuyện gì?”.

“Không có gì”.

Miles nhướng mày nhìn ra cửa số. Tôi có thể nghe thấy cậu ta đang nghĩ về chuyện gì, nhưng tôi vẫn lơ đi, tập trung lái xe.

Sau đó, Miles quay sang tôi: “Được rồi, hứa là cậu không nổi điên nhé!”.

Tôi nhắm mắt, thở dài. Sắp có chuyện đây.

“Chỉ là việc… Tó không hiểu nổi cậu!”.

Tôi hít một hơi thật dài và từ chối phản ứng lại. Bởi vì phản ứng lại chỉ làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn mà thôi.

“Cậu xinh đẹp, ít nhất là tớ nghĩ như vậy. Tớ không hiểu sao lúc nào cậu cũng giấu mình trong cái áo khoác với mũ trùm đầu kín mít, xấu xí đó. Tớ xin lỗi, nhưng Ever. Toàn bộ sự ấn tượng về cậu toàn là u buồn bi thương, giống như sự khốn khổ cùng cực của những kẻ vô gia cư vậy. Tó không muốn là người moi móc câu, song việc cậu tránh mặt chàng trai quyến rũ như Damen để ý đến cậu, là điều thật lạ lùng!”.

Miles dừng lại đủ lâu và nhìn tôi đầy vẻ khuyến khích trong khi tôi cố đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.

“Trừ khi… Cậu là người đồng tính!”/

Tôi quẹo sang phải và thở hắt ra. Cảm ơn năng lực siêu linh trong tôi đã giúp làm giảm đi cú sốc.

“Bởi vì nếu cậu là người đồng tính thì mọi chuyện vẫn tốt đẹp thôi!”, cậu bạn tiếp tục. “Tớ cũng là người đồng tính này, nên tớ chẳng phân biệt đối xử với cậu, đúng không?”

Cả hai chúng tôi cùng cười phá lên, thoải mái, như hai đứa con gái đang tâm sự điều bí mật với nhau.

Nhưng tôi lắc đầu và đạp thắng: “Cảm ơn cậu đã quan tâm đến tớ. Nhưng tớ không quan tâm đến Damen thì không có nghĩa tớ là người đồng tính. Có nhiều thứ quyến rũ khác chứ không chỉ ngoại hình, cậu biết mà!”.

Ừ, có nhiều thứ khác… Giống như những cái va chạm rộn ràng, giống như cặp mắt sâu hừng hực sức sống, và chất giọng làm say đắm lòng người, đủ sức làm im lặng cả thế giới…

“Hay là tại vì Haven?”, Miles ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi ngây thơ hỏi tiếp.

“Không!”. Tôi nắm chặt vô-lăng, mắt nhìn chằm chằm vào đèn giao thông, thắc thỏm trông chờ nó chuyển từ màu đỏ sang màu xanh để tôi có thể thả Miles xuống và kết thúc câu chuyện ở đây.

Nhưng Miles vẫn liến thoắng: “Ê! Tớ biết rồi! Là bởi vì Haven… Bởi vì cô ấy đã tuyên bố xí phần trong cuộc đua giành tình cảm của Damen. Tớ không thể tin được cậu thật sự tôn trọng cái chuyện xí phần trẻ con đó! Cậu từ bỏ cơ hội được bên cạnh anh chàng nóng bỏng nhất trường, có thể là nhất thế giới, tất cả chỉ bởi vì Haven tuyên bố xí phần?”

“Cậu nói nghe buồn cười quá!”. Tôi lầm bầm, lắc đầu quầy quậy trong khi quẹo vô con đường vào nhà Miles và đậu lại.

“Sao?”. Cậu bạn cười, rõ là rất vui vẻ vì điều mình mới khám phá. “Cậu không chịu trả lời tớ à?”

Tôi trợn tròn mắt, bật cười.

Miles đứng im nhìn tôi một hồi, rồi chộp lấy mấy cuốn sách và đi vào nhà. Trước khi đi còn lẩm bẩm để tôi nghe được: “Tớ hi vọng Haven đánh giá cao một người như cậu”.

Rốt cuộc bữa tối thứ sáu đó bị hủy bỏ. Không chỉ bỏ một buổi tối mà bỏ cả kế hoạch của chúng tôi. Một phần bởi vì đứa em trai của Haven – Austin – bị bệnh và cô là người duy nhất chăm sóc cho cậu em trai. Một phần là ông bố yêu thể thao của Miles kéo cậu ta đến một trận đấu bóng và còn ép cậu ta mặc đồng phục của đội bóng như một cổ động viên cuồng nhiệt. Và ngay sau khi cô Sabine biết tôi ở nhà một mình, cô nghĩ việc về sớm để đưa tôi đi ăn bữa tối.

Biết rằng cô Sabine không tán thành sở thích mặc áo khoác với mũ trùm đầu và quần jeans, lại cũng muốn làm vui lòng cô sau những việc cô đã làm, tôi diện một cái đầm khá đẹp màu xanh mà cô ấy vừa mua cho tôi, mang giày cao gót, tô bóng đôi môi (“di vật” còn lại từ cuộc sống trước đây của tôi, lúc tôi toàn quan tâm đến những chuyện như vậy,), chuyển từ cái ba lô cố hữu sang cái ví nhỏ cầm tay hợp với bộ váy, mà mái tóc đuôi ngựa thường ngày được thả ra thành mái tóc xõa bồng bềnh tự nhiên.

Khi tôi chuẩn bị đi ra cửa thì Riley xuất hiện ngay phía sau lưng tôi, thích thú: “Chị bắt đầu ăn mặc giống con gái rồi đó!”.

Tôi muốn nổi da gà.

“Trời đất ơi, Riley… Em làm chị hết hồn!”. Tôi thì thào trong lúc đóng cửa lại để cô Sabine không nghe thấy.

“Em biết.”, con bé cười. “Mà chị đi đâu vậy?”

“Một cái nhà hàng nào đó tên Stonehill Tavenrn. Nó ở trong khách sạn St. Regis!”. Tôi nói mà tim vẫn còn đập thình thịch.

Con bé nhướng mày, gật đầu. “Em biết rồi.”

“Làm sao em biết?”, tôi nhìn chăm chăm vào con bé, tự hỏi không biết nó có đến chỗ đó chưa/

“Em biết nhiều chuyện lắm.”, nó cười. “Nhiều hơn chị luôn.

