on thi dh mon van

772 0 0
                                    

  1
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Các chủ đề cơ bản ôn thi 
đại học, cao đẳng môn Ngữ văn
(Theo chương trình mới)
    2
CƯỜNGVĂN - TRẦN HINH – PHƯƠNG DUY
 
 
 
Các chủ đề cơ bản ôn thi 
đại học, Cao đẳng môn Ngữ văn
 (Theo chương trình mới)
 
 
 
 
 
 
 
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
  3
 
Đôi lời đầu sách
Lý do để chúng tôi biên soạn cuốn sách này ?
Một cuốn sách ra đời phải chứng minh được lý do tồn tại cần thiết của mình.
Cuốn sách của chúng tôi cũng như thế. Giữa bạt ngàn các loại tài liệu tham khảo
như hiện nay, biên soạn tài liệu này, chúng tôi luôn tự xác định rằng, để tồn tại có
ích, cuốn sách phải mới.
Cái mới chúng tôi nói ở trên, bắt nguồn từ chính kỳ thi đại học năm nay, kỳ
thi đầu tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành áp dụng chương trình mới trong
nội dung hạn chế. Tất cả học sinh, kể cả thí sinh tự do (học theo chương trình cũ)
đều phải thi chung chương trình bắt buộc này. Để đáp ứng được yêu cầu đó, nhóm
thí sinh tự do sẽ gặp rất nhiều khó khăn, và để vượt qua được, họ phải có nhiều nỗ
lực.  Với  nhóm  học  sinh  được  học  chương  trình  mới  từ  đầu, do  cấu  trúc  và  nội
dung của đề thi năm nay đã có nhiều thay đổi, họ cũng rất cần được sự hướng dẫn
: Cấu trúc đề thi như thế nào? Giới hạn nội dung đề thi ? Các chủ đề cơ bản thí
sinh cần phải nắm khi học bài ? Các tình huống và hướng xử lý đề thi qua các bài
học cụ thể ? Một bài văn hay phải đáp ứng được những yêu cầu nào ?... Cuốn sách
của chúng tôi sẽ lần lượt tập trung trả lời các câu hỏi đó, và đó là lý do chính dẫn
chúng tôi tới việc biên soạn cuốn sách này.
Cấu trúc và nội dung chính của cuốn sách
 Cuốn sách của chúng tôi được thực hiện với mục tiêu hết sức cụ thể là phục
vụ trực tiếp cho học sinh ôn thi đại học và cao đẳng năm 2009 (Học sinh lớp 11 và
12, giáo viên phổ thông trung học, học sinh các khoá học sau cũng có thể sử dụng
tài liệu này, ngay cả khi hình thức thi tuyển sinh đại học chấm dứt) nên nội dung
được lựa chọn trong cuốn sách chỉ tập trung vào những bài học nằm trong phần
hạn  chế  nội dung  chương  trình  thi  của  Bộ  Giáo  dục  và  Đào  tạo  ban  hành  mới
nhất. Cuốn sách được biên soạn theo nguyên tắc như sau : Phần I dành cho việc
giới  thiệu  chung  cấu  trúc,  nội dung  hạn  chế đề thi  và  các  chủ đề cơ bản  trong
chương trình thi. Phần II  là gợi ý chi tiết các dạng đề (hoặc tình huống ra đề),
trong đó gồm cả những đề thi đã được sử dụng trong suốt 7 năm qua (từ 2002 đến
    4
2008, từ thời điểm Tuyển sinh đại học theo phương thức ba chung) nhằm giúp học
sinh tự nhận biết một đề thi đại học cụ thể là như thế nào, từ đó lựa chọn hướng
ưu tiên cho kỳ thi năm nay. Ngay sau các tình huống ra đề, chúng tôi cũng dành
một phần nhỏ để lưu ý học sinh khi học và làm bài và cuối cùng là phần gợi ý chi
tiết cho tất cả các bài học, ở đó chúng tôi sẽ  hướng dẫn với mỗi bài học thì nên
tập trung vào vấn đề gì, những nội dung cơ bản cho từng bài học, phần nào trong
bài là  quan trọng hơn cả…  Phần ba là  một số đề thi đại  học  và  cao đẳng môn
Ngữ văn (gồm một số đề thi năm 2007 – 2008, kèm đáp án do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành và một số đề thi minh hoạ theo cấu trúc đề thi mới ) ; cuối cùng
là Phần phụ lục, chúng tôi dành giới thiệu một bài thi văn đạt điểm cao tại Hội
đồng thi khối D, trường Đại học Quốc gia, Hà Nội. Bạn đọc có thể tham khảo và
tự rút ra bài học cho bản thân mình. 
Vài lời khuyên thí sinh
Để giúp các  bạn sử dụng tốt nhất tài  liệu  ôn tập này,  chúng tôi muốn được
khuyến cáo rằng, đề thi đại học không phải năm nào cũng hoàn toàn giống nhau.
Để  tránh  sự  trùng  lặp,  những  người  làm  đề  bao giờ  cũng  thận trọng  bằng  cách
thay đổi câu chữ trong từng năm ngay trên cùng một vấn đề. Chẳng hạn, truyện
ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải được lựa chọn ra đề trong liền hai kỳ
thi đại học 2007 và 2008 với nội dung như sau : 1. “Phân tích nét đẹp trong suy
nghĩ  và  ứng  xử  của  bà  Hiền  trong  truyện  ngắn  Một  người Hà  Nội  của  Nguyễn
Khải” (đề thi năm 2007) ; 2.  “Trong tác phẩm Một người Hà Nội, tại sao nhân vật
bà Hiền lại được nhà văn Nguyễn Khải gọi là “hạt bụi vàng” của Hà Nội?”  (đề thi
năm 2008). Nếu tinh ý, các bạn sẽ thấy yêu cầu hai đề thi trên không khác nhau
nhiều, vì để trả lời câu hỏi 2, ta cũng phải giải quyết những vấn đề của câu hỏi 1.
Nghĩa  là  để  trả  lời câu  hỏi  tại  sao  bà  Hiền  được  gọi  là  “hạt bụi  vàng”,  tác  giả
Nguyễn  Khải  đã  thể  hiện  vẻ  đẹp  ấy  qua  suy  nghĩ  và  cách  ứng  xử  của  bà.  Tất
nhiên, một đề thi với câu chữ khác nhau, ít nhiều cũng có sắc thái khác nhau. Chỉ
cần tinh ý và nắm vững bài học, các bạn sẽ giải quyết dễ dàng tất cả các dạng đề
dù câu chữ có khác nhau đến mấy. 
Trong phần hướng dẫn học bài, chúng tôi chỉ đưa ra những gợi ý về cách tiếp
cận bài học để từ đó học sinh tìm cách xử lý một đề thi. Chúng tôi không bao giờ
nghĩ rằng, cuốn sách của chúng tôi có thể thay thế được khả năng tự học của học
  5
sinh.Với  môn  Văn,  không  một  bài  học  có  sẵn  nào  có  thể  thay  thế  được  năng
khiếu, lòng say mê và sự tự giác học bài của người học sinh. Chính nhà văn Nam
Cao từng  viết  : “Văn chương  không cần đến  những  người thợ  khéo tay…”,  bởi
văn  chương  rất  cần  đến  cá  tính  sáng  tạo  riêng  của  mỗi  người.  Chúng  tôi  quan
niệm một bài văn hay phải là một thế giới sáng tạo, không có một thứ khuôn mẫu
nào thay thế được. Trong một vài kỳ thi trước, thỉnh thoảng báo chí có đăng tải
một vài bài văn đạt điểm 10 của học sinh, chúng tôi cho rằng, chỉ một số ít bài
trong đó xứng đáng, còn lại đều không xứng đáng, bởi học sinh chỉ biết viết thụ
động theo bài học có sẵn. Một bài văn hay, tôi muốn nhắc lại, ngoài việc đáp ứng
được những  yêu cầu của đề ra, còn phải là  những rung động riêng tư của người
viết. Hãy dũng cảm ! Mục tiêu trước mắt của chúng ta vẫn là cổng trường Đại học
cần phải vượt qua…
Chúc các bạn đạt được kết quả tốt nhất trong kì thi  đầy cam go và vất vả
này !
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                               
    6
  7
 
 
 
 
 
Phần một
 
Các chủ đề cơ bản 
ôn thi vào đại học, cao đẳng môn Ngữ văn
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
    8
I – Cấu trúc và giới hạn nội dung đề thi (Theo văn bản được ban hành của
Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2009)
A – CẤU TRÚC ĐỀ THI
I. Phần chung cho tất cả các thí sinh (5,0 điểm) 
Câu 1 (2 điểm) : Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm Văn
học Việt Nam.
Câu 2 (3 điểm) : Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã
hội ngắn (không quá 600 từ)
– Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
– Nghị luận về một hiện tượng đời sống
II. Phần riêng (5,0 điểm) : Vận dụng khả năng đọc hiểu và kiến thức văn học
để viết bài nghị luận  văn học (Thí  sinh chỉ được làm một trong hai câu III.a
hoặc III.b)
Câu III.a : Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm)
Câu III.b : Theo chương trình nâng cao (5,0 điểm)
B – MẪU ĐỀ THI ĐẠI HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH MỚI (MINH HOẠ)
Bộ GD và ĐT        KÌ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 2009 
                   (Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian chép đề)
 
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2,0 điểm)
Trình bày ngắn gọn những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.
  9
Câu II  (3,0 điểm)
“Trong thế giới AIDS khốc liệt này không có khái niệm chúng ta và họ. Trong
thế  giới  đó,  im  lặng  đồng  nghĩa  với  cái  chết”  (Thông  điệp nhân  ngày  thế  giới
phòng chống AIDS, 1 - 12 - 2003, Cô-phi  An-nan, theo Ngữ văn 12, tập I, trang
83, NXB Giáo dục, 2009).
Anh/ chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên ?
PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a (5 điểm) : Trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo có đoạn :
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy 
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
 không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng 
Lor-ca bơi sang ngang
 trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa hộ mệnh
vào xoáy nước
    10
 chàng ném trái tim mình
 vào lặng im bất chợt 
 li-la li-la li- la
                                  (Theo Ngữ văn 12, tập một, trang 165, NXB Giáo dục,  2008)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ trên.
Câu III.b (5.0 điểm)
Hãy  phân  tích  nét  đặc  sắc  nghệ  thuật  truyện  ngắn  Hai  đứa  trẻ  của
Thạch Lam.
                  (Theo Ngữ văn 11 Nâng cao, trang 55, NXB Giáo dục, 2007)
 
C- Giới hạn nội dung đề thi
      Nội dung đề thi đại học và cao đẳng năm 2009, theo giới hạn của Bộ Giáo dục
và Đào tạo bao gồm cả phần kiến thức lớp 11 và 12, dung lượng bài học gần như
tương đương nhau, mặc dù, những người có trách nhiệm khi trả lời báo chí thường
khẳng định, đề thi sẽ nghiêng về chương trình 12. Tuy nhiên, một cách chính xác,
theo thống kê của chúng tôi dưới đây, phần văn học lớp 11 có 16 bài (so với tương
quan 18 bài của lớp 12). Tỉ lệ đó phản ánh chính xác tương quan câu hỏi đề thi
trong các năm vừa rồi. Thông thường, trong ba câu hỏi của một đề thi, có hai câu
thuộc chương trình lớp 12. Đó là vấn đề thứ nhất học sinh cần phải chú ý.
    Điểm thứ hai cần chú  ý là  so  với  các năm trước,  bài học  trong chương trình
năm nay có rất nhiều thay đổi. Ngoài 5 bài tác giả vẫn được giữ nguyên, có tới 16
bài học mới được đưa vào chương trình, so với 18 bài học cũ được giữ lại, chiếm
tỉ lệ khoảng 47%. Thậm chí có khá nhiều bài nghị luận văn học, chính trị, xã hội,
kể  cả  những  vấn  đề  vừa  nẩy  sinh  trong  cuộc  sống  hàng  ngày,  vốn  không  nằm
trong thói quen làm văn của học sinh lâu nay cũng được đưa vào nội dung đề thi.
Vì vậy chúng tôi muốn đưa ra lời khuyến cáo với các em học sinh rằng, để làm tốt
các bài thi của mình, thực hiện giấc mơ vào đại học, chúng ta cần phải tăng cường
rèn luyện làm quen với các câu hỏi thuộc dạng trên, nghĩa là phải tăng cường tính
chủ  động, không  nên  nghĩ  chỉ  có  những  bài  học  chính  thức  trong  chương  trình
mới thuộc nội dung ra đề. Do trong sách giáo khoa không có những bài học chính
thức  thuộc  dạng  này,  học  sinh  chỉ  được  giáo  viên  hướng  dẫn  trong  phần  thực
  11
hành, nên cũng có trường, có nơi, học sinh thường ít có thói quen rèn luyện. Điều
đó cần phải sớm được thay đổi. Trong cấu trúc đề thi mới, người ra đề có quyền
đưa  vào  nội  dung  câu  hỏi  bắt  buộc  (3  điểm)  dạng  đề  thi  nghị  luận  các  vấn  đề
chính trị, xã hội, văn học như thống kê mẫu đề thi của chúng tôi phía dưới. Để các
bạn nắm được chi tiết đề thi năm nay, chúng tôi thống kê dưới đây nội dung hạn
chế chính thức của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chú ý, cột có đánh dấu cộng là lưu ý
nội dung các bài học có thể được sử dụng cho loại câu nào.
 
STT  Kiến thức  Câu I        câu III.a     Câu III.b
1        Tác gia Hồ Chí Minh  +
 
  +
2        Tác gia Tố Hữu  +
 
  +
3        Tác gia Nam Cao  +    +
4        Tác gia Nguyễn Tuân  +    +
5        Tác gia Xuân Diệu  +    +
6        Hai đứa trẻ  +  +  +
7        Chữ người tử tù  +  +  +
8        Vội vàng  +  +  +
9        Đây thôn Vĩ Dạ  +  +  +
10       Tràng giang  +  +  +
11       Tương tư    +  +
12       Hạnh phúc của một tang gia  +  +  +
13       Chí Phèo  +  +  +
14       Đời thừa  +  +  +
15       Nhật ký trong tù    +  +
16       Chiều tối  +  +  +
17       Lai Tân    +  +
18        Từ ấy  +  +  +
19       Về luân lý xã hội ở nước ta  +  +  +
    12
20       Một thời đại trong thi ca  +  +  +
21       Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài  +  +  +
22       Khái quát văn học Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ 
XX 
+  +  +
23       Tuyên ngôn Độc lập  +  +  +
24       Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc
+  +  +
25       Tây Tiến    +  +
26       Việt Bắc  +  +  +
27       Tiếng hát con tàu      +
28       Đất Nước  +  +  +
29       Sóng  +  +  +
30       Đàn ghi ta của Lor-ca  +  +  +
31       Người lái đò sông Đà  +  +  +
32       Ai đã đặt tên cho dòng sông ?  +  +  +
33       Vợ nhặt  +  +  +
34       Vợ chồng A Phủ  +  +  +
35       Rừng xà nu  +  +  +
36       Những đứa con trong gia đình  +  +  +
37       Chiếc thuyền ngoài xa  +  +  +
38       Một người Hà Nội       +
39       Hồn Trương Ba, da hàng thịt  +  +  +
 
II – NHỮNG CHỦ ĐỀ CƠ BẢN CẦN PHẢI CHÚ Ý
Phần cấu trúc và hạn chế nội dung đề thi đại học, cao đẳng năm 2009 chúng
tôi giới thiệu ở trên chỉ là những định hướng cơ bản. Để xác định rõ hơn hướng ôn
tập của mình, học sinh cần phải nắm được những chủ đề cơ bản trong phần nội
dung, dạng đề thi cho từng loại câu, dung lượng cần thiết cho mỗi câu hỏi đề thi
như thế nào, làm cách nào để xử lí các dạng câu hỏi tốt nhất,... Tóm lại, để vượt
  13
qua những  khó  khăn, đạt được  kết quả như mong muốn, mỗi học  sinh cần phải
nắm được những bí quyết nào? Đây là phần dành riêng trả lời những câu hỏi đó. 
1.  Tái  hiện  kiến  thức  về giai  đoạn  văn  học,  tác  giả,  tác  phẩm  văn  học
Việt Nam
Khác với kỳ thi tốt nghiệp, nội dung hạn chế thi đại học và cao đẳng không
yêu cầu thí sinh phải học phần văn học Việt Nam từ thời điểm 1930 trở về trước
và phần văn học nước ngoài. Thí sinh sẽ chỉ chủ yếu tập trung vào phần văn học
Việt Nam từ 1930 trở đi. Cụ thể hơn, chỉ những phần đã được giới hạn trong nội
dung như chúng tôi đã thống kê ở trên. Trong phần này, yêu cầu đề thi cũng rất cụ
thể  :  học  sinh phải nắm  vững các  kiến thức  về giai đoạn  văn học,  trào lưu văn
học, tác giả và tác phẩm để trả lời các câu hỏi dạng câu 2 điểm. Với câu hỏi thuộc
dạng này, thí sinh chỉ cần viết trong khoảng từ 30 đến 50 dòng, tuỳ thuộc vào yêu
cầu cụ thể của đề và khả năng nhớ và hiểu kiến thức của học sinh. Những bài viết
dài dòng cho dạng câu hỏi này hoàn toàn không cần thiết, vì dù thế nào, bài thi
cũng không vượt điểm 2, là khung điểm tối đa cho câu hỏi loại này. 
*  Về mảng kiến thức giai đoạn văn học, trong nội dung  hạn chế, chỉ có
duy nhất một bài học (Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám
1945 đến hết thế kỉ XX), nhưng do đây là một giai đoạn dài, có nhiều biến cố
và cũng có những đặc điểm riêng, đề thi cũng có thể chia nhỏ chứ không hỏi
toàn  bộ  giai  đoạn.  Chẳng  hạn,  đề  thi  chỉ  kiểm  tra sự  hiểu  biết  của  học  sinh
riêng  về  giai đoạn  văn  học  chống Pháp (từ 1946 đến 1954)  ; hoặc giai đoạn 
từ 1955 đến 1964  hoặc nữa, từ 1964 đến  1975. Trong ba giai đoạn  này cần
nhớ được những ý chính như sau :
– Từ 1946 đến 1954, chủ đề bao trùm là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi tinh thần
đoàn kết và tập trung cho kháng chiến chống Pháp.
– Từ 1955 đến 1964, chủ đề chính là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Nhân vật trung tâm là người lao động
mới và người chiến sĩ giải phóng.
– Từ 1964 đến 1975, văn học chủ yếu tập trung cho kháng chiến chống Mỹ,
giải phóng đất nước, chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng…
    14
Nhìn chung, khi tiếp xúc với dạng câu hỏi này, học sinh chỉ cần nhớ được những ý
cơ bản, trong đó gồm yếu tố bối cảnh xã hội, thành tựu của văn học, tác giả và tác
phẩm chính. Mỗi giai đoạn chỉ cần nói được một vài đặc điểm cơ bản là được.
* Mảng kiến thức về trào lưu văn học, hạn chế chương trình chỉ có duy nhất
bài học Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh. Đây còn là dạng bài nghị luận
văn học. Học sinh có thể thông qua bài học này để nhận biết một bài văn nghị luận
văn học nghĩa là như thế nào. Tuy nhiên, vì vẫn thuộc dạng câu hỏi 2 điểm, chúng
ta cũng chỉ cần nhớ và hiểu được tư tưởng cốt lõi của Hoài Thanh, nắm được tinh
thần Thơ mới, theo ông là gì ? Thơ cũ và Thơ mới khác nhau ở chỗ nào ? Hạn chế
và đóng góp của cái Tôi Thơ mới ?  
*  Về mảng kiến thức  tác giả,  nên  nhớ trong  nội dung  hạn chế  có 5 tác giả
được  lưu ý  sử dụng  cho  câu  hỏi  thi  thuộc  dạng  này.  Đó  là  Xuân  Diệu,  Nguyễn
Tuân, Nam Cao, Tố Hữu và Hồ Chí Minh. Vì đây cũng là dạng câu 2 điểm, nên
khi viết, học sinh cũng phải tự hạn chế dung lượng bài làm của mình. Nên cố gắng
viết ngắn, thậm chí bài viết có thể gạch đầu dòng các ý chính mà không bị coi là
phạm  quy.  Tuy  nhiên,  xung  quanh  khối  kiến  thức  này,  cần  phân  biệt  được  hai
dạng câu hỏi : hoặc đề chỉ yêu cầu tóm tắt sự nghiệp chính của nhà văn, hoặc hỏi
về  phong  cách nghệ  thuật  của  nhà  văn.  Trong  cả  hai  trường  hợp,  ta  có  thể  tận
dụng các ý của nhau, chẳng hạn, với dạng thứ nhất, nên tập trung kỹ hơn vào các
sự kiện ngày tháng, tên tác phẩm, rồi tóm tắt đặc điểm sáng tác ; ở dạng thứ hai,
nên tập trung nêu đặc điểm phong cách sáng tác của nhà văn, nhưng cũng vẫn cần
nhắc qua sự kiện. Ngoài ra, còn có thể có cả dạng câu hỏi yêu cầu nêu quan điểm
nghệ thuật của nhà văn (Quan điểm nghệ thuật của Hồ Chí Minh, quan điểm nghệ
thuật Nam Cao trước Cách mạng,…) ; hoặc thông qua một đoạn văn, nhân vật,…
để phát biểu quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Những câu hỏi thuộc dạng này,
sách giáo khoa trình bày khá đầy đủ. Học sinh có thể tham khảo trong đó.
* Về mảng kiến thức tác phẩm, có ba dạng chính học sinh cần phải nắm được
để viết bài : một là với một số tác phẩm, đề thi có thể yêu cầu tóm tắt cốt truyện
(Vợ  chồng A  phủ, Rừng  xà nu,  Chiếc  thuyền ngoài  xa,  Vợ  nhặt,...)  ;  hai  là  nêu
hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của nhà văn (Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc
nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc, hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của Tuyên
ngôn Độc lập,…) ; ba là yêu cầu giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm (nhan đề
  15
Rừng xà nu, Tiếng hát con tàu, Vợ nhặt,…). Phần vận dụng kiến thức viết bài
cho dạng câu 2 điểm, thực  ra không đòi hỏi kĩ năng  nhiều. Chỉ cần  học sinh
thuộc bài và biết vận dụng đúng cho từng loại câu hỏi.
2.  Vận  dụng  kiến  thức xã  hội  và  đời  sống  để viết  bài  nghị  luận  xã  hội
ngắn (không quá 600 từ) 
Trong nội dung hạn chế đề thi tuyển sinh cao đẳng và đại học năm 2009, đây
là  phần được coi là  mới nhất.  Đúng ra, dạng đề thi thuộc  loại này trước  đây đã
từng rất quen thuộc với học sinh. Chỉ từ khoảng mười lăm năm lại đây, trong đề
thi làm văn của học sinh bậc phổ thông trung học, người ta không còn ra loại đề
này, và năm nay nó mới quay trở lại,  nên học sinh,  nhất là  khối  thí  sinh  tự  do
cảm thấy bỡ ngỡ. Tuy nhiên, với những học sinh đã học chương trình mới từ
đầu,  nếu  được  thầy  cô  giảng  dạy  chu  đáo  và  bản  thân  thường  xuyên  rèn
luyện, đây cũng chỉ là bài làm văn thông thường, không khó.
Để làm tốt câu hỏi dạng này, học sinh trước hết phải nắm được những vấn đề
lý thuyết về văn nghị luận. Những kiến thức này đã có đầy đủ trong các bài học
của sách giáo khoa, học sinh chỉ cần bỏ một chút thời gian để ôn luyện lại. Dưới
đây là một số kiến thức chính cần phải nhớ :
– “Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lý lẽ, phán đoán, chứng
cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết
học, đạo đức,…). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ.
Luận  là  bàn  về  đúng,  sai,  phải,  trái,  khẳng  định  điều  này,  bác  bỏ  điều  kia,  để
người ta nhận ra chân lý, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của
mình.  Sức  mạnh của  văn  nghị  luận  là  ở sự sâu  sắc của  tư tưởng,  tình cảm, tính
mạch  lạc,  chặt chẽ của suy  nghĩ  và  trình bày,  sự thuyết phục của lập luận. Vận
dụng các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…”  (Sách
giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai).
– Nghị luận xã  hội là  những bài  văn bàn  về xã hội,  chính trị… Đề tài của
dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về
tư  tưởng, đạo lí,  một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc  tiêu  cực trong
cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn cầu
hoá,…Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học,
nhà văn… làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được
xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị.
    16
– Do đây là dạng câu hỏi bắt buộc trong chương trình thi, nhưng lại không có
những bài học sẵn như nghị luận văn học, để làm tốt câu hỏi này, thí sinh cần phải
nắm vững các vấn đề sau :
+ Phải biết phát huy mọi loại kiến thức, trong nhà trường cũng như trong cuộc
sống để so sánh, phát triển, vận dụng vào bài viết sao cho phong phú, sâu sắc, đầy
đủ, cô đúc nhất.
+ Phải chủ động, mạnh dạn trong khi viết bài, vì không giống với nghị luận
văn học, nói chung người viết có thể dựa vào bài học có sẵn, hoặc được thầy cô
giáo hướng dẫn, bài nghị luận xã hội hoàn toàn buộc người viết phải chủ động đề
xuất chính  kiến của mình, có thể đúng  hay chưa đúng, được số đông chấp  nhận
hay không chấp nhận,… miễn là nó thuyết phục được người đọc bằng những lý lẽ
xác đáng của mình.
+ Dạng câu hỏi nghị luận xã hội chỉ được cho tối đa 3 điểm, nên dung lượng
bài viết cũng không nên quá dài. Trong yêu cầu cụ thể, đề thi có thể ghi rõ bài viết
không vượt quá 600 chữ, nghĩa là với khổ giấy thi được sử dụng chính thức như
hiện nay, nó chỉ cần không quá 2 trang, viết ngắn quả là khó hơn viết dài, thí sinh
cần phải chú ý thời gian để không bị phân tán tư tưởng, tránh ảnh hưởng đến phần
bài làm khác. Để giúp học sinh làm quen với dạng đề thi này, chúng tôi xin dẫn ra
đây một số câu hỏi tiêu biểu (mặc dù với dạng đề thi này, ở trường, học sinh đã
được dành thời gian và luyện tập  nhiều). Trước tiên, chúng ta phải làm quen với
các dạng câu hỏi :
1. Anh/ chị hãy bình luận ca từ sau đây trong một bản nhạc của Trịnh Công
Sơn : “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng - Để làm gì em biết không?”.
2. Một con người làm sao có thể nhận thức được chính mình ? Đó không chỉ
là việc của tư tưởng mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình,
lúc đó bạn lập tức hiểu được giá trị của mình (Gớt). Anh/ chị hiểu như thế nào về
ý kiến trên.
3. Trong một lần trả lời con gái thế nào là hạnh phúc, Mác nói : “Hạnh phúc là
đấu tranh”. Anh / chị hiểu câu nói trên như thế nào.
4. “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” (Gớt). Anh/
chị hiểu câu nói trên như thế nào.
  17
5. Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội
hiện nay.
6. Viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp bảo đảm an toàn giao thông
hiện nay.
7.  Anh/  chị  hãy  trình  bày  suy  nghĩ  của  mình  về  bệnh thành  tích  – một  căn
bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay. Có thể so
sánh liên hệ với trường và lớp anh/ chị đang theo học…
 Dạng câu  hỏi  nghị  luận  xã  hội  như  đã  nêu  ở  trên,  khá  rộng  mở.  Chúng  ta
không thể có cách học nào tốt hơn là rèn luyện thật nhiều kỹ năng đọc - hiểu văn
bản, phải nắm vững và làm chủ được nhiều loại kiến thức, và phải biết phát huy
tính chủ động trong suy nghĩ của mình. Trong hạn chế chương trình với dạng đề
này, học sinh lại phải nắm được hai dạng chính đã được hạn chế :
 + Một là loại bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý (chẳng hạn câu ca từ của
Trịnh Công Sơn, câu trả lời của Mác với con gái, câu nói của Gớt về vai trò quan
trọng của thực tiễn so với lý thuyết,…).
 + Hai là loại bài nghị luận về một hiện tượng đời sống (Về căn bệnh vô
cảm, về bệnh thành tích, về thói quen sinh hoạt hàng  ngày, về thái độ thi cử
thiếu trung thực).
 Một bài nghị luận xã  hội dù dung lượng không dài cũng vẫn phải đảm bảo
cấu trúc của một bài làm văn, nghĩa là vẫn phải có mở bài, thân bài và kết luận.
Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm mà đề ra yêu cầu. Phần thân bài,
phải triển khai tiếp các luận điểm đã được nêu ra ở phần đầu, và cuối cùng, phần
kết thúc, người viết phải đưa ra kết luận của cá nhân mình về vấn đề nêu ra, đúng
hay sai ? Bài học nào được rút ra cho cá nhân người viết ?... Chúng tôi muốn thử
nêu dưới đây phần lập luận khi tiếp xúc với một đề thi nghị luận xã hội cụ thể, để
giúp các bạn học sinh làm quen với dạng đề thi khó và mới này. 
 * Câu 2 (Bình luận câu nói của Gớt), trước tiên, chúng ta cần phải xác định
rõ, cốt lõi câu nói của Gớt là gì ? “Một con người làm sao có thể nhận thức được
chính mình ?”. Gớt mở đầu câu nói của mình như thế. Nếu chỉ dừng ở đây thôi, có
thể ta chưa thể hiểu ngay được điều Gớt muốn nói. Hoặc nếu cố gắng hiểu, ta sẽ
chỉ dừng  lại ở  nhận thức  rằng, Gớt nghi  ngờ vai trò của tư tưởng trong  việc  tự
nhận thức của con người. Bởi lẽ, ngay cả bản thân mình, bằng tư duy (tư tưởng)
    18
mà  con người cũng  không  hiểu được  mình, thì thật  lạ.  Tuy  nhiên,  đọc  tiếp, suy
nghĩ của ta về câu nói của Gớt có thể sẽ thay đổi : “Đó không chỉ là việc của tư
tưởng mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình, lúc đó bạn sẽ
hiểu được giá trị của mình”. Đến đây, Gớt mới hé mở cho ta hiểu được đầy đủ hơn
ý đồ câu nói của  ông.  Khi  nhận  xét, “Một con người  làm  sao có thể  nhận thức
được chính mình”, chẳng phải vì ông đánh giá thấp vai trò của tư duy. Bởi lẽ từ
tận thế kỷ XVII, Đề-các đã từng đánh giá rất cao vai trò của tư duy, “Tôi tư duy
vậy thì tôi tồn tại”.  Mác cũng từng đề cao vai trò của nhận thức trong  việc  tìm
hiểu thế giới của con người. Vậy thì không thể đến thế kỉ XVIII, Gớt lại đi ngược
lại sự phát triển ? Tuy nhiên, khi con người tiến hành hoạt động tự nhận thức bản
thân mình, họ dễ rơi vào chủ quan, dễ tự tán dương, huyễn hoặc mình, nhất là khi
hoạt động “tự nhận thức” đó tách rời khỏi thực tiễn. Nó chỉ là một thứ lý thuyết
suông. Chính Gớt cũng đã từng nói, “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là
mãi mãi xanh tươi”. Không có thực tiễn, không có gì đảm bảo tính chính xác của
lý  thuyết.  Thực  tiễn  là  thước  đo  chân  lý.  Mác  đã  từng  nói  về  con  đường  biện
chứng của quá trình nhận thức thế này : “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận
thức”. Thực tiễn có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức của con
người. Bản thân mỗi con người, dù thông minh đến mấy, cũng không thể thay thế
hoạt động thực tiễn bằng lý thuyết thuần tuý. Chúng ta hãy hình dung rằng, liệu
Niu-tơn có đề xuất được thuyết lực  hấp dẫn của trái đất không nếu không có sự
kiểm chứng hiện tượng quả táo rơi mà chính ông được chứng kiến ? Sau đó liệu
ông có thể phát huy được khả năng của mình không, nếu không có hoạt động thực
tiễn đó ? Đấy là chưa kể, bản thân mỗi con người, nếu tự đánh giá bản thân mình
thì cũng khó có thể tránh được sự chủ quan. Con người, nếu chỉ nói suông không
bao giờ có thể thuyết phục được người khác, lại càng không thể bắt người khác
phải  tin  vào  lời  nói  lý  thuyết  của  mình.  “Hãy  ra  sức  thực  hiện  bổn  phận  của
mình”, nghĩa là tự mình phải hành động. Chỉ khi chính bản thân mỗi cá nhân dám
tách ra khỏi mình, làm việc, hành động, cá nhân đó mới nhận thức được đúng đắn
giá trị bản thân. Chân lý này không chỉ đúng với một cá nhân, mà còn là thước đo
cho cả một tập thể, rộng hơn nữa là một dân tộc… 
Phần nghị luận xã hội trong cấu trúc đề thi lần này là hoàn toàn mới. Nó rất
cần  khả năng thích ứng với những vấn đề mới của cuộc sống sôi động đang diễn
ra hiện nay và thử thách tính chủ động của học sinh.  
  19
3. Vận dụng khả năng đọc - hiểu để viết bài nghị luận văn học
Đây là phần quan trọng nhất của nội dung đề thi, vì riêng dạng câu hỏi này, đã
có một nửa  tổng số điểm (5 trên 10 điểm  của toàn bài). Trong 39 đơn vị bài ở
phần hạn chế, các bài học nằm trong khuôn khổ đề thi này chiếm 30. Đây là phần
không  quá  khó  đối  với  học  sinh,  vì  những  bài  văn  này  thường  được  rèn  luyện
nhiều nhất trong suốt ba năm phổ thông trung học. Thêm nữa, phần II, cuốn sách
của chúng tôi sẽ có những hướng dẫn chi tiết về cách xử lý các dạng đề thi cụ thể
trong từng bài học. Để giúp học sinh nắm được những vấn đề khái quát trước khi đi
vào phần cụ thể, chi tiết, chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây những khả năng trong tình
huống ra đề, cách nhận biết yêu cầu cụ thể của đề, các nhóm chủ đề trong phần tác
phẩm hạn chế thi…
3.1. Trong cấu trúc đề thi, đây là câu quan trọng nhất. Quan trọng không chỉ
vì nó chiếm một nửa tổng số điểm, mà còn vì đây là câu có dung lượng lớn nhất
trong đề thi để thí sinh bộc lộ khả năng viết một bài nghị luận văn học của mình.
Với câu hỏi này, trước khi làm bài, thí sinh phải dành thời gian phân tích, suy xét
thật rõ ràng yêu cầu cụ thể của đề ra là gì ? Đề ra yêu cầu phân tích, bình giảng,
bình luận, chứng minh hay giải thích. Kinh nghiệm nhiều năm qua của chúng tôi
khi tiếp  xúc  với  học sinh cho biết rằng,  không ít học sinh đã  bỏ quá  nhiều  thời
gian cho khâu này. Theo chúng tôi,  không nên quá băn khoăn về các thao tác trên
đây, vì suy cho cùng, trước bất cứ một đề văn nào, người viết cũng phải huy động
hết các khả năng có thể trong khi làm bài. Một bài văn hay là bài làm có sự nhuần
nhuyễn, hài hoà của tất cả các thao tác đó.
 Về cách nhận dạng đề thi, thông thường, chúng ta sẽ không khó khăn gì với
loại câu hỏi đã  được xác định rõ ràng trên câu chữ, chẳng hạn : Phân tích vẻ đẹp
của hình tượng Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Bình giảng khổ thơ
sau đây trong bài Đây thôn Vĩ Dạ…, Tại sao trong Một người Hà Nội, Nguyễn
Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là “hạt bụi vàng” của Hà Nội ?, Bình luận câu nói
của Nam Cao trong tác phẩm Đời thừa “Văn chương không cần đến những người
thợ khéo tay…”. Trong bốn mẫu đề trên đây, thao tác cần phải lựa chọn đã được
xác định rõ trong ba đề (phân tích, bình luận, bình giảng). Chỉ duy nhất một câu,
yêu cầu đề hỏi là Tại sao? ta có thể hiểu ở đó đề thi yêu cầu học sinh sử dụng thao
tác giải thích.   
    20
 Trong các dạng đề thi, có thể có trường hợp phức tạp hơn. Chẳng hạn, đề ra
yêu cầu nối kết chủ đề của hai hoặc nhiều tác phẩm khác nhau như : Cùng viết về
Tây Bắc,  Quang Dũng trong bài Tây Tiến viết… Chế Lan Viên trong bài Tiếng
hát con tàu viết…; Cảm hứng quê hương đất nước trong hai bài thơ Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm  và Đất Nước của nguyễn Khoa Điềm ; Vẻ đẹp của hình
ảnh thiên nhiên qua Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ? (của
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường),…Với dạng câu hỏi này, thí sinh phải
tìm được nét giống và khác nhau của hai tác phẩm, phải lựa chọn cách xử lý đề
sao cho hợp lý nhất : làm bài theo hướng khái quát chung và so sánh trên từng vấn
đề, hay tách riêng phân tích theo từng bài rồi sau đó mới đi đến khái quát để tìm ra
đặc điểm chung…
– Cũng có những dạng đề, do câu chữ được rút gọn tối đa, nên thí sinh khi đặt
bút làm bài phải suy xét cẩn thận. Chẳng hạn, gần đây trong các kì thi đại học xuất
hiện kiểu đề không ghi rõ yêu cầu cụ thể của thể văn như phân tích, bình giảng,
hay  chứng minh mà  chỉ nêu ngắn  gọn : cảm  nhận (anh/ chị cảm  nhận như  thế
nào…). Cảm nhận thuộc thể văn nào, giải thích, chứng minh, bình luận hay phân
tích ? Đây là câu hỏi không dễ trả lời một cách rạch ròi. Trong phần thảo luận đáp
án trước khi chấm thi, theo tôi biết, một số Hội đồng chấm thi đã từng tranh cãi
gay gắt về dạng câu hỏi này. Có người cho rằng, vì đề chỉ yêu cầu học sinh nêu
cảm nhận nên họ có quyền làm bài một cách tự do, không cần phải theo một thể
thức, khuôn khổ nào. Lập luận hoàn toàn có lý. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, dù thế
nào, để đạt  yêu cầu  của  một bài văn,  thí  sinh  vẫn cứ phải đáp ứng được  những
nguyên tắc tối thiểu. Nghĩa là vẫn cứ phải làm rõ được các yêu cầu chính của đề
thi. Với dạng câu hỏi đó, thực chất bài làm của học sinh là sự tổng hợp của tất cả
các  phương  pháp,  chỗ  nào  cần  giải  thích  thì  giải  thích,  chỗ  nào  cần  phân  tích,
chứng minh thì phân tích, chứng minh… Cũng không nên quá băn khoăn về câu
chữ của đề. Với học sinh, yêu cầu trước mắt chỉ là một bài làm tốt.
3.2. Trong số 39 đơn vị bài học thuộc phần hạn chế ra đề, để dễ dàng và thuận
lợi cho việc ôn thi, học sinh cũng cần phải xác định được rõ ràng các nhóm vấn
đề,  hay  các nhóm  chủ  đề, đó  là  việc  làm  cần  thiết  trước  khi  bước  vào  ôn  tập.
Chúng tôi tạm phân chia các nhóm vấn đề đó như sau :
  21
– Nhóm những bài học khái quát tác giả, chúng tôi đã đề cập ở trên, nhưng
xin được nhắc lại : nhóm này gồm 5 bài (Xuân Diệu, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tố
Hữu, Hồ Chí Minh). 
– Nhóm những bài kiểm tra kiến thức về giai đoạn, trào lưu văn học, khái
quát tác phẩm gồm ba bài : Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, Khái quát
văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX  và Nhật ký
trong tù của Hồ Chí Minh.
–  Nhóm những bài nghị luận văn học và chính trị xã hội, gồm hai bài : Về
luân lí xã hội ở nước  ta  của Phan Châu Trinh và Nguyễn  Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng.
– Xét trên phương diện thể loại, trong số các bài hạn chế có 13 tác phẩm thơ,
2 tác phẩm kịch, 13 tác phẩm văn xuôi…
Phân loại theo chủ đề các tác phẩm văn học cũng sẽ giúp học sinh thuận lợi
hơn trong quá trình ôn tập, dù đây không hẳn là yếu tố quan trọng nhất, bởi hướng
ra đề thi hiện nay thường chỉ tập trung vào từng tác phẩm hay từng vấn đề cụ thể.
Tuy nhiên, phân loại tác phẩm theo chủ đề sẽ giúp học sinh hiểu và nhớ kiến thức
trong bài học dễ dàng hơn. Đồng thời trong khi giải quyết những đề thi độc lập,
thí sinh cũng có điều kiện so sánh giữa các tác phẩm với nhau cho bài làm thêm
phần sâu sắc, phong phú. Điều đó rất cần thiết.
 Thông thường khi phân  loại tác  phẩm  theo chủ  đề,  người ta  hay dựa  trước
tiên  vào  yếu  tố  thể loại  (thơ,  văn  xuôi,  kịch),  tiêu  chí  thời gian  (trước  hay  sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống Pháp, Mỹ),  dòng văn học
(lãng mạn, hiện thực, tượng trưng,…). Tại sao như vậy, vì các tác phẩm nằm trong
các khuôn khổ đó dễ có sự gặp gỡ nhau trong chủ đề, phương thức phản ánh.
 – Căn cứ vào tiêu chí thời gian và thể loại, ta có thể thấy bốn bài thơ Vội
vàng  của  Xuân  Diệu,  Đây  thôn  Vĩ  Dạ  của  Hàn  Mặc  Tử, Tràng  giang  của  Huy
Cận, Tương tư của Nguyễn Bính nổi bật nỗi buồn và nỗi cô đơn. Chi tiết hơn, ta
lại thấy Vội vàng là bài thơ bày tỏ quan điểm nhân sinh quan và cái đẹp, Tương tư
là bài thơ đi sâu vào sắc thái tình cảm nhớ nhung trong tình yêu, Đây thôn Vĩ Dạ
và Tràng giang là loại thơ về thiên nhiên, tình cảm của con người và lòng yêu quê
hương,  đất  nước  của  các  tác  giả  ở  thời  điểm  trước  Cách  mạng  tháng  Tám  năm
1945. Trước Cách mạng, phần văn xuôi lãng mạn có hai bài tuy không cùng chủ
    22
đề nhưng lại giống nhau ở phương thức thể hiện. Đó là Hai đứa trẻ và Chữ người
tử tù. Tác giả Chữ người tử tù khai thác chủ đề về một thời vang bóng. Ông chọn
nhân  vật chính là một bậc “tao nhân mặc khách”, một kiểu anh hùng theo quan
điểm của nhà lãng mạn Nguyễn Tuân. Huấn Cao, nhân vật chính còn được lấy từ
một mẫu nhân  vật có thật trong  lịch sử.  Đó là  nhà  thơ Cao Bá Quát. Xây dựng
nhân vật này, Nguyễn Tuân có sử dụng phương thức cường điệu, phóng đại cho
phù hợp với lý tưởng của một nhà lãng mạn, nên có một số chi tiết,  yếu tố chân
thực không được đặt lên hàng đầu (người đọc có thể có cảm giác không thật ở các
chi  tiết  :  tử  tù  mắng  quản  ngục,  coi thường  quản  ngục,  quản  ngục  sợ  tử  tù…).
Trong khi đó, cũng thuộc dòng văn học lãng mạn, Hai đứa trẻ của Thạch Lam lại
nhiều yếu tố hiện thực hơn. Thạch Lam không khai thác yếu tố hướng ngoại của
nhân vật mà chú ý hơn đến những cái bên trong, tâm lí nhân vật. Ngôn ngữ trong
tác phẩm của ông nhẹ nhàng, giàu chất thơ, trong khi Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân lại giàu chất tạo hình, có xu hướng hướng ngoại…
– Nhóm các tác phẩm văn xuôi hiện thực gồm Chí Phèo và Đời thừa của
Nam Cao, Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), trái lại
rất khác nhau về phương thức thể hiện. Trong khi Nam Cao, với cả hai tác phẩm
của mình đều đào sâu tấn bi kịch của con người thời kì trước Cách mạng (một bên
Chí Phèo là tấn bi kịch người nông dân, rộng hơn là bi kịch con người nhưng lại
không được thừa nhận làm người, còn bên kia, Đời thừa lại là bi kịch về người trí
thức tiểu tư sản có khát vọng, có lòng nhân ái nhưng bất lực vì hoàn cảnh xã hội),
chủ đề này chi phối văn phong sắc sảo, chua chát, chân thực của Nam Cao, thì
Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng lại sử dụng phương thức hoạt
kê, cường điệu, phóng đại để miêu tả đám tang cụ Tổ, cuối cùng nhằm phê phán
gay gắt bộ mặt giả nhân giả nghĩa, đạo đức giả của những kẻ thượng lưu thành thị
qua gia đình cụ cố Hồng. Khác nhau về phương thức thể hiện, nhưng vì đều thuộc
dòng văn chương hiện thực nên cả Nam Cao và Vũ Trọng Phụng đều được đánh
giá cao ở giá trị tố cáo xã hội trong tác phẩm của họ.
– Phần Thơ ca cách mạng giai đoạn 1930 - 1945 có hai nhà thơ mà chủ đề,
nội  dung  tác  phẩm  rất  giống  nhau,  đó  là  Hồ  Chí  Minh  và  Tố  Hữu.  Cho dù  số
lượng  tác  phẩm  được  chọn  trong  chương  trình  của  hai  nhà  thơ  này  không  cân
bằng với nhau (Hồ Chí Minh hai bài và cả phần khái quát tập thơ Nhật ký trong tù,
Tố Hữu chỉ duy nhất một bài trích trong tập thơ Từ ấy) nhưng ở tác phẩm của họ
đều toát ra vẻ đẹp  của  người cộng sản kiên cường bất khuất, khát  vọng tự do.
  23
Nếu cần so sánh một chút  sắc thái khác  nhau thì,  với Tố Hữu đó là  vẻ đẹp của
người thanh niên trẻ tuổi lần đầu tiên đến với cách mạng ; với Hồ Chí Minh lại là
người cộng sản đã vững vàng qua thử thách thời gian.
– Ba tác phẩm nghị luận Về luân lý xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh,
Một  thời  đại  trong  thi  ca  của  Hoài  Thanh,  Nguyễn  Đình  Chiểu,  ngôi  sao  sáng
trong  văn  nghệ  của  dân  tộc  của  Phạm  Văn  Đồng,  tuy  không  cùng  thời  điểm,
nhưng nếu đặt cạnh nhau, ta cũng có thể có được sự so sánh. Tác phẩm thứ nhất
của Phan Châu Trinh viết từ tận năm 1925 nhưng rất hiện đại, chí ít, nó cũng thể
hiện được sự hiện đại qua tư tưởng của người viết. Từ rất sớm, nhà yêu nước Phan
Châu  Trinh đã  dám  dũng  cảm  nói  thẳng  nói  thật  thói  xấu  cần  phải  sớm  được
khắc phục của người dân Việt, lời văn rất sắc sảo. Đây có thể được coi là một kiểu
mẫu cho loại văn nghị luận xã  hội. Trong khi đó, hai tác phẩm còn lại của Hoài
Thanh và Phạm  Văn Đồng lại thuộc văn nghị luận văn học. Hoài Thanh là điển
hình cho kiểu phê bình ấn tượng, đậm đà chất nghệ sĩ, chất thơ ; Phạm Văn Đồng
thì vừa thể hiện được nét sắc sảo của một nhà lãnh đạo cách mạng, lại vừa không
kém  phần  nghệ  sĩ.  Văn  phong  của  Phạm  Văn  Đồng  trong  Nguyễn  Đình  chiểu,
ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc là thứ văn chính luận – thi ca.
– Trong phần hạn chế nội dung, có hai tác phẩm kịch đều là trích đoạn ở hai
giai đoạn khác nhau : Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng là một vở
bi kịch,  Hồn  Trương Ba, da hàng thịt của  Lưu  Quang  Vũ lại  là  vở bi  hài kịch.
Tiếp xúc với hai tác phẩm này, học sinh cần phải nắm được đặc trưng thể loại (bi
kịch và bi hài kịch) mới hiểu được đúng giá trị thực của chúng.  Với bi kịch Vũ
Như Tô, khi phân tích, ta phải nhấn mạnh xung đột bi kịch của nhân vật chính Vũ
Như Tô, xung đột giữa cái đẹp và cái có ích, giữa thiểu số và số đông. Trong khi
đó nếu phân tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ,  vai trò của
yếu tố lời thoại của hồn Trương Ba lại được đặt lên hàng đầu.
 – Xếp ở nhóm những bài thơ từ sau Cách mạng tháng Tám, trong vệt thơ
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, phần hạn chế thi gồm ba bài : Tây Tiến,
Việt Bắc, và Đất Nước. Bài đầu tiên có chủ đề hình ảnh người lính (Tây Tiến) ;
bài thứ hai là bản sử thi về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc (Việt Bắc) ;
và bài thứ ba, Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) là sự cảm nhận tư
tưởng Đất Nước – Nhân dân hết sức độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Khi
học các tác phẩm này, thí sinh nên chú ý mở rộng tham khảo những bài đọc thêm,
như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đồng
    24
chí của Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu,… để so sánh, vì tất cả các bài thơ này
đều nằm trong vệt thơ ca có chủ đề cảm hứng quê hương đất nước hoặc chủ đề
người lính trong kháng chiến. Ngoài nội dung chính phản ánh cuộc kháng chiến
toàn dân,  toàn  diện  của  nhân dân,  các  bài  thơ  này  thường  nổi  bật  ở hai  chủ  đề
quen thuộc : tình yêu quê hương đất nước và lòng căm thù quân xâm lược. Đề
thi đại học năm 2007 đã từng yêu cầu học sinh phân tích hai đoạn thơ trong hai
bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm để
nêu cảm nhận sự giống và khác nhau về quê hương, đất nước của hai nhà thơ. Chủ
đề vẻ đẹp của quê hương đất nước còn được thể hiện qua hai bài tuỳ bút rất đặc
sắc của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai tác phẩm Người lái đò
Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?. Ôn tập hai tác phẩm này, thí sinh cần
chú ý đến đặc điểm của thể loại bút kí nói chung và tiểu loại tuỳ bút nói riêng. Về
thể loại bút ký, học sinh có thể xem lại bài học trong sách giáo khoa. Ở đây chúng
tôi muốn lưu ý thêm về thể loại tuỳ bút để khi phân tích so sánh các em có tư liệu
để viết bài.  Là  một tiểu loại của bút ký, ngoài  việc  đặt ở vị trí hàng đầu  yếu tố
quyết định của sự chân thực, tuỳ bút còn thiên về cảm nhận chủ quan của nhà
văn, chất thơ trong tuỳ bút là đặc điểm không thể thiếu. Cả hai nhà văn Nguyễn
Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều thể hiện khá rõ những phẩm chất này trong
tuỳ bút của hai ông.
– Ba bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và Sóng của Xuân Quỳnh,
Đàn ghi ta của Lor-ca nằm trong vệt thơ ca hiện đại mang những chủ đề khác
nhau. Tiếng hát con tàu là bài thơ in đậm dấu ấn về những ngày đầu xây dựng chủ
nghĩa  xã  hội  ở  miền  Bắc  nước  ta.  Bài  thơ  hưởng  ứng  chính  sách  của  Đảng  và
Chính phủ kêu gọi những chàng trai, cô gái, những người miền xuôi đến với các
miền đất lạ của đất nước, khám phá, khai thác tiềm năng xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong chủ đề lớn nêu trên đây, bài thơ của Chế Lan Viên còn có chủ đề hẹp
tình yêu riêng tư (“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét - Tình yêu ta như cánh
kiến hoa vàng”,…). Ngược lại, bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh lại khai thác chủ đề
hẹp tình yêu riêng tư, tình yêu lứa đôi để khái quát thành chủ đề lớn hơn, đó là vẻ
đẹp của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Bài Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà
thơ  Thanh  Thảo,  xét  ở  góc  độ phương  thức  thể  hiện,  là  tác  phẩm  hiện đại  nhất
trong số ba bài thơ này. Bài thơ thậm chí còn được coi là có ảnh hưởng nhiều của
loại thơ tượng trưng phương Tây có chủ đề rất rộng : thông qua hình ảnh tượng
trưng âm thanh tiếng đàn ghi ta của nhà thơ Lor-ca, Thanh Thảo muốn khái quát
  25
thành  vẻ đẹp bất tử của tâm hồn,  tài năng, tình  yêu,… của người nghệ sĩ xứ sở
những chàng hiệp sĩ đấu bò tót Tây Ban Nha…
 – Phần văn xuôi sau Cách mạng có số lượng tác phẩm nhiều hơn và chủ đề
cũng đa dạng hơn. Đó cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của văn xuôi
hiện đại mà học sinh phải nhớ. Khi học phần này, học sinh cũng có thể nhóm các
tác phẩm thành từng nhóm chủ đề riêng cho dễ nhớ và dễ hiểu. Hai tác phẩm Vợ
chồng A Phủ và Vợ nhặt có chung chủ đề về thân phận con người. Cả hai đều tập
trung làm nổi bật số phận của những người nông dân (Vợ chồng A Phủ là người
nông dân miền núi ; Vợ nhặt là người nông dân miền xuôi). Tính nhân đạo trong
cả  hai tác phẩm  cũng được  bộc lộ một cách rõ ràng.  Nếu chỉ  nói riêng  về  hình
tượng người phụ nữ trong văn học thì đây cũng là hai tác phẩm đề cập chủ đề này.
Mỵ trong Vợ chồng A Phủ, bà cụ Tứ và chị vợ nhặt trong Vợ nhặt đều gợi ở người
đọc sự cảm thương đối với con người, nhất là người phụ nữ. Vợ chồng A Phủ nếu
đặt trong sự so sánh với tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành sẽ còn tạo
thêm một cặp đôi tác phẩm văn xuôi viết về đề tài miền núi. Một bên, Rừng xà nu
là  một tác phẩm sử thi, vì nó phản ánh một bước ngoặt quan trọng của cách mạng
Việt Nam thời kì tiền đồng khởi ; còn bên kia, Vợ chồng A Phủ lại là bức “khắc
hoạ chân thực những nét riêng về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người
dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và
phong vị dân tộc” (Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập hai). Hai tác phẩm Rừng xà nu
và  Những  đứa  con  trong  gia  đình  (Nguyễn  Thi)  nếu  đặt  trong  tương  quan  với
nhau, thuộc các tác phẩm văn xuôi cách mạng miền Nam đã xây dựng thành công
hình tượng người cách mạng trong những ngày đầu chống Mỹ. Với Rừng xà nu lại
là hình tượng người cách mạng Tây Nguyên ; Những đứa con trong gia đình lại
là hình tượng người cách mạng Nam Bộ.
 –  Trong  số  các  tác  phẩm  văn  xuôi  mới được  đưa  vào  chương  trình  có  hai
truyện ngắn rất đặc biệt của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu : Một người Hà
Nội và Chiếc thuyền ngoài xa. Đây là hai trong số những tác phẩm tiêu biểu của
thời  kì  văn  học  đổi  mới,  mà  cả  hai  tác  giả  có  tác  phẩm  được  lựa  chọn  đều  là
những cái tên rất sáng giá. Nguyễn Minh Châu, tác giả của Mảnh trăng cuối rừng,
một  truyện  ngắn  hết sức  đặc  sắc  viết  về  vẻ đẹp  của  con  người  Việt  Nam  trong
chiến tranh ; và Nguyễn Khải, tác  giả của Mùa lạc, có chủ đề về sự thay đổi số
phận con người trong hoàn cảnh xã  hội mới. Cả hai nhà  văn trong hai tác phẩm
mới này đều bộc lộ cái nhìn tinh tế trước những biến đổi tinh vi của cuộc sống.
    26
Truyện của họ không còn đơn giản, không chỉ nhìn hiện thực từ một chiều, không
tô  hồng  hiện  thực.  Đặc  biệt,  cả  hai  đều  khai  thác  thế  mạnh  của  thể  loại  truyện
ngắn, trong đó, tình huống truyện được đặc biệt chú ý. Với Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu, đó là  tình  huống hoạ sĩ Phùng bất ngờ phát  hiện ra sự
nghịch lý của vẻ đẹp bề ngoài và hiện thực bên trong của một cặp vợ chồng người
thuyền chài trên chiếc thuyền đánh cá vào buổi sớm mai ; với Một người Hà Nội
của Nguyễn Khải, đó là vẻ đẹp của một người Hà Nội được đặt trong cuộc sống
hết đỗi bình dị hằng ngày. Tình huống mà Nguyễn Khải muốn đặt ra trong truyện
ngắn này là, trong cái bình thường, người ta nhìn thấy cái vĩ đại. Đó là triết lí của
Nguyễn Khải. Bà Hiền trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thực sự là một nhân
vật bình thường. Trong khi đó, với Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại
muốn đưa ra  triết  lý : đừng bao giờ  nhìn và đánh  giá  cuộc  sống chỉ qua  cái bề
ngoài. Cái bề ngoài rất dễ đánh lừa người khác… 
Tóm lại, chúng tôi cho rằng, những bài học được lựa chọn trong chương trình
thi tuyển sinh cao đẳng, đại học năm nay tuy có rất nhiều cái mới, nhưng vẫn nằm
trong khuôn khổ thi nhiều năm nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bất cứ kỳ thi nào
cũng đòi hỏi ở học sinh sự chủ động và tinh thần sáng tạo. Nếu nắm vững các kiến
thức được học  trong trường  và  có tinh thần sáng tạo, các em hãy tin cánh cổng
trường Đại học sẽ trong tầm tay của tất cả chúng ta.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  27
 
 
 
 
 
 
 
 
PHầN HAI
 
CáC DạNG Đề 
& HƯớNG DẫN LàM BàI THI MÔN VĂN
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
    28
Hai Đứa trẻ
 THẠCH LAM
A - DẠNG ĐỀ
–  Giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm Hai đứa trẻ.
– Phân tích tâm trạng cô bé Liên trong đêm đợi tàu.
– Nét đặc sắc nghệ thuật của truyện Hai đứa trẻ.
– Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo lúc chiều
tối. Chú ý làm rõ những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của tác giả (Đề thi
đại học năm 2004, dạng câu 3 điểm).
Một số lưu ý : Hai đứa trẻ có khá nhiều tình huống ra đề, nhưng nếu tinh ý,
về cơ bản, ta hoàn toàn có thể giải quyết các dạng đề chỉ trong cùng một mẫu bài
phân tích dưới đây. Chẳng hạn, nếu đề ra  yêu cầu phân tích giá trị hiện thực  và
nhân đạo thì bài làm đương nhiên phải phân tích cả hai ý chính : bức tranh phố
huyện và tâm trạng đợi tàu. Trong trường hợp đề ra yêu cầu phân tích nét đặc sắc
nghệ thuật của truyện ngắn thì bài làm  nên có cả ba ý chính, ngoài  1 và 2 (bức
tranh phố huyện, tâm trạng đợi tàu), nên có thêm ý phân tích nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên của tác giả. Cũng có năm, đề thi còn yêu cầu học sinh thống kê và nêu
nhận xét về sự đối lập, tương phản của hình ảnh ánh sáng được nhà văn cố tình
miêu tả trong truyện ngắn này (chẳng hạn : ánh đèn đoàn tàu và ánh đèn dầu nơi
quán nước chị Tý…). Cuối cùng, trường hợp đề ra hẹp hơn, chỉ yêu cầu phân tích
tâm trạng đợi tàu của cô bé Liên hoặc tâm trạng của hai đứa trẻ, hoặc riêng bức
tranh phố huyện và tâm trạng đợi tàu, bài làm vẫn cần thiết phải nêu được đầy đủ
cả ba ý chính của bài gợi ý phân tích dưới đây.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc, tiêu biểu cho đặc điểm tâm  hồn và
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Đây là một dạng truyện ngắn không có cốt
truyện hấp dẫn và phức tạp. Giá trị thực sự của tác phẩm chính là ở những trang
văn xuôi đầy chất thơ và những trang phân tích tâm lý tài tình của tác giả. Hai đứa
  29
trẻ là một bức tranh phố huyện nghèo vào lúc chiều tối và đêm xuống, đồng thời
cũng là khát vọng nhân đạo của Thạch Lam dành cho thế giới trẻ thơ.
II - PHÂN TÍCH : Nét đặc sắc, giá trị hiện thực và nhân đạo của Hai đứa trẻ
1. Bức tranh phố huyện – giá trị hiện thực  
– Hai đứa trẻ là một truyện ngắn có cốt truyện rất đơn giản và nhân vật không
nhiều, nhân vật chính thực chất chỉ là hai đứa trẻ trông một gánh hàng tạp hoá cho
mẹ ở một khu phố huyện, đó là Liên và An.
–  Truyện mở đầu bằng bức  miêu tả buổi chiều muộn  ở một làng quê, tiếng
trống thu không báo hiệu  ngày sắp tàn “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”,
“ánh mặt trời đỏ rực  như  ngọn  lửa  cháy và những đám mây ánh  hồng  như  hòn
than sắp tàn” như gọi đêm về. Đây là một bức tranh quen thuộc của nhiều làng quê
Việt Nam, nó gợi cho người đọc tình yêu đối với quê hương đất nước.
– Bức tranh phố huyện không chỉ dừng lại ở thiên nhiên mà còn là bức tranh
về đời sống xã hội. Bức tranh ấy được bắt đầu bằng một cảnh phiên chợ chiều đã
tàn, người về hết, trên mặt đất chỉ còn lại những đống rác rưởi. Có hình ảnh vài
đứa bé lom khom cúi nhặt một vật gì đó trong đống rác rưởi của một phiên chợ
vốn dĩ đã rất nghèo. Chị em Liên, nhân vật chính trong Hai đứa trẻ thường xuyên
chứng kiến cảnh tượng ấy. Chúng cảm giác như sự nghèo đói, khốn khổ, lầm than
thấm  đẫm trên từng mảnh đất quê hương.  Những trang miêu tả của Thạch Lam
vừa giàu tính hiện thực, vừa giàu tính nhân đạo.
– Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống : Trên nền hiện thực  lúc đêm xuống,
bức tranh phố huyện của Thạch Lam càng hiện ra rõ nét hơn. Trong bức tranh ấy
đã xuất hiện thêm những con người mà tất cả họ đều gợi cho ta cảm giác về sự tàn
tạ, nghèo khổ, tăm tối. Đó là chị Tý với quán nước vắng teo, không bán được cho ai
(chú ý ngọn lửa ánh sáng đèn dầu quán nước chị Tý), bác Siêu với một gánh phở -
một món hàng xa  xỉ đối với một làng quê nghèo, gia đình bác xẩm cả nhà ngồi
trên manh chiếu rách, cái thau sắt trắng để trước mặt tịnh  không có một ai đến
nghe. Cuối cùng là bà cụ Thi nghiện rượu, hơi điên với tiếng cười sằng sặc trong
đêm nghe  rất  ghê sợ.  Chỉ  vừa  đêm  xuống phố  huyện đã tăm tối một cách  khác
thường, chỉ còn vài ánh sáng leo lét ở xung quanh phố huyện. Bác Siêu vội dập tắt
bếp lửa, hai đứa trẻ cũng tắt ngọn đèn dầu ở quán tạp hoá để tiết kiệm tiền cho mẹ.
    30
– Đêm muộn hơn một chút, bóng tối bao trùm lên cả khu phố huyện, chỉ còn
lại duy nhất một chút ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn dầu nơi quán nước chị Tý. Ánh
sáng ấy không đủ để chiếu sáng xung quanh, nó leo lét, chỉ cần một cơn gió nhẹ
thôi cũng đủ tắt. Hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên cảm nhận một cách thấm thía và sâu
sắc bức tranh phố huyện về đêm. Liên có cảm giác như đêm hôm nay cũng giống
như đêm  hôm qua và sẽ  lặp lại trong  đêm  ngày mai. Đó chính  là  cội nguồn
nỗi buồn, là  lý do thúc đẩy  hai đứa  trẻ cứ mỗi đêm  lại thức  khuya  hơn một
chút  để  được  nhìn  thấy  một  chuyến  tàu  chạy  ngang  qua  phố  huyện  rồi mới
chịu đóng cửa hàng.
2. Tâm trạng đợi tàu – giá trị nhân đạo
– Thức đêm đợi tàu, hai đứa trẻ không nhằm mục đích thỏa mãn tính tò mò vì
đoàn tàu chỉ chạy qua trong chốc lát và đêm nào chúng cũng được nhìn thấy hình
ảnh quen thuộc này. Nhà văn Thạch  Lam  khi miêu tả tâm trạng đợi tàu của  hai
đứa trẻ hẳn là  nhằm mục đích khác. Là một nhà  văn lãng mạn, vốn không thích
cuộc sống đơn điệu, tối tăm, buồn thảm, Thạch Lam muốn thông qua tâm trạng
đợi tàu của hai đứa trẻ để bày tỏ khát  vọng nhân đạo của mình. Nhà văn khẳng
định vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong truyện. Trong cả đám đông người có
mặt ở khu phố huyện dường như chỉ có hai đứa trẻ có khát vọng được thay đổi.
Thức đêm đợi tàu, chúng đã thỏa mãn khát  vọng thoát ra  khỏi cảnh tăm tối của
phố  huyện.  Đoàn  tàu  và  phố  huyện  gần  như  đối  lập  hoàn  toàn  với  nhau  :  Phố
huyện thì tăm tối, đơn điệu, nghèo khổ, tàn tạ, yên tĩnh. Đoàn tàu ngược lại : ánh
sáng rực rỡ, màu sắc đa dạng, âm thanh sôi động. Hình ảnh đoàn tàu gợi về những
kỷ niệm tìm lại quá khứ của các nhà lãng mạn. Hai đứa trẻ đã từng có một thời kỳ
sống ở Hà Nội, đoàn tàu lại chạy từ Hà Nội, có lẽ vì thế mà chúng khát khao đợi
chờ.
– Thông qua tâm trạng đợi tàu của Hai đứa trẻ, Thạch Lam còn muốn gióng
lên một tiếng chuông cảnh tỉnh, khơi dậy niềm ham sống, khát vọng hướng về ánh
sáng của tất cả mọi người khi phải sống trong cảnh tăm tối.
3. Một vài nét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
– Như trên đã nói, Hai đứa trẻ là một truyện ngắn lãng mạn, cốt truyện không
thật sự hấp dẫn. Cái làm nên sự hấp dẫn của tác phẩm, ngoài tài năng phân tích
  31
tâm lý nhân vật của tác giả, còn thể hiện ở nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Bức
tranh  thiên  nhiên  dưới  ngòi  bút  của  Thạch  Lam  thực  sự  sống  động,  nó  đã  góp
phần không nhỏ vào việc khắc  hoạ tâm lý nhân vật, không gian phố huyện, một
không gian rất đặc trưng cho kiểu phố huyện (nửa phố, nửa làng) của nông thôn
Việt Nam. Nó rất nên thơ.
– Đi vào chi tiết, ngòi bút miêu tả của Thạch Lam tỏ ra hết sức tinh tế, khi ông
dựng lại sắc màu, mùi vị, âm thanh của bức tranh thiên nhiên nơi đây. Sắc màu
của  hoàng  hôn  đỏ  rực,  lũy  tre  làng  sẫm  đen,  ngàn  sao  lấp  lánh,  bóng  tối  thăm
thẳm, dày đặc, đom đóm lập loè… gợi cho  người đọc cảm giác nhẹ  nhàng,  yên
tĩnh ; mùi vị quen thuộc của cát bụi, mùi âm ẩm bốc lên từ chợ phố huyện, mùi 
riêng của đất của quê hương, khiến Liên có cảm giác đó  là  mùi vị của đói khổ,
lầm than. Âm thanh của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, tiếng lá bàng rụng khe
khẽ hàng loạt, tiếng trống thu không báo hiệu ngày sắp tàn dễ khiến ta đôi chút
cảm giác buồn. Toát ra từ bức miêu tả thiên nhiên phố huyện của Thạch Lam là sự
êm ả, đượm buồn, thấm đậm cảm xúc trìu mến, nâng niu của nhà văn luôn nặng
tình với quê hương.  Với cách miêu tả đặc sắc này, tác giả đã gợi được rất đúng
đặc trưng của không gian phố huyện, làm nền cho hoạt động con người, góp phần
tạo tâm trạng cho nhân vật, tạo chất trữ tình cho tác phẩm.
III - KẾT LUẬN
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn lãng mạn thể hiện rõ tài năng nghệ thuật và sự
gắn bó của nhà văn Thạch Lam với hiện thực cuộc đời. Bằng nghệ thuật miêu tả
và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế của mình, Thạch Lam đã mang đến cho bạn
đọc bức  tranh điển  hình  về một khu phố huyện  nghèo vào  lúc chiều tối và  đêm
xuống. Đi sâu phân tích tâm lý nhân vật, tác giả đã làm rõ nét tâm trạng con người
trong hoàn cảnh hiện thực tối tăm và nghèo khổ, từ đó khơi dậy những ước mơ,
khát vọng về đời sống tương lai, đó là nét đặc sắc nghệ thuật và đồng thời cũng là
giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. 
 
