chuong 4 luat dieu uoc quoc te

Bắt đầu từ đầu
                                    

a. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết điều ước quốc tế

- Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của luật quốc tế là không có các cơ quan lập pháp chuyên trách nên quá trình xây dựng luật quốc tế luôn được tiến hành bởi chính các chủ thể luật quốc tế. Đặc điểm này chi phối và có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế theo hướng việc ký kết này sẽ hoàn toàn dựa trên cơ sở là ý chí tự nguyện của các bên tham gia kết ước.  Như vậy, sự bình đẳng trong quan hệ này trở thành căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của một điều ước quốc tế.

- Điều 49 Công ước Viên 1969 ghi nhận "Nếu một quốc gia đi đến quyết định ký kết một điều ước do việc xử sự dối trá của một quốc gia tham gia đàm phàn khác, thì quốc gia đó có thể nêu lên sự man trá này như là khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều ước"; hay tại điều 52 " Mọi điều ước, mà việc ký kết đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực trái với những nguyên tắc của pháp luật quốc tế...đều là vô hiệu". Như vậy, với những quy định trên đây của Công ước Viên 1969, thì những điều ước được ký kết mà có sự lừa dối, có sử dụng vũ lực hoặc ép buộc sẽ không có giá trị pháp lý.

 Đây là nguyên tắc có ý nghĩa tiên quyết, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia quan hệ điều ước, tránh mọi sự áp đặt mang tính quyền lực từ bên ngoài. Đồng thời, nguyên tắc này cũng đã hạn chế sự lạm quyền và tình trạng không bình đẳng trong quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh tranh của các chủ thể luật quốc tế.

b. Nguyên tắc điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế

- Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được xem là thước đo giá trị hợp pháp của các quy phạm pháp luật quốc tế. Do đó, mọi quy phạm pháp luật quốc tế dù tồn tại dưới hình thức thành văn hay bất thành văn đều phải có nội dung không trái với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.

- Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa nội dung của điều ước quốc tế với các nguyên tắc cơ bản thì điều ước quốc tế sẽ đương nhiên không có giá trị pháp lý. Kể cả đối với các điều ước quốc tế đang có hiệu lực thi hành, nhưng khi xuất hiện một quy phạm Jus cogens mới của luật quốc tế thì điều ước đó cũng chấm dứt hiệu lực thi hành.

c. Nguyên tắc Pacta sunt servanda

- Đây là nguyên tắc rất quan trọng được nhắc đến trong hầu hết tất cả các quan hệ pháp luật quốc tế, trong đó bao gồm cả quan hệ điều ước. Điều 26 Công ước Viên 1969 quy định "Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên than gia và phải được các bên thi hành với thiện chí". Như vậy, sự tận tâm và thiện chí của các bên tham gia kết ước trong trường hợp này đóng vai trò quan trọng, vừa là cơ sở, vừa là bảo đảm để chủ thể ký kết tự ràng buộc mình vào các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ điều ước. Việc không thi hành điều ước chỉ có thể được áp dụng trong một số trường hợp nhất định (xem lại chương 2).

II. KHÁI NIỆM ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

1. Định nghĩa

* Khái quát: Xem xét về phương diện lịch sử, điều ước quốc tế ra đời muộn hơn so với tập quán quốc tế. Tuy nhiên, với những ưu điểm riêng của mình, hiện nay điều ước quốc tế đã và đang trở thành một trong những loại nguồn cơ bản của luật quốc tế và được sử dụng như là một công cụ chủ yếu để điều chỉnh hầu hết các quan hệ hợp tác giữa các chủ thể của luật quốc tế.

Bạn đã đọc hết các phần đã được đăng tải.

⏰ Cập nhật Lần cuối: Feb 18, 2009 ⏰

Thêm truyện này vào Thư viện của bạn để nhận thông báo chương mới!

chuong 4 luat dieu uoc quoc teNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