Nó nhảy lên giường tôi và xếp lại mấy cái gối trước khi dựa người vào.

“Ừ, chị thì đâu có biết nhiều!. Tôi lẩm bẩm, hơi khó chịu khi thấy nó ăn mặc và mang giày giống y chang như tôi. Con bé nhỏ hơn tôi bốn tuổi nhưng chỉ thấp hơn tôi một chút xíu. Trông nó thật chải chuốt.

“Thật tình chị nên mặc như thế này thường xuyên hơn. Em không thích góp ý để chị bực mình đâu, nhưng thường ngày chị ăn mặc không hợp với xì-tai cảu chị tí nào. Chẳng lẽ chị nghĩ Brandon sẽ đến với chị nếu chị ăn mặc như vậy?”

Con bé bắt đầu chéo chân nhìn tôi, dáng điệu của nó thư thả như một người đang trong tâm trạng thoải mái nhất. “Chị có biết hiện giờ anh ta đang hẹn hò với Rachel không? Vâng, họ đã quen nhau năm tháng rồi. Có vẻ như còn lâu hơn chị hả?”

Tôi mím chặt môi và ghìm chặt chân xuống nền nhà, lặp lại câu thần chú quen thuộc: Đừng để nó ảnh hưởng đến mình, Đừng để nó…

“Chúa ơi, chị sẽ không bao giờ tin điều này đâu nhưng đó là sự thật! Hai người bọn họ trở về nhà sớm sau khi học múa, họ đã có kế hoạch, nhưng sau đó…”, con bé dừng lại và cười. “Em biết em không nên nói điều này nhưng Brandon đã làm một việc rất đáng tiếc và rắc rối to rồi đấy. Phải chi có chị ở đó, nhưng em sẽ kể cho chị nghe, thật là vui. Anh ta còn nhớ chị và vô tình gọi tên chị trước mặt cô nàng kia một hay hai lần gì đó. Thật đấy! Nhưng như họ nói, cuộc sống vẫn tiếp tục, đúng không?”

Tôi hít một hơi dài nhíu mắt nhìn theo đứa me của mình thơ thẩn đi trên giường, trông cứ như một nữ hoàng lên tiếng phê bình cuộc đời tôi, cách ăn mặc của tôi, hầu như tất cả mọi thứ về tôi, cập nhật thông tin cho tôi về những người bạn đã thành xưa cũ dù tôi không yêu cầu.

Tự nhiên, trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy khó chịu với cuộc viếng thăm bất ngờ của Riley. Nó giống như một cú đánh lén vậy. Tôi mong nó trả lại cho tôi sự bình yên và hãy để tôi sống với những gì còn lại trong cuộc đời nhếch nhác của tôi mà không cần những lời bình luận thô lỗ của nó. Tôi nhìn thẳng vào mắt nó: “Vậy khi nào em định vào trường thiên thần? Hay là họ đã không cho em vào vì em xấu tính quá?”

Con bé chằm chằm nhìn tôi, mắt tóe lên những tia giận dữ trong khi cô Sabine bước lại gần cửa, gõ khẽ và hỏi: “Xong chưa, Ever ơi?”

Tôi nhìn Riley bằng ánh mắt thách nó dám làm điều gì ngốc nghếch. Làm đi để cho cô Sabine biết tất cả sự thật lạ lùng đang xảy ra trong này.

Nhưng nó chỉ cười và dịu dàng: “Bố mẹ gửi lời hỏi thăm chị”.

Rồi biến mất.

CHƯƠNG 7

TRÊN ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NHÀ HÀNG tôi chỉ nghĩ về Riley, về những nhận xét ác ý và thô lỗ của nó cứ tuôn ra rồi biến mất. Tôi gần như van xin nó nói với tôi về bố mẹ, chỉ một chút thông tin trong suốt cả một quãng thời gian dài. Vậy mà thay vì nói cho tôi biết những điều tôi cần thì nó lại từ chối giải thích tại sao họ lại chưa xuất hiện.

Bạn có thể nghĩ cái chết sẽ làm người ta hành động dễ thương hơn, tử tế hơn. Nhưng điều đó không đúng với Riley. Nó vẫn hỗn xược, ngang bướng, thích chọc tức tôi và kinh khủng như hồi còn sống.

Cô Sabine rời chiếc xe để nhân viên phục vụ lái vào bãi và chúng tôi đi thẳng vào trong.

Tiền sảnh mênh mông bằng đá hoa cương. Bình hoa to đùng. Tầm nhìn ra biển tuyệt đẹp. Những thứ ấy khiến tôi giật mình hối hận vì những suy nghĩ của mình ban nãy. Riley đã đúng. Cái nơi này, lộng lẫy và sang trọng, là nơi để tìm kiếm niềm vui, sự thư giãn, nơi hẹn hò với người yêu, chứ không phải với đứa cháu gai ủ rũ.

Người phục vụ dẫn chúng tôi đến một cái bàn có trải khăn trắng muốt. Những cây nến đang tỏa ánh sáng lung linh. Lọ muối và lọ tuôi để ngay ngắn trong chiếc đĩa đá màu bạc. Khi tôi ngồi xuống nhìn xung quanh phòng, tôi không thể tin được nó đẹp mê hồn đến thế. Đặc biệt là khi so sánh với những nhà hàng mà tôi hay đến trước kia.

Nhưng ngay khi tôi nghĩ đến điều đó, tôi bắt mình phải dừng lại. Chẳng có ích gì khi so sánh hình ảnh trước kia với bây giờ. Tâm trí tôi không muốn nhớ, mặc dù chỉ cần nhìn cô Sabine – người em song sinh với bố tôi – là nỗi nhớ quay quắt lại dấy lên khôn cùng.

Cô kêu rượu vang cho cô và sô-đa cho tôi, rồi chúng tôi xem thực đơn và quyết định thức ăn cho mình. Khi người phục vụ nhanh nhẹn quay đi, cô Sabine vén mớ tóc vàng hoe ra phía sau vành tai, cười lịch sự và nói: “Sao con, mọi chuyện sao? Trường học? Bạn bè? Mọi việc tốt chứ?”.