 
 
    32
NGUYễN TUÂN :  Sự NGHIệP Sáng Tác 
Và PHONG CáCH NGHệ THUậT
 
A - DẠNG ĐỀ 
– Hãy nêu những nét chính trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân (đề thi
đại học năm 2004, dạng câu 2 điểm).
– Nét đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử tù.
– Phân tích vẻ đẹp (hoặc nêu cảm nhận của hình tượng Huấn Cao) (đề thi đại
học năm 2002, dạng đề 5 điểm).
– Trong tác phẩm Chữ người tử tù, vì sao Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng viên
Quản ngục là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn loạn xô bồ”(đề thi đại học năm 2008, dạng câu 3 điểm). 
– Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn cuối tác phẩm Chữ người tử tù.
Một số lưu ý : Nguyễn Tuân trong chương trình có hai tác phẩm  nằm trong
tình  huống  ra  đề  thi,  ngoài  Chữ  người  tử tù  trong  sách  lớp  11,  còn  có  tuỳ  bút
Người lái đò Sông Đà trong chương trình lớp 12. Ngoài ra, trong chương trình thi
cũ, Nguyễn Tuân còn có đề riêng tác giả : tóm tắt sự nghiệp sáng tác hoặc phong
cách nghệ thuật của tác giả. Do trong chương trình thi chính thức về Nguyễn Tuân
có cả hai tác phẩm, nên đề có thể yêu cầu thí sinh phân tích cả hai nhân vật (Huấn
Cao và ông lão lái đò) trong hai tác phẩm thuộc hai giai đoạn khác nhau, để thấy
được tính nhất quán và biến đổi trong cách nhìn nhận con người tài hoa nghệ sĩ
của tác giả. Ví dụ, đề thi có thể yêu cầu : Nguyễn Tuân thường có cách nhìn nhận
con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ, hãy phân tích hai nhân vật Huấn Cao và ông
lão lái đò sông Đà để làm rõ nhận định trên. Riêng với Chữ người tử tù, lâu nay
học sinh thường chỉ chú ý đến dạng đề về nhân vật Huấn Cao, trong khi đó thực tế
cho thấy, đề thi có khi còn ra cả đề về nhân vật Quản ngục (đề thi năm 2008)… Vì
lẽ  đó, bài  gợi  ý  phân  tích  dưới  đây  ngoài  phần  phân  tích  Huấn  Cao,  giá  trị  tư
tưởng  và  nghệ  thuật  của  đoạn  văn  cuối,  còn  có  phần  gợi  ý  phân  tích  nhân  vật
Quản ngục. (Gợi ý về tác phẩm Người lái đò sông Đà nằm ở phần sau).
  33
B – GỢI Ý LÀM BÀI
 
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN (1910 - 1987)
– Nguyễn Tuân không phải là một nhà văn viết nhiều. Lao động nghệ thuật
với ông thực sự là một kỳ công, một thứ “lao động khổ sai”. Trước bất cứ một đối
tượng  hiện  thực  nào,  ngòi  bút  của  ông bao  giờ  cũng  hết  sức  thận  trọng.  Trước
Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân viết về ba đề tài chính : một là đề tài
“chủ nghĩa xê dịch” với những cảnh thiên nhiên, xã hội độc đáo, những cảm nghĩ
tinh  tế,  tài  hoa  trên  đường  du  ngoạn  khắp  đất  nước  (Một  chuyến  đi,  Thiếu quê
hương) ; hai là đề tài “Vang bóng một thời” viết về những thú chơi tao nhã của
người xưa như thưởng thức cái đẹp (Chữ người tử tù) hoặc có phần quái đản (Bữa
rượu máu) ; ba là đề tài đời sống truỵ lạc với thú uống rượu, hát ả đào, hút thuốc
phiện  (Chiếc  lư  đồng  mắt  cua).  Đấy  là  một  Nguyễn  Tuân  nghệ  thuật  vị  nghệ
thuật trong văn chương cũng như trong cuộc đời.
–  Sau  Cách  mạng  tháng  Tám  1945,  ngòi  bút  Nguyễn  Tuân  chuyển  biến
mạnh mẽ theo  hướng  cách mạng  và  kháng chiến  (Cỏ độc  lập,  Đường vui,  Tình
chiến dịch) : nhà văn đi sâu miêu tả hình tượng người lao động và người chiến sĩ.
Dưới ngòi bút của ông, họ không chỉ anh hùng mà còn có tư thế đẹp đẽ của những
người sinh ra trên một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến (Sông Đà, Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi).
– Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật
của  ông  :  có  cảm  hứng  đặc  biệt  với  những  gì  phi  thường,  nhìn  con  người  ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ, miêu tả hiện thực bằng nhiều tri thức khác nhau, rất
điêu luyện trong việc sử dụng thể tuỳ bút và ngôn ngữ văn học tinh tế…
 
CHữ NGƯờI Tử Tù
NGUYỄN TUÂN
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM 
Chữ người  tử tù  là  một  truyện  ngắn  đặc  sắc  của  Nguyễn Tuân  in  trong  tập
truyện Vang bóng một thời, xuất bản trước Cách mạng tháng Tám 1945 (gần đây
    34
nhất có ý kiến cho rằng, chính xác  hơn, Chữ người tử tù, in lần đầu tiên trên tờ
Tao Đàn, năm 1938, với nhan đề Dòng chữ cuối cùng). Cũng như phần lớn các
truyện khác trong tập truyện này, Chữ người tử tù đi sâu khắc  hoạ một thú chơi
tao nhã của những con người hết sức đặc biệt, đó là kẻ tử tù và viên quản ngục.
Nét độc đáo của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn này được thể hiện qua sự đối lập
và tương phản giữa thú chơi chữ và cảnh ngục tù, giữa người tử tù và viên quản
ngục.  Thông  qua  sự  đối  lập,  tương  phản  này,  Nguyễn  Tuân  muốn  ca  ngợi  và
khẳng định cái đẹp của tâm hồn con người và cái đẹp của nghệ thuật. Từ đó phủ
định  cái  xấu  xa  tàn  bạo  của  chế  độ ngục  tù  thực  dân phong  kiến.  Hai  nhân  vật
trung tâm của truyện làm nổi bật chủ đề tư tưởng trên là Huấn Cao, kẻ tử tù và
viên Quản ngục. 
II - Phân tích :  Nét đặc sắc của truyện ngắn Chữ người tử tù
1.  Đặc sắc trong xây dựng nhân vật Huấn Cao 
– Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng Huấn Cao lấy nguyên mẫu từ một nhân
vật có thật trong lịch sử, đó là nhà thơ Cao Bá Quát, một người nổi tiếng văn hay,
chữ tốt, khí phách can trường, làm quan dưới triều Nguyễn (Cao : Cao Bá Quát ;
Huấn : Huấn đạo). Do bất bình với triều đình, Cao Bá Quát đã cùng nhân dân Sơn
Tây đứng lên khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Cao Bá Quát bị giết. Rõ ràng
nhân  vật  này  phù  hợp  với  lý  tưởng  thẩm  mỹ của  Nguyễn  Tuân, ông  đã  hư  cấu
thành nhân vật chính trong truyện.
– Từ hình tượng Cao Bá Quát đến hình tượng Huấn Cao tất nhiên đã có nhiều
sáng tạo của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân muốn xây dựng một nhân vật
vừa tài hoa, khí phách lại vừa có vẻ đẹp tâm hồn. Ông đã đặt nhân vật vào một
hoàn cảnh đặc biệt (tử tù trong nhà ngục) và xây dựng nhân vật thứ hai bên cạnh
Huấn Cao để làm nổi bật vẻ đẹp của ông, đó là nhân vật Quản ngục.
+ Vẻ đẹp tài hoa : Tài hoa vốn là một phẩm chất được ưa thích trong nhiều
nhân vật của Nguyễn Tuân ở các tác phẩm của ông.
Quan niệm về tài hoa của Nguyễn Tuân cũng hết sức độc đáo. Ông cho rằng
bất cứ ai làm nghề  gì,  nếu đạt tới trình độ điêu luyện đều mang vẻ đẹp tài hoa.
Huấn Cao là một con người như thế. Nét tài hoa cụ thể của Huấn Cao là tài viết
chữ đẹp. Chữ của Huấn nổi tiếng khắp cả một vùng tỉnh Sơn, trước khi Huấn Cao
  35
bước vào nhà ngục thì viên Quản ngục và thơ lại đã biết đến tài viết chữ của ông
và từng mơ ước có được chữ của kẻ tử tù này treo trong nhà.
+  Vẻ đẹp  khí phách  :  Bên  cạnh  vẻ  đẹp tài  hoa,  Huấn  Cao  còn  là  một  con
người có khí phách can trường, đội trời đạp đất, hoài bão tung hoành. Trước khi
xuất hiện ở nhà ngục, Huấn Cao đã được biết đến như một kẻ có tài trèo tường bẻ
khoá,  không sợ bất cứ một quyền lực  nào.  Ngay  trong vẻ đẹp tài hoa của  Huấn
Cao đã thấy thể hiện rõ vẻ đẹp khí phách “nhất sinh không vì tiền bạc hay quyền
thế mà ép mình cho chữ bao giờ”. Huấn Cao chỉ cho chữ những người tri kỷ.
Khi xuất hiện ở nhà  ngục, khí phách của Huấn Cao càng được thể hiện một
cách rõ ràng, ông tự do hành động, nói năng theo ý mình, ông không hề có một
chút run sợ trước lũ cai tù và viên quản ngục, vẫn thản nhiên uống rượu khi được
viên Quản ngục mời, nhưng tỏ ra khinh bạc đối với viên Quản ngục. Ở phần cuối
tác phẩm, mặc dù biết ngày mai phải lãnh án tử hình,  Huấn Cao không hề tỏ ra
run  sợ, ông thản  nhiên  chờ  đợi  cái  chết  ở phía  trước  mình. Ông  vẫn  dành  phút
cuối cuộc đời mình viết chữ cho viên Quản ngục khi hiểu ra đây là một con người
tốt.  Cảnh  Huấn  Cao  viết  chữ  ở  cuối  truyện  ngắn  thể  hiện  cao  nhất  vẻ  đẹp  khí
phách của ông.
+ Vẻ đẹp tâm hồn : Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa và khí phách Huấn Cao còn thể
hiện rõ vẻ đẹp của con người có tâm hồn trong sáng và cao đẹp. Huấn Cao luôn
giữ vẻ đẹp của riêng mình. Ngay từ trong vẻ đẹp tài hoa và khí phách đã toát ra vẻ
đẹp của con người có “thiên lương”. Ông là một con người quý trọng cuộc sống
tinh thần, không màng tới lợi ích vật chất, không chỉ nâng niu, trân trọng vẻ đẹp
tinh thần mà còn biết khơi gợi và phát triển cho vẻ đẹp ấy. Mối quan hệ giữa Huấn
Cao và viên Quản ngục khẳng định rõ nét đẹp trên. Ban đầu, do chưa hiểu Quản
ngục, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc, về sau khi đã hiểu ra quản ngục, Huấn Cao tỏ ra
trân trọng, ông dành giây phút cuối cuộc đời mình viết chữ cho quản ngục, vì nghĩ
rằng dòng chữ của mình có thể giúp cho một con người thoát khỏi cuộc sống nhơ
bẩn,  tù  ngục,  giữ  gìn  thiên  lương.  Khi  viết  chữ  xong  cho  Quản  ngục,  ông  còn
khuyên viên Quản ngục rời khỏi chốn ngục tù để bảo toàn cái đẹp vì ở đây không
thể “vàng thau lẫn lộn”.
Rõ  ràng từ  nhân  vật  Huấn  Cao, chúng ta  thấy được quan niệm của  Nguyễn
Tuân về người tài hoa,  người anh  hùng, mẫu nhân  vật lý tưởng. Đó cũng  là nét
đặc sắc trong ngòi bút của Nguyễn Tuân.
2. Đặc sắc trong xây dựng nhân vật Quản ngục
    36
– Quản ngục tuy không phải là nhân vật quan trọng nhất, nhưng lại là nhân vật
không thể thiếu trong tác phẩm Chữ người tử tù. Trong mối quan hệ với Huấn Cao,
quản ngục hệt như nhân vật Tử Kỳ trong mối quan hệ Bá Nha – Tử Kỳ, người chơi
đàn và người thưởng thức tiếng đàn. Thật khó có thể nói ai là  người quan trọng
hơn trong mối quan hệ đặc biệt trên. Huấn Cao và Quản ngục chính là  kiểu cặp
đôi nhân vật như thế.
– Nếu như vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao được thể hiện rõ ràng qua ba đặc
điểm (tài hoa, khí phách và thiên lương), Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác
phẩm, thì quản ngục dù sao cũng chỉ là nhân vật phụ, một kiểu nhân vật cặp đôi,
góp phần soi sáng cho vẻ đẹp của nhân vật chính, đồng thời cũng góp phần hoàn
thiện quan niệm nghệ thuật của tác giả.
– Trong tác phẩm, Quản ngục xuất hiện song song và bổ sung cho vẻ đẹp của
Huấn Cao. Trước đó, người đọc gần như không biết quản ngục là con người như
thế nào, chỉ khi Huấn Cao xuất hiện, ta mới biết đến Quản ngục. Vẻ đẹp của Huấn
Cao được phát hiện phần nào qua nhân vật Quản ngục. Ngược lại, chính nhờ tấm
lòng “biệt nhỡn liên tài” của Quản ngục mà Huấn Cao trân trọng dành những giây
phút cuối đời viết chữ tặng. Huấn Cao nói với thơ lại “quản ngục là một thanh âm
trong trẻo trong một bản đàn mà mọi nhạc luật của nó đều hỗn loạn xô bồ”. Đó là
sự đánh giá đúng đắn vẻ đẹp thiên lương của một con người mà hẳn không phải
bất cứ ai cũng có được như Huấn Cao với Quản ngục.
– Là một nhà lãng mạn, Nguyễn Tuân thể hiện rất rõ bút pháp lãng mạn của
mình không chỉ qua việc  xây dựng nhân vật Huấn Cao, mà còn cả qua nhân vật
Quản ngục. Không phải ngẫu nhiên nhà văn cố tình đặt cả hai nhân vật này vào
cùng bối cảnh nhà tù. Chính từ trong ngục tù tăm tối, vẻ đẹp của họ càng trở nên
nổi bật hơn. Là nhân vật có quyền lực cao nhất, người thực thi pháp luật của chính
quyền  thực  dân  phong  kiến,  quản  ngục  dường  như  lại  quên  mất  vai  trò,  trách
nhiệm  của  mình.  Trước  cái  đẹp  tâm  hồn  và  nghệ  thuật,  quản  ngục  chỉ  còn  biết
“mê muội” ngưỡng vọng mà thôi. Ông trân trọng kẻ tử tù Huấn Cao ngay từ khi
Huấn Cao bước chân đến nhà ngục. Ông “biệt đãi” con người mà lẽ ra ở cương vị
của ông chỉ có thể đối xử bằng đòn roi ; ông rón rén, khúm núm khi nhận chữ ; và
sau cùng, ông cúi đầu bái lĩnh trước Huấn Cao với lời hứa sẽ rời bỏ nơi chốn “bẩn
thỉu” để gìn giữ thiên lương. Đó không phải là hành động của một kẻ tầm thường,
mà là “thanh âm trong trẻo” của con người biết yêu cái đẹp, trọng danh dự.
  37
–  Quản ngục  là  nhân  vật lãng mạn hết sức  độc đáo của Nguyễn Tuân trong
nền văn học giai đoạn 1940 - 1945.
3. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn cuối tác phẩm
a) Xác định vị trí và ý nghĩa chung của đoạn văn
+ Chữ người tử tù ước lượng gần 6 trang in, đoạn văn cuối miêu tả Huấn Cao
viết  chữ  chỉ  chiếm  gần  một  trang,  tuy  vậy,  đây  là  một  đoạn  văn  hết  sức  quan
trọng. Nó góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm, đồng thời nó cũng
làm rõ hơn các vẻ đẹp của nhân vật, thể hiện vốn sống và tài năng nghệ thuật của
nhà văn. Nguyễn Tuân mở đầu đoạn văn bằng nhận xét : “Đây là một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”. Tại sao lại là cảnh tượng xưa nay chưa từng có ? Vì ở đây
diễn ra một cuộc gặp gỡ hết sức lạ kỳ : cuộc gặp gỡ giữa người tử tù và viên Quản
ngục. Bình thường đây là hai kẻ đối địch với nhau, nhưng trong hoàn cảnh cụ thể,
họ lại có vẻ đồng điệu với nhau. Cả hai đều làm nổi bật vẻ đẹp của nhau : một bên
–  kẻ  tử  tù  là  người  sáng  tạo  cái  đẹp,  bên  kia  –  viên  Quản  ngục  là  người  biết
thưởng thức cái đẹp, ý nghĩa tư tưởng và nghệ thuật của toàn bộ tác phẩm sẽ được
làm rõ trong đoạn văn cuối này.
b) Giá trị nghệ thuật và tư tưởng
– Tài năng của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật : Nguyễn Tuân được
mệnh danh là bậc thầy trong lao động nghệ thuật. Ông là  người coi trọng giá trị
lao động trong nghề cầm bút của mình. Ông thực sự là một nghệ sĩ của ngôn từ,
luôn  biết  chắt  lọc  từng  câu,  từng  chữ,  sao  cho  từ  mỗi  câu  chữ  đó,  ý  nghĩa  tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm được bộc lộ rõ nhất. 
– Trong đoạn văn cuối Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ tài dựng
người, dựng cảnh của mình. Tính tạo hình trong những trang viết của ông được
thể hiện rất rõ trong đoạn văn này. Nguyễn Tuân sử dụng một cách triệt để trong
đoạn văn bút pháp nghệ thuật tương phản.
– Sự đối lập trước tiên được thể hiện giữa công việc viết chữ và nơi diễn ra
viết  chữ.  Chơi  chữ,  viết  chữ  vốn  là  một  việc  làm  thanh  cao  vốn  chỉ  dành  cho
những bậc “tao nhân mặc khách”. Thế nhưng nhà văn ở đây lại dành niềm ưu ái
ấy cho những kẻ hết sức lạ kỳ : Tử tù và Quản ngục. 
– Đối lập giữa người cho chữ và người nhận chữ : Người viết chữ là kẻ tử
tù, cổ vẫn đeo gông, chân vướng xiềng nhưng tư thế hiên ngang, đĩnh đạc. Người
    38
tử tù không hề tỏ ra run sợ, ông vẫn ngẩng cao đầu tô những dòng chữ trên vuông
lụa trắng. Ngược lại, kẻ nhận chữ – quản ngục và thơ lại run run, sợ sệt, lúng túng,
tư thế và vị trí của hai loại nhân vật này lẽ ra phải đảo ngược cho nhau. Trên bình
diện  xã  hội,  tử  tù  và  Quản  ngục  hoàn  toàn  đối  nghịch  với  nhau,  trên  bình  diện
nghệ thuật họ lại đồng điệu với nhau. Người tử tù đang say sưa sáng tạo cái đẹp,
còn viên Quản ngục tỏ ra cảm phục, ngưỡng mộ cái đẹp.
– Chính từ bức tranh nghệ thuật đối lập, tương phản này, ý nghĩa tư tưởng của
tác phẩm càng trở nên  nổi bật.  Phải  chăng,  thông qua  cảnh tương phản đối lập,
Nguyễn Tuân muốn đề cao,  khẳng định cái  đẹp của  nghệ thuật và  tâm hồn con
người. Cái đẹp ấy có thể chiến thắng mọi cái tối tăm, có thể tìm được sự tồn tại ở
những nơi tưởng như nó không thể tồn tại. Qua bức tranh, ta không còn nhận ra
đâu là nhà  ngục  bởi vì ở đó không  có Quản  ngục và tử tù, ở đây chỉ còn  lại
những nghệ sĩ say sưa sáng tạo và thưởng thức cái đẹp.
III - KẾT LUẬN 
Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân thời kỳ trước
Cách mạng tháng Tám 1945. Cũng giống như nhiều truyện ngắn khác viết cùng
thời kỳ,  Chữ người tử tù đã tập trung xây dựng hình tượng những con người tài
hoa, nghệ sĩ, yêu cái đẹp và sáng tạo cái đẹp trong hoàn cảnh xã hội tăm tối. Hai
nhân vật trung tâm trong tác phẩm được Nguyễn Tuân sáng tạo để minh hoạ cho
lý tưởng của mình, đó là Huấn Cao, kẻ tử tù (người tài hoa, khí phách và có tâm
hồn trong sáng, cao đẹp) và Quản ngục  (kẻ coi tù, nhưng lại có tấm  lòng “biệt
nhỡn liên tài”, yêu quý và trân trọng cái đẹp). Đây là hai nhân vật được xây dựng
hết sức thành công, đặc biệt là nhân vật Huấn cao. Nguyễn Tuân đã thể hiện thành
công chủ đề tư tưởng của  tác phẩm qua hai  nhân vật đặc biệt này  và qua tài sử
dụng  câu  chữ  thật  điêu  luyện,  độc  đáo.  Ông  không  phải  là  nhà  văn  “duy  mỹ”,
nghiêng về hình thức mà chỉ chú ý đề cao cái đẹp của nội dung tác phẩm qua hình
thức nghệ thuật tinh tế. Chữ người tử tù có thể được coi là một áng văn chương
yêu  nước  vì  nó  góp phần  khẳng định  vẻ đẹp  tâm hồn  của  những con  người, dù
trong  bất  kỳ  hoàn  cảnh  nào  cũng  dám  đương  đầu  để  khẳng  định  bản  lĩnh  của
mình,  bảo vệ cái đẹp. Nguyễn Tuân  xứng đáng  được  coi là  bậc thầy  ngôn ngữ
trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
  39
HạNH PHúC CủA MộT TANG GIA 
(Trích Số đỏ)
        VŨ TRỌNG PHỤNG 
A - DẠNG ĐỀ 
– Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong chương Hạnh phúc của
một tang gia. 
  – Đám  tang cụ Tổ của gia đình  cụ cố Hồng trong  chương Hạnh phúc  của
một tang gia đáng khóc hay đáng cười ? Vì sao ?
 
Một số lưu ý : Trong chương trình mới, Vũ Trọng Phụng chỉ được chọn duy
nhất một bài thuộc chương 15 - Hạnh phúc của một tang gia, trích từ tiểu thuyết
Số  đỏ.  Đây  là  cuốn  tiểu  thuyết  gồm  18  chương,  được  viết  theo  bút  pháp  trào
phúng, hay còn gọi là hoạt kê, nhà  văn sử dụng bút pháp cường điệu và phóng
đại, nhưng vẫn giữ được hạt nhân của hiện thực, nhờ thế tính chất phê phán của
tác phẩm được thể hiện khá rõ rệt. Sinh thời, Vũ Trọng Phụng từng được mệnh
danh là “ông vua phóng sự của đất Bắc”, từng bị một nhóm các nhà  văn Tự lực
văn đoàn chê là văn chương “tục tĩu, dâm ô, bẩn thỉu”. Ông đã đáp trả bằng một
bài  luận  chiến,  trong  đó  có đoạn  khẳng định  rõ  quan  niệm  sáng  tác  của  mình  :
“Tôi  và  những  nhà  văn  cùng  chí  hướng    như  tôi  muốn  tiểu  thuyết  là  sự  thực  ở
đời”.
Tình  huống ra  đề  cho đoạn trích  này chủ  yếu chỉ  xoay  quanh  tài  năng  trào
phúng, châm biếm của tác giả. Điều quan trong đối với thí sinh khi học tác phẩm
này là phải nắm được kiến thức lý luận về cái hài, phải hiểu được tính hợp lý của
bút  pháp  cường  điệu  trong  khuôn  khổ  một  tác  phẩm  hiện  thực  của  Vũ  Trọng
Phụng. Đôi khi, đề thi cũng có thể thay đổi hình thức, hoặc thử trí thông minh của
học sinh bằng “bẫy câu chữ” : Đám tang cụ Tổ đáng khóc hay đáng cười, vì sao ?
Đó thực chất là tính bi hài kịch trong chương viết của tác giả.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
– Số đỏ là  cuốn tiểu  thuyết  hoạt kê hết sức  độc đáo của nhà  văn  Vũ Trọng
Phụng công bố năm 1936. Đây là cuốn tiểu thuyết trào phúng viết về cuộc sống đô
thị nước ta những năm trước Cách mạng 1945. Bằng tài nghệ trào phúng đặc sắc
    40
của  mình, tác  giả  đã  tạo  ra  những  chuỗi  cười  giòn  rã  từ  đầu tới  cuối  tác  phẩm
thông qua hàng loạt tình huống, tình tiết và chân dung biếm hoạ. Tác phẩm gồm
18 chương, viết về một gia đình thượng lưu thành thị (gia đình cụ cố Hồng) cùng
những thành viên khác xung quanh gia đình đó. Đáng chú ý nhất trong tác phẩm
này là nhân vật Xuân Tóc Đỏ, một kẻ dốt nát, vô học, vô văn hoá  và lưu manh
nhưng nhờ sống giữa lũ người giả dối mà trở thành “vĩ nhân, đốc tờ, giáo sư quần
vợt, anh hùng cứu quốc”. Số đỏ là một tấn bi hài kịch của buổi giao thời.
Hạnh phúc của một tang gia là chương thứ 15, miêu tả đám tang cụ Tổ của
gia đình cụ cố Hồng, một gia đình giàu có nhưng giả dối, vô lương tâm, vô nhân
đạo. Tình huống trào phúng của đoạn trích đã được thể hiện ngay từ cách đặt đầu
đề : Hạnh phúc của một tang gia. Tiếng cười nhuốm đầy nước mắt của người đọc
đã bật ra ngay từ khi gọi tên chương viết đó : Tang gia nhưng lại hạnh phúc. Đó
là lý do khiến ta khi đọc tác phẩm thấy vừa đáng khóc vừa đáng cười. 
II - PHÂN TÍCH
 1.    Tài  nghệ  của  Vũ  Trọng  Phụng  qua  việc  lý  giải  nguyên  nhân  của 
hạnh phúc
– Để hiểu rõ hơn tài nghệ trào phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng trong đoạn
văn  này, ta  không thể không  nhắc  tới một chút lô  gích cốt truyện dẫn đến đám
tang : Trước đó, gia đình cụ cố Hồng có cụ Tổ ốm nặng nhưng nhờ lang Tỳ, lang
Phế chữa mãi vẫn “không chết”, biết Xuân Tóc Đỏ dốt nát, nên họ đã mời Xuân
chữa cho cụ Tổ. Họ đã gắn cho Xuân đủ thứ danh hiệu : nhà Âu hoá, giáo sư quần
vợt, đốc tờ Xuân. Thế nhưng “tài chữa bệnh” của Xuân vẫn chưa đủ làm cụ Tổ
chết. Trong khi đó, người “chết” trước tiên lại chính là em gái Văn Minh, con gái
cụ cố Hồng, cô Tuyết tân thời. Những tưởng Xuân là người tình lý tưởng, Tuyết
đến tận hiệu may Âu hoá tán tỉnh anh ta. Là một kẻ bịp bợm, Xuân không bỏ lỡ cơ
hội hiếm có : nhận lời yêu cô Tuyết, rủ cô Tuyết đi chơi Quán Bồng Lai, Hồ Tây.
Ở đó, Xuân và Tuyết bắt quả tang chị gái mình là Hoàng Hôn đi chơi cùng tình
nhân, tình cờ gặp Phán dây thép cũng đi chơi cùng “bồ nhí”, nhớ lời hứa trước đó
với anh ta, Xuân đứng chào Phán dây thép là anh chồng mọc sừng. Sau đó trên
đường về, gặp bà Phó Đoan, Tuyết và Xuân bị bà mắng té tát. Hắn giận dỗi bỏ đi
(trước đó đã “bắt đền” bà Phó Đoan ngay tại phòng của bà và bị cảnh sát Min Đơ,
Min Toa phạt vi cảnh “thả chó chạy rông ra đường”), mấy hôm sau bất ngờ trở về
nhà cụ cố Hồng, gặp Phán dây thép ở đó, hắn lại chào Phán dây thép là anh chồng
  41
mọc sừng. Cụ Tổ nằm phía trong bất ngờ nghe được, bị sốc và chết. Đám tang cụ
Tổ được tổ chức sau đó.
– Rõ ràng khi nắm được tóm tắt cốt truyện trên, ta sẽ không thấy lạ, tại sao cái
chết  của  cụ  Tổ  lại  khiến  cho  các  thành  viên  trong  gia  đình  cụ  cố  Hồng  “hạnh
phúc” đến như vậy.  Bình thường khi nhà  có đám tang, con cháu trong nhà  phải
thấy đau khổ. Thế nhưng, với gia đình cụ cố Hồng mọi người lại cảm thấy hạnh
phúc. Bởi lẽ, trước đó ai cũng đều mong cụ chóng chết. Mỗi thành viên trong gia
đình ấy đều ấp ủ niềm hạnh phúc của mình và đều có cách riêng đẩy cụ đến cái
chết. Chẳng hạn, Văn Minh và  cụ cố Hồng thì cố công đi tìm thầy thuốc dốt về
chữa cho ông và bố của mình ; Phán dây thép thì bí mật thuê Xuân Tóc Đỏ chào là
“chồng mọc sừng” để cụ Tổ tình cờ nghe được uất mà chết... Hư cấu những chi
tiết này không thể nói là Vũ Trọng Phụng không có yếu tố cường điệu, nhưng sự
cường điệu, phóng đại của tác giả vẫn dừng lại ở mức độ “chấp nhận được”. Nó
vẫn  có  hạt  nhân  của  hiện  thực.  Trong thực  tế,  không  phải  chỉ  ở thời  Vũ  Trọng
Phụng mới có những loại người “đạo đức giả” như gia đình cụ cố Hồng. Đó là tài
năng của Vũ trọng Phụng.
2. Tài nghệ trào phúng qua việc thể hiện niềm hạnh phúc trong đám tang  
– Trong đám tang cụ Tổ, không chỉ riêng các thành viên gia đình cụ cố Hồng
mới có hạnh phúc, nhưng chắc chắn, hạnh phúc của họ “tràn trề và mỹ mãn” hơn.
Người trước tiên phải kể đến là chính cụ cố Hồng, người đứng đầu của gia đình
ấy. Không phải ngẫu nhiên chỉ mới ngoài năm mươi nhưng người đàn ông kỳ cục
này thích mọi người gọi mình là “cụ cố”. Đó cũng không phải là niềm ham thích
tầm thường, phải ngẫm sâu, ta mới biết Vũ Trọng Phụng tài nghệ đến thế nào khi
tạo ra được những tình tiết trào phúng có lý như thế. Rõ ràng ai cũng biết gia đình
cụ cố Hồng vô đạo đức như thế nào (bố và ông ốm nặng nhưng không ai là người
cảm thấy đau khổ, không ai muốn chữa bệnh cho cụ), vậy mà ai trong nhà ấy cũng
đều muốn tỏ ra cho thiên hạ biết là mình thương xót và có “hiếu” với cụ. Cụ cố
Hồng hình dung vào ngày đám tang diễn ra, cụ mặc bộ đồ xô gai, chống gậy, đi
giữa đường phố rồi dỏng tai lên nghe hai bên đường phố người ta xì xầm : “úi kìa,
úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia  kìa”. Nghĩa  là,  gia đình mình phải phúc
đức lắm mới có người con trai cả già đến thế chống gậy đưa tang bố. 
– Anh Văn Minh cũng hạnh phúc không kém bố của mình. Vốn là người được
“đào tạo” từ trường Tây,  vì dốt quá không biết chữ nào, Văn Minh dốc chí khai
    42
hoá văn minh cho người Việt bằng hiệu may “Âu hoá” với những mốt quần áo kỳ
quái. Những mốt tân thời ấy không chỉ dành cho lớp thanh niên, cũng không chỉ
dành cho người sống, mà còn cho cả người chết. Văn Minh đã ấp ủ từ lâu bộ tang
phục chờ khi ông chết được dịp trưng diện. Trong ngày đưa tang, anh ta tràn trề
hạnh phúc với ý nghĩ giả dối rằng, người chết, ít ra “cũng được hưởng một chút
hạnh phúc ở đời”.
– Em gái anh, cô Tuyết tân thời, chỉ “hư hỏng một nửa” khi đã có người yêu
mà vẫn lao vào tán tỉnh Xuân Tóc Đỏ, cũng tự tìm được niềm hạnh phúc của mình
trước cái chết của ông. Cô tưởng tượng, trong đám tang của ông, được “mặc bộ đồ
tang phục “ngây thơ” bằng voan mỏng để chứng minh cho thiên hạ biết rằng mình
chưa đánh mất cả chữ trinh”. Một niềm hạnh phúc rất “bệnh hoạn” mà có lẽ nếu
không có tài năng thực  sự,  Vũ Trọng Phụng khó lòng có thể thuyết phục  người
đọc đến như thế !
– Trong khi đó, cậu em út Tú Tân đã mất tới hàng nhiều tháng trời tập hợp đội
quân nhiếp ảnh. Cậu đã rất sốt ruột chờ đợi ngày chết của ông. Nay ông chết, ước
mơ đó được thực hiện. Cả một đội quân nhiếp ảnh thi nhau chụp như ở hội chợ
cho thấy niềm hạnh phúc của cậu đã được thỏa mãn đến mức nào.
–  Phán dây thép, kẻ trực tiếp gây ra cái chết cho cụ Tổ, hạnh phúc vì sau đám
tang này, hắn được chia khoản tiền hai ngàn đồng mà hắn đã biết được cụ Tổ viết
trong di chúc để lại cho con cháu ; cụ bà –  người bạn đời của  cụ cố Hồng cảm
thấy sung sướng hãnh diện vì đốc tờ Xuân không những không giận mà còn đến
phúng viếng làm tăng giá cho đám tang này. Đám bạn bè cụ cố Hồng hạnh phúc vì
có dịp được trưng diện những huân, huy chương bấy lâu nay chỉ cất dấu ở đáy hòm,
đáy tủ. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa hạnh phúc vì đây là dịp “thực thi nhiệm vụ” một
cách chính đáng nhất cho đám tang, với hy vọng kiếm được nhiều tiền... Tóm lại,
không ai trong cái xã nhố nhăng, kỳ quái ấy lại không có được hạnh phúc nhờ vào cái
chết của cụ Tổ.
3.  Tấn  bi  hài  kịch  của  đám  tang  –  một  đám  tang  vừa  đáng  cười  vừa 
đáng khóc
– Nhìn tổng thể, đám tang của cụ Tổ được tổ chức hết sức “trang trọng”, mọi
thành viên đều được hạnh phúc. Vũ Trọng Phụng bằng tài nghệ miêu tả của mình,
đã biến đám tang kỳ quái ấy thành một tấn bi hài kịch vừa đáng khóc vừa đáng
cười. Đáng khóc vì đây là cuộc đưa tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng,
  43
không buồn sao được ? Nhưng cũng đáng cười vì không có bất cứ ai trong đám
người đưa tang ấy tỏ ra đau xót, đám tang được miêu tả như một đám rước hội.
– Để phô trương sự giàu có và tấm lòng “chí hiếu” của gia đình mình, cụ cố
Hồng và các con cháu tổ chức đám tang được coi là to nhất nhì Hà thành, với số
người đi đưa đám đông như một đám hội. Dưới ngòi bút trào phúng tài tình của
tác giả, đám tang có tới hàng trăm  vòng hoa, câu đối, có kiệu bát cống tám đòn
khiêng, có cả lợn quay đi lọng và một đội quân nhiếp ảnh thi nhau chụp như ở hội
chợ. Vũ Trọng Phụng hài hước gọi đó là đám tang kết hợp cả mốt Tây lẫn mốt Ta,
mốt Tàu, chắc người nằm trong quan tài kia phải “hài lòng” lắm.
–  Đi vào chi tiết, tấn bi hài kịch của đám tang được tác giả miêu tả sống động
hơn qua cách thể hiện thái độ của những người đi đưa đám đối với người đã mất.
Đám người lớn thì coi đây là dịp tốt nhất để khoe khoang. Họ khoe với nhau cái tủ
mới sắm, cái áo mới mua. Đám “trai thanh nữ tú” thì nói với nhau những lời “ý
vị” như : “khiếp, trông cái ngực đầm bỏ mẹ” ; ngôn ngữ người kể chuyện thì viết :
“họ  chim  nhau,  cười  tình  với  nhau,  bình  phẩm  nhau,  chê  bai  nhau,  ghen tuông
nhau,  hẹn hò nhau...”.  Trên cái  nền điệp ngữ lặp  đi,  lặp lại “đám cứ đi”,  nhưng
những người đi đưa đám chẳng ai có vẻ tỏ ra thương xót người đã mất. Tấn bi hài
kịch được đẩy lên đến cực điểm ở đoạn cuối, khi đám tang gần tới huyệt. Cụ cố
Hồng oặt người đi và khóc rống lên để tỏ cho thiên hạ biết mình là người con có
hiếu ; Phán dây thép cũng khóc “hứt hứt hứt” rồi oặt người đi. Đúng lúc đó, Xuân
Tóc Đỏ xuất hiện kịp thời ngay bên cạnh Phán dây thép. Hai bàn tay lần mò nhau
ở phía dưới : Phán dây thép đã kịp trao cho Xuân tờ giấy bạc năm đồng gấp tư. Đó
là khoản thanh toán nốt số tiền thuê giết cụ Tổ cho Xuân Tóc Đỏ. Tấn bi hài kịch
đến đây rõ ràng đã đạt đến cực điểm.
III - KẾT LUẬN 
Bằng tài nghệ trào phúng của mình, bằng quan điểm văn chương rành mạch
tiểu thuyết  là “sự thực ở đời”, chỉ qua một đoạn văn ngắn, Vũ Trọng Phụng đã
phô  bày  bộ  mặt  thật  của  đám  người  thượng  lưu,  thành  thị.  Đó  là  lũ  người  nhố
nhăng, lố bịch, đạo đức giả và lưu manh hoá. Đó cũng chính là hình ảnh thu nhỏ
của giới thành thị nước ta, thời kỳ “mưa Âu gió Mỹ” mà tác giả muốn phê phán.
 
        
 
    44
NAM CAO :  Sự NGHIệP Sáng Tác
Và QUAN ĐIểM NGHệ THUậT
 
A -  DẠNG ĐỀ 
– Tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, hoặc đặc điểm sự nghiệp sáng
tác, quan điểm  sáng  tác nghệ thuật của  Nam Cao trước  Cách mạng tháng Tám
1945  (đề thi đại học  năm 2008, dạng câu 2 điểm).
–  Phân  tích  tấn bi kịch  của con người  không có  quyền  làm người  trong
Chí Phèo.
– Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo.
– Phân tích đoạn văn cuối tác phẩm Chí Phèo để làm rõ quan niệm của Nam
Cao về người nông dân.
– Phân tích tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng khi gặp Thị Nở đến khi
kết thúc cuộc đời để làm rõ bi kịch của nhân vật này (đề thi đại học năm 2004,
dạng câu 3 điểm).
Một số lưu ý : Trong chương trình lớp 11 và 12 (kể cả cũ và mới), Nam Cao
là một trong số các nhà văn có nhiều tình huống ra đề. Phần chung liên quan đến
tác giả có hai tình huống : hoặc tóm tắt sự nghiệp sáng tác hoặc nêu đặc điểm của
từng  giai  đoạn  ;  hoặc  nữa,  quan  điểm  sáng  tác  nghệ  thuật  của  Nam  Cao  trước
Cách mạng  tháng  Tám  1945.  Phần  liên quan đến  tác  phẩm,  trong  chương  trình
mới chỉ còn giữ lại hai bài (Chí Phèo và Đời thừa). Phần đề thi liên quan đến Đời
thừa có một số dạng đề câu chữ khác nhau nhưng tất cả đều tập trung vào vấn đề
bi kịch của nhân vật, chủ nghĩa hiện thực sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao hoặc nữa,
phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Phần liên quan đến tác phẩm Chí Phèo
cũng có nhiều tình huống ra đề khác nhau. Học sinh nên tập trung vào phần phân
tích bi kịch của nhân vật, hoặc qua phân tích nhân vật, làm rõ giá trị nhân đạo và
hiện thực của tác phẩm. Đề phân tích đoạn văn cuối tác phẩm thực chất là dạng đề
thi đại học năm 2004, nên chú ý,  Nam Cao  luôn khẳng định người  nông dân  là
lương thiện. Tình huống đề thi tác phẩm Đời thừa được tách riêng ở phần gợi ý
làm bài cho tác phẩm này. Tuy nhiên, trong trường hợp đề yêu cầu phân tích giá
trị hiện thực và nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm, thì nên chú ý hơn đến bút
pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn này qua việc khái quát các vấn đề hiện thực
  45
ở bề sâu triết học, ở phân tích tâm lí nhân vật, ở cấu trúc rất hiện đại trong hầu hết
tác phẩm của ông.
 
B - GỢI Ý LÀM BÀI
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NAM CAO (1915 - 1951)
– Nam Cao là một trong  những đại diện xuất sắc nhất của  trào  lưu văn  học
hiện thực trước 1945 và cũng là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của chặng
đầu nền văn học sau Cách mạng. 
– Trước Cách mạng tháng Tám 1945, sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai
đề tài chính :
+ Ở đề tài trí thúc tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã nêu bật cảnh sống khổ nhục,
bế tắc, quẩn quanh, cũng như bi kịch tinh thần của những con người có nhân cách,
có hoài bão cao đẹp nhưng đã bị xã  hội đen tối đương thời làm tan vỡ ước mơ,
buộc phải chấp nhận một cuộc đời mờ nhạt, vô nghĩa (Sống mòn, Đời thừa, Trăng
sáng, Cười, Nước mắt, Mua nhà,...).
+ Ở đề tài nông dân, Nam Cao không chỉ miêu tả bi kịch bị bần cùng hoá của
họ mà còn thể hiện sâu sắc bi kịch bị lưu manh hoá, bị cự tuyệt quyền làm người
của một bộ phận những con người đáng thương ấy (Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo,
Một bữa no, Đôi móng giò, Tư cách mõ, Nửa đêm,...)
–  Sau  Cách  mạng  tháng  Tám,  Nam  Cao  thực  sự  hoà  mình  vào  cuộc  sống,
quyết tâm sáng tác để phục vụ Cách mạng và kháng chiến. Một số tác phẩm của
Nam Cao thời kì này là Đường vô Nam, Ở rừng, Chuyện biên giới ; đáng chú ý
nhất truyện Đôi mắt vẫn được xem là Tuyên ngôn nghệ thuật của những văn nghệ
sĩ tiến bộ trong thời kỳ “nhận đường”. Nam Cao có cách viết độc đáo, giản dị mộc
mạc mà sâu sắc thâm thuý, đôi khi tàn nhẫn sắc lạnh mà vẫn trữ tình thắm thiết ; ở
ông, tài và tâm, tư cách nghệ sĩ và tư cách công dân luôn hoà làm một. 
 
 
CHí PHèO
NAM CAO
    46
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
 Chí Phèo là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao về đề tài người nông dân.
Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài này, trong truyện ngắn Chí Phèo, thông qua
câu chuyện về một người nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá đến mất cả hình
nhân hình nhân tính, Nam Cao đã nêu lên thành một tấn bi kịch về một con người
nhưng lại bị xã hội cự tuyệt không cho làm người. Đây là một truyện ngắn vừa giàu
tính hiện thực lại vừa giàu tính nhân đạo. 
II - PHÂN TÍCH : Giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Chí Phèo
1. Chí Phèo đã phản ánh một cách chân thực và nhân đạo hình tượng người
nông dân
a) Chí Phèo là một người nông dân nghèo khổ, lương thiện 
Trong truyện ngắn Chí Phèo không chỉ có duy nhất  nhân vật Chí Phèo nhưng
có thể  nói đây  là  nhân vật quan trọng nhất. Không phải  ngẫu  nhiên, tác  giả  lấy
nhân vật này đặt tên cho tác phẩm. Chí Phèo là người nông dân nghèo khổ nhất
trong  xã  hội.  Chí  không  chỉ  nghèo  khổ  về  vật  chất  mà  còn  nghèo  khổ  về  cả
phương diện tinh thần. Vừa sinh ra trên đời, Chí đã bị từ chối quyền được sống,
hắn bị ném vào chiếc lò gạch cũ bỏ không. Nhờ sự ngẫu nhiên may mắn mà hắn
sống được. Lớn lên, hắn trở thành kẻ tứ cố vô thân : Không nhà cửa, ruộng vườn,
một mảnh đất cắm dùi cũng không, không có ai là bà con thân thích. Tuy nhiên,
dù nghèo khổ đến thế, Chí vẫn luôn là người lương thiện. Ngay cả khi làm canh
điền cho nhà bá Kiến, Chí vẫn lành như cục đất, vẫn luôn thể hiện được bản chất
lương thiện vốn có của mình. 
b) Chí  Phèo  là  một  người  nông dân  lương  thiện  bị  xã  hội biến  thành
lưu manh 
Sau bảy, tám năm bị bá Kiến đẩy vào nhà tù, khi trở về làng Chí đã bị biến
thành một kẻ lưu manh. Qua sự kiện này Nam Cao muốn khẳng định, nhà tù thực
dân phong kiến là môi trường thuận lợi nhất để biến một người lương thiện thành
một kẻ lưu manh. Khi biến Chí thành một kẻ lưu manh, Nam Cao vẫn thể hiện sự
trân trọng của mình đối với một con người bằng cách để cho Chí thay đổi cả nhân
hình và nhân tính. Về nhân hình, gương mặt của Chí bây giờ nhằng nhịt những vết
ngang  dọc  “cái  đầu  thì  trọc  lốc,  cái  răng  cạo trắng  hớn,  cái  mặt thì  đen  mà  rất
  47
cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết !”. Về nhân tính, Chí say bất tận
và cứ mở miệng ra là la làng và chửi bới. Ngôn ngữ đặc trưng của Chí đã thể hiện
hắn như một kẻ mất trí. Chí chửi như một phản ứng bâng quơ mà không nhằm vào
một đối tượng cụ thể nào. Chửi, nhưng cũng không cần sự đáp trả. Về tâm lý, kể
từ khi trở về làng Vũ Đại, Chí say bất tận. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc
say,  thức dậy  hãy còn  say”.  Trong  văn chương  cổ,  kim, đông, tây, chưa có nhà
văn nào miêu tả một cơn say dài bất tận như Nam Cao miêu tả cơn say của Chí
Phèo.  Để khẳng định tính hợp quy  luật của  nhân vật, trong tác  phẩm, Nam Cao
không chỉ xây dựng duy  nhất một nhân vật kiểu Chí Phèo.  Trước  khi Chí Phèo
xuất hiện, làng Vũ Đại đã có hai nhân vật cùng dạng Chí Phèo, đó là Năm Thọ và
Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, Nam Cao còn giả thiết sẽ có một Chí Phèo con
ra đời. Nghĩa là Chí Phèo là một hiện tượng, một sản phẩm của xã hội. Bởi thế,
chừng nào còn xã hội thực dân phong kiến, còn cái làng Vũ Đại thì vẫn còn có
khả năng có một Chí Phèo khác. 
c) Chí Phèo là một người nông dân bị lưu manh nhưng vẫn khát khao sự
lương thiện
Trong tác phẩm, ngay cả khi đã biến Chí Phèo thành một kẻ lưu manh, Nam
Cao vẫn trân trọng bản chất lương thiện vốn có của nhân vật. Để khẳng định điều
đó, nhà  văn đã tạo ra  một hoàn cảnh điển  hình  : đó  là  cuộc  gặp gỡ và tình  yêu
ngắn ngủi giữa nhân vật Chí Phèo và Thị Nở. Cuộc gặp gỡ bất ngờ của thị Nở với
Chí Phèo vào một đêm trăng đã khiến cho Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương
thiện. Trước đó, là một kẻ bị lưu manh, Chí bị cả làng Vũ Đại từ chối chấp nhận
trở lại cuộc sống bình thường. Vì thế, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Nhưng khi nhận được một chút tình yêu của thị Nở, Chí đã khác hẳn, hắn ít uống
rượu, hắn lại nghe được những âm thanh bình thường của cuộc sống, đó là tiếng
người thuyền chài gõ cá trên sông, tiếng những người phụ nữ đi chợ hỏi nhau về
giá cả, tiếng chim hót.... Những âm thanh ấy lúc nào mà chẳng có, nhưng phải đến
khi gặp gỡ và có tình cảm với thị Nở, Chí mới lắng nghe được nó. Chí khát khao
trở lại cuộc sống lương thiện. Chí muốn có một cuộc sống bình thường như tất cả
mọi người, có một mái nhà, một người vợ, một gia đình. Tấm lòng nhân đạo của
Nam Cao được thể hiện rất rõ qua những chi tiết cảm động này. Nhà  văn muốn
kéo nhân vật trở lại với cuộc sống lương thiện, nhưng xã hội thực dân phong kiến
lại cự tuyệt không cho nhân vật của Nam Cao trở lại cuộc sống lương thiện.
    48
d) Chí Phèo là con người bị xã hội từ chối quyền làm người (Đoạn văn cuối
và quan niệm của Nam Cao về bản chất người nông dân)
Tuy nhiên, do sống trong xã  hội thực dân phong kiến, khát khao trở lại làm
người lương thiện của Chí Phèo đã không được thực hiện bởi lẽ vẫn còn làng Vũ
Đại  với  những  kẻ  như  bá  Kiến,  lý Cường, đội Tảo.  Trong tác  phẩm  Chí Phèo,
Nam Cao đã xây dựng cuộc đời, số phận của  nhân vật Chí Phèo giống như một
tấn bi kịch. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nghĩa là kể từ sau khi Chí Phèo ở tù về đến
khi tự kết thúc cuộc đời mình, Chí Phèo đến nhà bá Kiến ba lần. Lần thứ nhất,
ngay  sau  khi  ở  tù  về,  Chí  đến  để  đòi  trả món  nợ  cũ  với  bá  Kiến  nhưng  không
được, Chí bị biến thành tay sai ; lần thứ hai, sau khi hết tiền uống rượu, Chí đến
nhà bá Kiến với mục đích vòi tiền nhưng lại bị bá Kiến xúi đến nhà đội Tảo đòi
nợ. Chí đòi được món nợ của đội Tảo cho bá Kiến nhưng đã bị biến thành một kẻ
tay sai nguy hiểm hơn ; lần thứ ba, Chí Phèo đến nhà bá Kiến là sau khi hắn bị từ
chối tình  yêu  của  thị  Nở,  đây  là  đoạn văn  cuối  của  tác  phẩm.  Ở đoạn  văn  này,
Nam Cao muốn khẳng định mặc dù đã bị xã hội biến thành kẻ lưu manh, nhưng từ
trong sâu thẳm tâm hồn Chí Phèo vẫn tiềm tàng sự lương thiện. Chính vì thế, khi
bị từ chối tình  yêu với thị Nở, Chí vẫn tiếp  tục uống rượu,  nhưng  lần này càng
uống hắn lại càng như tỉnh ra. Ban đầu, hắn có ý định trả thù bà cô thị Nở, người
đã ngăn cấm tình yêu của hắn với người cháu gái. Thế nhưng, bước chân run rủi
đã đưa Chí đến nhà bá Kiến. Hắn đến để đòi được làm người lương thiện và lần
này, hắn không hề say. Hắn đã tự biết được rằng, không ai có thể giúp hắn trở lại
làm người lương thiện, kể cả bá Kiến. Vì thế, hắn vung dao đâm  chết bá Kiến, rồi
sau đó tự giết chết mình.  Chí chết trên  ngưỡng cửa cuộc  sống  lương thiện.  Chí
chết vì xã hội không cho hắn được là người bình thường. Cái chết của Chí có thể
phần nào gợi sự bi quan nhưng lại hợp quy luật. Đó cũng là một cách Nam Cao
thể hiện cả ngòi bút hiện thực và nhân đạo của mình. 
2. Chí Phèo đã xây dựng thành công bộ mặt xấu xa, tàn bạo của bè lũ thực dân
phong kiến qua nhân vật bá Kiến  
Trong tác phẩm, tuy không phải là nhân vật quan trọng nhất, nhưng nhân vật
bá Kiến đã đồng hành từ đầu đến cuối cùng với Chí Phèo. Dường như, Chí Phèo,
bá Kiến là một cặp đôi nhân vật, một bên là người nông dân khốn khổ bị áp bức,
còn bên kia là kẻ thống trị áp bức. Ngòi bút của Nam cao sắc sảo bao nhiêu khi
xây dựng nhân vật Chí Phèo, thì cũng tinh tế bấy nhiêu khi xây dựng nhân vật bá
Kiến. Cùng loại nhân vật quan lại thống trị, nhưng khác với nghị Quế trong Tắt
  49
đèn của Ngô Tất Tố và nghị Lại trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan,
bá Kiến là một nhân vật hết sức sống động. Hắn được cá thể hoá từ ngôn ngữ, bộ
dạng, cho đến tâm lý, tính cách. Trong cách quan hệ đối xử với người nông dân,
hắn  là  kẻ  thâm  hiểm,  lõi  đời,  hắn  sẵn  sàng  đẩy  người  ta  xuống  sông  cho  chết
nhưng có lúc cũng sẵn sàng kéo người ta lên để được gia ơn. Hắn cướp của người
ta năm đồng, nhưng cũng sẵn sàng trả lại năm hào. Về tính cách, có lúc hắn tỏ ra
sang trọng, bề trên,  giọng quát tháo sang sảng  nhưng có lúc,  hắn  lại tỏ ra  nhún
nhường.  Trong quan  hệ với Chí Phèo,  chính bá Kiến đẩy  Chí  vào cảnh sống tù
đầy và là kẻ gián tiếp biến Chí thành lưu manh. Nhưng lại có lúc hắn cúi xuống
ôm chân Chí Phèo để nhận họ hàng vì biết rằng nếu đẩy một kẻ khốn cùng vào
chân tường thì rất có thể sẽ bị phản ứng quyết liệt trở lại. Trong đoạn văn cuối tác
phẩm, chính bá Kiến đã không ngờ được rằng lần cuối cùng Chí Phèo đến nhà hắn
không phải để vòi tiền, cho đến tận cuối cùng, hắn vẫn là một kẻ giả dối. Hắn
nói với Chí : “Thì tôi cũng muốn anh được làm người lương thiện cho thiên
hạ  được  nhờ”  mà  lại  không  nghĩ  rằng  chính  hắn  góp phần  đắc  lực  vào  việc
tước đoạt sự lương thiện của Chí Phèo. Có thể nói, qua hình tượng nhân vật
bá Kiến, Nam Cao đã phản ánh được một cách chân thực và sinh động bộ mặt
xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến thực dân.
III - KẾT LUẬN
Truyện ngắn Chí Phèo mở đầu bằng tiếng chửi và kết thúc bằng tiếng la hét
thất thanh của nhân vật Chí Phèo. Giữa  hai sự kiện đó là cả một cuộc sống khổ
đau, bần cùng của một con người bị xã hội tước đoạt cả nhân hình và nhân tính.
Chọn và xây dựng một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo như Chí Phèo, Nam
Cao đã đặt ngòi bút của mình trước sự lựa chọn hết sức khó khăn : Làm sao khi
xây dựng hình tượng một con người bị lưu manh hoá mà không gây sự hiểu lầm là
hạ thấp giá trị người nông dân ? Làm sao phản ánh hiện thực mà ngòi bút không
rơi  vào  cách  viết  tự  nhiên  chủ  nghĩa  ?  Nam  Cao  đã  vượt  qua  được  những  thử
thách khó khăn đó, bằng tài năng và bản lĩnh của mình. Chí Phèo đề cập tấn bi
kịch không được  làm người của  một con người,  nhưng  vẫn chứa chan tinh thần
nhân đạo của tác giả. 
 
    50
ĐờI ThừA
NAM CAO
A - DẠNG ĐỀ   
–  Phân tích ngắn gọn giá trị hiện thực sâu sắc mới mẻ của Nam Cao trong
truyện ngắn Đời thừa (đề thi đại học năm 2003, dạng câu 3 điểm).
– Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở trường phân tích
tâm lý con người”. Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, hãy chứng minh
nhận định trên (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 3 điểm).
– Phân tích bi kịch nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa.
B – GỢI Ý LÀM BÀI   
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Đời thừa là  một truyện  ngắn đặc  sắc  của  Nam Cao in trên tuần báo Tiểu
thuyết thứ bảy số ra ngày 4 - 12 - 1943. Đời thừa tập trung xây dựng hình tượng
một  người  trí  thức  tiểu  tư  sản, một  nhà  văn  tên  là  Hộ,  người  có  tâm  huyết,  tài
năng, nhân cách, luôn có khát vọng vươn lên bằng ngòi bút của mình, muốn giữ
gìn  lẽ  sống  nhân  ái,  nhưng  chỉ  vì  miếng  cơm  manh  áo  hàng  ngày  mà  rốt  cục
không thực hiện được ước mơ, khát vọng, rơi vào bi kịch. Đời thừa tuy chỉ viết về
một bi kịch cá nhân nhưng thực chất đó là một vấn đề có ý nghĩa  xã hội rộng lớn.
Đời thừa là một bi kịch của thế hệ những người trí thức tiểu tư sản nước ta trước
Cách mạng. 
II  -  PHÂN  TÍCH  :  Giá  trị  hiện  thực  và  nhân  đạo  sâu  sắc,  mới  mẻ  của 
tác phẩm
1.  Bi kịch sự nghiệp, bi kịch xã hội, bi kịch bên ngoài
– Hộ là một nhân vật có chút hình bóng của chính tác giả Nam Cao. Trong sự
nghiệp sáng tác của mình, Nam Cao đã từng viết rất nhiều về nhà văn, các nhân
vật  nhà  văn  ở  trong  tác  phẩm  Nam  Cao  cũng  là  con  người  như  thế.  Trước  Đời
thừa  ông  đã  từng  viết  Trăng  sáng  mà  ở  đó  nhà  văn  khẳng  định  :  “Nghệ  thuật
  51
không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối ; nghệ thuật
chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. 
– Đời thừa cũng xây dựng hình tượng một nhà văn, đó là Hộ. Hộ là một người
có tâm huyết trong công việc của mình. Hộ say sưa sự nghiệp văn chương, coi văn
chương  là  lẽ  sống  lớn  nhất  trong  cuộc  đời,  coi  thường  vật  chất,  sẵn  sàng  chấp
nhận sự đói khổ, miễn là viết được những tác phẩm văn chương lớn. Hộ hiểu rằng
văn  chương  là  một  sự  nghiệp  lớn  lao,  có  thể  mang tới  cho con  người  những  ý
tưởng đẹp đẽ, làm cho con người xích lại gần nhau. Hộ mơ ước viết được một tác
phẩm vượt lên trên mọi tác phẩm đương thời, giật giải Nobel văn học.
– Không những chỉ khát khao, mơ ước sự nghiệp văn chương, Hộ còn là nhà
văn  có  thái  độ  nghiêm túc  đối  với  công  việc  của  mình.  Anh  cho rằng,  nhà  văn
không nên phản ánh cái hời hợt bên ngoài, mà phải đào sâu suy nghĩ, phải sáng
tạo  : “Văn chương  không  cần đến  những  người thợ khéo tay... Văn chương  chỉ
dung nạp những người biết đào sâu suy nghĩ...”.
– Tuy  nhiên, tâm  huyết  là thế,  nghiêm túc là thế,  nhưng  Hộ lại  không thực
hiện được ước mơ, khát vọng của mình. Hoàn cảnh xã hội đã không cho phép anh
thực hiện những điều mơ ước đó. Là nhà  văn nhưng còn là ông chủ gia đình, là
người bố,  người chồng, Hộ phải có trách  nhiệm  nuôi  sống  gia đình ấy  và  trong
hoàn  cảnh  cuộc  sống  khó  khăn  trách  nhiệm  này  thật  sự  là  quá  sức  đối  với  một
người như Hộ. Anh buộc phải viết những tác phẩm tẻ nhạt, viết nhanh, viết vội,
viết ẩu, “diễn một vài ý thông thường quấy loãng trong một thứ văn chương bằng
phẳng và quá ư dễ dãi”. Cứ mỗi lần đọc  lại  những trang  viết của mình,  Hộ lại
cảm thấy xấu hổ. Anh tự xỉ vả mình, anh tự sám hối nhưng vẫn không thể thoát ra
khỏi tấn bi kịch. Nam Cao cho rằng bi kịch này không chỉ là của riêng cá  nhân
Hộ, không phải là lỗi của cá nhân Hộ, mà là do hoàn cảnh xã hội. Chỉ khi nào xã
hội thay đổi mới không còn bi kịch của Hộ.
2. Bi kịch gia đình, bi kịch nhân ái, bi kịch bên trong
– Bên cạnh tấn bi kịch sự nghiệp, Hộ còn rơi vào tấn bi kịch tinh thần thứ hai
không kém đau đớn, đó là bi kịch của một con người có nhân cách, coi lẽ sống
nhân ái là mục đích sống trong cuộc đời của mình,  nhưng đôi khi buộc phải đi
ngược lại lẽ sống ấy.
– Xây dựng  hình tượng  nhân  vật  Hộ,  Nam Cao  khẳng định đây  là một con
người hết sức nhân ái. Bởi lẽ nếu không nhân ái bỗng dưng tại sao Hộ lại dang tay
    52
đón nhận cuộc đời Từ trong lúc Từ đang trên bờ vực của sự tuyệt vọng. Hộ nhận
đứa con trót dại của Từ, thậm chí, muốn cứu vớt danh dự của Từ, sau đó anh cưới
Từ làm vợ. Bình thường, trong cuộc sống gia đình, Hộ là người chồng thương yêu
vợ, người cha mẫu mực, thương yêu, độ lượng với những đứa con của mình. 
– Tuy nhiên, là một con người nhân ái nhưng lại có lúc Hộ không giữ được lẽ
sống nhân ái của mình. Do bất mãn trong sự nghiệp văn chương, Hộ cảm thấy gia
đình như một vật cản. Nhân ái với vợ con là thế, nhưng Hộ lại tỏ ra tàn nhẫn với
vợ con. Hộ lao vào rượu chè, mắng chửi vợ con, có lúc đòi đuổi vợ con ra khỏi
nhà, thậm chí còn nghĩ tới chuyện từ bỏ gia đình đến một nơi nào đó để sống cho
riêng mình, chỉ tập trung vào sự nghiệp văn chương. Lý giải tấn bi kịch về lẽ sống
nhân ái của Hộ, Nam Cao đã đặt nó trong mối quan hệ với tấn bi kịch sự nghiệp.
Dường như hai tấn bi kịch này đều có nguyên nhân từ hoàn cảnh xã hội. Cái nhìn
của  Nam Cao ở  đây  tỏ  ra  hết sức  nhân  ái,  ông  không  đổ lỗi  cho  cá  nhân  con
người mà kết tội hoàn cảnh xã hội, bởi lẽ không riêng gì Hộ mà chắc chắn bất cứ
một nhà văn nào giống Hộ đều sẽ rơi vào tấn bi kịch ấy nếu sống trong hoàn cảnh
xã hội ấy. Hộ nhìn thấy hết mọi lỗi lầm của mình nhưng vẫn không thể nào vượt
ra khỏi lỗi lầm ấy chỉ vì hoàn cảnh xã hội.
III - KẾT LUẬN : Ý nghĩa của bi kịch “Đời thừa”
Đời  thừa  là  một  truyện  ngắn  ý  tưởng  của  Nam  Cao.  Ông  viết  tác  phẩm  để
nhằm minh hoạ cho một Tuyên ngôn nghệ thuật. Tuy nhiên, bằng tài năng và tấm
lòng của mình, Nam Cao đã không biến tác phẩm thành một bức tranh minh hoạ
khô cứng mà đây là một tác phẩm thực sự sống động. Chỉ thông qua bi kịch của
một cá nhân con người, Nam Cao đã nâng lên thành một vấn đề có ý nghĩa rộng
lớn. Đó là tấn bi kịch của thế hệ những người trí thức tiểu tư sản nước ta trước
Cách mạng tháng Tám 1945. Tính nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm Nam Cao thể
hiện rõ qua vấn đề này. 
                      
  53
VĩNH BIệT CửU TRùNG ĐàI
(Trích kịch Vũ Như Tô)
NGUYỄN HUY TƯỞNG
A - DẠNG ĐỀ
– Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong kịch Vũ Như
Tô (đoạn trích đã được học) của Nguyễn Huy Tưởng (đề thi đại học năm 2006,
dạng câu 3 điểm).
 – “Trong lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã từng
viết : “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc ? Chẳng biết Vũ Như
Tô phải hay kẻ giết Vũ Như Tô phải… Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết
Như  Tô  phải  ?  Ta  chẳng  biết  –  cầm  bút  chẳng  qua  cùng  một  bệnh  với  Đan
Thiềm”. Dựa vào đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trong bi kịch Vũ Như Tô,
hãy bình luận đoạn văn trên.
Một số lưu ý : Nguyễn Huy Tưởng là một tác giả lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông không chỉ viết kịch mà còn viết các thể loại khác  như : tiểu
thuyết (Sống mãi với thủ đô,  Đêm hội Long Trì, Lũy hoa), bút ký (Ký sự Cao - 
Lạng), truyện thiếu nhi (Lá cờ thêu sáu chữ vàng).  Tuy  nhiên,  kịch có lẽ là thể
loại sở trường nhất của ông. Ở thể loại này ông có nhiều sáng tác có giá trị, được
giới nghiên cứu thừa nhận. Vũ Như Tô là một trong số tác phẩm đặc sắc nói trên.
Trong chương trình mới, sách Ngữ văn 11, Vũ Như  Tô được đưa vào phần bài học
bắt buộc cho cả hai chương trình : cơ bản và nâng cao. Trong phần hướng dẫn học
bài (loại sách dành cho giáo viên), người biên soạn có lưu ý về đặc điểm thể tài và
thể loại của vở kịch, khi cho rằng, đây là một vở kịch lịch sử, nếu nhìn từ góc độ
thể tài, đồng thời cũng là một vở bi kịch, nếu nhìn từ góc độ thể loại. Phần trích
dẫn trong sách giáo khoa, là trọn vẹn hồi 5 của vở kịch. Xét về mặt kết cấu, cụ thể
kết cấu bi kịch, thì đây là hồi kết (bi kịch cổ điển có kết cấu 5 hồi tương ứng với 5
bước phát triển của  hành động kịch : giao đãi, phát triển, cao trào, đột biến, kết
thúc) của một vở bi kịch. Dạng đề thi chính liên quan đến đoạn trích, chủ yếu đề
cập vấn đề bi kịch của nhân vật trong vở kịch. Học sinh khi học tác phẩm này phải
nắm được những vấn đề cơ bản của thể loại bi kịch trong đó có vấn đề nhân vật,
cấu trúc, giọng điệu của một vở bi kịch. Trong trường hợp đề ra yêu cầu nêu cảm
nhận về bi kịch của nhân vật, thì trước hết phải giải thích được bi kịch là gì, sau
    54
đó mới đi vào phân tích nhân vật để làm rõ.  Trường  hợp thứ  hai, là  loại đề thi
phức tạp hơn, khả năng ra cho thí sinh bình thường không nhiều. Đây là dạng đề
thi dành cho học sinh giỏi. Giải quyết dạng đề thi thuộc loại này, học sinh chỉ cần
nắm được cốt lõi tác phẩm, hiểu được ý đồ của Nguyễn Huy Tưởng khi sáng tạo
nhân vật Vũ Như Tô (vấn đề cái đẹp và người nghệ sĩ, cái đẹp và hiện thực, cái
đẹp và cái có ích, mối quan hệ của cái đẹp và khát vọng của người nghệ sĩ), qua
việc phân tích kịch Vũ Như Tô kết hợp việc giải thích thêm yêu cầu của đề.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 
– Trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nguyễn Huy Tưởng (1912 -
1960) là một nhà văn có cuộc đời và sự nghiệp sáng tác tuy ngắn ngủi, nhưng lại
hết sức ấn tượng. Xuất thân trong một gia đình nhà nho,  sớm hoà mình vào dòng
chảy cách mạng, phần lớn tác phẩm của ông đều gắn với các chặng đường lịch sử
của đất nước, phản ánh khá kịp thời những bước ngoặt quan trọng của vận mệnh
dân tộc. Những vấn đề của lịch sử đất nước đã được ông thể hiện rất thành công
qua Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Lá cờ thêu sáu chữ vàng,… Cuộc kháng chiến
chống Pháp gian khổ, hào hùng của dân tộc, với không ít nhà văn khác chỉ như
một tia chớp thoáng qua, nhưng với Nguyễn Huy Tưởng lại là cả một kho sự kiện
lịch sử quý giá. Chỉ trong vòng năm năm, từ 1946 đến 1951, Nguyễn Huy Tưởng
đã  kịp  viết  năm  tác  phẩm  gồm  cả  kịch,  tiểu  thuyết  và  bút  ký  (Bắc  Sơn,  Những
người ở lại - kịch ; Đêm hội Long Trì, Lũy hoa, Sống mãi với thủ đô - tiểu thuyết,
Ký sự Cao -  Lạng - bút ký),…
–  Vũ Như Tô là  vở bi kịch  lịch  sử 5  hồi, lấy sự kiện  lịch sử  xảy ra  ở kinh
thành Thăng Long thời  vua  Lê Tương Dực (1516 - 1517), một vị hôn quân bạo
chúa, lợi dụng Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm  nơi ăn chơi sa đoạ.
Nhà nghệ sĩ tài năng Vũ Như Tô vì khát khao sáng tạo cái đẹp và muốn được thể
hiện mình đã lao vào Cửu Trùng Đài như con vật thiêu thân bất chấp dân chúng
lầm than, cơ cực, đói khổ, chết chóc, phản đối. Bất mãn với triều đình và vua Lê
Tương Dực, dẫn đến sự bất bình với Vũ Như Tô (vì đã xây Cửu Trùng Đài), dân
chúng nổi loạn. Nhân cơ hội này, kẻ mưu phản Trịnh Duy Sản xúi giục đám “kiêu
binh”  giết  chết  vua  Lê  Tương Dực,  Vũ  Như  Tô,  Đan  Thiềm  và  đốt  Cửu  Trùng
Đài. Cái chết bi thảm của người nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô, nỗi đau đớn, bất lực
của cung nữ Đan Thiềm, khi không cứu vãn được cả cái tài và cái đẹp… Ở phần
  55
cuối vở kịch là một bài học sâu sắc, thấm thía với người nghệ sĩ tài năng Vũ Như
Tô và với chính nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
II - PHÂN TÍCH
1. Xác định vị trí đoạn trích trong vở kịch
– Để phân tích chính xác đoạn trích, đồng thời giải quyết đúng yêu cầu của đề
ra, ta không thể không làm rõ vị trí của đoạn trích. Trong phần trích ở sách giáo
khoa, những người biên soạn đã đặt lại đầu đề. Thực ra, trong nguyên văn vở kịch,
nó có tên là “Trong cung cấm”. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là nhan đề được đặt lại
cho sát nội dung hơn. Đây là hồi thứ 5 của một vở bi kịch lịch sử 5 hồi, tóm tắt
diễn biến của hành động kịch của 4 hồi đầu  như sau : 
– Lê Tương Dực khao khát xây Cửu Trùng Đài để phục vụ cho mục đích ăn
chơi. Người duy nhất có thể thực hiện được ý đồ của y là kiến trúc sư tài năng Vũ
Như Tô. Ban đầu, Vũ Như Tô đứng về phía nhân dân, không chấp nhận hợp tác.
Một cung  nữ tên  là  Đan Thiềm  vì  ngưỡng mộ tài  năng của  Vũ Như Tô khuyên
ông tận dụng quyền thế và tiền bạc của Lê Tương Dực, “tranh tinh xảo với hoá
công”, để lại niềm vinh quang cho hậu thế. Vũ Như Tô chấp nhận và dốc sức lực,
trí tuệ, tài năng xây dựng Cửu Trùng Đài mà không biết đã tiêu tốn tiền của, sức
lực của dân, khiến họ bất bình, căm giận. Từ cuối hồi 4, dân chúng phẫn nộ đứng
lên ngăn chặn việc xây dựng Cửu Trùng Đài.
– Hồi 5, gồm 9 lớp kịch tiếp tục xung đột đã được mở ra từ 4 hồi kịch trước
đó bằng các sự kiện, hành động dồn dập : Trịnh Duy Sản, một kẻ mưu phản đã có
âm mưu lật đổ vua Lê Tương Dực từ trước đó, lợi dụng tình hình rối ren, xúi giục
dân chúng,  lôi kéo đám thợ thuyền  làm phản. Bất chấp  lời khuyên can của Đan
Thiềm  hãy trốn đi,  Vũ Như Tô ở lại với Cửu  Trùng Đài. Ông bị  giết chết, Đan
Thiềm, “người đồng bệnh” cũng chết, Đài Cửu Trùng bị đốt thành tro bụi. Phần
kết thúc của vở kịch đặt ra nhiều tấn bi kịch : bi kịch giữa cái đẹp và cái tài, cái
đẹp và cái có ích, khát vọng sáng tạo cái đẹp của người nghệ sĩ và ước mơ cuộc
sống bình dị của  nhân  dân.  Tấn  bi  kịch  đó  không  phải  lúc  nào  cũng  được  giải
quyết một cách dễ dàng.
2. Bi kịch nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm
–  Tuy  đề  thi  chỉ  yêu  cầu  tập  trung  vào  nhân  vật  Vũ  Như  Tô,  nhưng  cũng
giống  như  trong  Chữ người  tử tù  của  Nguyễn  Tuân,  nhân  vật  chính  trong  Vĩnh
    56
biệt  Cửu  Trùng  Đài  khó  có  thể  tách  rời  với  nhân  vật  Đan  Thiềm,  cũng  như  ta
không thể tách rời nhân vật chính Huấn Cao ra khỏi nhân vật Quản ngục. Ở kiểu
nhân vật cặp đôi như thế, nhân vật này có thể góp phần làm nổi bật nhân vật kia.
Mối quan hệ Vũ Như Tô và Đan Thiềm chính là như vậy. Bi kịch của Vũ Như Tô
đồng thời cũng là bi kịch của Đan Thiềm. Sâu xa hơn, là bi kịch của thời đại, bi
kịch của người nghệ sĩ  yêu cái đẹp, nhưng lại không gắn cái đẹp với hiện thực
cuộc sống.
a) Bi kịch là gì ? 
Để hiểu được nhân vật bi kịch, trước tiên phải hiểu được khái niệm bi kịch là
gì. Ở góc độ thuật ngữ, có thể hiểu bi kịch là sự mâu thuẫn, đối nghịch, không thể
giải quyết được giữa mong muốn, khát vọng, mơ ước và hiện thực của con người
trong cuộc sống. Người ta có thể nói tới bi kịch cá nhân và bi kịch của cả xã hội,
cộng đồng. Ở góc độ thể loại, bi kịch là một trong những loại hình văn học phát
triển rất sớm ở các nước phương Tây, đặc biệt ở Pháp trong thời đại cổ điển (thế
kỷ XVII), có kết cấu 5 hồi, viết bằng thơ, thường có kết thúc buồn bằng cái chết
của nhân vật chính, thậm chí cả các nhân vật phụ khác.
b) Bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô 
–  Vũ Như Tô có thể được xem là nhân vật bi kịch tiêu biểu nhất nhưng không
phải là duy nhất. Bên cạnh Vũ Như Tô, Đan Thiềm, người cung nữ yêu cái tài và
trân trọng cái đẹp cũng  là  một bi kịch. Thậm  chí,  chúng ta  còn có thể nói tới bi
kịch của  vua Lê Tương Dực, bi kịch của triều đình hậu Lê và bi kịch của cả dân tộc
Việt Nam. Một vở bi kịch đúng nghĩa chính là như thế. 
– Vũ Như Tô là một nghệ sĩ  có tài, giống  nhân  vật  Hộ trong Đời thừa của
Nam Cao muốn viết được một tác phẩm đoạt giải Nobel, Vũ Như Tô cũng có khát
vọng sáng tạo một tác phẩm để đời. Cửu Trùng Đài là cái đích hướng tới của ông.
Và đây cũng là khát vọng của vua Lê Tương Dực. Tuy nhiên, trong khi Vũ Như
Tô khát khao xây dựng công trình nghệ thuật này để thoả mãn niềm ham thích cái
đẹp, để được cống hiến tài năng cho nhân dân, đất nước (xét cho cùng đó cũng là
một  cách  biểu  hiện  của  tình  yêu  nước),  thì  Lê  Tương  Dực  lại  khao  khát  Cửu
Trùng Đài chỉ để phục vụ cho mục đích ăn chơi của tầng lớp vua quan. Vì thế, bi
kịch trước  tiên  của  nhân  vật  Vũ  Như  Tô  chính  là  ở chỗ  ông  đã  bị  mắc  lừa  Lê
Tương Dực. Ông đã dùng tài năng của mình phục vụ cho sự ăn chơi, sa đoạ của
tầng lớp vua chúa, chống lại lợi ích của nhân dân (nên nhớ, ban đầu, đứng về phía
  57
nhân dân, Vũ Như Tô đã từ chối xây Cửu Trùng Đài). Chỉ vì theo lời khuyên của 
cung nữ Đan Thiềm, “cơ hội ngàn năm chưa dễ có một” và  để thoả mãn ước mơ
sáng tạo cái đẹp, Vũ Như Tô cuối cùng chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài. Đó là
bi  kịch  của  con  người  sống  trong  thời  điểm  xã  hội  “nhố  nhăng”,  người nghệ sĩ
không có “đất dụng võ”, tài năng của họ đã bị giai cấp thống trị lợi dụng.
– Bi kịch  của  Vũ Như Tô chưa dừng  lại ở chỗ đó và  có lẽ đó chưa phải  là
xung đột chính dẫn đến cái chết của ông và sự đổ vỡ giấc mộng Cửu Trùng Đài.
Thêm nữa khát  vọng sáng tạo cái đẹp và ước mơ “tranh tinh xảo với hoá công”
của người nghệ sĩ ở bất cứ thời đại nào cũng đều là chính đáng. Điều không chính
đáng ở đây là người nghệ sĩ cần phải cân bằng được “lợi ích” sáng tạo cái đẹp của
mình và lợi ích của số đông nhân dân. Không phải bất cứ cái đẹp nào cũng phục
vụ cho lợi ích của nhân dân cho dù muôn đời nhân dân đều yêu cái đẹp. Vũ Như
Tô đã không hiểu được điều đó. Ông hy sinh cả cuộc đời mình để làm cái công
việc mà số đông nhân dân đều thấy đi ngược lại lợi ích của họ. Thực tế, để xây
Cửu Trùng Đài,  người ta  đã phải  vắt kiệt sức dân, trong khi  Vũ Như Tô lại chỉ
nhìn thấy cái đẹp thuần tuý. Sự phản ứng của số đông nhân dân với Vũ Như Tô
hoàn toàn không phải là mâu thuẫn giữa công chúng và cái đẹp mà thực chất là
mâu thuẫn giữa cái đẹp với cái chân, cái thiện, cái có ích. Bi kịch Vũ Như Tô nảy
sinh từ đó.
– Sau cùng, góp phần tạo nên bi kịch Vũ Như Tô, hẳn không phải chỉ do hoàn
cảnh, hay do vua Lê Tương Dực. Chính Vũ Như Tô cũng góp phần tạo nên bi kịch
của mình, kể cả Đan Thiềm, “người đồng bệnh” với Vũ Như Tô. Và cũng còn có
“người  đồng  phạm”  là  chính  nhà  văn  Nguyễn  Huy  Tưởng.  Trong  lời  đề  từ  viết
một năm sau khi tác phẩm được công bố, Nguyễn Huy Tưởng đã từng bộc lộ rõ sự
bối rối của mình : “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc ?... Chẳng
biết Vũ Như Tô phải hay kẻ giết Như Tô phải ? Ta chẳng biết – cầm bút chẳng
qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Như vậy có tới ít nhất ba nhân vật can dự
vào  bi  kịch  Vũ  Như  Tô  :  Người  cung  nữ  yêu  cái  tài  và  cái  đẹp  đến  đắm  đuối,
người nghệ sĩ là người trần mắt thịt nhưng lại dám “tranh tinh xảo với hoá công”
và  nhà  văn,  người sáng tạo ra cả hai  nhân  vật trên,  sáng tạo ra Cửu Trùng Đài,
nhưng  lại  không  thể  phân  định  được  đúng,  sai  trong  trò  chơi  nghệ  thuật  của
người nghệ sĩ. Đúng ra, Nguyễn Huy Tưởng đã trả lời cho người đọc câu hỏi này.
Ông đã khéo léo bày tỏ quan niệm nghệ thuật của mình qua lời bộc bạch bối rối
nhưng thực ra đã rõ. Một mặt, ông cho rằng, trước cái đẹp, người nghệ sĩ nào lại
chẳng hết lòng, đó là một phần thước đo phẩm chất nghệ sĩ của họ. Đó cũng là lý
    58
do tại sao Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, vì ông cũng “cùng
bệnh với Đan Thiềm”. Mặt khác, theo Nguyễn Huy Tưởng, người nghệ sĩ khi sáng
tạo cái đẹp lại không thể tách rời khỏi lợi ích chung, không thể có cái đẹp thuần
tuý trong lúc số đông dân chúng lầm than khổ cực. Bi kịch của Vũ Như Tô đồng
thời cũng là bi kịch của sự lầm lạc. Sự lầm lạc của dân chúng bắt nguồn từ sự lầm
lạc của Vũ Như Tô.
c) Bi kịch của nhân vật Đan Thiềm
 –  Đan  Thiềm  tuy  không  phải  là  nhân  vật  trung  tâm,  nhưng  lại  là  nhân  vật
quan trọng  giúp Nguyễn  Huy Tưởng  hoàn thiện  quan  niệm  bi kịch Vũ Như Tô.
Quả thật, nếu chỉ xem xét đoạn trích hồi 5 của vở kịch, chúng ta nhận thấy chỉ có
hai nhân vật xuất hiện nhiều nhất, bên cạnh Vũ Như Tô, đó là Đan Thiềm. Đan
Thiềm  xuất hiện gần như trong suốt cả 9 lớp kịch hồi 5. Là một cung nữ thông
minh,  sắc  sảo,  Đan Thiềm cũng có thể được coi là  một Giu-li-ét, một vì tinh tú
trong  cái  cung  đình  thối  nát  Lê  Tương Dực.  Chính  Đan  Thiềm  đã  phát  hiện và
ngưỡng mộ tài năng của Vũ Như Tô. Nàng yêu cả cái tài và cái đẹp. So với Vũ
Như  Tô,  có  thể  Đan  Thiềm  không  tài  năng  bằng  nhưng  nàng  lại  tỉnh  táo  hơn.
Chính Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô hãy nhận lời xây Cửu Trùng Đài vì muốn
cái tài phát huy được sức mạnh của mình. Thêm nữa, trong hoàn cảnh đang bị o
ép, không nhận lời xây Đài Cửu Trùng, Vũ Như Tô cũng khó bảo toàn được tính
mệnh. Rồi khi biết có kẻ âm mưu ám hại Vũ Như Tô, cũng chính nàng là người
quyết  liệt  khuyên  ông  bỏ  trốn.  Khi  không  khuyên  được,  lại  một  lần  nữa  chính
nàng chịu nhục xin tha mạng chết cho ông Cả Vũ Như Tô : “Tướng quân nghe tôi.
Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là
một người tài”. Cho đến tận khi nhận ra giấc mộng Cửu Trùng Đài hoàn toàn đổ
vỡ, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường, Đan Thiềm mới đau đớn thốt lên : “Đài lớn
tan tành ! Ông Cả ơi, xin cùng ông vĩnh biệt !”. Rõ ràng Đan Thiềm không phải là
một cung nữ tầm thường. Tình yêu của nàng với Vũ Như Tô cũng không chỉ là
tình  yêu của “kẻ biệt nhỡn liên tài”. Nàng còn là một người biết  yêu và  ngưỡng
mộ cái đẹp. Không phải ngẫu nhiên,  Vũ Như Tô, biết mình sẽ chết vẫn cứ nhất
quyết không nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm bỏ trốn : “Hồn ta ở đây, ta phải
bỏ đi đâu”. Hồn ở đây không chỉ là Cửu Trùng Đài mà còn có cả cung nữ Đan
Thiềm.  Tiếng  kêu  thất thanh  của  Vũ  Như  Tô  ở  phần  cuối  vở  kịch  như một
lưỡi dao xoáy vào tim của bất cứ ai  yêu nghệ thuật,  yêu cái đẹp : “Ôi mộng
lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài !”.
  59
III - KẾT LUẬN  
– Bi kịch Vũ Như Tô không phải chỉ là bi kịch riêng của hai  nhân vật chính
Đan Thiềm  và  Vũ Như Tô. Giá trị của  vở kịch  hẳn  không chỉ đơn thuần  là  nội
dung của tác phẩm. Để có được tuyệt tác Vũ Như Tô, bên cạnh Đan Thiềm và Vũ
Như Tô, còn có có các nhân vật khác như vua Lê Tương Dực, kẻ táng tận lương
tâm đẩy người nghệ sĩ tài hoa đến cái chết để phục vụ cho mục đích ăn chơi ; đó
còn là quận công Trịnh Duy Sản, kẻ lợi dụng sự rối ren của triều đình và sự lầm
lạc  của  dân chúng  giết  vua  và  giết  cả  người tài  ;  và  còn  nữa  các  nhân  vật,  Thị
Nhiên  (vợ  Vũ  Như  Tô),  Kim  Phượng  (thứ  phi,  vợ  vua),  Đông  Các  đại  học  sĩ
Nguyễn Vũ, thái giám Lê Trung Mại, võ sĩ Ngô Hạch,… Tất cả các nhân vật đó
đều cùng góp phần vào thành công của vở kịch, bên cạnh thành công về ngôn ngữ,
về cách xây dựng và khai thác hành động kịch… Vũ Như Tô đã để lại một bài học
sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật với
hiện thực đời sống của nhân dân.
 
   
 
XUÂN DIệU :  Sự NGHIệP Sáng Tác
 Và PHONG CáCH NGHệ THUậT
 
A - DẠNG ĐỀ  
– Tóm tắt sự nghiệp thơ Xuân Diệu (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 2 điểm). 
–  Trình bày đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 (đề
thi đại học năm 2007, dạng câu 2 điểm).
–  Bình giảng (hoặc phân tích) khổ thơ bất kỳ trong bài thơ Vội vàng.
– Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình qua đoạn thơ sau trong bài thơ  :
“Tôi muốn tắt nắng đi… Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…”.
– “Vội vàng là bài thơ thể hiện đầy đủ quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ mới
mẻ của Xuân Diệu”, hãy phân tích bài thơ để làm rõ nhận định trên.
 
    60
Một số lưu ý : Tác giả Xuân Diệu có hai dạng đề chính cần phải chú ý, một là
dạng đề tóm tắt sự nghiệp sáng tác chung, hoặc dựa vào một bài thơ cụ thể để chỉ
ra đặc điểm cơ bản trong sáng tác ; thứ hai là dạng đề phân tích hoặc bình giảng
đoạn thơ, khổ thơ, hoặc nữa, thông qua việc phân tích, bình giảng khổ thơ/bài thơ,
chỉ ra một vài đặc điểm quan trọng, cốt lõi trong phong cách sáng tác và đặc điểm
tâm hồn của tác giả ; thứ ba là yêu cầu thí sinh phân tích bài thơ hoặc đoạn thơ để
làm rõ quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ mới mẻ của tác giả. Tuỳ thuộc vào yêu
cầu cụ thể của đề thi, thí sinh có thể phân tích cả bài hoặc chỉ một đoạn thơ
căn cứ vào ý của mỗi đoạn. Với tác giả Xuân Diệu, phần đề thi theo chương
trình mới chỉ có bài thơ Vội vàng.
 
