ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA HAI HỆ THỐNG COMMON LAW VÀ CIVIL LAW DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

Start from the beginning
                                    

- Loại luật có nguồn gốc án lệ, tức là bao gồm cả Equity law, được gọi chung là Case law, dùng để phân biệt với luật thành văn (Status law).

- Một dòng họ luật cơ bản, được coi là lớn thứ hai trên thế giới (sau hệ thống Civil law) hiện còn được áp dụng tại các nước nói tiếng Anh với một vài ngoại lệ và ảnh hưởng tới nhiều nước đã hoặc vẫn có mối liên hệ với nước Anh về chính trị hay kinh tế như: Mỹ, Canada, Australia... và các nước khác trong khối Thịnh vượng chung (châu Á, châu Phi, châu Mỹ).

Cả ba cách hiểu này đều có thể chấp nhận được vì về cơ bản không làm thay đổi bản chất của hệ thống Common law.

I. Lịch sử hình thành và phát triển

Common law có nguồn gốc từ nước Anh vì thế lịch sử của Common law gắn liền với lịch sử Common law của nước Anh.

Theo René David và John E.C.Brierley thì lịch sử pháp luật Anh chia làm 4 giai đoạn chính:

1. Giai đoạn trước năm 1066: Anglo - Saxon

- Từ thế kỉ I đến thế kỉ V, đế chế La Mã thống trị nước Anh song không để lại dấu tích gì đáng kể, kể cả về mặt pháp luật.

- Thời kì này, nước Anh chia làm nhiều vương quốc nhỏ với các hệ thống pháp luật mang tính địa phương, chủ yếu là ảnh hưởng từ các qui tắc tập quán và thực tiễn của các bộ lạc người Giecmanh (Germanic tribes).

- Khi các bên có tranh chấp thường áp dụng tập quán địa phương để phân xử. Những người già sẽ đứng ra giải thích chính xác các tập quán địa phương áp dụng cho các tranh chấp đó.

2. Giai đoạn 1066 - 1485: Common law ra đời

- Năm 1066 người Norman đánh bại người Anglo - Sacxon, thống trị nước Anh. William (người Pháp) lên ngôi vua, mở ra một thời kì mới trong lịch sử nước Anh và mở đầu cho giai đoạn hình thành Common law. Ông vẫn duy trì tập quán pháp của Anh. Nhưng trên thức tế lại cố làm cho mọi người quên đi ảnh hưởng của quá khứ và xây dựng một chế độ phong kiến tập quyền nhằm nắm độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội kể cả lĩnh vực tư pháp.

- Thời Henry II là giai đoạn phát triển của một hệ thống Common law có tính chất quốc gia (a national Common law). Ông gửi các thẩm phán hoàng gia tới nắm tòa án ở các nơi. Trong nhiều thập kỉ, họ đã phải cạnh tranh với các tòa án ở địa phương: tòa án của tỉnh (county), tòa án giáo hội, tòa án của lãnh chúa phong kiến... Đến cuối thế kỉ XIII, các Tòa án Hoàng gia thắng thế trong việc xét xử vì chất lượng xét xử tốt và trình độ chuyên môn cao. Dần dần, các tòa án địa phương lấy án lệ của Tòa án Hoàng gia làm khuôn mẫu. Common law bắt đầu chiếm vị trí quan trọng và thu hút nhiều công việc pháp lí, mặc dù trong một thời gian dài đã phải cạnh tranh với nhiều hệ thống pháp lí: luật tập quán địa phương, luật thương gia hay các qui tắc tập quán phong kiến...Và cũng không thể phủ nhận rằng Common law đã vay mượn nhiều vấn đề từ các hệ thông pháp lí nói trên để đạt được sự tiến bộ to lớn (1).

Thời kì này cần phải nhắc đến sự ra đời và phát triển của hệ thống writ (gọi là trát hay tạm dịch là lệnh gọi ra tòa). Một người muốn kiện lên tòa án Hoàng gia phải đến Ban thư kí của nhà vua (chancery), đóng phí và được cấp writ. Writ nêu rõ cơ sở pháp lí mà bên nguyên đưa ra cho vụ việc của mình.

You've reached the end of published parts.

⏰ Last updated: Jun 09, 2009 ⏰

Add this story to your Library to get notified about new parts!

ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA HAI HỆ THỐNG COMMON LAW VÀ CIVIL LAW DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNHWhere stories live. Discover now