Tôi yêu cô tôi, cô không ghét tôi, và tôi biết ơn về tất cả những việc cô đã làm.

Nhưng tôi chỉ nhìn cô và đáp ngắn gọn: “Vâng ạ! Mọi chuyện đều tốt!”

Cô để bàn tay lên cánh tay tôi và định nói điều gì đó. Nhưng trước khi cô kịp thốt nên lời thì tôi đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi của mình.

“Con sẽ quay lại ngay!”. Tôi đáp vội đáp vàng, suýt chút nữa đâm sầm vào cái ghế khi lao nhanh trở ra con đường mà lúc nãy chúng tôi vào, không buồn dừng lại hỏi đường dù trong lòng tự hỏi liệu tôi có đang đi ra cửa và xuống hành lang như dự tính không.

Tôi đi theo hướng mà chính tôi cũng không biết. Khi ngang qua phòng đại sảnh bằng kính, những tấm kính khổng lồ có khung mạ vàng xếp thẳng một hàng tăm tắp rọi thẳng vào tôi. Hôm nay là thứ Sáu, khách sạn có rất nhiều khách đến dự đám cưới, một đám cưới, một đám cưới mà theo tôi là không nên xảy ra.

Một nhóm người đi ngang chạm nhẹ vào tôi. Vầng hào quang bao quanh người họ quyện với năng lượng của cồn, mạnh đến nỗi ảnh hưởng luôn đến tôi, làm tôi choáng váng, buồn nôn, và như mê sảng. Khi tôi liếc nhìn trong kính, tôi thấy một dãy dài hình bóng Damen đang nhìn tôi từ phía đằng sau.

Tôi loạng choạng chạy vội vào phòng vệ sinh, nắm chặt bệ đá hoa cương, cố lấy lại hơi thở. Tôi ép mình tập trung vào mấy nhánh lan trong bình, mùi nước hoa, hay mấy cái khăn trắng muốt đang nằm trong khay bằng sứ lướn. Sau vài phút, tôi bắt đầu thấy bình tĩnh hơn và tập trung hơn.

Tôi cứ tưởng đã bắt đầu quen với các năng lượng ngẫu nhiên mà mình gặp ở những nơi đi qua. Vì vậy, tôi quên mất nó có thể quá mạnh khi mức phòng thủ của tôi xuống thấp nhất và chiếc iPod lại để ở nhà. Không có tiếng nhạc giúp chi phối bớt, không có những dè chừng, nên tôi choáng váng ngay lập tức khi cô Sabine để tay lên tay tôi.

Một cử chỉ va chạm nhẹ.

Tôi cảm nhận ngay lập tức từ đó những nỗi niềm cô đơn, những nỗi buồn u uẩn, im lặng. Tất cả như một cú đấm vào bụng tôi lập tức.

Tôi thấy nhói cả lòng vì cảm giác mình thật đáng trách.

Cô Sabine cô đơn trong khi tôi luôn cố gắng phớt lờ đi. Chúng tôi sống cùng nhau, nhưng chúng tôi không thường gặp nhau. Cô thường đi làm, tôi thường ở trường và những buổi tối cuối tuần thì tôi chỉ ở suốt trong phòng mình hoặc đi chơi với bạn. Đôi khi tôi quên rằng không chỉ một mình tôi mất người thân! Rằng mặc dù cô cho tôi chỗ ở và giúp đỡ tôi, nhưng cô vẫn cảm thấy cô đơn và trống trải cùng cực – hệt như tôi trong cái ngày xảy ra đại hạn.

Dù rất muốn tạo nên mối dây liên kết với cô, rất muốn xoa dịu nỗi đau của cô, nhưng tôi không thể. Tôi thấy mình quá tổn thương, quá kỳ lạ. Tôi là một con người có năng lực siêu linh. Tôi có thể nghe được suy nghĩ của người sống và nói chuyện được với người chết. Tôi không thể liều lĩnh để bị khám phá ra, không thể liều lĩnh để đến quá gần bất cứ ai, kể cả cô. Điều tốt nhất tôi có thể làm là học xong trung học, để rồi có thể rời nhà, đi học đại học. Và cô Sabine có thể trở lại cuộc sống bình thường của mình. Có thể lúc đó cô sẽ quên với một người đàn ông làm cùng tòa nhà. Người mà cô chưa từng biết. Người mà tôi thấy gương mặt ông ta khi tay cô chạm vào tay tôi.

Tôi chỉnh sửa, vuốt gọn gàng mái tóc, tô bóng lại đôi môi và quay về bàn, thầm quyết tâm sẽ cố gắng làm cô cảm thấy vui hơn mà không phải mạo hiểm với những điều bí mật của mình. Khi đã ngồi vào ghế, tôi mỉm cười hớp một ngụm nước, rồi ngọt ngào: “Con ổn rồi ạ!”. Và thêm vào theo cách thân mật nhất có thể “Cô kể cho con nghe những chuyện vui ở công ty đi? Trong tòa nhà mà cô làm việc có chú nào đẹp trai không đó?”

Sau bữa tối ấm cúng và nhẹ nhàng, tôi ra bên ngoài chờ trong khi cô Sabine xếp hàng thanh toán tiền.

Đột nhiên, tôi giật mình khi cảm thấy một bàn tay chạm nhẹ vào tay áo của tôi.

Và người tôi đột nhiên đông cứng, nôn nao, hai má nóng bừng ngay khi chạm mắt vào đôi mắt sâu cuốn hút.

“Trông Ever… Tuyệt quá!”, Damen nói, qnh nhìn lướt qua bộ đầm của tôi, trước khi quay trở lại nhìn thẳng vào mắt. “Không thể nhận ra Ever nữa khi không có cái mũ trùm đầu”. Tiếng anh cười “Em… có bữa tối vui chứ?”

Tôi gật đầu, không biết nói gì khi nghe anh đổi cách xưng hô, chỉ cảm giác như mình đang ở đỉnh điểm của sự lúng túng.

“Lúc nãy anh thấy em ở sảnh. Đáng lẽ anh kịp chào rồi nhưng em đang… gấp quá!”.

Tôi nhìn chằm chằm vào Damen, tự hỏi không biết anh ta đang làm gì ở đây, một mình, tại một khách sạn sang trọng như thế này vào một tối thứ sáu. Áo khoác len sẫm màu, áo sơ mi đen mở nút cổ, quần jeans, đôi giày lịch lãm. Tất cả đều đẹp, nhưng trông không hợp lắm với độ tuổi của anh ta, chỉ thấy vừa tạm ổn.