B - GỢI Ý LÀM BÀI
 
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA XUÂN DIỆU (1918 – 1985)
– Xuân Diệu là một tài năng đa dạng, làm thơ, viết văn, nghiên cứu, phê bình
văn học, dịch thuật, ở phương diện nào ông cũng có đóng góp đáng kể, đặc biệt
ông được người yêu thơ suy tôn là “Vị hoàng đế của thơ tình Việt Nam”. Trước
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu nổi tiếng như một nhà thơ “mới nhất trong các
nhà thơ mới” (Hoài Thanh) bởi ông đã thể hiện rõ tâm  trạng của  một cái tôi cá
nhân khao khát giao cảm với đời, bởi ông đã đem đến cho văn chương Việt Nam
quan niệm tình yêu chân thực của con người hiện đại, bởi ông có những cách tân
quan trọng trong nghệ thuật sáng tạo thơ ca. Tác phẩm được chú ý nhiều nhất của
Xuân Diệu thời kì này có hai tập thơ Thơ thơ, Gửi hương cho gió và tập văn xuôi
Phấn thông vàng.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu đã đi từ cái tôi của riêng mình để
đến  với  chân  trời  rộng  lớn  của  nhân  dân  và  Tổ  quốc.  Ông  ca  ngợi  vẻ  đẹp  của
những con người giản dị, sức mạnh vĩ đại của hai cuộc kháng chiến, khí thế hào
hùng của công cuộc  xây dựng đất nước, ông trân trọng mọi  giá  trị  văn  hoá xưa
nay của dân tộc và thế giới. Tác phẩm tiêu biểu của ông thời kỳ này là các tập thơ
: Riêng chung, Mũi Cà Mau, Cầm tay, các tập tiểu luận phê bình và giới thiệu thơ
: Các nhà thơ cổ điển Việt Nam...
– Vốn văn hoá Đông và Tây, tính chất truyền thống và hiện đại,… tất cả kết
tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ thiết tha yêu cuộc sống đã giúp Xuân Diệu khám phá
được nhiều biến thái tinh tế của thiên nhiên, của nội tâm con người và có những
vần thơ “ít lời nhiều ý, súc tích nhưng đọng lại bao nhiêu tinh hoa” (Thế Lữ). 
  61
 
 
VộI VàNG
XUÂN DIỆU
I - GIỚI THIỆU BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ
– Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Xuân Diệu in trong
tập Thơ thơ, tập thơ đầu tay của tác giả. Cũng như nhiều bài thơ khác trong tập thơ
này, Vội vàng thể hiện rõ quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của
một nhà thơ trẻ từng được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ
mới”. Qua lối viết táo bạo, mới mẻ và tân kỳ, Xuân Diệu bộc lộ không giấu giếm
cái Tôi yêu đời, yêu sống, “vội vàng sống, vội vàng yêu, vội vàng tận hưởng mọi
niềm  vui trần thế”.  Có thể khẳng định, Vội vàng đã bộc  lộ đầy đầy đủ nhất đặc
điểm tâm hồn và phong cách thơ Xuân Diệu thời điểm trước 1945.
II - PHÂN TÍCH 
1. Khát vọng níu giữ cái đẹp của trần thế  (4 câu thơ đầu)
– Vội vàng được viết bằng thể tự do, câu thơ từ ba chữ, năm chữ đến tám chữ
tuỳ thuộc vào tâm trạng của tác giả. Khổ thơ đầu gồm 4 câu được viết bằng thể
thơ năm chữ : “Tôi muốn tắt nắng đi - Cho màu đừng nhạt mất - Tôi muốn buộc
gió lại - Cho hương đừng bay đi”. Chỉ với bốn câu thơ, tác giả có tới hai lần nhắc
lại chữ Tôi (Tôi muốn tắt nắng… Tôi muốn buộc gió…), cái Tôi ở đây được bộc lộ
một cách quyết liệt, không khoan nhượng, không e dè. Thể thơ năm chữ đã góp
phần quan trọng tạo được  ấn tượng dứt khoát  trong  việc  bày tỏ cái Tôi cá nhân
của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên, nhà thơ chỉ sử dụng đại từ sở hữu Tôi ở đoạn
đầu bài thơ này (từ đầu đến “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”), lý do rất đơn
giản : với cái tôi cá nhân, nhà thơ có thể dễ dàng bộc bạch những ước muốn khát
vọng, cho dù phi lý nhất. Người ta không thể tắt nắng hay buộc gió, vì đó là vòng
quay hợp quy luật của tự nhiên. Xuân Diệu cũng không muốn đi ngược quy luật
tự nhiên, ông chỉ muốn bày tỏ ước muốn níu giữ cái đẹp cuộc sống : tắt nắng là để
cho màu không phai nhạt, buộc gió là để hương đừng bay đi. Hương và màu chính
là sự kết tinh vẻ đẹp cao nhất của cuộc sống. 
2. Vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên (9 câu thơ tiếp theo)
    62
– Sau bốn câu thơ đầu bày tỏ khát vọng níu giữ cái đẹp cuộc sống được viết
bằng thể thơ 5 chữ, chuyển sang khổ thứ hai, câu thơ đột ngột thay đổi : nhà thơ
sử dụng thể thơ 8 chữ để diễn tả tâm trạng của mình trước vẻ đẹp kỳ diệu của mùa
xuân. Theo Xuân Diệu mùa xuân chính là sự kết tinh đầy đủ nhất vẻ đẹp cuộc đời.
Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, với Xuân Diệu, mùa nào cũng đều tìm
được vẻ đẹp riêng của nó, nếu trong trái tim mỗi người có sẵn một tình yêu. Ông
đã từng viết trong bài Xuân không mùa : “Một ít nắng vài ba sương mỏng thắm -
Mấy  cành  xanh  năm  bảy  sắc  yêu  yêu  -  Thế  là  xuân.  Tôi  không  hỏi  chi  nhiều -
Xuân đã sẵn trong  lòng tôi lai  láng -  Xuân không chỉ ở mùa  xuân ba tháng…”.
Dẫu vậy, trong bốn mùa, Xuân Diệu vẫn yêu nhất mùa xuân, lý do thật đơn giản,
vì xuân là mùa tượng trưng cho vẻ đẹp sinh sôi, nảy nở của cuộc đời, là mùa xuân
sắc, là sự bắt đầu, là những gì tươi trẻ. Không phải ngẫu nhiên, đến khổ thơ này,
nhà thơ phải chuyển sang thể thơ tám chữ, bởi chỉ với thể thơ này, ông mới diễn tả
được hết tâm trạng  yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của mình. Câu thơ được kéo
dài ra là để nói cái da diết tình yêu cuộc sống. Nhà thơ vận dụng một loạt những
điệp từ, điệp ngữ (của : của ong bướm, của cành tơ, của yến anh…; này đây… này
đây hoa, này đây lá, này đây tuần, này đây tháng,…), đọc lên khiến ta có cảm giác
như những lời mời chào, giới thiệu vồ vập, cuồng nhiệt. Mùa xuân là vẻ đẹp cuộc
đời ban tặng cho tất cả mọi người. Nó ở rất gần ta, ở ngay quanh ta, thậm chí ở
trong lòng ta, là vẻ đẹp bồng lai trên trần thế, chẳng phải mất công tìm kiếm. Mùa
nào trong năm cũng đẹp, nhưng chỉ mùa  xuân mới có hoa  tươi,  lá  non, cành tơ
phơ phất,  chỉ mùa  xuân mới rộn rã  tiếng chim  ca, mới yểu  điệu đường bay của
ong và bướm, mới có “thần Vui hằng gõ cửa”… Mùa xuân chẳng khác nào một
mâm cỗ ngon lành bày ra, mời gọi tất cả mọi người. Dường như dù ca ngợi đến
bao nhiêu vẻ đẹp của mùa xuân vẫn là không đủ, Xuân Diệu đã có một so sánh táo
bạo, bất ngờ và rất “Xuân Diệu” : “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…”.
Từ vẻ đẹp được chiêm ngưỡng bằng thị giác, nhà thơ bất ngờ chuyển sang vị giác.
Đó là cách so sánh ảnh hưởng rõ rệt từ phương Tây. 
– Niềm vui rộn rã trong tâm hồn con người cũng khiến cho nhịp thơ thay đổi,
biến  hoá  khôn  lường,  lúc  thì  câu  thơ  được  ngắt  nhịp  theo  dạng  phổ  biến  3/3/2
(Này đây lá/ của cành tơ/ phơ phất), có lúc lại ngắt theo nhịp 3/2/3 (Của yến anh/
này đây/  khúc tình si)… Rõ  ràng, khổ thơ  9  câu nối tiếp bài thơ  là minh chứng
hung hồn cho lòng yêu sống thiết tha của Xuân Diệu.
3. Vẻ đẹp của tuổi trẻ - mùa xuân cuộc sống (17 câu tiếp theo)
  63
–  Sau  những  câu  thơ  ca  ngợi  vẻ  đẹp  tuyệt  diệu  của  mùa  xuân  thiên  nhiên,
Xuân Diệu chuyển sang ca ngợi vẻ đẹp của tuổi trẻ cuộc đời. Trước đó, ngay khi
đang nói về vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đang ở giữa mùa xuân, nhà thơ đã
bộc lộ nỗi luyến tiếc nhớ nhung : “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Quả là
chỉ Xuân Diệu mới có nỗi nhớ nhung, hoài niệm đặc biệt như thế : nhớ ngay khi
đang  gặp, buồn giữa lúc đang vui.  Chỉ có một tâm hồn tha thiết với đời mới có
kiểu hoài niệm, nhớ nhung như thế. 
– Vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đã được nhà thơ đưa ra so sánh với vẻ đẹp
cuộc đời. Thiên nhiên tuần hoàn bắt đầu bằng mùa xuân, đời người tuần hoàn bắt
đầu từ tuổi trẻ. Mùa xuân tượng trưng cho vẻ đẹp cao nhất của đất trời, tuổi trẻ kết
tinh cao nhất cho vẻ đẹp của con người. Nhưng mùa xuân của thiên nhiên, đất trời
hết  đi  rồi  trở lại,  xuân  “già”  rồi  xuân  lại  “trẻ”,  còn mùa  xuân  của  đời  người  là
“xuân bất tái lai”. Nhận thức  về thời gian sống của Xuân Diệu mang đậm “chất
người”. Chỉ  yêu đời và  yêu người tới mức nào, nhà thơ mới trân trọng,  yêu quý
thời  gian  đến  thế.  Từng  có  thời  kỳ, do  chưa  hiểu  hết  Xuân  Diệu,  có  người  phê
phán ông đề cao lối sống gấp, sống hưởng thụ (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt
tối - Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”). Nhưng hiểu đúng ông, ta sẽ càng trân
trọng quý mến ông. Thực ra, Xuân Diệu chỉ muốn đề cao thái độ sống tích cực, đề
cao sự trân trọng thời  gian trong cuộc sống của mỗi con người  : đời người thật
ngắn ngủi, tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi hơn, hãy sống sao cho từng phút giây trôi
qua trong cuộc đời có ý nghĩa. Triết lý sống của Xuân Diêu là triết lý hướng về
thực tại. Thực tại  là  thước  đo cao nhất, đánh  giá ý  nghĩa  sống thật của một đời
người. Hiểu như thế, nhà thơ bất ngờ trở nên vội vàng, cuống quýt. Ông bỗng một
chút ngậm  ngùi khi chợt nhận ra  : “Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật”  và
khát  vọng  sống  lại càng  sục  sôi  :  “Mau  đi  thôi  ! Mùa  chưa  ngả  chiều  hôm…”.
Khát khao sống lúc này bật lên thành tiếng.
 4. Lời kêu gọi hãy sống hết mình, sống có ý nghĩa (9 câu thơ cuối)
– Vội vàng là một bài thơ đậm chất thuyết lý, có người cho rằng cả bài thơ
giống  như  một  cuộc tranh  luận,  giãi  bày  quan  niệm  sống  của  tác  giả  với  người
đọc. Là một bài thơ trữ tình nhưng tính lô gích, lập luận chặt chẽ, thuyết phục của
Vội vàng là hết sức rõ ràng. Ở khổ thơ đầu, tác giả bày tỏ khát vọng muốn níu giữ
cái  đẹp  cuộc  đời bằng  một  giọng  thơ  quyết  liệt  ;  đến  khổ  tiếp  theo, ông  thuyết
phục người đọc lý do níu giữ cái đẹp cuộc đời qua vẻ đẹp diệu kỳ,  hấp dẫn của
mùa xuân ; từ đó, nhà thơ mới so sánh vẻ đẹp mùa xuân với vẻ đẹp của tuổi trẻ
    64
con người ; đến khổ cuối cùng, để khẳng định thái độ sống “vội vàng” với tất cả
mọi người, lại một lần nữa, ông thay đổi đại từ xưng hô, không sử dụng “Tôi” như
ở khổ thơ thứ nhất mà chuyển sang sử dụng đại từ “Ta” và mở đầu bằng câu thơ
ba chữ : “Ta muốn ôm…”. Hàng loạt các câu thơ bày tỏ niềm khát khao sống một
cách quyết liệt với những động từ nâng dần theo cấp độ từ thấp đến cao đã cho
người đọc thấy được lòng yêu đời của tác giả là không thể nào giấu giếm, không
dừng được nữa  : ôm,  riết, say,  thâu,… Cuối cùng  là  “cắn”  : “Hỡi  xuân  hồng ta
muốn cắn vào ngươi”. Ở khổ thứ nhất, vì chỉ là sự bày tỏ ước muốn phi lý mang
tính cá nhân, muốn níu giữ cái đẹp cuộc đời (tắt nắng, buộc gió), tác giả sử dụng
đại từ Tôi ; đến khi muốn kêu gọi tất cả mọi người hãy sống hết mình, sống đích
thực, ông sử dụng đại từ Ta. Nghĩa là không chỉ riêng cá nhân Xuân Diệu mà là
tất cả.  Xuân Diệu không cá  nhân  và  ích kỷ trong khát  vọng sống của mình.  Đó
cũng là cách bày tỏ cái Tôi cá nhân tiến bộ của nhà thơ Xuân Diệu.   
III -  KẾT LUẬN    
Vội vàng là một bài thơ mang đậm chất Xuân Diệu : Xuân Diệu ở trái tim trẻ
trung, sôi nổi, ở cặp mắt xanh non háo hức với đời, ở sự bày tỏ ước muốn chân
thành  không hề  giấu  giếm, ở thái độ sống vội  vàng,  cuống quýt, ở mối quan hệ
gắn bó hoà hợp với tất cả mọi người, ở những hình ảnh thơ táo bạo, quyết liệt, ở
những câu thơ mang đầy rẫy cảm giác… Và cuối cùng là một tấm lòng tha thiết
với đời.  Vội vàng chưa  hẳn là  bài thơ  hay  nhất trong  sự  nghiệp  thơ Xuân Diệu
nhưng chắc chắn là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách và tâm hồn tác giả.
 
                            
 
ĐÂY THÔN Vĩ Dạ
                      HÀN MẶC TỬ
A - DẠNG ĐỀ   
– Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ.
– Phân tích (bình giảng) hoặc nêu cảm nhận về một khổ thơ bất kỳ trong bài
thơ (lưu ý khổ thơ 1 và 2).
  65
–  Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây : “Gió theo lối gió mây đường
mây - Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay - Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có
chở trăng về kịp tối nay ?” (đề thi đại học năm 2008, dạng câu 3 điểm).
Một số lưu ý : Hàn Mặc Tử và Đây thôn Vĩ Dạ không có nhiều tình huống ra
đề. Bản thân bài thơ chỉ gồm 3 khổ, hết sức ngắn gọn, phần tác giả cũng không có
tình huống đề riêng. Vì thế, với bài thơ này, thí sinh chỉ tập trung chủ yếu vào 2
khổ thơ đầu, ngoài việc phải hiểu và phân tích được vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật
của bài thơ, cần phải chỉ ra được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mà tác giả
đã miêu tả trong đó. Đề thi đại học năm 2008 còn  yêu cầu học sinh nêu cảm
nhận nhận về một khổ thơ cụ thể trong bài Đây thôn Vĩ Dạ. Trong trường hợp
đó, học sinh  làm bài theo hướng bình giảng  khổ thơ rồi  sau đó lồng  vào đó
nhận xét cá nhân.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 
 – Trong nền thơ ca lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945, Hàn Mặc Tử là một nhà
thơ độc đáo và  không kém phần phức tạp. Ông  chỉ  sống  và  viết trong một thời
gian hết sức ngắn ngủi (28 năm) và là người sáng lập ra trường phái “Thơ Điên”.
Với ông, đây là một quan niệm thẩm mỹ độc đáo chứ không phải là căn bệnh như
một số người lầm tưởng. “Điên”, theo Hàn Mặc Tử là một trạng thái tâm lý sáng
tạo xuất thần. Mặc dù mắc chứng bệnh phong khi tuổi đời còn rất trẻ, Hàn Mặc Tử
vẫn rất yêu cuộc sống, say sưa sáng tạo, Thơ Điên chính là tập thơ được ông sáng
tác và công bố năm 1938, khi đang điều trị bệnh phong tại trại phong Quy Hoà,
Quy Nhơn.
–  Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được rút từ chính tập thơ này và được coi là một
trong số những bài thơ trong  sáng, giản dị  nhất  của Hàn Mặc  Tử (bên cạnh bài
Mùa xuân chín). Xung quanh sự ra đời của bài thơ, có một số ý kiến khác nhau.
Có người giải thích bài thơ liên quan đến Hoàng Cúc, một thiếu nữ người Huế mà
Hàn Mặc Tử quen biết và thầm yêu khi ông còn sống và học nơi đây. Khi rời xa
Vĩ Dạ, ông  nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc có in hình  Vĩ Dạ và dòng
Hương  giang với lời  nhắn  gửi da diết,  tri ân. Xúc  động trước  tình cảm đặc  biệt
này, biết không bao giờ còn cơ hội trở lại thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử viết bài thơ
gửi tặng Hoàng Cúc. 
    66
– Tuy nhiên, đó chỉ là một giả thuyết mà thôi. Nội dung bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ thực sự đã vượt ra khỏi khuôn khổ kỷ niệm riêng tư, chật hẹp đó. Chỉ vẻn vẹn
3 khổ, với 12 câu thơ, Đây thôn Vĩ Dạ thực sự là thi phẩm thể hiện một niềm khát
khao sống, niềm thiết tha gắn bó với đời, một tình yêu thương và trái tim thi sĩ tài
hoa, nhạy cảm của Hàn Mặc Tử. Đây thôn Vĩ Dạ đã làm rạng danh cho Hàn Mặc
Tử và làm nổi tiếng thêm cho một xứ sở vốn đã từng được mệnh danh là xứ mộng,
xứ thơ, xứ Huế.  
II – PHÂN TÍCH
1.  Khổ 1 :  Vẻ đẹp buổi sáng sớm ở thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? 
–  Chỉ  với  ba  khổ  thơ,  Đây  thôn  Vĩ  Dạ  vẫn  được  coi  là  bức  tranh  trọn  vẹn,
hoàn chỉnh và rất sinh động về thiên nhiên thơ mộng, hư ảo và con người kín đáo,
dịu dàng của Vĩ Dạ, của Huế. Ba khổ thơ là sự vận động từ cảnh đến tình, từ cảnh
huyền ảo, thanh khiết, thơ mộng của khu vườn Vĩ Dạ vào buổi sáng sớm, đến vẻ
đẹp yên tĩnh, thanh bình, kỳ ảo của bầu trời, sông nước Huế và cuối cùng vẻ đẹp
hoà quyện của cảnh và người nơi đây. Khổ thơ trên đây nằm ở phần đầu bài Đây
thôn Vĩ Dạ.
– Để hiểu được tài nghệ của nhà thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, trước tiên cần
phải thấy  được  vẻ  đẹp của  chính cảnh  quan  nơi  đây.  Vĩ  Dạ  nằm  ngay  cạnh  bờ
sông Hương với những khu vườn tươi xanh, với hàng cau thẳng tắp vươn cao đón
nhận những tia nắng mặt trời ban mai, với khóm trúc nghiêng xuống dòng Hương
giang, với sự hoà điệu của cảnh và người. Nhiều văn nhân, tài tử đi ngang qua Vĩ
Dạ đã từng để  lại  những  câu thơ  khúc  nhạc say  đắm lòng  người.  Nhà thơ  Bích
Khê đã từng viết : “Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn - Biếc che cầu Trúc không buồn mà
say”...
– Với vẻ đẹp ấy, Vĩ Dạ trở thành đối tượng quan tâm của nhiều nhà thơ và của
chính Hàn Mặc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ. Câu thơ mở đầu “Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?” giống như lời mời chào thiết tha, cũng có thể được hiểu như một
  67
lời trách móc nhẹ nhàng, hoặc cũng có thể là lời giới thiệu về vẻ đẹp diệu kỳ của
thôn Vĩ Dạ.
– Ở câu thơ thứ hai, tác giả trả lời ngay cho câu thơ đầu : Về chơi Vĩ Dạ là để
được nhìn “Nắng hàng cau nắng mới lên”. Nắng và  hàng cau hẳn không phải là
thứ đặc sản của riêng thôn Vĩ. Nhưng “Về chơi thôn Vĩ” lại có thể được tận hưởng
vẻ đẹp  thơ  mộng, thanh  khiết của  giọt nắng đầu tiên trong  ngày  chiếu lên ngọn
hàng cau. Đó là vẻ đẹp của sự trong trẻo, tươi non, xuân sắc.
– Câu thơ thứ ba là sự bổ sung cho vẻ đẹp đã được giới thiệu ở câu thơ trên.
Vĩ Dạ được thiên nhiên ưu đãi nên cây cối ở đây xanh tươi suốt bốn mùa. Những
khu vườn  xanh tươi tạo  cho không  gian một vẻ đẹp  huyền bí.  Lá vườn thôn Vĩ
không chỉ xanh mà còn xanh non. Nhà thơ đã so sánh nó với màu xanh trong của
viên ngọc.  Và  không chỉ  xanh  non mà còn mượt mà,  xanh mướt.  Đó là  vẻ đẹp
trong trẻo, thanh khiết, xuân sắc. Nó vừa có thực mà vừa như không có thực. Phải
chăng  vì  vậy  nhà  thơ  luôn  cố  tình  tạo  ra  cái  hư  ảo  cho  câu  thơ,  hình  ảnh  thơ  :
“Vườn ai”  chứ  không phải “Vườn em”,  ở khổ sau “Thuyền ai” chứ  không phải
“Thuyền em”.
– Câu thơ cuối hoàn tất bức tranh kỳ ảo, huyền diệu của vẻ đẹp vườn Thôn Vĩ
Dạ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Có thể hiểu đó là vẻ đẹp kín đáo có phần
bí  ẩn của  vườn Thôn Vĩ  vào  thời  khắc  đầu  tiên của  một ngày.  Nó mang rõ đặc
điểm vẻ đẹp vốn có của cả thiên nhiên và con người xứ Huế.
2. Khổ 2 : Vẻ đẹp bầu trời, sông nước Vĩ Dạ 
  Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? 
– Đặt trong toàn cảnh bài thơ, nếu khổ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên vườn
thôn  Vĩ vào buổi sáng  sớm  tinh mơ của  một ngày, thì  khổ thơ này  vẫn nối tiếp
mạch cảm xúc chung, nhưng là bức tranh bầu trời và sông nước Vĩ Dạ, xứ Huế.
Bức tranh ấy cũng thơ mộng, mông lung và kỳ ảo không kém.
– Tuy nhiên, nếu bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu chỉ được miêu tả trong
một khoảnh khắc thời gian (sáng sớm tinh mơ của một ngày) như một bức hoạ, thì
bức tranh thiên nhiên ở khổ thứ hai lại rất linh hoạt, biến đổi giống hệt như một
    68
đoạn phim. Hình ảnh bầu trời sông nước Vĩ Dạ biến đổi từ ngày sang đêm rất lung
linh và kỳ ảo.
– Hai câu thơ đầu là hình ảnh bầu trời và mặt đất Vĩ Dạ, xứ Huế. Cũng giống
Khổ 1, thiên nhiên ở đây yên tĩnh, thanh bình, dịu dàng và êm ả. Trên bầu trời,
mây và gió không còn là những người bạn đồng hành quen thuộc với nhau. Gió đi
một đằng, mây trôi một nẻo “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Dưới mặt đất,
dòng nước sông Hương như buồn thiu, không chảy, hoa bắp hai bên bờ sông cũng
chỉ “khẽ lay” ; ta có cảm giác như thiên nhiên ở đây cũng mang nét tâm trạng của
con người. Có một chút nỗi buồn trong cả người và cảnh.
– Hai câu thơ cuối là bức tranh dòng Hương giang lúc về đêm. Hình ảnh con
người đã thấp thoáng đâu đó, ngay từ khổ thơ thứ nhất (“Vườn ai”). Đến khổ thơ
này, hình ảnh có vẻ không rõ ràng đó đã dần rõ nét hơn. Ở đây đã có sự giao tiếp
rõ hơn giữa chủ thể trữ tình (nhà thơ) và nhân vật trữ tình (một người con gái nào
đó ở Vĩ Dạ) : “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay ?”.
Câu hỏi ngầm ẩn một niềm mong ước : Thuyền có thể chở trăng. Nhà thơ đã biến
dòng sông nước thành sông trăng, trăng từ hư ảo đã biến thành cụ thể. Đến đây,
vẻ đẹp của bức tranh Vĩ Dạ xứ Huế rõ ràng đã mang nhiều nét kỳ ảo hơn. Đó cũng
là  vẻ đẹp đặc trưng, quen thuộc của xứ Huế, đồng thời cũng là một phong cách
thơ ca quen thuộc của Hàn Mặc Tử 
III - KẾT LUẬN   
Sống  và  sáng  tác  trong  một  thời  gian  không  dài,  sự  nghiệp  sáng  tác  cũng
không phải là đồ sộ, nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một dấu ấn đậm nét trong nền
thơ ca hiện đại Việt Nam. Đó là thơ ca của một con người hết sức yêu thương, gắn
bó với đời, nhưng lại gặp nhiều bất hạnh, cô đơn, buồn bã. Đặc điểm đó đã in dấu
ấn trong những bài thơ hết sức độc đáo của ông mà Đây thôn Vĩ Dạ được coi là
một trong những bài thơ tiêu biểu nhất. 
 
                              
TRàNG GIANG 
HUY CẬN
A - DẠNG ĐỀ 
  69
– Bình giảng khổ thơ (Chú ý ba khổ 1, 2 và 4).
 – Bình giảng khổ thơ : “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu… Sông dài trời rộng bến
cô liêu” (đề thi đại học năm 2003, dạng câu 3 điểm).
– “Tràng giang là bài thơ mang đậm tính hiện đại và cổ điển”, qua việc
phân tích bài thơ, hãy làm rõ nhận định trên (đề thi đại học năm 2003, dạng
câu 5 điểm). 
Một số lưu ý : Với Tràng giang và Huy Cận, đề thi có hai dạng chủ yếu. Một
là, yêu cầu phân tích bài thơ hoặc từng khổ thơ. Trong trường hợp này, chỉ có ba
khổ 1, 2, 3 là nằm trong khả năng lựa chọn. Để bài làm sâu sắc và phong phú hơn,
học sinh có thể triển khai, mở rộng ra các khổ thơ khác, nhưng phải hết sức chú ý
đến tính cân đối của toàn bài, tránh gây cảm giác bài làm bị thiên lệch. Trường
hợp thứ hai nếu đề thi yêu cầu phân tích bài thơ để làm rõ một hoặc một vài đặc
điểm nào đó trong tác phẩm (trường hợp đề thi đại học năm 2003), thí sinh làm
bài phân tích rồi sau đó chỉ ra những đặc điểm trên (như gợi ý của đáp án thi đại
học năm 2003) ; hoặc kết hợp cùng lúc  phân tích bài thơ và nêu đặc điểm nhận
xét. Trường hợp đặc biệt nhất, đề thi có thể yêu cầu thống kê các chi tiết, hình ảnh
đối lập tương phản trong bài thơ để từ đó phân tích chủ đề tác phẩm, thì học sinh
vẫn làm bài bình thường, nhưng nên dành một phần nhỏ trong từng tiểu mục để
thống kê theo yêu cầu đề, cuối cùng mới phân tích chủ đề của bài thơ.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I -  GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Tràng giang là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận in trong tập
Lửa thiêng xuất bản trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cảm xúc của bài thơ được
hình thành vào một buổi chiều muộn khi nhà thơ một mình trên bến sông Hồng,
ngắm nhìn cảnh mênh mông của đất trời sông nước, chạnh nghĩ tới thân phận bé
nhỏ cô đơn của con người. Bài thơ ban đầu được đặt tên là Chiều trên sông, về sau
mới được đổi thành Tràng giang. 
– Bài Tràng giang của Huy Cận phảng phất âm điệu đường luật. Phong vị cổ
điển toát ra từ đầu đề đến hình ảnh từ ngữ và cách cấu trúc của toàn bộ bài thơ.
Tên Tràng giang vốn bắt nguồn từ Trường giang – tên một con sông nổi tiếng của
Trung Quốc, Huy Cận đổi thành Tràng giang vì muốn gợi một chút nét cổ kính
cho dòng sông quê hương. Cả bài thơ đều toát ra vẻ đẹp cổ điển và hiện đại từ tứ
    70
thơ (đối lập giữa cái vĩ đại, mênh mông của bầu trời, vũ trụ, sông nước với cái bé
nhỏ,  cô đơn của  cảnh  vật,  con người), câu thơ  (7 chữ), bút pháp thơ  (cách ngắt
nhịp, gieo vần,  cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh  ngụ tình,...) đến đề tài, cảm
hứng của nhà thơ.
– Bài thơ gồm bốn khổ, mỗi khổ đều được thiết lập trên cái tương phản giữa
vũ trụ, thiên nhiên và con người. Trong Tràng giang, khổ nào cũng đều mang tâm
trạng sông nước, tâm trạng vũ trụ, tâm trạng buồn, cô đơn của nhà thơ. Ở khổ thơ
đầu, nhà thơ đã đối lập hình ảnh sóng gợn, một con thuyền bé nhỏ, một cành củi
khô  trôi  nổi  trên  dòng  tràng  giang  với  cái  mênh mông  vĩ  đại  của  bầu trời  sông
nước. Nỗi cô đơn, nỗi buồn như thấm sâu vào tạo vật. 
II - PHÂN TÍCH 
1. Khổ 1
– Tràng giang là một bài thơ đậm màu sắc cổ điển. Bài thơ được cấu tứ trên
cái nền tương phản đối lập hết sức rõ rệt, dường như ở khổ thơ nào ta cũng bắt
gặp sự tương phản đối lập giữa cái nhỏ bé cô đơn và cái mênh mông vĩ đại của
con người, cảnh vật, thiên nhiên, vũ trụ. Ngay từ khổ thơ mở đầu, ta đã dễ dàng
bắt gặp sự tương phản đó : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp - Con thuyền
xuôi mái nước song song - Thuyền về nước lại sầu trăm ngả - Củi một cành khô
lạc mấy dòng”. 
Ngay từ câu thơ thứ nhất, đã có tới hai sự đối lập. Trước tiên, đó là sự đối lập
giữa những làn sóng gợn và hình ảnh dòng Tràng giang. Sóng gợn, nghĩa là sóng
nhỏ, sóng nhỏ lại được đặt trên con sông Tràng giang. Cái bé nhỏ càng bé nhỏ hơn
và  cái to lớn, vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.  Thứ hai,  đó là  sự đối lập  giữa  vô vàn
những con sóng gợn và nỗi buồn triền miên của con người. Buồn điệp điệp là nỗi
buồn vô hạn vô hồi, vô thuỷ vô chung, không đầu không cuối.
– Cả ba câu thơ tiếp theo đều góp phần khắc hoạ đặc điểm trên. Con thuyền
cô đơn đối lập với dòng nước : “thuyền về nước lại”. Sự vận động của hai sự vật
trên đây rõ ràng đối lập với nhau : thuyền trôi song song như không có người chèo
lái, không có sự can thiệp của con người. Có cả hai hình ảnh thuyền và nước mà
không có sự đoàn tụ, sum họp. Nỗi cô đơn như càng được tăng lên. Đặc biệt, ở
câu thơ cuối khổ thứ nhất, nhà thơ đã đặt chỉ một cành củi khô nổi trôi, lạc lõng
trên dòng nước. Nỗi cô đơn như thấm vào tận bên trong tâm hồn con người : cô
đơn và phiêu dạt…
  71
2. Khổ 2 
– Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục khắc  hoạ nỗi buồn cô đơn đã được mở ra từ
khổ thơ thứ nhất. Dường như tất cả các từ ngữ, hình ảnh trong khổ thơ này đều
góp phần hoạ nỗi buồn cô đơn :
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều...
Cồn vốn đã gợi sự bé nhỏ cô đơn mà trống vắng, lại thêm hai chữ “lơ thơ” ở
phía trước và chữ “nhỏ” ở phía sau lại càng gợi cái trống vắng và nhỏ nhoi hơn.
Trong một khung cảnh thiên nhiên vắng vẻ và quạnh hiu như thế, dẫu có xuất hiện
âm thanh của một phiên chợ chiều từ phía làng xa vọng lại cũng không làm cho
không khí thêm phần sinh động ; chợ chiều vốn đã gợi cho ta cảm giác vắng vẻ
tàn tạ thêm chữ vãn ở phía sau thì lại càng gợi cảm giác tan tác và tàn lụi hơn.
Hai câu thơ mở đầu khổ 2 mang đậm màu sắc cổ điển. Đây là một cặp thơ đối
xứng thường thấy trong thơ Đường luật. Một câu mở đầu mang hình ảnh và một
câu gợi tả bằng âm thanh, cả hai đều góp phần tạo nên cái vắng lặng, yên tĩnh của
không gian vào một buổi chiều tà. 
– Hai câu thơ cuối đã được mở ra đến vô tận,  vô cùng. Dường như nhà thơ
cảm giác được sự vận động không ngừng của thiên nhiên, vũ trụ. Thời gian cũng
vận động không ngừng :
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót...
Cảm xúc về thiên nhiên và vũ trụ của Huy Cận tỏ ra hết sức mãnh liệt và tinh
tế. Trong câu thơ thứ ba, nhà thơ sử dụng hàng loạt các từ ngược nghĩa nhằm làm
nổi bật sự tương phản gay gắt giữa thiên nhiên, vũ trụ và con người. Mặt trời hạ
dần xuống, những tia nắng hắt lên cao như đẩy bầu trời lên cao hơn. Lúc này cái
nhìn của ta từ dưới mặt đất lên bầu trời như bị hút vào cái vô cùng, vô tận. Độ cao
của bầu  trời  được  nhà  thơ  diễn  tả bằng từ  ngữ  hết  sức  độc  đáo.  Ông  dùng  chữ
“sâu” để nói độ cao, chữ sâu lại được đặt bên cạnh từ chót vót, với cách dùng
từ này,  nhà  thơ  không chỉ miêu tả độ cao của bầu trời vào buổi chiều tà  mà
còn muốn khắc hoạ tâm trạng của con người trước cảnh thiên  nhiên ấy. Bầu
trời  lúc  này  giống  như một vực thẳm, con  người thấy rợn  ngợp trước  khung
cảnh thiên nhiên đó.
– Câu thơ cuối khắc hoạ một không gian ba chiều : Cùng với độ cao của bầu
trời, bề rộng của  vũ trụ, độ dài của  con sông là  một bến cô liêu, đơn độc, buồn
    72
thảm. Dường như tất cả mọi hình ảnh ở đây đều đối lập với nhau gay gắt và tất cả
đều nhằm vào chủ đề tư tưởng bài thơ, đó là sự đối lập giữa cái bé nhỏ cô đơn của
một kiếp người với cái vĩ đại mênh mông to lớn của thiên nhiên vũ trụ.
3. Khổ 4  
Bốn khổ thơ của bài Tràng giang luôn có sự vận động về thời gian. Đó là thời
gian từ buổi chiều đến khi chiều muộn. Tình cảm của tác giả dường như cũng trào
dâng theo dòng tuyến tính này. Nỗi buồn bắt đầu từ ngoại cảnh, từ một dòng sông
mênh mông không đò, không cầu nối tiếp đôi bờ, từ khung cảnh hiện lên như thời
tiền sử, từ những cánh bèo trôi dạt (khổ 3)… Đến khi chiều muộn, khi không còn
ánh sáng mặt trời, chính xác khi mặt trời đã hạ xuống dần sau chân núi, sự tương
phản đối lập mới càng khủng khiếp hơn :
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đối lập với khổ thứ ba là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt từng hàng, từng
hàng trên dòng Tràng giang, là việc sử dụng hai lần mệnh đề phủ định : không đò,
không cầu nhằm khẳng định một nỗi niềm da diết, nhà thơ muốn một chút niềm
thân  mật  nối  tiếp  đôi  bờ.  Vì  thế,  trước  một  dòng  sông  mênh  mông  không  đò,
không cầu, con người lại càng thêm bé nhỏ, khát khao lại càng cháy bỏng. Khổ
thơ thứ tư chính là sự khẳng định rõ hơn nỗi niềm cháy bỏng đó của nhà thơ.
Cảnh sắc thiên nhiên ở đây rất đẹp và kỳ vĩ lạ lùng. Trên trời, từng đám mây
bạc lững lờ. Những đám mây trắng cuối mùa thu đùn lên phía chân trời “lớp lớp”,
ánh chiều phản chiếu  lấp lánh như những  ngọn núi bạc. Trước cảnh sông nước,
mây trời bao la ấy hiện lên một cánh chim bé bỏng bay lạc, cánh chim càng nhỏ
nhoi,  cô  đơn  hơn.  “Chim  nghiêng  cánh  nhỏ”  thì  bóng  chiều  như  sa  xuống,  rớt
xuống. Buổi chiều lại càng buồn hơn.
– Ở trên, khổ thơ thứ hai : “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”, trưa đã ngả
sang chiều nhưng còn nhiều ánh sáng nên mới thấy được thật xa, thật mênh mông.
Khổ cuối bài thơ thì miêu tả càng gần về hoàng hôn, con chim đang xoè cánh bay
vội, bóng chiều ập xuống.
  73
Xưa nay, thơ ca nói về cảnh hoàng hôn thường vẫn điểm thêm một cánh chim
trên nền trời : “Chim bay về núi, tối rồi” (ca dao), “Chim hôm thoi thót về rừng”
(Nguyễn Du),... tất cả đều  gợi lên  nỗi buồn. Nghệ thuât đối lập giữa cánh chim
nhỏ bé với vũ trụ bao la làm cho cảnh rộng hơn, mênh mông, xa vắng hơn và cũng
buồn hơn. 
–  Ý  vị cổ điển  của  bài  Tràng giang thể  hiện  ở  hình ảnh  nhà  thơ  một  mình
trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô tận, vô cùng của không gian, thời
gian đối lập với kiếp người. Ý vị cổ điển lại được tô đậm thêm ở hai câu thơ cuối
toát ra từ một ý thơ Đường, câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng hạc lâu : “Yên
ba  giang  thượng  thử  nhân  sầu”  (Tản  Đà  dịch  :  “Trên  sông  khói  sóng  cho buồn
lòng ai”). Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, Huy Cận nó nỗi nhớ cao độ hơn,
không cần thấy khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tâm sự nhà thơ dồn lại ở hai câu
thơ kết này : “Lòng quê dợn dợn vời con nước - Không khói hoàng hôn cũng nhớ
nhà”.
Chúng ta cần chú ý đến khả năng sử dụng thể thơ của Huy Cận. Thơ 7 chữ,
nhạc điệu phong phú, từ ngữ hàm súc, tinh tế đã đem lại cho Tràng giang một sự
hài  hoà  giữa ý tình mới mẻ và sự sang trọng cổ kính khi  hoài  vọng quê  hương.
Nhiều năm đã qua đi, song vẻ đẹp cùng nỗi buồn mà Tràng giang gợi lên vẫn sẽ
còn đọng lại mãi với nhiều thế hệ bạn đọc. 
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của “Tràng giang”
a) Về đề tài, cảm hứng 
– Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, cô đơn, hữu hạn
trước thời gian, không gian vô hạn vô cùng.
– Tràng giang đồng thời thể hiện nỗi buồn thế hệ của một cái tôi Thơ mới thời
kỳ mất nước chưa tìm được lối ra.
b) Chất liệu thi ca   
– Ở Tràng giang,  ta bắt gặp  nhiều hình ảnh quen thuộc  trong thơ cổ (tràng
giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim nghiêng xuống trong buổi chiều…), nhiều hình
ảnh, tứ thơ được gợi từ thơ cổ.
    74
– Mặt khác, Tràng giang cũng  không thiếu  những  hình ảnh,  âm  thanh chân
thực của đời sống hàng ngày,  không ước  lệ (củi  khô,  tiếng chợ chiều, cánh bèo
trôi dạt…).
c) Thể loại và bút pháp  
– Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn
thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ
tình,  gợi  hơn  là  tả,  những  từ  Hán  Việt  cổ  kính  (tràng  giang,  cô  liêu,…).  Tuy
nhiên, Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp cái tôi trữ tình
(buồn  điệp  điệp,  sầu  trăm  ngả,  không  khói  hoàng  hôn  cũng  nhớ  nhà…),  qua
những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá  nhân của tác  giả (sâu chót vót,
niềm thân mật, dợn dợn…).    
Tóm lại, Tràng giang là bài thơ mang đậm nỗi buồn yêu nước thầm kín không
chỉ  của  Huy Cận mà  còn  cả của  thế hệ các  nhà  thơ  lãng  mạn  giai  đoạn  1930 -
1945.
III - KẾT LUẬN 
Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm tâm hồn và phong cách thơ
Huy Cận. Âm vang trong cả bài thơ là nỗi buồn cô đơn của con người trước cái vĩ
đại mênh mông và to lớn của vũ trụ. Đọc bài Tràng giang ta có thể thấm thía nỗi
buồn cô đơn ấy là nỗi buồn da diết của nhà thơ Huy Cận trước vẻ đẹp kỳ vĩ của
quê hương đất nước. Tràng giang đã gợi được niềm yêu mến của người đọc đối
với quê hương mình. Tất cả hình ảnh hiện lên trong bài thơ, một dòng sông, một
con thuyền, những bến bờ, cảnh bèo trôi nổi đều góp phần tạo nên vẻ đẹp của bức
tranh quê hương. Nhà thơ Huy Cận hoàn toàn xứng đáng với lời nhận xét của nhà
thơ Xuân Diệu : Tràng giang là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước vì vậy mà
dọn đường cho tình yêu Tổ quốc giang sơn. 
 
 
TƯƠNG TƯ
               NGUYỄN BÍNH
A - DẠNG ĐỀ 
  75
– Bình giảng một khổ thơ bất kỳ trong bài thơ.
–  Phân  tích  sự  vận động  (hoặc diễn  biến)  tâm  trạng  của nhân  vật  trữ  tình
trong bài thơ.
Một số lưu ý : Tương tư là bài thơ duy nhất của Nguyễn Bính được lựa chọn
trong chương trình Nâng cao lớp 11. Trước đây, sách Giảng văn phổ thông trung
học cũng đã từng lựa chọn bài thơ này và từng được lấy làm đề thi đại học trong
nhiều năm. Để học tốt tác phẩm này, học sinh cần phải nắm vững một số yêu cầu
cụ thể sau đây : Về mặt tác giả, phải nắm được Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê,
tuy vẫn thuộc phong trào Thơ mới. Thơ Nguyễn Bính mộc mạc, dân dã nhưng vẫn
hiện  đại.  Về  tình  huống  đề  thi,  cụ  thể  với  Tương  tư,  thực  ra  không  phức  tạp,
không  có  nhiều  dạng đề.  Dạng  phổ biến  nhất  là  bình  giảng, phân tích  khổ  thơ.
Trường hợp đặc biệt, đề ra có thể  yêu cầu phân tích sự vận động của tâm trạng
nhân vật trữ tình trong cả bài thơ. Để giải quyết tốt nhất loại đề thi này, học sinh
phải nắm được ý nghĩa nhan đề bài thơ : tại sao lại Tương tư ? Tương tư là trạng
thái tâm lý chỉ tình yêu đơn phương hay chỉ là trạng thái tâm lý bình thường ? Sau
nữa, phải  bám  sát  nội dung  của  từng đoạn thơ để phân tích  được  sự  vận  động,
hoặc  diễn biến của tâm  trạng  nhân  vật trữ tình trong tác  phẩm. Cuối cùng, phải
nắm được cách vận dụng thể thơ lục bát độc đáo của tác giả để xử lý dạng đề thi
thuộc  phần  tiếng  Việt (như  luật  thơ,  các  biện  pháp  tu  từ,  các  phong  cách  ngôn
ngữ,… qua một đoạn thơ tiêu biểu).
B – GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 
– Trong số các nhà thơ mới Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, khác với Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn mặc Tử,… thường được coi là những nhà thơ “hiện đại,
mới  mẻ”,  thậm  chí  như  Xuân  Diệu  –  “mới  nhất  trong  những  nhà  thơ  mới”  –
Nguyễn Bính, ngược lại, rất cổ điển, truyền thống, chân quê. Hiện lên trong thơ
ông thường là những bức tranh đậm đặc sắc màu truyền thống, những giếng nước,
ao làng, sân đình, những chàng trai, cô gái tình cảm mộc mạc, chân thành tha thiết
và quyến rũ. Bên cạnh Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân,… những nhà thơ
mới  vẫn  lưu  lại  được  trong  hồn  thơ  của  mình  nét quê  hương, dân  dã,  thơ  họ  ít
nhiều đã khắc hoạ được vẻ đẹp từ ngàn đời bức tranh làng quê Việt Nam, Nguyễn
    76
Bính, ở mức độ đậm đặc hơn, còn khơi dậy trong hồn thơ dân tộc, những vần thơ
lục bát điêu luyện, mượt mà, những mối tình thôn quê da diết, sâu lắng. Tương tư
là một trong số những bài thơ thể hiện cho đặc điểm trên.
– Tương tư được Nguyễn Bính viết khi ông còn rất trẻ (1939, 20 tuổi) là một
trong những bài thơ đặc sắc của Nguyễn  Bính vừa mang đậm chất trữ tình dân
gian, lại vừa thể hiện được trạng thái tâm hồn của con người hiện đại. Như nhan
đề bài thơ, Tương tư là sắc thái tình cảm muôn đời không thể thiếu của tình yêu,
nó  không chỉ đơn thuần  là thứ tình  yêu đơn phương,  tình  yêu  từ một phía  của
người con trai với một cô thôn nữ. Ở mức độ khái quát hơn, Tương tư còn là nỗi
niềm da diết, là sự gắn bó không thể tách rời của nhà thơ Nguyễn Bính với làng
quê Việt Nam.
II  -  PHÂN  TÍCH  :  Diễn  biến  tâm  trạng  của  nhân  vật  trữ  tình  –  sắc  thái 
tình cảm khi yêu
1. Tâm trạng nhớ nhung 
–  Nguyễn  Bính  mở  đầu  bài  thơ  bằng  sự  giãi  bày  tình  cảm  tự  nhiên,  chân
thành, mộc mạc :
 Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người…
Hai  câu thơ  mở đầu xác  lập chủ thể  và đối tượng  nỗi  nhớ  nhung,  tình cảm
được giãi bày trong câu thơ cũng mang sắc màu muôn thuở : từ ngàn đời nay, ở
bất cứ chỗ nào, yêu nhau, ai mà lại không nói đến nhớ nhung. Bởi vậy, nếu chỉ
đơn giản nói đến nhớ nhung, bài thơ của Nguyễn Bính không có gì độc đáo. Cái
làm nên sự độc đáo nỗi nhớ nhung của nhà thơ chân quê này là ở chỗ, nói về nỗi
nhớ nhung của mình, ngay từ những dòng đầu, ông đã nói một cách nên thơ, bóng
gió : Tôi, chủ thể nỗi nhớ, không phải tôi mà là  thôn Đoài, nàng, đối tượng của
nỗi nhớ, không phải nàng mà là thôn Đông. Thôn Đoài, thôn Đông, những cái tên
hết đỗi quen thuộc với bất cứ người nông dân Việt Nam nào giờ đây cũng đã đi
vào nỗi nhớ.  Tương tư từ không  gian cá  nhân riêng tư  đã  được  khái quát  thành
không  gian  cộng  đồng,  “tập  thể”.  Một  cách  bày  tỏ  nỗi  nhớ  nhung  kín  đáo,  nhẹ
nhàng mà  sâu sắc,  mãnh liệt. Khi  yêu nhau,  nhớ nhau, người ta  yêu và  nhớ cả
không gian tồn tại   (“Yêu nhau, yêu cả lối đi”, “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta
đi đất đã hoá tâm hồn”). Nỗi nhớ vì thế tăng lên gấp bội phần, mặc dù ở bên ngoài
  77
, tưởng như chàng trai chỉ tình cờ buột miệng nói ra : “Một người chín nhớ mười
mong một người”. Rất nhớ, nhưng chàng trai chỉ nói dửng dưng như thế, khác hẳn
với Xuân Diệu : “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh - Anh nhớ em. Anh
nhớ lắm ! Em ơi…” (Tương tư, chiều…).
 –  Sau  khi  nói  đến  nỗi  nhớ  một  cách  bâng  quơ, cũng  giống  Chế  Lan  Viên,
Nguyễn Bính cắt nghĩa cội nguồn nỗi nhớ của mình. Tuy nhiên cũng khác với nhà
thơ suy tư, triết lý Chế Lan Viên, Nguyễn Bính cắt nghĩa tâm trạng nhớ nhung của
con người bằng cách so sánh với quy luật của thiên nhiên : “Gió mưa là bệnh của
trời - Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Như vậy, tương tư ở đây không phải là
“căn  bệnh”  của  riêng  người  nào,  mà  nó  là  tâm  trạng phổ  biến  của  mọi  đôi  lứa
đang yêu. Tôi trong Tương tư không phải là ngoại lệ.
 2. Tâm trạng băn khoăn, hờn dỗi
– Bài thơ Tương tư không đơn giản chỉ dừng lại ở nỗi nhớ nhung, cả bài thơ là
sự vận động tâm trạng hết sức sống động của cái tôi trữ tình, bởi cũng giống như
tình yêu, để tồn tại, tình cảm tương tư luôn luôn vận động. Vận động cũng chính
là phương thức tồn tại của tương tư, sau nỗi nhớ nhung là tâm trạng băn khoăn,
hờn dỗi : “Hai thôn chung lại một làng - Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?”.
– Câu thơ đọc lên như một lời trách móc, một sự trách móc nhẹ nhàng, hiểu
sâu  xa  hơn,  ta  cũng  có  thể  cảm  nhận  được  ở đó  một  chút băn  khoăn,  hờn  dỗi.
Không hờn dỗi sao được, khi chàng và nàng, hoá ra ở rất gần nhau (hai thôn trong
một làng), nghĩa là trong cùng một không gian gần gũi, không hề cách trở. Làng là
khái niệm địa lý hết đỗi thân thiết, gần gũi với bất cứ chàng trai, cô gái nào từng
sống nơi thôn quê. Thà rằng “xa mặt cách lòng”, đằng này, bên ấy và bên này gần
gũi thế lại  không thể đến với nhau được ? Một điều tưởng  như rất vô lý  mà lại
cũng rất bình thường, nếu chúng ta hiểu được rằng, chàng trai yêu cô gái trong bài
thơ chỉ yêu từ một phía, một tình yêu đơn phương. Tình yêu đơn phương nên mới
có những đòi hỏi, yêu cầu, trách móc nhẹ nhàng. Đó cũng là một thứ tình cảm hết
đỗi bình thường trong tình yêu.
3. Lời thở than, hờn trách
– Tâm trạng băn khoăn, hờn dỗi tiếp tục được đẩy lên cao hơn bằng lời thở
than, nỗi lo lắng. Cuộc đời con người ngắn ngủi, thời gian chẳng đợi chờ ai, tình
yêu lại chẳng dễ dàng. Không như Xuân  Diệu, khi xác định tình yêu là quý giá,
    78
đời người thì ngắn ngủi, vì thế phải “vội vàng” (“Mau với chứ, vội vàng lên với
chứ - Em, em ơi tình non sắp già rồi”), trong Tương tư, Nguyễn Bính không hô
hào, không nói những lời to tát. Ngay cả khi đã thấm thía nỗi phiền muộn vì đợi
chờ, khi đành lòng phải than thở, chàng trai vẫn nhẹ nhàng, thủng thẳng : “Ngày
qua ngày lại qua ngày - Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Đọc những câu thơ
của Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới : “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, ta
thấy  thời  gian  trôi  đi  vùn  vụt.  Còn  khi  Nguyễn  Bính  viết  “Lá  xanh  nhuộm  đã
thành cây lá vàng”, ta thấy thời gian trôi đi thật chậm chạp. Tâm trạng sốt ruột, lo
lắng hiện dần lên qua những hình ảnh, ví von tinh tế, sâu sắc.
– Không chỉ dừng lại ở lời thở than, nỗi đợi chờ và tâm trạng sốt ruột, Tương
tư còn khiến chàng trai bật ra những lời trách móc, nhưng cũng chỉ là những trách
móc rất nhẹ nhàng : “Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang  là chẳng đường
sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình - Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…”.
Một chuỗi những câu hỏi thuyết phục, những lý lẽ dịu dàng được đưa ra như một
bằng chứng xác thực cho nỗi nhớ nhung, bồn chồn, chờ đợi : không gian không xa
xôi,  cách trở (không  có  sông  ngăn  cách),  đường xá  không  gập  ghềnh  (là  chẳng
đường sang), hai thôn ở rất gần nhau (chỉ cách một đầu đình) lẽ nào tình yêu lại bị
ngăn cách ? “Ra đình ngả nón trông đình - Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy
nhiêu”. Không hiểu tự bao giờ, thơ ca dân gian viết về tình yêu lứa đôi đã nhắc
đến hình ảnh mái đình như minh chứng cho một tình yêu tha thiết. Nguyễn Bính
cũng  nhắc đến trong Tương  tư hình ảnh “đầu đình”. Nhắc đến “đầu đình”,  phải
chăng ông mơ ước tình yêu được xích lại gần nhau (?). Nỗi khắc khoải tương tư
đã lên đến cao trào, chẳng biết hỏi ai và không ai hiểu được : “Tương tư thức mấy
đêm rồi -  Biết cho ai,  hỏi ai  người biết cho !”. Từ khắc  khoải,  chuyển sang mơ
ước.
4. Ước vọng mơ hồ, tương tư nhắc lại
– Tương tư gồm 20 câu thơ, là một chuỗi những vận động tâm trạng của một
người  yêu  hướng  về một người  yêu.  Hai mươi câu thơ  đều cùng  nói  về chủ đề
tương tư,  nhưng cung  bậc tình  cảm  thì thật  là  đa dạng.  Nó trải qua những diễn
biến rất khác nhau, nhưng lại đồng điệu với nhau ở tâm trạng da diết nhớ thương,
mong mỏi, đợi chờ : “Bao giờ bến mới gặp đò ? - Hoa khuê các bướm giang hồ
gặp nhau?”. Lại chỉ trong hai câu thơ nhưng Nguyễn Bính sử dụng một chuỗi hình
ảnh so sánh, ví von mang đậm chất dân gian. Những cặp đôi hình ảnh vốn đã từng
được sử dụng khá triệt để trong suốt bài thơ, đến hai câu thơ này, một lần nữa đã
  79
được nhắc lại : bến/ đò, bướm giang hồ/ hoa khuê các. Ở hai hình ảnh đầu “bến/
đò”, đương nhiên gặp gỡ là dễ hiểu (cũng như thuyền và biển), nhưng đến “hoa
khuê  các/  bướm  giang  hồ”  thì ước  mơ gặp  gỡ dường như đang bị đẩy  xa  nhau.
Trong dân gian, hoa khuê các thường được đem so sánh với vẻ đẹp cao quý, đài
các, được bảo  vệ,  giữ  gìn,  bướm giang hồ lại thể hiện sự từng trải,  phóng túng.
Tuy nhiên, đây chỉ là một cặp hình ảnh so sánh, chứ đó không phải là nỗi hoang
mang, thất vọng. Bởi lẽ, ở phần kết bài thơ, nỗi niềm ước ao, chờ đợi vẫn như một
điệp khúc được nhắc lại :
 Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
 Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
III - KẾT LUẬN : Đặc sắc nghệ thuật 
– Nét đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Bính trong bài thơ Tương tư được thể
hiện  trước  tiên  ở  tài  năng  sử  dụng  nhuần  nhuyễn  thể  thơ  lục  bát,  một  thể  thơ
truyền thống lâu đời của dân tộc Việt. Tương tư giống như một bài ca dao dài với
lối tỉ,  phú, hứng… nhuần  nhuyễn  và  hoàn chỉnh.  Khai thác  vốn ca  dao, dân ca,
Nguyễn Bính bao giờ cũng gắn hình ảnh con người với môi trường, thiên nhiên 
thân thuộc nơi làng quê : thôn làng, đường xá, đầu đình, bến đò, vườn giầu, hàng
cau… Những hình ảnh cặp đôi cũng được khai thác như một hệ thống so sánh đắc
dụng : thôn Đoài/ thôn Đông, tôi/ nàng, nhà anh/ nhà em, cau thôn Đoài/ giầu thôn
Đông, hoa khuê các/ bướm giang hồ…
– Về ngôn ngữ, nhà thơ thường xuyên khai thác chất liệu dân gian, chân quê,
từ địa danh : thôn Đoài, thôn Đông, đến thành ngữ : “chín nhớ, mười mong”, cả
những số từ : một, chín, mười, vốn là cách nói quen thuộc trong dân gian. “Tương
tư là một khúc ca dân gian có sự tương ứng về ý về lời, mạch thơ mở ra và kết
thúc vừa mang tâm trạng cá nhân lại mang tình cảm và tâm lý cộng đồng của làng
quê trong sinh hoạt đời thường”, đúng như nhận xét của giáo sư Hà Minh Đức.
 
 
Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh :  
Sự nghiệp sáng tác, quan điểm
và phong cách nghệ thuật
    80
 
A - DẠNG ĐỀ 
– Tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
–  Quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh. 
–  Hoàn cảnh, mục đích sáng tác và nội dung tập thơ Nhật ký trong tù (đề thi
đại học năm 2002, dạng câu 2 điểm).
– Phân tích bài thơ Chiều tối (đề thi đại học năm 2003, chung với bài Giải đi
sớm, phân tích để làm rõ vẻ đẹp tinh thần, bức chân dung tự hoạ về con người Hồ
Chí Minh, dạng câu 5 điểm).
– Phân tích bài thơ Lai Tân để làm rõ nội dung tố cáo chế độ nhà tù Tưởng
Giới Thạch và ngòi bút châm biếm,  hài hước của Hồ Chí Minh.
Một số lưu ý : Phần văn thơ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong chương
trình mới, ngoài những bài học chung, khái quát như : Tóm tắt sự nghiệp chính,
quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng
tác của tập thơ Nhật ký trong tù, còn lại ba tác phẩm được lấy làm nguồn đề thi,
đó là : Chiều tối, Lai Tân và Tuyên ngôn Độc lập. Khi học phần Nhật ký trong tù,
cần chú ý các nhận định khái quát như : tính cổ điển và tính hiện đại, bức chân
dung tự hoạ của người tù, cuộc vượt ngục tinh thần, chất tình và chất thép, khát
vọng tự do,… Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã từng viết những câu thơ rất hay về
tập thơ Nhật ký trong tù : “Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp - Ánh đèn tỏa rạng mái
đầu xanh - Vần thơ của Bác vần thơ thép - Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”. Đôi
khi, người ta cũng dựa vào đoạn thơ này để làm đề thi. Các bài thơ trong Nhật ký
trong tù có thể được ra đề riêng, hoặc phân tích để chứng minh cho một nhận định
của các nhà nghiên cứu về đặc điểm tập thơ. Bài Tuyên ngôn Độc lập (hướng dẫn
ở phần sau) có hai dạng đề chính : Nêu hoàn cảnh, mục đích sáng tác hoặc phân
tích nội dung, giá trị lịch sử và văn học của tác phẩm.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
1. Sự nghiệp sáng tác 
– Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời cũng là một nhà
văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Gần như trong Người có sự kết hợp hài
hoà  giữa  một nhà chính trị  và một thi sĩ.  Sự  nghiệp văn  học  của  Người  khá  đa
  81
dạng về thể loại, bút pháp nhưng thống nhất bởi tinh thần nhân đạo sâu sắc, chất
thép sáng ngời, chất trữ tình sâu lắng. 
– Về văn chính luận, Bác viết nhiều tác phẩm có giá trị lịch sử : Bản án chế
độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Di
chúc,… Mỗi tác phẩm ra đời vào một thời điểm  trọng đại, nêu rõ những vấn đề
lớn lao liên quan đến vận mệnh của đất nước. Các tác phẩm phục vụ đắc lực cho
cách mạng, cho kháng chiến chống  ngoại xâm.
–  Về  thơ ca,  Bác  viết  hai  loại  chính  :  thơ  tuyên  truyền cách  mạng  rất  mộc
mạc, giản dị, bình dân, có đối tượng cụ thể và mục đích thiết thực (Hòn đá to, Con
cáo và tổ ong) ; thơ trữ tình của Người lại rất tinh tế, hàm súc, thể hiện phong thái ung
dung tự tại trong mọi hoàn cảnh, thể hiện một tâm hồn cao đẹp, thiết tha yêu đời (tập
thơ Nhật ký trong tù, chùm thơ Việt Bắc,...).
– Truyện ngắn của Bác cô đọng,  cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo,  mỗi
truyện đều có một ý tưởng riêng, thâm thuý, kín đáo, phong cách giàu tính hiện
đại (“Vi hành”, Lời than vãn của bà Trưng Trắc,...).
 – Các thể loại khác của Người cũng chứng tỏ một tài năng văn chương thực
sự, một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ : kịch (Con rồng tre) ; truyện viễn tưởng (Giấc
ngủ mười năm), tiểu phẩm châm biếm (Mỹ mà xấu),...
 – Sáng tác văn học của Hồ Chí Minh là chân dung tự hoạ của một con người
cao đẹp, những tác phẩm ấy chẳng những ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng,  nghệ
thuật của con người Việt Nam mà còn có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học
Việt Nam.
2. Quan điểm sáng tác
– Hồ Chí Minh quan niệm văn chương là một hành vi chính trị, một hoạt động
tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, góp phần vào
nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội. Người quan niệm trong văn thơ phải có chất
thép, mỗi nhà thơ phải là một chiến sĩ biết xung phong (“Nay ở trong thơ nên có thép -
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”). Người đặc  biệt chú ý  tới đối tượng thưởng
thức văn chương, vì vậy, trước khi đặt bút viết bất cứ điều gì, Người đều đặt ra
bốn câu hỏi : Viết cho ai ? Viết cái gì ? Viết để làm gì ? Viết như thế nào ?
3. Phong cách nghệ thuật
    82
– Nhắc đến phong cách nghệ thuật là nhắc đến sự lặp đi lặp lại của một tác giả
về cách thức sử dụng ngôn từ, câu chữ, hình tượng, thủ pháp nghệ thuật, đề tài để
chúng có thể trở thành một nét riêng biệt trong phong cách của tác giả đó. Phong
cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn, chính trị và văn học, giữa truyền thống và hiện đại. Người là một cây bút đa
dạng về phong cách.
Văn chính luận của Hồ Chí minh sắc sảo, giàu tri thức văn hoá, gắn lý luận
với thực tiễn, giàu tính chính luận và tính chiến đấu, vận dụng hiệu quả cho yêu
cầu phục vụ cách mạng, phù hợp với hiểu biết của từng loại độc giả khác  nhau.
Truyện kí của Người nổi bật ở tính trí tuệ và tính hiện đại, thể hiện sự đa dạng về
phong cách.  Về thơ ca,  Người viết  nhiều  thể thơ đa dạng, phong phú, bút pháp
thường kết hợp hài hoà hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Tính cổ điển thường được
thể  hiện  ở  sự  hàm  súc,  cô đọng,  mang  đậm  nét  thơ  Đường, ở  thể  thơ  tứ  tuyệt,
những đề tài thiên nhiên, lối miêu tả gián tiếp, bút pháp chấm phá. Tính hiện đại
trong thơ Người lại thể hiện ở sự vận dụng linh hoạt nhiều thể loại và phục vụ có
hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, ở việc miêu tả cái hàng ngày, đặc biệt ở
sự  xông  xáo,  luôn  có  mặt  ở  những  nơi  xung  yếu,  gai  góc  của  cuộc  sống,  ở
hình tượng thơ luôn vận động hướng về ánh sáng, hướng tới tương lai của đất
nước và nhân dân.
 
 
NHậT Ký TRONG Tù
HỒ CHÍ MINH
1. Hoàn cảnh ra đời của tập thơ
 Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, mùa xuân năm 1940,
Nguyễn Ái Quốc quay về Việt Nam lãnh đạo trực tiếp phong trào giải phóng dân
tộc. Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh
và Phân bộ quốc tế phản xâm  lược của Việt Nam, Người lên đường sang Trung
Quốc để tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới. Sau nửa tháng đi bộ, vừa
đặt chân đến Túc Vinh, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và bị giam
giữ suốt gần 14 tháng tại nhiều nhà  lao tỉnh Quảng Tây. Trong suốt thời gian bị
giam giữ tại đây, Hồ Chí Minh vẫn vượt lên mọi khó khăn, đày ải, giữ vững khí
  83
thế người cộng sản, sáng tác hàng trăm bài thơ bằng chữ Hán, dưới dạng nhật ký
để tự rèn luyện ý  chí cách mạng của  mình.  Từ mùa  thu năm  1942 đến mùa thu
1943, người viết 134 bài thơ, chép trong sổ tay và đặt tên là Nhật ký trong tù.
2.  Nội dung chính của tập thơ 
a) Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, tàn bạo, đen tối của chế độ nhà
tù cũng như xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.
b) Tập thơ còn là bức chân dung tự hoạ tâm hồn của người tù Hồ Chí Minh
qua các phương diện sau : 
– Đó là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại,  lúc nào cũng hướng về đất nước, nhân
dân, là người chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất, người công dân yêu tự do,
nhà hiền triết luôn biết vượt lên mọi hoàn cảnh, ung dung tự tại, lạc quan, yêu đời
(Cảm tưởng đọc “Tthiên gia thi”, Đề từ, Khai quyển, Trên đường đi,...).
–  Chân dung người tù Hồ Chí Minh còn là hình ảnh một bậc đại nhân, có tình
yêu thương bao la đối với con  người, thấu hiểu và chia  sẻ, cảm thương với con
người  (Đứa  bé  ở nhà  lao  Tân  Dương,  Vợ  người  bạn  tù đến  thăm  chồng,  Nghe
người bạn tù thổi sáo,…)
– Nhật kí trong tù luôn thể hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên. Dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào, người cũng biết vượt lên để giao hoà cùng thiên nhiên, coi thiên
nhiên là chỗ dựa tinh thần, bộc lộ cốt cách một thi nhân, một nghệ sĩ lớn (Ngắm
trăng, Chiều tối, Cảnh chiều hôm,...).
 
CHIềU TốI
HỒ CHÍ MINH
Phiên âm :
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Bản dịch thơ :
    84
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Chiều tối là một bài thơ thuộc loại tức cảnh (là loại thơ do ngắm cảnh mà có
cảm xúc mà nảy ra ý thơ và lời thơ).
– Bài thơ Chiều tối được tác giả sáng tác vào mùa thu năm 1942 trên đường
Người bị giải đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Quảng Tây, Trung Quốc. 
– Bài thơ Chiều tối được đánh số 31 trong tập thơ Nhật ký trong tù. Đây là
một trong những bài thơ hay nhất trong dòng thơ viết về thiên nhiên trong Nhật ký
trong  tù  của  Hồ  Chí  Minh.  Bài  thơ  hé  mở  cho  ta  đi  vào  thế  giới  tâm  hồn  vừa
phong phú vừa thầm kín của người tù thi sĩ mà nhiều nhà nghiên cứu thống nhất ở
quan điểm, đã đạt tới bậc đại trí, đại nhân, đại dũng.
II -  PHÂN TÍCH 
1. Cảnh rừng núi buổi chiều tối và tâm trạng nhà thơ
– Câu 1 – 2. Câu mở đầu bài thơ : “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” tả một
hình ảnh rất quen thuộc trong thơ ca phương Đông. Trong thơ ca phương Đông
nói chung, khi câu thơ xuất hiện hình ảnh cánh chim, ấy là lúc nhà thơ muốn nói
đến hình ảnh chiều tà. Tuy nhiên, là một nhà thơ hiện đại nhưng lại đậm màu sắc
cổ điển, hình ảnh cánh chim trong câu thơ của Bác có một điều gì đó khác biệt :
Chim không phải bay trong trạng thái bình thường mà bay trong trạng thái mỏi
mệt. Dường như người làm thơ đã gắn cho hình ảnh này một chút tâm trạng của
con người. Trong gần 14 tháng bị cầm tù, Người đã bị giải đi khắp ba mươi nhà
lao của mười ba huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong những cuộc chuyển lao ấy,
người tù phải đi bộ trung bình mỗi ngày năm mươi cây số mà vẫn còn đủ sức, đủ
bình tĩnh, đủ tâm hồn thanh thoát để nhìn lên bầu trời thì đó quả thật là một việc
phi thường. Cũng ở trong câu thơ số một, chúng ta có một liên tưởng : đó là sự
tương đồng giữa cảnh người tù và cánh chim. Chim thì suốt ngày bay đi kiếm ăn
đến  lúc  mỏi  mệt  cũng  giống  như  người  tù  sau  một  ngày  vất  vả  trên  đường
  85
chuyển  lao,  chiều đến,  sức cũng đã  kiệt cùng. Câu thơ đầu  tiên có  sự  hoà  hợp
giữa cảnh và người. 
 Câu thơ thứ hai miêu tả một khung cảnh rất quen thuộc “Chòm mây trôi nhẹ
giữa tầng không”. Câu thơ này gợi cảm giác về cảnh buổi chiều tối, mà trong đó,
không gian thì cao rộng, bầu trời thì trong trẻo. Đó là một không gian yên ả ở một
vùng sơn cước. Phối hợp cả câu 1 và câu 2 chính là sự thể hiện tâm trạng của nhà
thơ. Hình như trong nhà thơ phảng phất một nỗi buồn, một liên tưởng hết sức mơ
hồ : trên trời cánh chim mỏi mệt đang vội vã tìm nơi tá túc, còn người tù giờ này
chưa biết sẽ tá túc nơi đâu ? Tuy nhiên, nỗi buồn ấy cũng chỉ thoáng qua. Điều
đáng chú ý hơn, trong hai câu thơ này, người đọc nhìn thấy được khí phách, bản
lĩnh phi thường của người chiến sĩ cách mạng. Bởi lẽ, nếu không có tinh thần tự
chủ cao thì người tù không thể đủ bình tĩnh và không thể có cảm xúc để viết được
những câu thơ bay bổng như thế về thiên nhiên. 
2.  Cảnh  buổi  tối  và  sự  vận động  của  tâm  trạng  nhà  thơ  từ  nỗi  buồn  sang
niềm vui
– Câu 3 – 4. Nếu hai câu thơ 1 và 2 chủ yếu tả cảnh, thì hai câu sau chủ yếu tả
người. Nếu hai câu thơ đầu ở dạng tĩnh, thì hai câu thơ sau là động : “Cô em xóm
núi xay ngô tối - Xay hết lò than đã rực hồng”.
  Ở đây chúng ta thấy cảnh và người hoà hợp, từ đó toát lên một thứ ánh sáng
ấm  áp.  Hình  ảnh  cô  gái  xóm  núi  xay  ngô  tối  gợi  được  vẻ  đẹp  khỏe  mạnh,  trẻ
trung, sinh động như chính cuộc sống đời thường. Hơn thế, cuộc sống đời thường
trong lao động thì càng đáng quý trọng. Hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô tối đã
mang đến cho người đi đường đang mệt mỏi một hơi ấm của sự sống. Đến lúc đó,
người tù có cảm giác dường như tất cả những nỗi vất vả ban ngày bỗng nhiên tan
biến. Câu thơ thứ tư : “Xay hết lò than đã rực hồng” không chỉ thu hẹp không gian
của bài thơ, quy tụ nó vào một điểm sáng mà còn xác định rõ sự vận động của thời
gian, đó là thời điểm trời tối. Vậy là một buổi chiều đã kết thúc, đêm tối đã bắt
đầu, nhưng ngược hẳn với thời gian, tư tưởng của con người lại từ buồn đến vui.
Bếp lửa rực hồng trong câu thơ thực ra đã hồng lên từ trước đó, nhưng vì trước đó
còn ánh sáng nên Bác chưa nhận ra. Còn đến lúc này khi trời đã tối, Người tìm về
với ánh sáng để lấy chỗ dựa cho chặng đường đi tới của mình. Có thể nói ánh lửa
đỏ ở trong câu thơ thứ tư đã mang lại điểm sáng cho toàn bộ bài thơ. Hay nói cách
khác nó là “nhãn tự” của bài thơ.
    86
3.  Kết luận
Bài thơ Chiều tối cho chúng ta thấy rõ một điều: cảm quan về thiên nhiên ở
Hồ Chí Minh xét đến cùng là cảm quan nhân đạo về con người. Chiều tối tuy là
một bài thơ tức cảnh nhưng về thực chất là bài thơ về thời gian, chính xác  hơn,
cảm quan của con người về thời gian và cuộc đời. Ngọn lửa bừng sáng ở cuối bài
thơ chính là ngọn lửa về niềm tin yêu con người của nhà thơ. 
Chiều tối là một bài thơ viết về thời gian và cảnh sắc thiên nhiên trong thời
gian đó nhưng cao hơn cả, đây còn là  bài thơ khẳng định chất thép và chất tình
trong thơ ca Hồ Chí Minh : Chất thép kiên cường của người chiến sĩ cộng sản và
tình yêu bao la của Người trùm lên mọi cảnh vật thiên nhiên.
 
 
LAI TÂN
                  HỒ CHÍ MINH
 
Phiên âm :                  
Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền,
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
Bản dịch thơ :      
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc, 
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Lai Tân là một trong những bài thơ được viết trong khoảng thời gian bốn
tháng đầu Hồ Chí Minh bị giam giữ trong  nhà  ngục  Tưởng Giới Thạch. Đây  là
khoảng thời gian  khắc  nghiệt nhất trong thời  kỳ  bị giam  giữ,  tù đầy của  Người.
Trong bốn tháng  này,  gần như ngày  nào Người cũng bị giải đi, tới một nhà lao
mới, gian khổ vất vả vô cùng. Mặc dù vậy, Người vẫn giữ được vẻ thanh thản ung
  87
dung, vẫn làm thơ tự khắc hoạ chân dung một người tù và kín đáo vẽ lại bức tranh
nhà  tù  chế  độ Tưởng  Giới  Thạch  bằng  cái  nhìn  phê  phán  sâu  sắc.  Lai  Tân  góp
phần làm rõ bức tranh hiện thực và phong cách nghệ thuật của nhà thơ – người tù
Hồ Chí Minh trong tập thơ Nhật ký trong tù. 
II - PHÂN TÍCH 
1.  Bức tranh nhà tù Tưởng Giới Thạch
– Tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài, trong đó có tới hơn một trăm bài nhà
thơ Hồ Chí Minh viết trong giai đoạn bốn tháng đầu. Điều đó không khó hiểu vì
đây là thời gian nhiều thử thách nhất với người tù. Chính Người đã viết trong bài
Đề từ tập thơ Nhật ký : “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao - Muốn nên
sự nghiệp lớn - Tinh thần càng phải cao”.
– Trong số hơn trăm bài thơ của tập Nhật ký trong tù, có thể phân biệt được
hai  kiểu  thơ quen  thuộc  của  Hồ  Chí  Minh  :  Một  là  những  bài  thơ  tự khắc  hoạ
chân dung người tù (Chiều tối, Giải đi sớm, Trên đường đi…) ; hai là những bài
thơ phản ánh hiện thực xã hội Trung Hoa, hiện thực nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Do sáng tác thơ trong tù, với tư cách người tù, Hồ Chí Minh đủ sự tinh tế để phê
phán chế độ ngục tù Tưởng Giới Thạch khiến cho kẻ thù không chống lại Người,
nhưng cũng để cho bạn tù xung quanh đọc và hiểu ẩn ý của Người. Lai Tân chính
là một bài thơ như thế.
– Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt, nghĩa là cũng phải tuân theo cấu trúc đề, thực,
luận, kết của thể loại thơ Đường. Câu mở đầu tưởng như chỉ rất vu vơ, câu thơ
nêu vấn đề,  một vấn đề được viết bằng giọng thơ  tự nhiên, bình thường,  nhưng
thực  ra  lại  không  bình  thường  tại  nơi  giam  giữ  những  tù  nhân  như  Bác  :  “Ban
trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Ban trưởng nhà lao lẽ ra phải làm tròn phận sự
của mình, phải trông coi tù nhân, cắt đặt công việc, thì trái lại ở đây không diễn ra
như thế. Ngay từ câu thơ nêu vấn đề, Hồ Chí Minh đã cho người đọc thấy được
cái bất bình thường, sự phi lý của ngục tù Tưởng Giới Thạch. Hoá ra, cái nhà tù
ấy chẳng phải là nơi trông coi, giữ gìn trật tự, cảm hoá người “tội lỗi”. Đó chỉ là
nơi du hý, kiếm chác của lũ quan lại chế độ Tưởng Giới Thạch mà thôi. Bởi lẽ,
trong nhà ngục ấy, không phải chỉ có riêng ban trưởng nhà lao không làm phận sự
của mình, mà  những  kẻ đội lốt người trông coi trật tự ấy, ai cũng  làm  như thế.
Giọng thơ của Bác tỏ ra hài hước : “Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”. Câu
thơ thực cung cấp cho người đọc thấy được đầy đủ hơn bộ máy giữ gìn pháp luật
    88
của xã hội Trung Hoa. Gần như cả một bộ máy cầm cân nảy mực cho xã hội ấy
đều  không  làm  việc  theo  chức  trách  của  mình,  từ  ban  trưởng  nhà  lao  đến  cảnh
trưởng  và  cuối cùng là là  huyện trưởng,  kẻ có vị trí  cao nhất trong thiết chế bộ
máy xã hội cấp huyện ở Trung Hoa. Câu thơ luận chuẩn bị cho câu thơ kết hết sức
bất ngờ, vốn  là  phong  cách quen thuộc  trong thơ  của Bác : “Chong đèn,  huyện
trưởng làm công việc”. Trong nguyên bản tiếng Hán : “Huyện trưởng thiêu đăng
biện công sự” (Huyện trưởng đang chong đèn làm việc công). Trong số ba nhân
vật được Bác nêu ra, đây là nhân vật duy nhất có vẻ như thực thi tốt nhất phần
việc  của mình : không làm việc riêng mà làm việc công. Bình thường, việc  làm
đúng đắn đó hẳn sẽ không tạo nên sự hài hước, nếu tất cả bộ máy pháp luật kia
cùng làm như thế. Nhưng rất tiếc, người tù – nhà thơ Hồ Chí Minh lại đã khẳng
định rõ tất cả ở trên. Chính điều đó đã tạo được sự bùng nổ trong câu thơ cuối.
2.  Bức  tranh  biếm  hoạ,  cái  nhìn  hài  hước,  thâm  thuý  của  tác  giả  về  nhà  tù
Tưởng Giới Thạch
Đúng ra, theo lô gích bài thơ, đến câu thơ cuối, người đọc sẽ được chứng kiến
một bức tranh hiện thực  nhà tù đúng như nó có, thế nhưng, sau ba câu đề, thực
luận, đến câu kết, ta  lại thấy người làm thơ  khiến họ sững sờ : ban trưởng đánh
bạc,  cảnh  trưởng  kiếm  ăn  bằn  việc  giải  quanh  tù  nhân,  huyện  trưởng  làm  việc
công  thâu  đêm…Vì  thế  mà  “Trời  đất  Lai  Tân  vẫn  thái  bình”.  Vậy  là  bề  ngoài
dường như không cần phải phê phán nhiều, bề ngoài nhà thơ cung cấp cho người
đọc một bức tranh “bình lặng xã hội nhà tù Trung Quốc”, nhưng bên trong, thực
ra Người phê phán cái xã  hội ấy thật sâu cay.  Hoá ra, tình trạng thối nát trên là
chuyện rất bình thường, bình thường nhưng lại là bản chất của guồng máy cai trị ở
đây. Đánh bạc, bóc lột tù nhân, hút sách là chuyện thường ngày của cái xã hội ấy.
Chỉ hạ một chữ thái bình ở cuối câu thơ, nhưng chữ đó, theo các nhà nghiên cứu
lại là chữ “nhãn tự”, nhà hiền triết phương Đông  Hồ Chí Minh đã lật trái toàn bộ
“ván  cờ”.  Thực  ra,  cái  xã  hội  ấy  không  thái  bình  chút  nào.  Ngược  lại, nó  đang
chứa đầy ung nhọt. Một câu kết dửng dưng tưởng chừng vô cảm nhưng lại là câu
chốt lại toàn bộ bài thơ. Hoàng Trung Thông đã  nhận  xét rất đúng tính sâu sắc,
triết lý trong bài Lai Tân của Hồ Chủ tịch : “Một chữ thái bình mà xâu tóm lại
bao  nhiêu việc  làm  trên vốn  là  muôn thuở của  xã  hội Trung Quốc,  của  giai  cấp
bóc lột thống trị.  Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá  nhưng
thực chất là đại loạn bên trong”.
  89
III - KẾT LUẬN
Lai Tân là một trong số những bài thơ châm biếm có giá trị nghệ thuật cao, có
sự phê phán sâu sắc trong tập thơ Nhật ký trong tù. Bằng bút pháp châm biếm nhẹ
nhàng, “không đao to búa lớn”, bằng  nụ cười “humour” (hài hước) học được từ
nền văn hoá phương Tây,  kết hợp với cái thâm thuý của văn hoá phương Đông,
Hồ Chí Minh đã để lại cho nền văn học Việt Nam hiện đại một tác phẩm thi ca
ngắn gọn, súc tích nhưng thật sự giá trị.  
    90
Tố HữU : Sự NGHIệP sáng tác 
Và PHONG CáCH  NGHệ THUậT
  
A - DẠNG ĐỀ  
– Tóm tắt ngắn gọn sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tố Hữu.
 –  Trình bày ngắn gọn những nét  chính phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
(đề thi đại học năm 2004, dạng câu 2 điểm).
– Giới thiệu ngắn gọn về Từ ấy và Việt Bắc (đề thi đại học năm 2008, dạng
câu 2 điểm).
–  Trong  lời  tựa  tập  Trăm bài  thơ  của  Tố  Hữu, nhà  thơ  Chế  Lan Viên  viết:
“Tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể tìm thấy
trong tế bào này, anh là nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại…”.
Hãy giải thích lời nhận xét trên của Chế Lan Viên qua việc phân tích bài thơ Từ
ấy.
– Phân tích đoạn thơ: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ... Rất đậm hương và rộn
tiếng chim”.
– Viết một đoạn văn nói lên những cảm nghĩ của mình về đoạn thơ mà anh/
chị cho là hay nhất trong bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.
Một  số  lưu  ý  :  Phần  thơ  Tố  Hữu  ngoài  dạng  đề  chung  tóm  tắt  sự  nghiệp,
phong cách sáng tác, đặc điểm nghệ thuật của nhà thơ, còn có các đề kiểm tra kiến
thức  như  hoàn cảnh sáng tác  và  nội dung  chính  của  tập  thơ  Từ ấy,  Việt Bắc và
Tuyên ngôn Độc lập. Phần đề liên quan đến bài thơ Từ ấy chỉ mới được đưa vào
chương trình thi từ  năm  nay,  nên  không có nhiều  tình  huống phức  tạp.  Học  tác
phẩm này, học sinh nên chú ý hơn cả đến khổ thơ đầu, hoặc cố gắng nhớ được đây
là bài thơ được lấy làm đầu đề cho cả tập thơ nên cần phải biết cách giải thích ý
nghĩa nhan đề của nó. Trong trường hợp đề thi yêu cầu viết một đoạn văn nói về
cảm nghĩ cá nhân khi đọc bài thơ Từ ấy, thì nên dựa vào nội dung tóm tắt bài phân
tích gợi ý dưới đây để nêu cảm nghĩ của mình. Ý cốt lõi là phải nói được vẻ đẹp
của hình tượng người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, chất lãng mạn bay bổng của tâm
hồn và hình thức bài thơ.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
  91
– Tố Hữu là một trong những nhà thơ hàng đầu trong nền văn học cách mạng
Việt Nam. Những chặng đường thơ Tố Hữu (Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận,
Máu  và hoa) phản  ánh  chân  thực  tiến  trình  cách  mạng  Việt  Nam  đồng  thời
thể  hiện  sự  vận  động  trong  tư  tưởng  –  tình  cảm  và  trình  độ  nghệ thuật  của
chính nhà thơ.
– Về nội dung, thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình – chính trị rất sâu sắc.
Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, những tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người
cách mạng, đời sống cách mạng (Theo chân Bác, Cá nước, Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên). Thơ ông mang đậm tính sử thi vì đã tập trung thể hiện những cuộc chiến
đấu ác liệt để bảo vệ độc lập tự do (Chào xuân 1947), khung cảnh xây dựng đất
nước hào hùng (Bài ca mùa xuân 1961), những cố gắng phi thường của con người
để vươn lên ngang tầm vóc dân tộc và thời đại (Người con gái Việt Nam, Hãy nhớ
lấy lời tôi).
–  Về  nghệ  thuật,  thơ  Tố  Hữu  mang  phong  cách  dân  tộc  rất  đậm  đà.  Ông
không chú ý sáng tạo những từ mới mà thường dùng những từ ngữ, những cách
nói quen thuộc của đồng bào ; đặc biệt Tố Hữu rất thành công khi sử dụng những
thể thơ truyền thống của dân tộc (Quê mẹ, Mẹ Tơm, Kính gửi cụ Nguyễn Du).
– Thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố cách mạng và dân tộc
trong nghệ thuật. Qua thơ Tố Hữu có thể thấy một thành tựu xuất sắc của thơ
ca Cách mạng, một nền thơ luôn coi vận mệnh của dân tộc là lẽ sống lớn nhất. 
 
Từ ấY
TỐ HỮU
Hoàn cảnh ra đời và nội dung chính của tập thơ Từ ấy
–  Từ ấy là  tập  thơ  tiêu biểu và duy  nhất của Tố Hữu thời điểm  trước 1945.
Đây  là  tác  phẩm  tập  hợp  những  bài  thơ  Tố Hữu  viết trong  khoảng  thời  gian  từ
1937 đến 1942, thời kỳ nhà thơ bắt đầu con đường hoạt động cách mạng cho đến
lúc trưởng thành. Tập thơ chính thức được in lần đầu vào năm 1946.
  – Từ ấy là tên một bài thơ nhưng được lấy làm đầu đề chung cho cả tập thơ.
Đây  là tập thơ gồm ba phần  : Máu  lửa,  Xiềng xích và Giải phóng, phản ánh ba
    92
chặng đường đấu tranh cách mạng và trưởng thành của nhà thơ kể từ khi giác ngộ
lý tưởng cách mạng đến trước thời điểm 1945. Nội dung xuyên suốt của tập thơ
này là tiếng reo vui của người thanh niên cộng sản khi bước chân vào con đường
cách mạng (Máu lửa) ; là lời thề nguyện chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh,
gian khổ (Xiềng xích) ; là  niềm  hân hoan được hoà  mình trong dòng thác  cách
mạng cùng với nhân dân, đất nước (Giải phóng).
 –  Từ ấy  mang  đậm  phong  cách  lãng  mạn  cách  mạng,  một  phong  cách thơ
luôn gắn liền với cuộc sống hiện thực hàng ngày, với vận mệnh của nhân dân, đất
nước, nhưng cũng không kém phần bay bổng, trữ tình, đúng như đoạn thơ mở đầu
của bài thơ :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim 
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ ca bao
giờ cũng  gắn liền  với  nhau.  Khi còn rất trẻ tuổi,  ông đã  tham gia  vào  đội quân
cách mạng và ngay sau đó đã cho ra đời tập thơ Từ ấy. Từ ấy đồng thời cũng là
tên một bài thơ riêng dùng đặt chung cho tập thơ này. Có thể coi đây là bài thơ
quan  trọng  nhất  khẳng  định  thời  điểm  đầu  tiên  nhà  thơ  Tố  Hữu  đến  với  cách
mạng.
– Bài thơ Từ ấy được viết khi Tố Hữu còn rất trẻ (năm 1938), lúc này ông chỉ
mới 18 tuổi. Bài thơ được in ngay trong phần đầu của tập thơ, nên cũng có thể coi
như một bản tuyên ngôn, hay nói như nhà phê bình Đặng Thai Mai, có thể gọi nó
bằng cái tên khác Giác ngộ (từ gốc Hán chỉ sự tự ý thức, tự nhận ra lẽ phải, chân
lý, để tìm con đường đi đúng đắn cho mình). Ở thời điểm còn tràn trề sinh lực và
ước  mơ, như bất cứ chàng trai  yêu nước trẻ tuổi nào,  Tố Hữu bộc bạch hết đỗi
chân thành cuộc gặp gỡ đầu đời của mình với mùa xuân cách mạng, mùa xuân lý
tưởng. 
II - PHÂN TÍCH
1. Khổ thơ đầu  
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
  93
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
– Có thể khẳng định, khổ mở đầu là đoạn thơ quan trọng nhất của bài thơ. Nó
quan trọng nhất vì gần như tất cả tâm hồn, nội dung, nghệ thuật, phong cách thơ
Tố Hữu đã được bộc lộ ngay từ khổ thơ này. Chỉ với hai tám chữ trong bốn câu
thơ thất ngôn quen thuộc, nhà thơ đã nói lên được biết bao nhiêu tình, bao nhiêu ý.
–  Từ ấy, hai chữ nhan đề, không đơn giản chỉ là thời điểm quan trọng nhất
trong  cuộc  đời  Tố  Hữu,  nó  còn  là  điểm  mở  đầu  có  tính  bước  ngoặt  cho  cả  sự
nghiệp của nhà thơ cách mạng này. Chúng ta hãy nhớ, Tố Hữu được chính thức
kết nạp vào Đảng năm 1938, bài thơ Từ ấy được viết vào đúng năm này, vì thế Từ
ấy không đơn giản chỉ là danh từ đơn thuần chỉ thời gian, nó là thời khắc thiêng
liêng của một đời người. Về sau này khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng, Tố
Hữu luôn xác định cho mình con đường phía trước một cách rất rõ ràng, chính là
nhờ một phần ông xác định được Từ ấy : “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu - Dấn
thân vô là phải chịu tù đày - Là gươm kề tận cổ súng kề tai - Là thân sống chỉ coi
còn một nửa…”.
– Là thi sĩ cách mạng được mệnh danh nhà thơ “trữ tình chính trị”, Tố Hữu
không hề coi nhẹ tính nghệ thuật trong những vần thơ thấm đậm “chất chính trị”
của mình. Nói về con đường đến với cách mạng của mình, ông sử dụng hệ thống
hình ảnh thật ấn tượng mà không hề khô khan. Lý tưởng cách mạng được Tố Hữu
so  sánh  với biểu  tượng mặt trời,  một hình  ảnh  hết sức quen thuộc  trong thơ  ca
truyền thống và thơ hiện đại. Tuy nhiên cái mới của nhà thơ trẻ tuổi này là trong
khi các nhà thơ dân gian thường dùng hình ảnh mặt trời để so sánh với tình yêu
riêng tư, cụ thể, tình yêu của người con trai (“Thấy anh như thấy mặt trời - Chói
chang  khó  nói  trao  lời  khó  trao”),  thì  Tố  Hữu  lại  so  sánh  hình  ảnh thiên  nhiên
quen thuộc này với vẻ đẹp nồng hậu, ấm nóng, ánh sáng soi rọi của lý tưởng cách
mạng. Nhà thơ gọi nó là mặt trời chân lý. 
– Mặt trời trong thơ Tố Hữu không “thiêu đốt” mà trái lại nó như cơn gió làm
dịu mát con đường đi của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên, Tố Hữu so sánh trái
tim mình khi có ánh mặt trời chiếu vào, bỗng nhiên như dịu dàng trở lại, nó giống
như một  khu vườn  với rộn ràng  hoa lá,  chim  chóc mùa xuân : “Hồn  tôi  là một
vườn hoa lá - Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. So sánh mặt trời lí tưởng cách
mạng như nguồn sáng chân lí vĩ đại làm bừng lên vẻ đẹp trí tuệ, tình cảm của con
    94
người, Tố Hữu phần nào bắt gặp nhà thơ cách mạng Hồ Chí Minh trong bài thơ
Thượng sơn : “Hai mươi tư tháng sáu - Lên ngọn núi này chơi - Ngẩng đầu : mặt
trời đỏ - Bên suối  : một nhành mai”.  Cũng giống Hồ Chí Minh, thế  giới  nghệ
thuật trong thơ Tố Hữu thường được soi chiếu bằng ánh mặt trời, nhưng thường là
ánh sáng dịu mát của buổi sáng mùa xuân, hoặc ánh sáng đẹp của buổi chiều mùa
thu. Ngay cả khi là “nắng hạ” thì ánh nắng đó vẫn dịu mát nhờ chiếu qua một khu
vườn hoa lá, với tiếng chim ca, với mùi hương đậm đà, với tâm hồn trong trẻo của
người thanh niên trẻ tuổi lần đầu đến với cách mạng.
2.  Sự chuyển biến của tâm hồn nhà thơ cách mạng khi được ánh sáng lý tưởng
soi rọi  (2 khổ thơ sau)
– Hai  khổ thơ  sau  thực  chất  là sự giãi bầy của Tố Hữu  sau  thời điểm được
“Mặt trời chân lý  chói qua tim”.  Tố Hữu  khẳng  định,  sự tiếp thu lý  tưởng cách
mạng quan trọng đối với cuộc đời ông như thế nào. Chúng ta nên nhớ rằng, cùng
thời  kỳ  Tố  Hữu  viết  bài  thơ  này,  không  ít  những  nhà  thơ  lãng  mạn  như  Xuân
Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên,… vẫn còn “rên rỉ” trong những câu thơ “cô đơn,
buồn chán”. Chúng ta không trách các nhà thơ lãng mạn, bởi lẽ họ không cố tình
tạo ra những tình cảm uỷ mị, yếu đuối ấy, mà vì họ không có được may mắn như
Tố Hữu, bắt gặp ánh sáng lý tưởng cách mạng.
– Đến với cách mạng, nhà thơ Tố Hữu không còn thấy cô đơn. Ông tự nguyện
gắn bó cuộc đời mình với thế giới những người “khốn khổ”. Ông mở rộng lòng
mình để đón nhận những cơn gió cuộc đời.  Ông  tự nhận mình  là  người anh em
ruột thịt của đại gia đình vô sản : “Tôi đã là con của vạn nhà - Là em của vạn kiếp
phôi pha - Là anh của vạn đầu em nhỏ - Không áo cơm cù bất cù bơ”. Nhà thơ
khẳng định niềm vui sướng của mình khi được hoà mình trong biển lớn cuộc đời
đó. Ông sử dụng biện pháp nghệ điệp từ để nói lên niềm vui rộn rã này. Ở khổ thơ
thứ hai, là sự lặp lại hai lần từ để : để lòng, để tình ; khổ thơ thứ ba có tới ba lần
nhà thơ lặp lại từ là : là con, là em, là anh,… Bằng biện pháp nghệ thuật này, nhà
thơ đã tạo được giọng điệu dồn dập, sôi nổi, hiện đại cho những câu thơ thất ngôn
truyền thống. Đặc điểm đó cũng cho thấy những chuyển biến nhanh chóng trong
tâm hồn nhà thơ kể từ khi có ánh sáng lí tưởng cách mạng soi vào.
III - KẾT LUẬN
  95
Từ ấy  là  lời  tâm  nguyện  của  người  thanh  niên  yêu  nước  trẻ  tuổi  đến  với  lí
tưởng cách mạng. Từ ấy cũng chính là sự giãi bày bộc bạch chân thành của nhà
thơ Tố Hữu về quá trình giác ngộ cách mạng của mình. Đó không chỉ đơn giản là
sự trình bày bộc bạch nội dung, qua bài thơ được lấy làm đầu đề cho cả tập thơ
đầu tiên của mình, Tố Hữu còn thể hiện được phong cách nghệ thuụat của một nhà
thơ cách mạng. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên viết : “Tất cả Tố Hữu, thi pháp,
tuyên ngôn làm ra anh có thể tìm thấy trong tế bào này,  anh là nhà thơ của  vạn
nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại…”. 
 
 
 
Về LUÂN Lý Xã HộI ở NƯớC TA
(Trích Đạo đức và luân lý Đông – Tây)
PHAN CHÂU TRINH
A - DẠNG ĐỀ
–  Thế nào là văn diễn thuyết ? Phân tích đoạn văn Về luân lý xã hội ở
nước  ta  của  Phan  Châu  Trinh  để  làm  rõ  nội dung và biện pháp nghệ  thuật
của thể văn này.   
– Phân tích lập luận của Phan Châu Trinh về mối quan hệ giữa truyền bá chủ
nghĩa xã hội, gây dựng đoàn thể với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do của
dân tộc trong Về luân lý xã hội ở nước ta.
 
Một số lưu ý : Nghị luận xã hội là dạng đề thi hoàn toàn mới trong hạn chế
nội dung đề thi đại học năm nay. Tiếp xúc với dạng đề thi thuộc loại này, học sinh
trước tiên cần nắm vững các thao tác cơ bản của một bài nghị luận xã hội, tránh
dài dòng, hoa mỹ như khi làm bài thi nghị luận văn học. Bài làm phải có cấu trúc
thật mạch lạc, rõ ràng : Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm cần triển
khai ; phần thân bài phải triển khai các vấn đề trọng tâm theo các luận điểm, luận
cứ một cách lô gích ; Và phần cuối, phải chốt lại vấn đề, nêu suy nghĩ và bài học
cho bản thân. Trong trường hợp cụ thể ở đây, do tác phẩm là  thể văn diễn thuyết,
bài học lại chỉ là một đoạn trích, nên khi làm bài, học sinh cần nắm được đặc điểm
    96
cơ bản của thể văn này. Tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của đề, học sinh có thể tách
riêng hoặc viết xen kẽ phần lý thuyêt với nội dung chính của tác phẩm. Đoạn trích
tác phẩm này là một mẫu mực về văn nghị luận xã hội mà học sinh có thể học hỏi.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, XUẤT XỨ ĐOẠN TRÍCH 
– Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ông sinh năm 1872 tại huyện Tiên Phước, thị xã Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam và mất năm 1926. Trong số các nhà cách mạng lớn ở nước ta
những năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh những tên tuổi nổi tiếng như Phan Bội Châu,
Hồ Chí Minh,… Phan Châu Trinh luôn được coi là người cấp tiến, ông vừa học
được ở Phan Bội Châu tư tưởng nền tảng đạo đức Khổng – Mạnh phương Đông,
vừa học được ở Hồ Chí Minh tư tưởng dân chủ phương Tây. Rất tiếc  là ông đã
mất rất sớm khi nhiều ước mơ cải cách dang dở, chưa kịp thực hiện.
–  Trong  cuộc  đời  hết  sức  ngắn  ngủi  của  mình  (44  tuổi),  ngoài  những  hoạt
động  yêu  nước  không  biết  mệt  mỏi, Phan  Châu  Trinh  còn để lại  một số  lượng
không nhỏ công trình, trước tác mà ở đó ông bày tỏ tư tưởng quan điểm của mình.
Về luân lý xã hội ở nước ta là đoạn trích phần thứ 3 của công trình Đạo đức và
luân lý Đông Tây in năm 1925. Công trình này gồm 5 phần, kể cả nhập đề và kết
luận, nội dung chính bàn về quá trình phát triển của nền đạo đức, luân lí ở nước ta,
về sự khác biệt giữa luân lý và đạo đức, giữa phương Đông và phương Tây, cuối
cùng  là  quan điểm  của Phan Châu  Trinh  về  vấn  đề này.  Bằng những  hoạt động
thực tiễn và sự am hiểu cùng lòng  yêu nước sâu sắc, Phan Châu Trinh đã để lại
một tác phẩm thật sự có giá trị.
1. Một vài khái niệm về thể văn diễn thuyết
– Diễn thuyết là một ứng tác của diễn giả, là hình thức giao tiếp giữa diễn giả
và công chúng nhằm phổ biến, khẳng định hay thuyết phục một vấn đề gì đó về
đường lối chính trị, kinh tế, văn hoá, văn học nghệ thuật và xã hội… Diễn thuyết
có thể được viết thành văn bản hoặc không, nhưng dù được viết ra hay không, yêu
cầu quan trọng nhất của loại tác phẩm này là phải lô gích, cô đúc, thuyết phục.
  97
– Cùng  nhằm  hướng tới  số đông  công chúng,  nhưng  không  hoàn  giống với
các loại tác phẩm khác, mối giao tiếp giữa tác giả và công chúng trong diễn thuyết
là trực tiếp (ở các thể loại khác là gián tiếp). Chính đặc thù này quy định hình thức
của văn bản diễn thuyết. Trước tiên, bài diễn thuyết phải xác định được thật cụ thể
công chúng hướng tới là ai ? Nội dung chính diễn thuyết là gì ? Cần phải sử dụng
ngôn ngữ, giọng điệu thế nào cho bài diễn thuyết ?...
2. Xuất xứ đoạn trích 
– Như trên đã nói, đoạn trích Về luân lý xã hội ở nước ta nằm ở phần ba của
bài Đạo đức và luân lý Đông Tây, được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19
tháng 11 năm 1925 tại nhà  Hội Thanh  niên ở Sài Gòn.  Bài diễn thuyết  này  khá
dài, nội dung phong phú, thuyết phục, chủ yếu nhằm chỉ ra những yếu kém trong
nền luân lý nước ta so với các nước phương Tây, với mục đích cuối cùng nhằm
chấn  hưng  nền luân  lí đạo đức  nước nhà,  hướng  tới một xã  hội Việt Nam phồn
thịnh.
II - PHÂN TÍCH
1. Cơ sở của việc xây dựng nền luân lí xã hội nước nhà
– Căn cứ vào chủ đề của đoạn trích, tác giả sách giáo khoa đặt đầu đề Về luân
lý xã hội nước ta là rất sát nội dung bài diễn thuyết này. Nó gồm 3 đoạn, nghĩa là
cũng có mở đầu, thân bài và kết luận. Ở đoạn đầu, tác giả nêu thực trạng nền luân
lý  ở nước  ta  những  năm  đầu  thế  kỷ  XX.  Ngay  từ  dòng  mở  đầu, ông  đã  khẳng
định: “Xã hội luân lý thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc
gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều”. 
– Có thể một ai đó không quen những lời nói “khó nghe”, đọc ngay từ câu đầu
tiên của bài diễn thuyết, rất dễ bị “sốc”. Cũng có thể bấy lâu nay, chúng ta thường
quen nghe  hơn những lời nói ngọt ngào, những lời khen, thậm chí tâng bốc, tán
dương,… Hình như đấy là chỗ mềm yếu nhất của lòng người ; là con người, ai lại
không  thích  nghe  những  điều  tốt đẹp. Tuy  nhiên,  cần  phải  phân  biệt  được  ranh
giới của những lời lẽ tốt đẹp ấy và sự chân thực của nó. Ngạn ngữ Việt Nam ta có
câu : “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng” và “Con hát mẹ khen hay”…
– Với bản tính thẳng thắn của một nhà hoạt động thực tiễn nhiều kinh nghiệm,
Phan Châu Trinh đã thoát ra khỏi thói tật thông thường, ông đã nêu được một thực
trạng chính xác về nền dân trí, luân lý ở nước ta những năm đầu thế kỷ XX. Nên
    98
nhớ, khái niệm “xã hội luân lý” Phan Châu Trinh đề cập ở đây cần được hiểu theo
nghĩa thuần Việt là luân lý xã hội. Và một điều nữa  cũng cần lưu ý, trong quan
niệm của Phan Châu Trinh, khái niệm đạo đức và luân lý khác nhau (đạo đức là
cái bất biến, luân lý là cái có thể thay đổi). Ở thời điểm những năm đầu thế kỉ XX,
xã hội nước ta vẫn trong tình trạng phong kiến, lạc hậu, những cái cũ (Đạo Khổng
Mạnh) đã mất rồi ; những cái mới (văn minh dân chủ phương Tây) lại kịp chưa ra
đời,  “một tiếng bạn bè  không thể thay cho xã  hội  luân lý  được”. Nhà  yêu nước
Phan Châu Trinh khi đặt cơ sở cho chủ đề diễn thuyết của mình, không quên phê
phán khéo léo thói xấu của một tầng lớp người “bề trên”, chỉ lo học hành đỗ đạt
để thăng quan tiến chức mà không chú ý tới việc “tu thân, tích đức”. Quan niệm
“tề gia,  trị quốc, bình thiên  hạ”  từ thời Khổng Tử,  nay đã  không còn được  hiểu
đúng đắn nữa.
2. Thực trạng nền luân lí xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX
Đề cập thực trạng nền luân lý xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, vẫn
bằng một giọng văn thuyết phục, tâm huyết, thẳng thắn, tác giả chia tách rõ ràng
thành ba điểm :
– Thực trạng nền luân lý xã hội ở Việt Nam trong so sánh với châu Âu.
– Nên thay đổi nền luân lý xã hội nước ta như thế nào.
– Lời kêu gọi thay đổi luân lý xã hội nước nhà.
a) Thực trạng luân lý xã hội Việt Nam trong so sánh với châu Âu 
– Phan Châu Trinh mở đầu đoạn diễn thuyết về nền luân lý xã hội Việt Nam
bằng sự so sánh với luân lý xã hội châu Âu. Để làm nổi bật vấn đề này, ông tập
trung so sánh trên ba phương diện : Sự công bằng, sự hiểu biết và ý thức nghĩa vụ
giữa người với người. “Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế,
đã phóng đại ra  như thế, thế mà người bên ta thì điềm  nhiên như kẻ ngủ không
biết gì là gì.”. Cụm từ xã hội chủ nghĩa tác giả sử dụng trong đoạn trích trên, khác
hoàn toàn với cách hiểu của chúng ta ngày nay. Thực ra, điều ông muốn nói ở đây
là chủ nghĩa xã hội, nghĩa là luận thuyết về xã hội. Trong lô gích của chủ đề diễn
thuyết, Phan Châu  Trinh   nhấn mạnh sự  khác  nhau  trong cơ cấu tổ chức xã hội
giữa ta và châu Âu. Theo ông, do được thừa hưởng nền văn minh sớm, nền luân lý
xã hội châu Âu phát triển tuần tự qua ba bước : Một là, ý thức tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau giữa các cá nhân trong một xã hội ; hai là, trong một xã hội, mỗi công
  99
dân đều phải có ý thức vì cái chung ; ba là, luân lý xã hội còn cần đến sự tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cả cộng đồng loài người trên toàn thế giới. 
– Do không phát triển tuần tự như trên, “Người nước ta không hiểu cái nghĩa
vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước
cũng chưa hiểu gì cả”. Dân ta không biết đoàn kết lại để chống ách áp bức, cường
quyền, vì ta không có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi ích chung. Trong quan hệ
đối xử giữa cá nhân và cá nhân “thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai ! Đi đường gặp
người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như
người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình”. Nhắc đến những tật xấu của
người dân nước mình, Phan Châu Trinh hoàn toàn không “vơ đũa cả nắm”, ông
chỉ ra rằng, trong lịch sử, dân ta “hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, công ích, cũng góp
gió làm bão, giụm cây làm rừng,  không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lỳ như
ngày  nay”.  Vậy  nghĩa  là,  thói  xấu  của  dân  ta  chỉ  mang  tính  nhất  thời, do  hoàn
cảnh xã hội, hoàn toàn có thể sửa chữa, thay đổi được.
– Cắt nghĩa căn nguyên thói xấu của dân ta, Phan Châu Trinh cho rằng đó là
vì “lũ người mang đai đội mũ, ngất ngưởng ngồi trên”, học là chỉ cốt thi làm quan,
không muốn dân “khôn”, không muốn dân đoàn kết,… Với đặc trưng của loại văn
bản diễn thuyết, lời văn của Phan Châu Trinh nhiều chỗ thống thiết, lâm ly, có lúc
lại rất gần với phong cách văn khẩu ngữ. “Luân lý thượng lưu” của bọn chúng là
đối xử với con người theo sức mạnh, càng ngu thì lại càng dễ trị vì. “Một dân tộc
như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở” làm sao được.
b) Nên thay đổi luân lý xã hội Việt Nam như thế nào ?
Sau khi chỉ ra thực trạng luân lý xã  hội nước ta, Phan Châu Trinh cho rằng,
“Xã hội chủ nghĩa trong nước  Việt Nam ta không có là cũng vì thế”. Vậy để có
thể  tạo  dựng  được  nền  luân  lý  nước  nhà,  chúng  ta  phải  làm  gì  ?  Theo  tác  giả,
chúng ta cần phải biết gây dựng đoàn thể để hỗ trợ nhau trong cuộc sống, trước
tiên là bảo vệ cho quyền lợi của chính bản thân mình (“Đoàn kết là sức mạnh”,
nhà yêu nước cách mạng Hồ Chí Minh về sau này cũng đã từng phát biểu chân lí
đó, Người có nhiều ý tưởng trùng hợp với Phan Châu Trinh). Sau nữa, chúng ta
phải bỏ thói quen dựa dẫm ỉ vào quyền thế, phải chấm dứt tệ nạn bán tước mua
quan. Bởi lẽ, đó là nguyên nhân phá vỡ sự công bằng xã hội mà bất cứ một xã hội
văn minh nào cũng đều hướng tới. Diễn thuyết về luân lý xã hội Việt Nam thời kì
này, nhà  yêu nước Phan Châu Trinh không quên nhắc đến chế độ vua quan thối
    100
nát nước ta những năm đầu thế kỉ XX. Với bè lũ vua quan thối nát đó, chúng ta
thật khó xây dựng được nền luân lý xã hội đúng đắn. 
c) Lời kêu gọi thay đổi luân lý xã hội nước nhà
Vì vậy điểm cuối cùng ông nhấn mạnh rằng, cần phải đánh đổ chế độ hà khắc
xấu xa này mới có thể thiết lập được nền tự do, con người cá nhân mới phát huy
được tư tưởng cách mạng. 
III - KẾT LUẬN
Những lập luận trên đây của Phan Châu Trinh là hết sức rõ ràng, cấp thiết. Ở
thời điểm những năm đầu thế kỉ XX, có thể khẳng định, Phan Châu Trinh thuộc số
không nhiều những nhà yêu nước cách mạng Việt Nam có được cái nhìn sắc sảo,
nhìn ra điểm yếu cốt tử của nền luân lý xã hội nước ta. Ông muốn giải quyết trước
tiên vấn đề dân trí của người dân Việt Nam. Theo ông, phải có dân trí, con người
mới biết phát  huy  nền dân chủ. Và  chỉ  khi thật thấm  nhuần  hai phẩm  chất  này,
người dân Việt nam mới hướng tới mục tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất
nước. Về luân lý xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh tuy được viết từ những
năm đầu thế kỉ XX, nhưng vẫn rất hiện đại. Gần đây, trên báo chí nước ta đã trở
lại bàn luận khá sôi nổi về vấn đề này : Người Việt Nam chúng ta có thói xấu gì
không ? Phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật mới có thể tiến bộ. Đó là chân lý
của muôn đời ! Và như thế có nghĩa là tác phẩm của Phan Châu Trinh luôn luôn
có ý nghĩa thời sự.
 
                   
 
MộT THờI ĐạI TRONG THI CA  
            HOÀI THANH
A - DẠNG ĐỀ
– Phân tích Một thời đại trong thi ca để làm rõ quan niệm của Hoài Thanh về
“tinh thần Thơ mới” trong ý nghĩa văn chương và xã hội.
–  Hãy chỉ ra trong bài Một thời đại trong  thi ca,  phong  cách phê bình văn
chương khác với phê bình khoa học ở điểm nào ? Tại sao là một tiểu luận phức
tạp mà Một thời đại trong thi ca vẫn hấp dẫn được người đọc của nhiều thế hệ ?
  101
Một số lưu ý : Một thời đại trong thi ca là loại văn bản thuộc tác phẩm phê
bình văn học, thuộc dạng bài nghị luận, cũng có những yêu cầu giống với bài Về
luân lý xã hội ở nước ta của tác giả Phan Châu Trinh. Khác đôi chút với loại bài
nghị  luận  khoa  học,  nghị  luận  xã  hội,…  nghị  luận  văn  học  ngoài  yêu  cầu  khúc
chiết với những luận điểm, luận cứ rõ ràng, còn cần ở người viết khả năng cảm
xúc thẩm mĩ tinh tế trước đối tượng phản ánh. Trong tình huống ra đề, Một thời
đại trong thi ca có thể được sử dụng ở hai dạng : tái hiện kiến thức về giai đoạn
văn học (phần Thơ mới 1930 - 1945), hoặc vận dụng khả năng đọc - hiểu để viết
bài  nghị luận  văn  học (làm  rõ  được phong cách  phê bình của  Hoài  Thanh,  một
kiểu phê bình thấm  đậm chất thơ, phê bình  nghệ sĩ). Đây là  bài  học  chính thức
được đưa vào chương trình từ năm 2009, ở SGK Ngữ văn Nâng cao.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
– Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền
văn  học  Việt  Nam  hiện  đại  đầu  thế  kỉ  XX.  Ông  sinh  năm  1909,  tại  Nghi  Lộc,
Nghệ An, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá, nghệ thuật, là
đại biểu Quốc hội nhiệm  kỳ 1960 - 1964, được tặng thưởng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
– Từ 1936 đến khi qua đời (1982), Hoài Thanh để lại bảy công trình lý luận,
phê bình, trong đó Một thời đại trong thi ca được coi là tác phẩm xuất sắc nhất.
Qua tác phẩm này, Hoài Thanh thể hiện rõ biệt tài thẩm thơ, lối phê bình ấn
tượng, nét nhẹ  nhàng tinh  tế, tài hoa  và  không  kém phần  hóm hỉnh  của một
cây bút có nền  lý luận  vững  chắc. Trong  nền  lý luận  phê  bình hiện đại  Việt
Nam, Hoài Thanh là tác giả hiếm  hoi để lại được ấn tượng  và  lòng  yêu mến
đối với bạn đọc nhiều thế hệ.
– Một thời đại trong thi ca là bài tổng luận có tính khái quát của Hoài Thanh
về Phong trào Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Tuy chỉ là một bài Tổng
luận dung lượng  không dài,  nhưng đây được  coi là  một trong  những công trình
nghiên cứu phê  bình  sâu  sắc  nhất  trong  lịch  sử  nghiên  cứu  phê  bình  văn  học  ở
nước ta từ trước tới nay về một trào lưu. Đoạn trích trong sách giáo khoa nằm ở
phần cuối,  tập  trung  vào vấn đề cốt tuỷ  của  Thơ mới,  trả lời trực  tiếp  câu hỏi :
Tinh thần Thơ mới là gì ?
II - PHÂN TÍCH 
    102
1. Phê bình văn học là gì ? Sự khác nhau giữa phê bình văn học và phê bình
khoa học qua tác phẩm của Hoài Thanh
– Trước khi đi vào phân tích tinh thần cốt lõi của đoạn văn, ta nên trở lại một
chút với đặc điểm của thể loại phê bình văn học, bởi phải hiểu được đặc trưng của
thể loại này, ta mới hiểu được đúng tinh thần bài viết của Hoài Thanh ; sau nữa,
chúng ta cũng cần phân biệt sự khác nhau của phê bình văn học và phê bình khoa
học, phải nhận thức đúng những khái niệm này, mới hiểu được đúng bài viết của
Hoài Thanh.  Trước  hết, phải trả lời câu hỏi, phê bình  văn học là   gì ? Phần Tri
thức đọc - hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 Nâng cao, viết :  “Phê bình văn
học là một bộ phận của văn học, có chức năng phẩm bình, đánh giá và lí giải các
hiện tượng văn học như tác phẩm, tác giả, khuynh hướng trào lưu văn học”. Căn
cứ vào định  nghĩa  này, ta  hoàn toàn có thể xếp  Một thời đại trong thi ca vào
loại tác phẩm phê bình  trào  lưu văn học. Thơ mới tuy không  hẳn  là  một trào
lưu giống như  lãng mạn, hiện thực  hay tượng trưng…, nhưng  nó cũng ra đời
trên  một  cơ  sở  xã  hội  nhất  định,  cũng  có  những  điểm  chung,  tập  hợp  được
nhiều nhà thơ có cùng một chí hướng.
– Về sự khác nhau giữa phê bình văn học và phê bình  khoa học, có thể nói
ngắn  gọn thế này  : Trong khi phê  bình khoa học  bộc lộ trước  hết ở những luận
điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất của sự vật, thì phê bình văn học,
ngoài những tính chất trên, còn yêu cầu người viết phải thể hiện được dấu ấn cá
nhân mang đậm màu sắc chủ quan, văn phong phải giàu cảm xúc và hình ảnh.
2. Sự khác nhau giữa Thơ cũ và Thơ mới
– Có thể chia đoạn trích làm ba đoạn với các ý chính như sau :
+ Đoạn 1, từ đầu đến… “những chỗ khác nhau” : Quan niệm của tác giả về sự
khác nhau giữa thơ cũ và thơ mới.
+ Đoạn 2, từ “ngày thứ nhất” đến “hết thảy chúng ta” : Tinh thần cốt lõi của
thơ mới, cái Tôi của thơ mới.
+ Đoạn 3, từ “Đời chúng ta” đến hết : Sắc thái cá nhân trong cái Tôi của thơ
mới, linh hồn của thơ mới, tiếng Việt và thơ mới.
– Theo Hoài Thanh, cái gọi là khác nhau giữa Thơ cũ (thơ Việt Nam tính từ
thời điểm trước khi bài Tình già của Phan Khôi được công bố ngày 10 tháng 3
năm 1932), và Thơ mới không phải ở vấn đề “hay” hay “dở”, bởi thời đại nào
  103
cũng có cả hai loại thơ trên ; cũng không chỉ căn cứ vào “tiểu tiết” (Nếu đọc hai
câu thơ của Xuân Diệu và Bà Huyện Thanh Quan sau đây thật sẽ khó xác định ai
mới hơn ai : “Người giai nhân : bến đợi dưới cây già - Tình du khách : thuyền
qua không buộc chặt” - Xuân Diệu ; và : “Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ ! - Ai
thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ” – Bà Huyện Thanh Quan) mà là trên “đại thể”. Và
trên đại thể, hay nói cách khác, trên tinh thần chung, sự khác nhau trong thơ ca
giữa hai thời kỳ, “có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ
ta, bây giờ là thời chữ tôi”. Tôi và Ta tuy vẫn có những chỗ giống nhau, nhưng
tinh thần cơ bản của nó là khác nhau. Đi tìm tinh thần Thơ mới thực chất là tìm
những cái khác nhau đó.
3. Cái Tôi của Thơ mới
– Để hiểu được đầy đủ cái tôi Thơ mới, Hoài Thanh đồng thời cũng xác định
bản chất cốt lõi của  hai khái  niệm  : cái  ta và cái tôi. Theo ông,  cái ta  là ý thức
đoàn thể, là chữ dùng chung cho nhiều người, ở thời phong kiến, cái ta gần như
thống lĩnh, chi phối mọi hoạt động của con người (nói gần như, vì ngay trong văn
học thời phong kiến vẫn có những nhà thơ bộc bạch cái tôi một cách công khai,
Nguyễn Công Trứ là một ví dụ tiêu biểu). Vì thế khi cái tôi xuất hiện công khai
trên văn đàn Thơ mới, Hoài Thanh khẳng định, “nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài
nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này : quan
niệm cá nhân”.
–  Vậy  thực  chất cái  tôi  của  Thơ  mới, linh  hồn  của  Thơ  mới,  suy  cho  cùng
chính  là  cái  cá  nhân  (individu).  Xã  hội  Việt  Nam  thời  phong  kiến  không  phải
không  có cá  nhân, mà theo  Hoài Thanh,  “cá  nhân  chìm  đắm trong  gia đình,
trong  quốc  gia  như  giọt  nước  trong  biển  cả”.  Bởi thế,  “khi  chữ  tôi,  với  cái
nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn  Việt Nam, bao nhiêu con mắt
nhìn nó một cách khó chịu”.
– Rồi một ngày, dưới con mắt của mọi người, cái tôi quen dần, nó không còn
xa lạ bỡ ngỡ nữa. Thậm chí, người ta còn thấy nó “đáng thương”, “Thi nhân ta cơ
hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm
hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi”. Thoát ra khỏi cái ta, núp mình
trong cái vỏ chữ tôi, các nhà Thơ mới liệu có tìm thấy hai chữ yên bình ? Chúng ta
hãy tiếp tục theo dõi Hoài Thanh giải thích…
    104
4.  Cái được và cái mất, ưu điểm và hạn chế của cái Tôi trong Thơ mới
– Từng có thời kì, không ít nhà nghiên cứu Việt Nam, khi viết về cái tôi của
Thơ mới, thường phê phán, phủ định, thậm chí có ý kiến rất quyết liệt. Cái tôi Thơ
mới thực ra có “xấu” quá không ? Đóng góp của cái tôi Thơ mới cho nền thơ ca
Việt Nam hiện đại như thế nào ? Đó cũng chính là mối quan tâm của Hoài Thanh
trong Một thời đại trong thi ca. Tuy nhiên, trước tiên, chúng ta hãy theo dõi phần
kết của đoạn trích.
– Mở đầu phần kết, Hoài Thanh viết : “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ
tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên
cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã
khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
–  Nhiều nhà  nghiên  cứu thống  nhất rằng,  đây  là  một trong những đoạn  văn
phê bình hay nhất của Hoài Thanh, hay không chỉ vì, chất thơ của phê bình chan
chứa trong đoạn văn này, cũng không chỉ vì qua đoạn văn, Hoài Thanh gần như đã
bộc lộ đầy đủ phong cách phê bình của ông ; mà còn vì, chỉ qua mấy dòng phác
hoạ, ông đã thâu tóm được gần như toàn bộ “hồn cốt” sự phong phú, đa dạng của
cái tôi Thơ mới. Trong phần đầu công trình Một thời đại trong thi ca, không có ở
đoạn trích này, Hoài Thanh cho rằng, chỉ trong vòng mười năm, mà Thơ mới nước
ta đã đi bằng cả chặng đường hàng trăm năm trong thơ Pháp. Điều đó đúng, bởi
thơ ca lãng mạn, tượng trưng Pháp tồn tại và phát triển trong suốt cả thế kỉ XIX,
trong khi đó Thơ mới Việt Nam chỉ “ồn ào” trong vòng mười năm (1932 - 1942).
Tuy nhiên, chỉ với mười năm ấy, Thơ mới nước ta đã kịp làm một cuộc “lột xác”
đầy ngoạn mục. Và có cuộc lột xác nào lại không đau đớn ?  Hoài Thanh đã rất
tinh tế để nhìn ra được điều đó. Ông gọi đích danh nó là “bi kịch”, thứ “bi kịch
đương  diễn  ngấm  ngầm,  dưới  những  phù  hiệu  dễ  dãi,  trong  hồn  người  thanh
niên”.
III - KẾT LUẬN   
Tuy  nhiên,  chúng  ta  không  nên coi  cái  gọi  là bi  kịch  mà Hoài  Thanh  định
danh mang ý nghĩa tiêu cực, là một thất bại. Hoài Thanh sẽ giải thích  rõ hơn điều
này : Những thay đổi quá lớn trong chặng đường đi quá ngắn khiến Thơ mới chưa
kịp chuẩn bị đầy đủ hành trang cho mình. “Ta bàng hoàng vì nhìn vào đó, ta thấy
  105
thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác : một lòng tin đầy đủ”. Và
trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng : “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu
vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn
tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”… Điểm cốt lõi Hoài Thanh muốn
đi đến  kết  luận  về đóng  góp  của  Thơ  mới cho nền thơ  ca  Việt Nam  chính  là ở
điểm này. Đặt trong hoàn cảnh đương thời, khi xã hội Việt Nam đang đắm chìm
trong nô lệ, người dân chịu cảnh lầm than, kéo con người trở về với tình yêu tiếng
Việt cũng là một cách Thơ mới thể hiện tình yêu đất nước. Và ở đó có phần công
lao của Hoài Thanh.
KHáI QUáT VĂN HọC VIệT NAM Từ Cách mạng tháng Tám
1945 ĐếN HếT THế Kỷ XX
 
A - DẠNG ĐỀ
Trình bày ngắn gọn đặc điểm của văn học cách mạng Việt Nam thời điểm từ
năm 1945 đến năm 1975 (Dạng câu 2 điểm).
 
Một số lưu ý : Đây là bài học thuộc dạng nghị luận văn học. Trong tình huống
ra đề, nó có thể được sử dụng cho dạng câu 2 hoặc 3 điểm. Tuỳ thuộc vào đó, yêu
cầu khái quát từng chặng đường của văn học cũng sẽ được nêu ra. Chẳng hạn, đề
ra có thể chỉ yêu cầu học sinh nêu ngắn gọn thành tựu của văn học Việt Nam từ
1964 đến 1975, hoặc một giai đoạn khác. Bài học này tuy không khó, nhưng học
sinh lại cần phải nhớ chính xác chi tiết để trả lời trực tiếp vào yêu cầu cụ thể của
đề. Trường hợp không nhớ được chi tiết, học sinh chỉ cần dẫn bài học trong sách
giáo khoa thôi cũng chấp nhận được. Kinh nghiệm học những bài thuộc dạng này
thật ra rất đơn giản : học sinh chỉ cần gạch đầu dòng các ý chính và nhẩm trong
đầu sao cho thuộc được các ý chung nhất trong các đề mục. Một cách chi tiết hơn,
SGK Ngữ văn 12,  tập  một đã  có hướng dẫn đầy  đủ,  học  sinh có thể tham  khảo
trong  cuốn  sách  này.  Yêu cầu  bài  làm  thuộc  dạng  này  thường  được  khống  chế
trong số chữ : khoảng từ 300 đến 600 chữ, tuỳ thuộc dạng câu 2 hay 3 điểm.  
B - GỢI Ý LÀM BÀI 
    106
I - KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
ĐẾN NĂM 1975
1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hoá 
– Từ tháng Tám năm 1945 đến năm 1975, văn học Việt Nam hoàn toàn phát
triển  trên  nền  xã  hội  mới, dưới  sự  lãnh  đạo  của  Đảng  Cộng  sản,  thống  nhất về
khuynh hướng tư tưởng, về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới : nhà văn –
chiến sĩ.
– Từ 1945 đến 1975, có nhiều sự kiện  lớn lao : Chiến tranh giải phóng dân
tộc, đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, miền Bắc và sau đó cả nước xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
 2. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu của văn học
a) Từ 1945 đến 1954 
Chủ đề bao trùm của văn học giai đoạn này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân
dân, kêu gọi tinh thần đoàn kết,  tập  trung toàn lực  cho cuộc  kháng chiến chống
Pháp. Các tác phẩm chính : Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt của Tố Hữu, Ngọn quốc
kì,  Hội nghị non  sông của  Xuân Diệu ; Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng của
Trần Đăng ; Đôi mắt, nhật kí Ở rừng của Nam Cao ; Làng của Kim Lân ; Thư nhà
của Hồ Phương ; Vùng mỏ của Võ Huy Tâm ; Kí sự Cao -  Lạng của Nguyễn Huy
Tưởng ; Con trâu của Nguyễn Văn Bổng; Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc ;
Truyện Tây Bắc của Tô Hoài ; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, thơ kháng
chiến của Hồ Chí Minh,…
– Văn học giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu : Tình yêu quê hương đất
nước,  lòng căm thù giặc, ca  ngợi  vẻ đẹp  quê hương  và  con  người  kháng chiến.
Một  số  nhà thơ  có  ý  thức  đổi  mới  thơ  ca  (Nguyễn  Đình  Thi,  Quang Dũng,  Tố
Hữu, Hoàng Cầm,…).
b) Từ 1955 đến 1964 
Chủ đề bao trùm là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhân
vật chính là con người mới với những biến đổi số phận  và tính cách trong cuộc
sống mới. Các tác phẩm chính, văn xuôi có : Mùa lạc của Nguyễn Khải, Sống mãi
với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng,  Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của
Nguyên  Hồng, Cái  sân gạch của  Đào Vũ ; thơ  có : Gió lộng của  Tố Hữu,  Ánh
sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Mồ anh hoa nở
  107
của Thanh Hải, Quê hương của Giang Nam,… Thơ ca kết hợp hài hoà giữa yếu tố
hiện thực và lãng mạn, nói được nỗi đau chia cắt, khát vọng giải phóng đất nước ;
văn xuôi đi sâu hơn vào sự đổi mới của con người và đất nước trong thời kì mới…
c) Từ năm 1965 đến 1975 
Chủ đề bao trùm là cuộc kháng chiến chống Mĩ và tinh thần  yêu nước cách
mạng. Các tác phẩm chính, văn xuôi gồm : Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi,
Mẫn và tôi của Phan Tứ, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Cửa sông, Những
vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Bão biển
của Chu Văn ; thơ gồm : Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường -
Chim  báo  bão  của  Chế  Lan  Viên,  Đầu  súng  trăng  treo  của  Chính  Hữu,  Mặt
đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ; kịch có Thời tiết ngày mai của Xuân
Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,…
Chặng đường này cũng có sự đóng góp của một số công trình lí luận phê bình của
tác giả: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… 
c) Từ 1975 đến nay 
Đất  nước  thống  nhất,  hai  miền  là  một,  đất  nước  phải  vượt  qua  nhiều  thách
thức khó khăn về cả kinh tế và xã hội, nhu cầu đổi mới, hoà nhập với quốc tế, văn
học phát triển đa dạng và phong phú hơn, nhưng cũng phức tạp hơn. Có thể kể ra
đây một số tác phẩm tiêu biểu : Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường
tới  thành phố  của  Hữu  Thỉnh,  Tự hát  của  Xuân  Quỳnh,  Ánh  trăng  của  Nguyễn
Duy, Xúc xắc mùa thu của Hoàng Nhuận Cầm ; văn xuôi có : Đứng trước biển,
Cù  lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Cha và  con và…, Gặp gỡ cuối năm,  Một
người Hà Nội của Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong vườn, Mưa mùa hạ của Ma
Văn  Kháng,  Chiếc  thuyền ngoài xa  của  Nguyễn  Minh  Châu,  Ai  đã đặt  tên  cho
dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ;
kịch có Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân
Trình,… Thật khó có thể thống kê đầy đủ, dù chỉ là những tác phẩm tiêu biểu nhất
của nền văn học nước ta trong nửa thế kỷ qua. Trên đây chỉ là một số tác phẩm quan
trọng nhất.
II  -  MỘT SỐ  NHẬN  XÉT  CHUNG  VỀ  THÀNH  TỰU  VĂN  HỌC  TỪ  1945
ĐẾN NAY
    108
– Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những
truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc : chủ nghĩa nhân đạo, đặc biệt là
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Văn học giai đoạn này cũng đạt được
nhiều thành tựu về nghệ thuật ở nhiều thể loại, đặc biệt là thơ trữ tình và thể loại
truyện ngắn.
– Từ 1975, văn học bước vào thời kì đổi mới, tính đa dạng, nhiều sắc thái của
văn học cũng được phát huy,  ngoài những sáng tác trong nước còn có đóng góp
của  mảng  sáng  tác  của  Việt  kiều,  có  sự  giao  thoa  học  hỏi  ảnh  hưởng  từ  bên
ngoài,… Rất tiếc, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một tổng kết thật sự đầy đủ. 
Tóm lại, tuy đã đạt được nhiều thành tựu, văn học Việt Nam giai đoạn từ 1945
đến nay vẫn chưa có được những đóng góp xứng tầm thời đại. Đặc biệt, nền văn
học từ sau 1975. 
TUYÊN NGÔN ĐộC LậP
    HỒ CHÍ MINH
A - DẠNG ĐỀ
 – Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của Tuyên ngôn Độc lập (đề thi đại
học năm 2007, dạng câu 2 điểm).
– Nêu tóm tắt giá trị lịch sử, giá trị văn học của bản Tuyên ngôn Độc lập của
Hồ Chí Minh (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 3 điểm).
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ MỤC ĐÍCH SÁNG TÁC
1. Hoàn cảnh ra đời 
–  Ngày 19 - 8  - 1945, Cách mạng tháng Tám  thắng  lợi,  chính quyền về tay
nhân dân. Không lâu sau đó, ngày 26 - 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh về lại Hà Nội.
Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh  nước  Việt  Nam  dân  chủ  cộng  hoà.  Ngày  2  -  9  -  1945,  trước  toàn  thể
đồng bào, trước anh em, bạn bè trên thế giới, Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
– Ở thời điểm này, lực lượng đế quốc thực dân bên ngoài vẫn chưa từ bỏ âm
mưu xâm lược nước ta. Chúng nấp sau quân Đồng minh vào nước ta tước vũ khí
  109
của Nhật. Thực dân Pháp tuyên bố, Đông Dương, trong đó có Việt Nam vẫn đang
là  thuộc địa  của  Pháp.  Việt Nam  bị Nhật xâm chiếm,  nay Nhật bị thất bại,  Việt
Nam phải thuộc về Pháp. 
 2. Mục đích sáng tác Tuyên ngôn Độc lập
– Trước tình hình trên, đọc Tuyên ngôn Độc lập, Bác muốn khẳng định trước
toàn thể nhân dân, trước toàn thế giới và trước cả những thế lực thù địch về nền
độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
–  Không chỉ thế,  cũng qua bản Tuyên ngôn,  Hồ Chí Minh tố cáo tội ác  của
thực dân Pháp trong 80 năm qua đối với nhân dân Việt Nam. Với những tội ác đó,
chính  quyền  thực  dân  Pháp  không  đủ  tư  cách  “bảo  hộ”  và  hưởng  đặc  quyền  ở
nước Việt Nam.
 – Để bảo vệ lý lẽ của mình, Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm, ý chí và khả
năng bảo vệ nền độc lập của nhân dân Việt Nam trước bất cứ thế lực  xâm  lược
nào. Đó là một chân lý đã từng được chứng minh trong lịch sử chống ngoại xâm
từ ngàn đời nay của dân tộc.
B - PHÂN TÍCH (nội dung và nghệ thuật của Tuyên ngôn Độc lập)
Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận sắc sảo, thấm đẫm tính nhân
văn, tinh thần  nhân đạo và tính quốc tế.  Là  một nhà  hoạt động cách mạng từng
bôn ba hải ngoại, đặt chân tới nhiều nước khác nhau trên thế giới, biết nhiều thứ
tiếng, lại là một nhà văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại tất cả dấu ấn những đặc
điểm trên trong bản Tuyên ngôn của mình. Đó là một bản văn chính luận súc tích,
sắc  sảo,  thấu  tình  đạt  lý,  thuyết  phục  lòng  người.  Bản  Tuyên  ngôn  có ba  phần
chính : 
1. Cơ sở pháp lí, quốc tế của bản Tuyên ngôn
–  Không  phải  ngẫu  nhiên,  ngay  từ  đầu  bản  Tuyên  ngôn,  Chủ  tịch  Hồ  Chí
Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ làm cơ sở cho bản Tuyên
ngôn của mình. Bản Tuyên ngôn Độc  lập năm 1776 của nước Mỹ  nhấn mạnh  :
“Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng… có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1791 cũng viết : “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi;  và  phải luôn luôn được  tự do, bình đẳng  về  quyền  lợi”.  Dẫn chứng  hai bản
Tuyên ngôn này, Hồ Chí Minh muốn khẳng định tính quốc tế và pháp lý trong bản
    110
Tuyên  ngôn của  mình.  Rõ  ràng,  hai cường quốc  được  coi là  mạnh  nhất  lúc bấy
giờ, Pháp và Mỹ, đều nhấn mạnh quyền được tự do mưu cầu hạnh phúc của mọi
con người, không có lý nào người dân Việt Nam lại nằm ngoài quy luật đó. Đó là
những lý lẽ không ai có quyền chối cãi.   
2. Cơ sở thực tế của bản Tuyên ngôn
a) Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp
– Hồ Chí Minh mở đầu bản cáo trạng này bằng một đoạn văn hết sức ngắn
gọn  :  “Thế  mà  hơn  80  năm  nay,  bọn  thực  dân Pháp  lợi  dụng  lá  cờ  tự  do,  bình
đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Ngắn gọn, súc tích và thuyết phục, những đặc
điểm  cơ bản của loại văn chính luận, đã được Hồ Chí Minh thể  hiện  hết sức  rõ
ràng trong bản Tuyên ngôn này. Người gần như không sử dụng “thừa thãi” vốn từ
ngữ vốn hết sức phong phú ở Người. Những liên từ nối kết các câu văn cũng được
tiết chế tới mức tối đa. Thay vào đó, chỉ là những câu văn ngắn gọn, chứa đầy ắp
nội  dung  mà  cũng  không  kém  phần  biểu  cảm.  Tội  ác  của  thực  dân  Pháp  được
Người chỉ ra qua từng luận điểm hết sức rõ ràng. Một là về chính trị, mang danh
nghĩa “khai  hoá văn minh” cho người Việt Nam, nhưng “chúng tuyệt đối không
cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào”, “Chúng thi hành những luật pháp
dã man”, “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”, “Chúng ràng buộc dư luận,
thi hành chính sách ngu dân”, “dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống
ta suy nhược”. Hai là về kinh tế, “Chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ… Chúng
cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu” ; “độc quyền đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”. Chúng
không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Ba là về xã hội, kể từ mùa thu 1940,
khi Nhật xâm lăng Đông Dương, Pháp đã quỳ gối đầu hàng. Vậy là trên thực tế,
kể từ lúc đó, người dân Việt Nam đã phải chịu hai tầng áp bức. Hèn hạ hơn, khi
Việt Minh kêu gọi hợp tác chống Nhật, Pháp với danh nghĩa bảo hộ cho Việt Nam
đã từ chối thẳng thừng. Sự thật từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của
Nhật.  Chúng ta  giành  lại đất nước  là từ phát  xít Nhật chứ  không phải thực  dân
Pháp.    
 – Không chỉ sử dụng những từ ngữ, câu văn ngắn gọn thuyết phục, Hồ Chí
Minh còn thể hiện rõ phẩm chất nghệ sĩ của mình trong bản Tuyên ngôn. Người
luôn biết cách chọn lựa từ ngữ rất sống động, giàu hình ảnh, biểu cảm. Chẳng hạn,
nói về sự hèn hạ của thực dân Pháp, Bác viết : “Pháp quỳ gối” ; về sự tàn ác, dã
  111
man : “chúng thẳng tay chém giết” ; về sự gian giảo lừa lọc : “chúng lợi dụng lá
cờ tự do, bình đẳng, bác ái”...
b)  Sự trưởng thành và sức mạnh của nhân dân - cơ sở vững chắc bảo vệ nền
độc lập
– Một nước Việt Nam độc lập không chỉ được Hồ Chí Minh chứng minh qua
tội ác  của thực dân Pháp,  mà  còn được Người chỉ ra  qua  tình  yêu đất nước,  sự
trưởng thành và lòng quyết tâm bảo vệ nền độc lập của nhân dân. Từ đầu đến cuối
bản Tuyên ngôn, chúng ta được chứng kiến một hình ảnh nhân dân với lòng yêu
nước nồng nàn, với sự trưởng thành và lớn mạnh qua từng giai đoạn, đó là cơ sở
vững chắc cho niềm tin khẳng định, nền độc lập ấy nhất định sẽ được giữ vững.
– Ở đầu bản Tuyên ngôn, nhân dân ta do bị áp bức nên suy nhược, bần cùng,
nghèo nàn, thiếu thốn, vô cùng cực khổ, đến cả tư sản cũng không ngóc đầu lên
được, “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Nhưng ở phần sau của bản Tuyên
ngôn, Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân đã lớn mạnh. Bằng cứ là chính “nhân
dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”,  nhân dân đã  nổi dậy giành chính
quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với lòng yêu nước từ ngàn đời,
“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên
nước Việt Nam độc lập”. Chỉ có một nhân dân đủ lớn mạnh mới có lòng hào
hiệp, nhân đạo, khoan hồng. Bác viết trong bản Tuyên ngôn : “Sau cuộc biến
động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên
thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng
và tài sản cho họ”.
– Viết về nhân dân, ngòi bút của Bác xúc cảm rung động lạ thường. Bác dùng
những từ ngữ thân thiết khẳng định mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mình với nhân
dân : nhân dân ta, dân cày ta, các nhà tư sản ta… Nói về nỗi đau khổ mà nhân
dân phải chịu đựng, Bác dùng những hình ảnh vô cùng gợi cảm : “chúng bóc lột
dân  ta  đến  xương  tuỷ”,  “chúng  tắm  các  cuộc  khởi  nghĩa  của  ta  trong  các  bể
máu”… Những lời lẽ như tiếng nức nở của Người bày tỏ nỗi thương cảm với nhân
dân. Một nhà thơ Cu-ba sau này đã viết : “Người chết hai triệu lần trong nạn đói
năm 45 khủng khiếp ấy…”.
c) Lời tuyên ngôn sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
– Phần cuối cùng bản Tuyên ngôn là tuyên bố của Hồ Chí Minh trước toàn thể
đồng bào, đồng chí, trước nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới và trước tất cả mọi
người về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sau những lời lẽ ngắn
    112
gọn, đanh thép tố cáo tội ác thực dân Pháp, những lời lẽ thân thiết, dịu dàng với
nhân dân Việt Nam, lời tuyên bố về nền độc lập và quyết tâm bảo vệ nền độc của
nhân dân có sự kết hợp cả hai sắc thái đó. Giọng văn của Người hết sức hùng hồn.
Người khẳng định : “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp  hơn 80
năm  nay,  một dân  tộc đã  gan  góc đứng  về  phe  Đồng  minh  chống  phát  xít  mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !”.
– Những tuyên bố của Hồ Chí Minh là sự khẳng định lòng quyết tâm, là kết
tinh vẻ đẹp của lòng  yêu nước,  tinh thần đoàn kết từ ngàn đời của dân tộc  Việt
Nam. Hồ Chí Minh, người viết bản Tuyên ngôn là người đại diện tiêu biểu nhất.
III -  KẾT LUẬN : Giá trị lịch sử, văn học của bản Tuyên ngôn Độc lập
1. Giá trị lịch sử
 – Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa
của dân tộc Việt Nam về quyền tự do, độc lập, đồng thời cũng là kết quả tất yếu
của quá trình đấu tranh gần một trăm năm của dân tộc ta để thực hiện được quyền
thiêng liêng đó.
 – Bản Tuyên ngôn đã chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến kéo dài hàng
trăm năm trên đất nước ta và mở ra một kỷ nguyên mới : Kỷ nguyên Tự do và
Độc lập.
2. Giá trị văn học
 –  Cùng  với  bài  thơ  Thần  của  Lý  Thường  Kiệt  (?),  Đại  cáo  bình  Ngô  của
Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là một áng văn chương yêu
nước của thời đại mới và của mọi thời đại. Tác phẩm khẳng định mạnh mẽ quyền
độc lập dân tộc gắn với quyền sống của  con người ; nêu  cao truyền thống nhân
đạo, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam.
– Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng của
tác phẩm ngắn gọn, cô đọng giúp cho người đọc tiếp cận với nó một cách dễ dàng.
Kết cấu tác phẩm mạch lạc, chặt chẽ ; chứng cứ, luận điểm xác thực, rõ ràng; lời
lẽ thuyết phục ; ngôn ngữ vừa kết hợp giọng điệu chính luận, vừa  kết hợp được
giọng điệu văn chương. Tuyên ngôn Độc lập là một trong những áng văn có giá trị
trong nền văn chương Việt Nam hiện đại. 
  
 
  113
NGUYễN ĐìNH CHIểU, NGÔI SAO SáNG TRONG VĂN
NGHệ của DÂN TộC
PHẠM VĂN ĐỒNG
A - DẠNG ĐỀ  
–  Giải  thích  và  chứng  minh nhận  xét dưới đây  của  tác giả  Phạm  Văn  Đồng:
“Ngôi sao nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ
hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”.
– Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu vẫn không xa lạ với giới trẻ ngày nay, và
việc  học  những  tác  phẩm  như  Văn  tế  nghĩa  sĩ  Cần  Giuộc  của  ông  ở  nhà
trường là điều rất bổ ích. Hãy viết một bài văn nghị luận để bày tỏ ý kiến của
mình về vấn đề trên.
Một số lưu ý : Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
là  văn bản thuộc dạng  nghị  luận văn  học.  Tác phẩm  được thủ tướng Phạm  Văn
Đồng  viết  nhân  kỉ  niệm  75 năm  ngày  mất  của  nhà  thơ  yêu  nước  Nguyễn  Đình
Chiểu. Viết tác phẩm này, Phạm Văn Đồng không chỉ bày tỏ sự ngưỡng mộ của
một độc giả yêu văn chương với một nhà thơ tài năng, tâm huyết của dân tộc, mà
còn với tư cách một nhà  lãnh đạo, nhà  giáo dục chỉ ra con đường phát triển của
nền văn nghệ nước nhà trong thời kì mới. Vì lẽ đó, tác phẩm này có thể được vận
dụng linh  hoạt trong một số dạng đề khác  nhau. Có  thể, đề ra  yêu cầu học sinh
phân tích văn bản để chỉ ra những đóng góp của nhà thơ  yêu nước Nam Bộ cho
nền văn học đất nước;  hoặc qua việc phân tích văn bản tác phẩm, hãy chỉ ra quan
niệm sáng tác của tác giả… Khi học tác phẩm này, ít hay nhiều học sinh phải nắm
được một số điểm chính trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ yêu nước Nam Bộ,
nắm được quan điểm sáng tác văn nghệ của Nguyễn Đình Chiểu qua câu thơ rất
quen thuộc : “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà” ; thậm chí cũng có thể, đề thi chỉ yêu cầu học sinh giải thích ngay nhan
đề bài viết, tại sao Phạm Văn Đồng lại đặt nhan đề cho bài viết của mình là Nguyễn
Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong nền văn nghệ của  dân tộc ?
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
    114
Phạm Văn Đồng (1906 - 2000) là một nhà trí thức cách mạng lớn của nước ta
trong thế kỉ XX, tên tuổi của ông luôn được đặt bên cạnh một nhà yêu nước cách
mạng mà không ai là người Việt Nam chân chính đều không biết, đó là chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại. 
Không chỉ là nhà hoạt động cách mạng, ông còn là nhà lí luận văn hoá nghệ
thuật rất tâm huyết với nền giáo dục nước nhà. Năm 1963, nhân kỉ niệm lần thứ
75 ngày  sinh  nhà thơ  Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng đã  viết bài Nguyễn
Đình Chiểu, ngôi  sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Bài viết này  in  lần đầu
tiên trên Tạp chí Văn học tháng 7 năm 1963.
II - PHÂN TÍCH  
1. Tại sao Nguyễn Đình Chiểu lại là ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc? 
– Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc thuộc dạng
tác phẩm nghị luận văn học, vì vậy yêu cầu cô đúc, rõ ràng, khúc chiết của thể văn
này được đặt lên hàng đầu. Điều đó đã được thực hiện một cách triệt để trong tác
phẩm của nhà lí luận văn học “không chuyên” Phạm Văn Đồng. Quả nhiên, ông là
một nhà  hoạt động chính trị  nhiều  hơn là một nhà nghiên cứu văn chương.  Tuy
nhiên, có lẽ nhờ vậy, bài viết của nhà lí luận không chuyên này lại sắc sảo hơn.
Ông không sa đà, dài dòng, mọi lí lẽ, luận điểm đưa ra trong bài đều hết sức hợp
lí, chặt chẽ.
–  Mở  đầu  bài  viết,  tác  giả  đưa  ra  một  nhận  xét  hết  ngắn  gọn    :  “Ngôi  sao
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa
trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”. Một nhận xét hết sức
ngắn gọn, nhưng lại nhiều ẩn ý. Để hiểu được đầy đủ ẩn ý này, ta không thể không
trở lại thời điểm Phạm Văn Đồng viết tác phẩm này. Có hai chi tiết cần phải được
chú ý : Về bối cảnh xã hội, đó là thời điểm nước ta đang bị chia cắt làm hai miền,
quê hương nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, vùng đất Đồng Nai, và nói rộng hơn là
vùng đất miền Nam, người dân đang rên xiết dưới ách kìm kẹp của chính quyền
Mĩ – Diệm ; về Nguyễn Đình Chiểu, đây là lần thứ 75 năm sinh nhà thơ, “vì sao
có ánh sáng khác thường” giữa các ngôi sao trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Giải
thích tại sao lại ví Nguyễn Đình Chiểu là vì sao có ánh sáng khác thường, tác giả
Phạm  Văn  Đồng  đưa  ra  những  lí  lẽ  vô  cùng  xác  đáng  :  Một  là,  Nguyễn  Đình
Chiểu không chỉ  là  tác  giả của  duy nhất tác phẩm Lục  Vân Tiên,  một trường ca
dân gian mà không người dân Nam Bộ nào lại không biết đến ; hai là, do tính chất
đặc thù của kiểu sáng tác văn chương Nam Bộ, do tính lịch sử, Lục Vân Tiên chưa
  115
hẳn đã được đánh giá đúng ở tất cả mọi người đọc khác nhau ; ba là, phần thơ văn
yêu nước của nhà thơ này còn được ít người biết đến… Chỉ sau khi đưa ra những
lí  lẽ thuyết phục trên,  Phạm  Văn Đồng mới thực sự đi  vào mạch chính của bài
viết. Ông lần lượt lí giải tuần tự ba vấn đề chính đã được đặt ra ở đoạn mở đầu :
Một là cuộc  sống và  quan niệm nghệ thuật của nhà thơ ;  hai là  nội dung, nghệ
thuật thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ; ba là giá trị đích thực của tác
phẩm Lục Vân Tiên.
2. Con người và quan điểm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
– Để chứng minh tính xác thực của mệnh đề Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao
sáng trong nền văn nghệ của dân tộc, Phạm Văn Đồng bắt đầu bằng cuộc đời và
sự  nghiệp của chính  nhà thơ.  Nguyễn Đình Chiểu  xuất thân trong một gia  đình
nhà nho ở vùng đất Đồng Nai giàu truyền thống  cách mạng, dưới thời đất nước
đang lâm nguy, vua quan nhà Nguyễn cam tâm bán nước cho giặc. Bị mù cả hai
mắt  vì  khóc  thương  mẹ, Nguyễn  Đình  Chiểu  vẫn  nêu  cao  tấm  gương  yêu nước
chống giặc của mình. Ông không chỉ thể hiện lòng yêu đất nước bằng hành động
cụ thể (bất hợp tác tuyệt đối với Pháp), mà còn sáng tác thơ văn, coi việc cầm bút
là một thiên chức của nhà văn. Hai câu thơ dưới đây của Nguyễn Đình Chiểu từ
lâu đã được coi là quan điểm chính thống của nền văn học cách mạng: “Chở bao
nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
3. Giá trị đích thực sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu
– Phải sau khi đã trình bày đủ lí lẽ của mình, Phạm Văn Đồng mới triển khai
phần  nội  dung  chính  của  bài  nghị  luận.  Một điều  hết  sức  đặc  biệt  trong  phong
cách của nhà lí luận không chuyên này là ông triển khai ý tứ cho bài viết của mình
có phần hơi khác thường : Những lí lẽ được triển khai ở phần chính như là sự lặp
lại phần đầu nhưng không hẳn như thế. Đúng ra, đó là sự cố tình của người viết :
luận  điểm  đưa  ra  ở  phần  đầu  được  lặp  lại  nhưng  ở  mức  độ  nâng  cao,  đào  sâu
những ý tứ đã được nêu ở trên. Tác giả sử dụng phép lặp như một thao tác “dư
thừa” cố tình trong nghệ thuật. Chúng ta hãy hình dung một cách hình ảnh thế này
để hiểu rõ hơn phong cách phê bình của tác giả : ban đầu ông bóc tách toàn bộ bề
mặt đối tượng hiện thực để người xem nhìn thấy, sau đó mới chỉ ra những chi tiết
bên trong của hiện thực để người xem tin và thuyết phục hơn… Ánh sáng khác
thường của ngôi  sao  Nguyễn Đình Chiểu đã được  chiếu lên bầu trời cho người
xem quan sát theo một cách thức như vậy.
    116
– Ở phần thứ hai, nhà phê bình trở lại những dẫn chứng về cuộc đời của nhà
thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Phạm Văn Đồng không tách con người và sự
nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ra  khỏi mảnh đất quê hương ông. Nghĩa là,
tác giả muốn chứng minh rằng, không phải ngẫu nhiên, vùng đất Nam Bộ ấy lại
sinh ra được một người con đặc biệt, một ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ
của  dân  tộc  như  Nguyễn  Đình  Chiểu.  Ngay  từ  năm  1862,  khi  triều  đình  nhà
Nguyễn đầu hàng giặc Pháp, cắt cả sáu tỉnh miền Đông và miền Tây cho chúng,
hàng loạt phong trào khởi nghĩa đã được dấy lên : khởi nghĩa Trương Định ở Gò
Công, Thủ Khoa  Huân  ở Mĩ  Tho,  Phan  Liêm  và  Phan  Tôn  ở  Bến  Tre,  Nguyễn
Trung Trực ở Rạch Giá,… Chính những phong trào yêu nước ấy là  cái  nôi khai
sinh ra nền văn chương yêu nước Nam Bộ. Nó dân dã, mộc mạc vì nó là tâm hồn
của  nhân dân,  dân  tộc.  Nguyễn  Đình  Chiểu  đã  được  khai  sinh  trên  cái  nền bối
cảnh thuyết phục ấy. Để những lí lẽ của mình thuyết phục hơn, tiếp sau đó, Phạm
Văn Đồng so  sánh văn thơ  Nguyễn Đình  Chiểu với hồn thơ  dân tộc.  Đã từ lâu,
trên mảnh đất kiên cường Nam Bộ, người dân thuộc làm lòng những lời hịch của
dân gian : “Bớ các quan ơi, chớ thấy chín trùng hoà nghị mà tấm lòng địch khái
nỡ  phôi  pha,  cho  rằng  ba  tỉnh  giao  hoà  mà  cái  việc  cừu  thù  đành  lơ  lảng  !...”.
Nhiều năm sau, khi những câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu vang lên, ta như được
nghe lại lời hịch ngày xưa :  “Hỡi ôi ! Súng giặc đất rền ; lòng dân trời tỏ… Thác
mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen ; thác mà ưng
đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ…”. Hai đoạn hịch ở hai
thời kì, được viết bởi hai tác giả khác  nhau, nhưng lại tuyệt đối giống nhau ở
“hồn vía” tâm hồn, tư tưởng : Đó là vẻ đẹp của lòng yêu nước.
– Tuy nhiên, thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ dừng lại ở
sự  đúc  kết  tâm  hồn,  tư  tưởng  cha  ông,  nghĩa  là  không  chỉ  dừng  lại  ở  lời  hịch.
Nguyễn  Đình  Chiểu  còn  có  một  mảng  văn  thơ  yêu  nước  khác,  theo  Phạm  Văn
Đồng cũng rất đáng được trân trọng. Nó không chỉ có giá trị về mặt nội dung, mà
còn lắng đọng trong  lòng người đọc vẻ đẹp của phẩm chất nghệ thuật. Nó “như
những đoá hoa, những hòn ngọc rất đẹp”, vừa như đúc kết vẻ đẹp tâm hồn của cha
ông, lại vừa  là sự thăng hoa vẻ đẹp thời đại Nguyễn Đình Chiểu : “Hoa cỏ ngùi
ngùi ngắm gió đông - Chúa xuân đâu hỡi có hay không ? - Mây giăng ải bắc trông
tin nhạn - Ngày xế non nam bặt tiếng hồng - Bờ cõi xưa đà chia đất khác - Nắng
sương nay há đội trời chung” (Xúc cảnh)… Rõ ràng, mạch lạc, khúc chiết, Phạm
Văn Đồng đã lần lượt phân tích lí giải những vấn đề đã được ông đặt ra từ đầu bài
viết của  ông.  Đến phần  này, ông dành  gần một trang chỉ ra  vẻ đẹp  nội dung  và
nghệ thuật của tác phẩm Lục Vân Tiên mà ông cho rằng nó là quan trọng nhất làm
  117
nên giá trị sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng,
do tính đặc thù của dòng văn chương yêu nước Nam Bộ, do bối cảnh lịch sử khác
nhau, không phải bất cứ ai, sống ở thời kì nào, trên vùng đất nào, cũng đều có thể
dễ dàng  sẻ  chia  và  đồng  cảm.  Đến  đây,  Phạm  Văn  Đồng  mới  quay  trở  lại  giải
thích cho lý lẽ được đặt ra từ đầu. Đó là “thứ ánh sáng khác thường phải chăm chú
nhìn mới thấy” trong sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Với tư cách một người con của mảnh đất thành đồng miền Nam, lại trong
vai trò một người lãnh đạo Đảng và Nhà nước, khi phân tích giá trị tác phẩm Lục
Vân Tiên, Phạm Văn Đồng chỉ ra tính gắn bó giữa tác phẩm văn nghệ và hiện thực
của  “kiệt  tác”  này.  Trước  hết  về  nội  dung  của  nó,  ông  viết:  “Đây  là  một  bản
trường  ca,  ca  ngợi  chính  nghĩa,  những  đạo đức  đáng  quý  trọng  ở  đời,  ca  ngợi
những  người  trung nghĩa  !”. Đặt  trong bối cảnh  thời  gian  tác  giả  Nguyễn  Đình
Chiểu viết  Lục  Vân Tiên,  đây  là  một luận điểm hết  sức  quan  trọng. Phạm  Văn
Đồng chỉ rõ, giữa lúc nhân tình thế thái là sự mỉa mai với triết lý Khổng – Mạnh,
thì kiểu nhân vật trọng nghĩa khinh tài như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
rất đáng được  trân trọng, nâng  niu. Nếu đặt trong bối cảnh thời  gian Phạm  Văn
Đồng viết bài nghị luận này, ta lại thấy thêm cái ẩn ý, tinh tế của nhà lãnh đạo đất
nước,  và  hiểu được  câu  mở đầu  văn bản của  ông, ngôi sao  Nguyễn Đình Chiểu
“đáng  lẽ  phải  sáng  tỏ  hơn”…  trong  lúc  này.  Hãy  đặt  cả  hai  tác  giả  Phạm  Văn
Đồng và Nguyễn Đình Chiểu vào đúng văn cảnh, ta mới càng thấy thấm thía hơn.
Nguyễn Đình Chiểu suốt đời đau đáu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm...”,
còn Phạm văn Đồng, rất giống với lãnh tụ Hồ Chí Minh, bao giờ cũng coi văn thơ
là một hành vi cách mạng, hành vi chính trị, nên nếu có nhấn mạnh hơn tính thực
tiễn của văn chương là điều không khó hiểu gì. Huống chi, theo Phạm Văn Đồng,
“Về  văn  chương  của  Lục  Vân  Tiên,  phải  để  ý  đây  là  một  chuyện  “kể”,  chuyện
“nói”. Tác giả cố ý viết một lối văn nôm na, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá rộng
rãi trong dân gian”, tính nghệ thuật thuần tuý mà ai đó cần, thiết tưởng chẳng phải
là  điều quan trọng nhất… Đây  là  lí do tại sao, ngay từ câu mở đầu bài viết của
mình, nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước có vẻ đôi chút băn khoăn : ngôi sao sáng
Nguyễn Đình Chiểu “đáng lẽ ra phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của
dân tộc, nhất là trong lúc này”.
III - KẾT LUẬN
    118
– Vẫn nhất quán về phong cách với thể văn nghị luận và với lối viết độc đáo
riêng của mình, luôn kết hợp hài hoà những lí lẽ xác đáng và tình cảm nồng hậu
của một nhà cách mạng bàn về văn chương, sau khi lần lượt lí giải cho người đọc
hiểu lí do viết tác phẩm nghị luận này, Phạm Văn Đồng đã tổng kết toàn bộ con
người  và  sự  nghiêp  thơ  văn  Nguyễn  Đình  Chiểu  chỉ  bằng  vài  dòng  ngắn  gọn  :
“Tóm lại nguyễn Đình Chiểu là một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta.
Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu  là một tấm gương sáng, nêu cao địa
vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt
trận văn hoá và tư tưởng”.
– Phạm Văn Đồng cũng không quên khẳng định, nhân 75 năm ngày sinh của
nhà thơ yêu nước Nam Bộ và của dân tộc ta, theo phong tục cha ông, nhân danh
người hôm nay, ông đốt lên một nén tâm hương để tưởng nhớ “người xưa”.
 