“À, khách quen của anh… Từ tỉnh xa đến!”. Anh nói và mỉm cười, trả lời cho câu tôi chưa kịp hỏi.

Khi tôi ấp úng không biết nói gì kế tiếp thì thật may, cô Sabine xuất hiện. Trong khi cả hai nồng nhiệt bắt tay nhau làm quen, thì tôi chỉ nói được đúng một câu: “Damen và con học cùng trường.”

Và Damen là người đã làm con đổ mồ hôi tay, khiến con nôn nao, bối rối, và anh ta chiếm nhiều suy nghĩ của con nhất!

“Anh ấy vừa chuyển đến đây từ New Mexico”. Tôi thêm vào với hy vọng rằng chừng đó đủ thời gian để chiếc xe được nhân viên phục vụ lái đến.

“Cháu ở đâu ở New Mexico?”, cô Sabine hỏi.

Nhìn cách cô mỉm cười với anh, tôi tựu hỏi liệu cô có cảm giác tuyệt vời choáng ngợp như tôi không.

“Santa Fe à!”, anh cũng cười.

“Ồ, tôi nghe người ta bảo ở đó rất đẹp, người dân thân thiện, dễ mến nữa. Lúc nào tôi cũng muốn được đến đó.”

“Cô Sabine là luật sư, cô làm việc nhiều lắm.”Tôi lúng búng trong miệng, mắt nhìn chằm chằm về hướng chiếc xe đang lái thẳng về hướng bọn tôi.

Mười, chín, tám, bảy…

“Chúng tôi sắp trở về nhà đây. Nhưng rất hân hạnh được mời cháu đến chơi1”, cô nói, không hề có chút khách sáo nào trong câu đó.

Tôi nhìn cô chằm chằm, hoảng sợ, tự hỏi sao mình không thể đoán chuyện này sẽ xảy ra. Nhưng khi tôi liếc nhìn Damen, lòng cầu mong anh ta đừng nhận lời thì anh mỉm cười lịch thiệp: “Cảm ơn cô rất nhiều. Nhưng cháu có người quen từ tỉnh xa đến, cháu phải quay lại trong đó”.

Anh ta làm một cử chỉ chỉ tay kín đáo và khéo léo. Tôi nhìn theo, dừng tia mắt lại ngay ở mái tóc đỏ hoe đẹp mê hồn. Cô gái “khách ở tỉnh xa” mặc chiếc áo đầm màu đen ôm sát thân người, mang giày dây cao gót.

Cô ta cũng đang nhìn chúng tôi, khẽ mỉm cười với tôi. Nhưng những gì tôi cảm nhận từ nụ cười đó thì không được thân thiện lắm. Đôi môi hồng tô bóng loáng chỉ nhấc nhẹ, nhếch lên thành “động tác cười” trong khi đôi mắt cô quá xa cách, quá lạnh nhạt để có thể hiểu được. Một vẻ gì đó rất kỳ lạ trong dáng vẻ của cô ta. Cô nghiêng người nhìn, có vẻ như thoáng chút xem thường mặc dù chúng tôi đứng với nhau một cách hoàn-toàn-bình-thường.

Tôi quay lại nhìn vào mặt anh, giật bắn mình khi phát hiện ra anh đứng quá gần, đôi môi ở một cự ly ngắn đến mức hầu như chỉ một chút xíu nghiêng người là đủ chạm đến môi tôi. Anh làm một động tác như ảo thuật, vuốt nhẹ tay dọc theo má của tôi, và “biến” ra một đóa hoa tulip đỏ, cài nhẹ phía sau vành tai tôi.

Chuyện kế tiếp là tôi đứng sững đó như trời trồng, trong khi Damne xoay người, sải từng bước nhanh nhẹ trở lại với cô bạn của anh ấy.

Tôi nhìn chằm chằm bông hoa tulip. Những cánh hoa đỏ lộng lẫy tựa hồ như được tô điểm một lớp sáp mỏng trên bề mặt. Mùa này, không thể tìm một bông hoa tulip nào tại các cửa hàng hoa được. Vậy thì… Nó từ đâu đến?

Khi về đến nhà, chỉ còn một mình trong phòng và trấn tĩnh lại, tôi mới nhớ ra rằng cô gái tóc đỏ đi cùng Damne cũng không hề có vầng hào quang nào xung quanh.

Hoàn toàn vô sắc.

Hệt như Damen. Hệt như đứa em gái đã mất của tôi.

Có lẽ tôi đã ngủ khá lâu cho đến khi giật mình tỉnh giấc vì nghe tiếng ai đó đi xung quanh phòng của mình.

Đầu nặng trịch. Người rã rời. Cảm giác mệt mỏi, u ám bủa vây đến mức tôi không buồn mở mắt.

“Riley?”, tôi lầm bầm. “Em đó hả?”

Con bé không trả lời. Tôi biết nó lại sắp giở trò tinh nghịch gì đây. Nhưng quá mệt và quá căng thẳng sau một buổi tối đầy những sự kiện kỳ quặc, tôi không gượng dậy nổi để đùa hay la nó. Tôi với tay lấy cái gối, úp lên đầu.

Vẫn có tiếng động trong phòng.

Tôi thở dài: “Nghe này, Riley, chị mệt lắm, biết không? Chị xin lỗi nếu làm em buồn, nhưng chị không thích đùa giỡn vào lúc này…”

Tôi giở cái gối ra, cố nheo nheo mắt nhìn cái đồng hồ báo thức.

“Ba giờ bốn mươi lăm sáng. Sao em không quay trở về nơi ở của em và đến chơi vào giờ nao đó khác? Em có thể lấy và mặc bộ áo quần tốt nghiệp hồi lớp tám của chị nếu em thích. Chị sẽ không nhăn nhó lời nào, thật đó!”

Nói đến đây thì tôi thấy mình không còn lơ mơ trong trạng thái nửa ngủ nửa thức nữa. Tôi để cái gối sang một bên, gượng ngồi dậy nhìn cái bóng của con bé thơ thẩn gần nơi bàn học của mình, lòng tự hỏi có chuyện gì quan trọng mà nó không thể để đến sáng mai được?