 
TÂY TIếN 
            QUANG DŨNG
A - DẠNG ĐỀ 
– Hoàn cảnh ra đời của bài thơ, nhan đề bài thơ Tây Tiến. 
– Bình giảng khổ thơ : 
+ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm...”
+ “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy…”
+ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...”
+ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ...”
 Một số lưu ý : Tây Tiến là bài thơ hết sức đặc biệt của Quang Dũng được đưa
vào giảng dạy trong chương trình và nhiều năm được chọn làm đề thi. Đặc biệt vì
bài thơ từng có một số phận không may mắn và suôn sẻ khi xuất hiện lần đầu trên
báo Vệ Quốc Đoàn, từng bị phê phán là đã “chinh phu hoá” hình ảnh người lính
cách  mạng.  Nhà  thơ  Quang  Dũng  đã  phải  chịu  nhiều  thiệt  thòi,  do  có  thời  kỳ,
người  ta  không  hiểu  đúng  bài  thơ  này.  Tuy  nhiên,  khi  được  hiểu  đúng  lại,  Tây
  119
Tiến lại gần như liên tục chiếm vị trí quan trọng trong phần thơ kháng chiến của
sách giáo khoa, tình huống đề thi với bài thơ này cũng khá nhiều : ngoài đề kiểm
tra kiến thức về hoàn cảnh ra đời, tên tác phẩm, còn có ít nhất bốn khổ thơ được
chọn cho dạng đề phân tích, bình giảng. Ngoài ra, còn có thể có tình huống ra đề
khái quát như : Hình ảnh người lính trong Tây Tiến. Với dạng đề này, khi làm bài
học sinh nên vận dụng ý chung từ các đoạn thơ, so sánh thêm chút ít với hình ảnh
người  lính trong bài Đồng chí của  Chính  Hữu để cho bài viết sâu sắc  và phong
phú (thực  chất,  điểm  khác  nhau giữa  Đồng chí của Chính  Hữu và  Tây  Tiến của
Quang Dũng  là người lính nông dân và người lính thành thị).
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - Giới thiệu tác phẩm
– Tây  Tiến là  bài thơ  dài gồm 34 dòng,  chia  làm bốn đoạn, bốn câu cuối là
khúc vĩ thanh. Trong lần in đầu, Tây Tiến không có khổ thơ thứ hai. Khi mới công
bố lần đầu tiên năm 1948, bài thơ có nhan đề là Nhớ Tây Tiến, đến 1957, nhà thơ
bỏ chữ nhớ, còn hai chữ Tây Tiến. Theo tác giả thì Tây Tiến đã trở thành một kỉ
niệm, và hơn thế nó trở thành ký ức của thế hệ thanh niên chống Pháp, nó gợi lại
một thời kỳ lịch sử hào hùng. 
– Mùa xuân năm 1947 nhà thơ Quang Dũng ra nhập đoàn quân Tây Tiến. Tây
Tiến là một đơn vị đặc nhiệm được phiên chế tương đương một trung đoàn. Với
phiên hiệu số 54, các chiến sĩ Tây Tiến đa số là học sinh, sinh viên người Hà Nội
vì thế  ngoài  lòng dũng cảm  vượt khó xả thân  vì công  việc  họ còn mang phong
cách hào hoa phong nhã. Lúc ấy Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đơn vị
Tây Tiến.
– Đơn vị Tây Tiến được  giao một nhiệm  vụ đặc biệt đó là hoạt động tuyên
truyền vũ trang, địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến rất rộng từ khu Ba, qua
vùng Tây Bắc, sang tận Bắc Lào. Đơn vị Tây Tiến hoạt động trong điều kiện hết
sức gian khổ (thiếu lương thực, thiếu quần áo, thiếu thuốc men  và khó khăn lớn
nhất với người lính Tây Tiến là căn bệnh sốt rét rừng).
– Khoảng giữa năm 1948 sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị Tây Tiến được
lệnh rút về phía sau (hậu phương), Quang Dũng sau đó chuyển sang đơn vị khác.
Nỗi nhớ về đơn vị Tây Tiến, về đồng đội (cả những người còn, những người đã
mất) đã thôi thúc nhà thơ hoàn thành tác phẩm Tây Tiến. Theo lời nhà thơ thì bài
    120
thơ Tây Tiến gợi lại cái hào khí của lãng mạn một thời. Bài thơ Tây Tiến đã trải
qua những thăng trầm, có thời gian khá dài (30 năm) nó đã bị cố tính lãng quên.
II - Bình giảng
1. Khổ 1:  “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm...”
– Bài thơ Tây Tiến có thể được chia làm ba khổ lớn. Khổ thơ đầu chủ yếu nói
về rừng  núi miền Tây,  những  kỷ  niệm  về  các  chặng đường  hành quân cheo  leo
trên núi cao, bên vực thẳm, đi trong mây mù, trong hương hoa của núi rừng. Mở
đầu bài thơ tác giả viết :         
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
– Tất cả dường như đã lùi vào kỷ niệm và tất cả kỷ niệm đã trở về trong cảm
xúc nhớ thương đến mức tác giả không kìm nén được. Con sông Mã chảy dọc từ
thượng Lào về đất Việt là một hình ảnh đẹp, chứng kiến những vui buồn của cuộc
đời người chiến binh  và  có lúc dòng sông cũng  như  gầm  lên  những rung cảm  :
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
– Với bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã miêu tả rừng núi miền Tây với vẻ
đẹp hùng vĩ và nên thơ. Bước trường chinh đầy thử thách như được tô đậm thêm,
không làm cho cảnh tượng thêm xa  lạ mà chỉ làm cho những màu sắc của thiên
nhiên  như được nhân  lên. Chặng đường hành quân được miêu tả chân thực  đến
mức những kỷ niệm trở về với hiện tại và con người như đang trực tiếp trải qua
những thử thách. Hành quân giữa rừng núi có hương hoa rừng và chặng đường mù
sương.  Con  đường  đi  lên  mù  mịt.  Câu  thơ  với  nhịp  điệu  tiếp  nối  liên  tục  của
những thanh trắc đẩy lên chiều cao vòi vọi :
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
“Súng  ngửi trời”,  một cách  nói  vui,  dí dỏm về cách đo chiều  cao riêng của
những người lính Tây Tiến. Nếu  không có lòng yêu đời, không có tinh thần lạc
quan, người lính Tây Tiến không thể có sự đùa vui, hóm hỉnh đó.
– Có câu thơ như gấp khúc giữa chiều cao đi lên và  gấp khúc đi xuống. Có
câu thơ với nhịp điệu trải ra bằng những thanh bằng phù hợp với khung cảnh bình
yên của xóm làng ở chốn bình địa quen thuộc :
  121
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Chặng đường  hành quân ở vùng rừng  núi  hiểm  trở thực  sự là  thử thách  với
những chiến binh, có lúc họ không tránh khỏi những lúc mệt mỏi đến “dãi dầu không
bước nữa”, “gục lên súng mũ” và như quên hết sự đời. Ngòi bút của Quang Dũng ở
đây chân thực, không giấu giếm sự vất  vả của chặng đường  hành quân của những
người lính. Nhưng chắc chắn là họ không gục ngã. 
Chưa hết,  vùng rừng núi này vốn đã hiểm trở lại được khoác thêm màu sắc
huyền bí của cảnh tượng hoang vu. Tiếng thác gầm thét, tiếng cọp doạ người chắc
chắn không làm cho ai nản lòng. Nhưng tác giả với phong cách miêu tả lãng
mạn đã tô đậm thêm cái lạ và nét rùng rợn của núi rừng miền Tây :
  Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Rừng  núi có những  lúc,  những khu vực như  náo  động  hẳn  lên. Thiên  nhiên
không tĩnh lặng, mà như đang cùng hoà đồng trong dàn hợp xướng vang động của 
rừng  núi.  Rồi tất cả  lại trở về dịu êm. Hình ảnh  lắng  sâu  nhất  vẫn là  những  kỷ
niệm của con người và của bản làng với nét bình lặng ấm cúng mà nên thơ. Có thể
nói đây là khổ thơ hấp dẫn trong bài Tây Tiến. Quang Dũng chú ý nhiều đến thiên
nhiên, và có thể nào khác được. Trong những kỷ niệm về Tây Tiến làm sao tách
con người ra khỏi thiên nhiên hùng vĩ và cũng rất nên thơ. 
2. Khổ 2 :  “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy …”
a) Đây thực  chất  là  khổ thơ  nằm  ở đoạn thứ hai  nói về vẻ đẹp tình tứ, lãng
mạn của núi rừng Tây Bắc và người lính Tây Tiến. Đoạn thơ gồm 8 câu, mở đầu
là vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến và con người Tây Bắc : “Doanh trại
bừng lên hội đuốc hoa”… Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ khó hiểu
nhất của bài Tây Tiến. Chẳng hạn “hội đuốc hoa” ở đây nên hiểu như thế nào, đôi
khi cũng có những lý giải rất khác nhau : người thì cho rằng đây là những tia lửa
bắn  ra  từ  đuốc được  đốt  lên  trong  đêm  liên  hoan  văn  nghệ  của  người  lính  Tây
Tiến  và  người  dân  Tây  Bắc,  nhưng  người  lính Tây  Tiến  lại  liên  tưởng  tới  đêm
“động phòng hoa chúc”. Một liên tưởng rất lãng mạn. Cũng có người cho rằng chỉ
nên hiểu một cách thật bình dị thôi: Trong những ngày hành quân vất vả, đôi khi
người lính Tây Tiến có được những giây phút hết sức thanh bình. Họ có một đêm
vui chung văn nghệ với các cô gái vùng Tây Bắc. Vẻ đẹp rực rỡ toát ra từ những
bộ “xiêm áo”, từ điệu múa duyên dáng, ý tứ, dịu dàng của người thiếu nữ Tây Bắc
    122
khiến người lính Tây Tiến ngỡ ngàng, vui sướng đến tột cùng. Họ như được sống
trong một “vùng đất lạ”. Họ mơ mộng và lãng mạn trước khung cảnh núi rừng và
con người như thực như mơ :
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ  
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…  
  b) Khổ thơ hoà quyện con người và phong cảnh trong một bức tranh chung.
Hình như mảnh đất lãng mạn cũng tạo ra những con người lãng mạn. Câu thơ mở
đầu đã lãng mạn ngay từ việc gắn con người với một địa danh mông lung và hư
ảo. Nhà thơ không chỉ đích danh một người đi cụ thể nào mà chỉ nhắc qua một đại
từ chung : “Người đi”. “Châu Mộc chiều sương” có lẽ còn mông lung hư ảo hơn
nữa  :  chiều  là  khái  niệm  thời  gian trừu  tượng  được  gắn  với  sương  là  một  khái
niệm  không  gian  cụ  thể.  Ghép  cái  cụ  thể  và  cái  trừu tượng  cạnh  nhau,  câu thơ
bỗng trở nên tình tứ và lãng mạn hơn. Người đọc thật khó hình dung một cách cụ
thể chiều sương ấy là như thế nào nhưng lại có thể hiểu được đó là cái “hồn” của
núi rừng Tây Bắc. Tây Bắc tình tứ lãng mạn, Tây Bắc còn huyền bí linh thiêng :
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Rừng lau ở miền Tây Bắc chắc không xa lạ, nhưng
“hồn lau” thì thực sự xa lạ với nhiều người. Lại một lần nữa, Quang Dũng ghép
hai từ không cùng cấp độ bên cạnh nhau để làm cho ý nghĩa hình ảnh thơ trở nên
lung linh kỳ ảo hơn. “Hồn lau” trước tiên cũng là rừng lau, nhưng với “hồn lau”,
ta thấy núi rừng Tây Bắc bỗng linh thiêng hơn.  Nó mang linh hồn như một con
người. Một thiên nhiên như thế cũng sẽ tạo ra những con người như thế : “Có nhớ
dáng người trên độc mộc…”. Vẻ đẹp của người Tây Bắc là vẻ đẹp của con người
nơi đầu sông ngọn thác. Đó là vẻ đẹp kiêu hùng không phải dễ dàng có ở bất cứ
đâu. Bởi chỉ có thể nơi núi rừng hoang sơ, nơi thiên nhiên khắc nghiệt mới cần
đến những phẩm chất của con người như thế. Nhớ về “người đi”, nhà thơ chỉ có
thể  nhớ  được  một  nét  dáng  thoáng  qua,  “dáng  người”,  mà  không  nhắc  tới  một
hình ảnh cụ thể nào. “Người đi” và “chiều sương” ; “dáng người” và “độc mộc” ;
thiếu nữ Tây Bắc và “hoa đong đưa”. Lẽ ra phải dùng từ đung đưa thì tác giả lại
dùng đong đưa.  Đong đưa  là  ánh  mắt  tình  tứ  của  người  thiếu  nữ…  Cả  đoạn
thơ là hàng loạt những so sánh, đối chiếu giữa thiên nhiên và con người, giữa
cái  hư ảo lãng  mạn  và cái  hiện thực của  núi rừng Tây  Bắc. Đó là  những  kỷ
  123
niệm khó quên của người lính Tây Tiến một thời, cái làm nên vẻ đẹp của bài
thơ và vinh danh cho tên tuổi của Quang Dũng. 
3. Khổ 3 :  “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...”
– Hai câu thơ đầu khổ này có lẽ cần được hiểu theo ý thực của nó: đó là hai
câu thơ hết sức đau đớn khi nói về tình cảnh của người lính Tây Tiến. Như chúng
ta biết trong khoảng một năm trời hành quân và chiến đấu, đơn vị Tây Tiến đã trải
qua  bao  khó  khăn  gian  khổ  và  hy  sinh  (thiếu  lương  thực,  thiếu  quần  áo,  thiếu
thuốc  men,  đạn dược...). Nhưng có lẽ  khó  khăn  và  gay  go nhất với  họ chính  là
những trận sốt rét rừng. Những trận sốt rét từng đã lần lượt hoặc cướp đi biết bao
sinh mạng của các đồng chí, hoặc là nó tàn nhẫn vặt trụi những mái tóc xanh của
người lính Tây Tiến. Hai câu thơ này trước đây được hiểu theo một hướng khác,
trong hình ảnh những người lính không mọc tóc toát lên một vẻ gì đó của những
hiệp sĩ,  thậm  chí  có  người  còn  cho  rằng  những người  lính  này  là  học  theo  tinh
thần võ sĩ đạo của những người lính Nhật. Câu thơ thứ hai cũng được hiểu theo
nghĩa ấy – nghĩa là những người lính Tây Tiến sau những trận sốt rét rừng da mặt
xanh như màu lá. Hai câu thơ cho chúng ta một ấn tượng về đoàn quân Tây Tiến
ngày ra đi rất hùng dũng nhưng cùng với thời gian và thử thách gian khổ cũng có
lúc bị hao tổn, cũng có lúc yếu đuối. Đây là một lẽ thường tình. (Đọc hai câu thơ
này tự nhiên chúng ta liên tưởng tới câu thơ khác được viết cùng thời về những hy
sinh gian khổ của người lính Cách mạng trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu :
“Đem thân xơ xác giữ sơn hà”).
Hai  câu  thơ  mở  đầu  của  khổ  thơ  được  viết  bằng  cảm  xúc  bi  tráng  nhưng
không gây sự bi quan. Hay nói cách khác cả khổ thơ thứ ba được viết theo tinh
thần này.
– Nếu hai câu thơ mở đầu khổ 3 viết về tình cảnh đau đớn của người lính Tây
Tiến  thì  hai  câu  3  và  4  lại  viết  về  những  giấc  mộng  của  người  lính  Tây  Tiến.
Tưởng chừng như khi đang lặn ngụp trong gian khổ hy sinh, người lính Tây Tiến
không còn thời gian để mà mơ mộng, ấy vậy họ lại là những người mơ mộng nhất.
Dường như mỗi người lính Tây Tiến đều có hai giấc mơ của mình, giấc mộng anh
hùng và giấc mộng người đẹp. Đã là người lính thì ai mà không có một giấc mộng
anh hùng, nhưng không phải ai cũng có một giấc mộng người đẹp, mỗi người lính
Tây Tiến đều có đủ hai giấc mộng ấy.
    124
– Hai câu thơ 3 và 4 còn cho chúng ta thấy rõ một ý nghĩa rất kín đáo của lời
thơ. Đó là mỗi người lính ra đi đều có một phía sau đầy ắp kỷ niệm của mình, bởi
vì  những  người lính  Tây Tiến  không phải là  những người  lính vô tâm,  vô  tình.
Cũng giống như những người ra đi trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Họ
ra đi một cách kiên quyết,  dứt khoát với tư thế “Người ra đi đầu không  ngoảnh
lại”, thế mà phía sau mỗi người đều có “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. Những
câu thơ như thế cắt nghĩa cho chúng ta hiểu một chân lý hết sức lớn lao nhưng hết
sức giản dị – những cái phi thường bao giờ cũng bắt đầu từ cái bình thường. Trở
lại với những người lính Tây Tiến : Họ ra đi hùng dũng là thế, ra đi cao cả là thế
nhưng  đôi  khi  họ  cũng  tỏ  ra  mềm  lòng  :  “Đêm  mơ  Hà  Nội  dáng  kiều  thơm”.
Người ta vẫn nói thơ là sự chân thành thì những câu thơ như thế sự chân thành đã
đến tận cùng.
4. Khổ 4 :  “Rải rác biên cương mồ viễn xứ...”
– Bốn câu thơ cuối cùng của khổ 4 chính là lời ngợi ca trang trọng nhất về sự
hi sinh vô bờ bến của người lính Tây Tiến. Bởi vì không có sự hi sinh nào lớn lao
bằng  cái chết,  đồng thời cái chết cũng  là  thử thách  lớn  nhất đối với con  người.
Bốn câu thơ này và cả khổ thơ thứ 4 đã hoàn thiện chân dung người lính Tây Tiến.
Nếu nói cả bài thơ Tây Tiến được viết bằng cảm xúc bi tráng thì bốn câu thơ này
bi tráng nhất, đặc biệt câu thơ cuối cùng của khổ 4:
        Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Không phải ngẫu nhiên trong câu thơ số một và câu thơ số ba mươi, hình
ảnh sông Mã lại xuất hiện: sông Mã chính là hướng hành quân đi và về của đoàn
quân Tây Tiến, cũng có thể hai bên bờ sông Mã có biết bao chiến sĩ Tây Tiến
đã nằm lại. Câu thơ này có người ví như một nốt đàn gây ấn tượng trong bản
nhạc  hồn tử  sĩ – bản  nhạc mà  người ta  vẫn tấu lên cho những  người con  hy
sinh vì Tổ quốc. Nhưng cũng có người cho rằng bốn câu thơ này là bốn câu
hay nhất trong bài.
–  Hình  ảnh  những  nấm  mồ  vô  danh  trên  dọc  đường  hành  quân  của  những
người lính Tây Tiến thoạt tiên dễ gây trong lòng người đọc sự cảm thương. Hình
ảnh ấy dường như báo hiệu số phận cho những người lính trên con đường đi tới.
Nếu chỉ như thế bài thơ Tây Tiến sẽ không mang lại hiệu quả tích cực.
  125
– Tuy nhiên ngay bên cạnh câu thơ mang dáng vẻ bi thương này đã có câu thơ
thể  hiện  dũng  khí  của  người  lính  Tây  Tiến  :  “Chiến  trường  đi  chẳng  tiếc  đời
xanh”. Những người lính Tây Tiến tuy còn rất trẻ tuổi nhưng vẫn xác định được lý
tưởng của mình: sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Cái chết của người lính Tây Tiến
gợi trong lòng người đọc những tình cảm bi tráng, cái chết của họ là bất tử.
III -  KẾT LUẬN
Trong một tác phẩm văn học đặc biệt là thơ, khúc vĩ thanh thường là nơi lắng
đọng kết tinh ý thơ : “Tây Tiến người đi không hẹn ước - Đường lên thăm thẳm
một chia phôi - Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy - Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Nếu nói Tây Tiến đã trở thành ký ức của cả một thế hệ, thì ký ức ấy đọng lại ở
khúc vĩ thanh. Đó là lời nhắn gửi của nhà thơ với nhiều thế hệ sau rằng, Tây Tiến
chính  là  hình  ảnh  một  thời  của  người  lính  cách  mạng  trong  kháng  chiến.  Nó
không hề xa lạ với bất cứ ai, bởi nó đã trở thành bức tượng đài trong lòng nhiều
thế  hệ  trẻ,  những  người  đã  góp phần  xương  máu  của  mình  cho  độc  lập  của  Tổ
quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
 
                              
    126
TIếNG HáT CON TàU 
CHẾ LAN VIÊN
A – DẠNG ĐỀ 
– Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa hình ảnh con tàu và địa danh Tây Bắc trong
bài thơ (đề thi đại học năm 2006, dạng câu 2 điểm).
– Phân tích (bình giảng) khổ thơ :
+ Khổ đề từ : “Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc...” 
+ Khổ thơ :  “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ...”
+ Khổ thơ : “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ...”
+Khổ thơ : “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét…”.
– Phân tích đoạn thơ : “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ… Khi ta đi,
đất đã hoá tâm hồn !...” để làm rõ những tình cảm sâu nặng của tác giả đối với
nhân dân” (đề thi đại học năm 2004, dạng câu 5 điểm).
– Cùng bộc lộ nỗi nhớ Tây Bắc, Quang Dũng viết : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến
ơi…”; Chế Lan Viên Viết : “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ - Nơi nao
qua lòng lại chẳng yêu thương - Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hoá
tâm hồn”. Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên (đề thi đại học năm 2008,
dạng câu 5 điểm).
 Một số lưu ý : Tiếng hát con tàu là tác phẩm nằm trong SGK Ngữ văn Nâng
cao, và cũng là bài học dành cho những học sinh tự do thuộc chương trình cũ. Đây
là một bài học với khá nhiều tình huống ra đề, nhiều khổ thơ được chọn làm đề.
Đề thi đại học  năm 2004 đã chọn phân tích cả một đoạn thơ rất dài, và  yêu cầu
học sinh làm rõ tình cảm sâu nặng của tác giả đối nhân dân. Học sinh chỉ cần nắm
vững được ý chính của mỗi đoạn thơ và ý nghĩa của hai hình tượng chủ chốt (con
tàu và Tây Bắc)  là có thể giải quyết dễ dàng các dạng đề thi của tác phẩm  này.
Trong trường hợp đề thi yêu cầu phân tích hay bình giảng khổ thơ, học sinh cần
nắm được ý chính để phân tích nhưng cũng có thể mở rộng ra những khổ thơ khác
có gần nội dung cho bài phân tích sâu hơn.
  127
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - Giới thiệu bài thơ
–  Tiếng hát con tàu là  bài thơ  đặc  sắc của Chế Lan  Viên,  in trong tập Ánh
sáng và phù sa – một tập thơ được viết dưới ánh sáng lý tưởng cách mạng và trên
nền phù sa màu mỡ của cuộc đời.
  – Chế Lan Viên viết bài thơ này là để hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng với
những người miền xuôi, những chàng trai cô gái trẻ tuổi, hãy đến với những miền
đất xa xôi của Tổ quốc, khai thác tiềm năng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ở mức độ
cao hơn, bài thơ còn là sự khái quát nghệ thuật về mối liên hệ giữa chân lý đời
sống và chân lý nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và cuộc sống.
 –  Ngoài  khổ  đề  từ,  bài  thơ  gồm  15 khổ,  2  khổ đầu  là  lời  mời  chào  thuyết
phục kêu gọi lên đường, 9 khổ giữa là nỗi nhớ về một vùng đất, nỗi nhớ về một
tình yêu, 4 khổ cuối là khúc hát lên đường say mê, rộn rã.
II -  PHÂN TÍCH
1.  Khổ thơ đề từ - ý nghĩa của hình ảnh Con tàu và địa danh Tây Bắc
Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc 
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu. 
– Đây là khổ đề từ nằm ngoài văn bản chính của bài thơ, nhưng lại có ý nghĩa
khái quát nội dung tư tưởng của toàn bộ bài thơ. Khổ thơ có hai hình ảnh chủ chốt 
là “Con tàu” và “Tây Bắc” như là những hình ảnh biểu tượng góp phần soi sáng ý
tưởng của tác giả.
– Con tàu là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng đi xa, khát  vọng vươn tới
những  vùng đất mới, là  hình ảnh chủ thể của  người  nghệ  sĩ.  Trong lý  luận  văn
học, nếu đặt trong mối quan hệ văn học và cuộc sống, thì hình ảnh này còn là biểu
tượng cho chủ thể người nghệ sĩ.
– Năm 1960, khi Chế Lan Viên viết bài thơ này, nước ta chưa có đường tàu
lên Tây Bắc (Chính xác hơn, chưa có đường tàu lên những tỉnh xa xôi của vùng
Tây Bắc  :  Lai Châu,  Điện Biên…),  vì  vậy  hình  ảnh  con tàu ở đây  chỉ  là  tưởng
tượng của nhà thơ, một cách lãng mạn hoá hình ảnh hiện thực: Con tàu trong thơ
    128
Chế Lan Viên không có tiếng xình xịch, không có bánh sắt nghiến trên đường ray,
không có tiếng còi tàu như Tố Hữu viết trong Bài ca mùa xuân 61 (Hà Nội rì rầm
còi thổi ngoài ga - Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa - Tiếng xình xịch chạy dọc
đường Nam Bộ), nhưng lại “khát những vầng trăng”, “đói những vầng trăng”, lại
biết “vỗ cánh” để bay xa, bay cao, con tàu ở đây chính là tâm hồn tác giả.
– Tây Bắc : Trước tiên là hình ảnh chỉ một miền đất cụ thể ở miền Tây Bắc
Tổ quốc : “Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc”. Rõ ràng Chế Lan Viên coi đây chỉ
là điểm tựa, là một bằng chứng về một miền đất xa xôi. Nhưng miền đất này đã
không còn  xa  lạ trong lòng nhà thơ. Khi nhà thơ hoá thân vào Con tàu nghĩa  là
cũng hoá thân vào Tây Bắc. Tây Bắc trong khổ thơ đề từ cũng như trong cả bài
thơ là hình ảnh bị động, chỉ hiện thực Tây Bắc chứa đựng nhiều tiềm năng, nhiều
bí ẩn vẫy gọi những con tàu, những tâm hồn khao khát đi xa, khao khát khám phá.
Tuy nhiên Tây Bắc lại là nơi chứa đựng nhiều tiềm năng, nhiều bí ẩn rất có giá trị
với  tất  cả  những  ai  ham  mê,  khám  phá  và  sáng  tạo.  Tây  Bắc  và  Con  tàu  cũng
giống như Đất Mẹ vĩ đại và Thần Ăng-tê trong huyền thoại xưa.
– Hai hình ảnh Con tàu và Tây Bắc đã gặp gỡ nhau trong khổ thơ sẽ là hình
ảnh  xuyên suốt cả bài thơ. Đây là  một trong  những  hình ảnh thơ đặc trưng của
Chế Lan Viên, một nhà thơ luôn biết dựa trên các chi tiết hiện thực để suy tư, triết
lý.
2. Bình giảng khổ thơ :  “Con gặp lại nhân dân... bỗng gặp cánh tay đưa”
– Đây là đoạn thơ tiếp nối những hoài niệm của nhà thơ về kháng chiến, về
Tây Bắc. Mặc dù ở thời điểm viết bài thơ Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên chưa
kịp lên Tây  Bắc,  nhưng  nhà thơ từng  có thời  gian dài trong  kháng chiến ở Tây
Bắc, lên Tây Bắc nghĩa là về với cội nguồn của lòng mình.
– Đoạn thơ bộc lộ tâm hồn, tư tưởng của nhà thơ trong cuộc trở về với nhân
dân, ý tưởng được bộc lộ hết sức rõ ràng, cách xưng hô trong đoạn thơ cũng rất
đặc biệt. Nhà thơ xưng con để bày tỏ sự thân thiết ruột thịt với nhân dân : “Con
gặp lại nhân dân như nai về suối cũ”.
– Hình ảnh được đem so sánh với cuộc trở về cội nguồn, trở về với nhân dân
được chắt lọc từ hai hệ thống, trong đó bao gồm cả những hình ảnh của tự nhiên
và những hình ảnh từ đời sống xã hội con người. Trở về với nhân dân giống như
nai về suối cũ, như cỏ gặp mùa xuân và cánh én mượt mà trong giêng, hai. Đây là
  129
cuộc trở về kịp thời, đúng lúc, cũng giống như thần Ăng-tê về với đất mẹ vĩ đại,
như văn học về với cuộc đời.
– Trở về với nhân dân rõ ràng là sự lựa chọn đúng đắn nhất, vì nhân dân như
người mẹ biết hy sinh âm thầm nuôi dưỡng những đứa con. Hệ thống hình ảnh thứ
hai được đem so sánh ở đoạn thơ là “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, là “Chiếc nôi
ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. Không thể có sự so sánh nào sinh động hơn và sâu
sắc hơn như so sánh trên đây của Chế Lan Viên. Sự kết hợp giữa tự nhiên và xã hội
đã làm cho ý thơ của Chế Lan Viên trở nên hoàn chỉnh. Sự kết hợp giữa chất liệu đời
sống và triết lý suy tư cũng làm cho những câu thơ của Chế Lan Viên đi vào lòng
người một cách dễ dàng.
– Chỉ với bốn câu thơ ngắn, Chế Lan Viên đã bộc lộ khá đầy đủ phong cách
thơ ca của ông. Đó là những câu thơ không dễ gì quên với nhiều người đọc. Đó
cũng là một phần quan trọng làm nên thành công cho cả bài thơ Tiếng hát con tàu.
– Sau đoạn thơ bốn câu nói về cuộc hành trình trở về với nhân dân, tác  giả
tiếp tục những hoài niệm về nhân dân, bằng việc cụ thể hoá hình tượng qua các
hình tượng anh, em và mế. Với mỗi người, tác giả đều chọn ra một nét tiêu biểu
nhất để làm rõ những phẩm chất đẹp đẽ của nhân dân. Ở người anh, đó là nét lam
lũ, vất vả nhưng rất nghĩa tình (“Con nhớ anh con, người anh du kích - Chiếc áo
nâu anh mặc đêm công đồn - Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách - Đêm cuối cùng
anh cởi lại cho con”) ; với người em, lại là tinh thần hy sinh, tính trách nhiệm, sự
cần mẫn của nhân dân trong suốt cả thời gian dài kháng chiến (“Con nhớ em con,
thằng em liên lạc - Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ - Sáng bản Na chiều em
qua bản Bắc - Mười năm tròn ! Chưa mất một phong thư”). Còn với mế, kỷ niệm
dường như đã thấm sâu vào máu thịt tác giả. Kỷ niệm về mế là kỷ niệm chung với
tất cả người mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Cũng giống như bà bầm bà bủ trong
thơ Tố Hữu. Phẩm chất hy sinh luôn bao trùm lên tất cả mọi hình tượng người mẹ
trong thơ ca  kháng chiến  nước ta. Tuy nhiên,  vốn là  nhà  thơ được  coi là  người
giàu năng  lực  suy tư,  triết lý, Chế Lan Viên vẫn  tìm được  cách nói độc đáo của
riêng mình :  “Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc - Năm con đau, mế thức một mùa
dài - Con với mế không phải hòn máu cắt - Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.
Từ nỗi nhớ đó, tứ thơ tiếp tục vận động đến nỗi nhớ một vùng đất và nỗi nhớ tình
yêu. 
    130
3. Bình giảng khổ thơ :  
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn !
a) Giới thiệu bài thơ, vị trí đoạn thơ
 – Tiếng hát con tàu là  bài thơ đặc sắc của  Chế Lan Viên,  in trong tập Ánh
sáng và phù sa, một tập thơ được viết dưới ánh sáng lý tưởng cách mạng và trên
nền phù sa màu mỡ của cuộc đời.
– Ngoài khổ đề từ, bài thơ được cấu trúc thành ba phần : Hai khổ đầu là lời
mời  chào,  thuyết  phục  lên  đường  đi  Tây  Bắc ;  chín  khổ  giữa  là  hoài  niệm  về
kháng chiến nhân dân, Tây Bắc và tình yêu ; bốn khổ cuối là khúc hát lên đường
say mê, rộn rã.
– Khổ thơ trên nằm ở phần hai,  hoài niệm của nhà thơ với một vùng đất đã
từng sống và từng đi qua.
b) Phân tích 
 –  Sau  những  câu  thơ  hoài  niệm  kháng  chiến,  hoài  niệm  nhân  dân,  đến
đoạn thơ này, nỗi nhớ của nhà thơ bất ngờ hướng tới một vùng đất, đó là Tây
Bắc.  Nhớ Tây Bắc,  nhà thơ  không  nhắc tới một địa  danh cụ thể  nào mà  chỉ
nhắc đến những “bản sương giăng”, “đèo mây phủ”. Hai hình ảnh này đọc lên
ai cũng biết là Tây Bắc.
– Là một nhà thơ có năng lực liên tưởng, suy tư, sau câu thơ về nỗi nhớ một
vùng đất, tác giả đã khái quát, cắt nghĩa nguyên do, cách giải thích rất đơn giản,
bình dị, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nói ra : vùng đất nào ta đã đi qua mà ta
lại không nhớ, không yêu thương ?
– Sau  câu thơ  cắt nghĩa cội nguồn nỗi nhớ, nhà thơ  đã khái quát thành một
chân lý tình cảm, chân lý của trái tim : Đất khi ta ở chỉ là không gian địa lý tồn tại,
là nơi nuôi dưỡng, đất khi ta đi xa đã trở thành một phần đời sâu nặng của ta.
– Ở ngay khổ thơ sau tác giả sẽ nối kết suy tư về đất lạ với nỗi nhớ trong tình
yêu để tạo thành công thức : Tình yêu cộng đất lạ sẽ trở thành quê hương “Tình
yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Đoạn thơ tuy ngắn nhưng đã nói rõ được nét độc
  131
đáo trong phong cách thơ Chế Lan Viên. Đó là phong cách thơ vừa giàu hình ảnh đời
sống lại vừa suy tư, triết lý.  Đọc đoạn thơ ta càng hiểu thêm Chế Lan Viên và thêm
yêu những miền đất xa xôi của Tổ quốc.
4.  Khổ thơ    
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
– Mở đầu đoạn thơ dường như có sự đột ngột : “Anh bỗng...”. Rõ ràng, nỗi
nhớ tình yêu ở đây là tiếp tục nỗi nhớ một vùng đất. Tình yêu lứa đôi, riêng tư chỉ
là  một  phần  trong  những  tình  cảm  chung  lớn  lao,  nhưng  lại  đóng  vai  trò  quan
trọng nối kết giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa “chân
trời của một người” với “chân trời của tất cả”.
– Nhà thơ đem quy luật thiên nhiên so sánh với tình cảm con người : Mùa
đông và rét, tình yêu và nỗi nhớ, đây là những phạm trù không bao giờ thiếu nhau.
Viết về Tây Bắc, Chế Lan Viên đưa ra các hình ảnh đậm đà màu sắc Tây Bắc :
Tình yêu như cánh kiến hoa vàng, một hình ảnh rất đẹp, có thật ở Tây Bắc (nhựa
cây cánh kiến, kết tụ lâu ngày, dùng chế tạo sản phẩm bảo vệ đồ gỗ…), là sự trong
sáng, bền vững qua mọi thử thách thời gian, tình yêu cũng đẹp như cánh én gặp
mùa xuân và điều quan trọng hơn, tình yêu biến mọi miền đất lạ thành quê hương.
Đây là ý tưởng xuyên suốt trong cả bài thơ, chứ không riêng ở đoạn thơ này.
III - KẾT LUẬN 
Tiếng hát con tàu là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Chế Lan Viên
về đề tài xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài thơ được viết để hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng trong những ngày đầu tiên sau ngày đất nước được hoà bình nhưng nó
không mang tính minh hoạ mà thực sự là một tác phẩm nghệ thuật có tính  khái
quát sâu sắc. Đây là lời kêu gọi của trái tim người nghệ sĩ trên con đường trở về
với nhân dân, về với cội nguồn đất nước. Chính vì thế, bài thơ luôn có được vị trí
cao trong lòng người đọc và trong nền thơ ca dân tộc nói chung.
 
    132
 
  133
VIệT BắC 
TỐ HỮU
A - DẠNG ĐỀ 
– Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc  (đề thi đại
học năm 2005, dạng câu 2 điểm).
– Bình giảng đoạn thơ “Ta về mình có nhớ ta...” trong bài thơ Việt Bắc.
– Bình giảng đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta...  Đèn pha bật sáng
như ngày mai lên” trong bài thơ Việt Bắc.
Một số lưu ý : Phần thơ Tố Hữu trong chương trình mới chỉ còn lại duy nhất
hai  bài  Từ  ấy  và  Việt  Bắc.  Trong  hai  tác  phẩm  này,  Việt Bắc  được  coi  là  quan
trọng hơn, vì có thể khai thác được nhiều dạng đề. Thứ nhất, đó là dạng đề 2 điểm
như đề thi đại học năm 2005 ; thứ hai phần trích bài thơ trong chương trình học lại
có nhiều đoạn thơ có khả năng ra đề. Ngoài đoạn thơ mười câu quen thuộc “Ta về
mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”, học sinh cũng nên chú ý
đoạn thơ tám  câu “Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày
mai  lên”,  hoặc  đoạn  mở  đầu,  lời  của  người  Việt  Bắc  (“Mình  về  mình  có  nhớ
ta…”), người ra đi (“Tiếng ai tha thiết bên cồn…”). Do bài thơ Việt Bắc khá dài,
ngay đoạn trích cũng đã gồm 90 câu thơ, nên cách tốt nhất là học sinh phải nắm
được ý chính của mỗi đoạn thơ trong bài để chủ động trong mọi loại dạng đề bình
giảng, phân tích. Phần gợi ý làm bài dưới đây chỉ tập trung vào hai đoạn thơ quan
trọng nhất một số năm qua đã được sử dụng ra đề, kể cả thi tốt nghiệp. 
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
– Tháng 10 năm 1954, năm tháng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chính phủ
rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Hoà chung niềm vui hân hoan  khi một nửa đất
nước  vừa  sạch  bóng  quân  thù,  Tố  Hữu  viết  một  chùm  năm  bài  thơ  (Ta  đi  tới,
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Lại về, Xưa…Nay, Việt Bắc), trong đó Việt Bắc được
coi là bài thơ xuất sắc nhất.
– Thật khó hình dung nền thơ ca kháng chiến của nước ta nếu không nhắc đến
tên tuổi Tố Hữu và tập thơ Việt Bắc. Tập thơ giống như một bản sử thi tổng kết
cuộc  kháng  chiến  trường  kỳ  suốt  mười  lăm  năm  chống  xâm  lược  của  dân  tộc.
    134
Bằng sự điêu luyện của mình, Tố Hữu đã tạo nên trong Việt Bắc biết bao nỗi niềm
chung  của  dân  tộc  và  nỗi  niềm  riêng  của  mình,  nỗi  nhớ  những  năm  dài  kháng
chiến trong tình đoàn kết các dân tộc, nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc,  nỗi nhớ
lãnh tụ Hồ Chí Minh, Có thể khẳng định Việt Bắc là tập thơ đặc sắc nhất trong nền
thơ ca kháng chiến. 
– Bài thơ Việt Bắc mà tên được dùng đặt chung cho cả tập thơ lại được coi là
bài  xuất  sắc  nhất.  Bài  thơ  gồm  168  câu  thơ  lục  bát  (phần  trích  trong  sách  giáo
khoa chỉ gồm 90 câu) với một cấu tứ hết sức đặc biệt : Cái tôi trữ tình của tác giả
đã tự phân đôi thành hai giọng, một bên là giọng của người cách mạng về xuôi,
còn bên kia  là  giọng của người Việt Bắc. Có một giọng nam, một giọng nữ đối
đáp qua  lại,  hết sức trữ tình,  khiến cho cả bài thơ giống  như một cuộc hát  giao
duyên. Nhà thơ sử dụng cặp đại từ mình - ta nhuần nhuyễn và  linh hoạt, “mình
với ta tuy hai mà một”, vì cả hai đều là cách mạng, cả hai đã từng đồng cam cộng
khổ trong suốt những năm dài kháng chiến. Động từ nhớ bao trùm lên cả bài thơ
như những làn sóng tình cảm tuôn trào : người ra đi nhớ người ở lại, người Việt
Bắc nhớ người về xuôi và nhớ cụ Hồ, nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc… nỗi nhớ
kết tinh đậm đặc trong mười câu thơ : “Ta về mình có nhớ ta…” .
II - PHÂN TÍCH (đoạn thơ : Ta về mình có nhớ ta... Nhớ ai tiếng hát ân tình
thuỷ chung)   
1. Nỗi nhớ cảnh Việt Bắc
– Đoạn thơ được cấu trúc như một bài thơ độc lập, có mở đầu, có kết thúc và có
một chủ đề chung. Hai câu thơ mở đầu giới thiệu chung niềm cảm hứng. Căn cứ vào
lối xưng hô, ta biết được nỗi nhớ ở đây xuất phát từ người ra đi.
      Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người...
– Tám câu thơ lục bát lại được chia làm bốn cặp trong đó câu lục nói về nỗi
nhớ cảnh, câu bát nói về nỗi nhớ người. Nỗi nhớ cảnh và người xen kẽ ở bên nhau
hoàn toàn có chủ định của tác giả. Cũng giống như một cặp thơ lục bát, câu này
không thể tồn tại được nếu thiếu câu kia và ngược lại. Nỗi nhớ cảnh bao giờ cũng
kéo theo nỗi nhớ người, nỗi nhớ này khêu gọi nỗi nhớ kia, giống như một làn sóng
tình cảm dào dạt tuôn trào. 
– Bốn câu thơ về nỗi nhớ cảnh được tác giả chia đều cho nỗi nhớ bốn mùa,
bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong đoạn thơ của Tố Hữu giống
  135
như một bức tranh tứ bình Xuân – Hạ – Thu – Đông. Mùa nào cũng đẹp, cũng để
lại những ấn tượng sâu sắc trong tác giả. 
–  Nhớ mùa  đông là  nhớ “Rừng xanh  hoa chuối đỏ tươi”,  trong cái  lạnh  lẽo
hoang vu của rừng núi Việt Bắc những ngày mùa đông, Tố Hữu đã chọn sắc màu
đỏ  tươi  của  những  bông  hoa  chuối,  bức  tranh  mùa  đông  có  lẽ  nhờ  đó  mà  bớt
hoang vu, lạnh lẽo.
– Sắc màu trong bức tranh tứ bình của Tố Hữu luôn thay đổi, đa dạng phong
phú. Nếu như mùa đông là hoa chuối đỏ tươi thì khi mùa xuân đến cả núi rừng
Việt Bắc ngập trắng hoa mơ. Sắc màu này gợi vẻ thơ mộng, thiêng liêng của núi
rừng  Việt  Bắc  vào  những  ngày  đầu  năm  mới.  Không  phải  ngẫu  nhiên  Tố  Hữu
chọn sắc màu này. Ở một bài thơ khác của ông, khi nói về thời điểm thiêng liêng
của Hồ Chí Minh sau nhiều năm bôn ba hải ngoại trở về nước lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, phút giây người vừa đặt chân xuống mảnh đất của Tổ quốc, chính là phút
giây núi rừng biên giới ngập trắng hoa mơ. 
Ôi sáng xuân nay xuân  41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.
                                                                   (Theo chân Bác - Tố Hữu)
– Bức tranh của Tố Hữu không chỉ được vẽ bằng đường nét, màu sắc mà nó
còn rộn rã âm thanh. Đó là âm thanh của tiếng ve trong những ngày đầu hè, giống
như một bản nhạc giao hưởng cất lên giữa  núi rừng, hoà lẫn trong sắc vàng của
rừng phách : “Ve kêu rừng phách đổ vàng”.
– Bức tranh phong cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc khép lại trong nỗi nhớ
mùa thu. Mùa thu hiện lên trong ánh trăng dịu hiền. Trăng đã từng xuất hiện khá
nhiều trong thơ Hồ Chủ tịch trong những ngày Người lãnh đạo kháng chiến ở Việt
Bắc. Ánh trăng phải chăng là ước mơ của Tố Hữu về một cuộc sống thanh bình
trong những ngày kháng chiến gian khổ và ác liệt.
2. Nỗi nhớ người Việt Bắc
– Được viết đan xen với những câu thơ về nỗi nhớ cảnh, câu bát được Tố Hữu
dành cho nỗi nhớ người. Cảnh và người hiện lên đều đẹp và đáng yêu. Tuy nhiên,
trong bốn câu bát nói về nỗi nhớ người, Tố Hữu không viết giống như bốn câu lục
    136
nói về nỗi nhớ cảnh. Nếu như bức tranh nỗi nhớ cảnh được chia đều cho nỗi nhớ
bốn mùa, thì bức tranh của nỗi nhớ người được thể hiện trong một cách thức khác,
có nỗi nhớ hướng về một nét riêng cụ thể của người Việt Bắc mà dường như bất
cứ ai đã từng ở đây đều không thể quên : “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
–  Có khi  nỗi  nhớ  lại  hướng  đến  những  con  người  cụ  thể trong  những  công
việc cụ thể, âm thầm. Người Việt Bắc ân tình thuỷ chung với cách mạng, đã từng
che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng nhiều thế hệ cách mạng. Khi về xuôi, tác giả không
thể nào quên họ :
– Nhớ cô em gái hái măng một mình...
– Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang...
–  Câu  thơ  khép  lại,  nỗi  nhớ  người  dường  như  bao  trùm  tất  cả  những  con
người Việt Bắc. Nhà thơ không nhắc đến những con người cụ thể mà chỉ nhớ đến
tiếng hát ân tình thuỷ chung của họ trong suốt mười lăm năm kháng chiến trường
kỳ, người Việt Bắc đã từng chia sẻ, kề vai sát cánh cùng cán bộ cách mạng. Giờ
đây đã đến lúc chia tay, hình ảnh của họ không bao giờ phai mờ trong tâm trí của
những người cách mạng.
III - PHÂN TÍCH (đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng
như ngày mai lên”)
1.  Vị trí và chủ đề đoạn thơ
– Đây là đoạn thơ nằm ở phần gần cuối bài thơ, là sự tiếp tục nỗi nhớ của cán
bộ cách mạng về những ngày tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng ở chiến khu
Việt Bắc. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu : “Những đường Việt Bắc của ta - Đêm
rầm rập như là đất rung” đã chứa đựng chủ đề tư tưởng của cả đoạn. Đó là một
bức  tranh,  một  khúc  nhạc  hoành  tráng  về  cuộc  kháng  chiến  trường  kì  gian  khổ
toàn dân, toàn diện của dân tộc Việt Nam chống xâm lược Pháp.
2. Phân tích
– Hai câu đầu giới thiệu nền cảm hứng chung, trong đó có cả không gian, thời
gian và tâm trạng của tác giả. Về không gian, đó là  những con đường Việt Bắc,
không phải một mà rất nhiều con đường, nghĩa là cả núi rừng Việt Bắc đều cùng
ra trận ; về thời gian, đây là bức tranh và khúc nhạc Việt Bắc về đêm. Thời gian
cho biết, cuộc kháng chiến của chúng ta  lúc đó vẫn còn nhiều gian khổ ; những
  137
cuộc  hành  quân,  tiếp  vận  thường diễn  ra  trong  đêm  ;  về  tâm  trạng  của  tác  giả,
người đọc có thể thấy rõ qua không khí, âm hưởng và hình ảnh của câu thơ “Đêm
đêm rầm rập như là đất rung”. Gần như cả dân tộc cùng ra trận. Cả núi rừng Việt
Bắc đều rung chuyển dưới bước chân hành quân của những người kháng chiến. 
–  Đặt  trong  sự  tương  phản,  nhà  thơ  đã  góp  phần  làm  nổi bật  sự  hào  hùng,
không khí sôi nổi, nhộn nhịp của cuộc kháng chiến. Ở thời điểm này, cuộc kháng
chiến của chúng ta vẫn còn vô vàn khó khăn, gian khổ. Thế nhưng, nó vẫn  le lói
ánh sáng hi vọng cho chiến thắng trong tương lai. Kháng chiến đã đánh thức tất cả
mọi người. Cả đến thiên nhiên, núi rừng cũng không còn yên lặng ; đêm đã bị ánh
sáng xua tan, sức mạnh và lòng dũng cảm của con người đã chiến thắng mọi nỗi
sợ hãi. Chúng ta đã giành quyền làm chủ hoàn toàn. Nhà thơ đã đưa ra hàng loạt
các hình ảnh chứng minh điều đó : “đất rung”, “điệp điệp, trùng trùng”, “ánh sao
đầu súng”, “bước chân nát đá”, “đèn pha bật sáng”,...
–  Đoạn thơ cũng  khẳng  định  được,  đây  là  cuộc kháng  chiến  toàn  dân,  toàn
diện. Bên cạnh bộ đội chủ lực có bộ đội địa phương, bên cạnh những “ánh sao đầu
súng” có đoàn dân công “bước chân nát đá”. Cuộc kháng chiến không chỉ có con
người tham gia,  mà cả thiên nhiên, núi rừng cùng sát  cánh cùng con  người  vào
trận “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
– Nhịp điệu và hình ảnh được sử dụng trong đoạn thơ cũng góp phần tạo nên
thành  công  đáng  kể  cho  bài  thơ.  Có  thể  khẳng  định,  đoạn  thơ  tuy  ngắn  nhưng
mang dáng dấp một bản sử thi hào hùng, giúp người đọc hình dung được những
ngày kháng chiến gian khổ anh hùng một thời của dân tộc.
IV - KẾT LUẬN
Việt Bắc được coi là một trong những bài thơ đặc sắc  nhất trong nền thơ ca
kháng chiến nước ta. Bài thơ giống như một bản sử thi tổng kết một chặng đường
cách mạng của dân tộc. Bài thơ là tình cảm da diết của Tố Hữu với thiên nhiên núi
rừng Việt Bắc, với những người Việt Bắc đôn hậu, thuỷ chung. Đoạn thơ tuy ngắn
so với độ dài của cả bài thơ Việt Bắc nhưng nó vẫn thể hiện được những nét cơ
bản phong cách nghệ thuật và tình cảm mến yêu của nhà thơ. Bằng thể thơ lục
bát đậm đà tính dân tộc, Tố Hữu đã góp thêm vào vườn hoa thơ ca kháng chiến
nước ta một bông hoa tươi thắm sắc màu.
 
    138
ĐấT NƯớC  
(Trích Mặt đường khát vọng)
NGUYỄN KHOA ĐIỀM     
A - DẠNG ĐỀ  
– Bình giảng (hoặc phân tích) một khổ thơ, đoạn thơ.  
– Tư tưởng Đất Nước – Nhân dân trong bài thơ Đất Nước (so sánh với bài
Đất nước của Nguyễn Đình Thi về cách cảm nhận đất nước, quê hương).
– Bình giảng đoạn thơ (“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước
những núi Vọng Phu…”), so sánh với đoạn thơ trong bài Bên kia sông Đuống của
Hoàng Cầm (“Bên kia sông Đuống - Quê hương ta lúa nếp thơm nồng…”) để làm
rõ  cảm nhận về quê hương đất nước  trong những ngày kháng  chiến  (đề thi đại
học năm 2005, dạng câu 5 điểm).  
 Một số lưu ý : Đất Nước chỉ là một chương (chương 5) trong bản trường ca
dài Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, viết năm 1971, công
bố  chính  thức  năm  1974.  Chủ  đề  chính  của  bản  trường  ca  này  là  tư  tưởng  Đất
Nước  -  Nhân dân, là  sự  vận động của thế hệ trẻ thành thị miền Nam  hướng  về
nhân dân, về Tổ quốc trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đây là một tác
phẩm khó, nhưng nếu biết cách, học sinh có thể hiểu nó một cách dễ dàng. Tình
huống đề thi với tác phẩm này cũng không nhiều, có thể chỉ là dạng đề bình giảng,
phân tích khổ thơ hoặc thông qua việc phân tích khổ thơ, bài thơ làm rõ thêm một
nhận định nào đó của các nhà nghiên cứu về tác phẩm. Trường hợp đặc biệt nhất,
đề ra có thể yêu cầu phân tích một đoạn thơ rồi so sánh với một bài thơ khác cùng
chung chủ đề quê hương đất nước trong những ngày kháng chiến. Tuy nhiên hai
bài thơ gần gũi nhất về chủ đề với Đất Nước là Đất nước của Nguyễn Đình Thi và
Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã không còn nằm trong phần hạn chế đề thi,
nên khả năng ra đề như trên là không nhiều.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Mặt đường khát vọng là bản trường ca được Nguyễn Khoa Điềm  viết thời
kỳ  ông  sống  và  chiến  đấu  ở chiến  trường  Trị  -  Thiên  năm 1971.  Phải  đến  năm
  139
1974, bản trường ca mới được chính thức in ra. Trường ca gồm 5 phần, cấu trúc
theo sự diễn biến tư tưởng của thế hệ trẻ thành thị miền Nam hướng về nhân dân,
hướng về đất nước. Tuy chỉ là đoạn trích phần đầu chương 5 trường ca Mặt đường
khát vọng, nhưng Đất Nước lại là chương trụ cột, chương quan trọng nhất, và có
thể được đọc như là một bài thơ trọn vẹn, độc lập ít nhiều với bản trường ca. 
– Điểm độc đáo nhất của bài thơ Đất Nước so với các bài thơ cùng thời kỳ có
chung cảm hứng về quê hương, đất nước (so với Đất nước của Nguyễn Đình Thi,
Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm), đó là, xuyên suốt hình tượng đất nước là tư
tưởng  Nhân  dân,  là  sự  cảm  nhận  Đất  nước  Nhân  dân  từ  kho  tàng  ca  dao  thần
thoại,  là  cách  cảm  nhận  đậm  màu  sắc dân  gian  mà  cũng  không  kém  phần  “bác
học” của nhà thơ. Bài thơ có thể chia thành ba phần : 9 câu thơ đầu (từ đầu đến :
“Đất  Nước  có  từ  ngày  đó…”)  :  Đất  Nước  được  cảm  nhận  như  những  gì  thân
thuộc,  gần  gũi  nhất  với  mỗi  người;  33  câu  tiếp  theo  (từ  “Đất  là  nơi  anh  đến
trường… Làm nên Đất Nước muôn đời”) : Đất Nước được cảm nhận từ phương
diện  không  gian  địa  lý  và  thời  gian  lịch  sử)  ; đoạn thơ  còn  lại  :  Tư  tưởng  Đất
Nước – Nhân dân.
II - PHÂN TÍCH 
1. Cảm nhận về Đất Nước
a) Đất Nước là những gì gần gũi và thân thuộc với mỗi người
 –  Nguyễn  Khoa  Điềm  mở  đầu  bài  thơ  Đất  Nước  bằng  một  câu  thơ  rất  tự
nhiên, nó như một lời nói quen thuộc hàng ngày của mỗi người, như một chân lý
dường như ai cũng biết nhưng không phải ai cũng dễ dàng nói ra được : “Khi ta
lớn lên Đất Nước đã có rồi - Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể ”. Quả là so với Đất Nước, lãnh thổ thiêng liêng đã có từ nhiều
ngàn đời, những người trẻ tuổi thuộc thế hệ Nguyễn Khoa Điềm hãy còn quá trẻ.
Lúc họ sinh ra, Đất Nước đã có từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm sử dụng đại từ nhân
xưng Ta cũng là hoàn toàn có lý : ông muốn ràng buộc cá nhân mình với số đông
người. Đất Nước là của mỗi người, nhưng Đất Nước cũng là của tất cả. Là thế hệ
sinh sau, nhưng nhận thức về Đất Nước của nhà thơ là hết sức rõ ràng. Cũng bởi
thế,  nhà  thơ  cảm  nhận  về  Đất  Nước  bằng những  gì  gần  gũi  nhất  để  ai  cũng  dễ
dàng hiểu được : Đất Nước là câu chuyện mẹ kể hàng ngày, Đất Nước hiện hình
trong miếng trầu bà ăn, Đất Nước là cây tre thân thuộc Thánh Gióng dùng làm vũ
    140
khí đánh giặc, Đất Nước còn là cái kèo cái cột làm tên gọi mỗi đứa trẻ được sinh
ra, là câu chuyện cổ tích trầu cau, là gừng cay muối mặn, là hạt gạo một nắng hai
sương  xay  giã  nuôi sống con  người,…  Với cách  cảm nhận  hết sức bình dị này,
Đất Nước đã không còn trừu tượng, xa lạ với bất cứ ai. Và điều quan trọng hơn,
qua cách cảm nhận đầy màu sắc dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, bất cứ người
dân Việt Nam nào cũng có thể hiểu và chia sẻ với nhau về Đất Nước. Đất Nước đã
tồn tại từ ngàn đời nay trong lịch sử bằng công lao đóng góp của nhiều người. Đó
là một Đất Nước có truyền thống văn hoá, là Đất Nước gồm hàng triệu người dân
lam lũ lao động, đùm bọc, thương yêu nhau, sống với nhau trong tình nghĩa, dám
xả thân mỗi khi Đất Nước có xâm lăng, sống bình dị như ngọn lúa củ khoai, đặt
tên con cũng lấy ngay cái kèo cái cột. Nghĩa là Đất Nước có ở mỗi người, ở xung
quanh ta, không hề xa lạ.
b) Đất nước được cảm nhận từ không gian địa lý, thời gian lịch sử
 – Sau khi  nêu cảm  nhận Đất Nước  là  những gì gần  gũi thân thuộc với mỗi
người, đi vào cụ thể hơn, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục nêu nhận thức của mình về
Đất Nước. Cũng nhất quán trong cách cảm nhận trên, nhìn từ góc độ không gian –
địa lý, nhà thơ cũng cho rằng Đất Nước không hề xa lạ với bất cứ ai. Bởi lẽ : “Đất
là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”. Từ góc độ địa lý, Đất Nước là vùng
lãnh  thổ  gồm  nhiều  người  sống  chung  với  nhau,  cùng  nói  chung  thứ  tiếng,  có
chung tập tục, tâm lý, thói quen,… không thể tách chia ; từ góc độ ngôn ngữ, Đất
Nước  được  ghép  lại bởi  hai thành tố : đất và nước, nó chỉ có ý nghĩa  khi đứng
cùng nhau, không thể tách rời. Vậy nhưng trong tư duy thơ, Nguyễn Khoa Điềm
đã tách rời hai thành tố đó. Đất Nước bỗng trở nên gần gũi, thân thương.
Cũng từ cách cảm nhận trên, Đất Nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là
không gian địa lý tồn tại của mỗi người, Đất Nước còn là không gian của tình yêu,
của tuổi trẻ. Không phải ngẫu nhiên, trong bài thơ Đất Nước, dù đã có nhân vật số
đông là Nhân dân xuyên suốt từ đầu tới cuối bài thơ, vẫn có một nhân vật trữ tình
“em” sóng đôi cùng nhà thơ mỗi khi nhận thức về Đất Nước : “Đất Nước là nơi ta
hò hẹn - Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đó là nội
dung của một bài ca dao trong kho tàng văn học dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã
viết lại bằng cảm  nhận riêng độc đáo của  mình. Đất Nước  vừa gần  vừa  xa,  vừa
  141
được nhìn từ không gian hẹp và không gian rộng : “Đất là nơi “con chim phượng
hoàng bay về hòn núi bạc” - Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
c) Đất Nước được cảm nhận từ cội nguồn văn hoá tinh thần và tình cảm của
Nhân dân
–  Từ  bình  diện  không  gian  địa  lý  và  thời  gian  lịch  sử,  theo  Nguyễn  Khoa
Điềm, Đất Nước sở dĩ hình thành và phát triển được còn là nhờ có chung một cội
nguồn văn  hoá, tinh thần.  Mọi người dân  Việt Nam hẳn  không ai còn  xa  lạ với
truyền thuyết giải thích sự hình thành Đất Nước của ông cha ta từ chiếc bọc trăm
trứng  : “Lạc Long  Quân  và Âu Cơ -  Đẻ ra  đồng  bào  ta trong bọc trứng”,   năm
mươi người con lên rừng, năm mươi người con xuống bể. Chữ “đồng bào” cũng
hình thành từ đó. Những đứa con cùng sinh ra trong một bụng mẹ, tính nết có thể
khác  nhau  (“Cha  mẹ  sinh  con,  trời  sinh  tính”),  nhưng  cội  nguồn  văn  hoá  phải
giống nhau. Là dân Việt Nam, ai lại không có chung truyền thuyết về hình thành
Đất Nước, được thừa hưởng chung kho tàng văn hoá dân gian, hiểu chung một thứ
tiếng nói, cùng mang nét tâm hồn đồng điệu với nhau. Mỗi dân tộc tồn tại được
chính là nhờ có chung một nền văn hoá như thế. Nền văn hoá ấy lại là sự kết
tinh vẻ đẹp văn hoá, tinh thần từ cá nhân mỗi người, cả những người còn sống
và những người đã chết : “Những ai đã khuất - Những ai bây giờ - Yêu nhau và
sinh con đẻ cái”.
–  Nhận  thức  được  điều  đó,  Nguyễn  Khoa  Điềm  nhắn  nhủ  thế  hệ  của  ông:
“Dặn dò con cháu chuyện mai sau – Hằng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu
nhớ  ngày  giỗ Tổ”.  Bởi  vì Đất Nước  là  “máu xương  của  mỗi người”,  Đất Nước
không thể tồn tại nếu không có sự chung vai gắng sức, không có lòng đoàn kết của
tất  cả  mọi  người.  Đất  Nước  tồn  tại  trong  anh  và  em,  khi  anh  và  em  “cầm  tay
nhau”, Đất Nước như được tiếp thêm sức mạnh. Sức mạnh ấy sẽ còn được nhân
lên  gấp ngàn  lần,  nếu “chúng ta  cầm  tay mọi người”,  Đất Nước  sẽ “vẹn tròn to
lớn”.  Trong cách  nhận thức  của Nguyễn  Khoa  Điềm, Đất Nước không còn trừu
tượng, nó trở nên gần gũi biết bao! Đất Nước đã được cụ thể hoá trong hình hài
của mỗi người dân, trong anh và em, trong tất cả những người con của Đất Nước.
Chính từ đó, nhà thơ kêu gọi tất cả mọi người : “Phải biết hoá thân cho dáng hình
xứ sở - Làm nên Đất Nước muôn đời”.  
2. Tư tưởng Đất Nước – Nhân dân
    142
a) Đất Nước là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn tình cảm của Nhân dân
Trong phần đầu bài thơ, Đất Nước đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm
nhận từ góc độ không gian địa lý, thời gian lịch sử, từ cội nguồn văn hoá, cái
chung và cái riêng, trên tất cả, đó là sự cảm nhận Đất Nước trong những điều gần
gũi thân thiết nhất. Đến phần hai, sự vận động của hình tượng thơ đã đi dần tới tư
tưởng cốt lõi Đất Nước – Nhân dân. Trước tiên, đó là cảm nhận Đất Nước qua vẻ
đẹp tâm hồn tình cảm của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên, ở đoạn mở đầu, ông
đã dành hẳn mười hai câu thơ  nhắc tới các danh lam, thắng cảnh trên khắp mọi
miền đất nước :
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước 
                                                               những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái 
 …
 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, 
                                                               Bà Đen, Bà Điểm.
– Điểm lại vẻ đẹp đất nước qua những cảnh quan thiên nhiên, các danh lam
thắng cảnh, Nguyễn Khoa Điềm rất có ý thức nhắc tới vẻ đẹp đại diện cho cả ba
miền, trong nhiều nét  dáng  khác  nhau.  Ở miền Bắc,  đó là  vẻ đẹp của  núi Vọng
Phu, của hòn Trống Mái, Hạ Long, Cổ Loa, và đất Tổ Hùng Vương ; miền Trung
là núi Bút non Nghiên ; Nam Bộ, đó là những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm,… Mỗi kỳ quan này của thiên nhiên đều gợi cho ta những vẻ đẹp khác nhau
của Nhân dân. Chính Nhân dân đã góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp đó. Không
có Nhân dân, không có những người vợ  thuỷ chung chờ chồng đến thành hoá đá
làm sao có thể có truyền thuyết núi Vọng Phu ? Không có những người tình, yêu
nhau tha thiết làm sao có thể có hòn Trống Mái ? Truyền thống chống giặc ngoại
xâm từ ngàn đời của Nhân dân đã góp phần tạo nên huyền thoại Thánh Gióng, mà
đến ngày nay vẫn còn “trăm ao đầm để lại” khi vết chân ngựa của Thánh Gióng đi
qua ; Truyền thống dựng nước của Nhân dân còn in dấu ấn trên Đất Tổ vua Hùng
qua “chín mươi chín con voi”,  lòng hiếu học góp phần tạo nên non Nghiên,  núi
Bút. Rồi những địa danh, sơn danh ở vùng Nam Bộ, những con vật bình dị, thân
quen “con cóc con gà” cũng thành thắng cảnh ở Hạ Long. Đó là vẻ đẹp tâm hồn
của chính Nhân dân. Từ vẻ đẹp đó, nhà thơ  đã đi đến khái quát và nâng lên thành
tầm cao vẻ đẹp Đất Nước : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi - Chẳng mang
một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. 
  143
b) Đất Nước gắn liền với công lao dựng xây và bảo vệ của Nhân dân. Tư tưởng
Đất Nước – Nhân dân
– Viết về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm gần như cố ý không nhắc tới tên tuổi
của bất cứ vị anh hùng nào trong lịch sử bốn ngàn năm. Chẳng phải vì ông không
biết ơn, không kính trọng họ. Mà đơn giản chỉ là vì ông muốn nhấn mạnh vai trò
quan trọng của Nhân dân, những người đã góp công dựng xây nên Đất Nước, bảo
vệ Đất Nước, những con người vô danh, đến ngày nay không ai còn “nhớ mặt đặt
tên”, nhưng chính họ đã làm nên Đất Nước : “Em ơi em - Hãy nhìn rất xa - Vào
bốn nghìn năm Đất Nước - Năm tháng nào cũng người người lớp lớp - Con gái,
con trai bằng tuổi chúng ta - Cần cù làm lụng - Khi có giặc người con trai ra trận -
Người con gái trở về nuôi cái cùng con…”.
– Nhân dân từ muôn đời nay vẫn thế. Không phải chỉ đến thế hệ các nhà thơ
như  Nguyễn  Khoa  Điềm,  mà  thơ  ca  Việt  Nam  từ ngàn  đời nay,  từ  Lý  Thường
Kiệt, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn  Đình Chiểu,… đến Hồ Chí Minh, không
có thời kỳ nào, người ta lại không ca  ngợi vẻ đẹp của Nhân dân. Ở thời đại của
mình, Nguyễn Khoa Điềm cũng tìm được cách nói riêng. Đó là vẻ đẹp của lòng
yêu nước, khi Đất Nước có xâm lăng, bất kể gái trai già trẻ, ai cũng đều cầm súng
(“Ngày  giặc  đến  nhà  thì đàn  bà  cũng  đánh”)  ;  đó còn  là  vẻ  đẹp  của  sự  giản  dị
trong cuộc sống hàng ngày, của lòng dũng cảm  xả thân vì Đất Nước. Nhân dân
sinh con đẻ cái góp phần duy trì nòi giống ; truyền tiếng nói cho con cháu, “làm
ra” ngôn ngữ ; “chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi” để duy trì cuộc
sống dài lâu ; Nhân Dân cũng là người cần cù lao động, đắp đập be bờ, trồng cây
hái trái, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Ở đoạn thơ cuối, tư
tưởng Đất Nước – Nhân dân đã được nhà thơ đẩy lên đến cao trào, những câu thơ
kết tinh đậm  đặc  vẻ đẹp  Nhân dân đúc kết từ muôn đời trong  kho tàng ca  dao,
thần thoại :
Để Đất nước này này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại 
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.
Nét độc đáo trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện rõ ràng qua phong
cách thơ vừa cổ kính lại vừa hiện đại của mình. Nhà thơ đã biết chắt lọc từ vốn
    144
văn học dân gian những trang thơ văn giá trị nhất về vẻ đẹp của Nhân dân để viết
thành những câu thơ của riêng mình. Đó là vẻ đẹp của tình yêu đằm thắm (yêu em
từ thuở…),  của  nghĩa tình (cầm vàng mà lội…), của  lòng  yêu nước  bền bỉ (Biết
trồng  tre...),  mà  Nhân  dân  đã  vun  đắp,  giữ  gìn  từ  ngàn  đời  nay.  Đó  cũng  là  tư
tưởng Đất Nước – Nhân dân trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
III - KẾT LUẬN : So sánh bài thơ của Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với
Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm                         
Thơ  ca  Việt  Nam  viết  về  quê  hương  đất  nước  không  chỉ  có  riêng  bài  Đất
Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ít nhất trong cùng đề tài và cảm hứng còn có bài
thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Nét
khác nhau trước tiên trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm với hai nhà thơ trên là
ở chỗ: Trong khi Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước trong thời
chống Mỹ, thì Hoàng Cầm và Nguyễn Đình Thi lại viết về thời kỳ chống Pháp.
Thứ hai, tư tưởng cốt lõi của Nguyễn Khoa Điềm là tư tưởng Đất Nước – Nhân
dân và được khai thác trong vẻ đẹp của ca dao thần thoại, Nguyễn Đình Thi lại
khai thác hình tượng Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử, từ đất nước mùa thu
trước Cách mạng, đất  nước  mùa thu  kháng  chiến,  đất nước  của tình  yêu  và đất
nước đau thương ; còn Hoàng Cầm thì viết về đất nước qua một miền quê riêng
(Kinh Bắc). Cả ba bài thơ có nét phong cách khác nhau, nhưng đều là những bông
hoa tuyệt đẹp trong nền thơ ca kháng chiến.
 