“Chị nói chị xin lỗi về chuyện ban tối, được chưa? Em còn muốn làm gì nữa?”

“Ever… Ever không thấy tôi sao?”. Cái bóng thì thầm, bước ra xa cái bàn.

“Dĩ nhiên là có thể thấy…”, tôi dừng giữa câu và chết điếng người khi nhận ra giọng nói kia không phải của em gái tôi.

CHƯƠNG 8

TÔI THẤY NGƯỜI CHẾT Ở KHẮP MỌI NƠI. Trên đường, trên bãi biển, trong siêu thị, trong nhà hàng. Những linh hồn đi loanh quanh trong trường học, xếp hàng ở bưu điện, đứng chờ ở phòng khám bác sĩ. Nhưng không giống như những con mà bạn thấy trên ti vi và trong phim, họ không làm phiền tôi, họ cũng không cần tôi giúp đỡ, họ không dừng lại bắt chuyện với tôi. Điều họ thường làm nhất là cười và vẫy tay khi họ biết ai đó đang nhìn họ. Cũng giống như đa số con người, họ thích được nhìn ngắm.

Nhưng cái giọng trong phòng tôi thì không hẳn là giọng của một linh hồn. Cũng không phải là Riley. Nhiều lúc, tôi nhớ lại và tưởng như đó là giọng của Damen.

Nhiều lúc, tôi hoài nghi chính những điều mình đã thấy. Có thể đó chỉ là một giấc mơ?

Buổi sáng hôm sau, Damen vào lớp sớm. Anh cười tươi tắn, ngồi xuống ghế đúng vài giây trước khi chuông reo.

“Xin chào!”

Tôi gật đầu, hy vọng cử chỉ của mình đủ tự nhiên, đủ bình thường, ít nhất là không để lộ rằng mình đang thích thú. Tôi cố giấu cảm xúc của mình. Cố giấu để anh ta không biết được rằng trong những giấc ngủ đầy mộng mị, tôi đã mơ thấy anh ta.

“Cô của em trong có vẻ rất dễ gần và tử tế nhỉ!”, Damen nhìn tôi, gõ gõ cây bút xuống bàn. Tiếng cạch cạch vang lên khiến tôi thoáng chút bực mình.

“Vâng, cô ấy tốt lắm!”. Tôi lúng búng trong miệng, lòng thầm than phiền thầy Robins vì cứ uống cho nhiều rồi lại ở trong phòng vệ sinh của giáo viên quá lâu. Ước gì thầy thôi uống rượu và vào lớp ngay bây giờ dể tôi kết thúc được cuộc trò chuyện này.

“Anh cũng không ở với gia đình mình!”, Damen dịu dàng. Giọng của anh ta làm im lặng cả phòng, tắt luôn những suy nghĩ đang vang vọng trong tôi.

Anh khẽ xoay xoay cây bút vòng vòng trên những ngón tay một cách điêu luyện.

Tôi mím môi, ngón tay sờ soạng trên chiếc iPod trong ngăn bí mật, nửa hi vọng tiếng nhạc ồn ào đủ sức làm phân tán cảm xúc của mình, nửa ngần ngại vì điều mình làm có vẻ chẳng lịch sự chút nào: Bật iPod lên để không phải nghe anh ta nói!

“Anh được… giải phóng nô lệ!”. Damen thêm vào bằng giọng hài hước nhưng tỉnh rụi như thật.

“Anh nghiêm túc chứ?”, tôi hỏi, mặc dù đã nỗ lực giữ cuộc nói chuyện của chúng tôi ở mức ít nhất có thể.

Tôi chưa bao giờ gặp một ai được giải phóng nô lệ. Điều anh ta nói sao phảng phất cảm giác cô đơn và buồn quá, mặc dù rõ là khi nhìn chiếc xe và quần áo của anh ta, rồi còn buổi tối thứ sáu say đắm của anh ta ở khách sạn St. Regis, thì Damen hoàn toàn chẳng có vẻ từng bị đối xử tệ chút nào.

“Nghiêm túc đấy!”, Damen gật đầu.

Trong một tích tắc khi anh ngừng nói, tôi nghe rõ trong phòng những suy nghĩ của Stacia và Honor bay vòng vèo. Bọn họ gọi tôi là kỳ dị, là kinh khủng, là cái con khùng khùng điên điên. Cộng thêm vài điều gì đó còn tệ hơn nữa.

Sau đó, tôi thấy anh tung cây bút vào trong không khí rồi mỉm cười hài lòng khi thấy nó ngoan ngoãn rơi trở lại vào tay anh sau một vũ điệu tuyệt đẹp trên không.

“Vậy gia đình của em… Họ ở đâu?”, anh hỏi.

Những suy nghĩ đang bay vòng vèo trong không trung lại im bặt.

Thật kỳ lạ. Cứ như một vản nhạc đứt quãng. Vang lên rồi im bặt. Im bặt rồi vang lên. Như một chiếc máy cassette cứ bị bấm nút ngừng rồi bấm nút chơi.

“Anh nói gì?”, tôi liếc nhìn, thấy mình như bị thôi miên bởi cây bút ma thuật đang bay lượn vòng vèo. Trong lúc đó, tôi nghe được cả những suy nghĩ của Honor, đùa bỡn về quần áo của tôi, và người bạn trai của cô giả vờ đồng ý mặc dù anh chàng này lại đang tự hỏi là tại sao cô ấy không ăn mặc giống tôi.

Những suy nghĩ hỗn loạn của con người. Điều đó khiến tôi muốn giật phắt cái mũ trùm đầu của mình ra, mở chiếc iPod cho lớn lên, và quên hết mọi thứ.

Mọi thứ. Kể cả Damen.

Đặc biệt là Damen.

“Gia đình em sống ở đâu?”, anh ta lặp lại.

Tôi nhắm nghiền mắt khi nghe anh ta nói. Một khoảnh khắc im lặng. Một sự im lặng tuyệt vời trong phút chốc. Rồi tôi từ từ mở mắt ra và nhìn chằm chằm vào mắt kẻ đối diện.

“Họ đều đã chết rồi”, tôi nói ngay khi thầy Robins bước vào.

“Anh xin lỗi.”