                                 
SóNG 
XUÂN QUỲNH
A - DẠNG ĐỀ 
– Phân tích hình tượng sóng và nêu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người phụ
nữ trong tình yêu qua hình tượng này (đề thi đại học năm 2007, dạng câu 5 điểm).
– Bình giảng đoạn thơ : “Con sóng dưới lòng sâu… Cả trong mơ còn thức”
(đề thi đại học năm 2002, dạng câu 3 điểm).
  145
Một  số  lưu  ý  :  Tác  giả  Xuân  Quỳnh  chỉ  có  duy  nhất  bài  thơ  Sóng  trong
chương trình học, nhưng đây là bài thơ dễ được chọn trong các tình huống ra đề.
Tuy nhiên các tình huống đề thi với bài học này thường không phức tạp, chủ yếu
chỉ  là  dạng  đề  phân  tích  hoặc  bình  giảng  khổ  thơ.  Ở  dạng  đề  khái  quát,  thông
thường đề thi yêu cầu phân tích bài thơ để làm rõ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ
nữ. Khi học và giải quyết dạng đề thi này, học sinh nên chú ý nắm được đặc điểm
phong cách thơ Xuân Quỳnh, chú ý dạng thơ năm chữ nhà thơ sử dụng, nữ tính
trong cách nói về tình yêu, việc sử dụng hình tượng sóng như một ẩn dụ để nói về
tình yêu, so sánh chút ít với nhà thơ Xuân Diệu khi viết về cùng một hình tượng.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là một nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Bà làm thơ từ những năm 60, thơ bà thể hiện một trái tim phụ nữ
hồn hậu, chân thành, khao khát tình yêu, biết nâng niu hạnh phúc đời thường, bình
dị. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Xuân Quỳnh đã kịp để lại nhiều tập thơ,
thơ của bà mang rõ phong cách của một con người biết yêu tha thiết và cũng biết
hi sinh hết lòng. Những tập thơ tiêu biểu của bà gồm : Hoa dọc chiến hào, Gió
Lào cát trắng, Tự hát,...
–  Sóng  là  một  trong  những  bài  thơ  tiêu  biểu  của  Xuân  Quỳnh,  in  trọng  tập
Hoa dọc chiến hào (1968). Trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng
sóng để nói về tình yêu. Sóng có thể coi là một hình tượng ẩn dụ về tình yêu của
người con gái và vì thế nó rất giàu nữ tính.
II -  PHÂN TÍCH (hình tượng sóng)
1. Sóng là biểu tượng cho tình yêu sôi nổi và đằm thắm (4 khổ thơ đầu)
– Sóng được Xuân Quỳnh viết vào thời kỳ đầu khi cuộc sống của bà còn nhiều
bình  yên,  nhà  thơ  lúc  đó  hãy  còn  rất  trẻ,  còn  nhiều  niềm  tin  ở  cuộc đời,  vì  thế
Sóng trước hết mang rõ đặc điểm tâm hồn tác giả.
– Bài thơ gồm 3 khổ lớn, mỗi khổ 4 câu, tự bản thân nó đã tạo thành cặp đôi
của sóng. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, luôn sóng đôi với hình tượng “em”. Vì
    146
thế, nó cũng chứa đựng vẻ đẹp phong phú, phức tạp trong tâm hồn người con gái
khi đang yêu. Phần lớn các câu thơ trong bài đều được sử dụng vần bằng. Nhờ thế,
âm  điệu  của bài thơ  cũng  nhẹ nhàng,  sâu  lắng.  Tác  giả cũng sử dụng nhiều cặp
hình ảnh đối sánh để làm rõ đặc điểm của tình yêu. Cũng giống như tình yêu, sóng luôn
có sự đan cài giữa những mặt đối lập : dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, sông – bể, bề
sâu mặt nước, đại dương – bờ, sóng nhỏ – biển lớn,...
– Cùng viết về tình yêu qua hình tượng sóng, nhà thơ Xuân Diệu cũng từng có
bài  thơ  Biển,  trong  đó  có  nhắc  đến  sóng.  Tuy  nhiên,  giữa  Xuân  Diệu  và  Xuân
Quỳnh có nhiều điểm khác nhau : Xuân Diệu qua hình tượng sóng chỉ nói về tình
yêu của người con trai từ một phía, đó là thứ tình yêu vồ vập, cuồng nhiệt “như
nghiến nát bờ em” ; Sóng của Xuân Quỳnh lại đa dạng, phong phú, tinh tế và phức
tạp hơn. Đó là thứ tình yêu được nói bằng trái tim của người con gái. Nó vừa dịu
dàng, da diết và cũng vừa sôi nổi, cuồng nhiệt. Những cặp đôi hình ảnh đối sánh
được dẫn ra ở trên đã cho thấy rõ điều này. Với Xuân Quỳnh, tình yêu tự bản thân
nó đã luôn chứa đựng những điều nghịch lí. Có lẽ vì thế, cũng như “em”, để hiểu
được mình, sóng phải có những chuyến đi xa, những khám phá tìm tòi. Chỉ trong
cái tôi hạn hẹp của mình, sóng không bao giờ thoả mãn.
– Là người phụ nữ viết về tình yêu, cũng có khi Xuân Quỳnh bộc bạch những băn
khoăn hết đỗi hồn nhiên, nữ tính : “Sóng bắt đầu từ gió - Gió bắt đầu từ đâu ? - Em
cũng  không biết  nữa -  Khi nào ta  yêu  nhau”.  Đặt câu hỏi và  cũng  không muốn
được trả lời, bởi Xuân Quỳnh tự hiểu rằng, tình yêu là một thế giớ bí ẩn, không
phải lúc nào người ta cũng cắt nghĩa được.
2. Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu (khổ thơ 6 câu)
–  Trong bài thơ, Xuân Quỳnh muốn thông qua hình tượng sóng để nói đến
một thứ tình yêu sôi nổi và đằm thắm (đoạn 1), một niềm tin toàn vẹn ở tình yêu
(đoạn 3), đoạn thơ dưới đây lại đi sâu khắc hoạ một nét tình cảm đặc trưng không
bao giờ thiếu của tình yêu:
 Con sóng dưới lòng sâu
 Con sóng trên mặt nước
 Ôi con sóng nhớ bờ
 Ngày đêm không ngủ được
 Lòng em nhớ đến anh
  147
 Cả trong mơ còn thức...
– Trong bài thơ, đây là  khổ thơ duy nhất có 6 câu và cũng là khổ duy nhất,
hình tượng sóng được nhắc đến nhiều lần (3 lần).
– Sóng là hình tượng luôn sóng đôi với hình tượng “em”, vì thế khi nhắc đến
sóng, cũng có nghĩa là nhà thơ cũng bộc lộ cái tôi của mình. Khi yêu cũng giống
như tất cả mọi người, Xuân Quỳnh luôn hướng về tình yêu. Đó là nỗi nhớ thường
trực,  không bao giờ ngơi nghỉ. Nhà thơ sử dụng  cả hai phạm trù không gian  và
thời gian để nói về nỗi nhớ trong tình yêu. Thơ ca  xưa nay khi viết về tình  yêu
không bao giờ quên viết  về nỗi nhớ.  Xuân Quỳnh cũng thế,  nhưng bà viết theo
cách riêng của mình. Về không gian, bà dùng hai khái niệm đối nghịch: “Lòng sâu
–  mặt nước”  để khẳng định dù  ở bất cứ đâu, con  sóng  vẫn  luôn hướng đến bờ,
cũng như em khi đã yêu anh, thì ở bất cứ đâu cũng không bao giờ nguôi nỗi nhớ.
Về thời gian, nhà thơ cũng có cách nói riêng rất độc đáo: “Lòng em nhớ đến anh -
Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ không chỉ đến khi còn thức, mà nỗi nhớ còn đi
vào trong cả giấc ngủ, nghĩa là nỗi nhớ thường trực trong suốt cả cuộc đời.
3. Sóng là biểu tượng cho niềm tin trong tình yêu (3 khổ thơ cuối)
– Sóng luôn vận động, cũng như tình yêu gắn liền với những khát khao trăn
trở không  yên, như  người phụ nữ  khi  yêu luôn da diết nhớ nhung,  cồn cào ước
vọng về một tình yêu vững bền chung thuỷ. Ở hai đoạn thơ trên, khi nói đến tình
yêu, Xuân Quỳnh  đã  nhắc  đến  vẻ đẹp đầy  “nữ tính của sóng”.  Cũng  như  sóng,
người con gái khi đã  yêu, là tràn ngập trong trái tim mình niềm tin. Dường như
không  có  niềm  tin,  cũng  không  thể  có  tình  yêu.  Xuân  Quỳnh  cũng  thế.  Giống
nhân vật Nguyệt của Nguyễn Minh Châu trong Mảnh trăng cuối rừng, một khi đã
yêu, thì niềm tin luôn luôn bền vững. Ở đoạn thơ cuối, Xuân Quỳnh khẳng định
niềm tin đó :  
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
–  Sóng  là  hiện tượng thiên  nhiên vĩnh cửu,  cũng như tình  yêu là  khát vọng
muôn đời của con người, trước hết là người phụ nữ (nhân vật trữ tình), muốn dâng
hiến cả cuộc đời cho tình yêu đích thực. Ở cuối bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh cũng
    148
có một ước mơ, khát vọng thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong
tình yêu : “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình
yêu -  Để  ngàn  năm còn vỗ”.  Đó là  khát  vọng được  hi  sinh,  được dâng hiến  hết
lòng cho tình yêu.
III -   KẾT LUẬN
Sóng là một trong những bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và
của thơ ca  Việt Nam  hiện đại nói chung. Mặc dù việc sử dụng hình tượng sóng
làm  ẩn  dụ  không mới,  và  không  phải  chỉ  có  duy nhất  của  Xuân  Quỳnh,  nhưng
cách khai thác sự tinh tế, phức tạp, đa dạng của hình tượng ẩn dụ này lại thực sự
mới mẻ. Xuân Quỳnh đã tìm được một hình tượng thơ thật đẹp để giãi bày tình
yêu dịu dàng mà mãnh liệt, gần gũi mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ.
 
 
ĐàN GHI TA CủA LOR-CA 
     THANH THẢO
A - DẠNG ĐỀ
– Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật trữ tình Gác-xi-a Lor-ca
qua bài thơ.
–  Phân tích (hoặc bình giảng) một khổ thơ bất kỳ. 
–  Trong bài Đàn ghi ta  của Lor-ca, có đoạn thơ :  “không ai  chôn  cất tiếng
đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang - giọt nước mắt vầng trăng - long lanh trong
đáy giếng”, anh/ chị hãy phân tích đoạn thơ trên để làm rõ ý đồ của nhà thơ về
mối quan hệ giữa hai hình tượng : cây đàn ghi ta và nhà thơ Lor-ca. 
Một số lưu ý : Trong phân bố chương trình, bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà
thơ Thanh Thảo nằm trong cả sách giáo khoa Ngữ văn chuẩn và nâng cao. Đây là
bài học  mới được  chính  thức đưa  vào nội dung  đề thi từ  năm 2009. Các kỳ thi
2006, 2007, 2008, ba tác phẩm Một người Hà Nội, Chiếc thuyền ngoài xa, kịch Vũ
Như Tô đều đã được chọn ra đề. Đàn ghi ta của Lor-ca và một vài tác phẩm khác
  149
trong  chương  trình  sách  12  đến  năm  nay  mới  nằm  trong  sự  lựa  chọn.  Để  giải
quyết tốt các dạng đề thi của tác phẩm này, học sinh cần nắm vững các dạng đề thi
đã nêu ở trên, vận dụng chính xác phần gợi ý làm bài ở dưới sao cho không trùng
lặp cũng như không thiếu ý theo yêu cầu cụ thể của mỗi loại đề. Khi học bài, học
sinh trước hết cần phải hiểu được ý nghĩa nhan đề bài thơ : Tại sao Thanh Thảo lại
đặt tên bài thơ là Đàn ghi ta của Lor-ca… Đàn ở đây chỉ là một hình ảnh hoán dụ,
nó là tất cả : âm thanh tiếng đàn, cuộc đời nhà thơ, sự nghiệp cách mạng và sự
nghiệp thơ ca,  tóm lại nó biểu  tượng cho tất cả những  gì liên quan đến nhà  thơ
Tây Ban Nha này. Để giải quyết tốt dạng đề bình giảng hay phân tích từng khổ
thơ, phải nắm được ý chính của chúng. Nên nhớ, đây là một trong những bài học
khó nhất trong chương trình.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Trong số các nhà thơ trưởng thành và có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt
Nam hiện đại, thời kỳ chống Mỹ và hậu chiến, bên cạnh những Phạm Tiến Duật,
Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Nguyễn Duy,… Thanh Thảo cũng tìm
được một tiếng nói riêng không kém phần độc đáo trong lòng bạn đọc. Tác phẩm
đầu tiên của Thanh Thảo chính thức được trình làng là một bản trường ca (Những
người đi tới biển, 1977). Từ đó đến nay, ông đã in hàng chục tập thơ. Có thể kể ra
đây  một số  tác  phẩm  tiêu  biểu:  Dấu  chân qua trảng  cỏ,  Những  ngọn  sóng  mặt
trời, Cỏ vẫn mọc, Khối vuông ru bích,… Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca được trích
trong tập thơ Khối vuông ru bích.
II - PHÂN TÍCH
– Nhận xét về đặc điểm thơ Thanh Thảo, phần Tiểu dẫn sách giáo khoa lớp
Ngữ văn 12 cho rằng, đây là một nhà thơ “giàu suy tư, phóng túng trong xúc cảm
và… không dễ hiểu vì ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực”. Đó cũng
là phong cách chung của nhà thơ này. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là một minh
chứng tiêu biểu.
– Tuy nhiên, để hiểu một tác phẩm thơ, nhất là thơ có ít nhiều ảnh hưởng từ
phương Tây, như Đàn ghi ta của Lor-ca, ta vẫn có cách tiếp cận. Và cách tiếp cận
tốt nhất với bài thơ này là phải tìm hiểu kỹ chủ đề, đối tượng tạo cảm hứng của
    150
nhà thơ (Lor-ca), phương thức  nghệ thuật của bài thơ này (thể thơ tự do, tượng
trưng), các mã hình ảnh so sánh, biện pháp tu từ (tiếng đàn, màu đỏ, bọt nước, yên
ngựa, vầng trăng, nhà thơ và đất nước Tây Ban Nha,…). Trước tiên ta có thể chia
tách bài thơ thành các đoạn nhỏ tương ứng với các ý chính sau :
– 6 câu đầu (“những tiếng đàn bọt nước… trên yên  ngựa  mỏi mòn”)  : cảm
hứng chung về tiếng đàn, Lor-ca và đất nước Tây Ban Nha.
– 12 câu tiếp theo (“Tây Ban Nha… chàng đi như người mộng du”) : Khúc bi
tráng của Lor-ca, khúc bi tráng của tiếng đàn.
–  Đoạn thơ còn  lại    (“không  ai  chôn cất  tiếng  đàn…  trên chiếc  ghi  ta  màu
bạc”) : cảm xúc của tác giả về tiếng đàn và về Lor-ca.
Việc phân chia các ý nhỏ trong một bài thơ chỉ mang tính tương đối. Khi tiếp
cận một bài thơ, mỗi người đều có cách của riêng mình, miễn sao phải nói được
đầy đủ nhất cái  hay, cái đẹp của tác phẩm. Nói đầy đủ nhất, vì một bài thơ hay
thật khó có thể khai thác được cạn kiệt mọi vẻ đẹp trong đó. Đó cũng là đặc điểm
của mọi kiệt tác văn học nói chung.
1. Cảm hứng chung về tiếng đàn, Lor-ca và đất nước Tây Ban Nha (6 câu đầu)
– Một tác phẩm thơ cho dù ngắn nhất, bao giờ cũng có một cấu trúc, nghĩa là
nó cũng có mở đầu, nội dung chính và kết thúc (trừ các sáng tác có chủ định phá
vỡ cấu trúc của tác phẩm), Đàn ghi ta của Lor-ca cũng nằm trong khuôn khổ đó.
Đoạn mở đầu 6 câu, trước tiên gợi cho ta cảm hứng chung về đối tượng hướng tới
của bài thơ. Có thể tóm tắt gọn trong ba chữ : Tiếng đàn, nhà thơ Gác-xi-a Lor-
ca và xứ sở Tây Ban Nha. 
– Bài thơ được viết theo thể tự do, cách ngắt nhịp biến hoá không theo một
công thức định sẵn nào,  câu thơ  cũng dài,  ngắn  khôn  lường (nếu thống  kê  toàn
bài, câu ngắn nhất hai chữ : “máu chảy” và dài nhất tám chữ : “tiếng ghi ta tròn
bọt  nước  vỡ  tan”)…  Như  thế  có  nghĩa,  cách  ngắt  nhịp,  gieo  vần,  số  lượng  chữ
trong mỗi câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào tâm trạng cảm xúc của nhà thơ.
– Để hiểu được nội dung chính của bài thơ, ta cũng cần nên giải thích ngay
nhan đề và lời đề từ của tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên, Thanh Thảo chỉ chọn
duy nhất một câu thơ của Lor-ca làm đề từ cho bài thơ của mình : “khi tôi chết
hãy chôn tôi với cây đàn”. Chính nhà thơ Tây Ban Nha đã  khẳng định, cây đàn
với ông chỉ là một, cây đàn là cuộc đời của nhà thơ, cây đàn đi cùng ông hết cả
  151
cuộc đời và đến tận cõi chết. Nhà thơ hình như cũng đã đoán định được số mệnh
của mình : Khát vọng tự do, ý chí bất khuất của ông thật khó có thể tồn tại trong
một xã hội Franco Tây Ban Nha phát xít. Vì thế, nhan đề Đàn ghi ta của Lor-ca
thực chất là chính nhà thơ Lor-ca. Cây đàn, âm thanh của đàn trong bài thơ này có
thể được xem như một hình ảnh hoán dụ. 
– Chỉ với ba câu đầu, ta dường như đã cảm nhận được khá đầy đủ nội dung chính
của bài thơ: “những tiếng đàn -  bọt nước - Tây Ban Nha - áo choàng đỏ gắt - li la - li
la - li la”. Ba câu thơ được ngắt thành bẩy nhịp với thật nhiều liên tưởng, so sánh,
ẩn dụ. “Tiếng đàn” từ cấp độ âm thanh, thính giác được liên tưởng so sánh với
“bọt nước”, hình ảnh ở cấp độ thị giác. Sự so sánh thoạt tiên dễ gây cảm giác vô
lý, xem  ra  lại  có  vẻ  hợp  lý.  Chúng  ta  hãy  một  lần  nhắm  mắt  lại  lắng  nghe  âm
thanh của tiếng đàn ghi ta, sẽ hình dung ngay được hình ảnh bọt sóng mà Thanh
Thảo so sánh liên tưởng ở đây hợp lý như thế nào. Những bọt sóng nhỏ li ti tương
ứng với âm thanh của cây đàn ghi ta “li la - li la - li la”, cách phối hợp hai nguyên
âm ngắn dài (i, a) xen kẽ nhau, cạnh đó là sự xen kẽ giữa hai màu xanh, trắng (bọt
nước), khiến ta có cảm giác như nhìn thấy và nghe thấy tiếng đàn, thấy cả sắc màu
của hoa tử đinh hương (li la), một loài hoa rất phổ biến ở đây, từ đó hình dung ra
sự vận động không ngừng của người nghệ sĩ dấn thân cho cuộc sống... Với sự tiết
chế ngôn từ, trong một đoạn thơ rất ngắn, Thanh Thảo đưa vào rất nhiều hình ảnh
từ ngữ tượng trưng : “áo choàng đỏ gắt”  là  tượng trưng cho tinh thần bất khuất
của các hiệp sĩ Tây Ban Nha, đó là những người không sợ hiểm nguy, không sợ cả
cái  chết,  dám  dấn  thân  để  thực  hiện  khát  vọng  của  mình.  Lang  thang,  chếnh
choáng, vầng trăng, yên ngựa mỏi mòn gợi con đường đi gập ghềnh, phẩm chất
nghệ sĩ, sự đơn độc, tình yêu yêu tự do và nỗi buồn của con người trên con đường
đi tìm lý tưởng. Đó cũng là hình ảnh của chàng hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê thuở nào,
hình  ảnh  nhà  thơ    Lor-ca,  hình  ảnh  đất  nước  Tây  Ban  Nha  đau  khổ  và  bi
tráng. Thanh Thảo sử dụng trong đoạn thơ ngắn của mình rất nhiều từ láy :
láy phụ âm, láy vần, láy tiếng… (li la, lang thang, mỏi mòn, chếnh choáng).
Câu thơ của ông vì thế, có lúc vang lên như một khúc nhạc buồn, xoáy vào
tận tâm can người đọc. 
–  Qua  sáu  câu  thơ  mở  đầu,  Thanh  Thảo  đã  tạo  dựng  được  hình  ảnh  người
chiến sĩ yêu tự do, người nghệ sĩ hoà mình với vận mệnh dân tộc, lãng mạn, kiêu
hùng nhưng cũng buồn bã, đơn độc. Đoạn thơ đậm đặc chất nhạc, chất hoạ nhưng
không  hề  mất  đi  sức  biểu hiện, suy  tư,  vốn  là  một  trong  những  đặc  điểm  quan
trọng nhất của thơ Thanh Thảo.
    152
2. Khúc bi tráng của tiếng đàn, khúc bi tráng của cuộc đời Lor-ca (12 câu
tiếp theo)
– Sau khúc dạo đầu đầy ấn tượng, đoạn thơ mười hai câu tiếp theo là khúc bi
tráng về cuộc đời Lor-ca và khúc bi tráng, tha thiết của tiếng đàn : “Tây Ban Nha -
hát nghêu ngao - bỗng kinh hoàng - áo choàng bết đỏ… - tiếng ghi ta ròng ròng -
máu chảy”… Không chỉ dừng lại ở thể thơ tự do, khi viết về cái chết đau thương
của nhà thơ Tây Ban Nha, câu thơ của Thanh Thảo dường như không còn bị ràng
buộc bởi bất cứ một quy luật nào, nó như những lời nói nhát gừng, như tiếng nức
nở, như khúc hát rong, như lời tố cáo… Cái tên Tây Ban Nha được nhắc đến trước
tiên. Thanh Thảo không bao giờ tách Lor-ca ra khỏi Tổ quốc ông. Nhà thơ kinh
hoàng khi nhìn thấy sắc màu đỏ chói của tấm áo choàng người hiệp sĩ Tây Ban
Nha trong các trận đấu bò tót. Nhưng đây không phải tấm áo choàng định mệnh
đó. Đó là màu đỏ tấm áo choàng của Lor-ca : “Lor-ca bị điệu về bãi bắn - chàng đi
như người mộng du”. Nỗi oan ức về cái chết vô lý của người chiến sĩ suốt đời đấu
tranh cho tự do, in rõ trên hình ảnh câu thơ. Câu thơ như xiêu vẹo, mộng du trong
ảo ảnh.
– Cây đàn, hình ảnh chủ chốt và xuyên suốt bài thơ đã được tác giả khắc hoạ
rất thành công trong đoạn thơ này. Đây cũng là đoạn thơ, hệ thống hình ảnh ẩn dụ
được sử dụng dày đặc nhất : “Tiếng ghi ta nâu - bầu trời cô gái ấy- tiếng ghi ta lá
xanh biết mấy - tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan - tiếng ghi ta ròng ròng - máu
chảy”. Dường như cả cuộc đời của Lor-ca đã được kết tụ trong tiếng đàn này, năm
câu thơ là năm ẩn dụ. Chúng ta đã từng được “nghe” tiếng đàn của Thuý Kiều mà
nhà thơ Nguyễn Du miêu tả trong tác phẩm cùng tên và cảm giác như “nhìn” thấy
tiếng đàn (“Trong  như tiếng hạc bay qua - Đục như nước suối mới sa nửa vời -
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài - Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”). Thanh
Thảo cũng  thế,  những âm thanh tiếng đàn của  Lor-ca,  đều như  lần  lượt  hiện  ra
trước mắt ta với tất cả sắc màu, hình khối, âm thanh, sinh mệnh của nó. Tiếng ghi
ta nâu gợi liên tưởng màu da cô gái Di gan, hoặc cũng có thể của người con gái
nhà thơ  từng  yêu  (An-na Ma-ri-a), một tình  yêu vô cùng tha thiết và mãnh liệt
(Sau cái chết của Lor-ca, Ma-ri-a đã ở vậy cho đến trọn đời ;  tiếng ghi ta lá xanh
là ẩn dụ về niềm lạc quan, khát vọng tự do, tình yêu cuộc sống của người nghệ sĩ
Tây Ban Nha ; “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” mang lại cho ta  cảm giác như
nghe và nhìn thấy cả hình khối (tròn), màu sắc (màu trắng của bọt nước) và âm
  153
thanh (bọt nước vỡ tan) của tiếng đàn. Câu thơ cuối ấn tượng nhất trong đoạn thơ
này. Đó là câu thơ nói về sinh mệnh của nhà thơ Tây Ban Nha : “tiếng ghi ta ròng
ròng - máu chảy”. Đọc câu thơ này, trái tim ta như thắt lại ! Máu nhà thơ Lor-ca
đã đổ, máu người hiệp sĩ đấu bò tót đã đổ, và biết đâu còn cả máu của nhà quý tộc
mặt buồn Đôn Ki-hô-tê… Cả năm câu thơ, bằng cách viết tài hoa, điêu luyện của
mình,  Thanh  Thảo đưa  người  đọc  chuyển  từ  trạng  thái  cảm  xúc  này  sang  trạng
thái cảm xúc khác. Đó cũng là lý do để khi nhận xét về đặc điểm thơ Thanh Thảo,
người ta cho rằng thơ ông có màu sắc siêu thực, tượng trưng.
3. Sự vĩnh cửu của tiếng đàn và sự bất tử của Lor-ca (Đoạn thơ còn lại)
– Đoạn thơ còn lại gồm 3 khổ thơ mười hai câu và một câu kết với dấu chấm
lửng ở cuối dòng như một ẩn ý về sự bất tử của tiếng đàn, sự bất tử của Lorca :
“không ai chôn cất tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang - giọt nước mắt vầng
trăng - long lanh trong đáy giếng… - li la - li la - li la…”.
– Bày tỏ nỗi cảm thương về cái chết bi hùng của người nghệ sĩ, Thanh Thảo
không hề đẩy người đọc vào tình cảm  yếu đuối, bi thương. Trái lại, câu thơ của
ông tràn đầy dũng khí. Ông nhìn thấy có sự bất tử kỳ diệu trên cõi đời này. Tận
dụng triệt để lối  viết tượng trưng, siêu thực, Thanh Thảo chứng minh một cách
thuyết phục rằng, tiếng đàn của Lor-ca sẽ còn tồn tại với muôn đời. Và như thế có
nghĩa  là,  linh hồn của  nhà thơ Lor-ca  cũng trở thành bất tử.  “không ai chôn cất
tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Cách nói phi lô gích trong câu thơ bỗng
trở nên lô gích trong cuộc đời. Đúng như thế, người ta có thể chôn được cây đàn,
như  lời  ước  nguyện  của  Lor-ca “khi  tôi  chết  hãy  chôn  tôi  với  cây  đàn”,  nhưng
người  ta  không  thể  chôn  được  âm  thanh  tiếng  đàn,  cũng  như  không  thể  đè bẹp
được khát vọng tự do của con người. Thanh Thảo so sánh sự tồn tại bất diệt của
âm thanh tiếng đàn của người nghệ sĩ dân gian với sức sống diệu kỳ của cây cỏ.
Hình ảnh “cỏ hoang” còn gợi ở người đọc sức sống bền bỉ và lan tỏa của loài thực
vật đặc biệt này. Nó cũng giống tiếng đàn của người nghệ sĩ lang thang trên khắp
nẻo đường đất nước Tây Ban Nha, như Hiệp Sĩ Mặt Buồn Đôn Ki-hô-tê trên con
đường “chinh phục” công lý, tự do và bác ái…
– Không chỉ khẳng định sức sống bất diệt của tiếng đàn, của nhà thơ yêu khúc
dân ca mê đắm, Thanh Thảo còn thể hiện sự trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp trong trẻo,
thanh  khiết  về cái chết bất tử của  nhà  thơ Tây  Ban Nha  :  “Giọt nước  mắt vầng
trăng - long lanh trong đáy giếng”. Giọt nước mắt là hình ảnh ẩn dụ về cái chết, về
sự đau thương, vầng trăng là hình ảnh ẩn dụ cho sự trong trẻo, thanh khiết. Trước
    154
cái chết,  ai mà không đau thương,  nhưng đau thương không  hẳn là bi luỵ.  Trên
thực tế, trong cuộc sống và đấu tranh, nhà thơ Lor-ca đã cống hiến hết tài  năng
sức lực của mình, ông bình thản đón nhận cái chết như  đón nhận sự hồi sinh. Lor-
ca và các đồng chí của ông đơn độc trong cuộc chiến đấu không cân sức của mình
với bọn phát xít Phranco, vì thế hiểu được số phận và sinh mệnh của mình. Ông
yêu thiết tha cuộc sống, nhưng không hề run sợ trước cái chết : “đường chỉ tay đã
đứt  - dòng sông  rộng  vô  cùng  -  Lor-ca  bơi  sang  ngang -  trên chiếc  ghi  ta  màu
bạc”, “chàng ném lá bùa cô gái Di gan - vào xoáy nước - chàng ném trái tim mình
-vào lặng yên bất chợt”…
III - KẾT LUẬN
Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca mở đầu bằng tiếng đàn với mô phỏng âm thanh
tiếng  ghi  ta,  sắc  màu  tím bất diệt  của  loài  hoa  li  la  và  kết  thúc  cũng  bằng  điệp
khúc âm thanh quen thuộc : “li la - li la - li la…”. Đây là  lối kết thúc đầy ẩn ý.
Không phải ngẫu nhiên Thanh Thảo nhắc lại điệp khúc âm thanh sống động này,
nó là âm thanh được mô phỏng từ chính tiếng đàn ghi ta. Cũng không phải ngẫu
nhiên, ông để dấu chấm lửng ở cuối câu thơ. Viết về cái chết của người nghệ sĩ,
Thanh Thảo muốn  khẳng định  rằng,  cho  dù số phận oan  nghiệt có cắt đứt giữa
dòng cuộc đời của người nghệ sĩ, thì không phải vì vậy mà  người nghệ sĩ chấm
dứt  cuộc  đời.  Sự  sống  không  dừng  lại  ở  nơi  bắt  đầu  cái  chết.  Chính  xác  hơn,
người nghệ sĩ có thể chết, nhưng tiếng đàn và cuộc đời của ông thì vẫn còn ở lại
với muôn đời. Vẻ đẹp tâm hồn ông mãi sống trong lòng nhân dân, đất nước. Đó là
triết lý của Thanh Thảo trong bài thơ này.  
 
 
 NGƯờI LáI Đò SÔNG Đà 
    NGUYỄN TUÂN
A - DẠNG ĐỀ
 – Hình tượng sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.
– Phân tích hình tượng ông lão lái đò trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà để
làm rõ nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân (đề thi đại học năm
2003, dạng câu 5 điểm).
  155
– Nét độc đáo nội dung và nghệ thuật trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.
Một số lưu ý : Xem trong bài Nguyễn Tuân. 
B - GỢI Ý LÀM BÀI      
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Người lái đò Sông Đà là một trong những tuỳ bút đặc sắc nhất của Nguyễn
Tuân in trong tập bút ký Sông Đà tập hợp những tác phẩm ông viết trong thời gian
thực tế vùng đất Tây Bắc, theo lời kêu gọi của Đảng và chính phủ ngay sau khi
hoà bình được lập lại (1958). Nét đặc sắc của Nguyễn Tuân trong tác phẩm  này
vẫn là sự nối tiếp phong cách văn chương mà ông đã thực thi từ trước Cách mạng
tháng  Tám  1945,  đó  là  sự  tiếp  cận  hiện  thực  luôn  từ  góc  độ  nghệ  thuật,  là
cách nhìn con  người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ, là vốn kiến thức uyên bác và
đặc biệt là  sự lao động  nghệ thuật bền bỉ và cẩn trọng  của  nhà văn trong sự
lựa chọn, sử dụng ngôn từ.
–  Trong  tuỳ  bút  Người  lái đò  Sông  Đà,  Nguyễn  Tuân  không  chỉ  xây  dựng
thành công hình tượng ông lão lái đò, một “nghệ sĩ” trong công việc lao động bình
dị thường ngày ở tận nơi hang cùng ngõ hẻm của vùng đất Tây Bắc, mà còn miêu
tả hết sức thành công vẻ đẹp lãng mạn mà hiện thực của hình tượng sông Đà, một
bức tranh thiên  nhiên  hoang dã  và  mỹ  lệ  của miền Tây Tổ quốc.  Với tác phẩm
này, Nguyễn Tuân đã khẳng định được tài năng đặc biệt của ông trong thể loại tuỳ
bút. 
II - PHÂN TÍCH
  1. Độc đáo trong nghệ thuật miêu tả hình tượng sông Đà
– Nét độc đáo trước tiên của tuỳ bút Người lái đò Sông Đà có lẽ phải nhắc đến
tài nghệ của Nguyễn Tuân trong việc xây dựng hình tượng thiên nhiên, đó là hình
tượng sông Đà, một con sông rất đặc trưng cho vùng đất miền Tây Tổ quốc. Dưới
ngòi tài hoa của tác giả, sông Đà, vốn chỉ là vật vô tri, trở nên sống động như một
con người. Hình tượng thiên nhiên độc đáo này cũng có ngoại hình, tính cách và
tiếng nói riêng. Từ con sông Đà vô tri, vô giác, nổi bật hai nét tính cách đối lập và
tương phản với nhau. Đó là con sông hung dữ và hiền hoà. Lúc hung dữ, sông Đà
    156
là kẻ thù số một của con người ; nhưng khi hiền hoà, nó lại là người bạn cố tri, đi
xa thì nhớ thương, lưu luyến.
a) Nét hung bạo của sông Đà
– Sông Đà toát ra nét hung bạo ngay từ  ngoại hình : đó là một con sông đá
dựng vách thành, sự hung dữ của sông Đà không phải chỉ ở những thác nước mà
còn ở những vách đá. Đến gần, cả một trận địa đá bày ra trước mắt mọi người, đe
doạ tất cả những ai yếu bóng vía. Lại có những khúc sông, dòng nước thắt lại như
“một cái  yết  hầu”,   “Có quãng con  nai  con  hổ đã  có lần  vọt từ bờ này  sang bờ
kia”. Vào giữa mùa hè, đứng trên bờ sông mà cảm giác lạnh lẽo như mùa đông.
Cả một khúc sông, tối om như một thành phố mất điện.
– Sự hung bạo của sông Đà không chỉ được miêu tả qua nét ngoại hình, mà
còn thể hiện cả qua ngôn ngữ của con sông. Nguyễn Tuân hẳn không hề phóng
đại khi miêu tả tiếng thác nước sông Đà, nhưng chắc chắn chỉ có ông mới đủ “tài
năng” làm cho người ta thấy khiếp hãi khi bất chợt nghe thấy “tiếng nói” con sông
này đến thế. Dưới ngòi bút miêu tả của ông, tiếng thác nước sông Đà cũng mang
đầy màu sắc, nhiều giọng điệu. Ngay từ xa, người ta đã nhìn thấy “sóng bọt tung
trắng xoá chân trời”. Tiếng thác nước lúc thì như oán trách, có lúc lại như van xin,
lúc khác thì như khiêu khích và có khi lại như chế nhạo... Đến gần hơn, tiếng thác
nước “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”.  Ngôn  ngữ hung bạo của  sông Đà  không chỉ biểu  hiện qua
tiếng thác nước mà nó còn thể hiện ở khắp mọi nơi, ngay trên mặt con sông. Ngay
trên mặt sông Đà, ở bất cứ chỗ nào, người ta cũng có thể bất ngờ bắt gặp những
xoáy  hút nước,  nó “thở và  kêu như cửa cống cái  bị sặc”, “những cái  giếng sâu,
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Nguyễn Tuân tưởng tượng, một nhà quay
phim  dũng cảm đi thuyền  xuống tận đáy  giếng  hút, dùng máy quay, “lia  ngược
contre-plongée”  lên.  Một  vẻ  đẹp  lãng  mạn  mà  không  phải  bất  cứ  con  sông  nào
cũng có.
– Tính cách hung bạo của sông Đà thể hiện rõ nhất khi nó đối mặt với con
người.  Ở  phương  diện  này,  sông  Đà  không  bao giờ  dành  cho  những  người  yếu
bóng  vía.  Quả  thật  chỉ  có  những  người  dũng  cảm  mới  chịu  được  thử  thách  và
chiến thắng sự  hung bạo của con sông. Gần như khắp mọi nơi, trên mặt sông và
vào gần thác nước, sông Đà đều bày ra những cái bẫy tiêu diệt con người. Những
chiếc giếng xoáy hút lúc nào cũng sẵn sàng nhấn chìm mọi con thuyền dám vượt
  157
qua. Đến gần thác nước, cả một bầy quân đá có tướng đá chỉ huy, đứa thì đánh
mai phục, đứa đánh du kích, đứa  đánh vu hồi, có đứa lại vùng lên đánh giáp lá
cà... Những kẻ yếu bóng vía dù chỉ một lần rơi vào vòng “thạch trận” này cũng sẽ
không  bao  giờ  dám  quay  trở  lại.  Miêu  tả  nét  tính  cách  hung bạo  của  sông  Đà,
Nguyễn Tuân đã  huy động vốn  kiến thức đa dạng của ông. Có lúc ông sử dụng
kiến thức của một nhà quân sự, lúc khác lại trong vai trò nhà điện ảnh, lúc là nhà
địa  chất,  khi  là  nhà thám hiểm...  Bức  tranh miêu tả sông Đà của  ông  vì thế mà
sống động lạ thường. 
b) Nét trữ tình của sông Đà 
  –  Đối  lập  với  nét  tính  cách  hung  bạo, sông  Đà  còn  là  một  dòng  sông  trữ
tình. Hai đặc điểm này không hề mâu thuẫn với nhau. Trái lại, chính sự đối lập,
tương phản đó đã làm nên vẻ đẹp thực sự của con sông vùng Tây Bắc. Đồng thời
cũng thể hiện được cái nhìn lãng mạn của Nguyễn Tuân trong cách tiếp cận hiện
thực, con người.
– Dòng sông Đà nhìn từ xa và trên cao “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.
Ở góc độ ấy, con sông Đà có khác nào một nàng thiếu nữ kiều diễm. Ai đã từng
một lần ngồi trên máy bay nhìn xuống phía dưới dòng sông Đà, hẳn sẽ không bao
giờ nghi ngờ Nguyễn Tuân đã có một cái nhìn tinh tế thế kia ! Trong vẻ đẹp ngoại
hình, sông Đà thật là gợi cảm và hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông của ngàn
đời này còn được nhìn qua làn mây mùa thu, dòng nước mùa xuân. Vào mùa xuân
nước sông Đà “xanh màu ngọc bích” khác hẳn với sông Lô hay sông Gâm. Nhưng
khi mùa thu đến, nước sông Đà bỗng “lừ lừ chín đỏ”. Nhìn từ xa và trên cao, cảm
giác màu đỏ xâm lấn dần màu xanh hiện ra trước mắt ta giống như một cuốn phim
quay chậm. Lúc đó, ít ai nghĩ, đã có lúc sông Đà hung dữ đến thế nào.
– Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được chiêm nghiệm qua lịch sử ngàn đời
của dòng sông. Con sông có lúc hiện lên như một nỗi niềm cổ tích. Nó khiến ta
nghĩ đến câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh : “Núi cao sông hãy còn
dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Lại có lúc, dòng sông gợi ta nhớ đến
một người bạn cố tri. Nhìn từ xa, ở phía dưới thượng nguồn, làn nước chảy uể oải,
chậm chạp, mang theo bọt sóng màu trắng không khác nào một người bạn cố tri
nhớ bạn trên thượng nguồn mà bạc trắng mái đầu. Dọc hai bên bờ sông hiện lên
những đồi cỏ tranh với búp non xanh, những nương ngô đầu mùa lá non nhu nhú,
những đàn hươu thấp thoáng trong sương... Sông Đà lúc đó là cả một nỗi niềm cổ
    158
tích, đẹp đến nao lòng. Những cánh chuồn, cánh bướm chao lượn trên dòng sông :
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình...” như một câu
thơ của Tản Đà từng viết.
2. Độc đáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà
a)  Ngay  từ  thời  kỳ  trước  Cách  mạng  1945,  trong  quan  niệm  về  con  người,
Nguyễn Tuân bao giờ cũng khai thác nhân vật trung tâm trong tác phẩm của mình
ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ. Chữ người tử tù là một minh chứng hùng hồn cho đặc
điểm trên. Và còn nhiều nhân vật trung tâm khác trong truyện của ông : một người
uống trà hứng từng giọt sương đêm trên đỉnh núi cao, một kẻ thả thơ, đến cả một
đao phủ chuyên chém cổ người cũng tài hoa nghệ sĩ. Đó là quan niệm riêng độc
đáo  của  Nguyễn Tuân. Ông không phải là kẻ duy mỹ,  ưa hình thức.  Tuy nhiên,
cũng nên nhớ rằng, ngay trong quan niệm này, từ trước Cách mạng đến sau Cách
mạng,  Nguyễn  Tuân  cũng  có  thay  đổi  ít  nhiều.  Cùng  trong  quan  niệm  về  con
người tài hoa, nghệ sĩ, trước Cách mạng, nhân vật của ông ít nhiều cũng có sự xa
lạ với cuộc sống. Huấn Cao và Quản ngục là một ví dụ. Sau Cách mạng, tham gia
kháng chiến, lăn lộn với cuộc sống, gần gũi với người lao động, nhân vật của ông
đã mang nhiều dáng dấp của những con người bình thường. Họ là người lao động
bình dị và  họ cũng  là  những nghệ sĩ. Ông lão lái đò trong tuỳ bút Người lái đò
Sông Đà là một thí dụ điển hình.
b) Người lái đò Sông Đà là một tuỳ bút, vì thế cách khắc hoạ nhân vật trung
tâm không hoàn toàn giống với những tác phẩm hư cấu thuần tuý. Nghĩa là khi xây
dựng nhân vật trung tâm, nhà văn không nhất thiết phải khai thác đầy đủ mọi yếu tố
như một nhân vật bình thường. Ông lão lái đò là một kiểu nhân vật đặc biệt như thế.
–  Chọn  một  con  người  làm  nghề  sông  nước,  lại  là  vùng  sông  nước  khắc
nghiệt, dữ dội như sông Đà, là một ông già, Nguyễn Tuân trước tiên đã bộc lộ rõ
phẩm chất lãng mạn của ông. Có lẽ, chọn nhân vật như vậy sẽ giúp nhà văn làm
nổi bật được sự đối lập, tương phản giữa con người và  khung cảnh xung quanh.
Nhà thơ lãng mạn Pháp Hugo trong bài thơ Mùa gieo hạt buổi chiều cũng đã chọn
nhân  vật  trung  tâm  như  thế. Miêu  tả  công  việc  lao động,  nhà thơ  chọn  khoảnh
khắc thời gian vào lúc chiều tàn, không gian là cánh đồng rộng mênh mông, người
lao động là một ông lão già nua, rách rưới. Nhà thơ dường như muốn biến nhân
vật của mình thành một vị thiên thần. Nguyễn Tuân không hoàn toàn giống thế,
nhưng  từ  trong  sâu  thẳm,  ông  cũng  vốn  là  một  nhà  lãng  mạn.  Xây  dựng  hình
tượng ông  lão lái đò, Nguyễn Tuân cũng muốn  nhân  vật của  mình phải  nổi bật
  159
trên cái nền hiện thực vốn đã rất lãng mạn của vùng Tây Bắc. Ông lão lái đò trong
tuỳ bút của Nguyễn Tuân vì thế mang một vẻ đẹp khác thường.
–  Để làm  nổi bật nhân vật  của mình, Nguyễn Tuân trước hết miêu tả ngoại
hình của ông. Đó là một ông lão với vẻ bề ngoài thật ra không có gì đặc biệt. Ông
cũng  giống  như nhiều người lao động bình thường  khác,  những người với công
việc sông nước hàng ngày : tay lêu nghêu, chân khuỳnh khuỳnh, nhỡn giới vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó. Giọng nói của ông lão thì “ào ào
như tiếng thác nước nơi đầu sông, ngọn thác”. Ông lái đò rất am hiểu công việc
của mình, thuộc từng khúc sông, hiểu được luồng sinh, luồng tử, hiểu cả tính nết
của từng bãi đá, hòn đá, ngọn thác. Bình thản và ung dung trong công việc chèo
đò, ông nắm được binh pháp của thần sông thần đá, thuộc lòng quy luật phục kích
của lũ quân đá nơi gần chân thác nước.  
– Tài nghệ của ông lão lái đò được Nguyễn Tuân “đặc tả” rất thành công qua
một cuộc vượt thác cụ thể. Nhìn ông chỉ huy đám bạn đò, không ai nghĩ đó là một
“lão già” đã vào tuổi bảy mươi. Bước vào cuộc vượt thác, ông giống như một vị
“chỉ huy” bước vào trận đánh. Trước đám quân đá và dòng thác hò reo ầm ĩ, doạ
nạt chồm lên như lúc nào cũng muốn lật úp con thuyền, ông vẫn bình tĩnh trong
từng động tác chèo đò. Bởi lẽ, chỉ cần một chút sơ sảy, người lái đò sẽ phải trả giá
không chỉ bằng tính mạng của  mình, mà còn của tất cả các  bạn chèo.  Ông  nắm
vững quy luật của từng khúc sông, ngọn thác, hiểu được “binh pháp của thần sông
thần đá”, lúc thì “nắm lấy bờm sóng” như người kỵ sĩ trên lưng ngựa ; có lúc cưỡi
thẳng lên con thác “đè sấn lên mà chặt đôi ra mở đường tiến” ; và có lúc “lái miết
một đường chéo, phóng thẳng”,... Nhìn cách ông lái đò chỉ huy bạn chèo vượt qua
cả ba vòng “trùng vi thạch trận”, ít ai nghĩ đây chỉ là công việc bình dị hàng ngày
của một ông già. Ông là một “tay lái nở hoa”, một vị anh hùng ở đầu sông ngọn
thác, một hình ảnh rất đẹp trong cuộc sống lao động thường ngày.
III - KẾT LUẬN 
Qua nghệ thuật miêu tả hình tượng con sông và người lái đò sông Đà, Nguyễn
Tuân đã thể hiện được sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật của ông. Đó là
một phong cách viết văn giàu tính tạo hình, là sự kết hợp điêu luyện sự quan sát
hiện thực  và một cái  nhìn nghệ sĩ. Qua tuỳ bút Người lái đò Sông Đà,  Nguyễn
Tuân  muốn  khẳng  định,  chủ  nghĩa  anh  hùng  đâu  chỉ  có  ở  nơi  chiến  trận.  Chủ
nghĩa anh hùng còn xuất hiện ở ngay trong cuộc sống lao động bình thường hàng
ngày. Đó là một bước tiến quan trọng trong quan điểm nghệ thuật và phong cách
    160
sáng tác của Nguyễn Tuân thời điểm sau cách mạng tháng Tám. Đó cũng là một
bằng chứng khẳng định tài năng nghệ thuật và lòng yêu đất nước theo cách riêng
độc đáo của một nhà văn tài hoa, đúng như một đặc điểm quen thuộc trong phong
cách của tác giả.   
 
                             
 
  161
AI Đã ĐặT TÊN CHO DòNG SÔNG ? 
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
A -DẠNG ĐỀ 
–  Cảm  nhận  về  vẻ  đẹp  của  dòng  sông  Hương  (đoạn  từ  thượng  nguồn  đến
thành phố Huế) qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc
Tường (đề thi đại học năm 2007).
– Nét đặc sắc nghệ thuật của tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của
Hoàng Phủ Ngọc Tường (so sánh với với tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của
Nguyễn Tuân).
Một  số  lưu  ý  :  Ai  đã  đặt  tên  cho  dòng  sông  ?  là  một  tuỳ  bút  đặc  sắc  của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà  văn sinh ra (1937) và  lớn  lên tại Quảng Trị,   học
trung học tại Huế và Sài Gòn các năm 1960 và 1964, đã có thời gian là Tổng thư
ký Hội văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Tác phẩm này chỉ mới được chính
thức đưa vào chương trình lớp 12 năm học 2009, nhưng từ năm 2008, đã được sử
dụng làm đề thi đại học cho khối C, dạng đề 3 điểm. Các tình huống ra đề cho tác
phẩm này,  vì thế chưa nhiều. Học sinh chỉ nên chú ý một số điểm sau : Một là,
phải nắm được Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết bút ký (ông giống
phần  nào  với Nguyễn Tuân),  nét đặc  sắc  trong sáng tác của  ông  là  “sự  kết  hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư
đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử,
địa lý… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa” (Ngữ văn 12, tập một) ; hai là, với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
tình huống ra đề thi chủ yếu chỉ tập trung kiểm tra kiến thức của học sinh về nghệ
thuật  viết  tuỳ  bút  của  tác  giả  (có  liên  hệ  so  sánh  với  nghệ  thuật  tuỳ  bút  của
Nguyễn Tuân, tác giả cũng được lựa chọn trong chương trình), liên hệ giữa dòng
sông  trong tác  phẩm  và  dòng  sông  trong  thực  tế  (nguồn  cảm  hứng  trực  tiếp  từ
sông Hương). Trong trường hợp đề thi yêu cầu nêu cảm nhận (như đề thi đại học
năm 2007), học sinh phân tích tác phẩm kết hợp với việc nêu cảm nhận cá nhân là
được.
B - GỢI Ý LÀM BÀI 
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
    162
–  Hoàng Phủ Ngọc  Tường  là  nhà văn quê gốc  Quảng Trị,  nhưng sinh ra và
lớn lên tại thành phố Huế. Ông đã từng có một thời gian dài sống, học tập, hoạt
động trong phong trào thanh niên, sinh viên yêu nước chống Mỹ - Nguỵ và từng
tham  gia  Phong  trào  mặt  trận  giải  phóng  tại  Huế  từ  năm  1964  đến  1975.  Phải
chăng vì sống lâu ở vùng đất này mà con người và thiên nhiên nơi đây  gắn bó
máu thịt với ông. Một cách tự nhiên, trong cuộc đời cầm bút của mình, ông viết về
xứ Huế mộng mơ, về con người và thiên nhiên Huế thật đẹp và thơ mộng... Tuỳ
bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất cho đặc điểm này.
– Có phần nào giống với Nguyễn Tuân, cả cuộc đời văn nghiệp gần như chỉ
gắn chặt với một thể loại, đó là bút ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng  thế, trong
suốt hơn bốn mươi năm cầm bút của mình, ông đã để lại nhiều tập bút ký được
bạn đọc đánh giá rất cao. Có thể kể ra đây một số tác phẩm tiêu biểu : Ngôi sao
trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng
sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Người ham chơi (1998), Ngọn núi ảo
ảnh (1999)…
– Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài tuỳ bút đặc sắc in trong tập bút ký cùng
tên của  Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hiện lên trong tác phẩm này là hình ảnh dòng
sông  Hương  thơ  mộng  từ  ngàn  đời  nay,  niềm  tự  hào  không  phải  chỉ  của  riêng
người  xứ Huế mà của tất cả những người dân nước Việt. Viết về  Hương  giang,
Hoàng Phủ Ngọc Tường không những chỉ bộc lộ ngòi bút nghệ thuật tài hoa, điêu
luyện, vốn kiến thức uyên bác của mình, mà còn thể hiện tấm lòng của một người
con gắn bó ruột thịt mảnh đất thân thương Huế.
II - PHÂN TÍCH  
1. Vị trí đoạn trích trong tác phẩm
– Tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? gồm 3 phần, đoạn trích trong sách
giáo khoa  là phần 1.  Để hiểu  được đúng tinh thần của  đoạn trích  này,  chúng ta
không thể không nhắc qua nội dung (dù chỉ là sơ lược) của hai đoạn văn sau. Sách
giáo khoa cũng có phần tóm tắt ngay sau đoạn trích : Những thành tựu khảo cổ
học cho biết, nằm dưới lòng đất làng Thành Trung ngày nay, nơi ngã ba Sình, phía
tả ngạn sông Hương, những di tích của thành cổ Hoá Châu được xây dựng từ thời
Việt cổ. Nơi đây từng chứng kiến nhiều chiến công chống xâm lược oanh liệt của
nhân dân ta qua nhiều triều đại phong kiến. Sông Hương và thành phố Huế có cả
  163
một bề dày lịch sử hết sức oai hùng. Phần cuối bài tuỳ bút, tác giả đặt giả thiết, vì
dân làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm,  vì yêu quý con sông quê hương
mình, người làng Thành Trung đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông
cho nước của nó thơm tho mãi mãi. Huyền thoại trên góp phần giải đáp câu hỏi Ai
đã đặt tên cho dòng sông ? và đó cũng chính là ý nghĩa nhan đề bài tuỳ bút đặc
sắc này.
2. Vẻ đẹp của dòng sông Hương     
– Đoạn trích phần 1 tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? tuy đã lược bớt một
vài đoạn nhưng cũng đã nói được trọn vẹn cảm xúc của Hoàng Phủ Ngọc Tường
về vẻ đẹp của dòng sông Hương. Nó có một cấu trúc hoàn chỉnh, có mở đầu, kết
thúc và phần nội dung chính. Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu cảm xúc của mình,
đồng thời cũng  hướng  người đọc  tới chủ đề chính của  đoạn văn  : “trong  những
dòng sông đẹp nhất ở các  nước  mà  tôi thường  nghe  nói đến,  hình  như chỉ sông
Hương là thuộc về một thành phố duy nhất…” ;  Và kết thúc : lý do đã khiến ông
viết tác phẩm này, tại sao nhan đề tác phẩm lại được đặt là Ai đã đặt tên cho dòng
sông ?:  “Có một nhà thơ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông,
ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời với đất một câu thật bâng khuâng :
Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”.  
– Trong cách miêu tả dòng sông, sông Hương và sông Đà, Hoàng Phủ Ngọc
Tường và Nguyễn Tuân có những điểm  giống và khác nhau. Trong khi, Nguyễn
Tuân  trong  tuỳ  bút  Người  lái  đò  Sông  Đà,  khai  thác  một  cách  triệt  để  vẻ  đẹp
“hung bạo” và “trữ tình”,  vẻ đẹp của sự đối lập, tương phản của con sông miền
Tây Bắc, sông Hương dưới ngòi bút không kém phần tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, lại hiện lên với rất nhiều dáng vẻ khác nhau. Lúc ở rừng già, sông Hương
được ví như một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, nó “rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn”. Khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang sắc đẹp trí tuệ,
trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Từ ngã ba Tuần, sông
Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén, qua Ngọc Trản, chuyển hướng
Tây Bắc, xuôi Thiên Mụ… dòng sông bỗng “mềm như tấm lụa”, tạo nên những
mảng phản quang nhiều màu sắc, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sắc thái sông
Hương không phải chỉ dừng lại ở đó, nó còn thay đổi, biến hoá qua nhiều dáng vẻ
khác  nhau.  Dòng  Hương  giang  khi chảy qua vùng  ngoại ô Kim  Long,  mang  vẻ
đẹp của một thiếu nữ “hồi xuân”, vui tươi nhí nhảnh, đầy sức sống. Khi đến gần
    164
thành phố, dòng sông trôi đi thật chậm, “cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”… Rất
giống Nguyễn Tuân, miêu tả con sông, một hình tượng thiên nhiên vốn vô tri, vô
giác,  mà  sống  động  như  những  con  người,  Hoàng  Phủ  Ngọc  Tường  cũng  huy
động cùng lúc nhiều vốn kiến thức khác nhau để “đánh thức” mọi vẻ đẹp của dòng
Hương  giang.  Ông  so sánh  sông  Hương  với  những  con  sông  nổi  tiếng  trên  thế
giới. Một chút giống với sông Xen của Pa-ri, Đa-nuýp của Bu-đa-pét, “sông Hương
nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”. Và khác với Nê-va, của kinh thành
Pê-téc-bua, “chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người
bạn của  chúng đang  ngẩn  ngơ trông theo”,  sông  Hương  lại  như một “điệu  slow
tình cảm dành riêng cho Huế, có thể được cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn
ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy”… Nguyễn Tuân khi
miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà đã ví von dòng sông như một thiếu nữ kiều
diễm tuôn dài áng tóc trữ tình, “ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo”, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương gần như ở góc độ nào cũng
đều nhìn thấy “chất thiếu nữ” toát ra từ mọi vẻ đẹp của con sông. 
Lúc  thì  tác  giả  nhìn  thấy  con  sông  giống  như  một  “cô  gái  Di  gan  phóng
khoáng và man dại” ; có lúc, ông lại phát hiện ra dòng sông giống như một “cô gái
đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại” ; lại có khoảnh khắc,
sông Hương “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”,… Dưới ngòi
bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương chẳng khác nào một
công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất nên thơ, in đậm dấu ấn
một nền văn hoá, nghệ thuật lâu đời của kinh thành Huế. Nếu không hiểu và yêu
xứ Huế thật lòng, hẳn Hoàng Phủ Ngọc Tường  khó có thể viết được những trang
văn giàu cảm xúc thế kia về dòng Hương giang. Cũng giống như Hàn Mặc Tử, với
bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua tuỳ bút Ai đã đặt tên cho
dòng sông ? đã khiến cho xứ Huế vốn đã mộng mơ lại càng thêm mơ mộng.
3. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương qua các thời kỳ lịch sử 
– Sau khi đã  nêu cảm nhận  về vẻ đẹp của dòng Hương giang từ các  góc độ
khác nhau qua nhiều khúc sông, ở phần cuối đoạn trích, Hoàng Phủ Ngọc Tường
lại tiếp tục khẳng định vẻ đẹp diệu kỳ này từ góc nhìn lịch sử và thi ca. Không
hoàn toàn giống Nguyễn Tuân khi viết về sông Đà, nhà văn “lãng tử của một thời
vang bóng” thật sự tung hoành trên từng trang viết, nhà văn của kinh kỳ Huế lại
muốn thuyết phục người đọc bằng sự gắn bó máu thịt qua từng thời gian của dòng
Hương giang với mảnh đất nó được sinh ra. Sông Hương mang vẻ đẹp linh thiêng,
  165
bởi thế sách địa dư của Nguyễn Trãi đã gọi tên nó là Linh giang. Đến thế kỷ mười
tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân bằng những chiến công lẫy lừng
của người anh hùng nông dân Nguyễn Huệ. Sang thế kỷ mười chín, sông Hương
hoà vào trong nó cả khúc bi tráng và máu của những cuộc khởi nghĩa chống xâm
lăng. Những ngày Cách mạng tháng Tám, sông Hương như gầm lên “bằng những
chiến công rung chuyển”. Song cũng có  lúc, sông Hương phải chịu đau thương
bởi những trận bom thù dội xuống, không khác gì Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành…  Hình ảnh Hương  giang đau thương được  cô đọng  qua hình ảnh  người
lính già, vị Tổng Tư lệnh Quân đội, với đôi mắt ngấn lệ, nhưng đó là vào những
ngày chiến thắng. Có vinh quang nào lại không phải trả giá bằng sự hy sinh ? 
– Sông Hương không chỉ được nhìn qua những chiến công anh hùng và nỗi
đau  thương  trong  lịch  sử,  bằng  cảm  quan  nghệ  sĩ  của  mình,  Hoàng  Phủ  Ngọc
Tường còn cho người đọc thấy được  đây là dòng sông mang đậm vẻ đẹp thơ ca.
Nhà thơ Tản Đà đã từng nhìn thấy ở sông Hương vẻ đẹp của “dòng sông trắng - lá
cây xanh” ; Cao Bá Quát  cảm nhận sông Hương lúc thì  “tha thướt mơ màng”, lúc
lại  “hùng  tráng  như  kiếm  dựng  trời  xanh”.  Bà  Huyện  Thanh  Quan  nhớ  Hương
giang  với  “nỗi  sầu  hoài  cổ”.  Và  Hương  giang  trong  cảm  nhận  “thắm  thiết  tình
người” của nhà thơ hiện đại Tố Hữu luôn ám ảnh người đọc nhiều thế hệ bởi vẻ
đẹp trong trẻo, thanh khiết. 
III - KẾT LUẬN 
Cũng  giống  Nguyễn  Tuân,  tuỳ  bút  vốn  là  sở  trường  của  Hoàng  Phủ  Ngọc
Tường, ít có nhà văn nào như hai ông, suốt cuộc đời cầm bút lại chỉ đắm đuối với
một thể loại văn học như thế.  Với thể tuỳ bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực
hiện được giấc mơ cuộc đời của mình :  yêu và đi đến tận cùng tình  yêu đối với
quê hương đất nước. Tuỳ bút vừa giữ được tính chân thực của thể loại bút ký khi
cần bộc lộ chân thành vẻ đẹp thực sự của dòng sông quê hương, tuỳ bút lại mang
đến cho ông thế mạnh của cảm xúc trữ tình. Nhà văn đã được phiêu du, bồng bềnh
với  dòng  Hương  giang,  như  chính  vùng  đất  cưu  mang  nó,  biết  làm  nên  những
chiến công vang lừng nhưng cũng biết sống cuộc sống của một người bình dị…  
 
                                 
    166
Vợ NHặT 
         KIM LÂN
A - DẠNG ĐỀ 
–  Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của các nhân vật
Tràng, bà cụ Tứ và vợ anh Tràng (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 5 điểm).
– Giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt.
–Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt. 
–Phân tích cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của các nhân vật : Tràng, người vợ
nhặt, bà cụ Tứ.
– Phân tích tình huống độc đáo của Vợ nhặt để làm rõ giá trị nhân đạo của
tác phẩm.
Một số lưu ý : Vợ nhặt là tác phẩm có nhiều tình huống ra đề, ngoài những
dạng đề đã thống kê trên, tình huống đề thi đôi khi còn có sự thay đổi, thêm bớt về
câu chữ, kể cả dạng đề tóm tắt cốt truyện Vợ nhặt. Tuy nhiên, khi học bài này, chỉ
cần  tinh  ý,  học  sinh  có  thể  dựa  trên  bài  học  chính  dưới  đây để giải  quyết  từng
dạng đề thi cụ thể. Chẳng hạn, khi đề ra yêu cầu phân tích giá trị nhân đạo, học
sinh hoàn toàn có thể dựa vào phần phân tích tình huống truyện độc đáo để trả lời
câu hỏi trên ; khi đề ra yêu cầu phân tích cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của các
nhân vật trong truyện, thì người viết cũng phải dựa trên tình huống truyện để phân
tích. Trường hợp đề ra  yêu cầu phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ, học sinh
lược bớt một vài chỗ không  cần thiết về các  nhân  vật  khác,  là  bài  làm đáp  ứng
đúng yêu cầu. 
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 
– Vợ nhặt là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân về đề tài người nông dân.
Truyện  được  viết  ngay  sau  nạn  đói  năm  1945,  ban  đầu  có  tên  là  Xóm  ngụ  cư,
nhưng bị bỏ dở đến mãi năm 1963 mới được viết lại và được in lần đầu trong tập
truyện Con chó xấu xí.
–  Vợ  nhặt  có  tình  huống  truyện  rất  độc  đáo  :  Một  người  nông  dân  tên  là
Tràng,  đã  hơi  cao  tuổi,  dân  ngụ  cư,  người  xấu  xí,  vào giữa  năm  đói  kém  nhất,
bỗng nhiên lấy được vợ. Nhìn bề ngoài truyện có vẻ hài hước, trớ trêu, nhưng đọc
kỹ, ta thấy ẩn chứa tinh thần nhân đạo của tác giả. 
  167
II - PHÂN TÍCH : Tình huống độc đáo, cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của
các nhân vật, giá trị nhân đạo của tác phẩm
1.  Những thân phận khổ đau trong một thời gian khổ
– Trước khi miêu tả số phận trớ trêu của các nhân vật nhà văn miêu tả không
khí đau thương, buồn thảm của nạn đói năm 1945 ở xóm ngụ cư. Người chết đói
nằm la liệt khắp mọi nơi, mùi xú uế bốc lên nồng nặc.
– Trên khung cảnh đó là số phận trớ trêu của những con người trong truyện
ngắn Vợ nhặt. Trước tiên là anh Tràng, nhân vật chính của truyện : Anh sống với
bà mẹ già, hai mẹ con lần hồi kiếm sống qua ngày, anh thường phải đi làm thuê
kiếm từng xu để tồn tại. Do nhà quá nghèo, lại đã cao tuổi, người xấu xí, là dân
ngụ cư, anh chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện lấy vợ. Thế nhưng, tình cờ một
lần đi xe thóc ở huyện, anh đã lấy được vợ. Người vợ, không có cả một cái tên,
sống lay lắt, may mà gặp được anh Tràng, được anh đãi một chầu bánh đúc, quên
cả danh dự của người đàn bà, theo anh về nhà, nhận lấy anh. Cả anh Tràng và cô
vợ nhặt, số phận đều rất đáng thương. Họ đang trên bờ vực của sự sống. Bà cụ Tứ,
mẹ  anh Tràng  cũng  thế.  Sống  gần  hết  đời  người,  chưa  bao  giờ  bà  được  hưởng
hạnh  phúc.  Đến  nỗi  ngay  cả  hạnh  phúc  đứa  con  trai  vừa  “nhặt”  được,  bà  cũng
không dám tin.
2. Sự ngạc nhiên trước một điều kỳ lạ
–  Việc  anh  Tràng  lấy  vợ  lẽ  ra  hết  sức  bình thường  vì  đó  là  quyền sống  tối
thiểu của một con người. Vậy nhưng điều bình thường đó lại khiến mọi người rất
ngạc  nhiên. Sự ngạc  nhiên không chỉ ở những người bên ngoài, mà ngay cả với
những người trong cuộc. 
– Trước tiên là những người dân ở xóm ngụ cư của anh Tràng. Khi thấy người
đàn  bà  lạ  theo  anh  về  làng,  đám  trẻ  con  vô  tình  trêu anh.  Chúng  hét tướng  lên
“Chông vợ hài”. Đám người lớn thì đứng túm tụm, xì xào, thì thầm  như cố tình
làm cho người đàn bà kia phải xấu hổ. 
– Ngay bà cụ Tứ cũng ngạc  nhiên. Bất ngờ về nhà, thấy rõ người đàn bà lạ
chào mình bằng u, bà dụi mắt như không còn tin vào tai và mắt của mình. Vì quá
lo lắng cho cuộc sống hiện tại, chỉ hai mẹ con mà vẫn không biết có qua khỏi nạn
đói  này  không,  bà  không  muốn  trong  nhà  có  thêm  một  miếng  ăn,  bà  sợ  họ  sẽ
không sống nổi qua nạn đói.
    168
–  Ngay  chính  anh  Tràng,  người  trong  cuộc  cũng  ngạc  nhiên.  Tận  đến  sáng
hôm sau, anh như không thể tin nổi việc mình đã có vợ. Anh ngạc nhiên cũng là
có lý do. Bình thường nếu không có nạn đói, anh làm sao có thể lấy vợ ?
– Chị vợ anh Tràng cũng hoàn toàn ngạc  nhiên. Trước đó chị sống vạ vật ở
bến  xe,  trên  đường  hoặc  ở bất  cứ đâu,  với hy  vọng  mong  manh  làm  thuê kiếm
sống,  không  hề  nghĩ  đến  việc  lấy  chồng,  thế  nhưng  vì  đói  quá, chị  đã  liều  lĩnh
theo anh Tràng  vào quán ăn,  rồi sau  liều  theo anh  về  nhà,  bất ngờ trở thành  vợ
anh. Chị ngạc nhiên cũng là phải. 
3.  Tình thương yêu giữa những người cùng cảnh ngộ 
– Những người nông dân nghèo khổ khi bị đặt vào hoàn cảnh trớ trêu, ban đầu
tuy rất ngạc  nhiên, lúng túng nhưng rất nhanh chóng đều hiểu “cơ sự” và tất cả
đều tìm cách để vun vén, bảo vệ cho hạnh phúc nhỏ nhoi vừa có được của mình.
– Bản chất của tất cả họ đều trong sáng, tốt đẹp, giàu lòng yêu thương. Bà cụ
Tứ sau phút ngạc nhiên ban đầu đã thay đổi rất nhanh chóng. Ban đầu bà thương
đứa con trai và khó chịu với người con dâu. Nhưng sau đó bà nghĩ “Thì phải đến
cơ  sự  này  người  ta  mới  lấy  đến  con  bà”.  Vì  thế,  thương  con  trai bao  nhiêu,  bà
thương đứa con dâu bấy nhiêu. Bà nói chuyện vui vẻ, chuyện làm ăn, động viên
những đứa con “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về
sau”. Bà xăm xắm dọn dẹp nhà cửa rồi chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà. Cho dù bữa ăn
hết sức đạm bạc, chỉ vài bát cháo loãng, một đĩa rau chuối thái rối, một đĩa muối,
nhưng vẫn còn may mắn hơn so với những người đang chết đói ngoài kia. 
–  Anh  Tràng,  sau  những  lo  lắng  ban đầu  cũng  đã  thấy  rõ  hoàn  cảnh,  trách
nhiệm  của  mình.  Anh  nhẹ  nhàng  với mẹ  và  người  vợ mới.  Anh muốn  làm một
điều gì  đó  tốt đẹp  cho  mọi  người.  Chưa  bao  giờ  anh  thấy  cuộc  sống trong  nhà
mình lại hoà thuận đến thế. 
– Chị vợ nhặt của anh Tràng cũng đã bớt đi cái vẻ liều lĩnh, táo tợn ban đầu.
Giọng nói và cử chỉ của chị đã dịu hẳn đi. Chị không muốn làm không khí vui vẻ,
hạnh  phúc  vừa  được  nhen  nhóm  bị mất  đi.  Ngay  cả  khi  buộc  phải  ăn  bát  “chè
khoán”  được  nấu  bằng  cám  nghẹn  bứ  lại  trong  cổ,  chị cũng  không  hề  để  lộ
cho  mọi  người  xung  quanh  biết.  Dù  sao  cũng  phải  cố  giữ  được  không  khí
đang tốt đẹp dần lên giữa  mọi người trong  nhà. Chị cũng muốn xây dựng tổ
ấm của mình tốt đẹp. 
  169
4. Niềm lạc quan và hạnh phúc của người nông dân trong cuộc sống mới
–  Từ  nỗi  lo  lắng  ban  đầu, bằng  tình  yêu  vốn  có,  những  người  nông  dân
nghèo  khổ  đã  dần  lấy  lại  được  niềm  tin.  Họ  tin  rằng  cuộc  sống  rồi cũng  sẽ
thay đổi, mỗi người trong  họ đều  theo đuổi những suy  nghĩ riêng  của mình,
đều hướng về phía trước.
– Bà cụ Tứ tin vào hạnh phúc của  những đứa con bằng những lời nói cụ
thể. Không ai lại có thể nghèo khổ mãi, bà nói với những đứa con rất nhiều
về  chuyện  làm  ăn.  Hiện  tại  cuộc  sống  vẫn  còn  nhiều  gian  khó  nhưng  nhất
định rồi sẽ thay đổi.
– Người vợ nhặt cũng không còn cái vẻ u ám ban đầu, gương mặt của chị đã
tươi dần lên. Nói chuyện với bà cụ Tứ, chị nhắc đến chuyện người ta chia thóc ở
trên Thái Nguyên. Rõ ràng chị cũng tin rằng cuộc sống rồi sẽ thay đổi.
– Anh Tràng là người thể hiện rõ nhất niềm lạc quan của mình. Ban đầu anh
không dám nghĩ đến hạnh phúc, trái lại tràn trề nỗi lo. Thậm chí, ngay khi có thật
rồi, anh cũng vẫn như chưa thật tin. Rồi khi  tin thật, anh tràn trề hy vọng cuộc
sống sẽ thay đổi. Anh muốn làm nhiều việc tốt cho mọi người, nhẹ nhàng với mẹ,
chăm chút người vợ mới. Chi tiết lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong đầu anh ở
phần cuối truyện khẳng định niềm lạc quan của tác giả và của chính nhân vật
về một cuộc sống tốt đẹp ở phía trước. Đó là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm Vợ nhặt.
III - KẾT LUẬN 
Truyện  ngắn  Vợ nhặt thể hiện rõ sự am  hiểu tinh tế của  Kim  Lân về người
nông dân. Trong cái nhìn nhân đạo của ông, người nông dân dù rơi vào hoàn cảnh
bi đát đến mấy cũng vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình : thương yêu nhau
và biết trân trọng niềm hạnh phúc có được dù nhỏ nhoi nhất. Đặc biệt người nông
dân luôn biết lạc quan, luôn nhìn về phía trước và biết tự quyết định niềm hạnh
phúc của mình. Đó là những yếu tố làm nên giá trị cho tác phẩm Vợ nhặt.
 
                            
    170
Vợ CHồNG A PHủ 
            TÔ HOÀI
A - DẠNG ĐỀ 
–  Trong  bài  cảm  nghĩ  về  Vợ chồng  A  Phủ,  Tô  Hoài  viết  :  “Nhưng điều  kỳ
diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được
sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng,
mãnh liệt”. Hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ để làm rõ
nhận định trên (đề thi đại học năm 2006, dạng câu 5 điểm).
– Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cắt dây trói
cho A Phủ (đề thi đại học năm 2008, dạng câu 3 điểm).
– Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ qua việc phân
tích hai nhân vật Mị và A Phủ.
– Phân tích cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị từ khi bị bắt làm
dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra cho đến khi trốn khỏi Hồng Ngài. 
– Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm hội mùa xuân.
– Phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ.
 Một số lưu ý : Vợ chồng A Phủ có nhiều tình huống ra đề. Có dạng đề khái
quát như giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm hoặc qua việc phân tích hai
nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm ; có năm, đề ra yêu cầu phân tích cảnh ngộ
và diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị từ khi bị bắt làm dâu gạt nợ cho đến khi
trốn khỏi Hồng Ngài. Gần đây nhất, đề ra yêu cầu phân tích tâm trạng của Mị khi
cắt dây trói cho A Phủ, cũng có năm, đề ra yêu cầu phân tích chỉ riêng nhân vật A
Phủ,…Tuy  nhiên,  đề  ra  phổ biến  nhiều  năm  qua  thường  tập  trung  chủ  yếu  vào
nhân vật Mị, do phần học trong sách giáo khoa (phần đầu tác phẩm) chủ yếu nói
tới nhân  vật  này.  Học  sinh  chỉ  cần  nắm  vững phần phân  tích  Mị  là  có  thể  giải
quyết dễ dàng tất cả các dạng đề liên quan đến nhân vật này. Phần gợi ý làm bài
dưới đây giúp giải quyết tất cả các tình huống ra đề nêu trên đây.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I -  GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn đặc sắc của Tô Hoài in trong tập Truyện
Tây Bắc được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1955.
  171
– Thông qua cuộc đời và số phận của hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô
Hoài đã phản ánh một cách chân thực và sinh động cuộc đời khổ đau tăm tối của
những người dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cũng qua hai nhân
vật này, Tô Hoài đã phản ánh được quá trình phát triển cách mạng của các nhân
vật từ khổ đau tăm tối hướng ra ánh sáng hạnh phúc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tác  phẩm  có  tên  là  Vợ  chồng  A  Phủ,  nhưng  Mị  là  nhân  vật  được  nhà  văn  xây
dựng công phu nhất và cũng có thể coi là nhân vật quyết định sự thành công của
tác phẩm này. 
II -  PHÂN TÍCH : Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng 
A Phủ 
1.  Cuộc  đời khổ đau,  tăm  tối của Mị từ khi bị bắt  làm dâu gạt nợ cho nhà
thống lý Pá Tra
– Mị là một cô gái xinh đẹp, hát hay, thổi sáo giỏi, chăm chỉ làm ăn, hiếu thảo
với cha mẹ. Trước khi bị bắt làm dâu gạt nợ, Mị còn được Tô Hoài nhấn mạnh ở
phẩm  chất  yêu đời.  Mị đã từng có những  giây phút hồi hộp chờ đợi, lắng  nghe
tiếng sáo của bạn tình, nhiều chàng trai đứng nhẵn dưới chân cầu thang nhà Mị
chờ đợi, hò hẹn. 
– Lẽ ra, với những phẩm chất ấy, Mị phải xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Nhưng không! Không những không có hạnh phúc, Mị còn rơi vào cuộc sống bất
hạnh. Cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Ngòi bút hiện thực của
Tô Hoài ở đây rất cụ thể, rõ nét. Ông tố cáo chế độ thực dân phong kiến miền núi,
ông  khẳng định rằng  với chính  sách  hà  khắc  này,  chúng đã biến biết bao người
dân lương thiện thành người nô lệ.
– Từ khi bị bắt làm dâu  gạt nợ,  từ một cô  gái hồn nhiên,  yêu đời, Mị đã bị
biến thành một người phụ nữ lầm lũi, cam chịu. Ban đầu, cô còn có một chút phản
kháng : bỏ trốn, muốn ăn lá ngón tự tử nhưng về sau cứ nghĩ rằng “nó đã bắt ta về
trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Mị không còn
khái niệm thời gian, mất dần cảm xúc, cô sống lầm lũi như một con rùa nuôi trong
xó cửa. Căn phòng của Mị ở tối tăm, chỉ có một chiếc cửa sổ bé bằng bàn tay để
nhìn ra bên ngoài. Tất cả mọi diễn biến xung quanh, Mị đều coi như không biết.
Đi đâu cô cũng cúi mặt, cô hoàn toàn phó thác số mệnh của mình cho số phận. 
    172
2. A Phủ – hình ảnh bổ sung cho cuộc đời khổ đau tăm tối của người dân lao
động miền núi
– Bên cạnh Mị, Tô Hoài còn xây dựng hình tượng người nông dân thứ hai có
số phận đau đớn không kém, dường như là  hình ảnh bổ sung cho cuộc  đời khổ
đau, tăm tối của những người dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám 1945, đó
là A Phủ.
– A Phủ trước tiên cũng là một người tự do, là một chàng trai khoẻ mạnh, làm
nương giỏi, săn thú tài, dũng cảm và có bản lĩnh. Lẽ ra với bấy nhiêu phẩm chất,
A Phủ cũng phải được hưởng hạnh phúc. Nhưng trái lại, anh cũng không có được
hạnh phúc, thậm chí còn bất hạnh hơn cả Mị, con đường dẫn A Phủ đến thân phận
nô lệ còn phi lý hơn cả Mị.
– Trong một ngày hội mùa xuân, vì phản ứng lại hành động ngang ngược của
A Sử – con trai thống lý, A Phủ bị bắt về nhà thống lý, bị trói ngoài trời cho mưa
gió, cái đói, cái khát hành hạ. A Phủ có nguy cơ bị chết nếu như không có sự may
mắn tình cờ được gặp Mị và khi sức sống tiềm tàng đã trở lại với cô gái khốn khổ
này. Mị đã dũng cảm cắt dây trói cho A Phủ, rồi cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài,
thoát khỏi cảnh đời tăm tối nô lệ ở nhà thống lý. 
3. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm hội mùa xuân và đêm cắt dây trói
cho A Phủ
a)  Tâm trạng của Mị trong đêm hội mùa xuân – sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng
– Là một nhà văn cách mạng, Tô Hoài không để cho các nhân vật của mình
dừng lại ở một cuộc sống u ám, ngòi bút nhân đạo của ông đã hướng nhân vật về
phía ánh sáng hạnh phúc, đặc biệt là nhân vật Mị. 
– Để khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị, Tô Hoài đã đặt nhân vật
trong một hoàn cảnh điển hình. Đó là mùa xuân với “hoa ban trắng ngút ngàn như
lẫn  vào mây  núi”,  mùa  xuân  với  những bông  hoa  thuốc  phiện  nhanh chóng đổi
màu, mùa xuân với váy áo hoa sặc sỡ phơi trên các mỏm đá, mùa xuân với tiếng
sáo, tiếng khèn rộn rã, thúc giục bạn tình,… Tất cả đã dội vào lòng Mị, khiến cô
không còn thờ ơ, nguội lạnh. Mị nghĩ cô hãy còn trẻ, cô muốn đi chơi hội.
– Nhưng ý nghĩ vừa chợt đến với Mị càng khiến cho cô cảm thấy xót xa trong
lòng. Mị đâu còn là người tự do, cô là một kẻ nô lệ. Mị nghĩ, nếu có một nắm lá
ngón trong tay lúc  này thì  sẽ ăn cho chết  ngay  chứ không  buồn nhớ  lại  nữa.  Ý
nghĩ  về cái  chết  lại  chính  là  hành động phản  kháng đâu tiên  của  Mị sau những
chuỗi ngày sống lầm lũi, cam chịu. Trước đó, ngay cả cái chết, Mị cũng không thể
tự quyết định.
  173
– Nhưng Mị không chết, ngoài kia tiếng sáo, tiếng khèn giục giã đã khơi dậy
sức sống của Mị. Cô cần phải sống và để sống một cách tử tế, cô phải được hành
động theo ý muốn của mình. Mị đã hành động. Trước tiên, cô vào bếp lấy hũ rược
rót ra bát uống ừng ực. Sau đó cô vào góc nhà xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sáng lên. Ngọn đèn có ý nghĩa tượng trưng : Mị đã tự thắp lên ngọn lửa cho
cuộc đời mình để thoát ra khỏi những đêm dài tăm tối nô lệ. Mị chuẩn bị váy áo,
sửa lại tóc để chuẩn bị đi chơi hội.
–  Thế nhưng  giữa  lúc sức  sống tiềm tàng đang trỗi dậy một cách mãnh  liệt
nhất thì cũng là lúc nó bị dập xuống một cách phũ phàng nhất. A Sử đột ngột trở
về, biết Mị sắp đi chơi hội, hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, cứ như Mị là một kẻ
vô  tri,  vô  giác.  Mị không  đi  chơi  hội  được  nhưng  lúc  này  men rượu  ngấm  vào
người khiến cô ngây ngất và tâm hồn cô như bay lượn ngoài đám hội.
– Mị không đi chơi hội được, nhưng nhờ có sức sống tiềm tàng trở lại mà về
sau cô có đủ sự can đảm và cả tình thương để cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng A
Phủ trốn khỏi Hồng Ngài, chấm dứt những chuỗi ngày tăm tối, nô lệ. 
b) Tâm trạng của Mị trong đêm cắt dây trói cho A Phủ
– Để hiểu rõ hành động cắt dây trói cho A Phủ của Mị, cần phải đặt nhân vật
này vào hoàn cảnh cụ thể, phải hiểu được rằng, nếu không có sức sống tiềm tàng
đã trở lại (cũng như ở trên, nếu không có sức sống, làm sao có sức sống tiềm tàng
?), thì sẽ không thể có hành động cắt dây trói cho A Phủ. Vì vậy, dù đoạn nói về
tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cắt dây trói cho A Phủ trong văn bản
rất ngắn (một trang rưỡi,  phần cuối của đoạn trích trong sách giáo khoa)  nhưng
vẫn là một văn bản hoàn chỉnh. Nó là sự tiếp tục có tính lô gích với đoạn văn trên.
– Từ vô cảm trước đó, sau khi sức sống tiềm tàng đã trở lại, Mị đã hoàn toàn
thay đổi trong  suy  nghĩ  và  trong  hành  động.  Trước  đó,  nhìn  thấy  những  người
xung quanh bị đối xử tồi tệ, Mị không có bất cứ cảm xúc nào. Nhưng bây giờ, Mị
đã khác. Mị bỗng thấy cảm thương cho người cùng cảnh ngộ với mình. Nhìn thấy
cảnh A Phủ bị trói, mặt xạm đen lại, nước mắt rơi trên má mà không lấy tay lau đi
được, Mị nhớ lại cảnh mình bị trói trước đó. Cô chợt nảy sinh hành động cắt dây
trói cho chàng trai tội nghiệp kia. 
– Tuy nhiên, để đến được hành động dũng cảm này, Mị phải trải qua cuộc đấu
tranh rất gay gắt với bản thân mình, nỗi sợ hãi của mình. Trước hết, cô phải thoát
ra khỏi tâm trạng nô lệ. Phải xác định không còn là nô lệ mới có được những hành
động tự do. Mị căm thù lũ người nhà thống lý. Mị hiểu được, bấy lâu nay, chúng
    174
đối xử với nhiều người cùng cảnh ngộ với Mị như thế. Mà cũng không chỉ riêng
Mị và A Phủ, những người dân Mèo khác cũng phải chịu đựng sự cùng khổ, bất
công này.
–  Lòng  thương  người,  cùng  với  nỗi  căm  thù  chất  chứa  bấy  lâu  nay  cộng
hưởng trong Mị.  Cô đã quyết định cắt dây trói cho A  Phủ.  Khi A  Phủ đã  thoát
khỏi dây trói, chạy ra ngoài, một lần nữa, nỗi sợ hãi lại trào dâng trong Mị. Nếu
Mị ở lại đây, rồi cô sẽ bị trói thay vào cây cọc kia mất thôi. Cô đã xin với A Phủ
cho chạy trốn cùng. Quyết định này đã cứu Mị thoát khỏi những chuỗi ngày tăm
tối, nô lệ ở nhà thống lý. Hành động của Mị ban đầu tuy chỉ tự phát, nhưng lại có
ý nghĩa lớn lao : chính Mị đã tự giải thoát cho cuộc đời cô. Giá trị nhân đạo của
ngòi bút Tô Hoài toát ra từ đó.
III -  KẾT LUẬN 
 Vợ chồng A Phủ là một bài ca khẳng định sức sống của con người. Bằng vốn
sống hiện thực của mình, bằng ngòi bút nhân đạo sâu sắc, nhà văn Tô Hoài đã xây
dựng được một bức tranh chân thực và sinh động về cuộc đời đau khổ tăm tối của
những người dân lao động miền núi trước Cách mạng tháng Tám 1945. Nhưng có
lẽ phần giá trị hơn của tác phẩm khiến cho nhà văn vượt trội hơn hẳn các nhà hiện
thực trước, đó là sự hướng tới cuộc sống tốt đẹp cho con người, giá trị hiện thực
và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm toát ra từ đó. 
 
 
RừNG Xà NU 
NGUYỄN TRUNG THÀNH
A - DẠNG ĐỀ 
– Tóm tắt cốt truyện Rừng xà nu, giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
–  Phân tích hình tượng  cây  xà  nu  trong truyện  ngắn  Rừng  xà  nu,  nhận  xét
ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả cây xà nu của nhà văn (đề thi đại học, 2006, dạng
câu 3 điểm).
–  Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu.
–  Phẩm chất anh hùng của người Tây Nguyên trong Rừng xà nu.
–  So sánh Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
về đề tài, nghệ thuật và nội dung phản ánh.
  175
Một số lưu ý : Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là tác phẩm  không có
nhiều tình huống ra đề. Học tác phẩm này, học sinh nên nhớ hoàn cảnh ra đời, nội
dung cốt truyện, giải thích được ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. Ngoài ra, với loại
đề phân tích nhân vật và hình tương thiên nhiên, cần chú ý hơn nhân vật Tnú và
hình tượng cây xà nu. Trong trường hợp đề ra hướng vào việc khái quát một vấn
đề nào đó, chẳng hạn, phẩm chất những người cách mạng Tây Nguyên qua một số
nhân vật, thì nên phân tích thêm hai nhân vật quan trọng còn lại là cụ già Mết và
Dít.  Thậm  chí, trong trường  hợp cần thiết,  nếu cần phải chứng minh tính  sử thi
của tác phẩm, nên phân tích cả nhân vật bé Heng, mặc dù nhân vật này xuất hiện
không nhiều trong tác phẩm. Trong quá trình học và làm bài, nên chú ý liên hệ sự
gắn  kết của  hình tượng con người  và  hình tượng  thiên  nhiên (cây  xà  nu). Cũng
nên lưu ý so sánh tác phẩm này với Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I -  GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM  
1. Tóm tắt
– Truyện ngắn Rừng xà nu có kết cấu đan xen giữa hai cốt truyện : Một cốt
truyện diễn ra trong hiện tại do tác giả kể về cuộc đời đầy bi thương, anh dũng của
Tnú và dân làng Xô Man trong cuộc đấu tranh chống quân thù.
– Làng Xô Man là một bản làng có truyền thống cách mạng. Xô Man ngay từ
những ngày đen tối, đồng bào vẫn thay phiên nhau nuôi giấu cán bộ trong rừng.
Quân  giặc  biết  và  vây  ráp  nhằm  tiêu  diệt  mầm  mống  cách  mạng.  Sau  khi  anh
Quyết cán bộ cách mạng hy sinh, đám thanh niên trong bản đứng đầu là Tnú dưới
sự chỉ huy của cụ già – cụ Mết vẫn tiếp tục cất giấu vũ khí chờ thời cơ nổi dậy.
Quân  giặc tìm mọi cách bắt Tnú và  khi  không bắt được anh,  chúng bắt  vợ con
anh, đánh đập và tra tấn dã man. Không thể chịu đựng nổi cảnh vợ con bị tra tấn,
Tnú xông ra cứu và bị bắt, bị đánh đập, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà
nu. Giữa  hoàn cảnh hết sức  khốc liệt đó, cụ già Mết đã chỉ huy đám thanh niên
trong bản  xông  vào cứu Tnú,  tiêu diệt toàn bộ tiểu  đội giặc.  Dân  làng Xô Man
đứng dậy, đốt lửa xà nu, rào làng kháng chiến.
– Truyện mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh những cánh rừng xà nu bát ngát
tận chân trời và bằng cảnh trở về và ra đi của Tnú sau ba năm đi lực lượng giải
phóng. Hình ảnh bé Heng ở đầu truyện là một phần hình ảnh của Tnú những năm
    176
trước đây. Hình ảnh Dít, người em vợ của Tnú cũng là một phần tượng trưng cho
sự kế tục trưởng thành của các thế hệ cách mạng những người dân Tây Nguyên
thời kỳ tiền đồng khởi. Ám ảnh trong toàn bộ thiên truyện là chân lý cách mạng
qua  câu  nói  của  cụ  già  Mết  :  “Chúng  nó  đã  cầm  súng,  mình phải  cầm  giáo  !”.
Rừng xà nu là một bản sử thi của nền văn học cách mạng Việt Nam.
2. Về tác phẩm Rừng xà nu
Rừng  xà  nu  là  một  truyện  ngắn  đặc  sắc  của  nền  văn  xuôi  cách  mạng  miền
Nam và của tác giả Nguyễn Trung Thành. Là một nhà văn quen thuộc và am hiểu
vùng đất Tây Nguyên, khi lấy bút danh Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành viết
tác phẩm Đất nước đứng lên (đã được chuyển thể thành phim). Rừng xà nu là một
bản sử thi đậm đà chất lãng mạn về cuộc đấu tranh cách mạng của một làng Tây Nguyên
thời điểm đồng khởi. Truyện ngắn xây dựng thành công hình tượng người cách mạng
Tây Nguyên trong đó Tnú được coi là nhân vật tiêu biểu, quan trọng nhất.
II - PHÂN TÍCH 
1. Hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vị trí của hình tượng cây xà nu trong tác phẩm :
– Rừng xà nu là truyện ngắn được Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) viết
vào năm 1965, khi đế quốc Mỹ ồ ạt kéo quân xâm lược trực tiếp nước ta. Truyện
ngắn giống một lời hịch, mang đậm tính sử thi và lãng mạn, được in lần đầu trên
tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung, sau đó in trong tập Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc.
– Rừng xà nu viết về cuộc nổi dậy của một làng thuộc Tây Nguyên thời điểm
trước 1960, đầu đồng khởi thông qua cuộc đời đau thương nhưng bi tráng của Tnú
và những người dân làng Xô Man. Hình tượng cây xà nu được xây dựng như một
nét nhạc chủ đạo, góp phần quan trọng làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
2. Phân tích hình tượng cây xà nu
a) Mối quan hệ giữa cây xà nu và cuộc đời người dân Tây Nguyên
– Nhà văn miêu tả rất chi tiết cây xà nu từ nhiều góc độ : Hương xà nu, khói
xà nu, thân cây xà nu, nhựa xà nu, mở đầu và kết thúc tác phẩm đều miêu tả rất
chi tiết cây xà nu, đầu đề tác phẩm cũng được đặt tên là xà nu. Cả cuộc đời đầy
  177
anh dũng đau thương bất khuất của Tnú được kể trên nền nhạc cây xà nu. Tất cả
mọi sự kiện quan trọng của người dân Xô Man đều có sự tham gia của cây xà nu
(kể chuyện ở nhà rông, lập làng chiến đấu...).
b) Cây xà nu là biểu tượng cho sự trưởng thành của các thế hệ người dân
Tây Nguyên
– Miêu tả cây xà nu, tác giả cố tình làm rõ đây là sự tượng trưng cho các thế
hệ người dân Tây Nguyên, có cây xà  nu con, giống bé Heng và Tnú thời bé, có
cây xà  nu vừa trưởng thành đã đủ lông mao, lông vũ, giống Dít, em vợ Tnú, có
cây xà nu cường tráng mà không đạn bom nào có thể tiêu diệt nổi, như Tnú và có
cả cây xà nu lâu năm, vững vàng, che chở cho dân làng như cụ Mết.
c) Cây xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất của người Tây Nguyên
– Cây xà nu mọc thành rừng, cây này sát bên cây kia đứng vững trên mảnh
đất ba dan, vừa nhú lên đã giống mũi tên lao thẳng lên bầu trời, cạnh một cây vừa
ngã đã có bốn năm cây con mọc lên thay thế, vết thương trên thân cây chóng lành
như  trên  một thân  thể cường  tráng.  Đặc  biệt  có cây  xà  nu  lâu  năm,  rễ  cắm  sâu
trong  lòng đất,  không thứ bom đạn  nào có thể tiêu  diệt nổi... Tất cả những đặc
điểm tiêu biểu đó đều là phẩm chất của những người dân Tây Nguyên.
d) Ý nghĩa nghệ thuật của hình tượng cây xà nu
– Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành.
Qua hình tượng thiên nhiên này, tác giả đã tạo dựng được không khí Tây Nguyên,
qua đó  nói  được  phẩm  chất  con  người  Tây  Nguyên  dũng  cảm,  yêu  nước,  trung
thực, tình nghĩa,…
– Cây xà nu đươc nhân hoá và được miêu tả hết sức sống động. Nó tạo được
nhiều lớp ý nghĩa cho tác phẩm.
3. Phân tích nhân vật các nhân vật Tnú, cụ già Mết và Dít
a) Nhân vật Tnú : là một nhân vật tượng trưng cho vẻ đẹp của người dân Tây
Nguyên trên nhiều phương diện : trung thực, yêu nước, yêu bản làng, tình nghĩa,
dũng cảm, bất khuất,…
–  Khi còn nhỏ :  
+ Tnú bất khuất từ tuổi thơ, luôn có niềm tin vào cách mạng : từ nhỏ đã nuôi
giấu cán bộ cách mạng trong rừng, không sợ giặc bắt, không sợ hy sinh, luôn nhớ
lời của cụ già Mết : “Đảng còn, núi nước này còn”.
    178
+ Phẩm chất bất  khuất đã  được thể  hiện  ngay  trong từng  việc  làm, từng
nét tính  cách  : đi  liên  lạc bao giờ cũng chọn  khúc  sông dữ, chọn  đường  lớn
mà đi, khi bị bắt, giặc dí súng vào bụng doạ dẫm, Tnú không sợ mà nói cách
mạng ở  trong  đó.
– Khi trưởng thành :  
+  Tnú  càng  thể  hiện  rõ  phẩm  chất  bất  khuất của  mình,  cùng  thanh  niên
trong bản giấu vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa, khi bị bắt, bị đốt mười đầu ngón
tay vẫn không hề kêu van, với bàn tay đầy thương tật, Tnú vẫn đủ sức mạnh
giết chết quân thù.
+ Tnú hết lòng thương yêu vợ con, khi nhìn thấy vợ con bị giặc đánh đập dã
man, biết khó lòng cứu thoát Tnú vẫn xông ra cứu. Sau ba năm về làng, đến chỗ
bìa rừng, nhớ lại kỷ niệm lần đầu gặp lại, lòng Tnú quặn đau.
+ Tnú là người con của quê hương đầy tình nghĩa luôn gắn số phận mình với
cộng  đồng.  Tnú  tập  trung  tất  cả  mọi  vẻ  đẹp  của  người  dân  Tây  Nguyên  :  yêu
nước, yêu làng bản, trung thực, giàu tình nghĩa thuỷ chung.
+ Xây dựng nhân vật Tnú, nhà văn vừa khái quát được những nét chung của
người dân Tây Nguyên, vừa khắc hoạ được nét riêng của nhân vật. Chỉ qua việc
miêu tả hình ảnh bàn tay của Tnú, nhà văn đã  cho người đọc thấy được đầy đủ
phẩm chất con người anh. Bàn tay Tnú là bàn tay trung thực vì nó dám cầm đá
đập vào đầu do cái đầu không chịu nhớ chữ. Đó là bàn tay đau thương vì cả mười
ngón tay đều bị đốt bằng lửa xà nu, đó còn là bàn tay của tình nghĩa thuỷ chung
(yêu thương và che chở cho vợ con), bàn tay của sức mạnh, lòng bất khuất (dù bị
thương tật nhưng vẫn đủ sức mạnh bóp chết thằng Dục),…
b) Các nhân vật cụ già Mết, Dít
Nói đến phẩm  chất những  người dân Tây  Nguyên, ngoài  nhân  vật Tnú,  còn
phải nhắc đến nhiều nhân vật khác. Tuy nhiên tiêu biểu nhất trong số đó, cần phải
kể đến hai nhân vật : cụ già Mết và Dít...
– Cụ già Mết : 
+ Nhân vật già làng, mẫu nhân vật tiêu biểu đóng vai người kể chuyện trong
các tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Cụ già Mết trong Rừng xà nu cũng là một nhân
vật kể chuyện như thế. Chính cụ là người kể lại câu chuyện bi hùng về Tnú và dân
làng Xô Man trong cái đêm  anh trở về làng.  Giọng cụ sang sảng như giọng núi
rừng Tây Nguyên.  Cụ là người sống lâu năm ở cái làng này, ngực cụ để trần, râu 
  179
dài tới ngực, hai bàn tay như hai gọng kìm. Trong phần miêu tả hình tượng cây xà
nu, Nguyễn Trung Thành so sánh cụ Mết với cây xà nu lớn nhất : Cụ chứng kiến
tất cả nỗi gian khổ, sự trưởng thành của dân làng Xô Man. Cụ là người từng nêu
ra nhiều chân lý : Đánh thằng Mỹ thì phải đánh lâu dài, “chừng nào chúng nó đã
cầm súng, mình phải cầm giáo !”. Trong cuộc đối đầu với bọn thằng Dục, cụ Mết
từng khuyên Tnú phải biết kiên nhẫn. Cụ bày cho đám thanh niên trong làng cất
giấu vũ khí trong rừng chờ ngày khởi nghĩa. Chính cụ đã chỉ huy đám thanh niên
xông vào cứu Tnú khi anh bị bắt bị tra tấn. Đúng như Nguyễn Trung Thành đã ví
von, so sánh, cụ già Mết là cây xà nu lớn vươn tán lá rộng che chở cho dân làng.
 – Dít : Trong tác phẩm, Dít tuy không quan trọng bằng hai nhân vật Tnú và
cụ già Mết, nhưng cũng là nhân vật được Nguyễn Trung Thành chú ý. Là em gái
của Mai, vợ Tnú, Dít chính là người thay thế các thế hệ cha anh trong cuộc chiến
đấu chống quân thù. Tính cách của Dít  được tác giả xây dựng bằng những chi tiết
không kém phần ấn tượng : ngay từ nhỏ, cô bé đã tỏ ra rất gan lì. Có lần bị giặc
doạ bằng cách bắn súng cày nát đất xung quanh nơi Dít đứng, cô bé chỉ khóc thét
lên rồi sau đó im bặt. Về sau, khi đã trở thành bí thư chi bộ, xã đội trưởng, trước
mặt  người  anh  rể,  khi anh  được  đơn  vị  cho  nghỉ  phép  thăm  làng,  Dít  vẫn  tỏ ra
cứng rắn : nếu không có giấy phép, em sẽ bắt anh giải trả lại đơn vị đấy. Nhưng
ngay sau đó, cô lại nhỏ nhẹ, cảm thông : “Sao anh về có một đêm thôi”.  Dít chính
là  cây  xà  nu  cành  lá  xum  xuê,  như  những  con  chim  đã  đủ  lông  mao,  lông  vũ,
không kẻ thù nào có thể khuất phục nổi mà Nguyễn Trung Thành đã miêu tả trong
tác phẩm Rừng xà nu.
III - KẾT LUẬN (So sánh với tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài)
Cùng  viết  về đề tài  miền núi,  nhưng Rừng xà nu của Nguyễn  Trung Thành
không giống với Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Sự khác nhau được thể hiện trước
tiên ở bối cảnh thời gian : Rừng xà nu khai thác bối cảnh hiện thực những năm
chống Mỹ,  Vợ chồng A Phủ lại  viết  về thời  kỳ  chống Pháp.  Về không  gian, Vợ
chồng A Phủ viết về mảnh đất Tây Bắc, Rừng xà nu lại tập trung khai thác vùng
đất  Tây  Nguyên.  Cả  hai  vùng  đất  này  đều  rất  quen  thuộc  và  là  sở  trường  của
Nguyên Ngọc và Tô Hoài. Về mặt thi pháp, hai tác phẩm này cũng có nhiều điểm
khác nhau : Xét về dung lượng, Vợ chồng A Phủ thậm chí còn có độ dài hơn cả
Rừng xà nu, nhưng lâu nay, người ta chỉ coi Rừng xà nu là tác phẩm sử thi, do tác
phẩm đã phản ánh được một khoảnh khắc quan trọng trong lịch sử cách mạng của
dân tộc, nhân vật nhiều hơn, thời gian dài hơn… còn Vợ chồng A Phủ chỉ đi sâu
    180
khai thác số phận  hai  nhân  vật tiêu biểu  đại diện cho  người  nông dân  lao động
miền núi thời kỳ trước Cách mạng trong một khoảnh khắc thời gian ngắn… Tóm
lại,  dù  có  những  đặc  điểm  khác  nhau,  nhưng  hai  tác  phẩm  Rừng  xà  nu  và  Vợ
chồng A Phủ đều là những tác phẩm tiêu biểu của văn học cách mạng Việt Nam. 
Đây là hai tác phẩm điển hình nhất của nền văn xuôi cách mạng Việt Nam viết về
đề tài miền núi.
 
                
NHữNG ĐứA CON TRONG GIA ĐìNH
        NGUYỄN THI
A - DẠNG ĐỀ 
–  Phẩm  chất  của  người  cách  mạng  Nam  Bộ  qua  hai  nhân  vật  Chiến  và           
Việt trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình.
 – So sánh hai nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm Những đứa con trong
gia đình.
–  Trong  truyện  ngắn  Những  đứa  con  trong  gia  đình,  Nguyễn  Thi  viết  :
“Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm
con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, mà biển thì rộng lắm… rộng bằng cả
nước ta và ra ngoài cả nước ta…”. Qua việc phân tích truyện Những đứa con trong
gia đình của Nguyễn Thi, hãy làm rõ nhận định trên. 
Một số lưu ý : Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
trong sách giáo khoa đã lược bớt cả hai phần, đầu và cuối, phần chính được giữ lại
chủ yếu tập trung vào hai nhân vật chính là Chiến và Việt. Hai nhân vật đều sinh
ra trong một gia đình cách mạng tiêu biểu ở Nam Bộ, vùng  đất mà Nguyễn Thi
hết sức quen thuộc, không khác gì Tô Hoài với vùng Tây Bắc và Nguyên Ngọc
với Tây Nguyên. Dạng đề thi quen thuộc với tác phẩm này, chủ yếu chỉ tập trung
vào phân tích nhân vật, trong đó có cả dạng đề phân tích riêng và so sánh chung.
Học sinh học tác phẩm này cũng cần chú ý đến phong cách của nhà văn, người mà
giới nghiên cứu luôn coi là một thứ đặc sản của vùng Nam Bộ. Nguyễn Thi là tác
giả của Người mẹ cầm súng, một tác phẩm nổi tiếng viết về chị Út Tịch, đã được
dựng phim  với  nhan đề Mẹ vắng nhà.  Khi tiếp  xúc với các  dạng đề về Nguyễn
  181
Thi, nên so sánh chút ít  với Nguyên Ngọc để làm rõ vấn đề, cùng viết về người
cách mạng miền Nam trong công cuộc chống Mỹ, nhưng mỗi tác giả đều có một
cách tiếp cận riêng rất độc đáo.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Nguyễn Thi, tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê gốc tại Nam Định, sinh năm
1928, tham  gia  cách mạng từ  năm  1945. Thời kỳ công tác  tại tạp  chí  Văn nghệ
Quân đội,  ông  đã  công  bố hai  tập  truyện  ngắn  Trăng  sáng (1960)    và  Đôi bạn
(1962).  Ngay  sau  năm  này,  Nguyễn  Thi  tình  nguyện  trở  lại  chiến  trường  miền
Nam và hy sinh tại mặt trận Sài Gòn trong những ngày tổng tấn công mùa xuân
Mậu Thân năm 1968, đúng với tư cách một người chiến sĩ. Trong số các cây bút
văn  xuôi  Việt  Nam  thời  kỳ  chống  Mỹ,  Nguyễn  Thi  tuy  sáng  tác  không  nhiều,
nhưng lại là một trong số những nhà văn ít ỏi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng
bạn  đọc.  Nhân vật  chủ  yếu  trong  phần  lớn  các  tác  phẩm  của ông  đều  là  những
người nông dân Nam Bộ, dung dị, hồn nhiên, bộc trực và giàu lòng yêu nước. Chị
Út Tịch trong Người mẹ cầm súng, Chiến và Việt trong Những đứa con trong gia
đình và còn nhiều nhân vật khác nữa trong các tác phẩm của ông thể hiện rõ cho
đặc điểm trên.
– Những đứa con trong gia đình được Nguyễn Thi viết năm 1966, in lại trong
tập  Truyện  và ký năm 1978,  là  kết quả những chuyến công tác,  vật  lộn của  ông
trên nhiều nẻo đường cách mạng miền Đông, vừa với tư cách một chiến sĩ, vừa là
người cầm bút. Truyện của Nguyễn Thi  giàu chất hiện thực, bộn bề những chi tiết
dữ dội,  ác  liệt  của  chiến  tranh  nhưng  cũng  đằm  thắm  chất  trữ  tình, chất thơ  về
những con người Nam Bộ yêu nước, tình nghĩa. Chiến và Việt, hai nhân vật chính
trong truyện ngắn này, là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm trên.
II - PHÂN TÍCH 
1.  Truyền thống  cách mạng  của người nông dân Nam  Bộ qua  hai nhân vật
Chiến và Việt. Những vẻ đẹp chung 
a) Hai người con trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng
–  Nguyễn Thi trong truyện  ngắn của  mình đã  rút ra  một nhận  xét thật  giàu
chất thơ và chính xác : “Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi
    182
vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, mà biển
thì rộng lắm… rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Xây dựng hai nhân
vật Chiến  và  Việt,  hai người con trong cùng một gia  đình, Nguyễn Thi rất có ý
thức muốn tạo ra một câu chuyện có tính sử thi về lòng  yêu nước, truyền thống
cách mạng của người Nam Bộ.
– Cũng như bao người dân Việt Nam khác trong kháng chiến, Chiến và Việt
cùng  được  thừa  hưởng  truyền  thống  của  một  gia  đình  cách  mạng  và  phải  chịu
nhiều  tang  tóc, đau thương, cùng đội chung mối thù sâu  nặng  với Mỹ -  Nguỵ  :
Ông nội và bố bị giặc giết, mẹ phải vất vả nuôi các con. Rồi ngay cả mẹ cũng bị
chết  vì  trúng  bom Mỹ  trong  một  lần  tham  gia  biểu  tình  chống giặc  đi  càn.  Gia
đình chỉ còn lại năm người, chị Chiến, Việt, thằng út em, chú Năm và một người
chị nuôi đã lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng cùng mối thù không đội trời
chung  với  quân  thù  đã được  chú  Năm  và  những  người  khác  trong  gia  đình  ghi
chép trong một cuốn sổ để thế hệ các con cháu sau này đọc được.
b) Chiến và Việt là những người con, yêu nước, dũng cảm
– Cùng có chung món nợ với quân thù, ngay từ nhỏ hai chị em Chiến, Việt đã
bộc lộ tình cảm yêu quê, yêu nước theo một cách riêng “rất Nam Bộ” : Tình yêu
của cả hai đều rất cụ thể, rõ ràng. Cả hai luôn canh cánh trong lòng món nợ chưa
trả được với quê hương, làng xóm, ba má, “mối thù thằng Mỹ thì lúc nào cũng có
thể rờ thấy được”. Cả Chiến và Việt đều ý thức rất rõ điều này. Chừng nào chưa
trả được thì nó vẫn còn đó. Đó là lý do để chỉ  sau ngày má mất,  cả hai  chị em
Chiến, Việt đều xung phong đi bộ đội. Chị Chiến khẳng định điều đó với Việt :
“Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à
!”. Còn Việt, trả lời chị của mình : “Chị biết vậy sao hồi nãy chị ngăn tôi ?”. Việt
xin anh cán bộ huyện đội cho nhập ngũ trước một cách thật giản dị : “Tôi tên là
Việt,  anh  cho  tôi  đi  bộ đội  với”.  Cả  hai  chị  em  đều  cùng  giành  nhau  để  được
quyền đi. Việt nhanh nhẹn xông lên đăng ký trước ; chị Chiến sợ không được đi
buộc phải “tố cáo” em : “Nó chưa  đủ tuổi mười tám, nó là  em tôi mà cái gì nó
cũng giành…”. Cuối cùng phải nhờ sự phân xử của chú Năm. Chú đã can thiệp để
cả hai cùng đi : “Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó
một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai”. 
–  Phải  có  lòng  yêu  nước  nồng  nàn,  tha  thiết  đến  thế  nào,  những  người  dân
Nam Bộ, như Chiến và Việt mới có được sự chân thành trong cách bộc lộ tình yêu
nước  như thế. Cũng như chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng bày tỏ lòng  yêu
  183
nước của mình : “Còn cái  lai quần cũng đánh”. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước xa xưa, mảnh đất Nam Bộ cũng từng có một Nguyễn Trung Trực với câu nói
bất hủ : “Khi nào hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”. Cái gia đình
bé nhỏ với chú Năm, Chiến và Việt là sự tiếp nối truyền thống đó.
– Yêu nước, căm thù giặc, Chiến và Việt còn thể hiện lòng dũng cảm khi họ
có cơ hội đối mặt với quân thù.  Với chị Chiến,  hồi còn ở  nhà,  chị đã tham  gia
đánh tàu Mỹ trên sông Định Thuỷ. Chị Chiến giành quyền nhập ngũ với Việt cũng
là cách thể hiện lòng dũng cảm, không sợ hy sinh, chết chóc. Còn Việt, có lẽ được
Nguyễn  Thi  nhắc  đến  nhiều  hơn  ở  vẻ  đẹp  này.  Cả  một  câu  chuyện  bi  hùng  về
những  người con cách mạng Nam Bộ đã được  nhà văn trần thuật trên dòng hồi
tưởng của nhân vật Việt. Câu chuyện về anh và gia đình hệt như một cuốn phim
ngắn, hiện ra trước người đọc, hồi hộp và hấp dẫn lạ lùng. Trong một trận đánh
với xe tăng địch ở vùng rừng cao su, Việt dũng cảm áp sát đánh cháy xe tăng Mỹ.
Anh bị thương nặng, lạc đơn vị, ngất đi ngất lại nhiều lần, vậy mà mỗi lúc tỉnh lại,
vẫn  cố  lết  về  phía  có  tiếng  súng, tìm đồng  đội, bất  chấp  sự  nguy  hiểm  với  bản
thân…  Vẻ  đẹp  của  Chiến  và  Việt  chính  là  vẻ  đẹp  của  nhiều  thế  hệ  thanh  niên
nước ta trong lịch sử chiến tranh, là sự tiếp nối truyền thống đánh giặc giữ nước
của ông cha trong quá khứ.
2. Những vẻ đẹp riêng của Chiến và Việt
Mang vẻ đẹp chung của những người con trong một gia đình cách mạng, cùng
chịu nhiều mất mát đau thương mà vẫn bất khuất anh hùng, hai chị em Chiến, Việt
cũng có những vẻ đẹp riêng khác nhau. Điểm cốt lõi trong sự khác nhau của họ
được thể hiện giữa một bên, Chiến là một người chị rất chu đáo, kiên nhẫn, đảm
đang, biết nhường nhịn, và rất “người lớn”, còn bên kia, Việt là một đứa em trai
tình cảm, thương yêu chị và “rất trẻ con”.
a) Chiến 
– Là người chị cả trong gia đình, cha mẹ mất sớm, ở Chiến hình thành những
phẩm chất rất tự nhiên : kiên nhẫn, biết nhường nhịn và biết hy sinh, đảm đang,
tháo vát… Chiến vừa thể hiện được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam trong
hoàn  cảnh  đất  nước  có  chiến  tranh  lại  vừa  kết  nối  được  phẩm  chất  đẹp  đẽ  của
người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
– Đức tính kiên nhẫn của Chiến gần như được bộc lộ ở khắp mọi lúc mọi nơi.
Đó  là  đức  tính  thường thấy  ở  những  con  người  xuất  thân  trong  hoàn  cảnh  khó
    184
khăn đặc biệt. Cha mẹ mất sớm, chị Chiến đứng ra nuôi dạy các em, lúc nào cũng
vui vẻ, không bao giờ phàn nàn hay trách cứ. Chiến có thể ngồi lì một chỗ, đánh
vần từng chữ trong cuốn sổ của gia đình về truyền thống, về những chiến công và
tội ác của quân giặc quên cả ăn, quên trời chạng vạng…
–  Là  chị  lớn  nhất  trong  gia  đình,  ba  má  đã  mất,  Chiến  luôn  biết  hy  sinh,
nhường nhịn những đứa em của mình, đặc biệt với Việt, đứa em kề cận. Hồi còn
nhỏ ở nhà, hai chị em đi bắt cá, phần hơn, chị Chiến dành cho Việt; chiến công
bắn thằng Mỹ trên sông Định Thuỷ, chị cũng nhường em. Chỉ có duy nhất một lần
chị không nhường Việt, đó là lần hai chị em cùng giành nhau nhập ngũ, do nhanh
nhảu, Việt chạy lên đăng ký trước, chị Chiến nhất định không chịu, buộc phải “tố
cáo” em mình. Đơn giản chỉ là vì chị không muốn em còn nhỏ mà phải chịu hy
sinh,  vất  vả. Suy cho  cùng đó  cũng  là  vẻ đẹp của con  người  Việt Nam,  vẻ đẹp
được hun đúc trong những năm dài chiến tranh ác liệt.
– Không chỉ thế, Chiến còn là người chị rất tháo vát, đảm đang. Chị thay thế
ba má chăm sóc, nuôi dạy các em mình rất chu đáo. Chỉ hơn Việt một tuổi, nhưng
mọi suy nghĩ, tính toán của chị Chiến đều rất người lớn, cách lo lắng cho các em
và  lo  sắp đặt việc  gia  đình của chị Chiến  khiến Việt có lúc nghĩ “chị  giống  hệt
má”.  Trước ngày hai chị em lên đường nhập ngũ, Chiến bàn việc gửi em út sang
nhà chú Năm, cả bàn thờ ba má cũng khiêng sang gửi chú Năm, chị không quên
giao lại mấy công ruộng cho các  cô chú  trong  ấp để khỏi lãng phí, giường  ván
cũng cho xã mượn làm ghế học…Mọi việc sắp đặt chu đáo tới mức chú Năm phải
khen : “Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề
gia thế, đặng bề nước non”.
b)  Việt  
– Khác với chị mình, toát ra từ nhân vật Việt, mọi vẻ đẹp của anh đều “rất trẻ
con”. Khắc  hoạ vẻ đẹp này của nhân vật Việt, nhà văn Nguyễn Thi muốn tạo ra
nét riêng độc đáo cho nhân vật trong tác phẩm của mình. Đó là nét độc đáo của
thế  hệ  trẻ  tuổi  miền  Nam  trong chiến  tranh  chống  Mỹ.  Họ  trẻ  trung,  hồn  nhiên
nhưng lại chững chạc và bản lĩnh. Tuy còn trẻ nhưng họ đã gánh trên vai mình sứ
mệnh của nhân dân, đất nước. Có lẽ vì thế, giống Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi cũng đậm màu sắc sử thi.
–  Khác  với chính bản thân mình,  cũng chín chắn trong suy  nghĩ, dũng cảm
trong chiến đấu, nhưng Việt lại có nhiều nét hồn nhiên thật trẻ con. Lúc nhỏ, Việt
là cậu bé nghịch ngợm, hiếu động, thích bắt cá, bắn chim. Nét trẻ con này vẫn còn
  185
theo Việt đến tận ngày anh lên đường nhập ngũ : Trong ba lô của anh có cả cây ná
thun  thời  nhỏ  thường  dùng  bắn  chim.  Trước  lúc  nhập  ngũ,  chị  Chiến  bàn công
chuyện gia đình, Việt giả vờ chăm chú lắng nghe, cũng “ừ ào”, chuyện gì chị nêu
ra cũng “thông qua”, nhưng thực chất là mải ngắm mấy con đom đóm bên ngoài
rồi ngủ quên lúc nào không biết. Việt thương chị Chiến của mình cũng rất trẻ con
: Đến lúc đã thành anh lính giải phóng, anh vẫn giấu nhẹm chuyện mình có một
người chị với các đồng đội chỉ với một suy nghĩ, sợ mình mất chị. Trong chiến
đấu, Việt dũng cảm, gan lì, bị thương nặng vẫn không một lời kêu rên, vậy nhưng,
lúc gặp được đồng đội, anh oà lên khóc…
III - KẾT LUẬN 
Xây dựng hai nhân vật Chiến và Việt, hai người con trong cùng một gia đình
giàu truyền thống cách mạng của vùng quê Nam Bộ, cùng có chung một nỗi đau
thương, dũng cảm và bất khuất trong chiến đấu, nhà văn Nguyễn Thi đã khái quát
rất thành công vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh. Bằng ngòi bút
phân tích tâm  lý sắc sảo, bằng ngôn ngữ đậm đà chất Nam Bộ, kết hợp với vốn
hiểu biết sâu sắc tâm lý con người, Nguyễn Thi đã thể hiện được tài năng hết sức
độc đáo của ông. Những đứa con trong gia đình là một trong những minh chứng
hùng hồn cho điều đó.
    
 
CHIếC THUYềN NGOàI XA 
NGUYỄN MINH CHÂU
                  
A - DẠNG ĐỀ 
–  “Trong  truyện  ngắn  Chiếc  thuyền  ngoài  xa,  Nguyễn  Minh  Châu  đã  nêu
được một tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống”. Hãy phân
tích truyện để làm rõ nhận xét trên (đề thi đại học năm 2006, dạng câu 3 điểm).
– Hãy phân tích nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa để
từ đó rút ra bài học về mối quan hệ giữa cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật và ý
nghĩa của nó với hiện thực cuộc sống.
    186
Một số lưu ý : Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình cũ được chọn
duy nhất tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng. Trong chương trình mới, Chiếc thuyền
ngoài xa là tác phẩm được đưa vào thay thế. Đây là tác phẩm được Nguyễn Minh
Châu viết trong thời kỳ đổi mới của nền văn học nước nhà và của chính bản thân
nhà văn. Truyện có những chi tiết nếu không được giải thích rõ ràng sẽ dễ bị học
sinh hiểu sai, gây phản cảm (chẳng hạn chi tiết đứa con cầm chiếc thắt lưng quật
cha mình khi thấy cha đánh mẹ, hoặc người mẹ nhẫn nhục chịu đòn của chồng…). 
Tuy nhiên,  đây  là  tác phẩm rất sâu  sắc, có thể sử dụng ra  đề cho học sinh giỏi.
Dạng đề thi loại này có thể là  yêu cầu phân tích mối quan hệ qua lại giữa nghệ
thuật và cuộc đời, hoặc như tình huống đề thi đại học năm 2006. Để học tốt bài
này, học sinh cần bám sát nội dung của truyện, nắm được khái niệm tình huống
truyện, hình tượng người kể chuyện, vai trò của nhà văn trong việc phát hiện và
khám phá những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Đề thi đại học
năm 2006 nhấn mạnh vai trò của tình huống truyện trong việc khám phá phát hiện
đời sống của Nguyễn Minh Châu. Khi làm bài, học sinh có thể so sánh thêm với
tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, đặc biệt ở vấn đề tình huống truyện.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
–  Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) thuộc  thế hệ các  nhà  văn trưởng thành
thời kỳ miền Bắc nước ta đã được giải phóng và đang đi lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa.  Tham  gia  kháng  chiến  từ  năm  1950,  nhưng  mãi  tới  năm  1967,  Nguyễn
Minh Châu mới công bố tác phẩm đầu tiên Cửa sông. Ngay từ tập truyện đầu tay
này, nhà văn đã bộc lộ khá đầy đủ phong cách sáng tác quen thuộc của mình. Đó
là một cây bút đậm đặc chất lãng mạn và cũng giàu chất suy tư, triết lý.
– Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu viết vào thời điểm nền văn
học nước ta đang trên con đường đổi mới (1987), bản thân nhà văn được coi là
người tiên phong nhất trong mặt trận này. Truyện viết về một nhà nhiếp ảnh tên là
Phùng, kể lại câu chuyện anh từng chứng kiến nhân một lần đi công tác tại một
làng ven biển miền Trung. Truyện đậm đặc chất hiện thực cuộc sống của thời kỳ
đầu đổi mới liên quan đến cuộc vật lộn mưu sinh của những người dân chài lưới
nghèo và cái nhìn chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
  187
II - PHÂN TÍCH
1. Tình huống độc đáo của tác phẩm
– Nguyễn Minh Châu vốn là nhà văn có năng khiếu trong việc tạo tình huống
cho các cốt truyện của mình. Tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng là một bằng chứng
rõ ràng cho điều đó. Tuy nhiên, dù sao Mảnh trăng cuối rừng vẫn là một dạng tình
huống truyện độc đáo thuộc số những tác phẩm thấm đậm chất lãng mạn thời kỳ
đầu của ông. Chiếc thuyền ngoài xa không thuộc sáng tác thời kỳ đó. Tác phẩm
nằm  trong chuỗi những truyện ngắn thuộc thời kỳ đổi mới.  Ngoài Chiếc thuyền
ngoài xa, có thể kể ra đây một số tác phẩm tiêu biểu sau : Mùa trái cóc ở miền
Nam, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát,…
– Có thể tóm tắt ngắn gọn tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa như sau :
Phùng, tên nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm vốn là một nghệ sĩ nhiếp ảnh
có người bạn chiến đấu  năm xưa tên Đẩu, nay  là chánh án ở một toà án huyện.
Nhân chuyến đi thực tế chụp một bức ảnh cảnh buổi sáng có sương mù tại vùng
biển nơi Đẩu công tác, Phùng tình cờ gặp và chứng kiến cuộc sống của gia đình
một người thuyền chài  nghèo,  anh đã  chụp  được bức ảnh ưng ý về chính chiếc
thuyền của hai vợ chồng kia trong làn sương buổi sớm khi nó đang ở ngoài xa để
bổ sung cho bộ sưu tập ảnh của mình, nhưng lại rất đau lòng về sự tàn nhẫn nấp
phía sau vẻ đẹp ngoài xa của chiếc thuyền khi bất ngờ chứng kiến tận mắt, cảnh
người chồng hành hạ người vợ, mà chị vẫn cam chịu, cảnh đứa con phản ứng đòi
đánh  lại cha mình  và cảnh tại phiên toà,  chánh án Đẩu  khuyên người vợ kia  bỏ
chồng còn chị ta một mực khóc lóc để không phải ly hôn. Tác phẩm kết thúc khi
Phùng hoàn thành chuyến thực tế mỹ mãn của mình : Bức ảnh chụp chiếc thuyền
ngoài  xa trở thành một kiệt tác  nghệ thuật,  cuộc sống  của cặp  vợ chồng thuyền
chài kia vẫn “bình dị” và “tàn nhẫn” như ngày nào… Một bức tranh nghịch lý của
cuộc sống hiện thực đã được thể hiện rất thành công dưới ngòi bút tài năng của
Nguyễn Minh Châu.
–  So  với  Mảnh  trăng  cuối  rừng,  tình  huống  truyện  Chiếc  thuyền  ngoài  xa
hoàn toàn không có yếu tố ngẫu nhiên. Tuy nhiên, bối cảnh truyện ở đây thì hoàn
toàn khác  : Mảnh trăng cuối rừng đặt các nhân vật trong bối cảnh chiến tranh,
thậm chí chiến tranh rất khốc liệt. Chỉ có trong chiến tranh mới có một cuộc tình
trớ trêu và lãng mạn như cuộc tình của Lãm và Nguyệt, yêu nhau mà chưa hề gặp
mặt nhau ; rồi lúc gặp nhau lại không nhận ra nhau.  Bối cảnh truyện Chiếc thuyền
    188
ngoài xa, trái lại được đặt trong khung cảnh hoà bình. Nhìn  bề ngoài cuộc sống
của đôi vợ chồng thuyền chài kia, ít ai nghĩ họ phải chịu nhiều bất hạnh đến thế.
Nguyễn Minh Châu cố tình nhấn mạnh tình huống đặc biệt này. Ông muốn cảnh
báo với tất cả mọi người rằng, đừng bao giờ quá chủ quan khi chỉ quan sát hiện
thực bề ngoài. Bề ngoài có thể đánh lừa bất cứ ai, kể cả những nghệ sĩ từng trải
như Phùng. Từ xa, lại trong làn sương mù buổi sáng ở biển, anh đã chụp được một
bức ảnh rất đẹp, “có lẽ suốt cuộc đời cầm máy ảnh, chưa bao giờ tôi được thấy
một cảnh “đắt” trời cho như vậy : trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một
danh hoạ thời cổ…”. Đúng ra, bức ảnh chụp được của nghệ sĩ Phùng không hề giả
dối, bởi lẽ, đó là bức ảnh được ngắm từ xa, bản thân biển vốn đã rất đẹp, lại vào
một buổi sớm sương mù. Bức ảnh chỉ không còn đẹp khi người ta tiếp cận với nó
ở góc độ gần, đặc biệt, khi đi sâu khám phá những ẩn chứa bên trong của nó : một
người chồng vũ phu vì cuộc vật lộn mưu sinh mà tàn nhẫn hành hạ vợ của mình,
còn người vợ “thô kệch” thì cam chịu khiến cho đứa con bất bình phản ứng cha
một cách “hỗn láo”… Nghịch cảnh đó diễn ra hàng ngày một cách rất tự nhiên.
2. Các nhân vật chính bộc lộ tính cách trong tình huống truyện
– Thông thường,  trong một tác phẩm  văn xuôi,  tính cách  nhân vật chỉ được
bộc  lộ  đầy  đủ  nhất  trong  tình  huống  truyện.  Cũng  như  trong  Mảnh  trăng  cuối
rừng, vẻ đẹp lãng mạn của Nguyệt chỉ được bộc lộ đầy đủ nhất trong chuyến hành
trình ngẫu nhiên của cô với Lãm và khi hai người bất ngờ gặp máy bay địch bắn
phá, trong khi Lãm không phát hiện ra người yêu ngồi ngay bên cạnh mình. Tình
huống độc đáo của Chiếc thuyền ngoài xa tuy không hoàn toàn như thế, nhưng nó
cũng “đủ độc đáo” để giúp nhà văn khám phá bí mật trong bề ngoài hiện thực rất
đẹp đẽ kia.
– Trước hết với Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cả cuộc đời chỉ say mê săn
lùng cái đẹp. Sau nhiều ngày “phục kích” mà vẫn chưa chụp được bức ảnh nào,
rồi sau cả một tuần lễ suy nghĩ, anh đã quyết định thu vào tờ lịch năm sau cảnh
chiếc thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh : “Mũi thuyền in một nét mơ hồ,
loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”. Phùng cứ tưởng mình ‘vừa khám phá thấy cái chân lý của sự
toàn thiện”,  nếu  như anh  không nán lại để được lần thứ hai bất ngờ chứng kiến
cảnh người vợ bị chồng đánh tàn nhẫn thế nào ; lần thứ ba trông thấy đứa con trai
giành lấy chiếc dây thắt lưng định quật bố. Và cuối cùng, là cảnh người vợ khóc
lóc van xin để toà không xử ly hôn anh chồng vũ phu, tàn nhẫn của mình. Phải
  189
đến tận lúc này, Phùng mới hiểu ra chân lý, cuộc sống không phải lúc nào cũng
đồng điệu với mong ước của người nghệ sĩ. Để phản ánh đúng cuộc sống, người
nghệ sĩ phải biết chấp nhận cả những nghịch lý của hiện thực cuộc đời…
– Đôi vợ chồng thuyền chài cũng bộc lộ những nét tính cách rất đỗi hiện thực
trong  tình  huống  độc  đáo  của  truyện.  Trước  tiên  là  người  vợ.  Ban  đầu  nghệ  sĩ
Phùng không thể hiểu được tại sao không vì nguyên cớ gì, chị ta lại bị anh chồng
đánh đập tàn nhẫn thế kia : lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà… người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy
nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy
trốn”. Vậy mà tại phiên toà, khi được vị chánh án chia sẻ, thông cảm rằng việc chị
phải rời bỏ anh chồng vũ phu kia là lẽ đương nhiên, công lý sẽ ủng hộ chị, thì chị
lại thản nhiên nói : “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nó”. Hiện thực vẫn còn được ẩn kín đến tận lúc này, nếu như người đọc
chỉ dừng ở đó. Phải đọc đoạn sau của truyện, ta mới hiểu được lý do tại sao. Thì
ra, lý do cũng rất đơn giản, vì nó là cuộc sống thực sự không bị tô hồng. Chị vợ
giải thích, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết thế
nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông”. Chị cần một
cuộc sống để tồn tại, để chị nuôi sống những đứa con của mình, cho dù phải chịu
hành hạ đau đớn. Đơn giản chỉ như thế.
–  Nhân  vật  người chồng có lẽ chứa  nhiều bí ẩn nhất trong thiên truyện của
Nguyễn Minh Châu. Điều bí ẩn trước tiên có nguyên do từ mối quan hệ giữa anh
ta với người kể chuyện, nghệ sĩ Phùng, trong tác phẩm. Không giống với nhân vật
người  vợ,  tính  cách  nhân  vật  này  dường  như  chỉ được  nhà  văn  quan  sát  từ  xa,
không có bất cứ đối thoại nào để giúp nhân vật tự bộc lộ tính cách. Anh ta là ai mà
tàn nhẫn với vợ con mình như thế ? Ban đầu nghệ sĩ Phùng nghi ngờ anh là một
tên lính nguỵ (chi tiết chiếc thắt lưng da hắn dùng đánh người vợ của mình). Chỉ
có  một  gã  lính  ngụy  mới  thô  bạo  thế  kia!  Nhưng  về  sau,  chính  anh bất  ngờ  vì
không phải thế. Thậm chí theo lời người vợ kể, hắn nghèo khổ và túng quẫn “vì
trốn lính” hồi còn chiến tranh. Vấn đề ở đây không phải là con người thuộc phía
chiến tuyến nào. Tất cả chỉ vì cuộc sống vất vả mà thôi, vì cả “đám đàn bà ở trên
thuyền đẻ nhiều quá”. “Ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi hoà
thuận vui vẻ”. Chính người vợ đã nói ra điều này. Tất nhiên, theo Nguyễn Minh
Châu, người đàn ông vũ phu này là sản phẩm “rớt” lại của xã hội cũ, nếu không
có  cách  mạng  về,  “không  khéo  hắn  sẽ  còn  hành  hạ  vợ  cho  đến  chết”.  Nghệ  sĩ
Phùng về sau đã phát hiện ra “chân lý bình dị” này. 
    190
III - KẾT LUẬN : Ý nghĩa khám phá mới mẻ của tình huống truyện
– Trong tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, nhờ tạo được tình huống truyện độc
đáo  mà  Nguyễn  Minh  Châu  khám  phá  ra  vẻ  đẹp  tiềm  ẩn  trong con  người  Việt
Nam,  qua  hình  tượng  nhân  vật  Nguyệt.  Ở  một  khía  cạnh  khác,  phức  tạp  hơn
nhưng sâu sắc hơn, tình huống đặc biệt trong Chiếc thuyền ngoài xa đã góp phần
quan trọng để nhà văn phát hiện ra những xung đột, nghịch lý nảy sinh trong hoàn
cảnh  hiện tại  và  cả “cái tầm  thường”  của những  con người trong hoàn cảnh đó.
Phùng và Đẩu là hai  nhân vật đại diện cho cái nhìn, sự cảm nhận, phát hiện mới
mẻ trên.
– Với nhân vật Đẩu, viên chánh toà án huyện, đó là sự tốt bụng nhưng lại hời
hợt và hồn nhiên. Đẩu muốn trở thành một “Bao Công”, nhưng hành động của anh
thiếu thuyết phục. Anh khuyên vợ người thuyền chài bỏ chồng mà không chịu tìm
hiểu căn nguyên tấn bi kịch trong cuộc sống của chị từ đâu ? Đẩu tỏ ra cảm thông
với  vợ người  thuyền  chài  vì nỗi  khổ  của  chị  ta,  ác  cảm  với  anh  chồng  vì hành
động vũ phu, cho rằng anh ta là cội nguồn nỗi bất hạnh của vợ, nhưng lại không
nhận thức được nỗi bất hạnh cũng bắt nguồn ngay từ phía người đàn bà. Phải đến
khi chính vợ người thuyền chài thú nhận, anh mới hiểu ra sự thật.
– Với nhân vật Phùng, nhờ có cuộc hành trình đi tìm cái đẹp, anh mới  nhận
thức ra những “mặt trái” trong cuộc sống ở một miền quê và của những người lao
động  bình  thường.  Đằng  sau  cái  đẹp  của  con  thuyền  vào  buổi  bình  minh  mờ
sương trên biển được quan sát từ xa, Phùng còn được chứng kiến tấn bi kịch của
cặp vợ chồng người thuyền chài, khi quan sát ở gần. Đó âu cũng là quy luật tất
yếu  của  cuộc sống. Không  nên chỉ nhìn  cuộc sống ở  khía  cạnh màu hồng, phải
biết  chấp  nhận  sự  thật,  dù  nghiệt  ngã,  đó  là  bài  học  toát  ra  từ  tác  phẩm  Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. 
 
 
                    
MộT NGƯờI Hà NộI 
  NGUYỄN KHẢI
A- DẠNG ĐỀ 
  191
- Phân tích những nét đẹp trong suy nghĩ và ứng xử của bà Hiền trong truyện ngắn
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải (đề thi đại học năm 2007, dạng câu 3 điểm )
- Trong tác phẩm Một người Hà Nội, tại sao nhân vật bà Hiền lại được nhà
văn Nguyễn Khải gọi là “hạt bụi vàng” của Hà Nội ? (đề thi đại học năm 2008,
dạng câu 3 điểm).
-  Hãy dựa vào nhân  vật bà Hiền trong truyện  ngắn  Một người  Hà Nội  của
Nguyễn Khải để viết một bài nghị luận xã hội (không quá 600 từ) về người Hà Nội
ngày nay và trình bày ý kiến riêng.
Một  số  lưu  ý  :  Một người  Hà  Nội  là  tác  phẩm  mới  được  đưa  vào  chương
trình, thay thế cho Mùa lạc, cùng của tác giả Nguyễn Khải. Tác phẩm này trong
phần cơ bản chỉ là bài đọc thêm, nhưng trong chương trình nâng cao là bài học
chính thức. Kể từ khi chính thức được đưa vào chương trình thi, bắt đầu từ năm
2006, Một người Hà Nội đã có hai năm (2007 và 2008) được chọn ra đề thi cho thí
sinh  dự  thi  Trung  học  phân  ban  thí điểm. Để  giải  quyết tốt dạng  đề  thi  có  liên
quan đến bài học này, cần chú ý đặc biệt tới nhân vật bà Hiền, nhân vật trung tâm
của tác phẩm. Hai dạng đề thi đã được chọn ra trong liền hai kì thi đại học năm
2007 và 2008 nêu ở trên, tuy có khác nhau về câu chữ, nhưng không có sự khác
nhau nhiều về nội dung. Xử lí hai dạng đề này, học sinh đều phải phân tích được
những nét tính cách chính trong nhân vật bà Hiền. Chính suy nghĩ và cách ứng xử
tinh tế, lịch lãm, thực tế của bà Hiền đã giúp bà trở thành “hạt bụi vàng của Hà
Nội”. Trường hợp đề ra yêu cầu dựa vào nhân vật bà Hiền để viết một đoạn văn
nghị luận trình bày suy nghĩ riêng về người Hà Nội ngày nay, thì nên mạnh dạn
viết ra những suy nghĩ thật của mình, dựa vào sự quan sát thực tế biến động của
người Hà Nội sau khi sát nhập. 
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
–  Nguyễn Khải  là  một trong  những cây bút văn  xuôi hàng đầu  của nền  văn
học Việt Nam  hiện đại. Bắt đầu viết  văn từ năm 1950,  năm  1951, ông đã  được
tặng giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 1951 - 1952 với tác
phẩm Xây dựng. Trước thời điểm 1990, Nguyễn Khải đã có nhiều tác phẩm văn
xuôi có giá trị, được giới nghiên cứu đánh giá cao. Có thể kể ra đây một số tác
phẩm  tiêu  biểu  sau  :  Xung  đột  (1959  -  1962),  Mùa  lạc  (1960),  Tầm  nhìn    xa
(1963), Chiến sĩ (1973), Cha và con và… (1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời
    192
gian của người (1985)… Một người Hà Nội là tác phẩm được nhà  văn sáng tác
năm 1990, vào thời điểm bản thân nhà văn và nền văn học hiện đạị nước ta đã có
nhiều đổi mới.
– Với Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã chứng minh cho khả năng nắm bắt
hiện thực, nhạy bén với những vấn đề thời sự và ngòi bút phân tích tâm lý sắc sảo
của mình. Truyện tập trung xây dựng nhân vật bà Hiền, một người phụ nữ Hà Nội
tiêu biểu, một “hạt bụi vàng” của mảnh đất ngàn năm  văn hiến, mà cho dù thời
gian qua đi, xã hội đổi thay, vẫn giữ được vẻ đẹp “bất biến” của mình. Một người
Hà Nội đã góp thêm vào trang sổ vàng về hình tượng con người, thời điểm thủ đô
ngàn năm văn hiến một bức chân dung đẹp của một miền đất đẹp.
II - PHÂN TÍCH 
1. Vẻ đẹp của nhân vật, vẻ đẹp của tâm hồn, suy nghĩ và ứng xử
– Nguyễn Khải là nhà văn có năng khiếu đặc biệt trong việc phát hiện những
vấn đề “gai góc”trong cuộc sống đương đại. Sự nghiệp sáng tác của ông gần như
in dấu ấn trên mỗi chặng đường phát triển của dân tộc, đất nước. Ngay từ những
sáng tác đầu tiên, Nguyễn Khải đã bộc lộ rõ khả năng đặc biệt này. Ở thời điểm
ngay sau khi vừa kết thúc chiến tranh, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, những
mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình hợp tác hoá nông thôn, những vấn đề về
số phận  con  người,  cuộc  sống  mới, con  người  mới...  ngay  lập  tức  đã được  ông
phản ánh trong hàng loạt tác phẩm gây được dư luận tốt trong công chúng bạn đọc
(Xung đột, Mùa  lạc,  Tầm  nhìn  xa…). Muộn  hơn  sau  này,  khi  đất  nước  ta  hoàn
thành công cuộc giải phóng, vấn đề hoà hợp hai miền, cái nhìn, quan điểm giữa
người cũ, người mới, người ở lại, người ra đi, vấn đề “đạo” và “đời”… cũng đã
được Nguyễn Khải  thể hiện rất thành công qua các tác phẩm : Cha và con và…,
Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người. Gần đây nhất và cũng có thể xem là giai
đoạn sáng tác cuối cùng mang tính đổi mới, Nguyễn Khải có rất nhiều trăn trở về
“nhân tình thế thái”, về tính bền vững của con người đương đại trước áp lực hiện
đại hoá. Nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội chính là một trong
những mẫu người tiêu biểu như thế.
– Chọn xây dựng nhân vật bà Hiền, là nhân vật trung tâm, hình mẫu tiêu biểu
cho một người Hà  Nội, Nguyễn Khải cố tình chọn một nhân  vật thuộc  tầng lớp
bình thường. Chính xác  hơn, trước đó gia đình bà cũng từng có thời kỳ giàu có,
nhưng hiện tại, bà giống nhiều người Hà Nội khác : về vị thế,  không hề cao sang,
“xuất chúng”: mẹ bà buôn nước mắm, bố đậu tú tài, dạy con cái theo khuôn phép
  193
nhà quan, chồng bà chỉ là một ông giáo Tiểu học. Tuy nhiên, nét đẹp quan trọng
nhất của nhân vật này lại là ở bên trong tâm hồn. Sự thông minh giúp bà luôn giữ
được sự chủ động, tươi vui, lịch lãm trong cuộc sống. Bà Hiền không bao giờ để
mình  bị  cuốn  theo  những  biến  động  bên  ngoài.  Lúc  nào,  bà  cũng  giữ  được  sự
chừng mực: không vồn vã nhưng cũng không lạnh lùng. Bà rất thẳng thắn, trung
thực trong cách ứng  xử  với mọi vấn đề nảy  sinh hàng ngày,  thậm  chí cả những
vấn đề nhạy cảm nhất. Chẳng hạn, nhận xét về việc làm của chính phủ trong ngày
đầu tiên độc lập, bà không giấu giếm, né tránh : “Chính phủ can thiệp vào nhiều
việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối,
vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau thế nào, thậm chí, cả tiền công
xá cho kẻ ăn người ở”. Bà bộc lộ một cách thẳng thắn rằng : “Một đời tao chưa
từng bị ai cám dỗ,  kể cả chế độ”. Sắc sảo, nhưng bà Hiền cũng rất chừng mực,
chừng mực và khôn ngoan trong việc chọn bạn đời: “Gần ba chục tuổi cô mới đi
lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết, cũng chả hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ
văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ, làm mẹ, cô chọn
bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu học, hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội
phải  kinh  ngạc”.  Xây  dựng  nhân  vật  bà  Hiền, Nguyễn  Khải  cũng  giữ  sự  chừng
mực trong ngòi bút của mình. Ông không quá đề cao và cũng không hạ thấp nhân
vật. Cái tôi kể chuyện của ông luôn giữ được sự gần gũi cần thiết để nhân vật tạo
được tính thuyết phục bằng chính sự chân thực của mình. Ông luôn giữ cho nhân
vật có được sự tự nhiên. Điều đó được thể hiện ngay cả trên công việc, điều chi
phối nhiều nhất trong việc tạo ra tính cách của con người. Thời kỳ nào, bà Hiền
cũng vẫn chọn một công việc đậm nét đặc trưng của người Hà Nội: Một cửa hàng
nhỏ chỉ bán mỗi một thứ, hoa giấy, “các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng
tre, thêm ít bưu ảnh và sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt nhưng chịu
thuế rất  nhẹ”.  Nhờ  vậy,  gia  đình  bà  Hiền  thời  nào  tạo được  một  cuộc  sống  tuy
không “vương giả” nhưng khá “ung dung”. Bà nuôi người ở trong nhà mà không
sợ bị quy kết là “tư sản”. Bà đối xử với họ ân tình, như người trong nhà, không
phân biệt chủ tớ, thấp cao. Trong cách thể hiện tình cảm  với những người thân,
chồng, con và anh em, họ hàng, bà Hiền cũng vẫn luôn giữ được một thói quen
ứng xử như thế. Khi Dũng, người con trai đầu nhập ngũ, có người hỏi, “có bằng
lòng cho em đi chiến đấu không”, bà trả lời rất thật lòng, không hề tỏ ra “đạo đức
giả”: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh
của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Ba năm sau, khi chưa có tin tức gì
về đứa con đầu, đứa con kế tiếp lại đòi nhập ngũ. Được hỏi, bà trả lời không một
chút giấu lòng : “Tao không khuyến khích nhưng cũng không ngăn cản nó, ngăn
    194
cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết
chết nó… mà tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống
cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”… Đó là phẩm chất nổi bật ở nhân vật bà
Hiền.
2. Tại sao bà Hiền lại được gọi là “hạt bụi vàng” của Hà Nội ? Nghệ thuật xây
dựng nhân vật của Nguyễn Khải
– Không thuộc loại nhân vật xuất chúng, về vị thế xã hội, bà Hiền chỉ là nhân
vật bình thường, nhưng là nhân vật mang đậm cốt cách Hà Nội. Nhà văn Nguyễn
Khải khi xây dựng nhân vật này đã kết hợp được một cách nhuần nhuyễn vẻ đẹp
riêng với vẻ đẹp chung, giữa nét tinh hoa của con người vùng đất kinh kỳ và và
phẩm chất chung dân tộc của con người Việt Nam. Tính thuyết phục của nhân vật
bà Hiền chính là ở chỗ, nhà văn không phóng đại, cường điệu nhân vật của mình
và cũng không đơn giản hoá nó. Nhân vật bà Hiền luôn có được sự nhuần nhuyễn,
hợp lý giữa vẻ đẹp của sự giản dị mà lịch lãm, thực tế mà cao sang, cần mẫn mà
tài hoa, chân thực mà tinh tế sâu sắc. Phẩm chất bền vững về đạo lý làm người
của muôn đời dường như không bao giờ mất đi ở bà. Trong mọi mối quan hệ gia
đình và xã hội, dù thời cuộc có lúc thăng trầm, bà Hiền rất ít khi bị hoàn cảnh làm
cho thay đổi : bà khôn ngoan mà vẫn luôn giữ được lòng tự trọng, thức thời nhưng
lại rất chu đáo, linh hoạt mà trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, trọn vẹn trong cả
việc nước và việc nhà. Đó chính là điều cốt lõi để ở bất cứ thời đại nào, sự thay
đổi  hoàn  cảnh  nào,  bà  vẫn  duy  trì  cuộc  sống  tốt  cho  mình,  cư  xử  đẹp  với  mọi
người,  tin  tưởng  vào  những  điều  thiện  luôn  tồn  tại. Có  thể  nêu  ra  đây  một  dẫn
chứng : nhân vật tôi  (tức nhà văn Nguyễn Khải) khi bày tỏ sự không bằng lòng về
một đôi nét không đẹp của người Hà Nội thời nay, bà Hiền “không bình luận gì
mà chỉ than thở, dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt
một bà nhà quê”. Nói vậy nhưng bà vẫn có niềm tin tuyệt đối rằng, “mỗi thế hệ
đều có thời vàng son của họ. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa
tuổi”. Hình ảnh cây si bị đánh bật rễ rồi lại hồi sinh ở phần cuối tác phẩm, cho ta
thấy cái nhìn lạc quan của người phụ nữ Hà Nội đáng quý này. Rõ ràng, qua nhân
vật bà Hiền, Nguyễn Khải thể hiện tính nhất quán trong quan niệm đã đặt ra ngay
từ đầu tác phẩm của ông. Đó là cái nhìn sắc sảo, nhân hậu và hiện thực của một
nhà văn luôn tin vào con người.
III - KẾT LUẬN : Ý nghĩa của hình ảnh so sánh “hạt bụi vàng” của Hà Nội
  195
Trong phần kết tác phẩm Một người Hà Nội, Nguyễn Khải có một so sánh rất
hay. Nhà văn viết : “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng
của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”.  Hạt bụi vàng là hình ảnh một sự
vật nhỏ bé, khiêm nhường mà cao đẹp, quý giá. Nhiều hạt bụi vàng tích tụ lại sẽ
trở thành ánh  vàng chói sáng. Đó là  phẩm  chất đã  thành bản  sắc,  cốt lõi truyền
thống  của  người  Hà  Nội.  Với  hình  ảnh  so  sánh  hết  sức  đặc  sắc  này,  nhà  văn
Nguyễn  Khải đã thể  hiện được  ngòi bút tài năng  của  ông.  Nó thể  hiện được sự
khái quát nghệ thuật cao, trong đó có sự đối lập mà thống nhất giữa thân phận và
giá trị, biểu hiện được mối gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng, chứa đựng niềm
trân trọng và tự hào của tác giả. Chỉ qua một chi tiết nhỏ nhưng giàu ý nghĩa biểu
tượng, nhà văn đã cô đúc được toàn bộ phẩm chất phong phú của một con người,
tạo được ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng người đọc.
 
             
HồN TRƯƠNG BA, DA HàNG THịT 
LƯU QUANG VŨ        
A - DẠNG ĐỀ 
 – Trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhân vật Trương Ba
nói với Đế Thích, người đã mang lại sự sống cho mình như sau : “Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!... Ông
tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này còn khổ hơn là cái chết”.
Hãy phân tích đoạn trích để làm rõ ý nghĩa của câu nói trên. Triết lý về cuộc sống
giữa Trương Ba và Đế Thích khác nhau như thế nào?
– Ý nghĩa nhân văn và tính triết lý trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba,
da hàng thịt. 
 Một số lưu ý : Đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của tác giả
Lưu Quang Vũ mới được đưa vào chương trình cơ bản bắt đầu từ năm 2009. Đây
là vở kịch dựa trên một cốt truyện dân gian, tính nhân văn và triết lý rất sâu sắc.
Vở kịch đã  được biểu diễn trên sân khấu Việt Nam và sân khấu nước ngoài rất
nhiều lần, bản thân tác giả Lưu Quang Vũ, đương thời được đánh giá rất cao. Có
    196
một thời kỳ, ông được coi là nhà viết kịch hàng đầu của Việt Nam, kịch của ông
có tác động rất mạnh mẽ tới người xem vì tính mới mẻ, vì những đề tài gần với
cuộc sống đương đại, và đặc biệt, vì sự mạnh bạo trong cách tiếp cận cuộc sống
của tác giả.
Đoạn trích trong sách giáo khoa là cảnh 7 và một phần nhỏ đoạn kết của vở
kịch. Khi  học  tác phẩm này,  học  sinh cần phải  nắm  được  nội dung sơ lược  của
toàn bộ  vở  kịch,  tóm  tắt  nội dung  (trong  phần  Tiểu  dẫn  ở  sách  giáo  khoa),  xác
định được vị trí của đoạn trích trong tổng thể tác phẩm. Đoạn trích chủ yếu chỉ tập
trung vào ba nhân vật chính, Trương Ba, anh hàng thịt, Đế Thích (một số nhân vật
phụ khác như vợ Trương Ba, con dâu Trương Ba, cái Gái, cháu của Trương Ba và
cu Tỵ chỉ góp phần làm rõ thêm nhân vật chính này) và nhằm  hướng tới chủ đề
chính là  liệu  người ta  có thể hoà  lẫn  hồn và  xác  hai con người khác  nhau trong
một được không? Liệu con người có thể có hình thức tồn tại hồn và xác khác nhau
như  Trương  Ba  và  anh  hàng  thịt  ?  Trong  một  con  người  xác  hay  hồn  là  quan
trọng?... Như vậy, tính triết lý là đặc điểm quan trọng nhất trong đoạn trích này.
Tình huống đề thi sẽ chủ yếu tập trung vào hai dạng chính : Một là phân tích đoạn
trích để làm rõ yếu tố nhân văn mới mẻ của tác phẩm; hai là có thể dựa vào triết lý
vở  kịch,  để thực  hiện  một đề  thi  nghị  luận  xã  hội  chẳng  hạn  như  :  Trong  cuộc
sống, người ta  có  thể có hạnh phúc khi linh hồn tồn  tại trong  một thể xác khác
được không ? Vì sao ?
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ ĐOẠN TRÍCH
– Trong số các nhà văn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ 1960, Lưu Quang Vũ
được coi là một trong những tài năng xuất chúng nhất, vì ông sáng tác nhiều thể
loại (thơ, truyện, kịch, tiểu luận văn học), số lượng tác phẩm nhiều, được số đông
bạn đọc yêu thích, đặc biệt với thể loại kịch. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ
1966, thời điểm vở kịch đầu tiên ra đời, đến 1988, năm ông mất khi còn dang dở
tác phẩm Chim sâm cầm không chết, Lưu Quang Vũ đã để lại gần 50 vở kịch với
hàng trăm đêm diễn.
– Hồn trương Ba, da hàng thịt là một vở bi hài kịch gồm 7 cảnh và một đoạn
kết, đoạn trích trong sách giáo khoa, thuộc cảnh 7 và một phần nhỏ của đoạn kết.
Do không có kết cấu 5 hồi như trong kịch cổ điển, ta cũng có thể coi đoạn trích
cảnh 7 này có vai trò như hồi kết kịch cổ điển. Ở hồi kịch này, xung đột kịch sẽ
được giải quyết. Để hiểu được đầy đủ ý nghĩa của đoạn trích, ta không thể không
  197
nắm  được  tinh  thần  chung  của  vở  kịch,  xuất  xứ  của  nó,  kể  cả  so  sánh  nó  với
những vở kịch khác của chính Lưu Quang Vũ. Bởi lẽ, trong sự nghiệp đồ sộ của
Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba, da hàng thịt không những chỉ được đánh giá cao
nhất, mà nó còn tập trung đầy đủ nhất phong cách kịch của ông.
–  Hồn  Trương Ba,  da  hàng  thịt  được  Lưu  Quang  Vũ  khai  thác  từ  một  cốt
truyện dân gian. Trước Lưu Quang Vũ, ít nhất ở Việt Nam đã tồn tại hai dạng văn
bản  có  cùng  cốt  truyện,  một  truyện  cổ  tích  và  một  vở  tuồng  hài  (Trương  Đồ
Nhục), đúng ra Lưu Quang Vũ khai thác và kế thừa chi tiết ở cả hai tác phẩm trên.
Cả hai cùng đều kể lại cốt truyện về một nhân vật tên là Trương Ba, giỏi đánh cờ,
không  may  bị  Nam  Tào  Bắc  Đẩu  nhầm  lẫn  gạch  nhầm  cho  chết,  rồi  được  Đế
Thích  “sửa  sai”  bằng  cách  cho  hồn  sống  lại  nhập  vào  thân  xác  anh  hàng  thịt.
Không  chấp  nhận  cuộc  sống  “giả  dối”  khập  khiễng  này,  Trương  Ba  xin  được
“chết” trở lại, trả xác cho anh hàng thịt, chọn một kết cục hợp lẽ tự nhiên : hồn và
xác của một con người không thể tách rời nhau.
– Do đây chỉ là một đoạn trích, lại là đoạn trích ở cảnh cuối, nên khi phân tích
văn bản này, ta chỉ cần tập trung phân tích đối thoại giữa nhân vật Trương Ba với
các nhân vật khác, chứ không cần phân tích xung đột kịch. Chính xác hơn, xung
đột kịch trong đoạn trích được chuyển tải chủ yếu qua các đối thoại, chính từ đó
mà ý nghĩa nhân văn và triết lý của vở kịch được bộc lộ rõ hơn. Cảnh kịch gồm 5
đoạn đối thoại của  nhân vật chính Trương Ba  với các  nhân  vật  :  xác  hàng thịt,
người vợ, cái Gái, người con dâu, và cuối cùng là với  Đế Thích.
II - PHÂN TÍCH  
1.Triết lý nhân sinh của vở kịch qua các màn  đối thoại của Trương Ba
a) Triết lý qua đối thoại với xác hàng thịt
– Để hiểu lô gích của trích đoạn này cần phải nắm được diễn biến trước đó
của hành động kịch : Sau khi được Đế Thích cho đầu thai vào thân xác của hàng
thịt, Trương Ba được trở lại kiếp nhân sinh, nhưng lại gặp quá nhiều rắc rối, phiền
toái (bị Trưởng Hoạt phê phán, lý trưởng sách nhiễu, gia đình,  người thân buồn
rầu vì không chấp nhận thân xác anh hàng thịt trong hồn Trương Ba), ông hết đỗi
buồn rầu. Hồn Trương Ba tách ra khỏi thể xác anh hàng thịt, và giữa hai bên đã
diễn ra một cuộc đối thoại hết sức gay gắt.
  – Trương Ba : “Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở
không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi”; xác hàng thịt : “Vô ích, cái linh hồn
mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu,
    198
dù tôi chỉ là thân xác”. Trong khi xác hàng thịt từ tốn thuyết phục hồn Trương Ba
về cái lợi của sự cộng sinh giữa hai người bằng những lý lẽ trần tục : được sống,
thỏa mãn ăn uống, thậm chí có lúc “cảm xúc được thăng hoa”… thì hồn Trương
Ba lại gay gắt phản bác bằng nỗi khổ tâm vì phải sống nhờ trong thân xác kẻ khác,
bị người thân nghi kỵ, coi thường, bị những kẻ có quyền lực đe doạ. Đau đớn hơn,
từ lúc tồn tại trong thân xác hàng thịt, Trương Ba trở nên phàm tục, thô lỗ, không
còn  là  Trương  Ba thanh  cao  và  trí  tuệ  của  ngày  xưa…  Qua  đối  thoại  này,  Lưu
Quang  Vũ  muốn  khẳng  định,  một  cuộc  sống  tốt  đẹp  nhất  phải  là  sự  hoà  hợp,
không có hạnh phúc nào có thể thiết lập trên sự vay mượn.
b) Triết lý qua đối thoại với người vợ
Trong đối thoại này, ta thấy nổi bật một vấn đề : dù được sống lại, Trương Ba
cũng không thể nào mang lại được tình cảm ban đầu cho người vợ thân yêu của mình,
bởi linh hồn ông đã bị khuất sau thân xác của kẻ khác. Bà muốn chạy trốn khỏi ông,
chẳng phải vì không thương ông mà vì nhận ra ở ông một con người hoàn toàn khác :
“Tôi biết, ông vốn là người hết lòng thương yêu vợ con… Chỉ tại bây giờ… Ông đâu
còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa…”. Qua đối thoại này, tác
giả muốn nhấn mạnh, linh hồn con người là rất quan trọng, nhưng nếu linh hồn đó 
không đi cùng  một thể xác tương xứng nó  không còn ý nghĩa.
c) Triết lý qua đối thoại với bé Gái
Bé  Gái,  cháu  nội  Trương  Ba  có  lẽ  quyết  liệt  nhất  trong  việc  cự  tuyệt  ông.
Dưới ánh mắt và cái nhìn trẻ thơ, thẳng thắn, bé không nhận thấy trong cái xác thô
kệch của anh hàng thịt, hình ảnh người ông nội khéo tay chiết cam, làm vườn thuở
nào : “Ông nội tôi chết rồi… Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy !”. Theo
Lưu Quang Vũ, trẻ thơ bao giờ cũng nhìn cuộc đời một cách trực quan, cảm
tính. Đôi khi, trực quan, cảm tính mà vẫn chính xác.
d) Triết lý qua đối thoại với người con dâu
– So với cả hai cuộc đối thoại trên, với người vợ và đứa cháu, cuộc đối thoại
với người con dâu có lẽ ít gay gắt hơn. Tuy nhiên, ít gay gắt thực ra chỉ là ở bên
ngoài,  hoặc  nữa  vì  đây  là  người  con  dâu, trong  nét đạo  đức  của  người  phương
Đông, đặc biệt của người Việt Nam, với người bố chồng, con dâu bao giờ cũng
giữ được  vẻ lịch thiệp, kính trọng  : “Thầy,  thầy  đừng  giận con trẻ...  Nó rất  yêu
thương ông nội… Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó”… Dù đã cố hết
sức giữ cho được sự kính trọng, lịch thiệp với người bố chồng, chị con dâu, cuối
cùng vẫn không thể giấu được nỗi sợ hãi vì thấy Trương Ba bây giờ đã không còn
  199
là Trương Ba ngày trước. Sự thật bao giờ cũng là sự thật, sự thật không thể che
đậy bằng bất cứ vỏ bọc nào.
e) Triết lý qua đối thoại với Đế Thích
– Đây là cuộc đối thoại cuối cùng quyết liệt và gay gắt nhất, mặc dù đúng ra,
nếu tham sống Trương Ba phải là người biết ơn kẻ đối thoại với mình. Trong vở
kịch, Đế Thích là nhân vật huyền thoại, ông ta vốn không phải là kẻ trực tiếp gây
nên cái chết của Trương Ba. Vì  yêu quý Trương Ba, muốn lợi dụng Trương Ba
phục vụ cho thú vui riêng của mình, đồng thời cũng muốn chuộc lại lỗi lầm cho
giới  Thần  Thánh,  Đế  Thích  đã  cố  tình  phạm  lỗi  với  Thượng  giới,  ghép  hồn
Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Tưởng rằng hành động của mình sẽ làm Trương
Ba  vui, nhưng thực  ra,  việc  làm đó còn tệ  hại  hơn việc đẩy Trương  Ba đến  cái
chết. Đế Thích : “Không, ông phải sống dù với bất cứ giá nào”; Trương Ba : “Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết
!... Tôi hiểu.  Ông tưởng tôi  không  ham sống  hay sao? Nhưng  sống thế  này còn
khổ hơn là cái chết”. Ở đây, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định rằng, lòng tốt, nếu
không đúng chỗ chỉ mang lại bi kịch mà thôi mà thôi.
2. Triết lý nhân sinh, triết lý về lẽ sống làm người qua màn đối thoại và qua
vở kịch. Sự khác nhau trong triết lý giữa tác phẩm văn học dân gian và kịch
Lưu Quang Vũ
– So với truyện kể dân gian và trong vở tuồng hài Trương Đồ Nhục, chỉ chủ
yếu dừng lại ở triết lý về sự hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác
của con người, vở kịch của Lưu Quang Vũ đặt ra nhiều lớp ý nghĩa mới mẻ, sâu
sắc  hơn : Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người,  vấn đề mối quan hệ
giữa  cá  nhân  và  xã  hội,  về  thói  quan  liêu, vô  trách  nhiệm,  về  lòng  tốt  với  con
người đặt không đúng chỗ… Chỉ trong một trích đoạn ngắn, bằng tài năng nghệ
thuật hiếm có, Lưu Quang Vũ đã để lại biết bao suy ngẫm cho nhiều thế hệ người
xem và người đọc hôm nay. 
– Những triết lý nhân sinh mới mẻ của tác giả đã được thể hiện một cách tinh
tế, khéo léo chủ yếu qua các màn đối thoại, vừa hiện đại lại vừa rất dân gian, giữa
nhân vật Trương Ba với các nhân vật khác. Quả thật, không thể tìm ra được một
cách thể hiện nào tinh xảo hơn, như Lưu Quang Vũ đã thể hiện trong những màn
đối thoại của ông. Lưu Quang Vũ vừa kế thừa triết lý của tác giả dân gian, lại
vừa đưa  thêm  triết lý của thời đại mới  vào vở  kịch. Trong  vở  kịch  mới của
Lưu Quang Vũ, màn đối thoại giữa hồn Trương Ba  và  xác hàng thịt kế thừa
nhiều  nhất  triết  lý  của  các  tác  giả  dân  gian.  Những  đối  thoại  còn  lại  có  rất
    200
nhiều sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chúng ta hãy thử khảo sát một số chi
tiết chính để làm rõ điều này.
– Trước tiên, với nhân vật Trương Ba, triết lý của văn học dân gian chỉ dừng
lại ở chỗ tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn so với thể xác, vì thế khi biết đích thị
linh  hồn của mình được  trú  ngụ trong xác  hàng thịt,  ban đầu Trương Ba  không
băn khoăn nhiều ; vợ Trương Ba, khi thấy chồng là thân xác anh hàng thịt nhưng
tâm trí vẫn của chồng mình cũng ít băn khoăn; Diêm Vương khi kiểm tra kỹ năng
mổ lợn, kỹ năng chơi cờ, quyết xử ngay cho ông hàng thịt mang hồn Trương Ba,
về với vợ Trương Ba… Đế Thích còn “hồ đồ” hơn, không phải ngẫu nhiên, sau
khi đã phạm sai lầm lần đầu, ghép hồn Trương Ba vào xác hàng thịt, lần thứ hai,
ông ta còn có ý định phạm lại sai lầm bằng việc đề nghị ghép hồn Trương Ba vào
thân xác cu Tỵ,  một đứa  trẻ vừa  mới qua đời,  chỉ  với mỗi lý  do “Tôi quý mến
ông”, “không có ông, tôi sẽ đánh cờ với ai?”... Tóm lại, văn học dân gian chỉ chủ
yếu tập trung  nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của hồn, rất ít chú ý tới mối quan hệ
hữu  cơ  giữa  hồn  và  xác…  Mượn  lời  người  con  dâu  hiếu  thảo  của  Trương  Ba,
“Thầy  vẫn dạy  chúng  con  : cái bề  ngoài  có quan trọng  gì,  chỉ có tấm  lòng  yêu
thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”… Không phủ nhận dân
gian, nhưng Lưu Quang Vũ nâng tầm triết lý trong vở kịch của mình cao hơn và
nhiều sắc thái hơn. Từ góc độ cá nhân, ông cho rằng, con người ta không thể sống
vay mượn, chắp vá bằng những gì của kẻ khác. Linh hồn là quan trọng nhưng thể
xác cũng có vai trò, không thể không có sự hài hoà giữa tâm hồn và thân xác mà
có được một cuộc sống hoàn chỉnh… Trên bình diện xã hội, con người cá nhân
cũng phải được đảm bảo bởi cộng đồng chung, nhất là bởi những người “cầm cân
nảy mực”. Càng ở địa vị cao, người ta lại càng phải thận trọng hơn với những việc
làm có tính quyết định đến  vận mệnh cá  nhân con  người,  bởi có những sai  lầm
không  thể  nào  sửa  chữa  được;  lòng  tốt  rất  cần thiết  cho xã  hội,  nhưng  lòng  tốt
không đúng chỗ chỉ có thể mang đến bi kịch mà thôi … Triết lý nhân sinh, lẽ sống
làm người sâu sắc, mới mẻ của mà lưu Quang Vũ mang đến cho người đọc qua vở
bi hài kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt toát ra từ đó.
III -  KẾT LUẬN 
Thân xác của  mỗi con  người dù siêu phàm  đến bao  nhiêu cũng  là  hữu hạn.
Chỉ có linh hồn mới là bất tử. Tuy nhiên, một cuộc sống thực  sự đúng nghĩa  lại
cần có sự kết hợp hài hoà của cả thể xác và linh hồn. Đây là hai yếu tố không thể
tách rời nhau, cũng không thể phân biệt ở sự “hơn kém” với nhau, bởi lẽ cái này
  201
chỉ có ý nghĩa khi tồn tại trong cái kia và ngược lại. Đó là triết lý biện chứng, lạc
quan và đúng đắn nhất mà Lưu Quang Vũ muốn đem đến cho người xem và người
đọc trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của ông. Đoạn trích 7 cảnh tuy
chưa phải là toàn bộ vở kịch, nhưng cũng đủ cho thấy tài năng nghệ thuật và giá
trị nhân văn của tác giả và tác phẩm.
 