Damen ngồi đối diện với tôi, nhìn đăm đăm tôi suốt bữa trưa hôm đó trong khi tôi cứ nhấp nha nhấp nhổm liếc khắp phòng, mong Haven và Miles sẽ đến.

Tôi vừa mở hộp cơm trưa của mình thì thấy một bông hoa tulip đỏ nằm bên cạnh cái bánh sandwich và khoai tây chiên. Một bông hoa tulip! Cũng giống như bông hoa hôm tối thứ sáu. Tôi không biết làm sao anh ta làm được điều đó, nhưng tôi biết chắc đó là bông hoa của Damen. Có điều, những thủ thuật phù phép lạ lùng giờ đây cũng không làm tôi băn khoăn bằng cái cách anh ta nhìn tôi, cách anh ta nói với tôi, cách anh ta làm tôi cảm thấy…

“Chuyện gia đình của em. Thật sự anh không biết…”.

Tôi nhìn xuống chai nước ép trái cây của mình, vặn tới vặn lui cái nắp, hi vọng anh ta chuyển sang đề tài khác.

“Em không thích nói về điều này”. Tôi ngập ngừng.

“Anh biết cái cảm giác mất đi những người mình thương yêu là như thế nào!”

Damen vẫn không chuyển đề tài. Anh chồm người qua bàn và đặt tay lên vai tôi. Một cảm giác gì đó, thoải mái, ấm cúng, bình yên và an toàn.

Tôi nhắm mắt lại, để tự nhiên.

Ừ, cứ cho phép bản thân mình tận hưởng những giây phút bình yên. Cảm ơn anh vì những gì anh đã nói.

“Á à… Xin lỗi!”

Tôi mở mắt ra, thấy Haven đang đứng đó, dựa người vào cạnh bàn, cặp mắt màu vàng của cô nhíu lại và dán chặt vào hai bàn tay của chúng tôi. “Xin lỗi vì… tớ không đúng lúc!”

Tôi rụt tay lại, đút vào túi như thể điều Haven vừa thấy thật đáng xấu hổ, không nên để ai nhìn thấy. Muốn giải thích rằng mọi thứ chẳng có gì, nhưng đầu óc tôi rỗng không, đến mức chẳng thế thốt nên một câu có nghĩa.

“Miles đâu rồi?”, cuối cùng tôi lên tiếng, chẳng còn biết tìm ra cái gì khác để nói.

Haven tròn xoe mắt và ngồi xuống cạnh Damen. Những ý nghĩ giận dữ, bực bội, thù địch trong cô đã làm vầng hào quang quanh người cô biến từ màu vàng sáng sang màu đỏ sậm. “Miles đang chat chit với một anh bạn mới quen trên Internet”. Haven tránh cái nhìn của tôi, giả vờ bận rộn mở chiếc bánh nướng của mình ra. Được một lúc, cô ngẩng lên nhìn Damen và nói thêm: “Cuối tuần của mọi người thế nào?”

Tôi nhún vai, biết rằng dù cô bạn hỏi “cuối tuần của mọi người” nhưng lại thật sự không hề ám chỉ đến mình.

Liếc nhìn sang Damen, tôi hơi sốc khi thấy anh cũng nhún vai, như thể những ngày cuối tuần của mình chỉ là những ngày tồi tệ, chẳng có gì đáng nói, dù tôi biết rõ mọi thứ không phải thế.

Haven lúc lắc đầu: “Với tó thì ngày thứ Sáu vừa rồi thật là kinh khủng. Tớ phải lau dọn vết nôn mửa của Austin vì người giúp việc đã đi Vegas, còn bố mẹ tớ thì chẳng buồn về nhà. Không biết họ chết dấp ở chốn địa ngục nào. May cho tớ là ngày thứ bảy thì lại hoàn toàn khác. Ý tớ là rất tuyệt! Thật đấy, có thể nói là một đêm vui nhất trong cuộc đời của tớ. Chắc chắn tớ sẽ mời mọi người tham dự nếu tớ biết sớm hơn…”.

“Cậu đã đi đâu?”, tôi hỏi, cố giữ giọng bình thường dù tôi đã mường tượng ra được một nơi kinh hoàng nào đó.

“Một câu lạc bộ đáng kinh sợ mà vài đứa bạn gái tỏng nhóm rủ tớ đến.”

“Nhóm nào?”, tôi hớp một ngụm nước.

“Thứ sáu là ngày dành cho những người luôn có cảm giác bị phụ thuộc vào nhau”, cô cười, “Evangeline, cô ấy giống như người đóng vai chính. Tất cả bọn họ gọi cô ấy là người cho!”

“Cái gì? Người cho là sao?”. Miles từ đâu xuất hiện, để chiếc điện thoại di động xuống bàn và bước vòng phía sau tôi.

“Những người luôn có cảm giác bị phụ thuộc vào nhau”, tôi đáp.

Haven lập tức trợn tròn mắt. “Không, không phải. Người cho là người cho phép những con ma cà rồng khác hút máu họ. Tớ thì chỉ thích đi vòng vòng xem họ thôi. Tớ chẳng cho ai hút máu mình cả. Chưa!”. Cô bạn bật cười.

“Cậu đi vòng vòng với ai?”, Miles hỏi, nhấc chiếc điện thoại của mình lên.

“Thì đi vòng vòng với ma cà rồng chứ với ai. Tớ cố đi theo. Nhưng Evageline chỉ là cái tên kiểu ma cà rồng thôi, chứ không phải tên thật của cô ấy…”

“Ai cũng có tên theo kiểu ma cà rồng à?”, Miles để cái điện thoại xuống bàn trở lại.

“Ai cũng có!”. Haven gật đầu, đưa tay quệt một lớp kem trên bánh rồi liếm ngon lành.

“Cũng giống như tên tự đặt à? Giống như tên con vật cưng đầu tiên hồi nhỏ cộng với tên thời con gái của mẹ? Nếu thế thì tên tớ sẽ là Princess Slavin, hì hì…”. Miles phá lên cười.

Haven thở dài, cố kiên nhẫn

“Không phải tên kiểu đùa giỡn ấy đâu. Các cậu biết không, tên theo kiểu ma cà rồng được đặt rất nghiêm túc. Không giống như đa số những người đến dự, tớ không phải thay đổi tên của mình, bởi vì tên Haven về cơ bản nó cũng là cái tên của ma cà rồng rồi, một trăm phần trăm tự nhiên, không thêm không bớt!”