 
 
 
 
 
Phần ba
Một số đề thi đại học, CAO ĐẲNG 
môn Ngữ văn
 
    202
A - MỘT SỐ ĐỀ THI ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 
VÀ ĐÁP ÁN NĂM 2007 – 2008
I - Đề thi
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 
NĂM 2007
Môn thi: VĂN, khối C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
 
I . PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày ngắn gọn những đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách
mạng tháng Tám 1945.
Câu II (5 điểm)
Phân   tích   nghệ   thuật   trào   phúng   trong   truyện   ngắn   “Vi   hành”   của 
Nguyễn Ái Quốc.
II. PHẦN RIÊNG
Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b 
Câu III.a. Theo chương trình THPT không phân ban (3 điểm)
 Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
 ...
  203
- Ly khách ! Ly khách ! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại !
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
                    (Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.147)
Câu III.b. Theo chương trình THPT phân ban thí điểm (3 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về  vẻ đẹp của dòng sông  Hương (đoạn từ thượng
nguồn đến thành phố Huế) qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của
Hoàng  Phủ  Ngọc  Tường  (đoạn  trích  trong  Ngữ  văn 12,  sách  giáo  khoa  thí
điểm Ban KHXH và NV).
                 
 
 
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 
NĂM 2008
Môn thi: VĂN, khối C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I . PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2 điểm)
Anh/  chị  hãy  giới  thiệu  ngắn  gọn  về  hai  tập  thơ  Từ  ấy  và  Việt  Bắc  của 
Tố Hữu.
Câu II (5 điểm)
Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
(Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, 2005, tr.76)
trong bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên viết:
    204
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn !
(Văn học 12,  tập một, NXB Giáo dục, 2005, tr.121)
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên. 
II. PHẦN RIÊNG
Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b 
Câu III.a (3 điểm)
Trong tác phẩm Chữ người tử tù, vì sao tác giả Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng
của nhân vật quản ngục như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn
mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ" ?
Câu III.b (3 điểm)
Trong tác phẩm Một người Hà Nội, vì sao tác giả Nguyễn Khải lại gọi nhân
vật bà Hiền là "hạt bụi vàng của Hà Nội" ?
 
 
 
 
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 
NĂM 2008
Môn thi: VĂN, khối D
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2 điểm)
Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
trước Cách mạng tháng Tám. 
Câu II (5 điểm)
  205
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ
chồng A Phủ – Tô Hoài).
II. PHẦN RIÊNG
Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b 
Câu III.a (3 điểm)
Cảm  nhận  của  anh/chị  về  đoạn  thơ  sau  trong  bài  Đây  mùa  thu  tới  của
Xuân Diệu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành,
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
(Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, 2005, tr. 131)
Câu III.b (3 điểm)
Cảm  nhận của anh/ chị  về đoạn thơ sau trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn
Mặc Tử :
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
(Ngữ văn 11, tập hai, SGK thí điểm, Ban KHXH và NV, Bộ 1,
 NXB Giáo dục, 2005, tr. 54)
    206
II - Đáp án
 
 
Đáp án Đề THI TUYỂN SINH 
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG  − NĂM 2007
Môn thi : VĂN, khối C
Thời gian làm bài : 180 phút, không kể thời gian phát đề
 
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
I                 Những đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945      2,0
1.          Đặc điểm nội dung (1,0 điểm)  
  – Thơ Xuân Diệu thể hiện tình yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha,
mãnh liệt (say cảnh, say tình, thiết tha giao cảm với đời).
– Thơ Xuân Diệu cũng thể hiện tâm trạng chán nản, hoài nghi;
nhân vật trữ tình trong thơ thường cô đơn.
1,0
2.          Đăc điểm nghệ thuật (1,0 điểm)  
 
   Đặc sắc của thơ Xuân Diệu là ở cảm hứng, thi tứ, bút pháp:
– Cảm  xúc trong thơ Xuân Diệu say đắm,  mãnh liệt. Ông cảm
nhận thế giới chung quanh bằng tất cả giác quan và bằng cái nhìn
mới mẻ, tươi non.
– Thơ Xuân Diệu là sự kết hợp hai  yếu tố  cổ điển và hiện đại,
Đông và Tây; nhưng ảnh hưởng của thơ phương Tây vẫn đậm nét
hơn  (từ  cảm  hứng  đề  tài,  đến  xây  dựng  hình  ảnh,  cú  pháp,  nhịp
điệu, ngôn từ).
1,0
II               Phân tích nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn “Vi hành”
của Nguyễn Ái Quốc
5,0
         1.          Giới thiệu chung (0,5 điểm)  
  207
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
 
– Năm 1922 Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở
Mác-xây. Chuyến đi này đã bị các nhà cách mạng yêu nước lên án
mạnh mẽ. Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang ở Pháp đã góp tiếng nói phê
phán  vua  bù  nhìn  Khải  Định  và  chính  phủ  Pháp  bằng  truyện  “Vi
hành”  in trên báo Nhân đạo (1923). 
–  Tác  giả  đã  sử  dụng  nghệ  thuật  trào  phúng  để  đạt  mục  đích
trên.
0,5
2.          Nghệ thuật trào phúng của truyện (4 điểm)  
a) Cách đặt nhan đề 
 –  Incognito nguyên  văn tiếng Pháp  có nghĩa là  không ai biết,
dùng  tên  giả.  Dịch  giả  Phạm  Huy  Thông  chuyển  nghĩa  Incognito
sang  tiếng Việt  là  “Vi  hành”. Trong  trường  hợp  này  tác  giả  dùng
theo ý mỉa mai vị vua An Nam tưởng là được nước Pháp quý trọng
nhưng sự thật thì không ai biết đến.
–  Nhan đề tác phẩm đã chứa đựng một sự mỉa mai, giễu cợt. 
0,5
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
b) Tạo tình huống nhầm lẫn độc đáo 
–  Tình  huống  nhầm  lẫn:  Trên  tàu  điện  ngầm  một  đôi  trai  gái
người Pháp nhầm tưởng nhân vật tôi – người kể chuyện là vua An
Nam đang “vi hành” ở Pa-ri. Tình huống này vừa oái oăm, vừa hài
hước;  vừa  vô  lí,  vừa  hợp  lí  nhằm  lên  án  bản  chất  của  vị  vua  An
Nam.
– Tình huống nhầm lẫn được tăng tiến dần (từ đôi nam nữ trên
tàu  điện,  đến  quần  chúng,  thậm  chí  đến  Chính  phủ  Pháp)  có  tác
dụng  vừa  lên  án  vị  vua  An  Nam,  vừa  giễu  cợt  một  cách  kín  đáo
việc  Chính  phủ  Pháp  phái  mật  thám  theo  dõi  những  người  Việt
Nam yêu nước trên đất Pháp.
–  Tình  huống  nhầm  lẫn  nói  trên  làm  cho  việc  lên  án  có  tính
khách quan (vì tất cả những lời chê bai, bình phẩm về vua An Nam
đều  xuất phát từ  miệng người Pháp)  và  do đó  có sức thuyết phục
cao.
1,5
 
 
 
 
 
 
 
 
    208
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
c) Cách dựng chân dung nhân vật biếm họa
–  Miêu  tả  gián tiếp:  nhân  vật  chính  không  xuất  hiện  trực  tiếp,
nhưng  qua  những  lời  nhận  xét,  bình  phẩm  của  đôi  nam  nữ  người
Pháp, bản chất và tính cách vị vua An Nam vẫn được hiện lên vừa
rõ nét, vừa hài hước.
– Nhờ việc lựa chọn và sắp xếp các chi tiết đặc sắc để  miêu tả
(ngoại hình xấu xí, trang phục loè loẹt, điệu bộ lúng túng đến thảm
hại, hành vi mờ ám…), nhân vật vua An Nam hiện lên như một bức
chân dung biếm hoạ đặc sắc.
1.0
 
 
 
  d) Lời văn châm biếm sắc sảo 
– Giọng  văn:  có đủ  mọi  chất  giọng (tự sự, trữ tình, triết lý…),
nhưng  mỉa  mai  là  giọng  chính.  Tác  giả  không  dùng  những  lời  lẽ 
đao to búa lớn, chỉ nhẹ nhàng mà thấm thía, sâu cay.
– Nhờ sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật (chơi chữ, nói ngược,
so sánh tạt ngang, câu hỏi tu từ…) lời văn châm biếm trở nên sắc
sảo hơn, và sức công phá, đả kích cao hơn.
1.0
 
 
 
 
3.          Kết luận (0,5 điểm)  
  –  Tiếng  cười  của  truyện  bật  lên  từ  sự  phát  hiện  những  mâu
thuẫn giữa hình thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản chất làm
cho chân dung nhân vật vua An Nam được khắc hoạ rõ nét, nhờ đó
tính chất châm biếm, đả kích của tác phẩm sáng rõ hơn. 
– Nghệ thuật trào phúng của truyện vừa có chất thâm thuý, sâu sắc
của phương Đông vừa mang đậm chất trí tuệ và hiện đại của văn xuôi
phương Tây.
0,5
III.a             Bình giảng đoạn thơ trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm         3,0
1.          Giới thiệu chung (0,5 điểm)    
 
 
 
 
 
  – Tống biệt hành của Thâm Tâm là một trong những bài thơ nổi
tiếng của phong trào Thơ mới.
– Bài thơ vừa thể hiện tâm trạng chung của một lớp người đang
tìm đường, vừa thể  hiện được dấu ấn riêng của tác giả bởi hơi thơ
trầm hùng, bi tráng, đặc biệt trong đoạn thơ đầu.
0,5
  209
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
Bình giảng đoạn thơ (2,0 điểm)
 a) Bốn câu thơ đầu:
 – Nhấn mạnh không gian và thời gian của cuộc tiễn đưa. Đó là
nơi không có bến sông (khác với thơ ca xưa thường diễn ra nơi bến
sông,  con đò). Thời  gian  cũng không  có  gì đặc biệt  (không thắm,
không  vàng  vọt).  Tác  giả  phủ  nhận  ngoại  cảnh  (điệp  từ  không)
nhằm tô đậm nội tâm của kẻ ở, người đi.
– Bốn câu thơ đầu là hai câu hỏi tu từ với hai vế đối lập giữa cái
không  của  ngoại  cảnh  và  cái  có  của  nội  tâm  để  khẳng  định  tâm
trạng day dứt, xốn xang (tiếng sóng trong lòng) của người đưa tiễn
và  tâm  trạng  buồn  thương,  quyến  luyến  (bóng  hoàng  hôn  trong
mắt) của người ra đi. 
– Âm điệu vừa thiết tha, vừa khắc khoải (điệp từ sao, toàn thanh
bằng ở câu 1 và nhiều thanh trắc ở câu 2) tạo không khí trầm buồn,
xao xuyến của buổi chia tay.
 
1.0
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
b) Sáu câu thơ tiếp:
– Hai câu thơ 5,6: Tác giả thể hiện rõ hơn sắc thái tâm trạng và
thái độ  của  người ra đi cũng  như người ở lại. Nếu  như người đưa
tiễn khẳng định “ta chỉ đưa người ấy”, thì với người ra đi “Một giã
gia đình, một dửng dưng”.
– Cách dùng từ Hán–Việt và hình thức độc thoại (câu 7) tạo sắc
thái trang trọng, vừa gợi tư thế dứt khoát của người đi, vừa thể hiện
tâm trạng nén lòng của người ở lại – mãi dõi theo bóng người đi xa
như  không  hề  muốn  có  cuộc  chia  ly.  Chí  nhớn  nhưng  con đường
nhỏ  và  bàn  tay  không  làm  nổi  rõ  những  trăn  trở,  và  dự  cảm  về
những khó khăn mà người ra đi  phải đối mặt.
– Những từ ngữ xưng hô (ta, người), từ phủ định (chưa, không,
đừng) với âm điệu mạnh mẽ đã làm cho câu thơ trở nên rắn rỏi, thể
hiện quyết tâm của người ra đi vì chí lớn “một đi không trở lại”. Từ
dửng  dưng  và  dấu  chấm  lửng  cuối  câu  thơ  thứ  6  thể  hiện  sự  kìm
nén tình cảm và thái độ dứt khoát của người đi.
– Hình ảnh mẹ già ở câu thơ thứ 10 làm cho giọng thơ chùng xuống,
dù có mềm lòng, có níu kéo riêng tư, vẫn không ngăn được quyết tâm của
ly khách.
1.0
 
         3.          Kết luận (0,5 điểm)  
    210
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
 
– Đoạn thơ  ca  ngợi  vẻ đẹp  của ly  khách  trong thời đại  mới  và
thể  hiện sự  ngưỡng  vọng đối  với  những  người  ra đi  vì nghĩa lớn,
cũng là cách thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín của nhà thơ
–  Đoạn  thơ  vừa  cổ  kính  vừa  hiện  đại,  đậm  chất  bi  tráng  và
“đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” (Hoài Thanh).
0,5
 
III.b         Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bút kí Ai
đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
3,0
1.          Giới thiệu chung (0,5 điểm)  
  Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện
phong  cách tài hoa, uyên bác, giàu  chất thơ  của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.  Bài  ký  đã  ca  ngợi  dòng  sông  Hương  như  một  biểu  tượng
của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).
0,5
2.          Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông (2,0 điểm)  
 
 
a) Vẻ đẹp dòng sông:
–  Trong  đoạn  trích  nói  trên,  vẻ  đẹp  của  dòng  sông  được  phát
hiện ở cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng. Dòng sông trữ tình, êm ả,
hiền hòa như một thiếu nữ dịu dàng và duyên dáng: 
+  Lúc  ở  rừng  già:  phóng  khoáng  và  man  dại,  rầm  rộ  và  mãnh
liệt như một “bản trường ca của rừng già”.
+ Khi ra khỏi rừng: dịu dàng và trí tuệ của “người mẹ phù sa”.
+ Lúc qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách: dòng sông mềm
như tấm lụa, với vẻ đẹp biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
+ Khi qua vùng ngoại ô Kim Long: vui tươi hẳn lên.
+ Khi đến thành phố: Sông Hương uốn  một  cánh  cung rất  nhẹ
làm cho dòng sông mềm hẳn đi và trôi đi chậm, thực chậm như một
mặt hồ yên tĩnh.
– Vẻ đẹp dòng sông được  miêu tả bằng  một tình  cảm thiết tha
với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một vốn ngôn từ giàu
có và đậm chất thơ của tác giả.
1,5
  211
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
b) Cảm  nghĩ  của  cá nhân: Trình bày  những suy nghĩ, tình  cảm
của  riêng  cá  nhân  về  vẻ  đẹp  của  dòng  sông  (yêu  cầu  chân  thành,
sâu sắc với lời văn giàu cảm xúc). Thí sinh có thể nêu ý sau: Dòng
sông như là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ
đep rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thơ ca, và  gắn liền với nền
âm nhạc cổ điển của Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của Huế.   
0,5
3.          Kết luận (0,5 điểm)  
 
– Nhờ ngòi bút tài hoa của tác giả, sông Hương trở thành dòng
sông bất tử, chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của người đọc. 
– Bồi đắp tình cảm đối với quê hương, đất nước.
0,5
 
Lưu ý câu III.a và III.b: Thí sinh có thể sắp xếp bài làm theo
cách khác, nhưng phải đảm bảo  kiến thức  và thể hiện được năng
lực cảm thụ, bình giảng, phân tích tác phẩm văn chương.
 
 
 
 
 
Đáp án Đề THI TUYỂN SINH 
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG  − NĂM 2008
Môn thi : VĂN, khối C
Thời gian làm bài : 180 phút, không kể thời gian phát đề
 
 
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
  I                  Giới thiệu ngắn gọn về hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc của Tố Hữu      2,0
  1.          Tập Từ ấy (1,0 điểm)    
    212
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
 
-  Từ  ấy  là  tập  thơ  đầu  tay  của  Tố  Hữu  được  sáng  tác  trong
khoảng  thời  gian  từ  1937  đến  1946  tương  ứng  với  chặng  đường
cách mạng từ phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Tổng
khởi nghĩa tháng Tám và Toàn quốc kháng chiến. Tập thơ gồm ba
phần : Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng. Qua ba phần ấy, cảm hứng
thơ Tố Hữu vận động từ niềm hân hoan của tâm hồn trẻ nhiều băn
khoăn  về  lẽ  sống  bỗng  được  gặp  ánh  sáng  lý  tưởng;  rồi  qua  bao
gian  lao,  thử  thách,  từng  bước  trưởng  thành  trên  con  đường  đấu
tranh cách mạng ; đến niềm vui bất tuyệt, ngây ngất trước cuộc đổi
đời vĩ đại của dân tộc.
- Nổi bật lên  ở tập Từ ấy là  chất lãng  mạn trong trẻo  của  một
hồn thơ trẻ say men lí tưởng; nhạy cảm với cảnh đời, tình đời ; một
cái tôi trữ tình  mới, trong đó ý thức  cá nhân đang từng bước  hoà
mình  với  đoàn  thể,  nhân  quần  ;  một  giọng  điệu  thiết  tha,  sôi nổi,
nồng nhiệt.
 1,0
 
 
 
 
 
2.          Tập Việt Bắc (1,0 điểm)  
    - Việt Bắc là chặng đường thứ hai của thơ Tố Hữu, được sáng
tác trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1954. Tập thơ là bản hùng ca
phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi
lên của  cuộc  kháng  chiến  chống Pháp cho đến ngày thắng lợi. Tập
thơ hướng vào thể hiện con người quần chúng kháng chiến, trước hết
là công,  nông, binh ; kết tinh những tình cảm lớn của con người Việt
Nam mà bao trùm là tình yêu nước. 
 - Ở Việt Bắc, thơ Tố Hữu bay bổng và rộng mở trong cảm hứng
sử thi - trữ tình mang hào khí thời đại ; hình thức thơ giàu tính dân
tộc và đại chúng.
 1,0 
 
 
 
 
 
 
 II    Cảm nhận về hai đoạn thơ    5,0
  1.           Đoạn thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng (2,0 điểm)            
  213
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
  - Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết, vời vợi về miền Tây và người
lính Tây Tiến. Thiên  nhiên  miền Tây  xa  xôi mà thân thiết, hoang
vu mà thơ mộng ; con người Tây Tiến gian khổ mà hào hoa.
- Hình ảnh thơ có sự hài hoà nét thực nét ảo, vừa mông lung vừa
gợi cảm về cảnh và người ; nhạc điệu có sự hoà hợp giữa lời cảm
thán  với  điệu  cảm  xúc  (câu  mở  đầu  như  một  tiếng  kêu  vọng  vào
không gian), giữa mật độ dày những âm vần (rồi, ơi, chơi vơi, mỏi,
hơi) với điệp từ (nhớ / nhớ) và lối đối uyển chuyển (câu 3 với câu
4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết, ngậm ngùi...
 1,0
 
 
 1,0
 
2.          Đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên (2,0
điểm)
 
  - Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ sâu nặng về những miền quê đã từng
qua, rồi kết tinh thành một triết lý sắc sảo. Từ nỗi nhớ thương dành
cho những vùng đất mang nặng nghĩa tình, thuộc về kỉ niệm riêng,
cảm xúc thơ được đúc kết thành triết lý chung về quy luật phổ biến
của tâm hồn.
- Nghệ thuật có sự kết hợp tả thực với suy tưởng, bộc bạch tâm
tình  (câu  đầu)  với  chiêm  nghiệm  triết  lí  (các  câu  sau)  ;  phép  điệp
(nhớ / nhớ), phép đối xứng (khi ta ở - khi ta đi), câu hỏi tu từ (Nơi
nao qua lòng lại chẳng yêu thương ?) khiến đoạn thơ có sức truyền
cảm và súc tích như một châm ngôn.
 1,0
 
 
 
 1,0
3.          So sánh (1,0 điểm)    
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
- Điểm tương đồng : hai đoạn thơ đều bộc lộ  nỗi nhớ tha thiết,
bồi hồi, sâu lắng về thiên nhiên và con người Tây Bắc. 
- Điểm khác biệt : đoạn thơ trong bài Tây Tiến bộc lộ nỗi nhớ cụ
thể của người trong cuộc, toát lên vẻ hào hoa, lãng mạn, hình ảnh
thơ nghiêng về tả thực trực quan; còn đoạn thơ trong bài Tiếng hát
con  tàu  là  tình  cảm  nhớ  thương đã  được  nâng  lên  thành  quy  luật
của  tâm  hồn,  hình  ảnh  thơ  nghiêng  về  khái  quát  và  tượng  trưng,
chứa đựng vẻ đẹp trí tuệ.
 0,5
 
 0,5 
III.a          Vì sao tấm lòng của nhân vật quản ngục được ví như “một
thanh âm trong trẻo”?
 3,0
  1.          Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)   
    214
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
 
- Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời say mê và tôn vinh cái đẹp,
nhất là cái đẹp của tài hoa và nhân cách ; là ngòi bút bậc thầy với
phong cách sắc sảo, uyên bác, tài hoa.
- Chữ người tử tù được  coi là  kiệt tác  của Nguyễn Tuân trong
tập Vang bóng một thời. Truyện  viết về  cuộc  gặp  gỡ  lạ lùng giữa
Huấn Cao và quản ngục, mỗi nhân vật là hiện thân cho một vẻ đẹp
cao quý trong đời.
0,5
2.          Về nhân vật quản ngục (1,5 điểm)   
 
 
 
- Về vị thế,  nhân  vật quản  ngục là đại diện  cho bộ  máy  cai trị
của triều đình mục nát, phải sống giữa một môi trường là thế giới
nhà tù ô trọc, với chức phận cai quản và trừng phạt tù nhân.
- Về phẩm chất, nhân vật quản ngục lại là “một tấm lòng trong
thiên hạ” : tâm hồn thuần khiết, tính tình ngay thẳng, biết quý trọng
phẩm giá con người, có sở thích cao quý, đặc biệt là có “tấm lòng
biệt nhỡn liên tài” …
0,5
 
 
1,0
3.          Ý nghĩa của hình ảnh so sánh (1,0 điểm)   
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
   - Là hình ảnh súc tích tạo ra sự đối lập sắc nét giữa trong với
đục, thuần khiết với ô trọc, cao quý  với thấp hèn; giữa cá thể nhỏ
bé, mong manh với thế giới hỗn tạp, xô bồ.
 - Là hình ảnh so sánh hoa mĩ, đắt giá, gây ấn tượng mạnh, thể
hiện  một sự  khái quát  nghệ thuật sắc sảo, tinh  tế giúp tác giả làm
nổi  bật  và  đề  cao  vẻ  đẹp  của  tâm  hồn  nhân  vật. Là  chi  tiết  nghệ
thuật mang đậm dấu ấn phong cách tài hoa của Nguyễn Tuân.
1,0
 
 
 
 
III.b          Vì sao nhân vật bà Hiền được gọi là “hạt bụi vàng của Hà
Nội” ?
 3,0
1.          Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)     
 
- Nguyễn Khải là nhà văn xông xáo, nhạy bén với những vấn đề
thời sự, có khả năng phân tích tâm lí sắc sảo ; ở giai đoạn đổi mới,
ông  đặc  biệt  quan  tâm  đến  số  phận  cá  nhân  trong  cuộc  sống  đời
thường; giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm.
- Một người Hà Nội là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khải giai
đoạn đổi mới, thể hiện những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp và chiều
sâu văn hoá của người Hà Nội qua nhân vật bà Hiền.
0,5
  215
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
2.          Về nhân vật bà Hiền (1,5 điểm)   
 
- Không thuộc kiểu người xuất chúng, bà Hiền là một người Hà
Nội bình thường nhưng rất đậm  cốt  cách Hà Nội. Đó là sự nhuần
nhuyễn giữa nét đẹp riêng của đất kinh kỳ với phẩm chất chung của
một người Việt (giản dị mà lịch lãm, thiết thực mà sang trọng, cần
mẫn mà tài hoa, chân thực mà tinh tế sâu sắc...).
-  Phẩm  chất  bền  vững  thuộc  về  đạo  lý  làm  người  muôn  đời
chính là căn cốt giúp bà Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời,
trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội, dù thời cuộc có lúc thăng
trầm (khôn ngoan mà tự trọng, thức thời mà chu đáo, linh hoạt mà
trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, trọn vẹn cả việc nước việc nhà...).
1,0
 
 
 
0,5
3.          Ý nghĩa của hình ảnh so sánh (1,0 điểm)  
 
 
 -  Hạt  bụi  vàng  là  hình  ảnh  một  sự  vật  nhỏ  bé, khiêm  nhường
mà cao đẹp, quý báu. Nhiều hạt bụi vàng như thế hợp lại thành áng
vàng  chói  sáng,  đó  là  phẩm  giá  đã  thành  bản  sắc  Hà  Nội,  thành
truyền thống của người Hà Nội nghìn năm văn hiến.
 - Là hình ảnh so sánh đặc sắc thể hiện sự khái quát nghệ thuật
cao, trong đó có sự đối lập mà thống nhất giữa thân phận và giá trị,
biểu hiện được mối gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng ; chứa đựng
niềm  trân  trọng  và  tự  hào  của  tác  giả.  Hình  ảnh  ấy  giúp  Nguyễn
Khải cô đúc được toàn bộ phẩm chất phong phú của nhân vật vào
một chi tiết nhỏ nhưng giàu ý nghĩa biểu tượng,  gây ấn tượng sâu
đậm đối với người đọc.
1,0
Lưu ý chung : Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm
bảo những yêu cầu về kiến thức. Trên đây chỉ là những ý cơ bản thí sinh cần đáp ứng;
việc cho điểm cụ thể từng câu cần dựa vào bản hướng dẫn chấm kèm theo.
 
    216
 
Đáp án Đề THI TUYểN SINH 
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG − NĂM 2008
Môn thi : VĂN, khối D
Thời gian làm bài : 180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu      Ý  Nội dung  Điểm
  I           Những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao 
trước Cách mạng tháng Tám
2,0
    - Nam Cao từ bỏ quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, tìm đến
con đường “nghệ thuật vị nhân sinh”, phê phán thứ nghệ thuật xa
rời thực tế, đòi hỏi  nghệ thuật phải bám sát  cuộc đời (Nghệ thuật
không  cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật có  thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những
kiếp lầm than). 
- Nhà văn chân chính phải có đôi mắt của tình thương, tác phẩm
thực  sự  giá  trị  phải  có  nội  dung  nhân  đạo  (ca  tụng  lòng  thương,
tình bác ái, sự công bình..., làm cho người gần người hơn). 
- Đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn
dễ  dãi  (văn chương  chỉ  dung  nạp  những  người  biết  đào  sâu,  biết
tìm tòi... và sáng tạo những gì chưa có). 
- Người cầm bút phải có lương tâm; viết cẩu thả chẳng những là
“bất lương” mà còn là “đê tiện”.
0,5
 
 
 
0,5
 
 
0,5
 
0,5
 II         
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm
cứu A Phủ
5,0
 1.          Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)    
 
 
 
 
 
 
 
 
  - Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ trước năm 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực
báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng trong sáng tác
văn học, nhất là về đề tài miền núi.
- Truyện Vợ  chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết
quả  của  chuyến  Tô  Hoài  đi  cùng  bộ  đội  vào  giải  phóng  Tây  Bắc
(1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác
phẩm  viết  về  cuộc  sống  tăm  tối  và  khát  vọng  sống  mãnh  liệt  của
người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Mị
là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm.
0,5
  217
 2.
Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A
Phủ (4,0 điểm)
 
- Từ vô cảm đến đồng cảm : những đêm trước nhìn thấy cảnh A
Phủ bị trói đứng Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng
nước  mắt  của  A  Phủ  đã  đánh  thức  và  làm  hồi  sinh  lòng  thương
người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị
thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ).
1,0
- Nhận ra sự độc ác và bất công : từ cảnh ngộ của mình và những
người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của
A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia
việc gì mà phải chết.
1,0
- Hành động cứu người : Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng
cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế Mị... cũng không thấy sợ. Tình
thương và lòng căm thù đã giúp Mị có sức mạnh để quyết định cứu
người và liều mình cắt dây trói cứu A Phủ.
1,0
 
 
- Tự giải thoát cuộc đời mình : đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt
hoảng...; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ.
1,0
 3.
Ý nghĩa của việc miêu tả tâm trạng và hành động của Mị (0,5 điểm)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  - Tạo  tình  huống truyện  độc  đáo,  hấp  dẫn  ;  cách  miêu tả  diễn
biến tâm lý nhân vật tài tình, hợp lý  đã tạo nên sự thay đổi số phận
nhân vật một cách thuyết phục.
-  Thể  hiện  giá  trị    nhân  đạo  :  phát  hiện  và  miêu  tả  sức  sống
mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động bị áp bức trong xã
hội cũ. 
0,5
 
III.a               Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu          3,0
 1.          Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)    
 
 
 
 
 
   - Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà Thơ mới, là
một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với cuộc đời và thiên nhiên.
 - Đây mùa thu tới (in trong tập Thơ thơ) là một trong những thi
phẩm  nổi  tiếng  của  Xuân  Diệu.  Bài  thơ  thể  hiện  cách  nhìn  mới,
cảm xúc mới và bút pháp mới. Bốn câu tả cảnh thu trong vườn là
một trong những đoạn đặc sắc nhất.
0,5
    218
2.  Cảm nhận về đoạn thơ (2,5 điểm)  
 a) Cảnh sắc thiên nhiên 
- Cảnh  vườn  thu  phai tàn  :  hoa  lìa  cành,  lá  thay  màu  đổi  sắc,
cành  cây  khô  gầy,  mỏng  manh. Diện  mạo  của  cảnh  vật tiêu điều,
phôi pha theo những bước đi âm thầm lặng lẽ của thời gian.
-  Cảnh  sắc  hữu  tình  như  một  sinh  thể  có  linh  hồn  với  những
động thái run rẩy, dáng nét gầy guộc, mỏng manh.
1,0
 
 b) Tâm trạng của nhân vật trữ tình
 - Nỗi buồn sâu lắng của một người đang theo dõi từng bước đi
của thời gian; muốn níu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảnh thu
đang phai tàn.
 - Niềm  cảm  thương  tạo  vật  thiên  nhiên  trước  những  biến  suy
không thể cưỡng lại vào lúc giao mùa.
1.0
 
 
 c) Đặc sắc nghệ thuật
- Hình ảnh quen thuộc mà mới lạ thể hiện sự cách tân trong thi
liệu (hoa rụng cành, sắc đỏ rủa  màu xanh, luồng run rẩy...) giàu
chất tạo hình hiện đại.
- Ngôn ngữ có sự kết hợp cách diễn đạt của phương Tây (hơn một,
rủa) với lối tu từ truyền thống (đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh).
- Nhạc điệu có sự phối hợp giữa việc dùng điệp phụ âm (chuỗi
bốn âm “r” kế tiếp) với mật độ từ láy dày (run rẩy, rung rinh, mỏng
manh) vừa tả sự lay động của sự vật, vừa thể hiện cảm giác tinh vi
của chủ thể; giọng kể đan xen trong mạch thơ (qua khá nhiều từ chỉ
số lượng hơn một, những, đôi...) cũng góp phần thể hiện cảm xúc
hết sức tinh tế của thi sĩ.
0,5
III.b               Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử  3,0
   1.          Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)  
  
- Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới. Bên
cạnh  những  vần  thơ  điên  loạn,  ma  quái,  xa  lạ  với  cuộc  sống  đời
thường, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ,
hồn nhiên và trong trẻo lạ thường.
- Đây thôn Vĩ Dạ (in trong tập Đau thương) là một thi phẩm nổi
tiếng  của Hàn Mặc Tử. Bài thơ  vừa tả  cảnh đẹp thôn Vĩ Dạ,  vừa
bộc  lộ  tâm  trạng  của  nhân  vật  trữ  tình  -  thiết  tha  yêu  đời  nhưng
cũng đầy u uẩn.
0,5
  219
 2.          Cảm nhận về đoạn thơ (2,5 điểm)  
a) Cảnh sắc thiên nhiên
- Cảnh thiên nhiên phiêu tán, phân ly  với sông  nước,  gió  mây,
hoa bắp, thuyền trăng, sông trăng huyền ảo; toát lên vẻ đẹp êm đềm
mà xao động, thơ mộng mà u buồn. 
- Xu thế vận động của thiên nhiên có sự tương phản : hầu hết sự
vật chảy trôi đi, còn trăng thì ngược dòng trở lại, chứa đựng những
nghịch cảnh. 
1,0
b) Tâm trạng của nhân vật trữ tình
- Tâm trạng phức tạp  với  nhiều sắc thái  chuyển  hoá đan xen :
lúc buồn bã, lo âu bởi dự cảm chia lìa ; lúc bồi hồi, phấp phỏng bởi
khao  khát  ngóng  trông...  Tất  cả  đều  mong  manh,  khắc  khoải  gần
như vô vọng.
-  Tâm  hồn  tuy  nặng  trĩu  u  buồn,  nhưng  vẫn  rộng  mở  để  đón
nhận những vẻ đẹp huyền ảo, thi vị của thiên nhiên; tấm lòng thiết
tha với đời và khao khát sống vẫn cố níu giữ, bám víu cuộc đời. 
1,0
 
c) Đặc sắc nghệ thuật
- Hình ảnh thơ độc đáo, tài hoa, đầy ám ảnh : vừa dân dã vừa thi
vị (dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay), vừa gợi tả vừa giàu sức biểu
hiện  (mây,  gió);  nét  thực,  nét  ảo  cứ  chập  chờn  chuyển  hoá  (sông
trăng, thuyền chở trăng)
- Nhịp điệu khi khoan, khi nhặt hoà hợp với giọng điệu khi trầm
lắng,  khi  khẩn  cầu  biểu  lộ  cảm  xúc  u  hoài  mà  tha  thiết  (thể  hiện
thành sự chuyển hoá âm điệu từ hai câu đầu đến hai câu sau). 
- Nhiều thủ pháp nghệ thuật như phép đối (câu một), nhân hoá
(ở hầu hết các hình ảnh thiên nhiên), đại từ phiếm chỉ và câu hỏi tu
từ (Thuyền ai đậu bến sông trăng đó... tối nay ?) làm cho ngôn ngữ
thơ  giàu  hình ảnh, tài hoa, biểu lộ được  nhiều trạng thái  cảm xúc
tinh tế.
0,5
 
Lưu ý chung : Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm
bảo yêu cầu về kiến thức. Trên đây chỉ là những ý cơ bản thí sinh cần đáp ứng ; việc
cho điểm từng câu cần dựa vào bản hướng dẫn chấm kèm theo.
 
    220
  221
B - MỘT SỐ ĐỀ THI ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 
THEO CHƯƠNG TRÌNH MỚI 
đề số 1
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm) 
Trình bày những nét chính về quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp văn học  của
Xuân Diệu.
Câu II. (3,0 điểm) 
Anh/ chị hãy bình luận ca từ sau đây trong một bản nhạc của Trịnh Công Sơn
: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng - Để làm gì em biết không?”.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM) 
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó 
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện
ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về tình  yêu cuộc sống và con người của Hàn Mặc Tử
qua bài Đây thôn Vĩ Dạ.
 
đề số 2
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm) 
Nêu hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng chủ đạo và cấu tứ của bài thơ Tràng giang
của Huy Cận.
Câu II. (3,0 điểm) 
    222
Một con người làm sao có thể nhận thức được chính mình ? Đó không chỉ là
việc của tư tưởng mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình,
lúc đó bạn lập tức hiểu được giá trị của mình (Gớt). Anh/ chị hiểu như thế nào về
ý kiến trên.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM) 
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó 
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
 Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
 
đề số 3
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm) 
Anh/chị  hãy  trình  bày  hoàn  cảnh  ra  đời  của  bài  thơ  Tây  Tiến  của  nhà  thơ
Quang Dũng.
Câu II. (3,0 điểm) 
Trong một lần trả lời con gái thế nào là hạnh phúc, Mác nói : “Hạnh phúc là
đấu tranh”. Anh / chị hiểu câu nói trên như thế nào.
 II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó 
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí
Phèo của Nam Cao từ buổi sáng sau gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy
rõ bi kịch của nhân vật này.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
  223
Phân tích hình tượng ông lái đò trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà để làm
rõ những nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân.
 
 
đề số 4
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm) 
Anh/chị  hãy  trình bày quan điểm  nghệ thuật và  sự  nghiệp văn  học  của  nhà
văn Nam Cao.
Câu II. (3,0 điểm) 
“Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” (Gớt). Anh/
chị hiểu câu nói trên như thế nào.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM) 
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó 
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân  tích  nhân  vật  Huấn  Cao  trong  tác  phẩm  Chữ  người  tử  tù  của
Nguyễn Tuân.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Cảm  nhận  của  anh/chị  về  đoạn  thơ  sau  trong  bài  thơ  Vội  vàng  của 
Xuân Diệu:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
    224
(Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, NXB Giáo dục 2008, tr.27-28)
 
 
đề số 5
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm)  
Nêu xuất xứ và giải thích ý nghĩa nhan đề đoạn trích : “Hạnh phúc của một
tang gia” (Trích Số đỏ – Vũ Trọng Phụng).
Câu II. (3,0 điểm) 
Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội
hiện nay.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó 
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm  nghĩ của  anh/chị  về  hình tượng  người lính  trong bài thơ Tây  Tiến của 
Quang Dũng.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Nghệ thuật viết văn chính luận đặc sắc  của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn
độc lập.
 
 
  225
PHỤ LỤC
    BàI VĂN ĐạT ĐIểM CAO TRONG Kỳ THI ĐạI HọC 
CÂU HỎI (2 điểm) : Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.
BÀI LÀM 
Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chính phủ rời chiến khu
Việt Bắc về Hà Nội. Thời điểm này, diễn ra nhiều sự kiện quan trọng ở nước ta :
Một nửa đất nước được giải phóng, niềm vui đến với tất cả mọi người, miền Nam
sẽ tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài chống xâm lược Mĩ… Tố Hữu viết một chùm
năm bài thơ, trong đó có bài Việt Bắc.
Việt Bắc được dùng đặt tên chung cho cả tập thơ lại được coi là bài đặc sắc
nhất. Thật khó hình dung thành tựu của nhà thơ Tố Hữu nói riêng và nền thơ ca
kháng chiến Việt Nam nói chung, nếu không nhắc đến bài thơ này. Có thể khẳng
định, đây là bản sử thi tổng kết cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc Việt Nam
chống thực dân Pháp. Bằng lối cấu tứ đặc sắc như một cuộc hát giao duyên, bằng
thể thơ lục bát mượt mà, bằng tình cảm thiết tha của người ra đi và  người ở lại,
người  Việt  Bắc  và  cán  bộ  cách  mạng,  Tố  Hữu đã  để  lại  cho nền  văn  học  cách
mạng nước ta một tác phẩm thật sự có giá trị.
Về nét đặc sắc nghệ thuật, trước hết phải nói đến kiểu cấu tứ rất độc đáo của
bài thơ. Nhà thơ đã tự chia đôi thành hai giọng điệu trữ tình, giọng của người ra đi
và giọng của người ở lại, giọng của ngưười cách mạng  và giọng của người Việt
Bắc, một giọng nữ và một giọng nam, khiến ta có cảm giác như đây là một cuộc
hát  giao duyên, hát  giã  bạn.  Tính dân  tộc  mà  Tố  Hữu  sử dụng một cách  nhuần
nhuyễn trong bài thơ này còn được thể hiện qua lối sử dụng thể thơ lục bát truyền
thống. Truyền thống mà không cũ, vì  Tố Hữu đã mang đến cho bài thơ âm hưởng
của ca dao, dân ca mà vẫn chứa đựng tính thời đại, một nét sáng tạo rất riêng của
nhà thơ cách mạng này : “Áo chàm đưa buổi phân ly - Cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay?...”.
Giọng điệu Việt Bắc trữ tình, hài hoà, đa dạng mà vẫn thống nhất. Cả bài thơ
là  mạch  tình  cảm  như  làn sóng  tuôn  trào  : Bắt đầu  là  cảnh  chia  tay,  những  hồi
tưởng về thiên nhiên Việt Bắc đến những ngày gian lao kháng chiến và niềm tin
phơi phới vào tương lai… Đọc Việt Bắc, ta thấy được tình cảm của nhà thơ, khi
thì tha thiết bồi hồi, khi thì khí thế hào sảng, khi thì trầm hùng, sâu lắng, lúc lại
vui tươi lạc quan : “Những đường Việt Bắc của ta - Đêm đêm rầm rập như là
đất rung - Quân đi điệp điệp trùng trùng - Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan…”.
    226
+ Trong bài thơ Việt Bắc, xuất hiện “chật ních” cặp đại từ mình - ta, biến đổi
hài hoà. Khi thì mình là người ở lại, ta là người ra đi; lúc thì ngược lại. Đôi chỗ,
bằng cách  viết  hết sức  điêu luyện của  mình, Tố Hữu tạo được  cảm  giác,  không
còn sự phân biệt mình và ta, mình cũng là ta, vì đơn giản cả hai đều là cách mạng,
cả hai đều gắn bó với Việt Bắc, cả hai đều tình nghĩa, thuỷ chung : “Mình đi mình
có nhớ mình - Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”.
+ Việt Bắc còn đặc sắc ở hàng loạt các biện pháp tu từ điêu luyện, những cặp
hình ảnh, những ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, động từ nhớ được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong suốt cả bài thơ : “Mình về với Bác đường xuôi -
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người - Nhớ ông cụ mắt sáng ngời… Nhớ
Người những sáng tinh sương…”. 
+ Tóm lại, Việt Bắc là một bài thơ viết về chủ đề cách mạng, chính trị, nhưng
không rơi vào sự minh hoạ, không khô khan nặng nề. Bằng tài năng và bằng cả
tình yêu, Tố Hữu đã viết được những câu thơ mượt mà, ngọt ngào, sâu lắng về dân
tộc, về đất nước,  về người dân Việt Bắc nghĩa tình,  về Bác Hồ kính  yêu… Việt
Bắc xứng đáng là bông hoa đẹp trong nền thơ ca cách mạng của dân tộc. 
CÂU HỎI : Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong kịch
Vũ Như Tô (đoạn trích được học) của Nguyễn Huy Tưởng (Đề thi, khối D, năm
2006, câu 3 điểm). 
 
BÀI LÀM 
Tôi nhớ mãi cái lần tôi theo ba mẹ sang Trung Quốc, cái cảm giác được đứng
trên đất nước láng giềng thật rộng lớn và vô cùng đặc biệt, rất thú vị. Trung Quốc
vô  vàn  những  danh  lam,  thắng  cảnh,  những  điểm  dừng  chân,  những  di  tích…
Nhưng có lẽ, cái kỳ quan Vạn lý trường thành mới để lại cho tôi những ấn tượng
và những cảm xúc sâu đậm nhất. 
Không hiểu sao, khi dừng  lại  nơi đây,  đặt chân lên công trình kỳ  vĩ ấy,  bất
giác trong đầu tôi ùa về những cảm xúc khi lần đầu tiên đọc vở kịch Vũ Như Tô
của Nguyễn  Huy Tưởng.  Tự hào và  tiếc  nuối trong  sự so  sánh  giữa  Cửu Trùng
Đài và Vạn lý trường thành. Có quá khập khiễng không, khi một bên là kỳ quan
thế giới (đã được công nhận) còn bên kia chỉ là “kỳ quan” trong mơ ước của một
kiến trúc  sư; một bên là  hiện  hữu,  vẫn tồn tại cùng năm tháng,  còn bên  kia chỉ
đống tro tàn trong những trang sách? Khập khiễng, nhưng vẫn có những nét tương
đồng  thật  thú  vị.  Cửu Trùng  Đài bị  đốt,  nói  như  Nguyễn  Huy Tưởng  thì  đó  là
niềm sung sướng hay là một thiệt thòi? Nhà văn không biết, chúng ta cũng không
  227
biết,  bởi  nguyễn  Huy  Tưởng  viết  ra  vở  kịch  là  vì  “cùng  một  bệnh  với  Đan
Thiềm”.  Còn  chúng  ta,  người  đọc,  người  xem,  chỉ  là  người  đi  tìm  đáp  án  cho
những bi kịch chất chồng mà nhà văn đã viết ra.
Bi  kịch  của Vũ Như Tô có lẽ xuất phát  từ ngay  cái tài của  ông, cái tài  xây
dựng, tài dùng những viên gạch như một vị Thống lĩnh “điều binh, khiển tướng”,
có thể xây những toà nhà cao ngất mà không đặt sai một viên gạch nhỏ nào, là cái
tài đặt đúng  người  nhưng  lại  nhầm thời. Trong  lý luận mỹ  học, bi kịch được  lý
giải bằng nguyên nhân sự đối lập giữa lý tưởng và thực tại, sự mâu thuẫn giữa ước
mơ vươn tới của con người và giới hạn không thể vượt qua của hiện thực. Bi kịch
của nhân vật Vũ Như Tô chính là như thế!
Giá như Vũ Như Tô đừng sinh ra vào thời tên hôn quân Lê Tương Dực, vào
thời đất nước rối ren, dân đen lầm than đói khổ, thì biết đâu lại khác, biết đâu vẫn
có Cửu Trùng Đài? Nhưng đó chỉ là giả thiết mà nếu Vũ Như Tô sống lại, có thể
ông vẫn cứ nuối tiếc đặt ra. Chúng ta, những người đi tìm đáp án, chỉ có thể khẳng
định được rằng, tạo hoá có cái lý của tạo hoá và nguyễn Huy Tưởng cũng có cái lý
của ông. Bởi ông đã may mắn (hay bất hạnh) gặp được Đan Thiềm, người cung
nữ tài sắc bị thất sủng, người dám đốt cháy tài năng của Vũ Như Tô, dù biết điều
đó nguy hiểm vô cùng…
Nên chia sẻ thế nào với bi kịch Vũ Như Tô, cảm ơn ông hay oán trách ông?
Bản thân Nguyễn Huy Tưởng hình như không có lời giải đáp. Ban đầu, Vũ Như
Tô kiên quyết từ chối xây dựng Cửu Trùng Đài, bởi lẽ, ông biết Lê Tương Dực là
kẻ “hôn quân, bạo chúa”. Thế nhưng, chính Đan Thiềm đã khuyên nhủ ông, nên
nhân cơ  hội  này để  xây một Cửu Trùng Đài “tranh tinh  xảo với  hoá công”.  Vũ
Như Tô nghe theo, và như vở kịch, ở hồi kết thúc, khi Cửu Trùng Đài còn đang
dang dở, quân phản loạn đứng đầu là Trịnh Duy Sản nổi dậy giết vua, Đan Thiềm,
Vũ Như Tô, đốt Cửu Trùng Đài…
Tại sao lại vậy ? Trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ ít nhiều lý giải được bi kịch
Vũ Như Tô, cho dù đó là điều không dễ, bởi lẽ, trước câu hỏi này, chính bản thân
Nguyễn Huy Tưởng đã từng thừa nhận sự  bối rối của mình : “Than ôi, Vũ Như
Tô phải  hay  những kẻ  giết Như Tô phải  ? Ta  không biết – Cầm bút,  chẳng qua
cũng là cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Bi kịch Vũ Như Tô bắt nguồn từ bi kịch giai cấp, vua chúa ăn chơi sa đoạ,
dân  chúng  lầm  than.  Vũ Như  Tô không  thuộc  giai  cấp  thống  trị,  nhưng  vì  Cửu
Trùng Đài,  vì cái Đẹp, ông đành phải mượn tay quyền lực. Dân chúng khổ cực,
lầm than, biết bao người mất cha, mất con vì “công trình Nghệ thuật” Cửu Trùng
Đài. Chính vì vậy, trước mắt mọi người, căm hờn chủ yếu chỉ dồn vào Vũ Như
    228
Tô. Cũng  có người cho rằng,  dân chúng  lầm  lạc  khi họ đặt nỗi căm hờn  không
đúng chỗ. Còn Vũ Như Tô, người quá ham mê cái đẹp, có lẽ ông đã không lường
được hết tấn bi kịch này. Bi kịch của ông là bi kịch về sự mâu thuẫn giữa cái đẹp
và  hiện  thực,  bi  kịch  của  người  nghệ  sĩ  không  dung  hoà  nổi  “cõi  bồng  lai”  và
“chốn lầm than”. Vũ Như Tô chỉ chăm chăm dồn hết công sức vào Cửu Trùng Đài
mà không hề để ý, “đám dân đen”, binh lính kia khổ cực đến nhường nào. Thậm
chí,  vì  lo  cho  Cửu Tùng Đài,  lo cho cái đẹp, ông còn ra  lệnh chém chết  những
người bỏ trốn. Một bên là mâu thuẫn giai cấp, bên kia là mâu thuẫn nghệ thuật, rốt cục
mâu thuẫn nào sẽ được gỡ bỏ đây ? Tấn bi kịch của Vũ Như Tô xét cho cùng lại là ở
chỗ, nếu giải quyết được mâu thuẫn này thì không giải quyết được mâu thuẫn kia. Có lẽ
vì thế chăng mà chính nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng không thể  tìm được lời giải
đáp ?
Kết thúc vở kịch, vua bị giết chết, Đông Các đại học sĩ Nguyễn Vũ thì tự vẫn,
mâu thuẫn giai cấp được đẩy lên cao trào, vấn đề giai cấp dù sao cũng đã được
giải quyết. Còn mâu thuẫn của người nghệ sĩ Vũ Như Tô đến khi ra pháp trường,
thì hình như vẫn được giữ nguyên : “Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài !”. Kết
thúc kịch, tiếng kêu đau đớn,  thất thanh của  Vũ Như Tô vẫn còn như  xoáy  vào
lòng người đọc, người xem.
Quả thực, Vũ Như Tô hơn người ở chỗ tài năng và hết mình cho nghệ thuật.
Khi Đan Thiềm thành thật khuyên can Vũ như Tô nên chạy trốn, nếu không mất
mạng, ông vẫn kiên quyết không đi, vẫn hết mình với Cửu Trùng Đài “Hồn tôi ở
đây, tôi còn đi đâu ?”. Vậy là, cái hơn người ở Vũ Như Tô lại là cái thua người.
Nhà nghệ sĩ không nhận ra thời thế, không phân biệt được đúng sai ngay trong thế
giới  nghệ  thuật  của  mình.  Cái  đẹp  tinh  xảo  kia  phải  đổi  bằng  máu  xương  của
người dân thì có đáng không ? Vũ Như Tô chỉ dừng lại ở cái đẹp thuần tuý, cho
dù nó là cái đẹp của muôn đời. Còn người dân lại chỉ đánh giá cái đẹp trong sự
gắn bó với cái có ích trong cuộc sống. Hai mặt của một vấn đề, nhưng lại là mâu
thuẫn  không  thể  nào  giải  quyết.  Cái  đẹp  là  của  muôn  đời,  nhưng  than  ôi,  dân
chúng lại không thể hiểu ra. Họ khăng khăng đòi giết Vũ Như Tô - kẻ hại biết bao
gia đình, đòi phá Cửu Trùng Đài – thứ xa hoa, tốn kém mà Vũ Như Tô đang cất
công xây dựng. Bi kịch không kết thúc, nó tạm thời dừng lại ở mâu thuẫn không
thể nào hoá giải, và nếu không nhận ra nó, nó sẽ là bi kịch của ngàn đời.
Cái Đẹp phải đi đôi với nhân sinh, cái đẹp không thể tách rời cái có ích. Tôi
băn khoăn vô cùng khi tự hỏi, liệu ở nơi suối vàng, Vũ Như Tô có hiểu ra chăng?
Liệu có hiểu chăng, khi bị bắt, bị trói mà Vũ Như Tô vẫn nuôi mộng xây Cửu
Trùng Đài ? Liệu có hiểu chăng khi đến chính Thị Nhiên, vợ của Vũ Như Tô, vẫn
  229
cho  rằng  ông  tàn  ác  nên  quay  lưng  với  chồng  ?  Liệu…?  Liệu…?  Nhưng  có  lẽ
không cần phải đặt ra nhiều câu hỏi nữa. Dẫu sao thì Đài lớn cũng đã tan tành, bị
kịch Vũ Như Tô cũng đã diễn ra rồi. Chúng ta,  những người đọc trân trọng nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng, hãy nhớ tới Vũ Như Tô bằng lời nói của Đan Thiềm :
“Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt”.
Đọc  xong Vũ Như Tô,  tôi cảm  giác  như có một tiếng thở dài trong bộn bề
cảm xúc. Tiếng thở dài tựa  một làn hơi mỏng, thổi nhẹ một chút là nó sẽ bay đi…
Bi  kịch chồng  chất bi  kịch, bi  kịch  giữa  xây – không, ở – không ở,  đẹp – khổ,
nghệ thuật – cuộc sống… Thật tiếc cho Vũ Như Tô, cho Đan Thiềm, cho Nguyễn
Huy Tưởng và cho cả chúng ta : Cửu Trùng Đài đã không thể ra đời, Nguyễn Huy
Tưởng không tìm được lời giải đáp và chúng ta không được chiêm ngưỡng công
trình nghệ thuật “tranh tinh xảo với hoá công” của người nghệ sĩ tài năng… Tôi
đang hình dung Vũ Như Tô một ngày nào đó sẽ đứng trên Cửu Trùng Đài, nơi gió
ấm sẽ trở về và, trên cao vô cùng là một cánh diều đang căng gió…
CÂU HỎI : Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Anh/ chị cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua
hình tượng này ? (Đề thi Đại học năm 2006, khối D, câu hỏi 5 điểm). 
BÀI LÀM 
 Tôi hết sức  ngạc  nhiên  khi được biết Xuân Quỳnh có một đôi bàn tay  như
mặt Trương Chi, một đôi bàn tay âu yếm nựng con, âu yếm lo cho chồng :
Anh không ngủ được ư anh
Để em mở quạt quấn mành lên cho...
 Xuân Quỳnh bảo vệ  hạnh phúc đơn  sơ của  mình bằng tất  cả tâm  huyết,
dũng khí của một người đàn bà nghị lực. Xuân Quỳnh còn bảo vệ hạnh phúc
bằng những bài thơ, những bài thơ mà xét cho cùng, nếu không được làm bởi
một con người trắc trở, lận đận như Xuân Quỳnh, thì chúng ta không dễ dàng
được thưởng thức những vần thơ hay đến như thế ! 
 Chính bởi cái nữ tính mãnh liệt của Xuân Quỳnh đã hoá giải lý do tại sao
thơ Xuân Quỳnh lại có duyên nợ với sóng, với biển. Hai bài thơ hay của Xuân
Quỳnh đều là hai bài viết về biển (Thuyền và biển), hoặc ít nhiều gần gũi với
biển (Sóng) Trong đó, Sóng lại được coi là bài thơ hay nhất vì nó thể hiện được
    230
đầy đủ mọi cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong tình  yêu, nó đồng thời
cũng bộc lộ rõ đặc điểm tâm hồn và phong cách Xuân Quỳnh.
Sóng là bài  thơ được in  lần đầu tiên trong  tập  Hoa dọc chiến hào,  lấy  cảm
hứng từ một chuyến đi biển của nhà thơ. Trước Xuân Quỳnh đã có rất nhiều nhà
thơ viết về sóng. Ông hoàng của thơ tình, Xuân Diệu cũng từng rạo rực vô cùng
trước những con sóng :
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bờ lắm lắm bờ ơi.
 (Biển)
Hay  như  Chế  Lan  Viên,  tác  giả  Điêu  tàn,  nhà  thơ  triết  lý  cũng  từng  mang
trong mình một con sóng đầy mâu thuẫn :
Ta nghe ý sóng từ thơ bé
Một nửa buồn vui nửa quặn đau.
Thế nhưng, phải đến Xuân Quỳnh thì hình tượng con sóng mới bộc lộ được
hết những cung bậc dâng trào. Nếu ở Xuân Diệu và Chế Lan Viên, đó là con sóng
của người con trai mạnh mẽ và triết lý, thì ở Xuân Quỳnh, ta được thấy những con
sóng nữ tính, mạnh mẽ và cả vô bờ triết lý. Sóng trong bài thơ của Xuân Quỳnh là
một hình tượng thiên nhiên, được lấy làm ẩn dụ cho tình yêu, sóng là “em” và nó
đi suốt bài thơ, tựa hồ như một ám ảnh chế ngự tâm hồn người đọc…
Trước hết, bài thơ được viết theo thể ngụ ngôn, thơ năm chữ. Xuân Quỳnh,
không hiểu là do ngẫu nhiên hay có chủ định, đã rất thành công với thể thơ này.
Đọc bài thơ của bà, ta thấy mỗi câu thơ là một con sóng, và trong mỗi khổ thơ là
nhiều  con sóng trào lên nhau,  rồi bài thơ,  nhan đề bài thơ… tất cả đều là  sóng.
Sóng cứ mãi vỗ những lớp lớp, những tầng tầng, chưa hết con sóng này đã tới con
sóng khác, không gian là một bao la với biển sóng, khiến người đọc từ bất ngờ này
chuyển sang choáng ngợp, rồi từ choáng ngợp chuyển sang trạng thái vẫy vùng trong
sóng của  biển lớn tình yêu, biển lớn cảm xúc. Để làm được điều này với thể thơ ngũ
ngôn không phải là dễ, nhưng Xuân Quỳnh đã làm được, và đã rất thành công.
Bài thơ còn đặc biệt ở chỗ, cặp từ “sóng – em” đan xen lẫn nhau, khi thì sóng,
lúc thì em, vừa đồng nhất, vừa tách biệt. Sóng và em cùng  nhau vỗ dọc chiều dài
bài thơ, làm tăng dần nhịp sóng. Sóng chính là em, và em là sóng, hai từ sóng em
vừa tương đồng vừa tương phản tạo nét thi vị cho bài thơ. Có người nói rằng, khi
chân lý đạt đến đỉnh cao, thì cơ hồ nó sẽ trở thành nghịch lý. Có lẽ vậy, bởi hai
câu thơ đầu của bài thơ đã chứng minh cho điều đó :
  231
 Dữ dội và dịu êm
 Ồn ào và lặng lẽ 
Hai câu thơ là hai vế tương phản : “dữ dội” đối lập với “dịu êm”, “ồn ào” đối
lập với “lặng  lẽ”. Giữa các cặp tương phản lại là một từ nối tương đồng : “và”.
Điều đó không hề mâu thuẫn, bởi nó đúng là tâm trạng phức tạp của người con gái
đang yêu, mà trong tình yêu có thiếu gì đâu những mâu thuẫn tương đồng : “Sông
không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể/ Ôi con sóng ngày xưa/ và ngày sau vẫn
thế/  Nỗi  khát  vọng  tình  yêu/  Bồi  hồi  trong  ngực  trẻ…”.  Thoạt  nghe,  người  đọc
cảm thấy như mâu thuẫn, tưởng mình nghe nhầm. Tại sao “Sông không hiểu nổi
mình” mà “Sóng lại tìm ra tận bể”? Nhưng thực ra đó lại là cái tinh tế của Xuân
Quỳnh. Tình  yêu đâu  chấp  nhận  những tù  túng,  chật  hẹp,  những  khoảng  không
gian “không hiểu nổi mình”. Con sóng chính là khát vọng vươn tới một tình yêu
chân chính và cao cả. Bởi lẽ đó, sóng phải “tìm ra tận bể”, bắt đầu hành trình tình
yêu của mình. Trên cuộc hành trình ấy, sóng bắt gặp “sóng ngày xưa” và “sóng
ngày sau”, nhận ra những con sóng luôn đồng cảm trong khát vọng tình yêu, lúc
nào cũng mãi không nguôi “bồi hồi”, lúc nào trái tim cũng mãi đập trong “lồng
ngực trẻ”: “Trước muôn trùng sóng bể - Em nghĩ về em, anh - Em nghĩ về biển
lớn - Từ nơi nào sóng lên?”.  
Vậy là con sóng đã ra đến biển lớn tình yêu, mở ra một không gian rộng lớn
và những con sóng thời gian vĩnh cửu, những con sóng của em, những con sóng
rất đỗi phụ nữ vẫn không thôi trăn trở, nghĩ ngợi, suy tư. Đó cũng âu là cái chung
của người phụ nữ. Thực ra ai cũng vậy, ai cũng đến với tình  yêu không một lần
trăn trở. Tình yêu huyền diệu, tình yêu bao la, tình yêu vĩnh cửu, tình yêu là một
hằng số vô tận : “Sóng bắt đầu từ gió - Gió bắt đầu từ đâu - Em cũng không biết
nữa - Khi nào ta yêu nhau?”.
Cái căn nguyên của thiên nhiên thì đã tìm ra câu trả lời, nhưng cái gốc gác của
tình yêu, thì Xuân Quỳnh lắc đầu rất nữ tính, hồn nhiên và đáng yêu: “Em cũng
không biết nữa”. Xuân Diệu, người suốt đời tận tâm với tình yêu đã không lý giải
nổi : “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Xuân Quỳnh cũng vậy, làm sao có thể
biết được tình yêu đến từ đâu? Người ta yêu nhau từ khi nào? Trong tình yêu, đôi
khi  điều ấy  không còn  là quan trọng.Cái quan trọng  hơn, là  người ta  yêu nhau
như thế  nào: “Con sóng dưới lòng sâu  -  Con sóng trên mặt  nước  -  Ôi con sóng
nhớ bờ - Ngày đêm không ngủ được - Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn
thức”. Đó là nỗi khắc khoải nhớ mong, bởi khi yêu, người ta chẳng bao giờ nguôi
    232
nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ suốt cả cuộc đời : “Cả trong mơ còn thức”.
Thời gian đã được Xuân Quỳnh lấy ra để làm thước đo cho tình yêu. Khi yêu, nỗi
nhớ xâm  chiếm  hết cả cõi lòng. Nhớ là trạng thái tình cảm có ý thức, mơ lại là
trạng thái  vô  thức  của  con người.  Khi  nỗi  nhớ  đi  vào  giấc  ngủ,  nghĩa  là  cái  rõ
ràng, cụ thể vẫn tồn tại được trong cái mơ hồ. Là phụ nữ viết về tình yêu, Xuân
Quỳnh không sợ chạm vào cõi thiêng liêng của tình cảm ấy. Tình yêu, với bà như
một thứ mộng thần tiên, mộng của cõi hư vô, mộng của cõi ảo. Bất giác nhớ đến
Hàn Mặc Tử, người thi sĩ đáng thương, đáng kính đau khổ cả cuộc đời với những
nỗi nhớ đa tên:
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng…
Cũng  đúng  thôi,  bởi  yêu  là  những  giày  vò  của  nỗi  nhớ…  Còn  với  Xuân
Quỳnh, đã qua phức  tạp, qua  trăn trở, qua khắc  khoải,  chỉ còn biết nhớ nhung :
“Dẫu xuôi về phương Bắc - Dẫu ngược về phương Nam - Nơi nào em cũng nghĩ -
Hướng về anh một phương”.
Tình yêu, với Xuân Quỳnh, còn là sự thuỷ chung, thống nhất. Trong tình yêu,
Xuân Quỳnh không bao giờ “xa mặt, cách lòng”. Bắc hay nam, ở đâu cũng vậy,
tình yêu chỉ có duy nhất một phương, từ trái tim nối tới trái tim. Có được một tình
yêu như thế, Xuân Quỳnh  luôn giữ được niềm tin trong tình yêu, cũng như con
sóng : “Con nào chẳng tới bờ - Dù muôn vời cách trở”. Hình tượng sóng và bờ
trong bài thơ của Xuân  Quỳnh đã  làm  đảo  lộn trật tự truyền thống.  Thường thì
người con trai luôn gắn với thế chủ động, người con gái thì ở thế bị động, ngay cả
trong  Thuyền  và  biển  :  “Những  ngày  không  gặp  nhau  -  Biển  bạc  đầu  thương
nhớ…”. Nhưng đến Sóng, Xuân Quỳnh đã làm đảo lộn trật tự truyền thống trên.
Khi yêu, người con gái cũng có quyền chủ động, bởi lẽ, người con gái đó có niềm
tin. Đó là lý do khiến tôi thích nhất đoạn cuối của bài thơ, như một lần tôi tin vào
khát vọng. Ngọn nến dù có cong đến mấy, khi được đốt lên, ngọn lửa vẫn thẳng
đứng vươn lên. Khát  vọng của Xuân Quỳnh cũng là khát  vọng chung của nhiều
người, khi yêu, người ta có quyền khát vọng : “Làm sao được tan ra - Thành trăm
con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình  yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Khát  vọng vĩnh
cửu hoá tình  yêu của một con người dường như  sinh ra là để yêu và được yêu,
  233
như Xuân Quỳnh. “Ngàn năm”, “trăm con sóng”, những số từ cụ thể nhưng bất
tận, thể hiện tình yêu của người con gái, người phụ nữ biết quên mình để làm vợ :
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
           Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi... 
(Tự hát) 
Xuân Quỳnh làm tôi liên tưởng đến câu truyện cổ tích về nàng tiên cá, vì tình
yêu mà chấp nhận tan thành bọt biển. Khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh mãnh
liệt tựa khát vọng niềm tin của bà, nó vừa kế thừa từ truyền thống, vừa có những
nét hiện đại rất riêng của Xuân Quỳnh : “Biết bay rồi tôi lại muốn bay cao”. Tình
yêu của Xuân Quỳnh là một nối dài cho tình yêu bất tận, là bước chuyển mình cho
người phụ nữ trong tình yêu, có khao khát, có thuỷ chung, nhưng mạnh mẽ và đặc
biệt chủ động. Nếu như với Biển, Xuân Diệu không ngại ngần tuyên bố một thứ
tình yêu “sở hữu”, cuồng nhiệt, mãnh liệt (nghiến nát bờ em), thì Xuân Quỳnh lai
thể hiện một thứ tình yêu “dâng hiến”, dâng hiến đến quên mình, như con ốc đại
dương, lúc nào cũng vậy, chỉ cần áp tai vào là nghe con sóng vỗ… Khi được hỏi
về con đường dẫn đến với thơ ca, đến với nghẹ thuật, Xuân Quỳnh đưa ra hai lý
do. Thứ nhất vì bà cảm thấy như được sống thêm một cuộc đời nữa; thứ hai, vì
lòng tự trọng, khi mới vào nghề, Xuân Quỳnh bị người ta khinh bạc, vì thế phải
sống, mà sống là phải viết…
Vậy đấy, Xuân Quỳnh là vậy đấy. Có người cho Xuân Quỳnh là một tiếp nối
của Hồ Xuân Hương, có người không. Riêng tôi, Xuân Quỳnh là Xuân Quỳnh, Hồ
Xuân Hương  là  Hồ Xuân Hương, mỗi người một thời,  mỗi người mỗi khác. Có
giống chăng chỉ là cả hai được sinh ra là để in dấu tình yêu trong trái tim mình,
như con đường sinh ra là để được in những dấu chân…
Tóm lại, bài thơ Sóng với hình tượng “sóng” độc đáo xuyên suốt bài thơ đã
thể hiện được đầy đủ các cung bậc của người phụ nữ khi yêu, những mâu thuẫn
tồn tại trong sự không hề mâu thuẫn… Người ta ví tình yêu là những hạt cát, kết
tinh của cát là một thứ mơ hồ. Hỡi những con sóng đang bạc đầu thương nhớ, có
chở giùm cho người đang yêu một chút pha lê ?
 
                               
    234
 
MụC LụC
 
  Tên bài  Trang
  Đôi lời đầu sách  3
  Phần một
Các chủ đề cơ bản ôn thi vào 
đại học, cao đẳng môn NGữ văn
 
 
Ø    Cấu trúc và giới hạn nội dung đề thi  8
Ø    Mẫu đề thi theo chương trình mới (Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành 2009)
8
Ø    Những chủ đề cơ bản cần phải chú ý
- Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm
văn học Việt Nam
- Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận
xã hội ngắn
-  Vận  dụng khả  năng  đọc  -  hiểu  để  viết  bài  nghị  luận
văn học
12
13
 
15
 
19
  Phần hai 
Các dạng đề  
& hướng dẫn làm bài thi môn Ngữ văn
 
Ø    Hai đứa trẻ (Thạch Lam)  28
Ø    Nguyễn Tuân : Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật           32
Ø    Chữ người tử tù (NguyễnTuân)  33
Ø    Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)  39
Ø    Nam Cao : Sự nghiệp sáng tác và quan điểm nghệ thuật  44
Ø    Chí Phèo (Nam Cao)  46
Ø    Đời thừa  (Nam Cao)  50
  235
Ø    Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Trích kịch Vũ Như Tô - Nguyễn
Huy Tưởng)
53
Ø    Xuân Diệu : Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật  59
Ø    Vội vàng  (Xuân Diệu)  61
Ø    Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)  64
Ø    Tràng giang  (Huy Cận)  68
Ø    Tương tư (Nguyễn Bính)  74
Ø    Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh :  Sự nghiệp sáng tác, quan
điểm và phong cách nghệ thuật
79
Ø    Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh)  82
Ø    Chiều tối (Hồ Chí Minh)  83
Ø    Lai Tân (Hồ Chí Minh)  86
Ø    Tố Hữu : Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật  89
Ø    Từ ấy (Tố Hữu)  90
Ø    Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)  94
Ø    Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)  99
Ø    Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945
đến hết thế kỷ XX
104
Ø    Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)  107
Ø    Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
(Phạm Văn Đồng)
111
Ø    Tây Tiến (Quang Dũng)  117
Ø    Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên)  124
Ø    Việt Bắc (Tố Hữu)  130
Ø    Đất Nước (trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm)  135
Ø    Sóng (Xuân Quỳnh)  141
Ø    Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)  145
Ø    Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)  151
Ø    Ai đã đặt tên cho dòng sông ?  (Hoàng Phủ Ngọc Tường)  157
Ø    Vợ nhặt (Kim Lân)  162
    236
Ø    Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)  166
Ø    Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)  170
Ø    Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)  176
Ø    Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)  181
Ø    Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)  186
Ø    Hồn Trương Ba da hàng thịt  (kịch - Lưu Quang Vũ)  191
Phần ba
Một số đề thi đại học, cao đẳng 
môn ngữ văn
 
 
Ø         Một số đề thi đại hoc, cao đẳng môn Ngữ văn 2007 - 2008  198
Ø         Đáp án, thang điểm (Bộ Giáo dục và Đào tạo)  202
Ø         Một số đề thi đại học, cao đẳng môn Ngữ văn theo chương
trình mới
217
PHỤ LỤC. Bài văn đạt điểm cao trong kỳ thi đại học  221
 
  237
 
 
 
 
 
 
Chịu trách nhiệm xuất bản :
 
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dung :
Giám đốc Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục Hà Nội 
VŨ BÁ KHÁNH
 
Biên tập và sửa bản in :
HOA PHƯỢNG 
Trình bày bìa :
?
Chế bản :
HOA PHƯỢNG
 
 
 
 
 
 
Các chủ đề cơ bản ôn thi 
đại học, Cao đẳng môn Ngữ văn
(Theo chương trình mới)
Mã số : 
In         khổ 17 × 24 cm,  tại
Số in :               Số xuất bản :
In xong và nộp lưu chiểu tháng        năm 2010.

hoan canh sang tac cac tac pham van thi dhNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