Cô bạn lại cười.

“Tớ nói với các cậu rồi mà! Tớ là Công chúa bóng đêm. Dẫu sao thì bọn tớ cũng đã đến một câu lạc bộ thật tuyệt vời ở đâu đó, hình như là ở Nocturnal hay gì đấy!”

“Nocturne”, Damen đột nhiên lên tiếng, tay nắm chặt cái ly uống nước trong khi đôi mắt anh tập trung cao độ vào cô ấy.

Haven để miếng bánh ngọt xuống và vỗ tay reo lên: “Đúng rồi! Chính xác là Nocturne. A, cuối cùng cũng có một người đồng cảm với những điều tớ nói rồi nhé”.

“Cậu có vào khu vực bất tử?”. Damen hỏi, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào cô ấy, cách xưng hô đột nhiên thân mật hơn.

“Chỗ đó quá đông người! Còn có cả cái phòng VIP dành cho phù thủy. Tớ vô phòng đó và đến quầy bả máu!”

“Họ có kiểm tra tuổi của cậu không?”, Miles cắt ngang, mấy ngón tay vuốt vuốt cái điện thoại.

“Các cậu có thể cười tớ, nhưng như tớ đã nói, ở đó thật là tuyệt. Evageline giới thiệu tớ với một số người bạn. Tớ gặp được một cô gái rất dễ thương, cũng mới chuyển đến đây. Có thể bọn tớ sẽ đi chơi với nhau”.

“Ơ, thế cậu sẽ nghỉ chơi với bọn tớ à?”. Miles lên giọng chế giễu.

Haven trợn tròn mắt: “Cậu nói sao cũng được. Tất cả những điều tớ biết là tối thứ Bảy của tớ vui hơn tối thứ bảy của các cậu… À không! Có lẽ không tính tới Damen, bởi vì Damen biết kiểu câu lạc bộ này rồi. Chắc chắn là biết nhiều hơn hai người này!”. Cô bạn đưa ngón tay chỉ Miles và tôi.

“Anh bạn chat chít mới quen của cậu thế nào?”. Tôi thúc khuỷu tay vào Miles, cố kéo sự quan tâm của cậu bạn tập trung vào chúng tôi thay vì cứ mơ mơ màng màng với chiếc điện thoại.

“Tớ bỏ nhiều thời gian trong nhà vệ sinh chat với gã này, một kẻ nói dối trắng trợn!”

Miles lắc đầu, đẩy màn hình điện thoại về phía tôi để tôi xem. “Nhìn đây này!”. Cậu ta bấm bấm bàn phím bằng những ngón tay nhanh thoăn thoắt của mình. “Tớ đã hỏi xin hình suốt cuối tuần rồi bởi vì tớ không thể gặp mà không biết mặt anh ta là ai được. Và đây là tấm hình anh ta gửi lại. Chắc chắn đó không phải người tớ chat chít. Đúng là một sự dối trá trắng trợn không biết nói sao luôn!”

Tôi thờ ơ không thèm liếc nhìn màn hình điện thoại.

“Làm sao cậu biết tấm hình đó chắc chắn không phải là hình của cái anh chàng cậu chat chít?”, tôi liếc nhìn Miles.

Một giây im lặng.

Đột nhiên, Damen lên tiếng: “Bởi vì đó là… hình của anh!”.

CHƯƠNG 9

HẲN DAMEN CÓ THỜI GIAN NGẮN làm người mẫu, lúc anh ta sống ở New York. Đó là lý do tại sao những bức ảnh của anh được đưa lên mạng, để rồi có kẻ tải xuống rồi cho là hình của họ.

Chúng tôi cùng phá lên cười rõ to vì sự trùng hợp ngẫu nhiên lạ lùng này. Nhưng có một việc tôi không hiểu: Damen chuyển đến đây từ New Mexico, chứ không phải New York. Nghĩa là thời điểm lúc còn ở New York phải cách đây khá lâu. Sao trong hình, trông anh chẳng trẻ hơn bây giờ chút nào? Tôi không nghĩ có ai đó lúc mười bốn, mười lăm tuổi mà từ ngoại hình đến nét mặt vẫn trông giống hệt như bây giờ - khi đã mười bảy tuổi.

Điều đó thật vô lý.

Khi đến lớp Mỹ thuật, tôi đi thẳng vào phòng đựng dụng cụ, lấy màu và giá vẽ của mình, cố không chú ý đến cả việc Damen đang chuẩn bị giá vẽ ở vị trí ngay kế bên tôi.

Tôi hít một hơi thật sâu, cài nút áo khoác, chọn cọ, tập trung vào công việc của mình dù thỉnh thoảng vẫn kín đáo liếc bức tranh sơn dầu của anh ta, cố không trố mắt nhìn một cách ngẩn ngơ “kiệt tác” Damen đang vẽ - một bức tranh mô phỏng lại tác phẩm vĩ đại Người phụ nữ có mái tóc vàng của Picasso.

Bài tập của chúng tôi là chọn một trong những tác phẩm nổi tiếng có tính chất tượng hình và vẽ lại. KHông hiểu sao, tôi nghĩ những vòng xoáy đơn giản của Van Gogh là dễ sao chép và dễ lấy điểm A. Nhưng khi đã bắt tay vào việc, tôi mới biết mình đã hoàn toàn sai lầm. Những vòng xoáy ấy không hề đơn giản chút nào. Bây giờ thì mọi việc đã đi quá xa, tôi không biết mình phải làm gì.

Kể từ khi có trong người năng lực siêu linh, tôi không còn phải miệt mài học bài hay cố công đọc sách nữa. Tất cả những gì tôi cần làm là đặt tay lên trên cuốn sách. Những nội dung trong ấy sẽ nhanh chóng hiển hiện trong đầu. Còn các bài kiểm tra thì sao? Chẳng khó khăn gì. Tôi chỉ cần lướt ngón tay của mình lên trên câu hỏi. Câu trả lời sẽ lập tức hiện ra.

Nhưng Mỹ thuật lại là một môn hoàn toàn khác.

Bởi vì cảm xúc và tài năng thì không thể bắt chước hay làm giả được.

Năng lực siêu linh chẳng giúp gì được cho tôi trong việc sáng tác. Đó phải là cảm xúc thật. Và đó cũng là lý do tại sao tôi phải “đánh vật” với một bài tập Mỹ thuật thế này.

“Đêm đầy sao?”. Damen hỏi, mỉm cười gật đầu nhìn về phía tấm vải lốm đốm màu xanh trong khi tôi tự bối rối, tự hỏi làm sao mà anh ta có thể đoán chính xác như thế từ những phác họa rất đơn giản ban đầu.

Tôi thở dài, nhìn anh ta thoải mái vung cọ ở bên cạnh. Lại thêm một điểm cộng nữa trong danh mục những việc mà anh ta rất giỏi.

Thật vậy, nhiều lúc tôi không hiểu sao Damen biết nhiều và giỏi nhiều thứ khác nhau như thế.

Như môn tiếng Anh, Damen có thể trả lời tất cả những câu hỏi của thầy Robins, trong khi anh ta chỉ có một đêm để xem hơn ba trăm trang trong tác phẩm Đỉnh gió hù. Đó là chưa kể những kiến thức về lịch sử, anh ta có thể nói rành rọt các sự kiện lịch sử như thể anh ta có mặt ở đó vậy. Anh ta cũng thuận cả hai tay, nghe thì không có gì đặc biệt lắm, nhưng khi bạn nhìn anh ta viết một tay và vẽ một tay thì thật đáng kinh ngạc. Và còn cả chuyện anh ta có thể vuốt nhẹ tóc bạn để “hô biến” ra một bông hoa tulip hay tung cây bút lên không cho nó bay thành một vòng ngoạn mục trước khi đáp xuống.

“Ồ, em làm tôi ngạc nhiên đấy, Damen! Trên cả tuyệt vời!”

Cô Machado vừa nói vừa vuốt bím tóc dài óng ả của mình khi đi ngang, nhìn chăm chú vào bức tranh của anh ta. Vầng hào quang cô lung linh một màu xanh thẫm rất đẹp. Tôi cảm nhận từ vầng sáng ấy rằng cảm xúc của cô đang dâng tràn trong niềm vui sướng. Tôi thấy cô nhanh chóng lướt lại trong đầu cả danh sách những học sinh xuất sắc nhất trước nay, để rồi mỉm cười nhận ra chưa bao giờ cô gặp một tài năng bẩm sinh như vậy.

“Còn Ever?”. Bên ngoài cô vẫn còn cười, nhưng bên trong tôi thấy cô đang nghĩ: Cái gì đây nhỉ?

“Dạ… Ừm… Là tác phẩm của Van Gogh, Đêm Đầy Sao ạ!”. Tôi bối rối đỏ mặt, đọc thấy cô đang thở dài trong đầu trước “tác phẩm” của tôi.

“Một khởi đầu đáng khen ngợi đấy!”

Cô gật đầu, cố giữ vẻ mặt bình thản, thoải mái và giọng nói đầy khuyến khích học trò như thường lệ. “Nhưng em chú ý là tranh Van Gogh thoạt nhìn thì đơn giản, nhưng những gì chứa đựng bên trong thì sâu thẳm và khó thể hiện hơn nhiều lắm. Nhớ đừng quên những ánh vàng rực lung linh như sự tỏa sáng của tâm hồn!”.

Tôi nhìn theo dáng cô bước đi sang chỗ những học sinh khác. Vầng hào quang quanh cô rộng ra và sáng lên. Tôi biết, cô không thích bức tranh của tôi, những cũng rất cảm kích việc cô không thể hiện điều đó ra bên ngoài. Sau vài giây, không cần suy nghĩ nhiều nữa, tôi nhúng cọ vào màu vàng, sau đó quét lên trên chút màu xanh dương. Và khi nhấn cọ vào khung vải, kết quả cuối cùng có được là một đốm to màu… xanh lá.

“Làm sao anh vẽ được như vậy?”. Tôi thở dài, lắc đầu thất vọng, nhìn chăm chăm vào bức tranh tuyệt vời của Damen, rồi quay sang bức tranh “bất trị” của mình. Bao nhiêu tự tin của tôi như rơi thẳng đứng xuống vực.

Damen cười, quay sang nhìn thẳng vào tôi.

“Em nghĩ ai dạy Picasso vẽ?”, anh ta nói.

Tôi làm rơi cây cọ xuống sàn, làm bắn tung tóe những giọt sơn màu xanh lá cây vào giày, áo khoác và cả gương mặt của mình, rồi cố giữ bình tĩnh trong khi Damen cúi xuống nhặt cây cọ lên, đặt  nó vào tay tôi.

“Ai cũng phải thử bắt đầu”. Anh ta nói, cặp mắt đen sống động như có lửa. Ngón tay của anh ta lướt tìm sẹo trên mặt của tôi.

Cái sẹo ở trên trán.

Nó ẩn dưới lớp tóc.

Cái sẹo mà tôi chưa hề kể.

“Ngay cả Picasso cũng có một người thầy”, anh ta cười, rút tay lại và hơi ấm cũng theo đó tan biến đi. Anh quay về với bức tranh của mình trong khi tôi cố gắng hít thở bình thường trở lại.

Continue Reading

You'll Also Like

120K 11.8K 85
Tác Giả: Bán Chỉ Lê z Tình trạng: full Edit: Đang hoàn thành Số chương: 102 Thể loại: Nguyên sang, Đam mỹ, Hiện đại , HE , Tình cảm , Xuyên thư , Hào...
70.6K 4.8K 68
TÁC GIẢ: THIÊN TRÀ 1. Truyện sinh tử, mở đầu truyện cục cưng đã một tuổi, cho nên tỷ lệ xuất hiện hiện khá nhiều... 2. Tâm lý chướng ngại của công ch...
153K 16K 77
Em gom nhặt tất cả may mắn đặt cược vào một mối tình thời niên thiếu. Đôi khi em tự hỏi liệu nó có đáng hay không? Nhưng cảm ơn Thế Hưng, đã thắp sán...
23.9K 2.7K 59
*ogrinal author: Nghê Đa Hỉ *disclaimer: Truyện đã được chỉnh sửa 1 vài chi tiết cho phù hợp với Diệp Anh và Thùy Trang. /"13 năm dài đằng đẵng...Tôi...